Phụ nữ nông thôn với việc hưởng thụ văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng

Tài liệu Phụ nữ nông thôn với việc hưởng thụ văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng: Xã hội học, số 1 - 1992 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Phụ nữ nông thôn với việc hưởng thụ văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng MAI VĂN HAI Trong những năm gần đây, chúng ta đã nói nhiều về thực trạng kinh tế của đất nước. Nhưng từ một góc độ khác, góc độ văn hoá - từ quá trình sáng tạo, phân phối đến hưởng thụ văn hóa - theo chúng tôi, cũng không ít những vấn đề cấp bách đang được đặt ra. Các cuộc điều tra xã hội học, đặc biệt là cuộc điều tra do Viện Xã hội học, thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, tiến hành trong năm 1990 ở tỉnh Hà Tây, Quảng Nam - Đà Năng và Tiền Giang đã cho chúng tôi cơ sở để khẳng đinh điều đó. Ở bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung vào một số vấn đề mà cuộc điều tra trên đã nêu ra "Phụ nữ nông thôn với việc hưởng thụ văn hoá qua các phương tiện thông tin đại chúng", và coi đó như một chỉ báo rất đáng quan tâm trong đời sống văn hóa của đất nước hiện nay. Các số liệu được sử dụng trong bài viết này tách từ hồ ...

pdf3 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 922 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phụ nữ nông thôn với việc hưởng thụ văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học, số 1 - 1992 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Phụ nữ nông thôn với việc hưởng thụ văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng MAI VĂN HAI Trong những năm gần đây, chúng ta đã nói nhiều về thực trạng kinh tế của đất nước. Nhưng từ một góc độ khác, góc độ văn hoá - từ quá trình sáng tạo, phân phối đến hưởng thụ văn hóa - theo chúng tôi, cũng không ít những vấn đề cấp bách đang được đặt ra. Các cuộc điều tra xã hội học, đặc biệt là cuộc điều tra do Viện Xã hội học, thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, tiến hành trong năm 1990 ở tỉnh Hà Tây, Quảng Nam - Đà Năng và Tiền Giang đã cho chúng tôi cơ sở để khẳng đinh điều đó. Ở bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung vào một số vấn đề mà cuộc điều tra trên đã nêu ra "Phụ nữ nông thôn với việc hưởng thụ văn hoá qua các phương tiện thông tin đại chúng", và coi đó như một chỉ báo rất đáng quan tâm trong đời sống văn hóa của đất nước hiện nay. Các số liệu được sử dụng trong bài viết này tách từ hồ sơ của cuộc nghiên cứu FFS, VIE/88/P05 tại 3 tỉnh đã nêu trên. Dung lượng mẫu điều tra là 1.200. 1. Trước hết, về mức hưởng thụ văn hóa, cuộc khảo sát cho thấy: Bảng l - Mức hưởng thụ văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng của phụ nữ nông thôn (Tuổi từ 15-49) Mức độ Hình thức hưởng thụ văn hoá Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ Đọc báo trí Đọc truyện Xem phim, văn nghệ Nghe Radio Xem tivi 7,4 7,1 5.8 27.6 19,1 33,4 31,3 58,6 48,0 58,7 59,2 61,1 35,6 24,4 22,2 Nhân xét đầu tiên có thể rút ra là: Mức độ hưởng thụ văn hoá của phụ nữ nông thôn ta hay còn thấp: Tỷ lệ những người thường xuyên được sử dụng các phuơng tiện thông tin thấp hơn nhiều so với những người thỉnh thoảng hoặc không bao giờ sử dụng những phương tiên này. Hơn nữa, việc sử dụng thông tin cũng chưa phải đã khai thác đuợc triệt để mọi chức năng của chúng. Hay lấy số người đọc báo chí, đọc truyện làm ví dụ. Việc đọc sách báo đòi hỏi phải có một trình độ học vấn nào đó, phải được rèn luyện và cơ bản phải có một quỹ thời gian nhà rỗi tương đối ổn định. Thế nhưng, Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy việc đọc sách báo của phụ nữ nông thôn mới chỉ như một thú vui, như hình thức giải trí mà thôi. Điều này là dễ hiểu. Bởi vì, ở nông thôn các hoạt động chủ yếu vẫn là lao động nông nghiệp đơn giản, chua có sự phân công rõ rệt. Do đó việc đọc sách báo của họ chưa phải là một đòi hỏi bức thiết của lao động nghề nghiệp. Điều này không thể không được tính đến trong chiến lược phát triển nông thôn toàn diện mà chúng ta đang tiến hành hiện nay. 2. Có thề đặt câu hỏi: Tại sao mức hưởng thụ văn hóa của phụ nữ nông thôn hiện nay lại thấp như thế? Có phải vì mức học vấn của họ qua ít không? Không hoàn toàn như vậy. Trong tổng số phụ nữ được điều tra (tuổi từ 15-49) có đến 62% có trình độ phổ thông cơ sở, 29,1% phổ thông trung học, 8,1% có học vấn từ cao đẳng trở lên. Số mù chữ chỉ chiếm 1%. Vậy phải chăng công việc đồng áng “chiêm mùa gối vụ" đã chiếm hết Xã hội học, số 1 - 1992 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn khoảng thời gian nhàn rỗi của họ? Cũng không phải. Theo tính toán của chúng tôi, hiện nay trong khu vực lao động nông nghiệp, chưa kể lúc nông nhàn, chỉ tính thời gian bình thường, thì người nông dân mỗi ngày cũng có khoảng trên dưới 2 giờ là thời gian nhàn rỗi hoặc nửa nhàn rồi. Vậy nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên đây là gì? Câu trả lời thật giản dị: Việc phân phối văn hoá của ta mà khâu đầu tiền là phân phối các phương tiện kỹ thuật chưa hợp lý, chưa đáp ứng được nhu cầu của công chúng, đặc biệt là đối với các khu vực cư dân nông thôn. Bảng 2: Số hộ ở nông thôn có các phương tiên thông tin đại chúng % Phương tiện Thực trạng Có Không Lao truyền thanh Radip Tivi 3,2 26,9 3,1 96,6 75,1 93,9 Đáng lưu ý là các phương tiện ít ói này cũng chưa phải đã được sử dụng hết công suất của nó. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu điện, thiếu pin. Hơn nữa, cắc dịch vụ sửa chữa đồ điện tử đổ bán dẫn lại không đủ. Chỉ cần một hỏng hóc nhỏ là các loa truyền thanh, radio, cát xét, ti vi đành bỏ xó. Để sửa chữa, nhiều khi người ta phải đem lên tỉnh hay các phố gần đấy. Bổ sung vào bức tranh không lấy gì làm sáng sủa ấy là nạn thiếu sách báo, phim ảnh. Sách, thường là sách cũ người ta phải chờ đợi hàng tuần, hàng tháng để mượn truyền tay nhau mà đọc. Một số tờ báo trung ương và địa phương có tập trung ở trụ sở ủy ban, nhưng cũng thường về muộn năm bữa nửa tháng. Còn phim ảnh, văn nghệ là chuyện kì dịp, chỉ diễn ra mỗi năm đôi ba bận nhân những ngày lễ tết. 3. Sự giao lưu của phụ nữ nông thôn với các trung tâm công nghiệp hay đô thị. Cuộc điều tra cho thấy là hiện nay eo phụ nữ nông thôn chường xuyên có đến thị trấn (khu vực đô thị gần nhất đối với họ) chỉ chiếm 20,5%, số thỉnh thoảng có đến lả 71,3%, và số chưa bao giờ đến là 8,2%. Đây là những chỉ báo đáng suy nghĩ, thể hiện tính chất khép kín của nông thôn truyền thống, đồng thời cũng chỉ ra rằng các đô thị ở ta chưa có ảnh hưởng đến sự phát triển của nông thôn được bao nhiêu. Điều này đã tạo ra sự khác biệt đáng kể giữa nông thôn và đô thị, đặc biệt là sự khác biệt về văn hoá và lối cống. Chẳng hạn, nhiều tác phẩm nghệ thuật kể cả các tác phẩm vừa mới được công bố ở một nước nào đó, lập tức đã thấy xuất hiện trong các đô thị của ta. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cùng với cơ chế thị trường đang làm cho đời sống văn hóa đô thị trở nên năng động và đa dạng rất nhiều. Thế nhưng các khu vực cư dân nông thôn vẫn đang nằm ngoài sự chuyển động này. Nhiều nơi, cả xóm hoặc cả xã chỉ có 1 chiếc ti vi, tối tối người ta kéo nhau đi xem rất đông. Còn việc chiếu phim, biểu diễn văn công thì rất hãn hữu. Tất cả sự khác biệt trên đây là nguyên nhận quan trọng làm nảy sinh ở nhiều phụ nữ nông thôn tâm tư muốn cho con cái của mình ra sinh sống ở thành phố. Bảng mong muốn của phụ nữ nông thôn cho con ra sinh sống ở thành phố. Mong muốn Giơi tính của con Có Không Không biết Con trai Con gái 70.2 68,0 19,1 10,7 10,7 10,9 4. Sự hưởng thụ văn hóa của phụ nữ nông thôn nói riêng cũng như của cư dân nông thôn nói chung sẽ như thế nào trong thời gian sắp tới? Xã hội học, số 1 - 1992 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Lấy mục tiêu phấn đấu của chúng ta từ nay đến năm 2000 là “phủ sóng bảo đảm 50% dân cư cả nước nghe được bằng sóng trung, 100% dân cư nghe được bằng sóng trung và sóng ngắn đài Tiếng nói Việt Nam, 80% dân cư cả nước xem được truyền hình trung ương và địa phương”, “đưa mức hưởng thụ bình quân đầu người/năm lên 1 bản sách, 5 đến 6 bản báo”(1) thì mức hưởng thụ văn hóa qua các phương tiện thông tin đại chúng ở nhóm phụ nữ nông thôn đồng bằng, như đã nêu ở trên, hay còn có một khoảng du khá xa. Hiện thời, trong bối cảnh của nền kinh tế đang chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang sản xuất hàng hóa với cơ chế thị trường, gia đình nông thôn đang dần lấy lại vị trí vốn có của mình như một đơn cị sản xuất trực tiếp. Về mặt văn hóa, gia đình cũng là một đơn vị văn hóa. Gia đình - đó không chỉ là nơi thực hiện các chức năng giáo dục, lưu giữ và phát triển các giá trị truyền thống hay xã hội hóa con người, mà cũng còn là nơi tiếp nhận các nguồn thông tin xã hội. Chỉ cần một radio, một ti vi, mỗi người trong các gia đình đều có thể vừa thoả mãn những nhu cầu nhất định về mặt tinh thần, vừa có thế tiếp nhận thông tin và hành động theo những đòi hỏi của xã hội. Theo chúng tối, chừng nào người phụ nữ nông thôn chưa có đủ quĩ thời gian nhàn rỗi, chưa có đủ quĩ chi tiêu và các phương tiện giao thông dành riêng cho các hoạt động nhàn rỗi ở bên ngoài địa bàn sinh sống của họ, thì gia đình vẫn còn là một đơn vị văn hóa chủ yếu. Điều này hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh khách quan của ta. Trong gia đình của mình, ngay cả khoảng thời gian nửa nhàn rỗi, mỗi người cũng có thể đặt mình vào trong môi trường văn hóa. Người ta có thể vừa thổi cơm, tiếp khách vừa nghe radio, hoặc vừa trông nhà vừa xem vô tuyến. Nếu thay sự đầu tư lan tràn cho các cơ sở hoặc những hoạt động công cộng chưa thiết thực mà tập trung cho sự phát triển văn hóa gia đình, coi đó như một trung tâm thông tin - văn hóa cơ bản thì mục tiêu từ nay đến năm 2000 mà chúng ta đã nêu ra trên đây hoàn toàn có thể thực hiện được. 5. Để hoàn thành được mục tiêu này, theo chúng tôi, cần phải giải quyết những vấn đề cấp bách sau đây: Thứ nhất cần có những cuộc điều tra cơ bản về mức độ, nhu cầu cũng như khả năng đáp ứng được những nhu cầu hưởng thụ văn hóa của công chúng, trong đó có nhóm phụ nữ nông thôn, từ đó đề ra những chính sách thích hợp, nhằm từng bước khắc phục những khó khăn để tiến tới xóa bỏ những khoảng cách giữa nhu cầu và thực trạng của việc hưởng thụ văn hóa ở các nhóm khác nhau. Thiếu những cuộc điều tra để nắm được vấn đề một cách cụ thể cố nhiên sẽ không thể đề ra được các chính sách thích hợp . Thứ hai, do hoàn cảnh khó khăn hiện nay chưa thể tải điện đến những vùng xa xôi, chưa thể xây dựng những công trình văn hóa lớn, cần có sự phối hợp để tổ chức tốt hơn nữa các dịch vụ văn hóa ở nông thôn. Bà con ở đây đang rất cần những đội chiếu phim, những đoàn nghệ thuật lưu động, những đại lý phát hành sách báo, các cửa hàng sửa chữa đồ điện tử, bán dẫn, nhưng trước bết và quan trọng hơn là radio, loa truyền thanh. Các phương tiện này không đòi hỏi chi phí qua nhiều tiền, dễ chuyên chở, có thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu văn hóa của công chúng một cách rộng rãi, đặc biệt là phụ nữ, người già và trẻ em - những người vốn ít có điều kiện đi xa khỏi ngôi nhà của mình. Thứ ba, bao trùm lên tất cả các vấn đề trên đây là vai trò của Nhà nước và các tổ chức xã hội đối với văn hóa. Trong đời sống văn hóa ở ta hiện đang tồn tại một mâu thuẫn lớn giữa một bên là khuynh hướng "văn hóa thương mại" và bên kia là nhu cầu cần được hưởng thụ các giá trị văn hóa của người lao động. Nếu cứ thả nổi cho qui luật thị trường chi phối, nếu chỉ chạy theo lợi nhuận, thì cuộc sống của người dân ở những vùng xa xôi hẻo lánh chắc chắn sẽ mãi mãi chìm trong tăm tối. Ở đây đang rất cần có sự điều tiết vĩ mô, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, đặc biệt đối với những khu vực nghèo. Nhà nước cần quan tâm thích đáng, cần chấp nhận sự bù lỗ nhất định cho các hoạt động văn hóa ở những khu vực này. 1 Kinh tế Việt Nam đến năm 2000. Tạp chí Kế hoạch hóa, tháng 12/1990, trang 272.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso1_1992_maivanhai_1941_1833.pdf