Luận văn Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Luận văn Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN: Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay Lời nói đầu Hơn 20 năm duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá ở Việt Nam, Nhà nước đã tập trung hết các nguồn lực vào phát triển các doanh nghiệp quốc doanh, trong đó chú trọng đến các doanh nghiệp có qui mô lớn đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng như cơ khí, khai khoáng, điện. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) chưa được chú ý đúng mức. Từ năm 1986 đến nay cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế, sang kinh tế thị trường, vai trò của các DNV&N ngày càng được khẳng định. Đến nay các doanh nghiệp (DN) này có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Việc phát triển tốt DNV&N không những góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, mà còn tạo sự ổn định chính trị xã hội của đất nước thông qua vai trò của DNV&N là tác nhân động lực thúc đẩy sự chuyển...

pdf84 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 986 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay Lời nói đầu Hơn 20 năm duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá ở Việt Nam, Nhà nước đã tập trung hết các nguồn lực vào phát triển các doanh nghiệp quốc doanh, trong đó chú trọng đến các doanh nghiệp có qui mô lớn đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng như cơ khí, khai khoáng, điện. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) chưa được chú ý đúng mức. Từ năm 1986 đến nay cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế, sang kinh tế thị trường, vai trò của các DNV&N ngày càng được khẳng định. Đến nay các doanh nghiệp (DN) này có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Việc phát triển tốt DNV&N không những góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, mà còn tạo sự ổn định chính trị xã hội của đất nước thông qua vai trò của DNV&N là tác nhân động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Do vai trò to lớn như vậy, nên hiện nay DNV&N được Nhà nước Việt Nam quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên các DN này hiện nay đang đứng trước khó khăn lớn như năng lực quản lý kém, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên rất khó đứng vững trên thị trường quốc tế. Cũng giống như các nước ASEAN và các nước trong khu vực, khởi điểm của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp, nhưng đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Dưới góc độ về kinh tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy, muốn đạt được tăng trưởng cao và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước cần thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khuyến khích sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về DNV&N chưa được giải quyết: từ khái niệm, vai trò, mô hình phát triển đến việc tạo lập môi trường kinh doanh cho các DN này. Nhà nước hiện chưa có cơ chế chính sách thoả đáng khuyến khích hỗ trợ các DN này phát triển. Vì lý do đó bài viết này của em xin trình bày một số quan điểm của mình về “Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay”. Chương I Doanh nghiệp vừa và nhỏ và vai trò của chính phủ I-/ Khái niệm và vai trò của DNV&N. 1-/ Khái niệm về DNV&N. ở Việt Nam hiện nay, phát triển DNV&N đang là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Trong văn kiện Đại hội VIII Đảng ta khẳng định: cần phải ưu tiên phát triển các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh,... Đây thực sự là định hướng đúng đắn để nền kinh tế nước ta thích ứng và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Các nhà kinh tế đã khẳng định sự thành đạt của một số quốc gia về kinh tế - xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các DN vừa và nhỏ, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức cũng như những khẳng định về vai trò, vị trí và chính sách quản lý phát triển DNV&N ở Việt Nam. Theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 Chính phủ Việt Nam đã tạm thời quy định: DNV&N là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, với mục đích chính là mưu cầu lợi nhuận có qui mô DN (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng trường hợp cụ thể. Hiện nay DNV&N là những DN trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động dưới trung bình hàng năm dưới 200 người. Trong thương mại dịch vụ, DNV&N là những DN có vốn sản xuất dưới 3 tỷ đồng và số lao động dưới 200 người. 2-/ Các loại DNV&N. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau, ta có những cách phân loại khác nhau. Các tiêu chí phân loại tuỳ thuộc rất nhiều vào mục đích phân loại. a. Các nhóm tiêu chí phân loại: Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNV&N. Nhưng không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNV&N cho tất cả các nước, và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng ngành nghề, từng địa bàn và từng thời điểm khác nhau. Có hai nhóm tiêu thức phổ biến dùng để phân loại DNV&N: Tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Tiêu chí định tính: dựa trên các đặc trưng cơ bản của các DNV&N như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp,... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được làm cơ sở để phân loại. Tiêu chí định lượng: có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách lao động thường xuyên, lao động thực tế. - Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (hay vốn) cố định, giá trị còn lại. - Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng trên năm. b. Các yếu tố tác động đến phân loại DNV&N. Khi phân loại DNV&N, có rất nhiều yếu tố tác động. Ta có thể nhóm thành các yếu tố sau: - Trình độ phát triển kinh tế của một nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động vốn để phân loại NDV&N sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn, ở nhật bản DN có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là DNV&N, còn DN có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là DN lớn. - Tính chất ngành nghề: Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may) có ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động như (hoá chất, điện). Do đó, cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại DNV&N giữa các ngành khác nhau. Trên thực tế ở nhiều nước người ta thường chia từ hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Chẳng hạn các ngành sản xuất, các ngành dịch vụ. Ngoài ra theo chúng tôi, có thể dùng khái niệm hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau. - Vùng lãnh thổ: Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số lượng và qui mô doanh nghiệp cũng khácn hau. Chẳng hạn một doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ, nhưng nó là lớn đối với các cùng nông thôn. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh qui mô DN giữa các cùng khác nhau. - Tính chất lịch sử: Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với qui mô như vậy, hiện tại hoặc trong tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Chẳng hạn ở Đài Loan năm 1967, trong ngành công nghiệp DN có qui mô dưới 130.000 USD là DNV&N, trong khi đó năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD. Để tính đến trình độ phát triển từng giai đoạn phát triển, trong việc xác định qui mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng DN trung bình (Id). Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác định qui mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác nhau. - Mục đích phân loại: Quan niệm DNV&N sẽ khác nhau nếu người ta phân loại nhằm những mục đích khác nhau. Nếu mục đích phân loại là để hỗ trợ DN yếu, mới ra đời sẽ khác với mục đích là giảm thuế cho các DN công nghệ sạch, hiện đại không gây ô nhiễm môi trường. Để xác định quy mô DNV&N của một nước, trước hết cần xác định qui mô trung bình chung, sau đó xác định các hệ số Ib , Ia , Id . Cần lưu ý thêm là giữa các yếu tố dùng để xác định qui mô doanh nghiệp như vốn, lao động có sự thay thế lẫn nhau. Có thể xác định qui mô doanh nghiệp làm căn cứ để tính số lượng DNV&N trong các ngành nghề trên các địa bàn khác nhau theo công thức: F(Sba) = Error! x Sa F(Sba) qui mô DN thuộc mọi ngành và trên địa bàn cụ thể. Ia , Ib , Id tương ứng là hệ số vùng, ngành và hệ số phát triển qui mô DN. Sa qui mô DNV&N chung trong một nước. c. Một số cách tiếp cận phân loại qui mô DNV&N ở Việt Nam. ở Việt Nam trước đây, khái niệm DNV&N đã được sử dụng để phân loại DNNN với mục đích xác định mức cấp phát trong cơ chế bao cấp và định mức lương cho các giám đốc DN: DN cấp 1, DN cấp 2, DN cấp 3. Tiêu thức phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp TW - địa phương. Theo văn bản pháp lý mới nhất hiện hành thì việc phân loại DN ở Việt Nam theo 5 hạng dựa trên hai nhóm yếu tố là độ phưc tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất, kinh doanh bao gồm 8 tiêu chí: vốn sản xuất-kinh doanh, trình độ công nghệ, phạm vi hoạt động, số lượng lao động, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, lợi nhuận thực hiện, doanh thu và tỉ suất lợi nhuận trên vốn. Cách phân loại này phức tạp với nhiều tiêu chí và chưa tính đến tính chất đặc thù của ngành, nghề và địa bàn. Hơn nữa đối tượng phân loại chủ yếu chỉ giới hạn trong các DNNN. Mục tiêu phân loại là nhằm phục vụ cho việc sắp xếp lại tổ chức quản lý DNNN, làm căn cứ để xếp lương chứ không phục vụ định hướng phát triển DNV&N và hỗ trợ các DN này phát triển. Nhằm định hướng, hỗ trợ cho các DNV&N phát triển, ở một số địa phương và các cơ quan chứcn ăng đã đưa ra các tiêu chí phân loại DNV&N. Ngân hàng Công thương Việt Nam coi DNV&N là những DNV&N có số lao động dưới 500 người, giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, số vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng. ở thành phố Hồ Chí Minh: những DN có vốn pháp định trên một tỷ đồng, lao động trên 100 người và doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng là DN vừa còn dưới 3 tiêu chuẩn trên là DN nhỏ. ở Đồng Nai những DN có doanh thu dưới 100 tỷ đồng/năm là DNV&N. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, cân phân định DNV&N theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất DN có vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là DN nhỏ, DN có 1-10 tỷ đồng vốn và 100-500 lao động là DN vừa. Trong thương mại, dịch vụ: DN có dưới 500 triệu đồng và dưới 50 lao động là DN nhỏ, DN có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng và lao động từ 50-250 người là DN vừa. Bảng 1: Mức độ quan trọng của các tiêu chí phân loại DNV&N Tiêu chí Tỷ lệ % theo mức độ quan trọng giảm dần 1 2 3 Vốn sản xuất 55,2 34,5 4,6 Doanh thu 33,3 29,9 29,9 Lao động thường xuyên 4,6 29,9 10,3 Bảng 2: Quy mô DN được coi là lớn theo lĩnh vực Tiêu chí Lĩnh vực sản xuất Thương mại, dịch vụ Trị số tiêu chí Tỷ lệ ý kiến (%) Trị số tiêu chí Tỷ lệ ý kiến (%) Vốn sản xuất (đồng) trên 1 tỷ 3,4 trên 500 triệu 3,4 trên 5 tỷ 9,2 trên 1 tỷ 5,7 trên 10 tỷ 37,9 trên 5 tỷ 50,6 trên 20 tỷ 50,6 trên 10 tỷ 40,2 Lao động (người) trên 100 8,0 trên 50 10,3 trên 200 9,2 trên 100 26,1 trên 300 37,9 trên 200 39,1 trên 500 46,0 trên 300 20,7 Kết quả điều tra về tác động của chính sách đối với DNV&N ở các tỉnh phía Bắc số phiếu đạt 187 đối tượng điều tra bao gồm 3 nhóm đối tượng. - Quan chức hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách 33,9%. - Chủ DNV&N và những người hoạt động kinh doanh 28,7%. - Khác (trung gian giữa DN và quan chức NN) 13,05% 3-/ Vai trò của các DNV&N. Vai trò của các DNV&N ở nhiều nước được biết đến như là các cơ sở sản xuất - kinh doanh có khả năng: - Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp. - Cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hoá và dịch vụ. - Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh. - Góp phần giảm bớt chênh lệch thu nhập trong xã hội. - Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. - Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. - Phát huy và tận dụng các nguồn lực ở địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế,... Bảng 3: Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các DNV&N ở một số nước Châu á Nước Thu hút lao động (%) Giá trị gia tăng (%) Singapore 35,2 26,6 Malaisia 47,8 36,4 Hàn Quốc 37,2 21,1 Nhật Bản 55,2 38,8 Hồng Công 59,3 Vai trò của các DNV&N trước hết thể hiện ở mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia: thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng, góp phần tăng trưởng kinh tế là tầng cơ sở trong cấu trúc của nền sản xuất xã hội. Số liệu thống kê của các nước cho thấy, tỷ trọng thu hút lao động, tạo ra giá trị gia tăng của khu vực các DNV&N ở một số nước khu vực Châu á là đáng kể. Từ số liệu thống kê của các nước và số liệu ở bảng 3 ta có thể thấy các DNV&N chiếm 81 đến 98% số DN, thu hút 30-60% lao động và tạo là 20-40% giá trị gia tăng trong nền kinh tế ở các nước này. Như vậy, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay thấp, DNV&N vẫn có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của các nước. ở Việt Nam nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu là sản xuất nhỏ nên DNV&N chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số DN và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều đó được thể hiện: a. Đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế: Năm 1993 DNV&N tạo ra 25% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp và 54% giá trị công nghiệp địa phương, chiếm 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng sản lượng vận chuyển hàng hoá. Trong nhiều ngành nghề như gỗ xẻ, chiếu cói, giầy dép,... DNV&N sản xuất 100% sản phẩm, đóng góp phần lớn giá trị gia tăng, góp phần đáng kể vào việc tăng trưởng kinh tế. b. Tạo việc làm cho người lao động. Bảng 4: Vai trò của DNV&N qua kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu Vai trò Tỷ lệ ý kiến, % Góp phần tăng trưởng kinh tế 51,7 Tạo việc làm, thu hút vốn, tăng thu nhập 88,5 Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn 72,8 Để phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam 63,2 Việc làm là vấn đề cấp bách hiện nay ở Việt Nam. Với tốc độ tăng dân số trên 2%, hàng năm cả nước có thêm một triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu về việc làm, đó là chưa kể số người thất nghiệp và bán thất nghiệp. Thực tế vừa qua cho thấy, riêng khu vực quốc doanh, năm cao nhất cũng chỉ thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động. Trong khi đó, chỉ riêng kinh tế cá thể trong công nghiệp và thương mại năm 1995 đã thu hút được 3,5 triệu lao động, các công ty và DN tư nhân thu hút gần nửa triệu lao động. Riêng trong công nghiệp, các cơ sở kinh tế này thu hút các cơ sở kinh tế này thu hút 50% tổng số lao động. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các DNV&N khoảng 740 ngàn đồng chỉ bằng 3% trong các DN lớn. Nếu tính thêm cả số lao động ngoài doanh nghiệp do các DNV&N tạo ra với hệ số mở rộng việc làm là 1,2 thì số lao động do các doanh nghiệp này thu hút có thể lên tới 4-4,5 triệu người. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của các DNV&N trong việc tạo việc làm. Thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu là bằng vốn của dân. Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu ở Bảng 4 cho thấy, vai trò của các DNV&N trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập được đánh giá cao nhất 88,5%. Tuy vậy, số lao động do các DNV&N thu hút mới chỉ chiếm 12-15% lực lượng lao động, so với các nước trong khu vực 50-60% thì còn quá thấp, chưa phát huy hết tiềm năng của các DN này. c. Thu hút vốn: Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng doanh nghiệp. Nhờ có vốn mới có thể kết hợp được với các yếu tố khác như: lao động, đất đai, công nghệ và quản lý. Thực tế cho thấy để đầu tư cho một chỗ làm việc ở Việt Nam, trung bình phải mất 5-10 triệu đồng tiền vốn. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân và trình độ quản lý cho chủ doanh nghiệp. Vốn có vai trò trong quan trọng trong việc mở rộng qui mô sản xuất,.... Tuy nhiên, một nghịch lý hiện nay là các DN thiếu vốn trầm trọng trong khí đó vốn trong dân còn nhiều nhưng không huy động được. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư thiếu và vốn không ổn định. Trong tình trạng đó, chính các DNV&N là người trực tiếp, tiếp xúc với người cho vay, gây được niềm tin nên có thể huy động được vốn, hoặc chính người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh. Thực tế cho thấy năm 1994, trong công nghiệp, thương mại, vận tải, xây dựng, các DNV&N đã đầu tư 4.150 tỷ đồng chiếm 45,6% tổng số vốn đầu tư trong các lĩnh vực này. d. Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Sự phát triển các DNV&N làm tăng tính cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế do số DN tăng lên rất lớn kéo theo sự tăng lên nhanh chóng số lượng các mặt hàng, công nghệ và tạo điều kiện chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế có tác dụng hỗ trợ cho các DN lớn kinh doanh có hiệu quả hơn. Các DNV&N có thể làm đại lý vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hoá, cung cấp các đầu vào những nguyên liệu, thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn không với tới. Một điều quan trọng là vốn của các DNV&N trong đó phần lớn là khu vực tư nhân, chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Do vậy, việc tăng các cơ sở này càng làm cho nền kinh tế phát triển hiệu quả kinh tế cao hơn trong tương lai gần. Tuy nhiên cần lưu ý là nếu DN có qui mô quá nhỏ thì hiệu quả kinh tế sẽ khó tăng lên được. Điều này đưa ra những gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế trong tương lai. e. Khai thác tiềm năng rất phong phú trong dân. Hiện nay, còn nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác, tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, vốn, điều kiện tự nhiên, bí quyết nghề, quan hệ huyết thống. Việc phát triển các doanh nghiệp sản xuất các ngành truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà hiện đang có xu hướng bị mai một dần, thu hút lao động nông thôn, phát huy lợi thế của từng vùng để phát triển kinh tế. f. Nâng cao thu nhập của dân cư. Việt Nam là một nước nông nghiệp năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Thu nhập của dân cư nông thôn chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp thuần nông. Việc phát triển các DNV&N ở thành thị cũng như ở nông thôn là phương hướng cơ bản nhằm tăng nhanh thu nhập của dân cư. Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu Học viện chính trị Quốc gia TP. HCM tháng 10/1995 cho thấy, thu nhập của dân cư vùng có các DN phát triển gấp 4 lần thu nhập của các vùng thuần nông. Kết quả khảo sát ở một số địa phương cũng cho thấy thu nhập bình quân trong các doanh nghiệp khoảng 200-300 ngàn đồng/tháng gấp 2-3 lần thu nhập của một hộ nông dân. Điều không kém quan trọng là thu nhập của dân cư được đa dạng hoá vừa có ý nghĩa nâng cao mức sống của dân cư, vừa làm cho cuộc sống giảm bớt rủi ro hơn, nhất là những vùng chịu ảnh hưởng lớn của thiên tai. g. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với khu vực nông thôn. Việc phát triển các DNV&N có ý nghĩa lớn trong việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hơn nữa, sự phát triển mạnh các DNV&N làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Không những thế, sự phát triển DNV&N làm cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi. Các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, các DNNN được sắp xếp và củng cố lại nhằm kinh doanh có hiệu quả và phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tái ngành nghề cũng được phát triển đa dạng, phong phú lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Việc phát triển các DNV&N cũng có tác dụng làm cho các DN được phân bổ đều hơn về lãnh thổ: cả nông thôn và đô thị miền núi, đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay các DNV&N vẫn chủ yếu tập trung vào các đô thị lớn. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính sách. Ngoài ra, DNV&N có vai trò trong việc gieo mầm cho các tài năng kinh doanh. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với Việt Nam. Vì trong nhiều năm qua, đội ngũ kinh doanh gắn liền với cơ chế bao cấp, chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường. Sự phát triển của các DNV&N có tác dụng đào tạo, chọn lọc, thử thách qua thực tế đội ngũ “sĩ quan” trên mặt trận sản xuất kinh doanh. II-/ Vai trò của chính phủ trong việc phát triển các DNV&N. 1-/ Các nhân tố tác động đến DNV&N a. Trình độ lao động và quản lý. Nhìn chung các DNV&N lao động ít được đào tạo một cách bài bản mà chủ yếu theo những phương pháp truyền nghề, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Qua số liệu điều tra kinh tế quốc doanh thời kỳ mở cửa 1991-1995 - NXB Thống Kê 1996 cho thấy 74,8% lao động trong các DNV&N chưa học hết lớp 10, chỉ có 5,3% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong đó chủ yếu tập trung vào các công ty TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%). Ngoài ra, lao động ít được đào tạo nghề, nâng cao tay nghề, do đó mà ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, năng suất lao động thấp. Về chủ DN: chủ doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh phần lớn mới làm quen với cơ chế thị trường, nên còn nhiều bỡ ngỡ. Trong khu vực ngoài quốc doanh, phần lớn các doanh nghiệp mới được thành lập nên chủ DN chưa được đào tạo. Trong số các chủ DN quốc doanh, 42,7% là những người đã từng là cán bộ, công nhân viên Nhà nước đứng ra lập nghiệp. Trên 60% số chủ DN có độ tuổi trên 40, 48,2% số chủ DN không có bằng cấp, chỉ có 31,2% số chủ DN có trình độ từ cao đẳng trở lên. b. Môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh là yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động của DN. Khái niệm môi trường kinh doanh rất rộng và có nhiều cách phân loại khác nhau. Theo cách phân loại khá phổ biến hiện nay, môi trường kinh doanh bao gồm: môi trường kinh tế trong đó yếu tố quan trọng nhất là thị trường; môi trường thể chế, quản lý, môi trường chính trị xã hội, môi trường khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường tự nhiên. Để các DNV&N có thể phát triển thuận lợi, môi trường kinh doanh cần phải ổn định, thuận lợi, an toàn. Các yếu tố ảnh hưởng của môi trường kinh doanh phải đồng bộ. ở Việt Nam, việc chuyển sang cơ chế thị trường và những cố gắng của Nhà nước trong việc cải cách nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội bước đầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N phát triển. Điều đó thể hiện trên thực tế như bảo đảm ổn định chính trị, kiềm chế lạm phát xử lý lãi suất, theo quan hệ thị trường, ban hành một số luật, cải cách hệ thống thuế, khuyến khích xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy vậy, môi trường kinh doanh chung còn thiếu và chưa thuận lợi. Để các DNV&N hoạt động có hiệu quả, hiện cần phải giải quyết nhiều vấn đề để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi. Do điều kiện không cho phép, ở đây chỉ nêu một số yếu tố quan trọng và cấp bách hiện nay trong môi trường kinh doanh đối với DNV&N ở nước ta. Môi trường luật pháp: hệ thống pháp luật chung cho toàn bộ nền kinh tế chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng. Trong các luật đã ban hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Luật công ty còn nhiều hạn chế, các chủ sở hữu nắm quyền sở hữu toàn bộ tài sản, những pháp nhân công ty chưa rõ ràng. Luật doanh nghiệp tư nhân qui định thủ tục quá rườm rà, phải qua nhiều khâu. Hiện có nhiều luật điều chỉnh cùng một nhóm đối tượng gần giống nhau gây khó khăn cho việc đăng ký kinh doanh và kiểm soát hoạt động của chúng. Thiếu bình đẳng giữa luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều văn bản luật cũ không còn phù hợp nhưng chưa được rà soát kịp thời, nhất là luật thuế, luật đất đai, thậm chí có nhiều văn bản pháp qui còn trái với luật. Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh đã dẫn đến tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, gây rối loạn trong hoạt động kinh doanh. Riêng đối với DNV&N ở nhiều nước có các luật khuyến khích riêng. Chẳng hạn ở Hàn Quốc có Luật SME (1966), Luật khuyến khích SME (1978). Nhiều nước khác, đều có luật riêng để khuyến khích các DNV&N. ở Việt Nam chưa có các luật để khuyến khích các DNV&N phát triển phù hợp với khả năng của các DN này. Môi trường thị trường: thị trường là một trong những khó khăn đối với các DNV&N, cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Nói đến khó khăn về thị trường phải nói đến hai nguyên nhân: từ phía DNV&N do chưa thích nghi kịp thời với thị trường, sản phẩm xấu, kém, giá thành cao nên không thâm nhập được thị trường và từ phía Nhà nước tạo lập môi trường thị trường. Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới có thị trường hàng hoá và dịch vụ, còn các loại thị trường khác chưa có hoặc còn manh nha. thị trường còn bị độc quyền và đặc quyền nặng nề, làm cho các DNV&N ngay từ khi mới ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức. Thị trường đầu vào như đất đai, vốn,... đang là khó khăn lớn. DNV&N khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp, đặc biệt là nông thôn mà phần lớn là các DNV&N chưa vươn ra được thị trường ngoại tỉnh và nước ngoài. Thị trường đầu ra bị chèn ép do hàng ngoại nhập lậu tràn lan, phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh, thiếu thông tin hướng dẫn về thị trường. Về thị trường ngoài nước: do hạn chế về công nghệ, chất lượng sản phẩm, thiếu thông tin và ít có điều kiện tiếp xúc với thị trường nước ngoài nên khó xuất khẩu. Hơn nữa, chính sách xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc qui định mức vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp. Trên thực tế các DNV&N nước ta, chủ yếu làm gia công cho các tổ chức trung gian và ngoài nước, xuất khẩu uỷ thác qua các DN Nhà nước qui mô lớn. Kết quả điều tra ở Hải Hưng và Nam Hà tháng 8/1996 cho thấy những khó khăn về thị trường là do: Khó tiêu thụ sản phẩm do sản phẩm của các DNV&N khó được các DN tiêu dùng chấp nhận do: - Hàng hoá chất lượng thấp: 78,2%. - Sức mua thấp: 46%. - Không cạnh tranh được với hàng ngoại 74,7%. - Thiếu thông tin về thị trường 77%. - Trình độ, năng lực quản lý của người sản xuất hạn chế 86,2% Như vậy khó khăn về thị trường do cả hai phía một mặt, do năng lực, trình độ hạn chế của các DNV&N như chất lượng hàng hoá thấp, trình độ quản lý kém. Mặt khác do môi trường thị trường chưa tốt, sức mua thấp giá đầu tư vào cao, thiếu thông tin, bị hàng ngoại chèn ép. c. Khó khăn về nguồn vốn. Theo kết quả của nhiều cuộc điều tra và đánh giá của các chuyên gia kinh tế, so với các doanh nghiệp quốc doanh Nhà nước các DNV&N gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng chính thức lý do đặc biệt là các DNV&N tư nhân vì: - Vốn tự có của các DNV&N thấp. - Không đủ thế chấp. - ít quan hệ với ngân hàng. - Không được hưởng chế độ trợ cấp về vốn, hoặc bất cứ một hỗ trợ khác. - Lãi suất cao thị trường vốn chưa phát triển. - Thị trường thuê mua tài chính chưa phát triển. Từ các nguyên nhân này có thể thấy rằng các DNV&N đã hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thế cạnh tranh không tương xứng với các DNV&N. Theo lý thuyết về kinh tế vi mô, với giả thiết là các yếu tố khác giữ nguyên thì chi phí đầu vào tăng lên sẽ dẫn đến lợi nhuận giảm. Trên thực tế các DNV&N đặc biệt là các DNV&N tư nhân hoạt động bằng nguồn vốn tự có và ít ỏi họ tăng vốn bằng cách gọi vốn góp trích từ lợi nhuận không chia, vay bạn bè và vay từ nguồn phi chính thức làm hạn chế đến khả năng sinh lãi của các doanh nghiệp. Mặt khác do cơ chế cho vay của ngân hàng, các DN đã sử dụng vốn không đúng mục đích như vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn và hoạt động của doanh nghiệp. Thêm vào đó, do thiếu đất để mở rộng, xây dựng doanh nghiệp, quyền sử dụng đất đai không rõ ràng khiến các doanh nghiệp khó sử dụng đất để thế chấp. Điều đó, phần nào làm các doanh nghiệp tốn nhiều thời gian và mất cơ hội kinh doanh. Do không đủ vốn để đầu tư cho công nghệ và trang thiết bị hiện đại, dẫn đến tiêu hao nhiều nguyên liệu, giá thành cao, sức cạnh tranh yếu đã trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. d. Khó khăn về tiêu thụ sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Phần lớn các DNV&N đều tiêu thụ sản phẩm trong một thị trường hẹp. Do thiếu vốn nên các doanh nghiệp này không có khả năng mở chi nhánh đại diện ở các tỉnh khác và nước ngoài, làm hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đối với các hộ sản xuất hàng hoá bán trên thị trường trong nước là chủ yếu, theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, với các hộ sản xuất thủ công nghiệp ở nông thôn, thị trường trong nước chiếm 98,7% xuất khẩu qua uỷ thác 1,3%. Theo số liệu điều tra của 12 tỉnh phía Nam, năm 1994 có 51% số lao động của các công ty trách nhiệm hữu hạn tập trung trong ngành may mặc và giày da. Do qui định của Nhà nước trong thương mại, chỉ những DN có vốn từ 200 nghìn USD trở lên mới có thể được phép xuất khẩu trực tiếp nên phần lớn các DNV&N đặc biệt là các DNV&N tư nhân phải xuất khẩu uỷ thác qua các công ty Nhà nước. Ngoài hậu quả là các DNV&N thiếu thông tin về nhiều mặt, thiếu khả năng cải tiến mẫu mốt, việc xuất khẩu uỷ thác đã làm tăng chi phí sản xuất của các DNV&N sản xuất hàng xuất khẩu. Khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu đã hạn chế về khả năng phát triển về cả số lượng và chất lượng các DNV&N. e. Các nhân tố khác. Tình hình thiết bị công nghệ: thiết bị công nghệ trong DNV&N rất lạc hậu chỉ trừ một số ít các DN mới thành lập, còn phần lớn sử dụng công nghệ lạc hậu tới 20-50 năm so với các nước trong khu vực theo số liệu chính sách hỗ trợ phát triển các DNV&N. Năng lực kỹ thuật công nghệ hạn chế, trang bị vốn thấp. Do đó mà năng suất thấp giá thành cao rất khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Cho đến nay các DNV&N rất khó liên doanh được với nước ngoài do chưa được thực hiện quyền chuyển đổi mục đích sử dụng đất và do khó khăn trong việc được cấp đất để kinh doanh và góp vốn vào liên doanh. Điều này đã hạn chế khả năng tiếp cận với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong khi nguồn vốn trong nước còn hạn chế thì đây là thiệt hại không chỉ cho DNV&N mà còn cho cả nền kinh tế, vì nếu đầu tư tăng trong khi các yếu tố khác không đổi sẽ dẫn đến tăng thu nhập cho toàn bộ nền kinh tế. 2-/ Vai trò và sự cần thiết của các chính sách hỗ trợ DNV&N của Chính phủ. Vai trò của Nhà nước đối với doanh nghiệp, trong đó có cả các DNV&N thể hiện trước hết bằng việc thực hiện các chức năng của quản lý Nhà nước. a. Hình thành khung khổ pháp lý. Việc tạo lập khung khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác là điều kiện quan trọng đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ. Trong khung khổ pháp lý cần làm rõ các vấn đề sau: Xác định rõ đối tượng điều chỉnh: tiêu chí phân loại DNV&N cũng như khung khổ các trị số cho từng tiêu chí. Có giải pháp khung để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các DNV&N. ở Việt Nam hiện nay, do pháp luật chưa qui định thế nào là DNV&N cũng như chưa có giải pháp khung về hỗ trợ các DNV&N này nên việc xác định đối tượng, phạm vi, cách thức hỗ trợ rất khó khăn phức tạp. Do đó nhiều chương trình hỗ trợ không thu được kết quả, hiệu quả của việc hỗ trợ quá thấp, tạo kẽ hở cho tham những gây thất thoá lớn tài sản của Nhà nước cũng như các tổ chức tài trợ trong và ngoài nước. b. Hình thành các cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước đối với các DNV&N. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có cơ quan nào chuyên trách về quản lý Nhà nước đối với các DNV&N. Việc quản lý các DN này do nhiều cơ quan ở nhiều cấp khác nhau quản lý theo hình thức đăng ký kinh doanh. Hơn 400 DN qui mô vừa và nhỏ do các bộ các ngành hoặc do một số cơ quan quản lý. Hơn 24.000 công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân do các phòng ban ngoài quốc doanh trong các bộ, ngành quản lý. Hơn 4.000 doanh nghiệp tập thể do nhiều đầu mối quản lý. Các hộ kinh doanh đăng ký theo Nghị định 66/HĐBT do cấp huyện, quận quản lý. Trên thực tế các DNV&N vừa không có cơ quan quản lý trực tiếp vừa có quá nhiều đầu mối “quản” đó là: các cơ quan chính quyền các tổ chức xã hội, thậm chí cả các tổ chức đoàn thể,... Do đó, đã đến lúc cần thành lập cơ quan chuyên trách quản lý Nhà nước đối với các DNV&N theo lĩnh vực. Cơ quan này cần được thành lập ít nhất trong hai lĩnh vực: Công nghiệp và thương mại. Chẳng hạn Cục quản lý DNV&N thuộc Bộ Công nghiệp, Cục quản lý DNV&N thuộc Bộ Thương mại. Hai cơ quan quản lý này có chức năng chủ yếu như: - Giúp Nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các DNV&N. - Nắm bắt tình hình nguyện vọng của các DNV&N, dự báo xu hướng phát triển. - Cung cấp thông tin cần thiết về thị trường, công nghệ, lao động,... cho các DNV&N. - Thực hiện các chương trình hỗ trợ các DNV&N về các mặt như: chuyển giao công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, hỗ trợ vốn,... - Thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm. - Quản lý môi trường. - Đào tạo chủ DN. - Kiểm tra việc chấp hành luật pháp của các DNV&N. - Hợp tác quốc tế về DNV&N,... c. Khuyến khích phát triển các cơ sở hỗ trợ. Nhu cầu hỗ trợ của các DNV&N rất lớn mà khả năng cũng như tiềm lực của đất nước thì có hạn. Do đó, để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của các DN này, cần thiết phải huy động lực lượng hỗ trợ của toàn xã hội. Do đó cần khuyến khích thành lập các công ty hỗ trợ các DNV&N. Đây là giải pháp khá hiệu quả vì: Nhà nước chỉ cần có chính sách hợp lý và hỗ trợ một phần cho các công ty làm chức năng hỗ trợ mà không cần đầu tư nhiều nguồn lực của Nhà nước mà vẫn đạt được mục đích. Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với các DNV&N thông qua các chương trình, dự án về tài chính. Cả ba phía Nhà nước, người thực hiện hỗ trợ và người được hỗ trợ đều có lợi. Cho phép thực hiện hỗ trợ theo những phương thức ứng xử thị trường thay cho phương thức cung cấp không mất tiền thường dẫn đến trì trệ, ỷ lại và dễ thất thoát. 2.2. Sự cần thiết phải hỗ trợ. Sự cần thiết phải hỗ trợ các DNV&N xuất phát từ các vai trò của các DN này và những lợi ích to lớn do việc hỗ trợ đó mang lại cả cho chính các DN này và cũng có lợi đối với Nhà nước (mà trước hết là thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô và toàn xã hội). a. Những lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với các DNV&N. Các DN này quá yếu ớt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt với những hạn chế như đã nói ở trên. Do đó, để các DN này phát huy được vai trò của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa có nhiều vấn đề mà các DN không thể tự giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rông thị trường, đào tạo nguồn nhân lực,... Nhiều vấn đề khác nếu được sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho DN, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, hầu hết các nước trên thế giới đều phải hỗ trợ các DNV&N. b. Lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với Nhà nước và xã hội: Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các DN mà có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể hiện trên các mặt: - Trước hết sự hỗ trợ các DN là cách thức để nuôi dưỡng các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. - Hỗ trợ DN là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước thay vì Nhà nước phải đầu tư trực tiếp để thành lập các DNNN như mô hình kinh tế hiện vật trước đây bằng việc hỗ trợ cho các DN đã có, đặc biệt là các DN khu vực tư nhân. - Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất hiệu quả hơn vì vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước. - Bằng việc hỗ trợ các DNV&N, Nhà nước cũng có thể giải quyết những vấn đề xã hội như thất nghiệp mà bất cứ nước nào cũng phải đương đầu, tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước: thay vì chỉ thành lập mới các DNNN, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho một số lượng DN đã có nhiều gấp bội. - Ngoài ra, Nhà nước có thể thông qua chính sách hỗ trợ để định hướng phát triển các DNV&N. 3-/ Cơ chế mô hình hỗ trợ DNV&N của Chính phủ. Nói đến cơ chế và mô hình hỗ trợ DNV&N là nói đến các mục đích, nội dung, phương pháp hay cách thức, công cụ hỗ trợ các DN này. ở nhiều nước cơ chế và mô hình hỗ trợ có một số điểm giống nhau, nhưng cũng có nhiều điểm rất khác nhau do điều kiện, mục tiêu, trình độ phát triển của các nước rất khác nhau. Những điểm chung có thể là: - Xác định mục tiêu hỗ trợ DNV&N: chủ yếu là nhằm tạo điều kiện cho các DN này phát huy được vai trò, tiềm năng vốn có của chúng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội mà nếu chỉ riêng các DN lớn thì không thể giải quyết nổi. Nội dung hỗ trợ bao gồm những vấn đề rất thiết thực đối với các DNV&N để các DN này tiến hành hoạt động kinh doanh thuận lợi. Có quan điểm, chiến lược, chính sách kinh doanh cởi mở để hỗ trợ để khuyến khích các DN này phát triển. Hỗ trợ tạo lập môi trường kinh doanh, thông tin, cơ sở hạ tầng, thị trường, môi trường xã hội an toàn. Hỗ trợ các yếu tố đầu vào như: vốn, công nghệ, lao động, quản lý. Hỗ trợ các yếu tố đầu ra liên quan tới hàng hoá, dịch vụ,.... Phương pháp hỗ trợ: có thể bằng phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua môi trường. Phương pháp hỗ trợ trực tiếp: Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, cấp vốn trực tiếp, cung cấp mặt bằng sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin xây dựng cơ sở hạ tầng,... Hỗ trợ gián tiếp: Chủ yếu là hỗ trợ thông qua cơ chế, chính sách tác động vào môi trường kinh doanh để điều chỉnh hoạt động của DN. ổn định chính trị - xã hội, tạo lập thị trường khuyến khích thành lập các hội nghề nghiệp, các trung tâm hỗ trợ, đào tạo các nguồn nhân lực, miễn giảm thuế hỗ trợ cho các DN mới thành lập được vay vốn, tạo điều kiện để các DNV&N hợp tác liên doanh với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước,... Công cụ hỗ trợ: Thông qua các công cụ quản lý Nhà nước như chiến lược, kế hoạch - quy hoạch, chính sách bộ máy, cán bộ. Để hỗ trợ các DNV&N có kết quả tốt, nhất thiết phải có hệ thống cơ chế với mô hình hỗ trợ đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, công cụ hỗ trợ. Mô hình hỗ trợ thành phần, liều lượng các yếu tố, cách thức tác động, trình tự tác động,... cần phải phù hợp với từng thời kỳ trong từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, thời kỳ đầu của sự phát triển thì chiến lược là yếu tố rất quan trọng, còn trong thời kỳ phát triển ổn định thì chính sách lại là công cụ rất quan trọng. Như vậy xét trong dài hạn chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ các DNV&N. Các chính sách tác động trực tiếp đến các DNV&N bao gồm: Chính sách kinh tế vĩ mô tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có các DNV&N. Các chính sách cụ thể hỗ trợ DNV&N: - Tín dụng. - Hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ, thiết bị. - Đào tạo nguồn nhân lực. - Chính sách thị trường lao động, thị trường sản phẩm. - Liên kết với các công ty lớn. - Hỗ trợ xuất khẩu. - Phát triển cơ sở hạ tầng. - Chính sách về bảo vệ môi trường. Hiện nay cơ chế và mô hình hỗ trợ các DNV&N ở nhiều nước theo hướng sau: - Hỗ trợ theo cơ chế kinh doanh có vay có trả hơn là cho không, vì việc bao cấp cho không thường gây ra tâm lý trồng chờ, ỷ lại và đặc biệt là sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả. Chẳng hạn áp dụng cho vay vốn lãi suất thấp hoặc trợ cấp lãi suất thay cho việc cấp vốn không lãi suất, hoặc cấp vốn không hoàn lại. - Hướng gián tiếp nhiều hơn trực tiếp: nhằm tạo lập cho các DNV&N cách ứng xử theo cơ chế thị trường. - Công khai rõ ràng hơn tránh độc đoán, sách nhiễu, hối lộ. - Phân quyền cho chính quyền địa phương nhiều hơn là tập trung vào Nhà nước Trung ương, tăng cường các tổ chức phi chính phủ hội nghề nghiệp, công ty tư vấn tư nhân,... - Bao quát toàn bộ nền kinh tế hơn là chính sách theo thành phần, nhóm doanh nghiệp. Chỉ nên có một số chính sách riêng cho DNV&N nhưng đặt trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. - Đề cao vai trò của cộng đồng và chính sách đào tạo nguồn nhân lực. III-/ Kinh nghiệm của chính phủ các nước trong hỗ trợ phát triển các DNV&N. Do vai trò to lớn của các DNV&N nên Chính phủ nhiều nước rất quan tâm khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DN này. Các hình thức hỗ trợ DNV&N ở các nước rất đa dạng và phong phú, phổ biến là các hình thức dưới đây: - Tạo hành lang pháp lý cho các DNV&N. - Chiến lược khuyến khích phát triển. - Chính sách ưu đãi về thuế, lãi suất đối với các doanh nghiệp này. - Thành lập các cơ quan chuyên trách hỗ trợ về Marketing, công nghệ thị trường cho DNV&N. - Khuyến khích thành lập các tổ chức đại diện của các DNV&N. 1-/ Tạo khung khổ pháp lý khuyến khích phát triển DNV&N Đây là một trong những vấn đề rất cơ bản làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các chính sách, giải pháp hỗ trợ các DNV&N. Do vậy ở các nước ngoài cơ sở pháp lý chung cho các DN còn có luật về DNV&N. Dưới đây là một số luật đặc thù cho các DNV&N ở một số nước. Philippines: có ít nhất 16 văn bản pháp lý dưới dạng sắc lệnh của Tổng thống, Luật, Nghị định của các Bộ, qui định của Nhà nước có liên quan tới phát triển các DNV&N trong công nghiệp, thương mại thuộc cả khu vực DNNN và khu vực tư nhân ở nước này. CHLB Đức: có luật doanh nghiệp nhỏ (1996) quy định điều kiện được công nhận là DN nhỏ, tiêu thức về đào tạo nghề và điều kiện tay nghề của những người dạy nghề đối với DN nhỏ, kiểm tra tay nghề đối với đốc công, điều kiện cung cấp tài chính,... Đài Loan: có sắc lệnh của Tổng thống (1991) và đạo luật về cấp vốn cho việc phát triển các DNV&N. Đạo luật này qui định về phân loại DNV&N, khuyến khích giúp đỡ và hỗ trợ DNV&N. Cung cấp tài chính khuyến khích mở rộng thị trường, miễn giảm thuế, thành lập uỷ ban hoạch định chính sách,... Hàn Quốc: có một số đạo luật về DNV&N. Có 12 đạo luật về DNV&N (1996), đạo luật về hợp tác giữa các DNV&N nhỏ (1991), luật phối hợp giữa các thành phần của DNV&N (1961), luật khuyến khích hệ thống thầu phụ (1975), luật khuyến khích DNV&N (1978), luật về mua sản phẩm của các DNV&N (1981), luật về thúc đẩy các DNV&N mới thành lập (1989), luật về ngân hàng DNV&N (1961), luật về tài trợ các DN sử dụng công nghệ mới (1989).... Nội dung của các luật này: Đạo luật cơ bản về DN nhỏ (1966) xác định khái niệm DN nhỏ, vạch ra định hướng cơ bản thúc đẩy DN nhỏ, thành lập uỷ ban rà soát chính sách liên quan tới DN nhỏ do Thủ tướng đứng đầu. Đạo luật về hợp tác giữa các DN nhỏ, ủng hộ thành lập hợp tác xã cho phép thành lập quĩ tương trợ DNV&N. Luật khuyến khích DNV&N (1978): hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho việc hiện đại hoá DN, hỗ trợ các DN mới thành lập, khuyến khích hợp tác. Tóm lại, hệ thống khung khổ pháp lý ở các nước được tạo ra nhằm: Thiết lập khái niệm khung về DN và khẳng định vai trò của các DNV&N được thừa nhận về mặt pháp lý cũng như khuyến khích tìm kiếm mọi giải pháp nhằm phát triển các DNV&N. 2-/ Thành lập các cơ quan Nhà nước chuyên trách về các DNV&N. ở các nước đều có cơ quan Nhà nước chuyên trách về các DNV&N. Mỹ: Tổng cục các vấn đề kinh tế nhỏ được thành lập từ 1953. Pháp: Uỷ ban quốc gia về công nghiệp nhỏ và vừa thành lập năm 1961 Inđônêsia: Có ban công nghiệp nhỏ thuộc Bộ công nghiệp với chức năng thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với các DNV&N như lập kế hoạch và chương trình phát triển, xúc tiến phát triển các DNV&N. Malaisia: phòng công nghiệp nhỏ thuộc Bộ công nghiệp thương mại thành lập năm 1989, với chức năng lập chương trình phát triển DNV&N, cung cấp tài chính, nối kết các hợp đồng kinh tế giữa DNV&N, cung cấp cơ sở dữ liệu cho Chính phủ hoạch định chính sách. ở nước này có tới 13 bộ và 30 cơ quan công cộng tham gia dưới hình thức này hay hình thức khác vào việc phát triển DNV&N. Philippines: có các tổ chức uỷ ban DN nhỏ và vừa, phòng phát triển kinh doanh, phòng công thương là cơ quan cao nhất về phối hợp thực hiện chính sách và kế hoạch phát triển các DNV&N. Singapore: có vụ DNV&N thuộc Bộ phát triển công nghiệp,... Ngoài ra Nhà nước thành lập các mạng lưới gồm các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ để hỗ trợ các DNV&N, từ các trường đại học cơ quan máy tính quốc gia, cơ quan phát triển thương mại, các tổ chức tài chính các trung tâm tư vấn. Thái Lan: Vụ khuyến khích phát triển công nghệ thuộc Bộ công nghiệp với chức năng chủ yếu là xúc tiến phát triển DNV&N, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, tư vấn cho các doanh nghiệp này. Nhật Bản: có hãng DNV&N thuộc Bộ công nghiệp ngoại thương (HITI) với chức năng chính là quyết định những vấn đề liên quan đến phát triển các DNV&N. Như vậy các cơ quan quản lý Nhà nước ở các nước phần lớn là các bộ phận nằm trong các Bộ có thể là Tổng cục, ban, uỷ ban, vụ,... với chức năng quản lý và định hướng phát triển cho các DNV&N. 3-/ Chiến lược phát triển và chính sách hỗ trợ DNV&N. Chiến lược phát triển các DNV&N: chủ yếu theo các hướng như: Xác định rõ ngành nghề cần hỗ trợ nhằm thực hiện các mục tiêu của từng nước, việc làm thu nhập,... hoạt động cần hỗ trợ đào tạo, mở rộng qui mô, hiện đại hoá DN, nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới,... Có giải pháp định hướng cho từng giai đoạn. Chính sách hỗ trợ DNV&N: chủ yếu tập trung vào chính sách thuế, vốn, đào tạo, công nghệ. ở CHLB Đức: các DN có lợi nhuận hàng năm dưới 2 triệu DM chỉ phải nộp thuế bằng 50% các hàng lớn. Chín phủ Đức tăng tài trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học - ứng dụng và đổi mới các DNV&N năm 1988 là 749 triệu DM năm 1989 là 736 triệu DM, năm 1990 là 675 triệu. Chính phủ Đức có kế hoạch trợ giúp DNV&N hoạt động trong điều kiện thị trường chung Châu Âu. Chi phí của Nhà nước Đức cho các DNV&N năm 1991 là 1,3 tỷ DM. Nhật Bản: mức thuế thu nhập đánh vào các DNV&N chỉ bằng 1/3 các DN lớn. Pháp trong 5 năm đầu mới hoạt động, DN được giảm 75% thuế. Ngoài ra, nhiều nước sử dụng các hình thức khác, như trợ cấp xuất khẩu, bảo hiểm, khuyến khích các DN lớn chuyển giao công nghệ, mở rộng hệ thống vệ tinh đến các DNV&N, giũp đỡ đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, tư vấn kỹ thuật công nghệ, khuyến khích thành lập hiệp hội các DNV&N. Nhà nước khuyến khích mở rộng sản xuất, tăng định mức khấu hao miễn thuế, không đánh thuế lợi nhuận dùng để trả lãi suất tín dụng. ở các nước có một số hình thức đáng chú ý như cấp vốn mạo hiểm thành lập ngân hàng chuyên trách đảm bảo tài chính cho hoạt động nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới. ở Mỹ có 10 ngân hàng như vậy với số vốn 16 tỷ USD, ở CHLB Đức có 40 tổ chức tương tự với số vốn 1,6 tỷ Mác. Một hình thức hỗ trợ phổ biến và có hiệu quả là hỗ trợ về tín dụng trực tiếp, cho vay lãi suất thấp, bảo lãnh tín dụng. Chẳng hạn ở Anh trong 5 năm (1982-1986), 15 nghìn DN nhỏ nhận các khoản tín dụng trị giá 500 triệu Bảng. Các bang ở CHLB Đức đã lập ra các quĩ bảo lãnh tín dụng để giúp các DNV&N vay vốn ngân hàng. EU: các biện pháp trợ giúp thất nghiệp, bảo lãnh tín dụng cho các DNV&N,... Nhưng không thành công vì không chú ý đến khía cạnh hiệu quả. Do đó EU chú ý đến các giải pháp hỗ trợ gián tiếp. Các biện pháp đẩy nhanh hợp tác giữa các DN bằng hệ thống các trung tâm. Trung tâm hợp tác kinh doanh, hệ thống hợp tác DN, công ty cổ phần Châu Âu. - Trợ giúp về công nghệ mới thông qua “nhóm lợi ích kinh tế chung”. - Trợ giúp đào tạo lao động thông qua hệ thống đào tạo ban đầu. -Hình thức cấp vốn mạo hiểm: lập các ngân hàng chuyên trách cung cấp tài chính cho các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng ở CHLB Đức có khoảng 40 tổ chức với số vốn 1,6 tỷ DM, Chính phủ Anh từ 1980-1985 đã cấp 1 tỷ bảng cho các DNV&N, Pháp bồi thường 50% chi phí cho các DN áp dụng công nghệ mới. Nhà nước đứng ra cho vay vốn bảo đảm thông qua ngân hàng Châu Âu đứng ra thực hiện. Từ 1984 các DNV&N nhận được trợ giúp. Năm 1988, các DNV&N nhận dược các khoản cho vay trọn gói bằng 16% trong tổng số vốn đầu tư của ngân hàng đầu tư Châu Âu. 4-/ Khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và các tổ chức đại diện cho DNV&N. Các tổ chức hỗ trợ DNV&N ở các nước có thể do Nhà nước trực tiếp hay do tư nhân, nhưng phần lớn là do tư nhân thành lập có sự hỗ trợ của Nhà nước. Do đó các tổ chức này vừa mang tính chất kinh doanh vừa thực hiện chức năng hỗ trợ trên cơ sở nguồn ngân quĩ được cấp các tổ chức này có các chức năng chủ yếu như cung cấp vốn, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiếp thị, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, tư vấn cho các DNV&N. ở các nước Châu á có nhiều tổ chức hỗ trợ DNV&N như: Ngân hàng Indonesia: với chức năng chủ yếu là cung cấp vốn cho các DNV&N. Công ty nghiên cứu và phát triển công nghệ thành lập năm 1978 với số vốn hoạt động hàng năm là 367.000 USD, chức năng hoạt động chủ yếu là nghiên cứu hỗ trợ DNV&N. Quỹ phát triển nghề thủ công: thành lập năm 1975 với chức năng chủ yếu là nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Viện quản lý, đào tạo và phát triển thành lập năm 1976 với ngân quĩ hoạt động hàng năm là 150.000 USD, chức năng chính là đào tạo chủ doanh nghiệp. * Malaisia: Công ty bảo lãnh tín dụng thành lập năm 1972 với chức năng chính là cung cấp vốn. Công ty MARA: thành lập năm 1960 với 3.000 nhân viên, vốn hoạt động hàng năm là 165 triệu USD chức năng chính là cung cấp vốn, tiếp thị, nghiên cứu, đào tạo, tư vấn cho DNV&N. Trung tâm phát triển tài chính: thành lập năm 1960 với 300 nhân viên, vốn hoạt động hàng năm là 2,5 triệu USD chức năng chủ yếu là cung cấp vốn và tư vấn cho các DNV&N. Trung tâm chất lượng quốc gia thành lập năm 1962 với 235 nhân viên, vốn hoạt động hàng năm 3,1 triệu USD, có chức năng đào tạo và tư vấn cho các DNV&N. Trung tâm công nghệ Cualalamper: có chức năng hỗ trợ, cung cấp và chuyển giao công nghệ cho DNV&N. * Hàn Quốc: Quỹ bảo lãnh tín dụng thành lập năm 1976 với số nhân viên là 1.190 người, chức năng chủ yếu là cung cấp vốn chuyển giao công nghệ cho các DNV&N. Viện phát triển công nghiệp Hàn Quốc(1970) với 140 nhân viên chức năng chính là đào tạo, tư vấn cho DNV&N. Trung tâm năng suất Hàn Quốc thành lập năm 1957, số vốn hoạt động hàng năm là 3 triệu USD, có chức năng đào tạo, cung cấp và chuyển giao công nghệ, tư vấn cho các DNV&N. Hội nghiên cứu các DN nhỏ thành lập năm 1978 vốn hoạt động hàng năm là 32.000 USD, chức năng chủ yếu là đào tạo chủ doanh nghiệp cung cấp và chuyển giao công nghệ. Ngân hàng DNV&N thành lập năm 1961 với 7.305 nhân viên có chức năng đào tạo và tư vấn cho các DNV&N. Theo tài liệu các tổ chức hỗ trợ DNV&N ở một số nước Châu á. chương II vai trò của chính phủ việt nam trong việc hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ I-/ Thực trạng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Nhờ có chính sách đổi mới và chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đúng đắn, trong những năm qua khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh. Trong công nghiệp, giá trị tổng sản lượng trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng trung bình 14%/năm. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1995 gấp 2,5 lần năm 1985. Tuy số lượng các DNNN giảm đi rất lớn nhưng giá trị tổng sản lượng của chúng lại tăng 282,4%. Công nghiệp tập thể giảm xuống còn 12,59% so với năm 1985, khu vực DN và công ty tư nhân tăng lên rất mạnh 449,5%. Cơ cấu các loại DN cũng thay đổi lớn. Thời gian qua mặc dù số lượng DNNN và hợp tác xã giảm mạnh, nhưng tính chung cho toàn ngành công nghiệp, số lượng các DNV&N tăng lên nhanh chóng DNNN giảm liên tục từ 3.141 (1986) xuống 2.002 DN (1994) và năm 1995 nếu tính cả xây dựng cũng chỉ có 3.291 DN. Hợp tác xã giảm rất mạnh từ 37.649 cơ sở (1986) xuống 13.086 năm 1990 và 1.100 cơ sở (1990), trong khi đó khu vực tư nhân trong công nghiệp (cả DN và công ty tăng rất nhanh: từ 567 DN (1986) lên 959 (1991) và 6.311 (1995). Tỷ trọng của khu vực ngoài quốc doanh trong toàn bộ nền kinh tế chiếm gần 60% năm 1995, riêng trong công nghiệp và xây dựng, khu vực ngoài quốc doanh chiếm 11,2% GDP tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực này gần 7%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung. Trong đó công nghiệp chỉ số này là 9,2%. Theo nguồn Niên giám thống kê 1995 - NXB TK. 1-/ Quy mô doanh nghiệp: Số liệu thống kê năm 1995 cho thấy, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bình quân một DN có 434 triệu đồng vốn, 87 lao động. Đối với kinh tế cá thể, lao động bình quân là 1,7 người một cơ sở. Số liệu bảng 5 cho thấy, trên 97% số DN có qui mô vừa và nhỏ, trong đó 86,7% số DN có qui mô nhỏ và 48,8% số DN cực nhỏ. Riêng ngành công nghiệp: nếu xét về số lao động thì có 18% số DN cực nhỏ (dưới 10 lao động), 69% DNV&N nhỏ, còn lại là DN vừa. Như vậy số DNV&N chiếm trên 99,1%. Nếu xét về vốn, có 20,55 số DN thuộc loại cực nhỏ (dưới 100 triệu đồng), 55,6% số DN thuộc loại nhỏ. Trong tổng số 18,5% còn lại thì tỉ lệ DN vừa chiếm phần lớn. Bảng 5: Quy mô Doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo lĩnh vực ở 12 tỉnh (Điều tra năm 1995) Quy mô doanh nghiệp Tổng số ngoài quốc doanh Trong đó công nghiệp Tổng số doanh nghiệp 100 100 Theo lao động: Dưới 10 người 48,76 17,99 từ 10-50 37,97 55,64 từ 50-100 6,62 13,43 từ 100-200 3,94 6,27 trên 200 3,16 5,74 Theo vốn: tổng số 100 100 dưới 100 triệu 25,48 20,53 từ 100-500 triệu 42,76 43,89 từ 500 triệu - 1 tỷ 12,81 15,15 trên 1 tỷ 18,95 20,76 Nguồn: Tổng cục Thống kê 2-/ Tình hình sản xuất kinh doanh của DNV&N. Từ năm 1986 đến nay, với sự chuyển hướng trong các chính sách đổi mới của Đảng, mà đánh dấu sự đổi mới là từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đó là sự thừa nhận kinh tế tư nhân, thực hiện kinh tế nhiều thành phần được tồn tại lâu dài, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ hàng hoá và các loại hình kinh doanh mà Nhà nước không cấm. Tiếp theo đó là hàng loạt các văn kiện ra đời: Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị năm 1988, Nghị định 27,28,29/HĐBT năm 1988 về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình, Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định và các Bộ Luật: Luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty, luật HTX, luật DNNN, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các DN thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh và các DNV&N thực sự được quan tâm và khuyến khích phát triển. Đặc biệt từ năm 1991 trở lại đây sau khi xoá bỏ bao cấp về căn bản và thực hiện hạch toán kinh doanh độc lập, tự tìm tòi phương án kinh doanh, xác định giá cả,... thực hiện sự bình đẳng giữ các DN thuộc mọi thành phhần kinh tế. Có thể thấy được các chính sách của Nhà nước tác động đến nền kinh tế như thế nào qua sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của DN trong nền kinh tế. Tháng 8/1993 có 6.728 DN tư nhân, có 2.570 công ty TNHH và 91 công ty cổ phần nhưng chỉ đến tháng 12 /1993 con số này đã thay đổi tương ứng là 8.334 DN tư nhân, 3.287 công ty TNHH, 117 công ty cổ phần và 7.060 DNNN. Có thể ghi nhận rằng đây là giai đoạn hình thành các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần trong năm 1993 đạt kỷ lục nhất sau hơn 10 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế xét cả về mặt số lượng và qui mô vốn đầu tư vào sản xuất. Đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, tốc độ phát triển rất nhanh qua các năm. Năm 1990 số DN ngoài quốc doanh là 3.020 trong đó có 660 DN là do Trung ương quản lý, 2.354 DN là do địa phương quản lý nhưng đến năm 1992 thì số DN quốc doanh đã tăng lên là 3.559 DN trong đó có 546 DN quốc doanh đã tăng lên là 3.559 DN trong đó có 546 DN do TW quản lý và 3.053 DN là do địa phương quản lý. Đối với khu vực ngoài quốc doanh con số này còn hơn hẳn nữa, năm 1990 tổng số các DN công nghiệp ngoài quốc doanh là 356.522 DN trong đó khu vực kinh tế tập thể là 21.901 DN, kinh tế tư nhân là 1.284 DN, kinh tế hỗn hợp là 333.337 cơ sở đến năm 1992 thì con số tương ứng là 8.829 DN thuộc khu vực kinh tế tập thể, 959 DN thuộc kinh tế tư nhân và 446.771 thuộc kinh tế hỗn hợp. Tổng số DN công nghiệp năm 1992 là 456.559 DN. Như vậy, nhìn chung giai đoạn 90-94 tăng bình quân 15-20% DN. Những năm tiếp theo với sự thay đổi mạnh mẽ cũng như sự trỗi dậy của các nền kinh tế khu vực Thái Lan, Singapore, Inđônêxia, cùng sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế thế giới, đòi hỏi sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ hơn và khốc liệt hơn. Năm 1995 Chính phủ tiếp tục thực hiện sự cải tổ thành phần kinh tế mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước, mạnh dạn hơn nữa trong việc thực thi giải pháp giải thể, sát nhập những DNNN làm ăn thua lỗ hoặc cho thực hiện theo luật phá sản, ngày càng làm cho khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn trong vai trò chủ đạo là định hướng và dẫn đường cho các thành phần kinh tế khác, thông qua DNNN Chính phủ còn thực hiện sự điều tiết của mình đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Có thể thấy điều đó qua tốc độ hình thành của các DN công nghiệp của các nước ở bảng sau: Bảng 6: Số DN sản xuất công nghiệp Hình thức DN 1995 1996 1997 1998 Số DNNN 287 292 272 271 TW quản lý 172 184 168 167 Địa phương quản lý 115 108 104 104 Số DN ngoài quốc doanh 17.674 17.486 16.284 14.008 Kinh tế tập thể 202 202 186 171 Kinh tế tư nhân 33 40 43 39 Kinh tế cá thể 1.7210 16.991 15.790 13.558 Kinh tế hỗn hợp 229 253 265 240 Nguồn: Niên giám thống kê 1998 - Cục Thống kê Hà Nội. Đến tháng 7/1997 sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực mà khởi điểm từ Thái Lan sau đó lan ra toàn khu vực và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các khu vực kinh tế có nhiều mối quan hệ kinh tế Châu á như Châu Âu, Châu Mỹ la tinh. Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp mạnh mẽ để tiếp tục giữ vững sự ổn định của kinh tế trong nước, đầu tiên Nhà nước thực hiện luật sửa đổi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sửa đổi luật khuyến khích đầu tư trong nước và gần đây đang tiếp tục hoàn thiện hơn nữa về thể chế đối với các thành phần kinh tế trong nước như hợp nhất luật DN tư nhân và luật công ty thành luật DN theo hướng mở rộng thị trường, cho phép thành lập DN dễ dàng hơn nhanh gọn hơn, đặc biệt là thủ tục hành chính điều mà làm nản lòng các nhà đầu tư nhất. Nhà nước cho phép các DNNN thực hiện cơ chế thuê giám đốc, tổng giám đốc đây là một điều mới mẻ đối với nền kinh tế Việt Nam, tạo điều kiện cho DNNN tạo ra được hiệu quả thực sự trong quá trình sản xuất - kinh doanh với sự thay đổi của Nhà nước, số DNNN vẫn không tăng lên là bao nhiêu, chỉ có thành phần kinh tế tư nhân, công ty cổ phần và kinh tế cả thể,... là tăng lên, điều đó cho thấy sự điều chỉnh này là hợp lý. Bảng 7: Số DN trong toàn bộ nền kinh tế năm 1998 Loại hình DN 1995 1996 1997 1998 Kinh tế tập thể 1.810 1.760 2.200 2.512 Kinh tế tư nhân 10.818 18.540 20.800 24.072 Công ty cổ phần 138 195 246 288 Công ty TNHH 4.105 6.230 8.450 10.005 DN có vốn nước ngoài 5.668 1.648 2.012 2.061 Kinh tế cá thể 1.882.798 2.215.000 2.200.000 2.230.121 DNNN 5.962 5.790 5.862 5.740 Nguồn: Vụ doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và đầu tư. II-/ Tác động của chính phủ Việt Nam đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1-/ Cơ chế và mô hình hỗ trợ ở Việt Nam. ở Việt Nam, cơ chế và mô hình hỗ trợ đã được đổi mới cùng với việc chuyển sang kinh tế nhiều thành phần, vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường. So với trước đây, nhiều vấn đề về cơ chế hỗ trợ đã thay đổi căn bản. Tuy nhiên do mới chuyển sang kinh tế thị trường, nên cơ chế và mô hình hỗ trợ, một mặt chịu ảnh hưởng lớn của tư duy theo cơ chế cũ, mặt khác chưa thật sự phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế hỗ trợ DNV&N có những điểm cơ bản như dưới đây: - Quy trình hỗ trợ các DNV&N theo các bước: trên cơ sở quan điểm, đường lối trong một số trường hợp cả chiến lược phát triển của Đảng, Nhà nước thể chế hoá thành luật và các văn bản dưới luật tạo khung khổ pháp lý, chính quyền các cấp triển khai thực hiện. Điểm khác biệt lớn trong cơ chế và mô hình hỗ trợ DNV&N ở Việt Nam là có sự phân biệt giữa hai nhóm DNV&N. Hỗ trợ DNV&N có điểm khác so với hỗ trợ khu vực ngoài quốc doanh. Bảng 8: Sự khác biệt giữa cơ chế hỗ trợ trong mô hình kinh tế cũ với mô hình kinh tế hiện nay ở Việt Nam Cơ chế hỗ trợ hiện nay Cơ chế hỗ trợ trước đây Mục tiêu Khai thác mọi tiềm năng của các thành phần để phát triển kinh tế xã hội đất nước. Phát triển khu vực DNNN qui mô lớn. Đối tượng Các DN trong các ngành chiến lược thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Các DNNN và hợp tác xã Nội dung Hỗ trợ 1 số khâu quan trọng mà doanh nghiệp thiếu. Cung cấp các đầu vào một cách trực tiếp, gián tiếp tiêu thụ các sản phẩm đầu ra. Phương pháp Kết hợp cả phương pháp trực tiếp và gián tiếp, nhưng phương pháp gián tiếp là chủ yếu thông qua môi trường. Chủ yêu bằng kế hoạch phân bổ vật tư và sản phẩm. Công cụ Chiến lược, chính sách và bộ máy điều hành. a. Quan điểm, chiến lược hỗ trợ các DNV&N. Từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến nay, quan điểm của Đảng là xoá bỏ cơ chế cũ, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Quan điểm này đã thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển mạnh, nhất là khu vực kinh tế tư nhân. Nhờ đó, đối tượng quản lý của Nhà nước đã thay đổi căn bản. Do vậy, việc hỗ trợ các DN không chỉ có các DNNN mà cả các DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, trong chính sách kinh tế đã chú ý tới hiệu quả kinh tế, không quá chú trọng vào qui mô DN lớn như trước đây và việc các DNV&N là chiến lược kinh tế lâu dài trong sự đan xen với DN lớn. Nhiều Nghị quyết của Đảng đã đề cập tới vấn đề này: Nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII và Nghị quyết của các hội nghị Trung ương Đảng. Văn kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với các DNV&N khu vực ngoài quốc doanh đó là Nghị quyết 16 (1998) của Bộ Chính trị. Nghị quyết 16 nêu rõ: “Nhà nước và xã hội ủng hộ và khuyến khích các DN ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả và hợp pháp”. Điều quan trọng nhất trong quan điểm hỗ trợ trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới là “cởi trói” cho các DN được phép kinh doanh. Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 7 khoá VII chủ trương “phát triển các loại hình doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ, với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít, suất sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh”. Tuy vậy, trong quan điểm hỗ trợ DNV&N còn một số hạn chế: - Trong các qui định chính thức, quan điểm hỗ trợ bảo đảm sự bình đằng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế việc triển khai các quan điểm đó ở các địa phương thì vẫn còn sự phân biệt đối xử thiếu bình đẳng. - Chưa xác định số đối tượng cần hỗ trợ trong các DNV&N vì số lượng là rất lớn. - Bước đầu đã chú ý đến hỗ trợ theo ngành nghề và địa bàn nông thôn, miền núi, các ngành thu hút nhiều lao động,... nhưng vẫn còn rất chung, thiếu cụ thể. - Chưa có quan điểm rõ nét về hỗ trợ theo qui mô giúp các DN yếu vươn lên. - Về chiến lược và qui hoạch phát triển các DNV&N: Chiến lược và qui hoạch có vai trò to lớn trong việc định hướng cho các DNV&N, định hướng cho các DNV&N phát triển theo hướng kinh doanh ngày càng văn minh, hiện đại, đạt hiệu quả cao, mở rộng qui mô DN,... ở Việt Nam, hiện mới có chiến lược phát triển kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế, chưa có qui hoạch và chiến lược phát triển tổng thể cho DNV&N. Trong chiến lược chung, việc xác định các ưu tiên ngành, nghề sản xuất, địa bàn,... Chưa thực sự dựa trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế và lợi thế so sánh của từng vùng làm căn cứ. Việc thực thi chiến lược và qui hoạch chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp. Điều đó được thể hiện rõ nét qua chiến lược đầu tư. Cơ cấu đầu tư tuy đã có đổi mới, nhưng vẫn quá chú trọng vào công nghiệp nặng, hoặc đổ dồn vốn vào công trình những ngành, dự án mang lại hiệu quả kinh tế xã hội thấp Nhà nước vẫn còn bao cấp nhiều lĩnh vực trong đầu tư mà lẽ ra phải để cho nhân dân tự làm. Chưa kết hợp đúng đắn giữa chiến lược định hướng lớn với kế hoạch bước đi và giải pháp lớn cho từng thời kỳ với chính sách gồm các biện pháp cụ thể thực hiện các định hướng đó. Hiện đang có xu hướng coi nhẹ kế hoạch, qui hoạch, dự báo,... khi chuyển sang kinh tế thị trường. ở các địa phương, tình hình càng nghiêm trọng hơn. Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu ở một số địa phương cho thấy, chính quyền còn lúng túng trong việc hoạch định chiến lược phát triển chung và hầu như chưa có chiến lược phát triển các DNV&N. b. Khung khổ pháp lý. Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng, trong thời gian qua, Nhà nước đã tiến hành tạo lập khung khổ pháp lý cần thiết cho các doanh nghiệp hoạt động. Mở đầu là một số Nghị định của Chính phủ nhằm khuyến khích phát triển khu vực ngoài quốc doanh chủ yếu là qui mô nhỏ như Nghị định 27,28,29/HĐBT về tư nhân, cá thể, hợp tác xã và kinh tế gia đình, Nghị định 66/HĐBT về hộ kinh doanh dưới vốn pháp định,... Nhà nước đã ban hành các luật liên quan đến các DNV&N như luật DN tư nhân, luật công ty, luật hợp tác xã, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, luật DNNN, các luật thuế,... Tuy còn thiếu nhiều luật, đặc biệt là các luật bảo vệ lợi ích và khuyến khích phát triển các DNV&N, nhưng bước đầu đã tạo ra cơ sở pháp lý cho các DNV&N hoạt động. Tuy nhiên, khung khổ pháp lý đối với các DNV&N ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Dưới đây là một số hạn chế trong số đó: - Hệ thống phát luật chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng như luật thương mại, luật hợp đồng kinh tế, luật thừa kế,... - Trong các luật đã ban hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết, luật công ty còn nhiều hạn chế, các chủ sở hữu nắm quyền sở hữu toàn bộ tài sản, nhưng pháp nhân công ty chưa rõ ràng. Luật doanh nghiệp tư nhân quy định thủ tục thành lập quá rườm rà, phải qua nhiều khâu. Chưa có cơ sở pháp lý qui định khung khổ tiêu chí DNV&N, do đó có nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quản lý và thực hiện chính sách hỗ trợ. Luật và các văn bản dưới luật còn mang tính quản chế, khống chế, cho phép,... hơn là tạo ra một hành lang rộng để khuyến khích các DN phát huy hết tài năng trong kinh doanh. Quy trình soạn thảo chưa hợp lý: chủ yếu do các cơ quan của chính phủ soạn thảo, chưa quan tâm tới việc trưng cầu ý kiến của các DN. Việc soạn thảo các văn bản pháp lý chưa thực sự gắn với thực tế Việt Nam và không được kiểm nghiệm trước khi đưa ra thi hành. Do đó có nhiều luật đưa ra thi hành đã phải sửa đổi. Thiếu những khoản thiết yếu về khuyến khích và hỗ trợ các DNV&N. Trong số các văn bản pháp lý nói trên chỉ mới có một số điều khoản khuyến khích DNV&N trong luật đầu tư trong nước và một số luật thuế. Mức độ khuyến khích còn rất hạn chế và chưa thoả đáng chẳng hạn mức độ miễn thuế trong luật đầu tư trong nước chỉ có 1-2 năm đối với các DN mới thành lập trong khi đó ở nhiều nước có thể tới 5-7 năm đối tượng được miễn giảm thuế còn rất hạn chế. Chỉ có các DN mới thành lập ở vùng xa vùng sâu, các DN chế biến nông sản,... Hiện có nhiều luật điều chỉnh cùng một nhóm đối tượng giống nhau như đã nêu trên. Nhiều văn bản luật không còn phù hợp nhưng chưa rà soát kịp thời, nhất là luật thuế, luật đất đai, nhiều văn bản pháp luật chưa nghiêm và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh đã dấn đến tình trạng nghiêm minh thiếu lành mạnh, rối loạn. Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu cho thấy 52,9% những người được hỏi ý kiến cho rằng các DNV&N chấp hành pháp luật không nghiêm. 2-/ Các chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở Việt Nam và tác động của nó. a. Chính sách đổi mới kinh tế. Chính sách đổi mới kinh tế tác động mạnh mẽ đến sự phát triển nền kinh tế nói chung, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Nội dung chủ yếu của chính sách đổi mới kinh tế bao gồm: - Hình thành cơ chế kinh tế thị trường. - Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. - Mở cửa nền kinh tế. Chính sách đổi mới kinh tế được chính thức khởi xướng vào năm 1986, tuy nhiên phải đến đầu năm 1989, với chính sách tự do hoá thương mại - chuyển sang cơ chế giá thị trường, thì công cuộc đổi mới kinh tế mới thực sự có thay đổi về chất. Việc xóa bỏ hầu hết các nguồn bao cấp đã thực sự đặt các DN trước cơ chế thị trường. Có thể nói, chuyển sang kinh tế thị trường là điểm then chốt trong chính sách đổi mới kinh tế và có ý nghĩa cơ bản trong phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, nền kinh tế Việt Nam được coi là nền kinh tế “đóng cửa”. Mọi mối quan hệ kinh tế đối ngoại trong thời kỳ này chỉ hạn chế trong các nước khối hội đồng tương trợ kinh tế (COME COW) và một số rất ít các nước thuộc thế giới thứ 3. Cùng với chủ trương đổi mới, đường lối phát triển kinh tế đất nước cũng thay đổi cơ bản và đường lối này được gọi là mở cửa nền kinh tế. Nội dung cơ bản của chính sách mở cửa nền kinh tế bao gồm: Tự do hoá kinh tế đối ngoại, mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, hoà nhập khu vực và quốc tế,.... Từ chỗ chỉ có mối quan hệ kinh tế với một số ít nước, đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 100 nước trên thế giới. Nền ngoại thương Việt Nam đã có vai trò rất quan trọng cho ổn định hoá nền kinh tế trong thời kì 1992-1996 và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao (8-9%/năm) trong thời gian 1992-1996. Sự gắn kết giữa nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng tăng lên. Điều này thể hiện ở việc Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN, tích cực tham gia vào quá trình liên kết kinh tế khu vực, tham gia AFTA, phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ. Tỷ trọng xuất nhập khẩu là một trong những nước có nền kinh tế mở. Điều đó thể hiện bởi tỷ lệ giữa ngoại thương và sản lượng (GDP) tăng liên tục từ 51% năm 1989 lên 60% năm 1995. Việc mở cửa nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các DN khu vực tư nhân tiếp cận không chỉ với thị trường nước ngoài, mà còn cả với công nghệ, kỹ thuật mới, kiến thức quản lý hiện đại của các nước tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên do thiếu kinh nghiệm, cũng như hạn chế về thông tin thiếu sự hỗ trợ cần thiết của Nhà nước cho nền các DN đặc biệt là các DNV&N, gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng khi bước ra thị trường thế giới. Trong thời gian qua Việt Nam cũng đã thi hành nhiều biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành từ năm 1987 và nhiều lần sửa đổi (1991,1992,1994). Đến nay đầu tư nước ngoài chiếm 20-30% tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên các đối tác phía nam chủ yếu là các DNNN. Các DN ngoài quốc doanh qui mô vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng không đáng kể, dưới 10%. b. Chính sách tài chính - tiền tệ, tín dụng: Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tài chính - tiền tệ là trung tâm của hệ thống chính sách. Do đó nó có những tác động mạnh mẽ và quyết định tới phát triển trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tài chính - tiền tệ là trung tâm của hệ thống chính sách. Do đó, những tác động mạnh mẽ và quyết định tới phát triển trong quá trình đổi mới ở Việt Nam và đối với phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đều liên quan tới chính sách tài chính - tiền tệ. Nội dung đổi mới chính sách tài chính tiền tệ bao gồm: - Đổi mới chính sách huy động vốn, chính sách ngân sách, chính sách thuế và chính sách tài chính DN. - Chính sách huy động vốn nhằm huy động mọi nguồn vốn bên trong và bên ngoài cho sự phát triển kinh tế. Các nguồn vốn trong nước bao gồm: tiết kiệm của khu vực nhà nước, nguồn vốn của dân tiết kiệm của các hộ gia đình, tiết kiệm của các DN. Các nguồn vốn bên ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho vay và viện trợ không chính thức. Chính sách huy động vốn trong nước được thực hiện thông qua chính công cụ chính sách thuế, chính sách khuyến khích đầu tư, tạo môi trường đầu tư an toàn và ổn định hơn. Nhờ đó có tác dụng kích thích đầu tư toàn nền kinh tế tăng mạnh và đạt 16 tỷ USD. Trong đó đầu tư của tư nhân trong nước chiếm 30%, tức khoảng 6 tỷ USD trong 5 năm, đầu tư nước ngoài chiếm 27%. Tuy nhiên trong chính sách huy động vốn còn một số trở ngại cho khu vực ngoài quốc doanh như: Hiện nay, phần lớn vốn và tài sản do các DNNN nắm giữ ước tính khoảng 88,4% trong tổng số vốn và tài sản của các DN trong nền kinh tế. Trong đó tài sản được định giá thấp như đất đai. Hơn nữa, hiện nay, nhiều DNNN kinh doanh không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp, nên việc sử dụng nguồn lực trong toàn bộ nền kinh tế không hiệu quả. Khu vực ngoài quốc doanh thiếu vốn để hoạt động. Phần lớn các nguồn lực bên ngoài (FDI, ODA) đều tập trung cho khu vực Nhà nước hơn 80% vốn liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài là các DNNN, khu vực tư nhân chiếm tỉ lệ không đáng kể. Chính sách tín dụng đã có nhiều thay đổi trong những năm gần đây. Những thay đổi cơ bản của chính sách tín dụng bao gồm: cho vay tất cả các thành phần kinh tế Quyết định 18-NH của ngân hàng Nhà nước ngày 17-4-1988 về qui chế tạm thời thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với tư nhân, cá thể và kinh tế gia đình, Chỉ thị 202/HĐBT tháng Nguồn Vốn nước ngoài Vốn trong nước Nhà nước Dân cư Tiết kiệm của ngân Tiết kiệm của các Tiết kiệm của dân Tiết kiệm của DN Đầu tư trực tiếp nước ngoài Vay nước ngoài Viện trợ nước ngoài 6/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về cho vay vốn sản xuất đến hộ nông dân,... Chuyển sang lãi suất thị trường có điều tiết, đa dạng hoá các hình thức tín dụng, tín dụng ngân hàng và nhiều hình thức tín dụng các tổ chức tài chính khác. Nhờ đó, tín dụng cho vay các DN ngoài quốc doanh tăng mạnh. Cơ cấu tín dụng cho vay đối với các DN khu vực này tăng từ 10,3% (1990) lên 18,2% (1992), 33,1% (1993), 37,1% (1994) và 50% (1995). Bảng 9: Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế (%) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tỷ lệ tín dụng cho DNNN 89,7 90,0 81,8 66,9 62,9 50 Tỷ lệ tín dụng cho DNNQD 10,3 10,0 18,2 33,1 37,1 50 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Tuy vậy nhu cầu về tín dụng của các DN ngoài quốc doanh vẫn chưa được đáp ứng. Nguyên nhân có thể là thủ tục vay vốn phiền hà, lãi suất cao. Số liệu điều tra cho thấy số liệu tài chính, chính thức bao gồm các ngân hàng và các tổ chức tín dụng của các DN ngoài quốc doanh. Do đó, các DN này phải tìm kiếm tín dụng từ các nguồn phi chính thức. Phân bổ các DNV&N theo mức độ vay vốn từ khu vực tài chính phi hình thức được trình bày trong bảng sau: Bảng 10: Phân bổ DNV&N theo mức vay phi chính thức Số lượng DN Tỷ lệ (%) Tổng số DNV&N điều tra 407 100 Số lượng DN có vay vốn từ khu vực phi chính thức 316 77,6 Trong đó: Vay dưới 30% vốn 242 76,6 Vay từ 30%-50% vốn 59 24,4 Vay từ 50%-70% vốn 15 0,6 Vay trên 70% vốn 13 0,5 Nguồn: Viện nghiên cứu QLKTTW 1996 Khó khăn trong việc huy động các nguồn tài chính là do sự kém phát triển của hệ thống ngân hàng cản trở sự luân chuyển các nguồn tài chính từ người tiết kiệm với người đầu tư. Sự lệ thuộc của DN ngoài quốc doanh vào nguồn vốn phi chính thức cho thấy mức độ ảnh hưởng của chính sách tài chính, tín dụng đối với các DN này. Sự phụ thuộc đó gây thiệt hại đáng kể cho các DN ngoài quốc doanh do chúng phải chịu chi phí giao dịch và lãi suất cao hơn nhiều lần. Lãi suất đối với các khoản vay từ khu vực tài chính phi chính thức có thể cao gấp ba lần so với lãi suất vay từ khu vực tài chính chính thức. Thuế là một trong những chính sách quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Do đó, đồng thời với việc chuyển đổi nền kinh tế, Nhà nước đã thay đổi chính sách thuế. Nội dung đổi mới chính sách thuế bao gồm: chuyển từ hệ thống thu quốc doanh sang hệ thống thuế thống nhất cho tất cả các thành phần kinh tế làm cho thuế thực sự là công cụ điều tiết trong nền kinh tế thị trường. Trên tinh thần đó, Nhà nước đã ban hành một loạt các luật thuế. Ngày 8/8/1990 Hội đồng Nhà nước công bố ba luật thuế áp dụng cho tất cả các thành phần kinh tế. Luật thuế doanh thu, luật thuế lợi tức và luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Luật thuế xuất nhập khẩu 29/12/1987. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 7/1993. Từ đó đến nay, Nhà nước đã xem xét, sửa đổi những bất hợp lý và gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua luật thuế VAT, thuế thu nhập công ty. Đồng thời Nhà nước đã có những chính sách giảm thuế cho một số đối tượng trong các luật như luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài, luật hợp tác xã,... Tuy vậy chính sách thuế hiện hành còn nhiều bất cập, thể hiện cụ thể ở những điểm sau đây: Các qui định về thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn nhiều bất hợp lý, nặng về cơ chế thu, chưa có cơ chế động viên nuôi dưỡng các nguồn thu. Nhà nước đã có nhiều lần sửa đổi chính sách thuế nhưng đến nay, thuế suất vẫn còn cao và nhiều khoản thu ngoài thuế. Theo đánh giá của Bộ tài chính thì tình trạng trốn thuế, đặc biệt là của khu vực DN tư nhân là đặc biệt quan trọng. Còn các DN tư nhân lại cho rằng nếu như họ thực hiện nghiêm chỉnh chế độ nộp thuế theo qui định của luật thì không có DN nào tồn tại. Các qui định về thuế lãi suất rườm rà, rắc rối. Về thuế lợi tức, hiện có 19 loại văn bản liên quan (từ luật đến các văn bản hướng dẫn, về thuế môn bài có 9 loại văn bản, về thuế tài nguyên có 8 loại văn bản, về thuế doanh thu có 19 loại văn bản, thuế xuất nhập khẩu có 24 loại văn bản, thuế tiêu thụ đặc biệt có 13 văn bản. Vì nhiều văn bản cho nền việc thực hiện rất tuỳ tiện, các chủ DN không nắm được hết các qui định cho nên không thể biết được sự chính xác của mức thuế mà cán bộ thuế xác định. Hệ thống thuế quá phức tạp. Chẳng hạn, thuế doanh thu có 16 mức từ 0-40% trên giá bán, hơn nữa, 1 DN có thể có phải trả thuế suất khác nhau: 2% nước đá, 1% đối với muối, 4% đối với sữa, 8% đối với cà phê. Chưa bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các DN, còn có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Thuế lợi tức các sắc thuế từ 30-50%, riêng DN có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có 15-20%. Việc thực hiện các loại thuế chưa đồng nhất: các hộ cá thể và kinh tế gia đình không phải nộp thuế kinh doanh. Quy định như vậy vừa tạo ra sự bất bình đẳng vừa tạo kẽ hở cho nhiều người núp dưới danh nghĩa “Kinh tế gia đình” để trốn thuế. Thuế trùng lắp cho đến nay vẫn thực hiện thuế doanh thu và thuế suất cao, nên vô tình kích thích các DN trốn lậu thuế. Cơ chế qui định thu kiểm tra thuế còn thiếu khoa học, không chặt chẽ, thiếu độc lập giữa người định thuế, người thu thuế và người kiểm tra. Trên thực tế việc thực hiện thuế khoán vừa thiếu chính xác vừa dẫn đến tiêu cực và thất thoát lớn. Nhiều cán bộ thuế tham nhũng ăn hối lộ. Mặc dù đã được sửa đổi, nhưng luật thuế vẫn còn phức tạp. Việc thực hiện các luật thuế chưa được nghiêm minh và công bằng, nhiều DN và các cơ sở kinh doanh vẫn khai man mà các cơ quan thuế không kiểm soát được. Bên cạnh đó, mặc dù các chính sách miễn, giảm thuế cho một số đối tượng, nhưng thủ tục xin miễn, giảm thuế còn phức tạp nên nhiều khi các DN thuộc đối tượng miễn giảm thuế vẫn có xu hướng tìm cách trốn thuế hơn là xin được hưởng chế độ miễn, giảm thuế. Việc tách Ngân hàng Nhà nước thành Ngân hàng TW và ngân hàng chuyên doanh từ tháng 5-1988 đã tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh ngân hàng thuận lợi hơn. Việc Nhà nước đã thực hiện thành công các biện pháp chống lạm phát đã tăng lòng tin của dân chúng và các nhà DN vào đông nội tệ tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư sản xuất công nghiệp, tuy nhiên việc lên giá đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ cũng phần nào ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các DN nói chung trong đó có DNV&N. c. Chính sách đầu tư. Trong thời gian qua chính sách đầu tư của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Nếu như trước đây hoạt động đầu tư chỉ chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách và viện trợ nước ngoài thì hiện nay nguồn vốn đầu tư tư nhân đã được coi trọng. Đầu tư nước ngoài bằng nhiều hình thức cũng đã được chú ý hơn. Quốc hội đã ban hành luật đầu tư nước ngoài (1988) và luật khuyến khích đầu tư trong nước để tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy hoạt động đầu tư. Dưới tác động của những chính sách này, cơ cấu đầu tư đã có những thay đổi đáng kể. Sau một số năm thực hiện cải cách kinh tế, tiết kiệm nội địa đã trở thành số dương, tức nền kinh tế đã có tích luỹ nội bộ. Tỷ lệ tích luỹ nội bộ tăng từ 7,4% GDP năm 1990 lên 17,1% năm 1995, trong đó khu vực tư nhân chiếm 11,9% so với 5,2% là tỉ lệ tiết kiệm của Chính phủ. Đó là tác động tích cực của đổi mới đối với khu vực tư nhân, trong đó có các DN ngoài quốc doanh. Tuy vậy, so với các nước trong khu vực tỉ lệ tiết kiệm nội địa của Việt Nam còn thấp, do đó rất khó khăn để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong một thời gian dài nếu không cải thiện được tỉ lệ tiết kiệm nội địa. Trong những năm gần đây, khu vực ngoài quốc doanh chững lại, không tăng trưởng nhanh như mong muốn. Bằng chứng là tỉ lệ tiết kiệm của tư nhân tăng vọt từ 7,4% năm 1990 lên 14,6% năm 1993 và sau đó giảm ngay xuống 11,9% năm 1994 và duy trì mức này cho đến nay. Dường như các chính sách phát triển kinh tế tư nhân ban hành trước đó đã phát huy hết tác dụng vào năm 1993 mà không có những độc lực mới cho khu vực này phát triển. Năm 1995, luật khuyến khích đầu tư trong nước bắt đầu có hiệu lực tạo yếu tố mới thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư nội địa. Theo số hiệu của viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, tính đến cuối năm 1996 các cấp chính quyền đã cấp 313 giấy phép ưu đãi đầu tư đó có 93 giấy phép, tức 29,7% dành cho các DN ngoài quốc doanh hiện có thì số lượng giấy phép trên chưa tương xứng. Trong khi mức đầu tư của khu vực tư nhân trong nước không tăng thì đầu tư nước ngoài lại tăng làm cho tổng đầu tư tư nhân ở nước ta đạt mức 21% GDP vào năm 1995. Tuy vậy so với các nước trong khu vực thì tiết kiệm và đầu tư vẫn ở mức thấp. Bảng 11: Tiết kiệm và đầu tư 1990-1995 (% GDP) Tiết kiệm 7,4 13,2 16,3 17,4 16,9 17,1 Nhà nước 0 1,3 4,1 2,5 5,0 5,2 Tư nhân trong nước 7,4 11,9 12,2 14,6 11,9 11,9 Nước ngoài 4,3 1,9 6,7 7,5 8,6 10 Đầu tư 11,7 15,1 17 24,9 25,5 27,1 Nhà nước 5,1 2,8 5,8 7 6,6 5,7 Tư nhân 6,6 12,3 11,2 17,9 18,9 21,4 Nguồn: Việt Nam Fiscal decen tralization and the delivery of rural services WBOCT 1996 Chính sách đầu tư trong thời gian qua tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn một số hạn chế đó là: - Mức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tuy đã được chú ý nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DNV&N đặc biệt là DNV&N. - Đầu tư của Nhà nước vẫn chủ yếu tập trung cho các DNNN, tuy rất nhiều DNNN kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. - Chính sách đất đai hiện hành còn nhiều bất hợp lý là một cản trở không nhỏ cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc tìm kiếm địa điểm kinh doanh, việc chuyển từ chế độ thuế sử dụng đất sang chế độ thu tiền thuê đất với mức cao hơn nhiều so với mức thuế cũ, cũng như khó khăn, phiền phức trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đều là những vấn đề cấp bách cần phải giải quyết cải thiện môi trường đầu tư cho các DN. - Thiếu định hướng phát triển dài hạn cho các ngành công nghiệp, các chính sách thiếu ổn định, không nhất quán, không có cơ sở khoa học cho các nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư được thuận lợi, nói cách khác Nhà nước chưa có những chỉ dẫn cần thiết để nâng cao hiệu quả đầu tư chung của toàn xã hội. d. Chính sách thương mại. Như phần trên đã đề cập, một trong những nội dung quan trọng của chính sách đổi mới kinh tế là xây dựng nền kinh tế mở, phát triển quan hệ thương mại với các nước trên thế giới. Nhà nước chủ trương nới lỏng các qui định về xuất nhập khẩu. Nếu như trước đây chỉ có các DN Nhà nước được quyền hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương thì hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần đều được quyền xuất khẩu trực tiếp và nhập khẩu nguyên liệu vật tư phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu thay đổi, hệ thống các biện pháp hành chính được thay thế bằng các chính sách kinh tế - hệ thống thuế quan. Nhờ đó từ năm 1989 hoạt động xuất nhập khẩu tăng nhanh. Bảng 12: Tỷ lệ tăng trưởng xuất nhập khẩu 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tăng trưởng XK 87,4 23,5 -13,2 23,2 21 37,6 28,3 Tăng trưởng NK 6,9 7,3 -15,1 8,7 54,4 48,5 28,7 Nguồn: Niên giám thống kê Xuất nhập khẩu Hoạt động xuất nhập khẩu tăng nhanh bình quân trên 20% kể từ năm 1992 tới nay sau 6 năm 1990-1995, giá trị xuất khẩu tăng hơn 2 lần và kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 2,5 lần. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở ngoài quốc doanh đều phải xuất uỷ thác qua các DNNN lớn. Số giấy phép cấp cho khu vực tư nhân chỉ chiếm 15-20% tổng số giấy phép. Mặc dù đã có một số thay đổi tích cực nhưng chính sách xuất nhập khẩu hiện nay vẫn còn nhiều trở ngại, cụ thể là: Các mặt hàng cấm nhập khẩu thay đổi hàng năm người đầu tư không chắc mặt hàng của mình có thuộc diện cấm hay không. Vừa phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, vừa phải có giấy phép xuất hoặc nhập khẩu cho từng chuyến hàng. Nhiều qui định không hợp lý như mắc vốn qui định cho các doanh nghiệp mới xuất khẩu và xin cấp giấy phép bổ sung đối với các doanh nghiệp mở rộng hoặc thay 2404 2752 2087 2338 25872541 1985 3924 3600 5826 5200 7500 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 8000 1990 1991 1992 1993 1994 1995 XuÊt khÈu NhËp khÈu đổi lĩnh vực xuất khẩu. Theo qui định hiện hành các DN được phép xuất khẩu trực tiếp là những DN tự sản xuất được toàn bộ hàng xuất khẩu, có thị trường xuất khẩu ổn định trong tương lai gần có vốn đăng ký trên 2 tỷ đồng tại thời điểm xuất khẩu, có thị trường xuất khẩu ổn định. Quy định như vậy đã tạo ra lợi thế cho các công ty thương mại lớn đã có hoạt động xuất khẩu. Hệ thống thuế quan quá phức tạp, nhiều sắc thuế, thuế suất cao và chênh lệch giữa các sắc thuế lớn. Chưa có các thể chế hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Hiện nay, hoạt động tài trợ cho xuất khẩu chỉ giới hạn trong việc cho vay vốn lưu động ngắn hạn cho sản xuất hàng xuất khẩu của doanh nghiệp lớn. Vấn đề xử lý xuất khẩu tiểu ngạnh, thất thu thuế. Thủ tục xuất, nhập khẩu đã được cải tiến để từng bước hợp lý hơn, tuy nhiên vẫn còn nhiều khâu gây phiền hà cho các DN. Cùng với xuất khẩu hoạt động nhập khẩu trong thời gian qua cũng đã phát triển mạnh mẽ. Chính thông qua nhập khẩu mà các DN, trong đó có DNV&N đã tiếp cận được với máy móc, công nghệ tiên tiến của thế giới, cũng như tìm được những nguyên vật liệu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên tình trạng nhập lậu hàng hoá tràn lan, trốn thuế đã gây không ít khó khăn cho các DN. Nếu như Nhà nước không kịp thời có biện pháp hữu hiệu để loại trừ tình trạng buôn lậu, làm hàng giả và hỗ trợ các DN nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh thì các DNV&N ở Việt Nam rất khó đứng vững được khi Hiệp định AFTA có hiệu lực vào năm 2003. e. Chính sách công nghệ đào tạo. Với quan điểm cho rằng yếu tố công nghệ và yếu tố con người đóng vai trò chủ đạo, có tính quan trọng trong phát triển đất nước cho nên Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất chú ý đến việc xây dựng chính sách công nghệ - đào tạo. Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã hợp chuyên đề về công nghệ và giáo dục. Sau đó 17 chương trình công nghệ khoa học đã được triển khai nghiên cứu. Nhà nước đã tạo điều kiện để thành lập những tổ chức có chức năng triển khai các hoạt động hỗ trợ sự phát triển của các DN nhỏ và vừa như: trung tâm hỗ trợ DNV&N của phòng thương mại công nghiệp Việt Nam, trung tâm hỗ trợ khoa học công nghệ của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường, chất lượng, trung tâm hỗ trợ phát triển DN ngoài quốc doanh của Hội liên minh các hợp tác xã Việt Nam. Ngoài ra có hai tổ chức cấp địa phương là trung tâm tư vấn DN Hà Bắc, COHASIPH ở Hải Phòng, các tổ chức khác dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đã triển khai những hoạt động hỗ trợ như hội công kỹ nghệ gia TP. HCM, Hiệp hội công thương Hà Nội,... Các trường dạy nghề công cộng và tư nhân cũng được mở ở khắp nơi thu hút mọi đối tượng xã hội vào học cũng là một sự hỗ trợ gián tiếp cho khu vực DN nhỏ và vừa. Một số tổ chức liên hiệp quốc, tổ chức phi chính phủ các nước và tổ chức quốc tế cũng có những dự án chương trình hỗ trợ cho sự phát triển các DN như dự án của UNIDO của GTZ, ILO,... mặc dù vậy trong chính sách hỗ trợ công nghệ cho các DNV&N còn có các hạn chế sau: Chủ trương đường lối của Nhà nước thì nhất quán và coi trọng sự phát triển của khu vực DNV&N song mới chỉ dừng ở chủ trương đường lối, chưa có những chế định cụ thể, có những tổ chức được giao trách nhiệm chăm lo cho sự phát triển của khu vực này. Cho tới nay những chủ trương chính sách đối với khu vực DNV&N đều là vận dụng từ những chủ trương chính sách chung của Nhà nước chứ chưa có những chính sách riêng mà đối tượng là DNV&N về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho chủ DN, đào tạo về tay nghề kỹ thuật cho công nhân lao động, về nâng cấp công nghệ thiết bị hiện đại hoá sản xuất, về nhập khẩu và thuê mua thiết bị về bảo tồn và phát triển các ngành và công nghệ truyền thống,... Chưa có những tổ chức làm công tác nghiên cứu phát triển cho khu vực này. Thiếu những tổ chức đủ mạnh về khoa học, công nghệ, đào tạo để đủ sức hỗ trợ, tư vấn và đáp ứng cho yêu cầu của các DNV&N. Trong khi đó thì những tổ chức khoa học công nghệ đào tạo của Nhà nước, các bộ ngành địa phương hiện sẵn có thì chưa tìm cách tiếp cận và tìm cách đáp ứng tốt cho nhu cầu của các DN. Sự hoạt động của các trung tâm hỗ trợ hay dự án hỗ trợ hiện có đã đem lại một số hiệu quả nhất định, song sự hoạt động đó còn rời rạc lẻ tẻ thiếu sự phát triển để phối hợp thế mạnh của Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ cho các DNV&N. III-/ Kết luận về vai trò của chính phủ Việt Nam trong việc hỗ trợ các DNV&N. 1-/ Đánh gia chung. Đổi mới, hoàn thiện cơ chế hỗ trợ, quản lý nền kinh tế nói chung, hỗ trợ quản lý DN nói riêng là công việc phải tiến hành thường xuyên và là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, vì bản thân bất cứ một nền kinh tế nào cũng có xu hướng vật động phát triển theo xu hướng xoáy trôn ốc, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước và thời ký sau phát triển kế thừa có chọn lọc những mặc tích cực và hạn chế những mặt xấu những mặt tiêu cực của thời kỳ trước. Muốn phát triển kinh tế đất nước trước hết phải dựa vào DNV&N từ DN nhỏ đi lên DN lớn, xuất phát từ vai trò quan trọng của DNV&N và những lợi ích to lớn do việc hỗ trợ DNV&N mang lại do chính bản thân DN thông qua đó cũng sẽ có lợi cho xã hội, đòi hỏi cần phải có cơ chế chính sách hỗ trợ mới phù hợp nhằm tạo ra được hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi để thúc đẩy DNV&N phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng: chính sách hỗ trợ cũ không mất đi, chính sách hỗ trợ mới không tự nhiên hình thành, mà nó phải trải qua một quá trình đấu tranh để chính sách mới từng bước loại bỏ chính sách cũ. Thực tế hơn 10 năm chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, chưa đủ thời gian kinh nghiệm để hoàn thiện chính sách mới, ảnh hưởng chính sách cũ vẫn còn dai dẳng. Nền kinh tế thị trường với những qui luật kinh tế khách quan vốn có của nó, chính những qui luật ấy điều chỉnh nền kinh tế phát triển, song không phải là không có những hạn chế, trái ngược với mục tiêu phát triển xã hội đó là sự độc quyền, sự phân hoá dầu nghèo, đặt lợi ích kiếm tiền lên trên tất cả,... Trong điều kiện nước ta hiện nay xu hướng nền kinh tế mở bên cạnh sự tồn tại hàng trăm nghìn DNV&N là hàng ngàn DN lớn của mọi thành phần kinh tế đặc biệt là DN lớn tư nhân, kể cả tư nhân trong nước và tư nhân nước ngoài. Mà các DN có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? là do DN tự định đoạt. Điều đó dẫn đến bất lợi cho DNV&N. Khi cùng sản xuất một loại sản phẩm DN lớn, các DN lớn với nguồn vốn lớn, công nghệ kỹ thuật hiện đại sẽ tạo ra sản phẩm với chi phí thấp, ngược lại ở các DNV&N mà đặc biệt là các DN nhỏ, với nguồn vốn hạn hẹp, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, lao động thủ công là chủ yếu, sẽ tạo ra cùng loại sản phẩm với chi phí lớn hơn DN lớn. Trong môi trường cạnh tranh nếu cung nhỏ hơn cầu hoặc ngang bằng về loại sản phẩm mà DNV&N sản xuất ra, thì mới có thể bù đắp được chi phí sản xuất, dễ dẫn đến nguy cơ phá sản. Vì vậy đòi hỏi phải có chính sách hỗ trợ, bảo vệ DNV&N để nó tồn tại và phát triển. Xét ở góc độ phát triển DN và trình độ quản lý DN ở nước ta, chúng ta dễ nhận ra: trước năm 1986, DNV&N chủ yếu là DNNN và HTX có qui mô về vốn, lao động, công nghệ,... đều nhỏ bé từ năm 1986 đến nay, các công ty, DN tư nhân, cơ sở sản xuất tư nhân hình thành với tốc độ cao, qui mô về vốn lao động, công nghệ cũng có sự thay đổi đáng kể, sự thay đổi này cũng đòi hỏi phải có chính sách quản lý, chính sách hỗ trợ mới cho phù hợp với điều kiện mới, tình hình mới. Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, thì trước hết phải phát triển sản xuất. Nước ta cũng như các nước đang phát triển khác, nguồn vốn hạn hẹp, nhân lực dồi dào, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, thị trường chưa phát triển, do vậy việc phát triển cn là phù hợp nhất, đáp ứng được mục tiêu công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đáp ứng yêu cầu cấp bách của đất nước. Về lâu dài sự phát triển của DNV&N sẽ đóng góp một tỉ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Nhưng thực tế hơn 10 năm đổi mới DNV&N gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là các DNNN và các DN “siêu nhỏ”. Nhưng khó khăn lớn thường gặp là tiền vốn, công nghệ kỹ thuật, thị trường, thông tin, kể cả thủ tục hành chính về thành lập DN,... Từ đó dẫn đến nhiều DN phải chững lại, thu hẹp sản xuất kinh doanh, thậm chí phá sản. Từ năm 1990 đến 1993 số DNNN phải giải thể chiếm khoảng 16% hoàn toàn là DNV&N. Các DN ngoài quốc doanh, ngay từ khi mới thành lập cũng gặp nhiều khó khăn trong đó có những trở ngại do thái độ của cán bộ địa phương về qui chế của Nhà nước. Điều đó không chỉ diễn ra cho các DNV&N ở nông thôn mà còn diễn ra cho các DNV&N ở thành thị. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, đòi hỏi phải hình thành được hệ thống chính sách văn bản pháp lý, tạo cơ sở pháp lý cho việc vận hành của toàn bộ nền kinh tế cũng như trong hoạt động của DN. Đối với khu vực DNV&N vấn đề ban hành các thể chế pháp lý càng có yêu cầu bức bách hơn, từ việc đổi mới về pháp luật, đổi mới về quản lý và giám sát hoạt động của DN, đến việc tạo ra giải pháp hữu hiệu, nhằm giảm bớt khó khăn của DN ngay từ khi mới thành lập, cũng như trong quá trình hoạt động, để DN phát triển đúng định hướng XHCN, tạo ra cơ cấu ngành nghề hợp lý, góp phần tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1986 đến nay, hệ thống pháp luật, chính sách của Nhà nước ban hành đã có tác dụng tích cực đến sự phát triển của các DN nói chung, song bản thân nó cũng chứa đựng nhiều bất hợp lý, thậm chí có sự mâu thuẫn. Đối với loại hình DNV&N chưa có văn bản pháp luật riêng, nhiều mặt quản lý còn buông lỏng, chưa khuyến khích khu vực này phát triển, đồng thời cũng chưa quản lý khu vực này một cách thực sự, dẫn đến giảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước “tình trạng vô Chính phủ” diễn ra có tính chất phổ biến ở loại hình DN nhỏ, dẫn đến nhiều hành vi tiêu cực của đội ngũ cán bộ quản lý trực tiếp DNV&N. Ngoài những vấn đề trên còn phải kể đến lợi ích của việc tạo ra những chính sách hợp lý, phù hợp để hỗ trợ DNV&N phát triển thông qua đó Nhà nước cũng như toàn bộ nền kinh tế sẽ được lợi bởi vì các DNV&N có thể: Thu hút nhiều lao động, tăng cơ hội tìm việc làm với chi phí thấp. Tăng thu nhập dân cư, góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo. Thu hút vốn nhàn rỗi trong dân vào sản xuất kinh doanh. Gieo mầm cho các tài năng kinh doanh. Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn. Do đó, để các DNV&N phát huy được vai trò của mình hơn nữa, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước, bởi vì có rất nhiều vấn đề mà các DNV&N không thể tự giải quyết được như là tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường tạo nguồn nhân lực,... Ngoài ra, còn nhiều vấn đề khác nếu được sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho DN, tạo điều kiện cho DN đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới và khu vực cho thấy để các DNV&N đứng vững và vươn lên, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ và các giải pháp hỗ trợ đắc lực cho các DN này. 2-/ Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân. 2.1. Tồn tại: a. Thiếu những văn bản pháp luật quan trọng có tính định hướng. Nhà nước chưa có luật cơ bản về DNV&N vào những ngành nghề nào chủ yếu, mặc dù đã có những bộ luật được ban hành như luật DN tư nhân, luật công ty, luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài,... nhưng mới chỉ đề cập đến DN nói chung, mà chưa có bộ luật riêng cho các DN có qui mô vừa và nhỏ. Đối với các nước trên thế giới, kể cả các nước trong khu vực, họ đều có chính sách riêng cho DNV&N như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Inđônêxia,... trong đó xác định qui mô vốn cho từng loại hình sản xuất kinh doanh xác định rõ ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, ngành nghề dành riêng cho DNV&N ban hành các chính sách miễn, giảm thuế,... Việc thiếu vắng những văn bản có tính chất định hướng quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đề sự phát triển của DN. Trước năm 1986, trong các văn bản pháp luật của Nhà nước đều có sự phân định kinh tế quốc tế ngoài quốc doanh, loại hình DNV&N cũng được phân biệt tương tự. Nhưng từ sau năm 1986 Nhà nước khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, trong số các văn bản pháp luật mới ban hành đã có một số văn bản có xu hướng áp dụng chung cho mọi loại hình DN. Mặt khác chính sách chưa gây được lòng tin về tính ổn định lâu dài của nó. Mặc cảm của các DNV&N đặc biệt là DN tư nhân, luôn dần thay đổi chính sách thì phần lợi thuộc về Nhà nước, phần thiệt thòi thuộc về các chủ DN. Điều đó dẫn đến các chủ DN chưa thực sự yên tâm đầu tư vốn lớn hoặc có đầu tư cũng cân nhắc đầu tư vào các ngành nào để thu hồi vốn nhanh, để khi chính sách thay đổi đã có đủ thời gian thu hồi vốn. Sự ra đời của các văn bản pháp luật có tính định hướng dành riêng cho DNV&N là rất quan trọng, nó mang tính chất pháp lý cao hơn, ổn định về thời gian hơn so với chính sách. Đặc biệt trong quá trình chuyển đổi, tâm lý các chủ DN chưa yên tâm, tính ổn định, tính lâu dài có thời hạn của chính sách. Do chưa có luật, chính sách qui định, ngành nghề lĩnh vực sản xuất kinh doanh ưu tiên cho loại hình DNV&N cho nên ngay từ khi mới ra đời các DNV&N đã phải đương đầu cạnh tranh với mọi loại hình DNV&N, kể cả các DNV&N có ui mô vốn lớn. Vì vậy tình trạng sớm bị phá sản là điều khó tránh khỏi. Điều này được chứng minh ở các nước công nghiệp phát triển, nếu không có chính sách ưu tiên thì tỉ lệ DN nhỏ sau 1 đến 2 năm hoạt động bị phá sản lên tới 50-60% (Anh 66% thời kỳ 1969). Ngược lại ở Nhật Bản, Hàn Quốc có luật dành riêng cho DNV&N giúp cho DNV&N hoạt động thuận lợi do đó tỉ lệ phá sản chỉ có 10-18%. Một khía cạnh khác cần phải nhắc đến đó là hệ thống văn bản pháp luật, chính sách được ban hành nhưng chưa thực hiện tốt, hoặc một số chính sách tuy đã ban hành nhưng không đi vào cuộc sống, vì có sự mâu thuẫn hoặc thiếu đồng bộ giữa các khâu, điều đó không những ảnh hưởng đến sự phát triển DNV&N mà còn ảnh hưởng đến sự giám sát kiểm soát của Nhà nước. Một văn bản pháp luật, chính sách cần phải được xuất phát từ thực tiễn của đất nước, từ những vấn đề vĩ mô để điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan