Những con đường hình thành và một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng việt cho học viên quân sự nước ngoài - Trần Thị Hà

Tài liệu Những con đường hình thành và một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng việt cho học viên quân sự nước ngoài - Trần Thị Hà: 11KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v NHỮNG CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI DẠY THUẬT NGỮ QUÂN SỰ TIẾNG VIỆT CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI TÓM TẮT Thuật ngữ quân sự tiếng Việt là lớp từ vựng chuyên biệt nằm trong hệ thống ngôn ngữ toàn dân. Thuật ngữ quân sự được hình thành trên cơ sở từ vựng từ nhiều nguồn khác nhau. Xuất phát từ nguồn gốc của các yếu tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, bài viết mong muốn khái quát những con đường hình thành nên các đơn vị của hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt từ từ ngữ thông thường tiếng Việt, từ ngữ của các ngành khoa học khác và từ sự vay mượn tiếng nước ngoài. Qua đó, đặt ra các vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài. Từ khóa: con đường hình thành, học viên quân sự nước ngoài, thuật ngữ quân sự, tiếng Việt 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới được gắn liền với tên tuổi của các nhà nghiên cứu như CarlvonLinne (1736), Beckmann...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những con đường hình thành và một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng việt cho học viên quân sự nước ngoài - Trần Thị Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v NHỮNG CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI DẠY THUẬT NGỮ QUÂN SỰ TIẾNG VIỆT CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI TÓM TẮT Thuật ngữ quân sự tiếng Việt là lớp từ vựng chuyên biệt nằm trong hệ thống ngôn ngữ toàn dân. Thuật ngữ quân sự được hình thành trên cơ sở từ vựng từ nhiều nguồn khác nhau. Xuất phát từ nguồn gốc của các yếu tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, bài viết mong muốn khái quát những con đường hình thành nên các đơn vị của hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt từ từ ngữ thông thường tiếng Việt, từ ngữ của các ngành khoa học khác và từ sự vay mượn tiếng nước ngoài. Qua đó, đặt ra các vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài. Từ khóa: con đường hình thành, học viên quân sự nước ngoài, thuật ngữ quân sự, tiếng Việt 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới được gắn liền với tên tuổi của các nhà nghiên cứu như CarlvonLinne (1736), Beckmann (1780), A.L. Lavoisier, G.de Morveau, M. Berthellot, A.F.de Fourcoy (1789). Tuy vậy, phải đến đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu thuật ngữ mới có tính chuyên sâu và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ nói riêng và các mặt xã hội nói chung. Đầu thế kỉ XX, đi đầu trong lĩnh vực thuật ngữ là các nhà khoa học Liên Xô cũ với những công trình của A.A. Rêfformatxkiy, N.P. Cudơkin, G.O. Vinôcua, V.V. Vinôgrađôp. Các tác giả này thường tập trung chú ý chủ yếu vào chức năng của thuật ngữ, quan hệ giữa thuật ngữ với khái niệm để tìm bản chất của thuật ngữ. Nghiên cứu thuật ngữ được đặt ra ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX với sự mở đầu của tác giả Hoàng Xuân Hãn trong cuốn “Danh từ khoa học”. Cuốn sách là bảng tổng kết cách thức xây dựng thuật ngữ dựa vào từ thông thường, mượn từ tiếng Hán và phiên âm từ ngôn ngữ Ấn-Âu. Tiếp theo, “Vào cuối thập kỉ 60, đầu thập kỉ 70, tổ thuật ngữ thuộc Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước đã tổ chức biên soạn một loạt các từ điển đối dịch thuật ngữ cho hầu hết các ngành khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật và khoa học xã hội” (Chu Thị Bích Thu, 2001, tr.20). Đây là công sức của rất nhiều nhà khoa học ở miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. “Những cuốn từ điển này có vai trò lịch sử rất quan trọng đánh dấu một giai đoạn, một quá trình phát triển và bước đầu hoà nhập của khoa học Việt Nam với khoa học quốc tế, đồng thời góp phần chuẩn TRẦN THỊ HÀ* *Học viện Khoa học Quân sự, ✉ tranhahvkhqs@gmail.com Ngày nhận bài: 30/9/2017; ngày hoàn thiện: 18/10/2017; ngày duyệt đăng: 15/11/2017 12 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ hoá thuật ngữ phản ánh không khí sôi nổi của công việc chuẩn hoá thuật ngữ, chuẩn hoá tiếng Việt cuối thập kỉ 60, đầu thập kỉ 70” (Chu Thị Bích Thu, 2001, tr.21). Theo Hà Quang Năng “Trải qua hơn nửa thế kỉ, thuật ngữ tiếng Việt đã có những bước phát triển nhanh chóng về số lượng. Đáng chú ý hơn, bên cạnh mặt số lượng, thuật ngữ tiếng Việt đã thay đổi cả về chất” (Hà Quang Năng, 2010, tr.2). Tiếp theo, hầu hết các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đều mặc nhiên thừa nhận, thuật ngữ nói chung và thuật ngữ quân sự nói riêng là một bộ phận hữu cơ của ngôn ngữ văn hóa toàn dân. Các tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, Mai Ngọc Chừ, Bùi Minh Toán, Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa đều xem thuật ngữ là hệ thống từ ngữ đơn phong cách. Sự phát triển của thuật ngữ gắn liền với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam. Đó là hệ thống từ ngữ “bảo thủ” về nghĩa, mỗi từ là một “cái nhãn” dán lên sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan (Đỗ Hữu Châu, 2007, tr.222). Các từ này xét về mặt cấu tạo, ngữ nghĩa và nguồn gốc, ngoài những đặc điểm loại biệt ra đều không nằm ngoài qui luật vận động phát triển của ngôn ngữ toàn dân, nhưng xét ở phạm vi sử dụng thì chúng là những từ có ngoại diên hẹp và nội hàm khá trừu tượng. Trong những thập niên gần đây, một số nhà Việt ngữ học đã nghiên cứu về thuật ngữ như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Tồn, Hoàng Văn Hành, từ đó đã mở đường cho nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về thuật ngữ của nhiều ngành khoa học. Về thuật ngữ quân sự, từ trước đến nay mới chỉ có tác giả Vũ Quang Hào là người đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ cấu tạo. Ông đã chỉ ra rằng “Ở đây chúng tôi qui mẫu cấu tạo thuật ngữ quân sự căn cứ vào chính bản chất cấu thành. Làm như thế phần nào vừa mô tả đúng bản chất của thuật ngữ, vừa chỉ ra được cái mà công việc chỉnh lý thuật ngữ và cấu tạo thuật mới cần hướng vào” (Đỗ Hữu Châu, 2007, tr.90). Những đóng góp của ông trong đề tài là bước khởi đầu quan trọng cho việc nghiên cứu ứng dụng hệ thống lý luận ngôn ngữ vào xem xét một lĩnh vực từ vựng chuyên biệt. Tiếp sau đó, các tác giả Phạm Ngọc Lại, Nguyễn Trọng Khánh, Nguyễn Thị Yến, Đào Thị Luyến xây dựng một số cuốn giáo trình về thuật ngữ quân sự tiếng Việt, song chỉ dùng lưu hành trong nội bộ Học viện Khoa học Quân sự. Nhìn tổng quan quá trình nghiên cứu về thuật ngữ ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy những công trình kể trên hoặc mới chỉ dừng lại ở mảng lí luận chung hoặc xem xét thuật ngữ khoa học kĩ thuật trên những ngữ liệu cụ thể nhưng vẫn mới chỉ dừng lại ở sự phát triển và đặc điểm của thuật ngữ như một bộ phận của ngôn ngữ toàn dân. Như vậy, diện mạo hệ thống từ vựng này vẫn còn nhiều khía cạnh cụ thể cần bàn luận. Nói cách khác nếu xem thuật ngữ quân sự là một bộ phận của ngôn ngữ toàn dân thì những đặc điểm về các bình diện kết học, nghĩa học của nó vẫn còn là mảnh đất chưa được khai phá kỹ lưỡng. Chúng tôi nhận thức rằng, những công trình nghiên cứu vừa kể trên sẽ là những tiền đề lí luận bổ ích cho quá trình nghiên cứu của mình về thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Trong bài viết này, trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, ứng dụng vào nghiên cứu một lớp thuật ngữ mang tính đặc thù, chúng tôi phân tích, lý giải và trình bày những con đường hình thành nên thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Hy vọng những kiến giải trong bài báo sẽ góp phần làm phong phú hệ thống lý luận về thuật ngữ quân sự, cũng như cung cấp thêm những nguồn tư liệu, những đặc trưng ngữ nghĩa của lớp từ vốn được xem là khoa học, trừu tượng, khô khan, cứng nhắc – hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt trong việc dạy thuật ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Khoa học Quân sự. 2. NỘI DUNG 2.1. Các con đường hình thành thuật ngữ quân sự tiếng Việt 2.1.1. Thuật ngữ quân sự được hình thành từ các từ ngữ tiếng Việt thông thường Thuật ngữ quân sự và từ ngữ thông thường có rất nhiều điểm khác nhau về nội dung biểu niệm và biểu vật. Từ ngữ thông thường được dùng rộng 13KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v rãi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, phản ánh những khái niệm khác nhau, có khả năng sản sinh từ ngữ phong phú do mang nhiều sắc thái ý nghĩa. Còn thuật ngữ quân sự chỉ biểu thị khái niệm và gọi tên sự vật trong khoa học quân sự. Tuy vậy, để làm phong phú thêm số lượng từ ngữ của mình trong lĩnh vực quân sự, ngôn ngữ đã tạo ra một qui luật hết sức năng động là sử dụng những từ ngữ tiếng Việt sẵn có trong vốn từ toàn dân để tạo thành thuật ngữ chuyên môn quân sự. Qua khảo sát 1700 thuật ngữ (Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự – Bộ Quốc phòng, 2004), chúng tôi thấy các thuật ngữ kiểu này hình thành từ hai con đường. Một là, sử dụng y nguyên hình thức ngôn ngữ có sẵn trong ngôn ngữ thông thường nhưng thay đổi nội dung biểu đạt của chúng. Cụ thể là giữ lại những nét nghĩa cần thiết phục vụ cho khái niệm quân sự hoặc chỉ giữ lại những khái niệm nào được nhận thức từ góc độ quân sự. Ví dụ: Các từ đồng bằng, miền núi, thành phố, bến phà, bắn khi là từ ngữ thông thường phản ánh những sự vật, khái niệm không giống khi làm thuật ngữ quân sự. Bắn, khi là từ ngữ thông thường, có các nghĩa biểu niệm, biểu vật sau: 1. Phóng mũi tên hoặc viên đá, đất, vật gây nổ, vật gây cháy ra khỏi dụng cụ như ná, cung nỏ, giàn phóng bằng lực đẩy. Bắn tên. Bắn ná thun. Bắn đá vào cổng thành. 2. Phát hỏa từ các loại hỏa khí. Bắn súng ngắn. Bắn cối 82. Bắn tỉa. 3. Văng hoặc bật ra. Nước bắn ra tung tóe. 4. Làm chuyển dời vật nặng bằng cách bẩy lên. Bắn bể nước ra góc sân. 5. Chuyển tiền, chuyển nợ sang tài khoản hoặc phần cho người khác. Bắn nợ sang bên A. 6. Kín đáo đưa tin cho đối tượng biết. Bắn tin cho nhà gái biết. 7. Dùng tiền bạc để lo lót, hối lộ. Cứ bắn mạnh vào thì mới được việc (Hoàng Phê, chủ biên, 1988). Khi chuyển thành thuật ngữ quân sự, “bắn” chỉ còn lại duy nhất một nghĩa là: phát hỏa từ các loại hỏa khí, do đó, những kết hợp kiểu như từ thông thường ở các ví dụ thuộc nghĩa 1, 3, 4, 5, 6, 7 dẫn trên đây không thể tồn tại được. Đồng bằng, khi là từ ngữ thông thường, biểu thị những đặc trưng chung nhất, trực quan nhất đối với mọi người trong xã hội: là nơi đất thấp, bằng phẳng, thường ở lưu vực những con sông lớn. Khi làm thuật ngữ quân sự, nó biểu thị khái niệm: địa hình trống trải, mang những thuộc tính chiến thuật như việc ngụy trang, triển khai đội hình, sử dụng lực lượng phương tiện, kèm theo đó là các hình thức thủ đoạn tác chiến cho phù hợp với đặc điểm địa hình (Cục khoa học Quân sự – Bộ Tổng tham mưu, 1985). Từ thành phố khi được sử dụng làm thuật ngữ quân sự thì các nghĩa khái niệm thông thường như đơn vị hành chính, khu vực tập trung đông dân cư, có sự phát triển cao về công nghiệp, thương mại, dịch vụ, và phát triển mạnh hơn các vùng khác sẽ bị loại bỏ, thay vào đó là nghĩa khái niệm hoàn toàn mới được nhìn từ góc độ quân sự: khu vực tác chiến có những thuộc tính nhất định về địa bàn, sử dụng lực lượng phương tiện, triển khai đội hình, cách đánh (Cục khoa học Quân sự – Bộ Tổng tham mưu, 1985). Hai là, kết hợp các đơn vị có sẵn trong vốn từ toàn dân với nhau hoặc kết hợp với một yếu tố thuật ngữ để tạo thành thuật ngữ quân sự. Những đơn vị kiểu này bao giờ cũng là các từ ghép. Ví dụ: bãi, cụm, điểm, đoạn, nhóm là các đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ, chúng chưa phải là thuật ngữ mà chỉ là yếu tố đi kèm với mìn, pháo binh, tựa, đột kích, chiến thuật để tạo nên các thuật ngữ: bãi mìn, cụm pháo binh, điểm tựa, đoạn đột kích, nhóm chiến thuật (Trung tâm từ điển bách khoa Quân sự – Bộ Quốc phòng, 2004). 2.1.2. Thuật ngữ quân sự vay mượn từ các ngành khoa học khác Khoa học quân sự là khoa học mang tính tổng hợp cao vì nó nghiên cứu, phân tích một hiện tượng cực kỳ phức tạp mà biểu hiện đặc trưng nhất là đấu tranh vũ trang. Khi nghiên cứu hiện tượng này, khoa học quân sự phải vận dụng nhiều tri thức và phương pháp của các ngành khoa học khác như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật. Vì vậy để tích hợp từ ngữ cho mình, khoa học quân sự ngoài việc tiếp thu những thành tựu 14 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ của các khoa học liên ngành còn dùng luôn các thuật ngữ của các ngành khác làm thuật ngữ của mình. Ví dụ: hóa học, hợp chất, phốt pho, chất cháy, chất lỏng, phương tiện vận tải, công trình, hạn ngạch, cấu kiện, độ bền, nhân cách, tình cảm Ngày nay, cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực quân sự ngày càng nhiều. Bởi vậy ngày càng có nhiều thuật ngữ của các ngành chuyên môn khoa học khác được tiếp nhận vào hệ thuật ngữ quân sự. Chính vì vậy mà thuật ngữ quân sự luôn mang tính tổng hợp cao. Nhưng cũng phải khẳng định rằng, khoa học quân sự là khoa học xã hội nên số lượng thuật ngữ thuộc các ngành khoa học xã hội vẫn chiếm tỉ lệ cao. 2.1.3. Thuật ngữ quân sự được hình thành từ sự vay mượn tiếng nước ngoài Vay mượn yếu tố Hán-Việt Từ gốc Hán là những từ vốn của tiếng Hán nhưng được người Việt mượn để dùng như tiếng Việt. Khi vào tiếng Việt những từ này được đọc theo âm của tiếng Việt và được hiểu theo cách của người Việt nên gọi là từ Hán-Việt. Lúc đầu từ gốc Hán vào Việt Nam bằng con đường khẩu ngữ, đến đời Đường thì bằng cả khẩu ngữ lẫn sách vở. Yếu tố Hán-Việt là những từ tố trong từ vựng của tiếng Hán được người Việt mượn để cấu tạo nên những từ mới như: thể công, thúc bách, sản xuất, pháo tép, hình mẫu, vô ích, vô bổ. Vay mượn là hiện tượng ngôn ngữ phổ biến đối với những dân tộc, có những mối quan hệ nhất định với nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Sự vay mượn diễn ra theo những qui tắc, những nguyên nhân bên ngoài và bên trong. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến những nguyên nhân bên trong bản thân ngôn ngữ của lĩnh vực quân sự. Vay mượn do nhu cầu muốn chính xác hóa nội dung khái niệm. Chẳng hạn, dùng đánh tao ngộ thì chính xác hơn đánh gặp gỡ, dùng tiền bối thì chính xác hơn người trước, dùng mâu thuẫn chính xác hơn chống lại nhau. Vay mượn do nhu cầu phải đặt tên sự vật hiện tượng mới mà tiếng Việt chưa có tên, chẳng hạn như độc lập, tự do, thủ phạm, hình sự, cộng sản, cường độ, anh hùng. Vay mượn để thay thế, đảm bảo sự gọn gàng cho thuật ngữ. Dùng phi tài sản thay cho không có tính chất tài sản, phi quân sự thay cho không có tính chất quân sự, phi pháp thay cho trái pháp luật, phi lộ thay cho lời trình bày mở đầu (dọn đường). Yếu tố Hán-Việt chiếm số lượng lớn nhất (1845) chiếm 99, 8 % trong cấu tạo 1700 thuật ngữ quân sự tiếng Việt (Trung tâm từ điển bách khoa Quân sự – Bộ Quốc phòng, 2004). Chúng làm nên bộ mặt cơ bản của hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Thuật ngữ do các yếu tố này tạo thành mang những đặc điểm lý tưởng, có nhiều ưu điểm nhất, đáp ứng tiêu chuẩn của thuật ngữ. Các yếu tố Hán-Việt được chia thành 2 loại lớn, loại có khả năng kết hợp trực tiếp với nhau để tạo ra thuật ngữ và loại chỉ là thành tố của từ ghép hoặc cụm từ thuật ngữ. Vay mượn yếu tố Hán làm phong phú thêm thuật ngữ diễn ra bằng nhiều con đường, nhiều nguyên nhân. Cách vay mượn cũng diễn ra theo những phương thức khác nhau. Mượn y nguyên thuật ngữ Hán nhưng đọc theo âm Hán-Việt: trực thăng, phi cơ, không phận, hải phận. Mượn ý rồi chuyển dịch sang tiếng Việt. Những từ vay mượn bằng phương thức này thường là những từ có từ hai âm tiết trở lên: trực thăng = lên thẳng; hỏa xa = xe lửa; phi cơ = máy bay; phi trường = sân bay; hồng thập tự = chữ thập đỏ; không phận = vùng trời; tu chính chủ nghĩa = chủ nghĩa xét lại; hỏa đầu quân = chiến sĩ nuôi quân. Mượn từ tố Hán- Việt để cấu tạo từ. Đây là phương thức rất phổ biến, thường diễn ra trong cấu tạo thuật ngữ khoa học. Trong khi cấu tạo thuật ngữ quân sự tiếng Việt, yếu tố Hán-Việt vẫn mang sắc thái ý nghĩa của nó. Vị trí của nó ở trong cấu tạo từ có thể đứng trước hoặc đứng sau yếu tố thuần Việt. Khi tách ra khỏi từ, chúng ít có khả năng đứng độc lập, nhưng khi kết hợp với các từ tố khác để tạo thành từ, chúng lại dễ trở thành hệ thống. Chẳng hạn, hóa trong quân 15KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v sự hóa, chiến tranh hóa, kế hoạch hóa, qui hoạch hóa; vô trong vô thừa nhận, vô trách nhiệm, vô tổ chức; phi trong phi quân sự, phi chính phủ, phi giới tuyến, phi chính trị. Mượn từ tiếng Hán kết hợp với từ tiếng Việt để tạo ra từ mới có nghĩa khái quát. Ví dụ: binh lính, giống nòi, lính chiến, súng trường, tàu hỏa, kịp thời. Mượn ý và nghĩa của từ nhưng đọc theo âm Việt. Đây là những từ thường được gọi là từ Hán-Việt. Những từ này khó có thể thay thế bằng từ thuần Việt vì nếu thay thường phải giải thích dài dòng. Mặt khác chúng cũng được dùng quen, và tồn tại trong tiếng Việt một cách khá vững chắc. Chẳng hạn: tái sản xuất, độc lập, tích cực, tiêu cực, hệ quả, kết cấu, xung kích, chiến sĩ, cách mạng Mượn từ Hán-Việt rồi đổi trật tự theo ngữ pháp tiếng Việt. Ví dụ: chỉ huy sở -> sở chỉ huy; cao điểm -> điểm cao; dân số -> số dân; ảnh ảo -> ảo ảnh Việc sử dụng yếu tố Hán-Việt để cấu tạo thuật ngữ quân sự rõ ràng là điều cần thiết để đảm bảo tính hệ thống, ngắn gọn, chính xác và tạo ra khả năng sản sinh của thuật ngữ. Đó là một qui luật tất yếu khách quan, là một hiện tượng xã hội phù hợp với sự vận hành của ngôn ngữ. Vay mượn yếu tố có nguồn gốc Ấn-Âu Dân tộc Việt Nam có một lịch sử đặc biệt, trải qua mấy nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nhất là những cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Vì vậy, sự vay mượn hay tự giác tích hợp một cách tự nhiên những thuật ngữ Ấn- Âu vào thành phần của mình là điều hiển nhiên. Trong quá trình đó, thuật ngữ quân sự đã nảy sinh nhiều nét sáng tạo độc đáo cả về số lượng lẫn chất lượng. Số lượng tăng nhanh một cách đáng kể, còn chất lượng đã được Việt hóa cao độ cả về ngữ âm và chữ viết. Trong 1700 thuật ngữ quân sự, có 8 yếu tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, chiếm 0,05% (Trung tâm từ điển bách khoa Quân sự – Bộ Quốc phòng, 2004). Các nguồn vay mượn chủ yếu là từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Đức. Những thuật ngữ gốc Pháp được Việt hóa cao đến mức, ngày nay nhiều người Việt khó có thể phân biệt nó với các thuật ngữ thuần Việt. Ví dụ: bom, mìn, tăng, bi đông, boong ke, phốt pho. Các thuật ngữ tiếng Anh và tiếng Đức lại được vay mượn chủ yếu từ lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Chẳng hạn, những thuật ngữ tercom, toornađô, la de, được mượn từ tiếng Anh, các thuật ngữ lô cốt, gextapô mượn từ tiếng Đức. Các thuật ngữ được vay mượn từ tiếng Nga phần lớn được dịch nghĩa sang tiếng Việt, ví dụ: ổ đề kháng, phòng ngự gấp, sóng xung động. Khi mượn thuật ngữ gốc Ấn- Âu, thuật ngữ quân sự, sử dụng nhiều phương thức cấu tạo từ để các thuật ngữ phù hợp với qui luật ngữ âm ngữ nghĩa tiếng Việt. Đó có thể là phương thức phiên âm các thuật ngữ có sẵn trong ngôn ngữ Ấn-Âu như: na- pan, kê-pi, mooc-chi-ê, cac-bin, sờ cút, đó cũng có thể là phương thức ghép một yếu tố Ấn-Âu với từ ngữ có sẵn trong tiếng Việt: bốt gác, bom ba càng, mìn chống tăng. Thuật ngữ quân sự được hình thành từ các yếu tố có nguồn gốc hỗn hợp Những thuật ngữ kiểu này có lẽ chiếm số lượng nhiều nhất trong thuật ngữ quân sự, bởi qui luật của nó tuân theo phương thức cấu tạo từ chủ yếu trong tiếng Việt là phương thức ghép. Ghép là phương thức cấu tạo từ căn cứ vào số lượng hình vị cấu tạo nên từ. Đó là cách thức ngôn ngữ tác động vào hai hay nhiều hình vị, kết hợp chúng lại với nhau để cho ta các từ mới. Tiếng Việt có hai loại từ ghép là ghép đẳng lập và ghép chính phụ. Thuật ngữ quân sự cũng sử dụng hai phương thức này. Về ngữ nghĩa, phương thức ghép đẳng lập tạo ra những từ có nghĩa khái quát như co cụm, vây giáp, chiến tuyến, phòng thủ, bao vây, chia cắt, cấp bậc, binh lính, đột phá. Theo thống kê của chúng tôi, số lượng ghép đẳng lập trong thuật ngữ chiếm số lượng không nhiều (7 thuật ngữ, tương đương 0,4%). Tuy vậy, số lượng từ ghép chính phụ bao giờ cũng nhiều hơn, phổ biến hơn, bởi đặc trưng ngữ nghĩa của các thành tố tham gia cấu tạo có khả năng sản sinh ngữ nghĩa và ngữ pháp lớn hơn. Đây là loại thuật ngữ chiếm số lượng nhiều nhất 1550 /1700 thuật ngữ, tương đương 92,2%. (Nguồn: Trung tâm từ điển bách khoa quân sự – 16 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ Bộ Quốc phòng, 2004). Khi sử dụng phương thức ghép để sản sinh từ ngữ, thuật ngữ quân sự thường kết hợp những yếu tố có sẵn kết hợp với yếu tố Hán- Việt: bao vây, co cụm, canh gác, binh lính hoặc yếu tố gốc Hán-Việt kết hợp với yếu tố Ấn- Âu như bãi mìn định hướng, ra-đa cảnh giới, trực thăng tìm diệt. Điều đáng lưu ý trong phương thức ghép của thuật ngữ quân sự là ngoài cách ghép thông thường, hệ thuật ngữ còn tồn tại phương thức ghép bậc hai. Ghép bậc hai là hai từ ghép đứng kề cận trên trục tuyến tính có thể tiếp tục liên kết lại với nhau để tạo ra một đơn vị từ mới (Bùi Thị Thanh Lương, 2006, tr.80). Ví dụ: thủy quân lục chiến, dẫn chứng chiến đấu, chiến tranh nhân dân, chiến tranh hạt nhân, trực ban chiến đấu, sĩ quan chỉ huy.Trong khi ghép các yếu tố ngôn ngữ với nhau, cấu trúc nội tại của thuật ngữ ngoài các thực từ còn thêm các hư từ: yểm hộ bằng đường không, trang bị theo biên chế, khả năng bảo vệ của xe tăng, sơ đồ báo cáo về địch, tính tích cực của phòng ngự, tính chất ngụy trang của địa hình. Do có những đặc điểm trên nên cấu tạo của thuật ngữ có xu hướng nghiêng về các cụm từ tự do, quan hệ giữa các thành tố trong thuật ngữ lỏng lẻo hơn quan hệ giữa các thành tố trong từ ghép thông thường. Nhưng chính đặc điểm này cũng tạo cho thuật ngữ một ưu thế lớn là có khả năng sản sinh từ ngữ cao để tạo ra những nhóm thuật ngữ có tính hệ thống. Ví dụ: chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân, chiến tranh hạt nhân, chiến tranh vùng Vịnh. 2.2. Một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Khoa học Quân sự 2.2.1. Thực trạng việc dạy thuật ngữ quân sự cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Khoa học Quân sự Hiện nay, thuật ngữ quân sự là môn học cơ sở ngành đối với nhóm ngành đào tạo ngoại ngữ quân sự, nhóm thực hành tiếng và Việt Nam học (Học viên quân sự nước ngoài) tại Học viện Khoa học Quân sự với mục đích nhằm cung cấp những kiến thức lý luận ngôn ngữ học và cung cấp vốn từ về thuật ngữ quân sự – một lớp từ vựng chuyên biệt trong hệ thống từ vựng của tiếng Việt. Đây là một môn học khó đòi hỏi cả người dạy và người học phải có kiến thức về khoa học quân sự. Thực tế, việc dạy và học thuật ngữ quân sự tiếng Việt đang gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt việc dạy thuật ngữ quân sự đối với học viên quân sự nước ngoài. Thứ nhất, đội ngũ cán bộ giáo viên của khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam tại Học viện Khoa học Quân sự phần lớn được đào tạo từ các trường đại học bên ngoài quân đội với các chuyên ngành ngôn ngữ, văn hóa, phương pháp giảng dạy tiếng Việt. Mặc dù họ đã được trang bị kiến thức quân sự qua các lớp đào tạo ngắn hạn, song có thể thấy kiến thức về lý luận quân sự và kiến thức đúc kết từ các hoạt động thực tiễn quân sự còn hạn chế. Mặt khác, do đặc thù riêng, các chuyên ngành quân sự đòi hỏi tính bảo mật cao, vì vậy, có rất nhiều thuật ngữ chỉ được sử dụng và diễn đạt ý nghĩa trong nội bộ, không được phổ biến, sử dụng rộng rãi. Thứ hai, về hệ thống giáo trình, tài liệu. Từ năm 2002, Học viện đã biên soạn và đưa vào sử dụng cuốn giáo trình Thuật ngữ quân sự và chỉ dành riêng giảng dạy cho đối tượng học viên quân sự Việt Nam. Tuy nhiên, do sự phát triển của đối tượng đào tạo và qua hơn 10 năm sử dụng, giáo trình bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cần thiết phải bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện cho phù hợp với sự vận động, phát triển của thực tế ngôn ngữ và đáp ứng nhu cầu của đối tượng đào tạo. Năm 2014, hai cuốn giáo trình Thuật ngữ quân sự tiếng Việt và Tiếng Việt quân sự được biên soạn dành riêng cho đối tượng học viên quân sự nước ngoài. Có thể nói, hai cuốn giáo trình trên bước đầu đã khắc phục được tình trạng chỉ trang bị hệ thống lý luận mà chưa đề cập, cung cấp và sử dụng các thuật ngữ quân sự theo hướng thực hành. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển như vũ bão của quân sự trên thế giới như hiện nay, nhu cầu tìm hiểu về quân sự của đối tượng học viên này càng ngày càng lớn. Số lượng 17KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v giáo trình tiếng Việt quân sự như vậy là chưa đủ, phải nhanh chóng cập nhật thêm hệ thống tài liệu bổ trợ về thuật ngữ quân sự là vô cùng cần thiết. Thứ ba, về học viên. Có rất nhiều vấn đề được đặt ra từ phía học viên: - Họ đến từ quân đội nhiều nước trên thế giới với rất nhiều các loại trình độ về tiếng Việt. Có nhóm đối tượng chưa từng được tiếp xúc với tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, có nhóm đã được đào tạo tại bản địa khoảng từ 3-6 tháng, có nhóm đã được đào tạo cử nhân, thậm chí cả tiến sĩ ngôn ngữ, song nhìn chung, kiến thức về tiếng Việt của họ chưa đáp ứng yêu cầu về nhiều mặt. - Hệ thống cấu âm của mỗi học viên ở các đất nước, các khu vực rất khác nhau, có ngôn ngữ có thanh điệu, có ngôn ngữ không có thanh điệu giống tiếng Việt. Do đó, việc phát âm của họ gặp rất nhiều khó khăn. - Mục đích học tiếng Việt của mỗi học viên là khác nhau. Việc học thuật ngữ quân sự tiếng Việt cũng do đó mà tùy thuộc vào nhu cầu và sự hứng thú của học viên. 2.2.2. Một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Khoa học Quân sự Trước thực trạng vừa nêu ở trên, việc dạy thuật ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài cần lưu ý một số vấn đề sau: - Yêu cầu với người dạy: + Nắm vững đối tượng, xây dựng kế hoạch rõ ràng, yêu cầu mức độ kiến thức đối với từng loại đối tượng + Có khả năng thông hiểu và diễn đạt rõ ràng các khái niệm quân sự + Nắm được những đặc trưng cơ bản của khái niệm quân sự + Gắn thuật ngữ quân sự với hoàn cảnh quân sự + Có khả năng ứng xử phù hợp với những vấn đề nhạy cảm trong hoạt động quân sự + Không ngừng học tập nâng cao kiến thức về quân sự - Yêu cầu với người học: + Có trình độ tiếng Việt C trở lên + Có khả năng thông hiểu khái niệm quân sự + Có khả năng tri nhận về sự vật hiện tượng trong lĩnh vực quân sự trên cơ sở văn hóa Việt Nam - Nguyên tắc dạy và học: + Đảm bảo tính hệ thống: Giáo trình cần được xây dựng theo hệ thống kiến thức từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. + Đảm bảo tính cơ bản, chuyên sâu. Mỗi bài sẽ bắt đầu từ mục từ mới, cung cấp từ khó để học viên ghi nhớ và thực hành, tiếp theo là các bài nghe, nói, đọc, viết. Đó là các dạng: dựa vào bài đọc để trả lời câu hỏi, tìm nghĩa cho đoạn văn trong bài, điền từ vào chỗ trống, tìm câu trả lời đúng, tìm nghĩa của từ cho trước, tóm tắt đoạn văn, viết đoạn văn. Trên cơ sở đó trang bị các kiến thức về lý luận về thuật ngữ quân sự tiếng Việt. + Đảm bảo tính phù hợp: Nội dung cần đề cập đến các lĩnh vực quân sự và các hoạt động quân sự thời hiện đại như các phương tiện, vũ khí trang bị của các quân binh chủng, công tác tổ chức tác chiến, những chiến dịch lịch sử trong chiến tranh thời hiện đại, các quan điểm và xu thế quân sự quốc phòng của thế giới hiện nay. 3. KẾT LUẬN Tích hợp các con đường để làm giàu hệ thống là con đường có tính qui luật của ngôn ngữ nói chung và thuật ngữ quân sự nói riêng. Từ khi được hình thành đến nay, thuật ngữ quân sự luôn luôn tìm nhiều con đường mới để bổ sung vốn từ của mình. Mặt khác, tích hợp thuật ngữ cũng góp phần không nhỏ vào việc chuẩn hóa thuật ngữ theo 18 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ hướng hiện đại, dân tộc, khoa học, chính xác và tiện dùng. Khoa học quân sự đang ngày càng hiện đại hóa để đáp ứng công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Muốn đổi mới quân đội về mọi mặt thì thuật ngữ phải đi trước một bước, phải hạn chế bớt những yếu tố không chính xác, những yếu tố dài dòng, những yếu tố không đồng nhất trong cách sử dụng. Con đường tích hợp thuật ngữ như vậy sẽ giúp cho nó gần gũi, gắn bó hơn với toàn dân. Mặt khác, con đường tích hợp thuật ngữ quân sự như vậy sẽ giúp quá trình giảng dạy tiếng Việt quân sự cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Khoa học Quân sự ngày càng hiệu quả hơn./. Tài liệu tham khảo: 1. Đỗ Hữu Châu ( 2007), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội 2. Bùi Thị Thanh Lương (2006), Từ ngữ mới tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngôn ngữ, Viện Ngôn ngữ, Hà Nội. 2. Chu Bích Thu (2001), “Giới thiệu sơ lược về từ điển và từ điển học Việt Nam”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 14, tr.12-26. 3. Cục khoa học quân sự – Bộ Tổng tham mưu (1985), Từ điển giải thích thuật ngữ quân sự, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. 4. Vũ Quang Hào (1991), Hệ thống thuật ngữ quân sự tiếng Việt, đặc đặc điểm và cấu tạo thuật ngữ, Luận án Phó tiến sĩ, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội. 5. Hoàng Văn Hành (1993), “Về sự hình thành và phát triển của thuật ngữ tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr.2-9. 6. Hà Quang Năng (2010), “Đặc điểm của thuật ngữ tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 3, tr.12-23. 7. Nguyễn Đức Tồn (chủ biên, 2016), Thuật ngữ học tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Trung tâm từ điển bách khoa quân sự – Bộ Quốc phòng (2004), Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. 9. Hoàng Phê (chủ biên, 1988), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. FORMATION OF VIETNAMESE MILITARY TERMS AND SOME CONCERNS WHEN TEACHING VIETNAMESE MILITARY TERMS TO FOREIGN MILITARY STUDENTS TRAN THI HA Abstract: The Vietnamese military term is terminology special class subordinating to the population lexical system. The Vietnamese military terms are based on different lexical resrources. With the regard to the forming elements of these above terms, the atircle aims to sumarize the ways of forming Vietnamese military terms, namely from the general Vietnamese vocabulary, from different scientific disciplines and borrowing from foreign words. Keywords: formation, military practitioners, military term, Vietnamese Received: 30/9/2017; Revised: 18/10/2017; Accepted for publication: 15/11/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf102_7605_2137287.pdf
Tài liệu liên quan