Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: Chương III - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam I. Quan điểm chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về công tác thẩm định dự án đầu tư: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, giữ vị thế là một trong những ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam, giữ vai trò chủ đạo về lĩnh vực đầu tư và phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong đó vị trí của đầu tư phát triển rất quan trọng được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là ngân hàng phục vụ trong lĩnh vực này. Vì vậy đây là một thuận lợi lớn, một thời cơ quan trọng cho Ngân hàng. Nhu cầu vốn phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước rất lớn, đòi hỏi vốn dài hạn để phục vụ cho các dự án đầu tư. Mà trong điều kiện hiện nay điều đó mâu thuẫn với khả năng vốn sẵn có của Ngân hàng. Điều này đặt ra cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Na...

doc20 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương III - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam I. Quan điểm chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về công tác thẩm định dự án đầu tư: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, giữ vị thế là một trong những ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam, giữ vai trò chủ đạo về lĩnh vực đầu tư và phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong đó vị trí của đầu tư phát triển rất quan trọng được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là ngân hàng phục vụ trong lĩnh vực này. Vì vậy đây là một thuận lợi lớn, một thời cơ quan trọng cho Ngân hàng. Nhu cầu vốn phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước rất lớn, đòi hỏi vốn dài hạn để phục vụ cho các dự án đầu tư. Mà trong điều kiện hiện nay điều đó mâu thuẫn với khả năng vốn sẵn có của Ngân hàng. Điều này đặt ra cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam phải sử dụng nguồn vốn đầu tư sao cho xuyên suốt và có hiệu quả trong những tư tưởng quan điểm chỉ đạo trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cố gắng cao nhất, đáp ứng có hiệu quả và thông minh nhất đòi hỏi về vốn và dịch vụ ngân hàng cho đầu tư phát triển. Mục đích này được đề ra nhằm tiếp tục giữ vững và củng cố vị trí, vai trò của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong đầu tư phát triển. Tranh thủ thời cơ, thuận lợi đưa mọi hoạt động của toàn hệ thống tăng trưởng, phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, hiệu quả hơn. Phát huy yếu tố nội lực, chủ động sáng tạo tìm giải pháp, tìm lối ra trong điều kiện khó khăn. Có bản lĩnh cốt cách trong kinh doanh ngân hàng, có thái độ, quan điểm rõ ràng trước những hiện tượng kinh tế, trong việc đánh giá về hiệu quả của các dự án đầu tư phát triển; đồng thòi tăng cường sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành để cùng tháo gỡ khó khăn cho sản xuất và cùng với ngân hàng chấp hành đúng quy định của pháp luật. Để đạt được điều này công tác thẩm định luôn phải có những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trong năm 2001- 2002, Ngân hàng luôn đặt ra việc nâng cao năng lực nhận biết đánh giá khách hàng, đánh giá dự án, phương án vay vốn, năng lực dự báo các rủi ro tiềm ẩn; đặc biệt trong công tác thẩm định, xem xét phán quyết cho vay..., tiếp tục đổi mới công nghệ thẩm định xét duyệt phán quyết, ký hợp đồng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng: Tập trung năng lực, trí tuệ của toàn bộ hệ thống, tiếp tục đổi mới cách thẩm định, xem xét, duyệt phán quyết, ký hợp đồng tín dụng nhanh, chất lượng tốt, giải ngân nhanh, kiểm tra sử dụng vốn đúng mục đích... đối với những dự án then chốt, trọng điểm của nền kinh tế quốc dân có sự chỉ đạo của Nhà nước. Quán triệt thực hiện có hiệu quả ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải trong hội nghị 6 tháng đầu năm 1997 của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay của Ngân hàng phục vụ sản xuất cần giải quyết có trọng tâm, trọng điểm và theo 3 tiêu chuẩn: + Làm ăn có hiệu quả, có lãi. + Sản phẩm tiêu thụ được. + Doanh nghiệp có thể nộp nghĩa vụ với ngân sách. Kiên quyết từ chối những dự án, khoản vay không có hiệu quả, không đủ điều kiện trả nợ gốc và lãi vay ngân hàng. Tiếp tục đổi mới cách nắm thực chất dư nợ tín dụng các loại trong hoạt động của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam từ cơ sở đến toàn bộ hệ thống, bao gồm: thực chất dư nợ, thực chất nợ quá hạn, nợ khó đòi của từng khách hàng, từng khoản vay, từng dự án vay; nguyên nhân và kế hoạch, giải pháp xử lý. II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ tăng trưởng mạnh có khả năng thu hút vốn đầu tư rất lớn để hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, hiện đại hoá sản xuất, thu hút được việc làm cho hàng chục triệu lao động. Theo dự báo của nhà nước trong kế hoạch 2001 - 2005 nhu cầu về vốn đầu tư lên tới 49- 51 tỷ USD với mức tăng thêm: Năm 2001: 12 tỷ USD Năm 2002: 13 tỷ USD Năm 2003: 15 tỷ USD Năm 2004: 16 tỷ USD Năm 2005: 17 tỷ USD. Những con số thống kê ở trên thể hiện nhu cầu về nguồn vốn đầu tư là: 50% trong nước và 50% ngoài nước. Với nhu cầu về vốn đầu tư lớn như vậy, đòi hỏi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam phải có một nguồn vốn lớn và cấp bách cho các dự án sắp tới. Điều này lại càng khẳng định vai trò quan trọng và cần thiết của công tác thẩm định đầu tư tín dụng ngân hàng. Để nâng cao hiệu quả của công tác này, phải có những giải pháp thoả đáng để kịp thời giải quyết vấn đề trên. 1. Đối với Ngân hàng: 1.1. Hoàn chỉnh về tổ chức bộ máy thẩm định cũng như việc điều hành và quy chế thẩm định: Hiện nay khi một dự án xin vay vốn chuyển từ dưới các chi nhánh lên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung Ương (TW) thì việc xem xét, đánh giá dự án là công việc của 3 phòng: Phòng Thẩm định - Tư vấn đầu tư; Phòng nguồn vốn kinh doanh và tiếp thị; Phòng tín dụng, trong đó phòng Thẩm định - Tư vấn đầu tư giữ vai trò chủ chốt và ra quyết định chính. Để cho việc thẩm định dự án thật sự có hiệu quả, đảm bảo khả năng sinh lời và độ an toàn cho đồng vốn, quá trình thẩm định dự án phải được chú trọng ở cả 3 phòng trên. Sau khi xem xét xong dự án, cả 3 phòng phải có bản báo cáo thẩm định trình lên ban lãnh đạo xem xét giải quyết. Thông qua 3 bản báo cáo trên ban lãnh đạo có thể rút ra được kết luận chung nhất, đúng đắn nhất về dự án có khả thi hay không. Qua thực tế của mô hình tổ chức, có thể thấy quy chế điều hành tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển TW đã áp dụng trong thời gian qua cần được phát huy: - Chuyển hẳn hoạt động của bộ máy Ngân hàng Đầu tư và Phát triển TW hướng về cơ sở, bám sát cơ sở nhằm phục vụ tốt, chỉ đạo sát trực tuyến, nắm tình hình thông tin và xử lý thông tin, nghiệp vụ nhanh nhạy, tập trung kịp thời. - Hướng hoạt động của bộ máy Ngân hàng Đầu tư và Phát triển TW vào việc phục vụ quản lý các đối tượng: Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển các tỉnh, thành phố, các khách hàng lớn và khách hàng chủ yếu của ngân hàng (Các Tổng công ty Nhà nước có dự án vay vốn lớn và các tổng công ty xây lắp vay cả vốn đầu tư dài hạn, trung hạn, ngắn hạn...) - Thực hiện nguyên tắc mỗi đồng vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cho vay đều có người chịu trách nhiệm từ cơ sở đến Ngân hàng Đầu tư và Phát triển TW với những giác độ và cấp độ khác nhau, có người trực tiếp phục vụ và theo dõi quản lý chịu trách nhiệm tại cơ sở, có người gián tiếp phục vụ và theo dõi quản lý chịu trách nhiệm tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển TW. Cũng như cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển TW nên phân công quản lý địa bàn và quản lý Tổng công ty. + Cán bộ quản lý địa bàn: Cần chú trọng việc nắm vững toàn bộ nhiệm vụ, khối lượng nghiệp vụ của chi nhánh, cũng như nắm thật vững những khách hàng chủ yếu của chi nhánh. Vì vậy khi chi nhánh chuyển dự án xin vay từ dưới lên thì trên trung ương cùng với chi nhánh thẩm tra trình duyệt cho vay và theo dõi thu nợ các dự án. + Cán bộ quản lý Tổng công ty: Mỗi cán bộ thuộc nhóm này sẽ thẩm định, trình duyệt các khoản vay, dự án đầu tư (trong và ngoài kế hoạch) của Tổng công ty mình phụ trách, hạn mức tín dụng ngân hàng đối với từng đơn vị thành viên. Kiểm tra thực hiện cho vay thu nợ dự án của Tổng công ty. Đồng thời thông tin kịp thời về Tổng công ty, quản lý an toàn hệ thống. Tính pháp lý, tính đúng dắn, tính chính xác, tính hiện thực phải được đặt ra xuyên suốt trong việc thẩm định các khoản vay, dự án vay, không chỉ đối với chuyên gia tín dụng, mà cả đối với người lãnh đạo trước khi ra quyết định cuối cùng. Mọi việc phán quyết cho vay đều phải qua khâu thẩm định, tuyệt đối cấm việc “khóan trắng“ hoặc hiểu sai lệch lẫn lộn khái niệm “một cửa“ với việc phán quyết cho vay do một cá nhân định đoạt quyết định. Một vấn đề quan trọng nữa để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư đó là việc gắn liền với trách nhiệm của cán bộ thẩm định. Ngân hàng nên có những quy định cụ thể về trách nhiệm của mỗi người cán bộ thẩm định trước những đánh giá của mình đưa ra về dự án. Làm như vậy mới nâng cao được hiệu quả của công tác thẩm định và công tác thẩm định mới có cơ sở để tin cậy. 1.2. Nâng cao trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định: Thực tế các ngân hàng hiện nay cán bộ tín dụng chủ yếu chỉ chuyên sâu về cách tính các chỉ tiêu tài chính, còn việc nghiên cứu thị trường đánh giá hiệu quả dự án đối với toàn xã hội và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến kỹ thuật rất ít khi được đề cập đến. Nhưng quá trình công tác thẩm định đòi hỏi cán bộ thẩm định phải vận dụng các kiến thức ở trình độ cao về kinh tế, pháp luật trong và ngoài nước, về công nghệ kỹ thuật sản xuất kinh doanh, về thông tin thị trường, kiến thức về quản lý tài chính - tín dụng, ngoại hối và thanh toán quốc tế, hải quan, bảo hiểm, kiểm dịch, giám định có liên quan đến các phương diện của dự án. Nhưng thực tế sẽ không có cán bộ nào đáp ứng được đủ những tố chất trên. Để đạt được điều này ngân hàng cần có những biện pháp cụ thể: Để đảm bảo cho chất lượng của công tác thẩm định ngân hàng cần phải nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng kết hợp với việc xin ý kiến của các chuyên gia đối với các vấn đề chuyên môn khó. Ngân hàng thường xuyên thực hiện đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng, mở các cuộc kiểm tra trình độ cán bộ một cách thường xuyên, tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng và với các ngân hàng bạn, tìm các nguồn tài liệu tham khảo của nước ngoài... Những vấn đề trên thực sự là cần thiết và cấp bách trong thực tế hiện nay khi mà ngày càng có nhiều dự án đầu tư lớn và phức tạp. Việc đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ cán bộ thẩm định là công việc có thể làm được và phải làm thường xuyên. 1.3. Hoàn thiện hệ thống văn bản và các chỉ tiêu đánh giá dự án: Các Ngân hàng đều có ban hành những văn bản hướng dẫn thẩm định các dự án đầu tư trung, dài hạn của ngân hàng, trong các văn bản này nội dung thẩm định đã được trình bày tương đối đầy đủ, rõ ràng. Nhưng thực tế, trong báo cáo thẩm định mà ngân hàng đang làm còn thấy quá sơ sài về việc đánh giá các dự án. Vì vậy việc hoàn thiện, chi tiết hoá những vấn đề cần thiết trong các văn bản hướng dẫn thẩm định cũng như các báo cáo thẩm định là điều cần thiết. Các văn bản hướng dẫn thẩm định có đầy đủ chi tiết thì cán bộ thẩm định mới thực sự đánh giá đúng đắn chi tiết từng mặt của dự án. Báo cáo thẩm định phải đầy đủ thì Ban lãnh đạo mới nắm bắt được vấn đề cần xem xét khi phê duyệt cho vay đối với dự án. Bên cạnh việc hoàn thiện các văn bản thẩm định, các chỉ tiêu đánh giá dự án đầu tư cũng cần được hoàn thiện và lựa chọn khi thẩm định dự án. Trong công tác thẩm định tài chính nên sử dụng các chỉ tiêu có tính đến giá trị thời gian của đồng tiền (NPV và IRR). Ta có thể thấy vai trò của các chỉ tiêu đánh giá qua ví dụ sau: Theo dự án mua thiết bị thi công đường bộ của công ty vật tư thiết bị giao thông mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam đã xét duyệt cho vay ta có thể sử dụng chỉ tiêu NPV để đánh giá dự án như sau: - Tính NPV của dự án: 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Chi phí hàng năm (triệu đồng) 1500 1500 1500 1500 1500 t Lợi nhuận thuần (triệu đồng) 257 257 257 257 257 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Chi phí BQ/năm 1.500 1.500 1.500 1.500 1.500 1.500 D.thu TB năm 1.920 1.920 1.920 1.920 1.920 Thuế D. thu 77 77 77 77 77 Thuế lợi tức 86 86 86 86 86 L. nhuận thuần 257 257 257 257 257 PW 233,6 212,4 193,1 175,5 1091 Co 1500 Giá trị hiện tại ròng của dự án (NPV ) được xác định: -1500 + 257 + 257 + 257 + 257 + 1757 NPV = (1+0,1) (1+0,1)2 (1+0,1)3 (1+0,1)4 (1+0,1)5 =-1.500 + 233,6 + 212,4 + 193,1 + 175,5 + 1.091 =405,5>0 (Với lãi suất chiết khấu r=0,1) Như vậy: dự án trên có NPV >0 nghĩa là dự án tạo ra nhiều tiền hơn lượng cần thiết để trả nợ và cung cấp một lãi suất yêu cầu cho chủ đầu tư. Số tiền vượt quá đó thuộc về chủ đầu tư. Ngân hàng có thể cho vay vì dự án không chỉ trả được nợ mà còn mang lại lợi nhuận cho chủ dự án. Khi xem xét một dự án thì nếu chỉ tiêu NPV > 0 hoặc có IRR > r : chi phí của vốn được sử dụng để tài trợ cho dự án thì dự án sẽđược chấp nhận. Nếu xét 2 dự án loại trừ nhau thì nên dùng chỉ tiêu NPV, điều này có thể lý giải qua đồ thị sau: 400 NPV dự án B 300 NPV dự án A IRRA= 15% 7,5% IRRB = 12% r (%) Với chi phí vốn r = 7,5% hai dự án A và B cho cùng kết quả NPV (NPVA = NPVB ). Nếu A và B là 2 dự án độc lập thì tiêu chuẩn tính NPV và IRR luôn đưa ra cùng một kết luận. Tuy nhiên đây là 2 dự án loại trừ nhau nên chúng ta có thể chọn 1 trong 2. Theo đồ thị ta thấy nếu chi phí vốn r > 7,5% thì NPVA > NPVB đồng thời IRRA > IRRB. Do đó với r > 7,5% 2 phương pháp sẽ cho cùng một kết luận về việc lựa chọn dự án. Tuy nhiên với r < 7,5% thì phương pháp tính NPV xếp hạng dự án B trước trong khi phương pháp tính IRR xếp hạng dự án A cao hơn. Logic gợi ý rằng phương pháp tính NPV thích hợp hơn vì nó chọn dự án nào làm tối đa sự giàu có của người chủ sở hữu của Công ty. Hiện nay, khi xét duyệt thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, cán bộ thẩm định hầu như không dùng đến chỉ tiêu NPV để đánh gía. Trong khi chỉ tiêu NPV phản ánh được chi phí cho dự án, lợi nhuận thu được của dự án quy về giá trị hiện tại cần xem xét để so sánh đánh giá. Vì vậy, việc dùng chỉ tiêu NPV để đánh giá dự án là hết sức quan trọng và cần thiết. Nếu cán bộ thẩm định chỉ chú trọng đến chỉ tiêu thời gian trả nợ của dự án như hiện nay, không xem xét đánh gía được toàn diện dự án. Hơn nữa, mục tiêu của Ngân hàng không chỉ là cho vay sao thu hồi được vốn mà còn phải thu được một khoản lãi của số vốn đã bỏ ra và độ an toàn của đồng vốn cho vay đó. Do đó, dùng chỉ tiêu NPV không xem xét tính khả thi của từng dự án cụ thể mà còn có sự so sánh các dự án với nhau, để Ngân hàng quyết định đầu tư vào đầu thì an toàn và đạt kết quả nhất. 1.4. Đổi mới hoàn thiện quá trình thu thập thông tin và xử lý thông tin : Một trong những yêu cầu của công tác thẩm định nhằm tiếp cận khả năng trả nợ và bảo đảm an toàn vốn vay là phải có đầy đủ thông tin về đơn vị xin vay vốn. Nguyên nhân của hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư chưa cao là do yếu tố này quyết định. Hiện nay, nguồn thông tin duy nhất mà ngân hàng có được là do khách hàng cung cấp nhưng nguồn này lại không chính xác. Do đó ngân hàng có thể lấy thông tin bằng cách: - Phỏng vấn trực tiếp người xin vay và điều tra trực tiếp cơ sở sản xuất kinh doanh. Khi phỏng vấn phải biết làm rõ những thông tin về: mục đích, yêu cầu vay vốn, tính chân thật và khả năng trả nợ của người vay, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. - Tiến hành thu thập thông tin từ những nguồn từ bên ngoài do bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro cung cấp; sử dụng thông tin từ việc điều tra trực tiếp các đơn vị có liên quan trong hoạt động của doanh nghiệp... Ngân hàng nên thiết lập mối quan hệ với khách hàng lâu dài thì chi phí tập hợp thông tin và xử lý thông tin để đưa ra các kết luận cho vay chính xác sẽ giảm. Khi thông tin thu được, Ngân hàng phải có cách xử lý kịp thời, đúng đắn. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải hiểu rõ hiểu đúng việc sử dụng phương pháp hiện đại thẩm định dự án. Tóm lại thông tin là vấn đề sống còn của hiệu quả công tác thẩm định. Nâng cao chất lượng thẩm định không thể tách rời với việc nâng cao chất lượng thông tin. Do đó cán bộ tín dụng phải triệt để tận dụng các nguồn có khả năng cung cấp. - Hệ thống lưu trữ thông tin, dữ liệu rời rạc, thông tin thiếu độ tin cậy, không đủ độ nóng, làm cho công tác thẩm định tín dụng nhiều khi thiếu chính xác. - Cần xây dựng một hệ thống thông tin dữ liệu đầy đủ, chi tiết, chính xác với độ tin cậy cao, đủ độ nóng để phục vụ cho công tác thẩm định nói riêng và các công việc của Ngân hàng nói chung. - Việc xây dựng hệ thống lưu trữ thông tin dữ liệu có thể dựa trên cơ sở thông tin dữ liệu sẵn có hiện nay của Ngân hàng. - ở nội bộ Ngân hàng để xây dựng một hệ thống thông tin tín dụng hoàn hảo bằng cách tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vi tính để phân tích dự án, đặc biệt là sự lưu trữ các thông tin kinh tế kỹ thuật của các công trình xây dựng cơ bản trong cả nước tại phòng thẩm định của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Với mục đích để thông qua mạng vi tính các Ngân hàng cơ sở có thể khai thác những dữ liệu cần thiết mà trong phạm vi một Ngân hàng địa phương khó có thể cập nhật được. 2. Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: 2.1. Đối với Nhà nước: 2.1.1 - Việc thiết lập một hệ thống chính sách vĩ mô đầy đủ, đồng bộ và hợp lý đi đôi với khung pháp luật hoạt động hiệu quả là vấn đề đầu tiên và cần giải quyết: Cùng với hướng phát triển của nền kinh tế và khu vực, Việt Nam có nhu cầu lớn về đầu tư, cả về đầu tư cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng lẫn đầu tư cho các dự án khác. Bên cạnh một số dự án do Nhà nước đảm nhiệm còn các dự án khác thì luôn đặt ra vấn đề: Nguồn đầu tư ở đâu? Khu vực kinh tế tư nhân đang gặp khó khăn khi đầu tư ở các khâu bởi các quy chế, các đòi hỏi có liên quan đến cơ chế giấy phép. Đầu tư nước ngoài cũng gặp khó khăn về việc phân biệt với đầu tư trong nước... Việc có quá nhiều quy chế cũng như việc để các quan chức địa phương tùy tiện áp dụng các quy chế không những tạo cơ hội tham nhũng rộng khắp mà còn gây trở ngại cho việc tăng đầu tư. Những quy định, những điều khoản mập mờ cũng tạo cho cán bộ tín dụng rất khó khăn trong việc đánh giá tính pháp lý của hồ sơ xin vay. Điều này dẫn đến nạn tham nhũng, ô dù khi một số dự án tư nhân không đủ giấy tờ thì một số khác do quen biết lại xin được các chứng nhận cần thiết rõ ràng. Vì vậy cán bộ thẩm định mà chỉ nhìn vào con dấu và chữ ký thôi, thì có thể sẽ đưa ra những kết luận sai lầm. Mặc dù trên danh nghĩa các thành phần kinh tế được bình đẳng như nhau nhưng thực tế các quy chế đuực đưa ra lại tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp quốc doanh trong khi các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài vẫn còn bị phân biệt đối xử. Điều này làm cho doanh nghiệp quốc doanh không phát huy hết nỗ lực khả năng của mình để cải tiến sản xuất cũng như cơ cấu hoạt động. Môi trường kinh doanh bất bình đẳng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư bởi nó tạo ra tâm lý thiên vị cho các doanh nghiệp quốc doanh của cán bộ tín dụng. Đôi khi các doanh nghiệp có làm ăn thua lỗ thì vẫn có thể tìm đến các thể chế chính trị xin tự cấp để tiếp tục hoạt động hay trả nợ ngân hàng. Như vậy một cách gián tiếp cán bộ tín dụng đã bỏ qua những dự án có khả năng sinh lời cao hơn cuả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vì thế nguồn vốn đã bị sử dụng lãng phí. Để giảm được tình hình trên, Nhà nước cần xem xét lại các quy chế chính sách của mình tạo cho được môi trường kinh doanh bình đẳng đó là “ sân chơi đồng nhất “. Bên cạnh đó Việt Nam còn cần một hệ thống cơ chế chính sách ổn định, một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hiện có hoạt động một mặt thu hút thêm vốn đầu tư trong nước cũng như từ nước ngoài. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay rất cần các dự án lớn có thời hạn dài để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, do đó việc ổn định về cơ chế chính sách cho đầu tư là vấn đề hàng đầu cần được quan tâm. Để tạo điều kiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định, cùng với việc xã hội hoá đầu tư, quốc tế hoá đầu tư Chính phủ Việt Nam nên: Phê duyệt và công khai quy hoạch phát triển kinh tế xã hội các ngành, các địa phương, quy hoạch các vùng theo không gian mở. Tiến hành quy hoạch chi tiết theo chương trình các dự án đầu tư. Có sự sắp đặt lựa chọn các dự án theo không gian và thời gian. Nhà nước nên tổng hợp nghiên cứu, phân loại và xác định thứ tự ưu tiên. Quy hoạch nguồn vốn đầu tư cân đối với các chương trình dự án. Quy hoạch này chỉ rõ khả năng vận động tiếp nhận thu hút nguồn vốn, có tác dụng hướng dẫn chủ dự án nên thực hiện bằng nguồn vốn nào. Tiếp tục thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp và cá nhân chủ động tạo vốn tự chịu trách nhiệm vốn trên cơ sở dự án được duyệt. Bên cạnh đó là hoàn thiện các luật: Hoàn thiện áp dụng Luật Ngân hàng để gắn trách nhiệm của người vay vốn với pháp luật chặt chẽ Ban hành và hoàn thiện Luật đầu tư trong nước đã có cũng như nước ngoài Hoàn thiện chính sách sử dụng và quản lý đất đai trong lĩnh vực đầu tư Chính sách lãi suất phải được sửa đổi hợp lý kịp thời, tránh mọi kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng khi vay vốn. 2.1.2 - Hoàn thiện công tác kiểm toán - kế toán: Công tác kiểm toán - kế toán ở Việt nam còn rất lộn xộn đặc biệt với khu vực ngoài quốc doanh. Hiện nay ngoài một số doanh nghiệp nhà nước, một số doanh nghiệp tư nhân làm ăn lớn, liên quan đến hoạt động xuất khẩu có hoạt động kế toán nghiêm túc, tuân theo quy định của nhà nước. Còn lại hầu hết các doanh nghiệp tư nhân làm kế toán sơ sài, tuỳ tiện, chủ yếu là theo hình thức ghi sổ. Do đó việc đánh giá tài chính của các doanh nghiệp này là rất khó khăn. Tình trạng sổ ma cũng không phải là hiếm: một quyển gốc phản ánh tình hình kinh doanh thực tế; một quyển chuyên dùng để tính với phòng thuế, một quyển để đối phó với hoạt động kiểm tra của ngân hàng. Vì vậy cán bộ thẩm định rất vất vả khó khăn trong việc kiểm tra các số liệu kế toán của doanh nghiệp khi đưa lên vay vốn. Để có được số liệu thực tế của doanh nghiệp đòi hỏi cán bộ tín dụng phải lao động thực sự, có kinh nghiệm và trách nhiệm thì mới thu thập được những chỉ tiêu được tính ra có ý nghĩa phản ánh đúng thực trạng của các doanh nghiệp. Để dễ dàng cho công tác thẩm định cán bộ tín dụng có thể dựa vào các công ty kiểm toán. Nhưng ở Việt Nam, công ty kiểm toán Việt nam (VACO) còn non trẻ thiếu kinh nghiệm, một số công ty kiểm toán của nước ngoài chỉ phụ thuộc vào các liên doanh. Mặt khác các số liệu của VACO nhà nước cũng chưa có quy định gì về chế độ chính xác tối thiểu do đó Ngân hàng cũng không thể tin tưởng hoàn toàn vào số liệu do công ty kiểm toán đưa ra được. Chất lượng hiệu quả của công tác thẩm định dự án đầu tư chỉ được nâng cao khi nâng cao chất lượng của công tác kế toán. Để đạt được điều này Nhà nước cần phải có các văn bản pháp quy quy định các doanh nghiệp sử dụng hệ thống kế toán một cách đồng bộ, số liệu kế toán phải trung thực, đầy đủ. Bên cạnh đó phải thanh tra, kiểm tra sổ sách thường xuyên, để phát hiện xử lý kịp thời các doanh nghiệp vi phạm. Làm được điều này, số liệu của công tác kế toán, kiểm toán mới chính xác đủ để cho cán bộ tín dụng tin tưởng và ra các quyết định về dự án. 2.1.3. Hoàn thiện công tác công chứng: Các dự án vay vốn bao giờ cũng đi cùng với nhiều tài liệu có liên quan, điều này đòi hỏi phải có công tác công chứng. Công chứng các giấy tờ của doanh nghiệp như hồ sơ pháp lý, các giấy bảo lãnh, cầm cố tài sản... của doanh nghiệp. Việc công chứng sát thực có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Có thể nói trong những năm vừa qua những rủi ro đối với ngân hàng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tín dụng. Sự lỏng lẻo trong các biện pháp bảo đảm an toàn tín dụng (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) “đóng góp một phần không nhỏ cho những mất mát đó. Nguyên nhân ở đây là sự buông lỏng trong công tác công chứng tạo điều kiện cho cán bộ công chứng tham nhũng, nhận tiền của người đi vay vốn ngân hàng để xác nhận công chứng sai lệch về giá trị tài sản cầm cố bảo lãnh. Một trong những vụ điển hình là TAMEXCO, chính vì do công tác công chứng dẫn đến làm thất thoát hàng ngàn tỷ đồng cho ngân hàng. Việc tính phí công chứng hợp đồng cầm cố, thế chấp hiện nay chưa thống nhất, hiện nay các Phòng công chứng Nhà nước áp dụng 2 hình thức tính phí: Bằng 0,2% giá trị hợp đồng tín dụng hoặc bằng 0,2% giá trị hợp đồng thế chấp cầm cố. Do đặc điểm kinh doanh, việc vay vốn của ngân hàng diễn ra thường xuyên vì vậy việc tính phí nên quy định một mẫu cụ thể hợp lý trên cơ sở chứng thực của Công chứng là xác nhận năng lực của chủ thể ký kết hợp đồng, tính pháp lý của các văn bản ký kết và văn bản liên quan đến việc ký kết, để tránh đội giá đi vay cho doanh nghiệp lên quá cao. Để góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định công tác công chứng góp phần quan trọng trong việc xác minh, chứng thực các hồ sơ, giấy tờ, số liệu liên quan đến dự án. Vì vậy đề nghị Nhà nước phải nâng cao phẩm chất cán bộ công chứng cũng như hoàn thiện công tác này sao cho doanh nghiệp được tạo điều kiện nhanh nhất khi đi vay vốn ngân hàng. 2.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước: Sau Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam phân thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước & Hệ thống ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước với vai trò là người hướng dẫn điều tiết vĩ mô hoạt động ngân hàng. Hoạt động tín dụng mà trong đó có công tác thẩm định hoạt động theo các chính sách quy định của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy để làm tốt công tác thẩm định, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư Ngân hàng Nhà nước cũng phải có một số trách nhiệm sau: 2.2.1 - Củng cố hệ thống thông tin và cung cấp thông tin: Bên cạnh những thông tin bản thân ngân hàng có được, Ngân hàng Nhà nước phải cung cấp thêm cho ngân hàng những thông tin về khách hàng qua trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước như: lịch sử của doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, biến động của doanh nghiệp như sát nhập, giải thể, thay đổi giám đốc, Tổng giám đốc, kế toán trưởng, dư nợ tại các ngân hàng khác và các mối quan hệ với các ngân hàng khác. Từ đó ngân hàng có thể có những thông tin chi tiết và tổng thể về khách hàng. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước luôn phải thu thập những thông tin về các doanh nghiệp, khách hàng nhất là những doanh nghiệp lớn để có thể cung cấp cho các ngân hàng thương mại trong những hoàn cảnh cần thiết. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước thường xuyên kiểm tra, kiểm soát chế độ cung cấp thông tin của khách hàng tại các ngân hàng theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng của Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã ban hành. Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo đôn đốc các ngân hàng cập nhật thông tin khi có biến động của khách hàng. Như vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại, nhận thức công tác thông tin tín dụng là quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các Ngân hàng thương mại, góp phần phòng ngừa rủi ro trong toàn ngành. 2.2.2. Xây dựng hệ thống văn bản, chế độ thẩm định dự án ổn định: Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò là người hướng dẫn các ngân hàng, là ngân hàng của các ngân hàng. Đối với công tác thẩm định dự án, Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ xác lập môi trường pháp lý bao gồm các văn bản quy chế hướng dẫn nghiệp vụ chi tiết, đồng thời xem xét các chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái... để ngày một hoàn thiện hơn các chính sách này. Hệ thống văn bản cũng như chế độ thẩm định dự án mà Ngân hàng Nhà nước ban hành có ảnh hưởng đến quy trình thẩm định cũng như chất lượng của công tác này. Vì vậy trong thời gian tới khi mà số lượng dự án đầu tư ngày càng lớn thì yêu cầu đặt ra cho Ngân hàng Nhà nước là hoàn thiện các văn bản, chế độ thẩm định. Điều này giúp quá trình thẩm định của ngân hàng được nhanh, hiệu quả, chính xác phục vụ kịp thời cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3. Các giải pháp đối với phía khách hàng: Để công tác thẩm định dự án đầu tư được thuận lợi và nhanh chóng thì không thể chỉ có sự nỗ lực đơn thuần từ phía ngân hàng mà còn cần đến những cố gắng thực sự từ phía khách hàng cũng như các ngành có liên quan. Khách hàng cần có trách nhiệm khi đưa ra các thông tin cần thiết cho cho quá trình thẩm định, nghĩa là các số liệu thông tin phải trung thực, chính xác. Khi xây dựng dự án khách hàng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn của dự án. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện còn nghèo nàn và thiếu vốn cho sự phát triển. Vì vậy khi xây dựng dự án các khách hàng phải bám sát thực tế: dự án có khả năng thực hiện không, có phù hợp với tình hình của địa phương không? Dự án phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, không ảnh hưởng đến mục tiêu khác. Không nên xây dựng những dự án nằm ngoài khả năng của mình về vốn, trình độ kỹ thuật... Khi xây dựng dự án trình lên ngân hàng xin vay vốn phải có những số liệu về tình hình kinh doanh hoạt động của mình trong một số năm gần đây hoàn toàn chính xác, phải có sự chứng nhận của cơ quan thuế, kiểm toán. Bên cạnh những số liệu khách hàng đưa ra ngân hàng phải có sự xác minh tính đúng đắn về thông tin. Để làm được điều này doanh nghiệp cũng phải tạo điều kiện cho ngân hàng. Một điều quan trọng nữa ở phía khách hàng là cần tránh quan điểm, tư tưởng xây dựng dự án có giá trị cao để tranh thủ được cấp vốn lớn, vay nhiều. Nhất là đối với các dự án của doanh nghiệp Nhà nước không được lợi dụng các chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước để lập ra những dự án đòi hỏi vốn lớn để qua đó phát sinh những vấn đề tham nhũng như vụ Dệt Nam Định là một trong những ví dụ. Vì vậy công tác thẩm định hết sức quan tâm, thận trọng trước những thông tin số liệu khách hàng khi đưa ra vay vốn. Về phía các ngành có liên quan cần đưa ra những định mức kinh tế, kỹ thuật chính xác đồng thời thường xuyên điều chỉnh các định mức này cho phù hợp với thực tế. Khi cần thiết, các ngành có liên quan có thể phái các chuyên viên của mình tới giúp đỡ ngân hàng, cùng nhau xem xét, đánh giá dự án đầu tư xin vay vốn để đưa ra kết luận chính xác. Kết luận Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư là một trong những vấn đề cần thiết và cấp bách để nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Hiện nay ngày càng có nhiều dự án đầu tư với quy mô lớn và dài hạn gửi đến ngân hàng xin vay vốn, đặc biệt là ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển của đất nước. Đứng trước những dự án đó ngân hàng cần phải xem xét, đánh giá lựa chọn xem dự án nào mang lại hiệu quả cao nhất, khả thi nhất mà rủi ro lại thấp nhất - Đó là công việc của quá trình thẩm định dự án đầu tư tín dụng. Tuy nhiên đây là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều chủ thể cho nên đòi hỏi một sự nghiên cứu sâu sắc và những giải pháp đồng bộ lớn với sự quyết tâm nỗ lực thực hiện từ nhiều phía. Vì vậy nghiên cứu vấn đề này luôn là một vấn đề cần thiết và hữu ích. Song do kinh nghiệm và khả năng tiếp cận thực tế còn hạn chế, khả năng phân tích chưa được đầy đủ, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến như trên đây nhằm góp phần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Đầu tư và Phát Triển Việt Nam. o O o

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5. Chuong 3 va KL.doc
Tài liệu liên quan