Phật giáo Hoa Nam trong hành trình mở đất phương Nam thế kỉ XVII

Tài liệu Phật giáo Hoa Nam trong hành trình mở đất phương Nam thế kỉ XVII: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 112 Phật giáo Hoa Nam trong hành trình mở đất phương Nam thế kỉ XVII Hoa Nam Buddhism during the period of Vietnamese advance to the South in the 17 th century ThS. Đặng Thị Đông, Chùa Linh Quang, Hưng Yên Dang Thi Dong, M.A., Linh Quang Pagoda, Hung Yen Province Tóm tắt Phật giáo Hoa Nam du nhập vào Đàng Trong hồi thế kỉ XVII ở nước ta. Các chúa Nguyễn như Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Chu... không chỉ là những vị vua có công khai hóa vùng đất mới mà còn là những Phật tử chân chính đã khéo léo vận dụng Phật giáo vào việc an dân hộ quốc, khiến cho hai tông phái Lâm Tế và Tào Động từ Trung Quốc truyền sang hòa nhập được với tư tưởng Phật giáo bản địa mang tính phổ quát. Bên cạnh đó, dòng chảy của Thiền phái Trúc Lâm cùng tín ngưỡng bản địa cũng hòa nhập với Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa đã mang những giá trị tốt đẹp khi vào nước ta. Từ khóa: Phật giáo Hoa Nam, Đàng Trong, thế kỉ XVII...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phật giáo Hoa Nam trong hành trình mở đất phương Nam thế kỉ XVII, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 112 Phật giáo Hoa Nam trong hành trình mở đất phương Nam thế kỉ XVII Hoa Nam Buddhism during the period of Vietnamese advance to the South in the 17 th century ThS. Đặng Thị Đông, Chùa Linh Quang, Hưng Yên Dang Thi Dong, M.A., Linh Quang Pagoda, Hung Yen Province Tóm tắt Phật giáo Hoa Nam du nhập vào Đàng Trong hồi thế kỉ XVII ở nước ta. Các chúa Nguyễn như Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Chu... không chỉ là những vị vua có công khai hóa vùng đất mới mà còn là những Phật tử chân chính đã khéo léo vận dụng Phật giáo vào việc an dân hộ quốc, khiến cho hai tông phái Lâm Tế và Tào Động từ Trung Quốc truyền sang hòa nhập được với tư tưởng Phật giáo bản địa mang tính phổ quát. Bên cạnh đó, dòng chảy của Thiền phái Trúc Lâm cùng tín ngưỡng bản địa cũng hòa nhập với Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa đã mang những giá trị tốt đẹp khi vào nước ta. Từ khóa: Phật giáo Hoa Nam, Đàng Trong, thế kỉ XVII, chúa Nguyễn, vùng đất mới, vận dụng Phật giáo vào việc an dân hộ quốc. Abstract Hoa Nam Buddhism was introduced to the South of our country in the 17 th century. Nguyen Lords such as Nguyen Hoang and Nguyen Phuc Chu were regarded not only as heroes for discovering new lands but also as genuine monks. They smartly used Buddhism to reassure the people and enrich the country, which merged Lam Te and Tao Dong sects from China with local Buddhism. Besides, Truc Lam sect as well as native religion merged with original Buddhism and Mahayana which brought good values to our country. Keywords: Hoa Nam Buddhism, the South, the 17 th century, Nguyen Lords, new land, using Buddhism to reassure the people. 1. Mở đầu Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ, truyền vào nước ta từ đầu thế kỷ thứ nhất Tây lịch, được nhân dân Việt Nam tiếp biến và hội nhập trên mọi phương diện. Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử Phật giáo Việt Nam, như Giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: “Bình minh của dân tộc ta gắn liền với Phật giáo” [4; tr.15]. Việt Nam là một dân tộc có nền văn hóa phong phú, không giáo điều, tiếp thu nhiều tư tưởng bên ngoài trong đó có tư tưởng Phật giáo, nhưng khi vào Việt Nam đều được bản địa hóa cho phù hợp với con người và hoàn cảnh dân tộc Việt. Phật giáo Hoa Nam thế kỷ XVII dưới thời nhà Nguyễn trong hành trình mở đất phương Nam cũng vậy. Phật giáo dưới thời nhà Nguyễn mở đất phương Nam nhập thế tích cực, mang tính phổ quát, pha trộn giữa tư tưởng Đại Thừa với hai tông phái Thiền Lâm Tế và Tào Động từ Trung Hoa kết hợp tư tưởng Thiền Trúc ĐẶNG THỊ ĐÔNG 113 Lâm có từ đời Trần giúp nhà Nguyễn ngay từ thời kỳ đầu đã làm rất tốt công tác ổn định vùng đất mới. Công lao có được là do các vua chúa, nhân dân trên dưới một lòng đoàn kết, các Thiền sư Trung Hoa cũng như các Thiền sư trong nước hết lòng phụng sự đạo pháp, dân tộc. Sự giao thoa văn hóa Phật giáo giữa hai nước Việt- Trung thế kỷ XVII mang nhiều nét đặc sắc đã giúp cho nước nhà ổn định phía Bắc, phát triển và mở rộng bờ cõi về phía Nam. 2. Nội dung 2.1. Nguyên nhân Phật giáo Việt Nam giao thoa với Phật giáo Trung Quốc thế kỷ XVII Thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh - Thanh, nhiều cao tăng Trung Hoa đã tới Ðàng Trong hành hóa. Một phần quan trọng của những Tổ đình Việt Nam hiện nay là do các Thiền sư Trung Hoa sáng lập. Phật giáo Trung Quốc đầu nhà Thanh khởi sự từ năm 1616. Năm 1662, nhà Thanh thắng được nhà Minh và thống nhất lãnh thổ Trung Quốc. Vào năm Kỷ Mùi (1679), “hơn 50 chiến thuyền và hơn 3.000 quân sang đóng ngoài cửa Tư Dung (Tư Hiền) để hàng chúa Nguyễn Phúc Tần” [3; tr.62]. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép Phú Xuân tiếp nhận các vị Thiền sư từ Trung Quốc từ đường biển đổ bộ vào cửa Tư Dung. Trong hoàn cảnh vượt biển để tránh đao kiếm đã có nhiều Thiền sư trong phái Thiền Lâm Tế, Tào Động bên Trung Quốc đi theo tàu buôn Quảng Đông sang Nam Hà hoằng hóa Phật giáo. Phật giáo nước ta trong khoảng thế kỷ XVII có nhân duyên được giao thoa, tiếp xúc mạnh với tư tưởng Phật giáo Trung Quốc từ những hoàn cảnh xã hội như vậy. Tư tưởng Phật giáo thời chúa Nguyễn Phúc Chu phía Đàng Trong được thiết lập bởi các ngài Thạch Liêm, Nguyên Thiều, Liễu Quán. Thời Nguyễn Phúc Chu, rất nhiều Thiền sư đã phát triển vùng đất mới bằng con đường hòa bình dựa trên Phật pháp, tiêu biểu là: Thiền sư như Tăng thống Chân Nguyên, Thiền sư Huệ Hồng, Thiền sư Như Sơn, Thiền sư Hương Hải, Đạo Chân, Đạo Tâm, Chuyết Công Hòa Thượng, Thủy Nguyệt Thông Giác, Tông Diễn, Như Hiện, Như Trừng, Tính Dược Kế tiếp có các Thiền sư: Toàn Nhật, Tính Tĩnh, Tính Tuyền, Hải Quýnh – Từ Phong, Kim Liên Tịnh Tuyền, Tường Quang Chiếu Khoan, Phúc Điền, Phổ Tịnh, Thông Vinh, Nguyên Thiều, Liễu Quán... Trước Ngài Liễu Quán phần nhiều các Thiền sư ở Đàng Trong là người Trung Hoa. Vì vậy, Phật giáo Việt Nam thời kì này hội nhập, giao thoa tư tưởng Phật giáo với Trung Hoa rất sâu sắc. 2.2. Tư tưởng Phật giáo Hoa Nam trong hành trình mở đất phương Nam thế kỷ XVII Giai đoạn nhà Nguyễn trị vì trong cuộc mở đất phương Nam, Trung Quốc cũng loạn lạc, nhiều cao tăng sang Việt Nam, nước ta có thêm nhiều tôn phái mới. 2.2.1. Phật giáo hòa nhập trong tư tưởng Đạo pháp - Dân tộc Thuận Hoá (bao gồm cả Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay) chịu ảnh hưởng của Tam giáo và tín ngưỡng dân gian, đặc biệt là Phật giáo. Phật giáo Thuận Hóa mang tính phổ quát. Tín ngưỡng Thuận Hóa tuy có tín thờ mẫu nhưng rất ít. Có thể khẳng định, tín ngưỡng Phật giáo của Thuận Hóa hơn hẳn Phật giáo Bắc Hà lúc bấy giờ vì Phật giáo Bắc Hà còn ảnh hưởng lớn bởi hệ tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử. Tín ngưỡng nước ta “thờ cúng ông bà, Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão quân, Phật tổ. Và tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Nho, Phật, Lão (Đạo) đã có từ khoảng thế kỷ thứ II” [13; tr.57]. Nhưng cư dân Thuận Hóa không biết đến Nho, Đạo PHẬT GIÁO HOA NAM TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM THẾ KỈ XVII 114 vì đất mới này là vùng biên ải. Các chúa Nguyễn nhận ra Phật giáo với tư tưởng từ bi, cứu khổ, vô ngã, vị tha phù hợp với tư tưởng cư dân nơi đây. Bởi vậy, nhà Nguyễn ngay từ đầu đã dùng tư tưởng Phật pháp để thu phục lòng người, ổn định xã hội. Chúa Nguyễn Hoàng thường thi hành chính sự một cách khoan dung. Thiền sư Thạch Liêm tổ chức kinh tế tự túc trong chùa. Ngài dùng thi văn, hội họa, chữ viết, thủ công, tích cực nhập thế. Chúa Nguyễn Phúc Chu nhiệt thành mang đạo vào đời, gần gũi tư tưởng Trần Nhân Tông lấy tinh thần Phật pháp định hướng cho đời sống dân tộc. Khi chúa Nguyễn xây ngôi chùa đầu tiên – chùa Thiên Mụ (1601), thì “trước kia trên gò vẫn có chùa thờ Phật” [15; tr.96]. Chùa thứ hai là Sùng Hóa (1602), “di tích chùa cổ, sửa chữa lại và cho tên hiện nay” [15; tr.241]. Như vậy, khi Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, nơi đây vốn có nhiều nét Phật giáo Nguyên thủy của vương quốc Chăm- pa nhưng các tư tưởng Phật giáo Đại thừa của Đại Việt vẫn chiếm ưu thế. 2.2.2. Tiếp thu tư tưởng Thiền Phái Lâm Tế Vào thế kỷ thứ 17 tại Ðàng Trong, được sự cho phép của các chúa Nguyễn, nhiều Thiền sư đã xuất hiện và hoằng đạo như: Viên Cảnh và Viên Khoan ở Quảng Trị, Minh Hoằng (chùa Ấn Tôn), Giác Phong (chùa Thiên Thọ), Từ Lâm (chùa Từ Lâm) ở Thuận Hóa; Pháp Bảo (chùa Chúc Thánh) và Quốc sư Hưng Liên (chùa Tam Thai) ở Quảng Nam; Pháp Hóa (chùa Thiên Ấn) ở Quảng Ngãi; Tế Viên (chùa Hội Tông) ở Phú Yên; Nguyên Thiều (chùa Thập Tháp Di Ðà) ở Bình Ðịnh và chùa Quốc Ân, chùa Hà Trung, Thạch Liêm (chùa Thiền Lâm) ở Thuận Hóa... Nhìn chung, các Thiền sư khai sơn tất cả đều thuộc phái thiền Lâm Tế, chỉ trừ hai vị Hưng Liên và Thạch Liêm thuộc phái thiền Tào Ðộng. Lâm Tế là nhánh Thiền Nam tông của tổ sư Nghĩa Huyền ở Trung Hoa truyền vào Việt Nam thế kỉ 17, phát triển mạnh tại Đàng Trong. Sau này, ngài Nguyên Thiều lập nên các dòng truyền thừa theo phả hệ Thập Tháp và Quốc Ân; ngài Pháp Bảo lập nên hệ Chúc Thánh. Ngài Nguyên Thiều có công rất lớn đối với Phật giáo và nước ta dưới thời nhà Nguyễn mở đất phương Nam. Phái Lâm Tế ở Trung kỳ coi ngài là Sơ tổ. Phật giáo vào Trung Hoa, phân chia nhiều tôn phái, Thiền Tông cũng chia ra nhiều nhánh nên Ngài Nguyên Thiều cũng có hai danh hiệu: Nguyên Thiều và Siêu Bạch. Ngài Nguyên Thiều mời được Thạch Liêm Hòa thượng sang nước ta theo sự đề nghị của chúa Nguyễn. Cùng với các chúa Nguyễn, hai Ngài Nguyên Thiều và Thạch Liêm rất có công đem tư tưởng Phật giáo Trung Quốc tiếp xúc với văn hóa Đại Việt trên tinh thần tiếp biến và ứng dụng tại vùng đất mới. Tư tưởng Thiền Lâm Tế chú trọng đến pháp thân thanh tịnh, vắng lặng không phải là không mà là lý “chân không diệu hữư”. Đó chính là tư tưởng Thiền với tánh không sáng suốt, rộng lớn, không dính mắc, thanh tịnh trong mọi hoàn cảnh, không phân biệt, thường còn bất biến. Tư tưởng Thiền của ngài Nguyên Thiều thuộc phái Lâm Tế có thể được tóm gọn trong bài kệ: Tịch tịch kỉnh vô ảnh, Minh minh châu bất dung. Đường đường vật phi vật, Liêu liêu không vật không. Đại ý: Lặng lẽ gương không chiếu bóng Sáng trưng ngọc chẳng thâu hình Rõ ràng vật không phải vật Minh mông không chẳng là không [6; tr.590]. ĐẶNG THỊ ĐÔNG 115 Nếu thiền sư Chân Nguyên được xem là nhân vật then chốt để phục hưng Ðàng Ngoài, thì Phật giáo Ðàng Trong, ở vị trí thiền sư, Liễu Quán cũng vậy. Ngài là đời thứ 35 giòng Lâm Tế chánh tôn, khai sơn chùa Thiên Thai Thiền Tôn ở Huế. Thiền sư Liễu Quán từng tham cầu với Ngài Thạch Liêm Hòa thượng và được ngài Tử Dung ấn chứng. Một trong những công án nổi tiếng ngài Tử Dung truyền dạy là “Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?” (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?). Ngài Liễu Quán nhân đọc truyện Truyền đăng lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ?” mà được tỏ ngộ. Tư tưởng Thiền của Ngài Liễu Quán được thâu tóm trong bài kệ: Thất thập dư niên thế giới trung, Không không sắc sắc duyệt dung thông. Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý, Hà tất bôn man vấn tổ tông. Đại ý: Ngoài bảy mươi năm trong thế giới, Không không sắc sắc thảy dung thông. Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ, Nào phải ân cần hỏi tổ tông [6; tr.603]. Đây cũng vẫn là tư tưởng chân không diệu hữu, pháp thân thanh tịnh, thể tánh sáng suốt, vắng lặng mà tròn đầy, dung chứa vạn pháp, là “không không sắc sắc thể dung thông”. Tư tưởng của Thiền sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh động. Vì trước Ngài, Phật giáo Ðàng Trong mang nặng màu sắc Quảng Ðông. Ngài cũng đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế, làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa số Phật tử Ðàng Trong. Tư tưởng Thiền của Ngài cũng khiến cho lễ nhạc bắt đầu trút bỏ màu sắc Trung Quốc và dần dần nhuốm màu sắc dân tộc. Ngày nay, Tăng đồ và tín đồ ở miền Trung và miền Nam hầu hết là thuộc về giòng Lâm Tế, mà ngài Liễu Quán là người có công khai hóa hơn hết. 2.2.3. Tiếp thu tư tưởng Thiền Phái Tào Động Tào Động là dòng thiền xuất phát từ Trung Quốc, do Ngài Tào Sơn Bản Tịch (840-901) và Động Sơn Lương Giới (807- 869) sáng lập, truyền vào Việt Nam từ thế kỷ XII, ảnh hưởng ở cả hai miền Nam Bắc. “Ở miền Bắc (Đàng Ngoài), cuối thế kỷ XII và trong thế kỷ XIII, dòng thiền Tào Động đã có những ảnh hưởng to lớn và nó còn ảnh hưởng đến tận ngày nay, nhiều chùa ở Hà Nội như: Trấn Quốc, Hàm Long, Hòe Nhai... đến nay vẫn xem là truyền thừa của dòng này” [14; tr.395-396 ]. Thiền sư Động Sơn Lương Giới tham yết Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện (748 - 834), Quy Sơn Linh Hựu (771 - 853), đắc pháp Thiền sư Vân Nham Đàm Thịnh (782 - 814). Về sau, Thiền sư Động Sơn Lương Giới khai pháp ở Động Sơn, Giang Tây, hoằng dương thiền pháp, đệ tử nối pháp có Tào Sơn Bản Tịch... Thiền sư Bản Tịch cầu pháp và đắc pháp nơi Thiền sư Lương Giới rồi ngài khai pháp tại Cát Thủy, Phủ Châu, đổi tên là Tào Sơn, xiển dương thiền học: “Về sau, Động Sơn, Tào Sơn thiền càng thịnh, môn đồ bèn hợp nhất xưng là tông Tào Động” [16; tr.347]. Vào thế kỉ 17, dòng Thiền Tào Động từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam, ảnh hưởng cả ở Ðàng Ngoài lẫn Ðàng Trong. Tại xứ Đàng Trong Ðại Việt, người đầu tiên truyền bá thiền Tào Ðộng là thiền sư Hưng Liên, lập đạo tràng ở chùa Tam Thai Quảng Nam. Nhưng người có công lớn nhất trong công việc truyền bá, tạo sự phát triển cho Thiền phái Tào Động ở Đàng Trong là Thiền sư Thạch Liêm (1633 - 1704), người Giang Tây. Thạch liêm còn viết cuốn Kim cương trực sớ mà Phật tử miền Nam đặc biệt coi trọng. PHẬT GIÁO HOA NAM TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM THẾ KỈ XVII 116 Tào Động là một trong 5 tông phái (Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn), xuất phát từ Thiền Tào Khê của Lục tổ Tuệ Năng (638 - 713) Trung Hoa. Trong đó, ba tông Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn theo hệ của Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư đệ tử của Lục Tổ Tuệ Năng. Tào Động chủ trương về Ngũ vị (Năm vị) vốn do Thiền sư Lương Giới đề xuất và Thiền sư Bản Tịch đã bổ sung và hệ thống hóa. Có hai loại năm vị là: Năm vị Chánh thiên và Năm vị Công huân. Năm vị Chánh thiên là Chánh trung thiên, Thiên trung chánh, Chánh trung lai, Thiên trung Chí và Kiêm trung đáo. Chánh là âm, ý tức chỉ cho bản thể của chân như. Thiên là dương, ý tức chỉ cho hiện tượng của sinh diệt. Chánh Trung Thiên là chỉ cho trong bình đẳng còn có sai biệt. Thiên Trung Chánh là chỉ cho sai biệt tức là bình đẳng. Tạo công phu tu hành của động ở trong tĩnh. Tĩnh ở trong động. Gồm cả hai thứ trên, đạt được cảnh giới tự do tự tại. Năm vị Công huân là Hướng, Phụng, Công, Cộng công và Công công, (tức nhận biết về chúng sinh vốn gồm đủ Phật tánh, cầu đạt quả Phật (Hướng), nhằm chứng Phật tánh nên tu hành (Phụng), thấy Phật tánh (Công). Tuy đã đạt vị giác của tự do, nhưng hãy còn có tác dụng (Cộng công). Sau cùng, lại siêu việt các thứ trước, đạt đến cảnh giới tự do tự tại (Công công) [11; tr.1088 ]. 2.2.4. Tư tưởng Phật giáo mang tính dung hòa Có thể thấy, “tư tưởng thiền của Thiền sư Thạch Liêm gồm ba điểm chính là: Thiền tịnh song tu, Nho Phật nhất trí và Lâm - Tào (Lâm Tế - Tào Động) tổng hợp” [5; tr.229 - 236]. “Thiền Tịnh Song Tu” tức Thiền tông và Tịnh độ được phối hợp làm một. Tịnh độ là phương pháp hành thiền đại chúng có thể dễ tu tập. Phật A Di Ðà trở thành tự tính của mọi người, thấy được Phật A Di Ðà tức là thấy được tự tính của chính mình. “Nho - Phật nhất trí” là phương pháp bỏ hết căn trần, không lập văn tự, chỉ thẳng lòng người, thấy tính thành Phật, nhập thế tích cực, an lạc trong mọi hoàn cảnh, ở đâu cũng có thể tu được. “Lâm Tào tổng hợp” là Lâm Tế và Tào Động dung hòa, là phương tiện vào cửa đạo. Tư tưởng Lâm Tào tổng hợp thể hiện thông qua việc: Thiền sư Nguyên Thiều phái Lâm Tế khi thỉnh các danh Tăng từ Trung Hoa về khai giới đàn tại chùa Thiên Mụ (có mặt ngài Thạch Liêm phái Tào Động); Thiền sư Hương Hải ở Ðàng Trong, sau ra Ðàng Ngoài để hành đạo. Phật giáo thời đại chúa Nguyễn Phúc Chu được thiết định bởi các ngài Thạch Liêm, Nguyên Thiều, Liễu Quán ở xứ Đàng Trong; và các ngài Minh Châu Hương Hải, Chân Nguyên, Toàn Nhật... ở Đàng Ngoài. Thời chúa Nguyễn Phúc Thái, Thiền phái Lâm Tế và Thiền phái Tào Động đã đến xứ Đàng Trong hoằng dương chánh pháp. Chủ trương “Ngũ vị” của Tào Động được các Thiền sư Việt Nam thuộc phái Tào Động tiếp biến và thích nghi, phát triển cho phù hợp: Từ việc ngồi thiền, đạt đạo, chứng đắc, giác ngộ, sau này tông Tào Động hình thành phương pháp tu tập là ngồi thiền không cần chủ đề thiền, ngồi thiền và đạt đạo là một, không vướng chấp nơi đối tượng chứng đắc, không chấp vào đối tượng giác ngộ, thân tâm là một. Những nguyên tắc phát triển đó dần dần được áp dụng trong các thiền phái khác, trong đó Lâm Tế cũng chịu ảnh hưởng. Thiền sư Phân Dương của phái Lâm Tế cũng đã sử dụng khái niệm về năm vị trí giữa “cái thẳng và cái nghiêng”, “vô đắc” của Tào Động; ngược lại, lối dùng thoại đầu của Lâm Tế cũng được áp dụng trong thiền phái Tào Ðộng. ĐẶNG THỊ ĐÔNG 117 Thiền của Hương Hải đã làm cho tư tưởng thiền Tào Động thêm phong phú với tư tưởng không chạy trốn sự vật, giới luật cao nhất là sự vô tâm, thành Phật ngay trong giờ phút hiện tại. Lâm Tào tổng hợp của Ngài Thạch Liêm là một minh chứng về sự dung hòa hai Thiền phái này rất rõ ràng trên phương diện tướng hữu vi. Có thể nhận thấy, vào thế kỷ XVII, khi phái Tào Ðộng truyền sang Ðại Việt thì những khác biệt giữa hai tông phái Lâm Tế và Tào Động hình như không còn khoảng cách nữa mà cùng dung hòa để khai thác nội tâm, chủ trương giác ngộ là con đường đi vào một cách tự nhiên, lục căn xúc với trần cảnh tiếp xúc như đi vào ngôi nhà rỗng không, chẳng có gì ràng buộc, chấm dứt sinh tử “ngay tại đây và bây giờ”. Ngôn ngữ, chỉ là phương tiện, quan trọng là dĩ tâm truyền tâm, dĩ mục truyền mục. Cả hai phái ít ưa lý luận về triết học, chú trọng điều tâm ý vào việc thiền quán, nhận thức về liên hệ giữa Phật và chúng sinh, giữa tâm và cảnh, mê và ngộ, thiện và ác. Các thiền sư giữa hai phái cũng có sự hợp tác trên nhiều phương diện tư tưởng và các chúa Nguyễn cũng hết sức ủng hộ. 2.3. Vai trò của Phật giáo Hoa Nam đối với vấn đề an dân hộ quốc Nhà Nguyễn luôn lấy tư tưởng tích cực của đạo Phật để xây dựng, ổn định và mở rộng bờ cõi. Đặt chân lên vùng đất mới, các chúa Nguyễn đã kế thừa tư tưởng của nhà Trần, mở rộng lãnh thổ về phương Nam, lấy Phật giáo làm nền tảng tư tưởng để thu phục nhân tâm, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển Đàng Trong, khiến cho Phật giáo Đàng Trong thế kỷ XVII đã có dòng Tào Động và Lâm Tế với chư Tổ là hai Ngài Nguyên Thiều và Liễu Quán. Đây chính là thời đại hưng thịnh và phát triển của Phật giáo Thuận Hoá nói riêng và Phật giáo nước nhà sau này nói chung. Ánh sáng chân chính của đạo Pháp biến thành những hành động tích cực, tốt đẹp, thiện pháp, không chỉ cho cá nhân mà còn lan rộng ra cả xã hội, tạo nên sức mạng đoàn kết để an dân hộ quốc dưới thời nhà Nguyễn. Phật giáo luôn đồng hành với dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý, Trần với vị trí quan trọng của các Thiền sư được triều đại đó ủng hộ. Các chúa Nguyễn và các vị Thiền sư xác định “Phật giáo tại thế gian không lìa thế gian mà giác ngộ” nên đã đưa Phật giáo hòa chung với văn hóa dân tộc dựa trên tinh thần từ bi hỷ xả, vô ngã, vị tha; khẳng định tính năng động tùy duyên nhưng bất biến của Phật giáo và màu sắc văn hóa riêng của nước nhà. Phật giáo Hoa Nam thế kỷ XVII trên vùng đất mới đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc an dân hộ quốc, kiện toàn quốc gia trên tinh thần tư tưởng: tức tâm tức Phật, nhập thế tích cực, coi trọng nhân tâm, đề cao Phật giáo chân chính, tiếp thu và phát huy các tư tưởng tích cực của Phật giáo truyền thống, dung nạp ba yếu tố Tịnh, Thiền, Mật, dung hòa tín ngưỡng theo quan điểm tự độ độ tha, tự giác và giác tha... Với sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau giữa hai Thiền phái Tào Động và Lâm Tế và kế thừa tư tưởng Thiền của Trần Nhân Tông mang đặc thù của dân tộc đã thúc đẩy Thiền Việt Nam vượt hẳn Thiền Trung Hoa. Ngoài giải thoát cá nhân, Phật giáo Hoa Nam còn thiết lập lại ý thức mới trong bối cảnh xã hội bấy giờ. Sự phát triển của Phật giáo thời nhà Nguyễn trị vì trong cuộc mở đất phương Nam đã tạo bước quan trọng là gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động chính trị xã hội, gắn ý thức dân tộc mở rộng bờ cõi với ý thức Phật giáo của các chúa Nguyễn giai đoạn đó và PHẬT GIÁO HOA NAM TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM THẾ KỈ XVII 118 sau này. 3. Kết luận Có thể thấy, xuyên suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, sự giao lưu văn hóa giữa nước ta và Trung Hoa xảy ra liên tục, được nhân dân ta tiếp biến để thích ứng với đời sống của dân tộc. Tùy theo từng thời kỳ phát triển lịch sử, người Việt Nam đã tiếp biến đạo Phật với những màu sắc khác nhau, trong đó, sợi chỉ đỏ xuyên suốt là tư tưởng tùy duyên, vô ngã, từ bi hỷ xả. Nhà Nguyễn trị vì trong cuộc mở đất phương Nam cũng đã tiếp thu và vận dụng rất tiến bộ, linh hoạt, tích cực. Khi đất nước chia hai thành Đàng Ngoài và Đàng Trong thì tại Đàng Ngoài đạo Phật không phổ biến như ở Đàng Trong. Việt Nam từ xưa vốn chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc nên đã hoằng truyền Phật giáo Đại thừa. Phật giáo dưới thời các chúa Nguyễn ở phía Nam (Đàng Trong) ảnh hưởng sâu sắc bởi dòng Lâm Tế, Tào Động và tín ngưỡng pha trộn. Phật giáo Thiền phái Trúc Lâm hòa lẫn với văn hóa truyền thống tín ngưỡng của dân tộc và trên cơ sở chánh pháp. Tại đây, các Thiền sư đã tạo ra nhiều hướng ứng dụng độc đáo và tu tập cho phù hợp với hoàn cảnh thế sự Việt Nam lúc bấy giờ. Phật giáo Việt Nam thời nhà Nguyễn, nhất là công cuộc mở đất phương Nam giai đoạn 1533 – 1788, đã cho thấy được tinh thần Phật giáo truyền thống được kế thừa tiếp thu những điểm mới khác biệt từ phía bên ngoài, giúp cho nhà Nguyễn khai phá vùng đất mới thành công tốt đẹp. Đó là nhờ công lao to lớn của các chúa Nguyễn đối với đất nước, đối với Phật giáo. Qua đó thấy rõ được vai trò an dân hộ quốc của Phật giáo Việt Nam song hành cùng dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế & xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn, Nxb Văn Học. 2. Đặc san Nguyễn Hoàng (2008), số 1, Nxb Thuận Hóa, Huế. 3. Lê Quý Đôn (bản Việt) (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Hà Nội. 4. Trần Văn Giàu (1986), Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Viện Triết học, Hà Nội. 5. Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội. 6. Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb Văn Học, Hà Nội. 7. Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, Nxb Văn hoá Sài Gòn. 8. Quốc Sử quán triều Nguyễn (biên soạn) (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, Nxb Viện Sử học Hà Nội. 9. Quốc Sử quán (1963), Đại Nam liệt truyện tiền biên, Nxb Viện Đại Học Huế. 10. Trần Đức Anh Sơn (2004), Huế, Triều Nguyễn một cái nhìn, Nxb Thuận Hóa 11. Phật Quang Sơn (2014), Phật Quang đại từ điển, Sa môn Thích Quảng Độ (dịch), Nxb Phương Đông. 12. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục. 13. Mật Thể (1996), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb Thuận Hóa, Huế. 14. HT. Thích Thanh Từ (1999), Thiền sư Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh. 15. Viện Sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế. 16. Hòa thượng Hư Vân (2011), Tái Tăng Phật Tổ Đạo Ảnh, tập 3, Nguyên Huệ (dịch), Nxb Phương Đông. Ngày nhận bài: 20/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf14_7644_2215066.pdf
Tài liệu liên quan