Luận văn Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

Tài liệu Luận văn Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam: LUẬN VĂN: Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Lời mở đầu Xã hội loài người luôn biến đổi không ngừng: từ khi xã hội loài người còn là một xã hội sơ khai, nguyên thuỷ bây giờ đã trở thành một xã hội văn minh. Có như vậy là vì trong quá trình phát triển xã hội loài người đã trải qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau, các phương thức sản xuất đó ngày càng hoàn thiện. Như vậy để xã hội phát triển thì phải phát triển được quan hệ sản xuất mà yếu tố này lại được quy định bởi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển được là nhờ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Như vậy, một trong những con đường cải tạo xã hội nhanh nhất là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một giai đoạn phát triển tất yếu trong lịch sử phát triển của hầu hết quốc gia trên thế giới cũng như khi nư...

pdf30 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Lời mở đầu Xã hội loài người luôn biến đổi không ngừng: từ khi xã hội loài người còn là một xã hội sơ khai, nguyên thuỷ bây giờ đã trở thành một xã hội văn minh. Có như vậy là vì trong quá trình phát triển xã hội loài người đã trải qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau, các phương thức sản xuất đó ngày càng hoàn thiện. Như vậy để xã hội phát triển thì phải phát triển được quan hệ sản xuất mà yếu tố này lại được quy định bởi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển được là nhờ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Như vậy, một trong những con đường cải tạo xã hội nhanh nhất là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một giai đoạn phát triển tất yếu trong lịch sử phát triển của hầu hết quốc gia trên thế giới cũng như khi nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy sự dịch chuyển nền kinh tế lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kĩ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất cao và là cái quyết định cho sự tồn tại của một chế độ xã hội. Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá hiên đại hoá nhằm nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kì quá độ. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, và trước sự thay đổi to lớn của thế giới Đảng đã xác định thời cơ, những thách thức to lớn. Đó là công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực. Đồng thời trong quá trình này Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê Nin tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và là sợi chỉ xuyên suốt cho mọi hành động. Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn mà cột mốc là đại hội đảng toàn quốc lần VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế đất nước có nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt tới trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải đổi mới để xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội với hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta ("Văn kiện đại hội Đảng lần VIII"). Chính vì những lý do trên việc nghiên cứu đề tài "Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam" là một nội dung phức tạp và rộng. chương I Những tìm hiểu cơ bản về phương thức sản xuất và tầm quan trọng của việc tiến hành công nghiệp hoá 1- Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất: Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất riêng. Đó là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất vật chất là sự thống nhất biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 1.1-Lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục của con người đối với tự nhiên. Lực lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa con người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Ngoài công cụ lao động, trong tư liệu sản xuất còn có đối tượng lao động. Như vậy lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố con người lao động và tư liệu sản xuất. Con người lao động gồm có trí thông minh, sáng tạo, sức lực... Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động, trong đó tư liệu lao động là yếu tố quan trọng nhất. Tư liệu lao động là những vật hay phức hợp những vật có thể nối con người với đối tượng lao động và dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào đối tượng lao động, tư liệu sản xuất là bộ phận trực tiếp dẫn truyền sự tác động của con người vào tự nhiên. Và sản phẩm của giới tự nhiên gọi là công cụ sản xuất. Tư liệu sản xuất luôn thay đổi vì con người luôn tìm tòi sáng tạo và sử dụng những công cụ lao động ngày càng được cải tiến tinh xảo hơn. Vì vậy mà trong lực lượng sản xuất cũng có mâu thuẫn. “Mâu thuẫn bên trong của lực lượng sản xuất là mâu thuẫn giữa trình độ, khả năng của lực lượng sản xuất với nhu cầu chinh phục, cải tạo tự nhiên, nhu cầu biến đổi đối tượng sản xuất”. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là do nhu cầu của xã hội và do mẫu thuẫn bên trong của lực lượng sản xuất quyết định. Mâu thuẫn này thường xuyên đặt ra, liên tục phát sinh trong quá trình sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải áp dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào quá trình sản xuất làm cho công cụ sản xuất không ngừng được hoàn thiện. Vì vậy để thúc đẩy tư liệu sản xuất phát triển, lực lượng sản xuất phát triển thay đổi từ thấp đến cao thì phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, thay thế công cụ thô sơ bằng máy móc. Trong lực lượng sản xuất thì nhân tố con người đóng vai trò quyết định nhất. Song ngày nay trong công cuộc cách mạng đã mở ra bước nhảy vọt lớn của lực lượng sản xuất. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì khoa học là điểm xuất phát cho mọi biến đối to lớn cho lĩnh vực sản xuất, là cơ sở để hình thành hoạt động các ngành sản xuất mới đồ sộ khoa học đã kết tinh vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất và làm thay đổi về chất mọi yếu tố đó. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã mở ra một kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hoá với việc ứng dụng khoa học tiến bộ mới vào sản xuất, đã tạo ra sự thay đổi trong chức năng của người sản xuất. Con người không trực tiếp thao tác mà chủ yếu sáng tạo và điều chính một cách hợp lý. Trí thức khoa học được vật chất hoá vào mọi nhân tố của lực lượng sản xuất, từ đối tượng lao động đến tư liệu lao động. Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nên thành phần người cấu thành lực lượng sản xuất không chỉ bao gồm lao động chân tay mà gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và các cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất. 1.2- Quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất tồn tại một cách khách quan độc lập với ý thức của con người. Để tiến hành sản xuất con người không chỉ có mối quan hệ với tự nhiên mà phải có mối quan hệ với nhau để trao đổi hoạt động và kết quả của lao động. Mác viết: “Người ta chỉ có thể tiến hành sản xuất bằng cách hợp tác với nhau theo một cách nào đó. Để thực hiện quá trình sản xuất con người phải có những mối liên hệ, quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ trong phạm vi của những mối liên hệ, quan hệ đó thì con người mới có mối quan hệ với tự nhiên, tức là sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mối quan hệ cơ bản: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối sản xuất xã hội. Ba mối quan hệ này nằm trong mối liên hệ ràng buộc quy định lẫn nhau trong đó quan hệ đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng nhất, nó quy định các mối quan hệ còn lại. Bản chất của mối quan hệ sản xuất ra sao thì phụ thuộc vào việc giải quyết mối quan hệ đối với tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội như thế nào. Các quan hệ về tổ chức và quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm xã hội giữ những vai trò hết sức quan trọng chúng có thể góp phần củng cố, phát triển sản xuất và cũng có thể làm xói mòn quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất có tính ổn định tương đối so với lực lượng sản xuất. ở mỗi giao đoạn phát triển nhất định của lịch sử quan hệ sản xuất tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định, quan hệ sản xuất thống trị của mỗi xã hội quy định bản chất và bộ mặt của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Chính vì vậy khi nghiên cứu quá trình sản xuất không chỉ dừng lại ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà phải xét tới tính chất của quan hệ sản xuất. Bên cạnh đó thì quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Mặc dù phụ thuộc vào các quan hệ còn lại song quan hệ phân phối sản phẩm do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người nó là “ chất xúc tác” của các quá trình kinh tế - xã hội. Trong lịch sử đã diễn ra sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất & quan hệ sản xuất tạo thành mối quan hệ lặp đi lặp lại mang tính chất ổn định của nền sản xuất xã hội. Các Mác rút ra kết luận: sản xuất xã hội có quy luật khách quan vốn có của nó, đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. 1.3- Quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất và tác động biện chứng với nhau. Sự liên hệ tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hình thành nên quy luật phổ biến của toàn thể loài người. Đó là quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật sự phù hợp này là khả năng phối hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất để tạo ra hiệu quả lao động cao nhất. Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc xem xét mối quan hệ này, từ đó từng bước tìm ra được mối quan hệ giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 1.3.1- Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi quan hệ sản xuất . Một đặc điểm của nền sản xuất xã hội là luôn luôn biến đổi và phát triển. Muốn tồn tại duy trì cuộc sống của mình con người phải lao động; phải tham gia vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất tự nuôi sống mình. Muốn vậy quá trình sản xuất phải không ngừng; nó phải diễn ra liên tục; quá trình sản xuất và tái sản xuất phải không bị gián đoạn. Trong quá trình lao động ấy kinh nghiệm sản xuất của con người ngày càng phát triển; năng lực chế tạo và cải tiến công cụ lao động cũng phát triển; thúc đẩy năng suất lao động tăng lên. Nếu như thời kỳ nguyên thuỷ công cụ lao động được chế tạo chủ yếu bằng đá rồi trải qua quá trình đồ đồng, đồ sắt và ngày nay con người đã đạt đến trình độ công cụ sản xuất hiện đại với các thiết bị máy móc tự động... Công cụ sản xuất thay đổi, khả năng tư duy, trí tuệ của con người sản xuất ra công cụ, của cải cũng thay đổi và theo tiến trình phát triển của lịch sử nó sẽ làm cho quan hệ sản xuất giữa người & người cũng thay đổi theo. Hay nói một cách khác phương thức sản xuất đã thay đổi cho phù hợp với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành ,phát triển & biến đổi của quan hệ sản xuất . Vai trò quyết định cuả lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất thể hiện ở những nội dung sau:  Lực lượng sản xuất quyết định tính chất của quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất ở trình độ nào thì quan hệ sản xuất cũng phải ở trình độ ấy.  Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành & biến đổi của quan hệ sản xuất từ quan hệ sở hữu, quản lý đến quan hệ phân phối.  Quyết định các hình thức kinh tế của quan hệ sản xuất. Ngày nay, dưới sự tác động của cuộc công nghiệp khoa học công nghệ trực tiếp trong lực lượng sản xuất thì nó lại càng làm cho biến đổi nhanh chóng & toàn diện. Sự biến đổi đó trong giới hạn nhất định thì chưa dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất nhưng khi nó biến đổi đến một giai đoạn nhất định thì nó dẫn tới mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có. Những quan hệ đó từ chỗ là hình thức cần thiết để bảo tồn & phát triển lực lượng sản xuất thì đã trở thành hình thức kìm hãm sự phát triển đó. Và do đó dẫn đến nhu cầu khách quan tất yếu phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới để phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển. Yêu cầu khách quan đặt ra trong thực tiễn quản lý kinh tế xã hội là việc xác lập & hoàn thiện các quan hệ sản xuất nhất định phải căn cứ vào trình độ của lực lượng sản xuất. 1.3.2- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất: Mặc dù bị chi phối bởi lực lượng sản xuất song với tính cách là hình thức, quan hệ sản xuất cũng có những tác động nhất định trở lại đối với lực lượng sản xuất. Nếu như lực lượng sản xuất là thường xuyên biến đổi thì quan hệ sản xuất lại có tính ổn định hơn, có như vậy nó mới trở thành hình thức kinh tế của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có tính ổn định bởi nó gắn liền với lợi ích giữa người với người. Nó muốn thay đổi cũng phải trải qua một thời gian dài đấu tranh & cải biến xã hội. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất là do quan hệ sản xuất có tác động tới:  Việc kết hợp các yếu tố của lực lượng sản xuất trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.  Việc phân công lao động xã hội.  Việc phát triển, ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất. Như vậy rõ ràng quan hệ sản xuất đã tác động tới trình độ của lực lượng sản xuất & do đó nó tác động tới lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất chủ yếu ở hai khuynh hướng: - Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ thúc đẩy, định hướng & tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. - Quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời so với tất yếu khách quan của lịch sử, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.Quan hệ sản xuất lạc hậu lỗi thời hay có những tất yếu vượt trước tiên tiến hơn một cách không đồng bộ cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp). Nhưng do tính năng động của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với tính ổn định tương đối của quan hệ sản xuất nên quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp với lực lượng sản xuất lại trở nên không phù hợp kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó chính là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất & quan hệ sản xuất. Các Mác viết: “tới một giai đoạn phát triển nào đó lực lượng sản xuất vật chất xã hội sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có mà trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phải phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất những lực lượng sản xuất ấy trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạnh xã hội. (Tập bài giảng triết học Mác -Lênin, tập2, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000). 2- Công nghiệp hoá hiện đại hoá - Bước phát triển tất yếu thời đại: Công nghiệp hoá là bước đi tất yếu mà các quốc gia sớm muộn cũng phải vượt qua. Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, việc tiến hành công nghiệp hoá là một việc làm tất yếu. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá là trang bị kỹ thuật mới hiện đại, là xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với việc tổ chức phân công lại lao động và đôỉ mới chính sách đầu tư đưa nước nhà từ kém phát triển thành quốc gia có nền kinh tế phát triển. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta, chủ nghĩa Mác - Lê Nin đóng vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở để chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những nhân tố không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác (đã được nêu trên), đóng vai trò là cơ sở lí luận. Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại đang phát triển với tốc độ vũ bảo. Đặc trưng của cuộc cách mạng này là sự gắn bó chặt chẽ giữa khoa học với sản xuất, sự bùng nổ của phát minh thông tin. Quá trình quốc tế hoá đồi sống kinh tế chính trị xã hội diễn ra nhanh chóng và trở thành xu thế phát triển của thế giới. Mỗi quốc gia trở thành bộ phận hữu cơ của nền kinh tế tế thế giới . Hiện nay Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí vĩ mô của nhà nước với mục tiêu là đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, an ninh quốc phòng và sự bền vững của môi trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ đạt tốc độ tăng nhanh, hiệu quả kinh tế cao khi nền kinh tế ấy thực dựa trên cở sở công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế là việc đòi hỏi tất yếu của mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều này khẳng định công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một vấn đề quan trọng đặc biệt, là bước phát triển tất yếu đối với nước ta. Đặc biệt trong thời kì hiện nay nền kinh tế vẫn mang tính chất đặc thù lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, cơ sở kĩ thuật chưa xây dựng là bao nhiêu, kinh tế phát triển khá nhưng năng suất thấp, chất lượng thấp khả năng cạnh tranh với các nước kém. Cho nên chỉ có con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá mới là con đường cơ bản khắc phục được yếu kém của nền kinh tế nước ta, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác. Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện hoá đất nước. Từ đó có khả năng phát triển lực lượng sản xuất và cơ sở hạ tầng cho phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất nứơc ta hiện nay tuy đã phát triển nhưng chưa phù hợp quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, trên phạm vi toàn thế giới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải qua các nước đang phát triển. Đối với nước ta khi những tư tưởng cơ bản học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lí luận của công nghiệp hoá - hiện đạt hoá đất nước thì một mặt chúng ta phải đẩy nhanh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại cho chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự đIều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Chương II Quá trình Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay 1. ảnh hưởng tích cực của công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với nền kinh tế nước ta Quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá, trong đó nó bao hàm sự phát triển nền kinh tế chung của đất nước ta, khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hóa tiến lên xã hội chủ nghĩa Trong quá trình đổi mới đất nước, công nghiệp hoá- hiện đại hoá có vai trò cực kì quan trọng trong sự đổi mới của nước ta. Nó thúc đẩy cho sự phát triển của mọi mặt của xã hội. ở trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với việc phân công lao động xã hội, là một tất yếu khách quan. Đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong điều kiện hiện nay không chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triẻn kinh tế, văn hoá, xã hội mà còn đáp ứng nhu cầu hợp tác quốc tế, chủ động tham gia và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được thúc đẩy một cách nhanh chóng, chúng ta trở lại với phương pháp luận của hồ chí minh về vấn đề này: Trong hệ thống các biện pháp tác động vào tính tích cực xã hội của con người, Hồ Chí Minh chủ trọng trước hết là công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đạo đức cách mạng. Chúng ta tiến hành CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa lầ nhằm cơ sở vật chất - kỹ thuật để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu "dân giaù nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Lòng yêu nước tinh thần tự hào dân tộc, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư phải luôn được khơi dậy như là động lực hàng đầu. Dân chủ hoá triệt để đời sống xã hội là bản chất, là quy luật phát triển củachủ nghĩa xã hội. Hoàn thiện cơ cấu dân chủ, khắc phục những thiếu sót nghiêm trọng trong quá trình vận hành các thiết chế dân chủ XHCN mà Hồ Chí Minh đã lưu ý. Vai trò không ngừng tăng lên của con người gắn liền với việc thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học- kĩ thuật, với việc đổi mới cải cách giáo dục - đào tạo. Nhân loại đang bước vào nền văn minh mới - văn minh trí tuệ, một nền văn minh mới kinh tế kiến thức, một xã hội mới xã hội thông tin. Về mô hình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta, đang chủ trương không lặp lại hoá cổ điển, mà tự tìm lấy một mô hình phù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện thế giới ngày nay. Để làm được việc đó giáo dục và khoa học phải tạo ra những con người có đủ kiến thức, năng lực lựa chon, phát huy sáng tạo, công nghệ mới; từ đó làm chủ công nghệ nhập biến chúng ta thành công nghệ của mình và tạo ra công nghệ mới và hiện đại hoá công nghiệp truyền thống, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, làm ra nhiều sản phẩm với năng xuất cao, chất lượng và hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu . Việc tìm kiếm mô hình đã khó, nhưng việc giải quyết những vấn đề chung cho quá trình công nghiệp hoá lại càng khó hơn. Để Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hoá vào khoảng năm 2020 thì tốc độ tăng trưởng trung bình từ nay tới đó là 10%năm. Năm 1998 trước những biến động lớn về kinh tế trong khu vực, Việt Nam đã phải đièu chỉnh xuống mức 7%. Đến năm 1998 chúng ta phải cố gắng đạt tới 10%, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam xác định rõ chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm là: nhịp độ tăng GDP là 7,5%năm. Quả thật, để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá như đã đặt ra là một thử thách không nhỏ đối với Đảng và nhân dân ta nói chung, đối với đội ngủ trí thức nói riêng. Việc để đạt được mục tiêu đề ra là một thách thức lớn, xong nó đã kéo theo sự tăng trưởng GDP ngày lớn, trình độ văn hoá ngày càng cao, hơn thế nữa mà trình độ văn hoá văn minh hơn. Đội ngũ trí thức Việt Nam sẽ gánh vác trọng trách này . Thực hiện công tác đổi mới, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhiều chủ trương, chính sách đối với miền núi được thực thi, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền nhân dân các dân tộc kinh tế ở một số tỉnh miền núi được quan tâm chú trọng nhiều hơn, như tỉnh Lai Châu gần đây đã có nhiều khởi sắc tiến bộ. Trong những năm gần đây nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển đổi rõ rệt, các chính sách xã hội được thực hiện tốt hơn, đời sống đồng bào các dân tộc được nâng lên, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Trong những năm gần đây Lai Châu liên tiếp chịu sự thiệt hại nặng nề do thiên tai gây ra (lũ quét, mưa đá, mưa đất...), nền kinh tế đã khó khăn càng thêm khó khăn. Đế từng bước ổn định cho nhân dân, thúc đẩy nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, Lai Châu đã dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá . Việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH ở Tỉnh Lai Châu sẽ làm thay đổi về cơ bản phương thức sản xuất manh mún, tự cung tự cấp hiện nay, tạo ra nền kinh tế nông -lâm - công nghiệp - chế biến - dịch vụ ổn định, từng bước phá thế độc canh, phát huy tiềm năng, nội lực,nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho địa phưong, góp phần tích cực vào xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Theo báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Việc phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá giúp cho phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển cơ cấu kinh tế, kinh tế lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi hoạt đông kinh tế đều đánh giá bằng hiệu quả kinh tế tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội môi trường, quốc phòng an ninh. Trước mắt tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu tư sử dụng vốn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên các thế mạnh và các lợi thé so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước, nhu cầu đơì sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức mua bán của thị trường trong nước và ngoài nước, thúc đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường sự chỉ đạo và huy động lực lượng cần thiết để phát huy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển đưa nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng khoa học, kĩ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, đẩy mạnh thuỷ lợi hoá cơ giới hoá, điện khí hoá giải quyết tôt vấn đề nông sản hàng hoá. Đầu tư hơn cho vấn đề phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tạo điều kiện việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn. Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triẻn công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm .. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở sản xuất công nghiệp nặng quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng. Khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, khoáng sản vật liệu xây dựng. Chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số doanh nghiệp đi đầu trong cạnh tranh hiện đại hoá. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể cả thương mại điện tử, hàng không, hàng hải các loại hình vận tải khác, bưu chính, viễn thông, tài chính ngân hàng, kiểm toán bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường. Sớm phổ cập tin học và internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội. Xây dựng đồng bộ từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng, giao thông điện lực, thông tin, thuỷ lợi, cấp nước thoát nước. Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Không tập trung nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn. Khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường. Tăng cường công tác quy hoạch đô thị, nâng cao thẩm mỹ kiến trúc... Về phát triển kinh tế các vùng nâng cao vai trò nguồn lực kinh tế vùng đó, mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển kinh tế các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng tạo mức tăng trưởng khá nhanh. Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược kinh tế biển, mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến hải sản, tiến ra biển xa, khai thác chế biến dầu khí, phát triển vận tải viễn thông dịch vụ, phát triển các vùng dân cư trên biển. Sử dụng hợp lí và tíêt kịêm tài nguyên, bảo vệ và cải tạo môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là một nội dung của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường quản lý công tác ở các lĩnh vực, các vùng thực hiện nghiên cứu luật bảo vệ môi trường. Về vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bước đầu đã tạo nhiều quan hệ song phương và đa phương với các nước và các vùng lãnh thổ, các trung tâm kinh tế chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực bình đẳng và cùng có lợi. Chủ động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dan tộc bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các bộ các ngành khẩn trương xây dựng vấn đề hội nhập quốc tế với lộ trình hợp lí và hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp,đẩy mạnh dịch chuyển cơ cấu kinh tế và đổi mới cỏ chế quản lý kinh tế – xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nền kinh tế. Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nứơc xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam á thành một khu hoà bình,không có vũ khí hạt nhân, ổn địng hợp tác cung phát triển, phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau. Đẩy mạnh công tác tin học dịch vụ, nghiên cứu, làm tốt công tác dự báo tình hình khu vực và thế giới, kịp thời có những chủ trương, chính sách đối ngoại thích hợp khi tình hình thay đổi, tăng cường hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hoá đối ngoại. Về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiến đậm đà bản sắc dân tộc: đẩy mạnh giáo dục đào tạo toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống quản lý giáo dục, thuực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá xã hội hoá. Phát huy tư duy khoa học sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu của học sinh và sinh viên. Khuyến khích phát triển hệ thống trường dân lập và hệ thống các trường tư thục. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ quy mô giáo dục và đào tạo. Từng bước thực hiện nối mạng quốc tế ở các trường đại học Về khoa học công nghệ phát triển khoa học xã hội và nhân văn, hướng vào việc giải đáp các vấn đề thực tiễn và lý luận, dự báo các chủ trương chính sách phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở khoa học sự phát triển các lĩnh vực khoa học công nghệ trọng điểm và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thực hiện tốt chính sách sở hữu chí tuệ, đãi ngộ dặc biệt với các nhà có công trình nghiên cứu xuất sắc. Xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc: Hướng mọi hoạt động văn hoá vào con ngươì việt nam phát triển toàn diện về văn hoá chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực, sáng tạo có ý chí cộng đồng và xã hội. Hướng báo chí, xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phát triển hoạch định những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phản các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn nhận thức lệch lạc, đấu tranh với quan điểm sai trái. Nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin, khắc phục khuynh hưóng “ thương mại hoá quốc tế" trong hoạt động báo chí, xuất bản, nêu cao tinh thần trách nhiệm của gia đình và thành viên có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự trở thành là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh toàn dân có phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá’’. 2- Những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta: Về sản xuất nông nghiệp: về sản lượng lương thực tăng khá cao, lượng lương thực quy ra thóc đạt tới mức đáng kể và tăng dần qua các năm. Tốc độ tăng lương thực vượt mức tăng dân số, vì vậy lượng lương thực tăng qua các năm. Sản lượng gạo xuất khẩu cũng gia tăng: Năm 1991 tổng sản lượng lương thực là 21,98triệu tấn; lương thực bình quân đầu người là 324,9/người; sản lượng gạo xuất khẩu là 1triệu tấn. Năm 1995 tương ứng là 27,44 triệu tấn; trung bình 364.0 kg trên 1 người; sản lượng gạo xuất khẩu là hai triệu tấn. Tiến bộ rõ nhất trong sản xuất lương thực là tăng năng suất lúa và ngô đã đạt và tăng đáng kể: năng xuất lúa từ 31,1 tạ / 1ha (1991) đã dần theo các năm 33,3 tạ / 1ha (1993) 35.6tạ / ha 1994 và 37,1/ 1ha (1995) . Sản xuất ngư nghiệp: trong năm qua ngành thuỷ sản đã liên tục hoàn thành kế hoạch.Đến năm 1995 tổng sản lượng thuỷ sản quy ra thóc đạt 1.355.140 triệu tấn, tăng 37.31% so với năm. Trong đó thuỷ sản nuôi và khai thác trên địa bàn nội hạc đạt trên 450.000 tấn, tăng 3 lần so với năm 1980 Dịch vụ ở nông thôn tăng đáng kể: Hệ thống thương mại và dịch vụ tăng đáng kể đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn về nhu cầu sản xuất cả đời sống của người dân trên địa bàn nông thôn. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá lẻ tăng như mặt hàng vật tư, phân bón, tăng từ 33,403,6 tỷ đồng năm lên 82,450 tỷ năm 1994. Mặc dù vẫn chậm so với thị trường nhưng sức mua bán ở nông thôn tăng chiếm từ 60-70% tổng quỹ mua bán của xã hội. Mạng lưới thương mại và dịch vụ từng bước được nâng cao. Sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các tụ điểm công nghiệp, thưong mại và dịch vụ. Về công nghiệp: Trong 3 năm nước ta vẫn giữ tốc độ tăng trưởng khá cao, năm 1996 là 9,3%; năm 1997 là 8,1%; năm 1998 là 5,8% bình quân 3 năm gần đây là 8%, đây là một tốc độ tăng trưởng khá cao. So với đầu thập kỉ những năm 90 quy mô kinh tế nước ta đã có bước tăng trưởng khá, quy mô nền kinh tế năm 1997 tăng 1,76 lần so với năm 1990 và năm 1998 là khoảng 1,8 lần. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao năm 1996 tăng 14,2% năm 1997tăng 13,8%, năm 1998 lầ 12,1%. Mặc dù mức tăng trưởng của các thành phần kinh tế khác nhau nhưng nhìn chung vẫn duy trì ở mức ổn định. Công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo trong toàn ngành và duy trì tăng trưởng khá cao. Sản xuất lương thực luôn đạt mức tăng trưởng cao: Năm thấp nhất tăng 11,6% (1999/1998), năm cao nhất tăng 15,7% (2000/1999). Những sản phẩm lớn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Năm 2000 so với năm 1995 là: Dầu thô khai thác tăng gấp 2,2 lần; tăng 16,45 diện tích sản xuất; thép các loại tăng 16,4% gấp 3,4 lầnso với 1995; tăng 29,2% mặt hàng động cơ điện gấp 1,6 lần; xin măng tăng 9,6% gấp 2,3 lần, phân hoá học tăng 18,25 năm gấp 1,4 lần; giày dép tăng 7,4% năm tăng gấp 2lần; đường tăng 14,95 tgấp 2,3 lần; sản xuất xe máy gấp 6,4 lần tăng 45% năm... Tỷ trọng công nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân từ 19,8% năm 1991 lên 21,9% năm 1995 và 36,65 năm 2000. Đây là một sự chuyển dịch khá nhanh, liên tục tính ổn định và đúng với mục tiêu của cong đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Trong toàn bộ nghành công nghiệp cũng có sự chuyển biến: Công nghiệp chế biến vẫn là chủ yếu chiếm 80,5% toàn ngành công nghịêp và chiếm 18,7% tổng sản phẩm thu nhập quốc dân; ngành công nghiệp khai thác trong những năm gần đây có tốc độ tăng nhanh; tỷ trọng năm 2000 chiếm13,55 toàn ngành công nghiệp và tổng sản phẩm trong nước ngành công nghiệp điện nước chiếm khoảng 6% toàn bộ ngành công nghiệp . Về giáo dục : Trình độ dân chí, tiềm lực khoa học và công nghệ nâng cao một bước: với trình độ phát triển giáo dục, trình độ học vấn của nhân dân được nâng lên. Tiến hành nâng cao chất lượng xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đã có 10 Tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Giáo dục trung học phổ thông phát triển nhanh (trong 5năm qua bình quân tăng 18%năm); giáo dục chuyên nghiệp phát triển mạnh. Số lao động đã đào tạo tăng từ 13% năm 1996 lên 20% năm 2000, số lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng 80 vạn người, năm 1995 lên 1,3 triệu người năm 200 / cán bộ khoa học làm nghiên cứu khai tăng đáng kể, cơ quan nghiên cứu triển khai tăng đáng kể, từ 519 đơn vị năm1995 lên 873năm 2000. Các tổ chức tư vấn và chuyển giao công nghệ phát triển nhanh, hệ thống thông tin khoa học quốc gia được đổi mới và hiện đại hoá một bước, theo hướng điện tử hoá, cán bộ có thể dàng truy cập và khai thác thông tin trên thế giới và trong nước. Trình độ đội ngũ khoa học của chúng ta tăng đáng kể, một số lĩnh vực bắt kịp thế giới. Về vấn đề phân công lao động xã hội: Là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số và hơn 70% lao động sống ở nông thôn và làm nông nghiệp. Dần một số thành phần lao dộng chuyển dần từ ngành nông nghiệp sang công nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng việc phát triển các ngành công nghiệp dệt - may, da - giày... các khu công nghiệp chế xuất, các công trình xây dựng công nghiệp và giao thông, thuỷ lợi đã thu hút lượng lớn lao dộng, các lao động mới và lao động đang làm trong nông nghiệp - vào làm việc trong cơ sở công nghiệp. Ngoài ra còn có một số lĩnh vực khác cũng phát triển như: công nghệ thông tin với việc phát triển mạng Internet đã nối mạng trên khắp thế giới đã giải quyết bao nhiêu khó khăn và tăng thêm thuân lợi cho việc phát triển kinh tế cho toàn bộ xã hội. 3- Những hạn chế của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta: Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã xác định công nghiệp hoá "là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội " song nước ta vẫn mắc phải sai lầm bằng cách nhận thức về công nghiệp hoá. Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội với những khó khăn gay gắt lạm phát. Khi đó do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữ lý luận và thực tiễn có khoảng cách quá xa tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất, chế độ bao cấp dẫn đến tình trạng trì chệ trong công việc: ỷ lại lười nhác, phụ thuộc vào Nhà nước. Không năng động sáng tạo bằng công tác được giao, không cần quan tâm đến kết quả đạt được. Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất lượng lạm phát càng tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã hội thấp kém, nghèo khó. Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngược lại quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo đúng quy luật, chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ chế thị trường làm cho năng suất lao động tăng, lực lượng sản xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo. Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt so với sản lượng sản xuất vượt trước ở đây là sự vượt trước có tính phù hợp, vượt trước dựa trên cơ sở suy luận khoa logic, dựa trên các quy luật và cao hơn là sự vượt trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng. Nó cũng phải dựa trên sự phù hợp với quy luật và cơ sở lý luận khoa logic. Đáng tiếc là chúng ta vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Kết quả cuối cùng đem lại là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả còn kinh tế ngoài quốc doanh lại bị kìm hãm không ngóc đầu lên được. Nền kinh tế tuy đạt được độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp, bởi chi ngân sách lạm phát vay nợ nước ngoài. Con người không được giải phóng và bị lâm vào tình trạng khủng hoảng lạc hậu trì trệ làm tăng chi phí lớn của cải xã hội. Đến khi áp dụng chính sách khoán đất cho nhân dân tự trồng trọt, phá bỏ hợp tác nên Nhà nước đã có những bước chuyển mình rất rõ rệt. Trong lựa chọn bước đi, đã có lúc chúng thiên về "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải pháp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp. Mà không coi trọng đúng mức của phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, công nghiệp hoá cũng hiểu một cách giản đơn là quá trình xây dựng một nền sản xuất được cơ khí hoá trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội ồ ạt với quy mô lớn. Quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư nhân. Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với những viện nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy được năng lực sáng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu không cung cấp đầy đủ kinh phí cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất. Trong khi đó nhìn ra bên ngoài khoa học kỹ thuật của các nước phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố của con người. Một hạn chế nữa là chúng ta mắc phải đó là ta đã phủ nhận quy luật giá trị sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường. Thực chất ở đây cũng là do những nhận thức sai lầm, chủ quan nóng vội mà chúng ta đã cho rằng kinh tế nước ta phải tuân theo quy luật giá trị sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường mà không hiểu điều quy luật nhất đó là: Nước ta mới ở giai đoạn của thời kỳ quá độ. Những hạn chế trên vẫn bắt nguồn từ sự nhận thức sai lầm về quấ trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, từ một nền kinh tế còn quá lạc hậu và chịu nhiều tàn phá của chiến tranh... Từ những nguyên nhân và hạn chế trên của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta hiện nay, phần III của tiểu luận có đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần vào việc phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta. Chương III Mục tiêu phát triển và giải pháp thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta 1- Những mục tiêu – quan điểm cụ thể: Để thực hiện được mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, vì không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất cao thì không thể nói đến công nghiệp xã hội. Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đưa nước ta vượt qua một chặng đường dài đi lên công nghiệp xã hội tính được tình trạng chung đó là sự tụt hậu ngày càng xa của các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì có tránh được nguy cơ tụt hậu về kinh tế và sự lạc hậu về tiến bộ xã hội. Từ sự phát triển của các nước trên thế giới và sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã củng cố cho chúng ta những bài học lớn về nhận thức. Đó là bài học về quát triệt quan điểm thực tiễn - quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít - cũng như nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Mục tiêu mà Đại hội Đảng lần VIII của Đảng đề ra chính là sự cụ thể hoá hợp thông nhất về hình thức kinh tế - xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội. Ta phải luôn nhận thức vận dụng đúng đắn sáng tạo hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ bản chất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự đổi mới với tính chất mới mẻ khô khan và phức tạp của nó - đòi hỏi phải có lý luận kho học soi sáng. Song phải kết hợp hài hoà giữa lý luận và thực tiễn. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã nhận định và đánh giá tình hình một cách đúng đắn, điều này ở Đại hội Đảng khoá VII đã nêu rõ ràng: Trong xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời sống khoa học - công nghệ trên thế giới ngày một gia tăng thì công nghiệp hoá phải gắn liền với HĐH, nâng cao trình độ công nghệ... "Tận dụng lợi thế của nước đi sau chúng ta tập trung trước hết cho việc tiếp thu các thành tựu khoa học của thế giới, ứng dụng mở rộng và làm chủ. Đồng thời phải biết dành nỗ lực nhất định cho những mũi nhọn phát triển, tìm cách đi tắt, đón đầu tạo nên lợi thế cạnh tranh cả về phương diện kinh tế và công nghiệp tạo nên sự phát triển nhanh và nắm vững của nền kinh tế". 2- Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta hiện nay: 2.1- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn Nước ta là một nước với hơn 80% dân cư đang sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập chung địa bộ phận nghèo. Vì việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thông đã đang và sẽ là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông nghiệp không tự mình thay đổi, đổi mơí cơ sở vật chất - kĩ thuật công nghệ. Không có khả năng tăng trưởng nhanh để tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân mà phải có tác động mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ... Chỉ có như vậy mới xoá vỡ được tình trạng trì trệ của nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, nâng cao đời sống của nhân dân nông thôn. Từ thực tiễn nước ta đã có một giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Thứ nhất: dịch chuyển cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì cơ cấu nông thôn hợp lý sẽ quyết định việc khai thác và sử dụng có hiệu quả tối ưu tài nguyên đất đai, vốn, sức lao động và cả cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có, quyết định tốc độ phát triển hàng hoá ở nông thôn, chuyển mạnh kinh tế nông thôn sang kinh tế hàng hoá, chuyển người lao động nông thôn sang người là động với cơ chế kinh tế mới. Thứ hai: Phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn với cơ chế nhiều thành phần.Trong kinh tế nông thôn có sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế khác, nhà nước, hợp tác, tư bản nhà nước, tiểu chủ, cá thể, tư bản tư nhân. Để có nền kinh tế với tính cách là công cụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn các thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và dần trở thành nền tảng trong nền kinh tế nông thôn. Thứ ba: phải áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất vì trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhân tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu trong nền sản xuất không dựa vào khoa học công nghệ thì không thẻ đó là sự phát triển Thứ tư: đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Hiện nay, số người nghiện cứu khoa học cho lĩnh vực nông nghiệp rất thấp khoảng 5% trong tổng số nhà nghiên cứu, trình độ dân chí còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ năm: nhà nước cần có những chính sách phù hợp về việc đầu tư cho phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, có chính sách cho vay vốn hợp lý, giao đất, giao rừng cho người dân và động viên họ tham gia vào vùng kinh tế mới. 2.2- Thúc đẩy việc áp dụng khoa học công nghệ Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đảng ta luôn coi khoa học là công nghệ là một trong những sự quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Hiện nay, việc áp dụng khoa học sản xuất vào nước ta quá chậm, máy móc lạc hậu rất nhiều so với các nước. Vì vậy trong qúa trình sản xuất năng xuất lao động rất thấp, hao phí sức lao động hao phí nguyên liệu. Mác đã từng nói: “Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra cuả cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lao động đã hao phí... mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và bước tiến bộ của khoa học kĩ thuật hay là việc sử dụng khoa học kĩ thuật ấy vào sản xuất”. Vì vậy việc phát triển khoa học công nghệ trong thời gian tới là: Thứ nhất: Nhà nước từng bước đổi mới hệ thống chính sách về khoa học và công nghệ. Thú hai: Khoa học công nghệ gắn với sự phát triển của xã hội. Đây là nhiệm vụ trung tâm của chính sách vĩ mô của nhà nước. Làm sao để khoa học công nghệ trở thành nền tảng cuẩ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu. Thứ ba: Đào tạo nhân lực cho việc phát triển khoa học - công nghệ. Nghị quyết hội nghị lần thứ VII đã coi phát triển nguồn nhân lực trong đó có lực lượng khoa học công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá . Thứ tư: Đầu tư cho khoc học công nghệ. Hiện nay đầu tư cho khoa học công nghệ ở nước ta còn thấp nhưng khó khăn lớn nhất là cần có chính sách vĩ mô tạo điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp có thể phát huy, tiếp thu thành tựu khoa học mới. 2.3- Đào tạo nguồn nhân lực Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà còn là quá trình biến đổi con người sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái lớn về chât. Chính vì thế nó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng mạnh về chất lượng, thực sự là động lực của sự phát triển. Trong 76 triệu dân nước ta có khoảng 36,5 triệu người đang độ tuổi lao động. Hiện nay, đội ngũ trí thức Việt nam đặc biệt là trí thức bậc cao đang đặt ra một số vấn đề cần giải quyết. Sự già hoá của đội ngũ tri thức trong các viện và trung tâm khoa học, tuổi trung bình của tiến sĩ là 52,8; phó tiến sĩ là 48,1; giáo sư là 59,5. Như vậy đến năm 2001 hơn 805 số người có học vị đã đến tuổi về hưu, từ đó gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận. Việc đầu tư cho khoa học công nghệ cũng như giáo dục và đào tạo chưa đủ để phát triển nguồn nhân lực. Đảng ta coi việc giáo dục và đào tạo là nhân tài là quốc sách hàng đầu. Năm 1986 đầu tư cho giáo dục và đào tạo chiếm ngân sách nhà nước; 1990 là 8%; 1996 là 10,08%. Do đó giáo dục và đào tạo không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Cơ cấu nguồn nhân lực nước ta chưa hợp lí, việc phân bố cán bộ theo ngành nghề còn nhiều bất cập. Cơ cấu cán bộ khoa học có trình độ cao theo các ngành như sau: tự nhiên 38%; xã hội và nhân văn 20%; công nghệ là 27%; y dược 8%; nông nghiệp là 7%. Hơn nữa các đội ngũ cán bộ này phần lớn nằm trong cơ quan Trung ương, chiếm 94,4%. Như vậy cơ cấu và phân bố nguồn nhân lực chưa đủ đáp ứng nhu cầu mới công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Qua đó ta có thể nêu ra biện pháp phát triển nguồn nhân lực như sau: Thứ nhất: Nâng cao trình độ văn hoá cho người trong độ tuổi đi học, muốn vậy cần thực hiện nâng cao chất lượng văn hóa trong hệ thống giáo dục kinh tế quốc dân. Thứ hai: Phát triển nguồn nhân tài và nhân lực đủ về số lượng, đạt chất lượng cao, đồng bộ về ngành nghề và trình độ. Thứ ba: tổ chức lại hệ thống quốc dân, giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp theo yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Thứ tư: Đầu tư thoả đáng để phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá . Bên cạnh những giải pháp nêu trên còn có nhiều giải pháp khác như: huy động vốn trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài; xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường sự lãnh đạo của đảng và nhà nước. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta cần phải có sự lưu ý những vấn đề sau: Xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó nước ta khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải đặt nó trong quy luật vận động đó, muốn tạo công nghiệp hoá chúng ta thường xuyên sửa đổi và bổ sung. Cần chú ý quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và nội dung của lực lượng sản xuất. Trong quá trình thực hiện bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều khó khăn vì chúng ta phải nhìn nhận sự việc một cách khách quan. Cho đến nay con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta đã có bước nào đó dần được khẳng định, để nước ta vững bước đi trên con đường xã hội chủ nghĩa này thì chúng ta phải đi theo một hướng hợp lí với tình hình mà công cuộc cần đổi mới. Cũng như vậy chúng ta muốn tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dụng chủ nghĩa xã hội thì chúng taphải đi theo đường lối chính sách của Đảng vận dụng, sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa đổi mới trong thực tiễn, tiến hành tổng kết thực tiễn, khắc phục các khuynh hướng sai lầm như giáo điều, chủ quan duy ý trí... Kết luận Có một nhà báo đã nhận định về nước ta rằng Việt Nam "con Rồng nhỏ đang chuyển mình". Nước ta với biết bao tiềm năng sẽ trở thành giàu mạnh nếu phát triển đúng hướng của con đường phát triển duy nhất đó là tiến lên chủ nghĩa xã hội như Đảng và Nhà nước ta đã chọn thông qua việc công nghiệp hoá kết hợp khôn ngoan với hiện đại hoá là một cơ hội để nước ta phát huy hết khả năng, khẳng định vị trí của mình trong khu vực và trên thế giới. Và quả thực từ một nước rất nghèo nàn lạc hậu đến nay nước ta đã là nước xuất khẩu gạo đựng thứ hai trên thế giới, trở thành nước có nền kinh tế đang phát triển, chúng ta đã đạt được những thành quả nhất định trong nhiều lĩnh vực. Công nghiệp hoá hiện - đại hoá ở nước ta tiến lên xây dựngchủ nghĩa xã hội có vai trò cực kì quan trọng, trong quá trình đưa đất nước ta tiến tới sự phát triển của khoa học - công nghệ vào sản xuất nhằm từng bước hình thành cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế xã hội mới. Trong sự nghiệp vĩ đại này, đòi hỏi toàn đảng toàn dân phải nỗ lực phấn đấu để cho những năm tiếp theo nước ta về cơ bản trở thành một nước công công nghiểp trên phương diện quốc tế. Để tạo đà cho sự phát triển này cả dân tộc ta đang bắt tay vào công cuộc trồng người với quy mô lớn chất lượng cao. Khi đó con người được nhân lên bởi sự đoàn kết và lòng yêu nước, tất cả sức mạnh của mỗi con người cộng lại là cả một sức mạnh vũ bão. Mặt khác dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp thu đường lối đổi mới mở cửa, thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, là điều kiện không thể thiếu được nhằm tạo ra môi trường quốc tế thực hiện, bảo đảm cho việc tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội được phát triển vững mạnh, thu được nhiều thành quả. Song sẽ là ảo tưởng nếu mù quáng cường điệu và chỉ nhìn vào những thành tựu có được mà không tiếp xúc nhận thức tình hình thực trạng nước ta so với nước khác tiến bộ hơn để vận động đưa ra những giải pháp đúng đắn thì nước ta sẽ tiếp tục tụt hậu và rơi vào tình trạng đói nghèo. Hiện tượng con rồng châu á không thể xảy ra nếu còn rất nhiều khó khăn, lạc hậu, nợ nần chồng chất, bùng nổ dân số, xung đột triền miên về tôn giáo và sắc tộc... Cho nên một lần nữa đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt, linh hoạt trong sự đổi mới nhưng luôn luôn phải bám sát lý luận hình thái kinh tế - xã hội Mác - Lênin. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Góp phần hướng dẫn học tập môn triết học Mác - Lênin. Tập 1 + 2 NXB Chính trị quốc gia 2. Tạp chí Triết học. 3. C.Mác - Ph.Ănghen tuyển tập, tập I. NXB Sự thật Hà Nội. 4. Xu hướng phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá trên thế giới và sự lựa chọn mô hình CNH-HĐH ở Việt Nam -Ngô Đình Giao 5. Phát triển kinh tế CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Báo Nhân Dân ngày 21 tháng 4 năm 2001 . 6. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn. 7. Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá. Tạp chí cộng sản số 17-1997. Phạm Xuân Dũng. Mục lục Lời mở đầu Chương I: Những tìm hiểu cơ bản về phương thức sản xuất và tầm quan trọng của việc tiến hành công nghiệp ......................................................................................... 1 1- Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với tốc độ phát triển của quan hệ sản xuất ................................................. 1 1.1- Lực lượng sản xuất ........................................................................................................ 1 1.2- Quan hệ sản xuất ........................................................................................................... 3 1.3- Quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với tốc độ phát triển của quan hệ sản xuất ................................................................................................................... 4 2- CNH - HĐH - Bước phát triển tất yếu của thời đại ....................................................... 7 Chương II: Quá trình CNH - HĐH ở nước ta hiện nay ............................................. 10 1- ảnh hưởng tích cực của CNH với nền kinh tế nước ta .................................................. 10 2- Những thành tựu đạt được .............................................................................................. 16 3- Những hạn chế của sự nghiệp CNH HĐH .................................................................... 19 Chương III: Mục tiêu và giải pháp thúc đẩy sự nghiệp CNH HĐH ở nước ta hiện nay ......................................................................................................... 22 1- Những mục tiêu cụ thể của Đảng ta trong sự nghiệp CNH HĐH ................................ 22 2- Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự nghiệp CNH HĐH nước ta hiện nay .......... 23 Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan