Quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 – 1975

Tài liệu Quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 – 1975: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 28 QUAN NIỆM VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG VĂN XUÔI CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1945 – 1975 Perceptions of love and marriage in Vietnamese revolutionary prose during 1945 – 1975 TS. Phạm Ngọc Hiền Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Mỗi thời đại văn học có một quan niệm khác nhau về con người. Trong đó, quan niệm về tình yêu và hôn nhân là nội dung không thể thiếu trong văn học hiện đại. Nó cũng được thể hiện khá rõ nét trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 – 1975. Trong bài viết này, chúng tôi chú ý đến những nét đặc trưng trong quan niệm tình yêu và hôn nhân của giai đoạn này so với các giai đoạn trước đó. Từ khóa: tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc, cách mạng, văn xuôi Abstract Each literature period has a different perception of human beings. Percep...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 – 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 28 QUAN NIỆM VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG VĂN XUÔI CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1945 – 1975 Perceptions of love and marriage in Vietnamese revolutionary prose during 1945 – 1975 TS. Phạm Ngọc Hiền Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Mỗi thời đại văn học có một quan niệm khác nhau về con người. Trong đó, quan niệm về tình yêu và hôn nhân là nội dung không thể thiếu trong văn học hiện đại. Nó cũng được thể hiện khá rõ nét trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 – 1975. Trong bài viết này, chúng tôi chú ý đến những nét đặc trưng trong quan niệm tình yêu và hôn nhân của giai đoạn này so với các giai đoạn trước đó. Từ khóa: tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc, cách mạng, văn xuôi Abstract Each literature period has a different perception of human beings. Perceptions of love and marriage, in particular, are an indispensable part of modern literature. They are clearly demonstrated in Vietnamese revolutionary prose from 1945 to 1975. In this article, we highlight the characteristics of love and marriage concepts in this period compared to earlier ones. Keywords: love, marriage, happiness, revolution, prose 1. Khái quát về đề tài tình yêu trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 – 1975 có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần của xã hội và văn học nghệ thuật. Trước hết, đất nước phát triển trong bối cảnh chiến tranh, con người phải tạm thời gác lại hạnh phúc cá nhân để tham gia các hoạt động chính trị. Con người cộng đồng, con người chính trị được đề cao. Con người cá nhân với đời sống riêng tư không có điều kiện bộc lộ. Văn học cách mạng Việt Nam thời chiến tranh là một nền văn học sử thi. Trong đó, yếu tố anh hùng ca được đề cao, yếu tố thế sự đời tư không được chú trọng. Các yếu tố đời tư phải được lồng ghép vào cái khung sử thi của thời đại cách mạng. Tình yêu được lồng ghép vào tình đồng chí, kiểu như: “Nhớ nhau, anh gọi em đồng chí/ Một tấm lòng trong vạn tấm lòng” (Vũ Cao); “Anh yêu em như anh yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần” (Nguyễn Đình Thi). Tình yêu giữa cô du kích Mẫn và anh bộ đội Thiêm được xem là “một tình ca trong một anh hùng ca” (Mẫn và tôi – Phan Tứ). Hai vợ chồng chị Út Tịch được Email: ngochien2@gmail.com PHẠM NGỌC HIỀN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 29 gọi là đồng chí chồng - đồng chí vợ (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi).v.v. Xét trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, chỉ có trong văn học cách mạng giai đoạn 1945 – 1975 mới có hiện tượng đề tài tình yêu bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Trong 30 năm chiến tranh, đề tài này cũng thăng trầm tùy vào thời điểm lịch sử cụ thể. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), văn xuôi cách mạng dường như ít đề cập đến đề tài tình yêu. Phần lớn tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn này chú ý đến đề tài đánh địch. Đến giai đoạn hòa bình lập lại (1955 – 1964), đề tài tình yêu được nhắc đến nhiều hơn. Nhiều mối tình tay ba xuất hiện trong tiểu thuyết: Mùa hoa dẻ (Văn Linh), Mở hầm (Nguyễn Dậu), Bốn năm sau (Nguyễn Huy Tưởng), Vào đời (Hà Minh Tuân), Sắp cưới (Vũ Bão).v.v. Tuy nhiên, phần lớn các tác phẩm này bị phê bình, uốn nắn do sa đà vào yếu tố đời tư. Đến giai đoạn 1965 – 1975, chiến tranh lan rộng cả hai miền. Những chuyện tình yêu thường bị gác lại, nếu có đề cập, chỉ nói lướt qua. Người ta thường miêu tả những mối tình xa cách, người con trai ra tiền tuyến, người con gái ở hậu phương, cùng phấn đấu đánh thắng địch để mau đoàn tụ như trong Sao Băng (Nguyễn Gia Nùng), Ngày và đêm hậu phương, Vùng quê yên tĩnh (Nguyễn Kiên), Nước nguồn (Lê Khắc Đường), Giáp trận (Nguyễn Thế Phương), Đất mặn (Chu Văn) và các tập truyện ký viết về gương sáng Ba đảm đang của nhiều tác giả.v.v. Ở các thể loại văn xuôi, cũng có sự đậm nhạt khác nhau trong việc thể hiện đề tài tình yêu. Rất ít tác phẩm ký viết về đề tài này. Bởi lẽ, các nhà văn cách mạng thường dùng thể loại ký để miêu tả các sự kiện lịch sử, những tin tức mang tính thời sự. Ký ít đề cập đến những vấn đề mang tính riêng tư như tình yêu đôi lứa. Có một số truyện ngắn viết về tình yêu nhưng thông thường chỉ phản ánh một lát cắt của đời sống riêng tư như Im lặng (Nguyễn Thi), Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu), Mùa xuân (Nguyễn Địch Dũng), Chị cả Phây (Ngô Ngọc Bội), Truyện cô Nhụy (Lưu Trọng Lư).v.v... Thể loại tiểu thuyết vốn có dung lượng dài, có điều kiện miêu tả tỉ mỉ quá trình yêu đương và nội tâm nhân vật. Một số tác phẩm chú ý miêu tả đời sống nội tâm phức tạp và những tình tiết gay cấn, ly kỳ trong tình yêu, hôn nhân như Mùa hoa dẻ (Văn Linh), Màu hoàng yến (Giang Tấn), Dòng sông (Nguyễn Chân), Đôi bờ (Nguyễn Dậu, Nhất Hiên), Biển động (Tất Vinh), Nhãn đầu mùa (Xuân Tùng, Trần Thanh), Đi bước nữa (Nguyễn Thế Phương), Nhật ký người ở lại (Nguyễn Quang Sáng), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Pả Sua (Văn Linh).v.v. Tuy nhiên, phần lớn các tác phẩm này không miêu tả những câu chuyện tình yêu thuần túy mà thường lắp ghép chúng vào các nội dung lịch sử dân tộc. Nhìn chung, trong văn học cách mạng, đề tài tình yêu được lồng ghép vào đề tài chiến đấu và lao động sản xuất. Nội dung đời tư không thể chiếm dung lượng nhiều hơn nội dung lịch sử dân tộc. Trai gái không được say đắm trong tình yêu mà quên nhiệm vụ đất nước. Tập thể có vai trò quan trọng trong quan hệ tình yêu của mỗi cá nhân. Khi có mâu thuẫn giữa tình riêng và việc chung, người ta xử lý bằng cách gác tình riêng để lo việc chung. Người ta chấp nhận có yếu tố bi thương nhưng không bi lụy, sầu thảm trong tình yêu. Các mối tình thường trải qua nhiều thử thách, phổ biến nhất là thử thách tình yêu xa cách. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 30 Người con trai ra chiến trường hoặc tập kết ra Bắc, người con gái có bổn phận đợi chờ và đấu tranh cho mau đến ngày gặp mặt. Trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 – 1975, những quan niệm tình yêu và hôn nhân của nhân vật chính diện cũng phản chiếu quan điểm tác giả. Trong bối cảnh văn học lúc bấy giờ, quan niệm nghệ thuật của nhà văn và quan niệm của nhân vật chính diện là đồng nhất. Mà nhà văn là người phát ngôn cho tư tưởng thời đại, là người cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực văn nghệ. Có thể nói, những quan niệm về tình yêu và hôn nhân của thanh niên giai đoạn này cũng phản ánh tinh thần chung của thời đại cách mạng. Có thể xem xét các quan niệm đó trên hai phương diện: tình yêu đôi lứa và hôn nhân gia đình. 2. Quan niệm về tình yêu đôi lứa trong văn xuôi Việt Nam 1945 - 1975 Trong văn xuôi cách mạng, tình yêu không xuất phát từ những nhu cầu xác thịt hoặc vẻ đẹp hình thức bề ngoài. Trong số các tiêu chí để chọn người yêu, hầu như không có yếu tố đồng tiền. Trước hết, tình yêu xuất phát từ sự đồng cảm giai cấp. Các cô gái, chàng trai tỏ ra dị ứng với những người xuất thân từ gia đình giàu có, địa chủ, tư sản, quan chức chế độ cũ. Họ xem đó là thành phần bóc lột, xấu xa, không hợp với thời đại cách mạng. Thành phần được xem là cao quý là những người xuất thân từ nhân dân lao động, nhất là bần cố nông và công nhân: “Nông dân lao động chính là văn minh nhất. Càng mồ hôi dầu càng làm ra lắm của cải nuôi sống loài người” (Người người lớp lớp - Trần Dần). Công nhân được xem là lực lượng tiên tiến của xã hội, “Chế độ ta sau này chỉ làm anh công nhân là hiển vinh hơn cả” (Như cánh chim bay - Đinh Chương). Những nông dân, công nhân đã từng đi bộ đội, tôi luyện trên chiến trường cũng trở thành thần tượng của nhiều người: “Người lính – một nhân vật điển hình của thời đại” (Nguyễn Đình Lạp). Người ta đánh giá cao những chàng trai, cô gái xuất thân từ ba thành phần cơ bản: Công – Nông – Binh. Trong cải cách ruộng đất, những anh bần cố nông trở thành mục tiêu để ý của các cô gái làng. Anh bần cố nông Tảo cũng được nhiều cô để ý. Cô Nhắt từ chối các đám nhà giàu để lấy anh, khiến cho nhiều người “Phá đám” (Vũ Bão). Nhiều cô gái chê chồng giàu, chỉ lấy những du kích xuất thân từ dân lao động. Cô Tý chê anh Quyền (nhà giàu, hèn nhát) và yêu anh Tuấn (du kích, dũng cảm) (Nhãn đầu mùa - Xuân Tùng, Trần Thanh). Út Sâm từ chối lời cầu hôn của Rân (nhà giàu, sĩ quan địch) mà yêu Bê (nhà nghèo, theo cách mạng) (Gia đình má Bảy - Phan Tứ). Trí thức trong chế độ cũ từng bị quan niệm là thành phần ăn bám, tư tưởng bấp bênh. Trong Mùa hoa dẻ (Văn Linh), cô Hoa từ chối lời cầu hôn của trí thức (thầy giáo Khang) và con nhà giàu (Luyến). Cô chỉ yêu anh bộ đội Liêu, mặc dù anh thường xuyên đi xa, dấn thân vào những nơi gian khổ, hiểm nguy. Trong chế độ mới, “mác” trí thức, cán bộ cũng không thu hút được các cô gái. Cô Hoa xinh đẹp, giỏi giang từ chối lời cầu hôn của rất nhiều cán bộ, trí thức. Cô chỉ yêu anh thương binh Đoàn, người cùng quê miền Nam (Người nữ trưởng ga - Phượng Vũ). Trong quan niệm tình yêu của họ, không có sự chi phối của đồng tiền và địa vị xã hội. Đây là quan niệm rất mới mẻ, chỉ phổ biến trong văn học cách mạng sau 1945. Trong bối cảnh chiến tranh, phẩm chất PHẠM NGỌC HIỀN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 31 dũng cảm được đề cao, người lính được coi trọng. Trong các tác phẩm văn xuôi đề cập đến tình yêu đôi lứa, có hơn một nửa số tác phẩm nói đến việc các cô gái có người yêu là bộ đội, cán bộ cách mạng. Yêu bộ đội trở thành “mốt” của nhiều nữ thanh niên miền Bắc thời chiến tranh. Nhiều gái làng ganh tị khi thấy cô Niêu xinh đẹp, giỏi giang, sắp cưới một anh cán bộ (Truyện cô Nhụy - Lưu Trọng Lư). Rất nhiều tác phẩm miêu tả các mối tình gái hậu phương - trai tiền tuyến: Phấn - Thứ (Giáp trận - Nguyễn Thế Phương), Thảo - Dũng (Đất mặn - Chu Văn), Lý - Cát (Đất đỏ - Huy Phương) Quan niệm hôn nhân này cũng thấy ở những tác phẩm viết về đề tài miền núi và dân tộc thiểu số như Xuân về trên rẻo cao (Hoàng Thao), Hương Cam Nậm Bạc (Phan Đình Huyền), Những người Côn Hươn (Lê Tuân Việt), Vùng cao (Đỗ Quang Tiến).v.v. Trong các tác phẩm viết về chiến tranh ở miền Nam, nhiều cặp trai gái yêu nhau đều là du kích bộ đội. Họ “ghi điểm” trong mắt nhau bằng hành động dũng cảm của mình như Ngạn - Quyên (Hòn Đất - Anh Đức), Năm Bờ - Sáu Linh (Mùa gió chướng - Nguyễn Quang Sáng), Bê - Út Sâm (Gia đình má Bảy - Phan Tứ), Thiêm - Mẫn (Mẫn và tôi – Phan Tứ).v.v. Trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, người ta cũng đề cao những người siêng năng, cần cù lao động, biết hòa mình với tập thể, vì lợi ích cộng đồng và tôn trọng nhân dân lao động. Cô giáo Huệ rất quan tâm đến việc giảng dạy, giúp trẻ em nghèo nông thôn. Còn Thành chỉ quan tâm đến những món lợi của cá nhân, muốn được cử tuyển học lên cao, về công tác ở thành phố. Khi thấy người yêu chỉ quan tâm tới lợi ích cá nhân, ích kỷ, giả dối, Huệ đã cắt đứt tình yêu với anh (Huệ - Nguyễn Thị Ngọc Tú). Cũng như vậy, cô Viềng không yêu Lượt (lọc lõi, ích kỷ) mà chọn yêu Nhội (nhiệt tình công tác) (Ngày và đêm hậu phương - Nguyễn Kiên). Trong Mùa xuân (Nguyễn Địch Dũng), cô Ngát có nhiều ưu điểm: xinh đẹp, lao động giỏi, “một trong những kiện tướng dẫn đầu chi đoàn”, hòa đồng với tập thể, “cô vui vẻ vồn vã với tất cả mọi người”. Có nhiều chàng trai thích lấy những cô gái như Ngát. Họ ngỏ lời cầu hôn cô, trong đó, có cả những người có trình độ văn hóa cao nhưng cô đều từ chối. “Có một chàng trai lọt vào mắt xanh của cô nàng” là Đa. Anh ta có lý lịch tốt, đạt nhiều thành tích trong lao động, được cử lên tỉnh học lớp công nhân lái máy kéo. Họ mơ tưởng tương lai: “Còn gì hạnh phúc bằng một đôi vợ chồng trẻ cùng làm trong một nông trường, chồng lái máy kéo và vợ thì ở trong một đội sản xuất”. Lý tưởng trong tình yêu và hôn nhân của thanh niên miền Bắc thời ấy là như vậy. Người ta cũng nói đến vấn đề cùng chung lý tưởng cách mạng trong tình yêu. Nếu một trong hai người xa rời lý tưởng hoặc chống lại cách mạng thì họ sẽ chia tay. Mẫn và Thiêm yêu nhau nhưng cả hai sẽ trở thành kẻ thù nếu Thiêm chạy sang phía địch. Mối quan hệ của họ, trước hết là đồng chí, sau đó mới là tình yêu. Chiến trường là điểm hẹn hò của họ “mỗi lần ra trận, chúng mình lại gặp nhau” (Mẫn và tôi – Phan Tứ). Trong Pả Sua (Văn Linh), cô du kích Pả Sua được miêu tả như mẫu người lý tưởng của thời đại cách mạng: ngoại hình xinh đẹp, lao động giỏi giang, hát hay, múa giỏi, hòa đồng với mọi người, được dân làng yêu mến, dũng cảm trước kẻ địch.v.v. Nhiều chàng trai muốn lấy cô làm vợ. Tu Dơ (cháu của vị Phìa tổng đầy quyền lực) muốn cưới Pả Sua. Nhưng cô từ SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 32 chối khiến hắn định bắn cô. Cô chỉ yêu anh bộ đội Vi Lay với lý do: anh dũng cảm và cùng chung lý tưởng với cô. Khi cảm thấy không cùng quan điểm sống, các cặp trai gái hoặc vợ chồng có thể chia tay như cô Tím (Cô Tím - Thanh Hương), Tha (Lẽ mọn - Nguyễn Thị Cẩm Thạch), Bưởi (Sắp cưới - Vũ Bão), Xiêm (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu), Cầm (Người chị - Nguyễn Văn Bổng), Nhân (Bão biển - Chu Văn), Pha (Trước giờ nổ súng - Phan Tứ. v.v. Trong thời phong kiến, người phụ nữ không được tôn trọng, họ sống lệ thuộc vào nam giới và không có quyền quyết định việc hôn nhân, gia đình và xã hội. Ngày nay, người phụ nữ có quyền quyết định mọi công việc. Họ cần được sự tôn trọng từ nam giới. Thảo chấm dứt tình yêu với Khang sau bao năm chờ đợi vì thấy anh có thái độ coi thường mình (Người trở về - Nguyễn Khải). Theo quan niệm truyền thống, nam giới chủ động đặt vấn đề yêu đương. Phụ nữ chỉ thụ động đáp lại một cách kín đáo, rụt rè. Nhưng trong thời hiện đại, phụ nữ cũng có quyền chủ động tỏ tình trước. Như trường hợp cô ba Thái lén bỏ chiếc khăn thêu vào túi bộ đội (Bông hường bông cúc - Hoàng Văn Bổn). Ta cũng thấy những trường hợp phụ nữ chủ động đến với nam giới trong các tác phẩm: Bên kia biên giới (Lê Khâm), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Anh Keng (Nguyễn Kiên).v.v. Phụ nữ trong thời đại cách mạng không có thái độ nhút nhát, rụt rè trong tình yêu, hôn nhân và cả trong chiến đấu, lao động. Chúng ta có thể thấy toàn diện quan niệm về tình yêu của thanh niên thời đại cách mạng trong hai truyện ngắn Mùa lạc (Nguyễn Khải) và Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu). Mùa lạc chứa đựng nhiều quan điểm sống của thanh niên miền Bắc trong công cuộc xây dựng chế độ XHCN. Huân được miêu tả như là “người mẫu” của thời đại mới. Anh xuất thân từ nông dân, từng đi bộ đội, đang làm công nhân ở Tây Bắc. Như vậy, lý lịch của Huân hội tụ đủ ba thành phần: Công – Nông – Binh. Huân là “một đoàn viên thanh niên chưa tròn hăm nhăm tuổi, rất khoẻ và đẹp trai”. Nghĩa là, anh có các ưu điểm: trẻ - khỏe - đẹp và lý lịch tốt, có khả năng phát triển (đoàn viên). Cô Đào có cảm tình với Huân vì anh sống hòa đồng với tập thể, biết quan tâm tới mọi người xung quanh. Những lúc làm việc bên cạnh Huân, chị Đào “bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc”. Nhưng Huân đang yêu Duệ. Trước đây, Duệ từng có cảm tình với Hào, giáo viên văn hóa, sắp về Hà Nội học để thành kỹ sư. Nhưng Duệ “lo lắng vì Hào tỏ ra quá khôn ngoan trong tình yêu, anh ta dè dặt trong cả câu nói ngay những lúc tình cảm sôi nổi nhất”. Bởi vậy, cô đã né tránh Hào mà chuyển sang yêu Huân. Điều đó cho thấy, thành phần trí thức chưa phải là mẫu người lý tưởng mà các cô gái chọn. Còn Đào chấp nhận lời cầu hôn của ông thiếu úy lò gạch. Không chỉ vì lý do cùng cảnh ngộ, mà ở người đàn ông này có những phẩm chất từng trải của con người bộ đội và công nhân. Trong Mảnh trăng cuối rừng, Nguyễn Minh Châu cũng cho thấy quan niệm về tình yêu của thanh niên thời chiến. Chị Tính làm mối cho Lãm một cô tên Nguyệt. Cô ấy vừa tốt nghiệp phổ thông và xung phong đi thanh niên xung phong (có sự kết hợp hai thành phần trí thức và công nhân). Về phẩm chất: “cô ta rất ngoan ngoãn và tích cực () đủ các đức tính tốt đẹp”. Ban PHẠM NGỌC HIỀN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 33 đầu, Nguyệt thờ ơ với lời mai mối, “Nhưng khi chị kể chuyện cậu, về cái chuyện cậu trốn nhà đi bộ đội, cô ta ngồi nghe rất chăm chú”. Điểm quan trọng để Lãm được ghi điểm trong mắt Nguyệt là chi tiết trốn nhà đi bộ đội, tức là dũng cảm, có ý thức trách nhiệm với đất nước. Nguyệt không quan tâm chuyện tài sản hay chức tước của đàn ông. Bởi vậy, có “khối anh cán bộ khá hẳn hoi đang muốn yêu nó. Nó chỉ còn chờ gặp anh đó thôi”. Trong đêm đầu tiên gặp Nguyệt, Lãm từng hiểu lầm về cô khi nhìn thấy “một gót chân hồng hồng, sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ, gấu quần lụa đen chấm mắt cá. “Ra vẻ cô này không phải người lao động rồi”. Theo Lãm, người yêu lý tưởng của mình phải là một người từng trải lao động. Nhưng về sau, Lãm mới nhận ra Nguyệt là cô gái rất tháo vát, can đảm: “Nguyệt đang đứng cheo leo giữa vách núi, trên vai vác một chiếc máy khoan () họ dũng cảm leo lên từng mỏm núi cao, chọn những vỉa đá xanh đẹp nhất về xây cầu”. Đặc biệt, Nguyệt còn có lòng dũng cảm, quên mình vì đồng đội trong đêm cứu xe hàng: “Không biết Nguyệt bị thương loạt bom đầu tiên, lúc tôi nấp dưới khe, hay khi cô vùng chạy theo tôi trở về xe? Thú thực, lúc ấy trong lòng tôi dấy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục”. Cả Nguyệt và Lãm đã tìm được mẫu người yêu lý tưởng của mình. 3. Quan niệm về hôn nhân và hạnh phúc gia đình trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 Tình yêu chân chính thường gắn liền với hôn nhân. Trong văn xuôi cách mạng, ta thấy hôn nhân thường gắn liền với yếu tố chính trị và thời cuộc. Các chiến sĩ thường rất ngại nói đến hôn nhân vì họ sợ bị ràng buộc, cản trở trên con đường hoạt động cách mạng. Trong Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Khắc yêu An nhưng “anh vẫn cho tình yêu là cái gì nên tránh xa thì hơn. Hay nói đúng hơn đó là câu chuyện nên gác lại đến một hoàn cảnh nào thuận tiện hơn, có lẽ bao giờ cách mạng thành công thì hẵng nên nghĩ đến”. Họ ưu tiên việc nước trước, còn việc nhà tính sau. Trong Vùng trời (Hữu Mai), Hảo và Quỳnh yêu nhau trong thời gian khá lâu. Mỗi người một đơn vị, công tác xa nhưng vẫn hướng về nhau. Đoàn thể đã đề nghị tổ chức đám cưới cho hai người nhưng vì mải mê công tác, họ bỏ mất cơ hội đám cưới. Trong Ngày cưới (Ngô Quân Miện), có nhiều đám cưới được tổ chức tập thể tại công trường. Cô Sinh và anh Đắc cũng định tổ chức đám cưới theo lối đời sống mới. Nhưng Sinh nghĩ, cưới xong thì sinh con, bận bịu chuyện gia đình. Cô sẽ không có nhiều cơ hội để tham gia công việc xã hội. Bởi vậy Sinh đã đề nghị hoãn đám cưới. Như vậy, người phụ nữ có quyền quyết định chuyện hôn nhân. Nếu như thời phong kiến, cha mẹ có vai trò quan trọng trong hôn nhân của con cái thì nay, tập thể có vai trò quan trọng trong chuyện hôn nhân. Khi gặp những vấn đề khó khăn trong hôn nhân, các cặp trai gái thường nhờ chính quyền đoàn thể giúp đỡ. Và đoàn thể đã đứng ra tổ chức đám cưới cho họ theo lối đời sống mới như trường hợp của Vượng và Ái (Bão biển), Tuấn và Liên (Ánh sáng bên nhà hàng xóm) của Chu Văn. Quan niệm về hôn nhân trong thời hiện đại không còn chịu sự chi phối của quan niệm “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Người chồng chết, người vợ có quyền đi bước nữa. Chế độ mới đã tạo điều kiện cho chị Cả Phây (góa chồng) đến với anh Mọc (góa vợ) (Chị cả SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 34 Phây – Ngô Ngọc Bội). Những mối tình như vậy thường gặp nhiều cản trở do tập quán tư duy cũ vẫn còn. Chồng cô Hoan mất, mẹ chồng khuyên cô nên ở vậy nuôi con, thủ tiết thờ chồng giống như bà. Nhưng Hoan không thể cam chịu cuộc sống góa bụa dài dằng dặc. Cô đã yêu và có thai với Cần. Điều đó làm mâu thuẫn giữa cô với vợ chồng Binh Mâu thêm trầm trọng. Cô đã dám “đi bước nữa” và cả cái làng Đoài cũng sẽ “đi bước nữa” vào đời sống mới với những quan niệm mới về hôn nhân và gia đình (Đi bước nữa – Nguyễn Thế Phương). Trong Anh Keng (Nguyễn Kiên), việc anh Keng yêu chị Lạt đã gặp sự phản ứng dữ dội của cha anh. Nhưng anh Keng không quan tâm đến việc chị Lạt đã từng có chồng và lớn tuổi hơn mình. Bất chất dư luận, hai người vẫn lấy nhau và sống với nhau hạnh phúc. Hai người sinh một đứa con, chồng yêu thương tôn trọng vợ, vợ giúp chồng lo việc hợp tác xã. Hạnh phúc của hai vợ chồng anh khiến cho người cha độc đoán cũng hết giận, thừa nhận sự lựa chọn đúng đắn của con mình. Trước kia, người phụ nữ thường không có tự do, “gái có chồng như gông đeo cổ”. Phận gái mười hai bến nước, có hạnh phúc hay không còn tùy vào sự rủi may của số phận. Tuy nhiên, quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong thời hiện đại có khác. Nếu không được chồng yêu thương, một số phụ nữ có thể bày tỏ tình yêu với người khác. Trong Vào đời (Hà Minh Tuân), vợ chồng của Sen – Hiếu có những rạn nứt trầm trọng do thói quen chơi bời hư hỏng của Hiếu. Sen yêu Lưu, bí thư chi đoàn nhà máy. Nhưng Lưu khuyên Sen hãy trở lại với Hiếu. Mặc dù vẫn chưa dứt khỏi Hiếu nhưng trái tim của Sen đã thuộc về Lưu rồi. Cũng như vậy, trong truyện Mở hầm (Nguyễn Dậu), cô công nhân Nghì không thể sống hạnh phúc với người chồng hư hỏng như Sự. Cô yêu Tuệ nhưng Tuệ khuyên cô hãy trở lại với Sự vì anh ta đang có chiều hướng tiến bộ. Còn Xiêm (Dấu chân người lính – Nguyễn Minh Châu) không chấp nhận sống chung với chồng là Kiếm – “người hùng” của quân đội quốc gia. Cô yêu anh bộ đội Lượng. Nhưng đó là một mối tình ngang trái vì Lượng không thể lấy Xiêm. Quan điểm cách mạng không cho phép anh lấy vợ của người khác. Trong một trận đánh đồn, Lượng đã bắt Kiếm và trả về nhà cho Xiêm. Trong trường hợp sống không hạnh phúc, người phụ nữ sẵn sàng đi tìm hạnh phúc mới. Như trường hợp của Mị trong Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). Mị sống với A Sử không hạnh phúc vì anh ta đối xử thô bạo với vợ. Mị đã bỏ A Sử để đi theo A Phủ, ban đầu chỉ là đi theo tiếng gọi tự do, sau đó hai người nảy sinh tình yêu. Họ đã xây dựng một mái ấm gia đình ở Phiềng Sa. Ở đó, cuộc sống không giàu nhưng Mị cảm thấy hạnh phúc vì có người chồng biết tôn trọng vợ, biết chăm lo cuộc sống gia đình. Trong Trước giờ nổ súng (Phan Tứ), thiếu phụ Pha cũng không thể sống với người chồng đang làm sĩ quan trong đồn địch. Cô bỏ chạy theo anh bộ đội Lương. Cuộc hành quân rất vất vả nhưng được sống bên cạnh Lương là những ngày hạnh phúc đối với cô. Ta cũng gặp nhiều phụ nữ bỏ chồng để đi tìm tự do, sau đó cũng tìm được cho mình một tổ ấm, đơn sơ mà hạnh phúc, như: Vàng Thị Mỹ (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng – Nguyên Ngọc), Kan Lịch (Kan Lịch – Hồ Phương), Tam (Vùng cao – Đỗ Quang Tiến).v.v. Cuộc sống vợ chồng không phải lúc nào cũng bình yên. Có những lúc vợ chồng PHẠM NGỌC HIỀN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 35 không bằng lòng nhau, nhưng họ biết nhường nhịn để giữ hạnh phúc. Nhiều cô vợ xích mích với chồng hoặc gia đình chồng nên sống ly thân, bỏ về nhà cha mẹ đẻ. Nhưng khi chồng đi bộ đội, các cô đã trở về để chồng yên tâm lên đường, như vợ chồng cô Quế (Làng cao - Sao Mai), vợ chồng cô Nguyệt (Người ở nhà - Nguyễn Địch Dũng).v.v. Nhiều phụ nữ còn khổ sở do tính gia trưởng của người chồng. Ông Vạn mắng chửi vợ liên miên, nhưng gia đình vẫn bình yên vì bà Vạn biết nhẫn nhịn. Bà phấn đấu trở thành xã viên xuất sắc, được cử đi dự hội nghị ở huyện. Ông mới nhận ra vị trí quan trọng của vợ và mua tặng bà Bộ quần áo mới (Ngô Ngọc Bội). Cũng tương tự như vậy đối với truyện Vợ chồng ông lão phó mộc (Nguyễn Phan Hách). Từ khi bà Nhỡ được cử đi dự hội nghị ở trung ương, ông Tam mới hết khinh thường vợ. Điều đó cho thấy, sự bất bình đẳng nam nữ trong gia đình sẽ được giải quyết khi người vợ biết phấn đấu vươn lên. Khi người vợ đã thành công ngoài xã hội thì người chồng sẽ nể trọng vợ, gia đình sẽ hạnh phúc. Quan điểm đó cũng được thể hiện trong các tác phẩm: Một cặp vợ chồng (Nguyễn Khải), Người vợ (Nguyễn Địch Dũng), Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi (Vũ Thị Thường), Dòng nước (Nguyễn Sơn Hà), Cô bánh xích (Hồ Thủy Giang).v.v. Trong thời chiến, người chồng thường sống xa nhà nên người ta cũng thường nhắc đến sự chung thủy của người vợ. Văn xuôi giai đoạn này rất ít nhắc đến trường hợp vợ ngoại tình khi chồng đi chiến đấu xa nhà. Các nhà văn chỉ miêu tả những người vợ hậu phương đảm đang chung thủy, là chỗ dựa cho người con trai nơi tiền tuyến. Trong Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), chính ủy Kinh sống xa nhà suốt thời chống Pháp đến thời chống Mỹ. Nhưng vợ ông vẫn không hề than vãn, chỉ lo nuôi con, hăng hái tham gia phong trào phụ nữ ba đảm đang để chi viện chiến trường, mong đến ngày chiến thắng, đoàn tụ gia đình. Trong mỗi đội quân tóc dài ở miền Nam đều có mặt những người vợ có chồng tập kết ra Bắc: Nhật ký người ở lại (Nguyễn Quang Sáng), Không chịu sống quỳ (Nguyễn Hải Trừng), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), các truyện trong tập Từ tuyến đầu Tổ quốc.v.v. Chính quyền Diệm ép buộc những người phụ nữ này ký giấy ly hôn với những người chồng đang ở miền Bắc. Nhiều binh lính, sĩ quan quốc gia cưỡng ép những người vợ có chồng tập kết. Có những người vợ chấp nhận cái chết để giữ lòng chung thủy với chồng và trung thành với cách mạng như người vợ trong Im lặng (Nguyễn Thi), chị Sứ (Hòn Đất – Anh Đức).v.v. Con sông Bến Hải trở thành nơi gửi gắm tâm sự thủy chung của những người vợ ở bờ Nam: “Sông Bến Hải vẫn một dòng không có bên trong bên đục, sóng nước Cửa Tùng vẫn rào rạt ngày đêm. Lòng dạ đôi bờ không cắt ngăn, chỉ có hàng trăm mũi súng, hàng vạn thước dây thép gai vô hình của kẻ địch ngăn cách” (Đôi bờ - Nguyễn Dậu, Nhất Hiên). Người vợ có thể bỏ chồng khi chồng chạy theo địch nhưng không bao giờ bỏ chồng khi chồng đang chiến đấu và công tác xa nhà. Đó cũng là quan điểm chung của những người vợ thời chiến. Có thể nói, những quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong văn xuôi Việt Nam 1945 – 1975 chưa phản ánh hết sự đa dạng vốn có của cuộc sống. Một số vấn đề khác có liên quan tới lĩnh vực này chưa được nói tới đầy đủ. Ví dụ như nhu cầu thể xác của SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 36 nam nữ, sự phức tạp nội tâm trong tình yêu, vấn đề “môn đăng hộ đối” trong hôn nhân.v.v. Thực ra, những vấn đề này vẫn tồn tại trong xã hội Việt Nam thời chiến tranh. Nhưng nhà văn né tránh, không miêu tả vì không có lợi cho công cuộc cách mạng. Những góc khuất này sẽ được đề cập đến một cách tỉ mỉ, sáng tỏ trong các tác phẩm văn xuôi sau 1975. Tóm lại, văn học cách mạng Việt Nam 1945 – 1975 có nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu và lao động, giáo dục lối sống mới cho thế hệ trẻ, bởi vậy, phải hướng tới những tấm gương người tốt việc tốt. Những quan niệm về tình yêu và hôn nhân của thanh niên trong văn xuôi giai đoạn này cũng phù hợp với các chủ trương do chính phủ đề ra. Mặc dù nó chưa phản ánh hết những phức tạp vốn có của đời sống nhưng cũng có những yếu tố tích cực, giáo dục thanh niên ý thức sống vì cộng đồng. Nó góp phần tạo ra nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn học giai đoạn này so với các giai đoạn khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên). (2006). Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (tập 2), Hà Nội: NXB Giáo dục. Phan Cự Đệ. (1974 – 1975). Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Hà Nội: NXB Đại học & Trung học chuyên nghiệp. Phùng Ngọc Kiếm. (1998). Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, Hà Nội: NXB Đại học quốc gia Hà Nội. Phong Lê (1980). Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. Nhiều tác giả. (2002). Truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX (giai đoạn 1946 – 1975), Hà Nội: NXB Kim Đồng. Ngày nhận bài: 08/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf33_7996_2214938.pdf
Tài liệu liên quan