Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - Dân tộc và vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - Dân tộc và vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay: MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Quan hệ giữa giai cấp với dân tộc (gọi tắt là QHGC-DT)là một trong những nội dung cơ bản của TTHCM. Việc nhận thức đúng đắn quan điểm này và vận dụng quan điểm đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay là một đòi hỏi cấp bách. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - dân tộc và vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU: Xung quanh vấn đề quan điểm CNMLN và TTHCM về QHGC-DT đã có nhiều công trình nghiên cứu.Tuy nhiên đây lại là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm. Đặc biệt là việc vận dụng TTHCM về QHGC-DT trong điều kiện ở nước ta hiện nay đang là vấn đề chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc. Thực tiễn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những nội dung trên. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ: Góp phần nhận thức TTHCM về QHGC-DT trong cách mạng Việt Nam. Trên cơ...

doc42 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - Dân tộc và vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Quan hệ giữa giai cấp với dân tộc (gọi tắt là QHGC-DT)là một trong những nội dung cơ bản của TTHCM. Việc nhận thức đúng đắn quan điểm này và vận dụng quan điểm đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay là một đòi hỏi cấp bách. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - dân tộc và vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU: Xung quanh vấn đề quan điểm CNMLN và TTHCM về QHGC-DT đã có nhiều công trình nghiên cứu.Tuy nhiên đây lại là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm. Đặc biệt là việc vận dụng TTHCM về QHGC-DT trong điều kiện ở nước ta hiện nay đang là vấn đề chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc. Thực tiễn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những nội dung trên. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ: Góp phần nhận thức TTHCM về QHGC-DT trong cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở ấy vận dụng tư tưởng này vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay; Nghiên cứu cơ sở hình thành TTHCM về QHGC-DT ở Việt Nam; Nghiên cứu nội dung cơ bản của TTHCM về QHGC-DT trong cách mạng Việt Nam; Vận dụng TTHCM về QHGC-DT vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Tư tưởng của người về QHGC-DT được hình thành và phát triển trong cuộc đời của Người hết sức phong phú. Nó được ghi nhận, phản ánh qua nhiều nhân chứng, nhiều vật chứng khác nhau. Nhưng trong luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu TTHCM về QHGC-DT trong các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh mà thôi. Trong phạm vi như thế, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là: Những luận điểm cơ bản, thể hiện bản chất của QHGC-DT trong TTHCM. Luận văn chú trọng vào mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong TTHCM; Những phương hướng ổn định, lâu dài nhằm tăng cường QHGC-DT ở Việt Nam hiện nay, dưới ánh sáng TTHCM về QHGC-DT. 5. CƠ SỞ LÝ LUẬN, NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Cơ sở lý luận chính của luận văn này là CNMLN, TTHCM và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam Tài liệu chủ yếu mà luận văn sử dụng là bộ Hồ Chí Minh toàn tập và phương pháp chủ yếu mà luận văn sử dụng là: Phương pháp quy nạp ;Phương pháp chứng minh luận đề; Phương pháp loại suy và so sánh; Phương pháp lịch sử - lôgic. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN: Góp phần làm sáng tỏ TTHCM về QHGC- DT trong cách mạng Việt Nam; Góp phần làm sáng tỏ QHGC- DT trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3 chương, 7 tiết. Chương 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ GIAI CẤP – DÂN TỘC Quan hệ giai cấp - dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Do sự phát triển của lực lượng sản xuất ,từ nửa sau của thế kỷ XIX trở đi, CNTB đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, Các nước đế quốc đã dùng vũ lực và sức mạnh đi xâm lược và đặt ách đô hộ lên giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước nhược tiểu. Mâu thuẫn cơ bản của thời đại đế quốc do đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản ở các nước TBCN, và mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa. Vấn đề dân tộc - thuộc địa trở thành vấn đề trung tâm của thời đại. Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước đã nhận thức bản chất của thực tiễn về quan hệ ta - bạn - thù, Về QHGC-DT. Người thấy rằng: "Ở đâu CNTB cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị áp bức, lóc lột rất dã man, các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù không đội trời chung là bọn đế quốc, thực dân" [4,tr.19]. Người nhận rõ "giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù" [4,tr.19]. Đó là bản chất của QHGC-DT, quan hệ giữa thống trị và bị trị trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Ba mâu thuẫn cơ bản của thời đại: Giai cấp tư sản mâu thuẫn với giai cấp công nhân Chủ nghĩa đế quốc mâu thuẫn với các dân tộc Chủ nghĩa đế quốc mâu thuẫn với chủ nghĩa đế quốc được biểu hiện về mặt xã hội bằng hiện tượng là đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, chiến tranh đế quốc. Ba trào lưu đấu tranh ấy ngày càng xoắn xuýt lấy nhau, làm tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đỉnh cao của ba phong trào đấu tranh ấy vào đầu thế kỷ XX là sự bùng nổ và giành thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Đó là thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga nói riêng và thế giới nói chung; là sự khẳng định vai trò đầu tàu lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại mới. Xét trên một ý nghĩa khái quát, Cách mạng Nga trở thành trung tâm truyền tin (TTTT) những lý tưởng cách mạng đi khắp thế giới, trở thành con đường cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước bị áp bức. Chính vì thế, Cách mạng tháng Mười Nga đã khơi nguồn và thúc đẩy sự ra đời của 3 trào lưu cách mạng trong thế kỷ XX và còn có thể kéo dài đến rất nhiều thế kỷ sau. Đó là phong trào giải phóng dân tộc, phong trào xây dựng CNXH ở Liên Xô, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước, gặp gỡ với Cách mạng tháng Mười Nga chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh đế quốc và ba trào lưu cách mạng này đã nhận diện được bản chất mới của thời đại mới do Cách mạng tháng Mười Nga mở ra. Người viết: "Cách mạng tháng Mười Nga mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên thế giới" Nhìn chung từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, thời đại lịch sử loài người đã mang nội dung mới. Đó là thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Với nội dung như vậy, bản chất của thời đại trong giai đoạn này được đặc trưng bởi bản chất giai cấp công nhân - người đứng ở trung tâm của thời đại và trở thành đầu tàu của phong trào dân tộc. Bản chất của QHGC-DT trên thế giới do đó cũng được xác định bởi bản chất của giai cấp công nhân. Với những nội dung như thế , thời đại đã tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến các dân tộc. Việt Nam là một bộ phận của thế giới, do đó từ cuối thế kỷ XIX cho đến đầu thế kỷ XX, QHGC-DT ở Việt nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của QHGC-DT trên thế giới. Nhìn chung, xã hội Việt Nam dưới ách cai trị của thực dân Pháp đã phân hóa thành năm giai cấp tầng lớp khác nhau: Địa chủ, nông dân, tiểu tư sản, tư sản, công nhân. Và cơ cấu xã hội giai cấp, quan hệ giai cấp có 2 mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp Trong hai mâu thuẫn ấy thì mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu. Có áp bức thì có đấu tranh, có mâu thuẫn thì sẽ có sự bùng nổ của mâu thuẫn. Nhưng trong 5 giai cấp tầng lớp ấy chưa có giai cấp nào về mặt hiện thực, thực tiễn đủ sức lãnh đạo, đi tiên phong trong phong trào dân tộc, dân chủ. Còn giai cấp công nhân thì đang trong quá trình lớn lên, chưa có hệ tư tưởng riêng. Xã hội Việt Nam, dân tộc Việt Nam với một kết cấu giai cấp như vậy đang vận động xộc xệch. Nó như một tổ ong bị chiếc gậy tàn bạo của thực dân Pháp đập vỡ. Ong chúa bị đánh trọng thương, đàn ong tản ra nhiều phía, mất phương hướng. Đó là kết cục của sự ảnh hưởng của thời đại chủ nghĩa đế quốc đến Việt Nam. Nhìn chung, dưới ánh thống trị của thực dân pháp, xã hội Việt Nam nổi lên chín mẫu thuẫn, năm giai cấp. Đó là một xã hội có kết cấu lỏng lẻo, xộc xệch, rệu rã và mất hết sinh lực. Chính vì thế xã hội Việt Nam, dân tộc Việt Nam mất phương hướng vận động. Đó chính là sự khủng hoảng trầm trọng của một kết cấu xã hội giai cấp trong thời kỳ chưa xuất hiện vai trò đầu tàu của giai cấp tiên phong, khủng hoảng trầm trọng của QHGC - DT. Thực chất là sự khủng hoảng trầm trọng về vai trò lãnh đạo của một giai cấp đối với xã hội. Biểu hiện về mặt hiện tượng xã hội của sự khủng hoảng ấy là kết cục thất bại liên tiếp của các phong trào dân tộc, dân chủ theo ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư sản. Nhu cầu được đặt ra từ sự khủng hoảng và thất bại nêu trên là cần phải có một giai cấp mới với một thiết chế QHGC-DT mới, nhằm cứu lấy Việt Nam thoát khỏi sự khủng hoảng này. Từ nhu cầu khách quan trên đây, lãnh tụ của dân tộc và giai cấp đã ra khỏi Việt Nam để tìm kiếm một kiểu QHGC-DT mới. Tiếp xúc ánh sáng cách mạng thời đại, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhìn thấy kết cấu xã hội – giai cấp, QHGC-DT ở Việt Nam (xem mục 2.1.3). Do đó TTHCM về QHGC-DT được hình thành. Nội dung của tư tưởng này như thế nào, hãy xem chương 2. 1.2. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống và chủ nghĩa mác - lenin về quan hệ giai cấp - dân tộc. 1.2.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống Lịch sử Việt Nam từ thuở các vua Hùng dựng nước cho đến cuối thế kỷ XIX khi bị thực dân Pháp xâm lược, về cơ bản là lịch sử chống ngoại xâm. Trong chiều dài lịch sử ấy, chưa bao giờ dân tộc Việt Nam sống nổi trong độc lập, hòa bình quá 300 năm. Thế nhưng dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn! Cái gì đã làm cho dân tộc Việt Nam có một sức sống trường tồn và mãnh liệt như vậy? Trong khi đó đã có nhiều dân tộc bị đồng hóa, bị sáp nhập vào các nước đế quốc? Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam đất không rộng, người không đông, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, để chống lại các thế lực phương Bắc mạnh hơn gấp nhiều lần thì không có vũ khí nào khác hơn ngoài đoàn kết. Có đoàn kết mới làm nên sức mạnh, đoàn kết trở thành nhu cầu tất yếu của dân tộc Việt Nam. Nó đi vào tâm thức của mỗi một người dân mất nước hình thành nên chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước ấy được hình thành trong kháng chiến chống ngoại xâm, có thể khái quát thành những nội dung sau: Yêu nước là ý thức khẳng định cương vực chủ quyền quốc gia, quyền bất khả xâm phạm của dân tộc - Yêu nước là ý thức đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc nhằm tạo nên sức mạnh cho công cuộc kháng chiến: - Yêu nước là ý thức bảo tồn củng cố bản sắc dân tộc, không để bị sáp nhập đồng hóa bởi bất cứ thế lực ngoại xâm nào, cho dù đó là thế lực mạnh nhất thế giới, với một nền văn hóa cao hơn văn hóa Việt Nam: - Yêu nước là ý chí sắt đá, quyết tâm cao độ nhằm đánh đuổi ngoại xâm, giữ gìn phong tục, khẳng định chủ quyền quốc gia dân tộc: Chính chủ nghĩa yêu nước truyền thống với những đặc trưng như vậy là động lực tinh thần thôi thúc cả dân tộc Việt Nam đứng lên chiến đấu bảo vệ giang sơn đất nước. Nó đã hun đúc lên các vị anh hùng dân tộc nổi tiếng. Nó đã tạo nên sức sống trường tồn cho dân tộc Việt Nam. Cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã tỏ ra bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Sự thất bại của các phong trào dân tộc, dân chủ (phong trào Cần Vương, phong trào Duy Tân, phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục) là sự thất bại, (xét về mặt ý thức xã hội), của chủ nghĩa yêu nước truyền thống trước các thế lực ngoại xâm mới với một ý thức hệ mới, ý thức hệ đế quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống với những đặc trưng như trên đã được lưu giữ trong nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể khác nhau. Thông qua môi trường gia đình, quê hương và xã hội, chủ nghĩa yêu nước đã bao phủ và in dấu đậm nét lên tâm hồn Hồ Chí Minh, góp phần hình thành tư tưởng của người về QHGC-DT. Sau khi gặp CNMLN, chủ nghĩa yêu nước của Hồ Chí Minh lại mang nội dung mới. Nội dung này ra sao, hãy xem mục 2.1.2. 1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về quan hệ giai cấp- dân tộc: Giai cấp và dân tộc là hai vấn đề liên quan chặt chẽ với nhau. Quan hệ giai cấp với tư cách là sản phẩm của một phương thức sản xuất nhất định là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, tính chất dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc. Trong kết cấu giai cấp của xã hội, giai cấp nào mạnh nhất (xét một cách toàn diện) thì sẽ giữ vai trò thống trị đối với dân tộc. Tính chất giai cấp của giai cấp thống trị quy định tính chất của phương thức sản xuất và quy định tính chất của dân tộc. áp bức giai cấp sẽ sinh ra áp bức dân tộc: "hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng mất" [29,tr.565]. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và đấu tranh giai cấp ở chính quốc có quan hệ, tác động lẫn nhau hết sức mật thiết. Đấu tranh dân tộc chứa đựng những nội dung giai cấp sâu sắc. Nó không chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân làm cho đấu tranh giai cấp phát triển cả bề rộng, bề sâu và có bước nhảy vọt về chất.Trong "sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa", gồm 12 điểm, Lênin đã chỉ ra con đường giải quyết vấn đề dân tộc. Những vấn đề dân tộc trong LCLN là vấn đề dân tộc thuộc địa. Nội dung vấn đề dân tộc thuộc địa là: - Thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, các nước đế quốc. - Giành độc lập cho dân tộc. - Thành lập Nhà nước dân tộc độc lập, thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Còn vấn đề giai cấp ở trong LCLN là: Việc giải quyết vấn đề dân tộc thuộc địa sẽ do giai cấp nào đảm nhiệm. Chính vì thế nội dung của QHGC-DT trong LCLN là quan hệ giữa giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo của dân tộc với toàn thể dân tộc đó. Tóm lại, CNMLN khẳng định rằng, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp quan hệ biện chứng với nhau không thể tách rời. Việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc. Ngược lại bất cứ ở đâu và khi nào thì sự hình thành và phát triển của dân tộc, việc giải quyết vấn đề dân tộc đều gắn liền với lợi ích giai cấp, được chỉ đạo bởi quan điểm của giai cấp nhất định. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể mà việc giải quyết vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp trở thành nhiệm vụ chủ yếu trong từng giai đoạn cách mạng. CNMLN kết luận rằng: trong thời đại ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân và để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc. Những quan điểm trên đây của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được Hồ Chí Minh đánh giá cao Từ LCLN, Hồ Chí Minh tiếp tục nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác. TTHCM về QHGC-DT vì thế thuộc hệ tư tưởng Mác Lênin. Song cũng trong điều kiện lịch sử như nhau mà nhiều người khác ở Việt Nam không tìm được con đường cách mạng phù hợp cho dân tộc như Hồ Chí Minh? Điều căn bản này chỉ có thể phải được nghiên cứu và giải thích xuất phát từ đâu? Theo Các Mác, Căn bản là xét vấn đề đến tận gốc rễ, mà gốc rễ ở trong con người là chính bản thân con người. Cái gốc rễ này ở trong con người theo I. Cantơ (nhà triết học Đức thế kỷ XVIII) là năng lực bẩm sinh mà tạo hoá phú cho con người. Đó là yếu tố rất quan trọng. Ông cho rằng, nếu "thiếu nó thì không thể bù đắp nổi bằng bắt cứ trường học nào" [56,tr.395]. Chính vì thế điều làm cho Hồ Chí Minh khác với những bậc tiền bồi khác được giải thích xuất phát từ nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là phẩm chất riêng của người. 1.3. PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC THIÊN BẨM ĐẶC BIỆT CỦA HỒ CHÍ MINH: Hồ Chí Minh ngay từ thời niên thiếu đã có năng khiếu, phẩm chất đặc biệt. Những hiện tượng tự nhiên và xã hội diễn ra xung quanh mình đều đem lại cho Người những cảm giác mạnh mẽ, vượt hẳn người thường. Hầu như tất cả những hiện tượng gì mới lạ đều đưa lại cho Hồ Chí Minh cảm giác mạnh mẽ. Óc thông minh, tim nhân hậu, lòng dạ sắt son, tinh thần dũng cảm đã tạo ra ở Hồ Chí Minh một phẩm chất thiên bẩm đặc biệt. Đó là mầm mống thiên tài của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Nhờ phẩm chất này, khách thể nhận thức của Hồ Chí Minh (QHGC -DT ở Việt Nam và trên thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống; quan điểm của CNMLN về QHGC- DT) đã liên tục được chủ thể hóa và ngược lại. Qua quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, khách thể nhận thức của Hồ Chí Minh đã đem lại cho Hồ Chí Minh trong cảm giác, được cảm giác của Hồ Chí Minh chụp lại, chép lại, phản ánh và hình thành nên TTHCM về QHGC- DT. Chương 2 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC 2.1. CÁCH MẠNG LÀ SỰ NGHIỆP CỦA TOÀN DÂN DO GIAI CẤP CÔNG NHÂN LÃNH ĐẠO. 2.1.1. Hồ chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mac- Lênin về quan hệ giai cấp - dân tộc: Pari tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh đọc LCLN. Sau khi nắm vững phần chính của luận cương này Hồ Chí Minh cất tiếng nói to một mình (NTMM) như sau: "Hỡi đồng bào ! bị đoạ đày đau khổ! đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!" [39,tr.217]. Như vậy LCLN đã thắp sáng lên trong tâm hồn Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam nên mới làm cho Hồ Chí Minh NTMM như vậy. Đó là gì? Đó là Hồ Chí Minh đã thấy được sức mạnh của Việt Nam qua chủ nghĩa dân tộc truyền thống của nó, thấy được phương hướng vận động ở phía trước mà giai cấp công nhân là người đại diện. Hồ Chí Minh cũng đã đọc và nắm vững học thuyết của Mác. Trong bài "báo cáo về Bắc Kỳ Trung Kỳ và Nam Kỳ", viết ở Matxcơva năm 1924, Hồ Chí Minh đã viết về sự hiểu biết của mình đối với chủ nghĩa Mác, đối với lịch sử và dân tộc học phương Đông như sau: "Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Mác cho ta biết rằng sự tiến triển các xã hội trải qua ba giai đoạn: chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản; và trong mỗi giai đoạn ấy, đấu tranh giai cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng các dân tộc Viễn đông có trải qua hai giai đoạn đầu không? Từ nhiều thế kỷ nay, họ chẳng hưởng được thái bình hay sao để đến mức làm cho người Châu Âu khinh rẻ họ (lười nhác, mê muội hàng nghìn năm). Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học Phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô - Viết đảm nhiệm" [30,tr.465]. Đoạn văn này thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết Mác vào việc giải quyết các vấn đề Phương Đông, nơi mà những điều kiện trong quá khứ không có ở Châu Âu. Những người cộng sản phải phát triển học thuyết Mác trong điều kiện nước mình. Trong tác phẩm "Đường Cách Mệnh" in năm 1927, Hồ Chí Minh viết về sự nghiên cứu, so sánh các học thuyết cách mạng để có quyết định cho việc lựa chọn một học thuyết tối ưu cho dân tộc mình như sau: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" [31,tr.268]. Điều này có nghĩa là cho đến năm 1927, trên thế giới và ở Việt Nam đã tồn tại rất nhiều học thuyết khác nhau. Hồ Chí Minh dù ít nhiều cũng đã đọc một số học thuyết có tên tuổi. Đồng thời có thể là Người đã quan sát quá trình hiện thực hoá của các học thuyết này trong đời sống xã hội. Người đã so sánh các học thuyết ấy với nhau và với những truyền thống lịch sử văn hoá, tư tưởng, con người Việt Nam, in dấu trong tâm hồn của Người. Từ đó Người thấy rằng CNMLN là đỉnh cao của trí tuệ loài người. Đồng thời chủ nghĩa này cũng phù hợp với Việt Nam nhất, và Người đã quyết định lựa chọn nó. Từ những luận chứng trên đây ta có thể kết luận rằng: Kể từ khi cất tiếng EurêkaII cho đến năm 1927, CNMLN về những vấn đề phù hợp, cần thiết với Việt Nam lúc đó đã được Hồ Chí Minh nắm vững. Những vấn đề phù hợp, cần thiết này xét về phía CNMLN chính là các điểm 2, 4, 6, 11, 12 của LCLN; Chính là vấn đề liên minh công - nông và Đảng cộng sản trong cách mạng; chính là liên minh các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Những vấn đề này đã góp phần làm nên TTHCM về QHGC-DT : Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. 2.1.2. chủ nghĩa yêu nước - động lực của Hồ Chí Minh : Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống luôn luôn là động lực của Hồ Chí Minh. Nó bao phủ và in dấu đậm nét lên tâm hồn của Người, luôn luôn bừng tỉnh và bám chắc trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Điều đó thật rõ ràng. Hồ Chí Minh đã so sánh mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam với mâu thuẫn trong lòng xã hội Châu Âu. Có thể là Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự quyết liệt trong đấu tranh giai cấp ở Châu Âu và đã không nhận thấy điều đó ở Việt Nam. Người cũng nhận thấy rằng cấu trúc của xã hội Việt Nam xét theo quan hệ giữa người lao động với nhau, giữa nội bộ giai cấp thống trị với nhau là rất lỏng lẻo. Còn sự phân chia xã hội thành các giai cấp và nhóm có lợi ích đối lập nhau thì rất mờ nhạt. Trình độ nhận thức của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị để thực hiện mục tiêu giai cấp của họ rất thấp kém. Nếu lấy Châu Âu làm hệ quy chiếu thì đấu tranh giai cấp không phải là đặc trưng của xã hội Việt Nam. Đối với Hồ Chí Minh chủ nghĩa dân tộc có giá trị cực kỳ quan trọng. Quan trọng đến nỗi mà nếu không dựa vào nó thì sẽ không làm được gì Cho người An Nam. Thấy được sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, của các giá trị tinh thần truyền thống thì đồng thời Hồ Chí Minh cũng thấy được vai trò của con người và vai trò của các cá nhân sở hữu những giá trị này. Không có con người sẽ không có lịch sử. Sau này trong cuộc kháng chiến chống Pháp, qua thực tiễn của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm về vai trò sức mạnh nhân dân, chủ thể sở hữu của những giá trị tinh thần truyền thống, như sau: "Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức độ nào, đụng đầu nhằm bức tường đó chúng cũng phải thất bại"[34,tr.151]; Nói tóm lại thì "trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" [37,tr.276]. Như thế là đối với Hồ Chí Minh, yêu nước là đoàn kết, là sức mạnh. Nhờ có sức mạnh đó mà dân tộc ta đã nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Sức mạnh là điều kiện cho cách mạng thắng lợi! Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, sức mạnh của nhân dân thuộc địa và của Việt Nam bị xé lẻ, làm cho lực lượng của họ yếu đi rất nhiều. Qua sự quan sát của mình, Hồ Chí Minh thấy rằng, "CNTB tư bản thân nó là hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu". Nó mạnh vì CNTB có tổ chức, có lãnh đạo, có cấu trúc tinh xảo. Còn nhân dân thuộc địa yếu vì họ không có tổ chức, không có lãnh đạo, không liên kết thành hệ thống, không tập trung được lực lượng của mình. Do đó nhân dân thuộc địa muốn giành thắng lợi khi nổi dậy thì đòi hỏi họ cần phải có sự liên kết chặt chẽ để có sức mạnh. Điều đó dưới nhãn quan của Hồ Chí Minh là cần phải có sự lãnh đạo và tổ chức chặt chẽ. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và lịch sử Hồ Chí Minh đi đến kết luận rằng lực lượng cách mạng phải đủ mạnh thì mới thắng nổi đế quốc và phong kiến. Muốn cho đủ mạnh thì những lực lượng ấy phải tập trung, phải liên minh chặt chẽ với nhau. muốn tập trung phải có Đảng cách mệnh… Nhưng khi có Đảng rồi thì Đảng cần phải dựa vào đâu để đoàn kết nhân dân ? Với tư cách là lãnh tụ tối cao của dân tộc, Hồ Chí Minh muốn chuyển chủ nghĩa dân tộc từ mình đến các cá nhân trong xã hội Việt Nam và đánh thức cho nó luôn luôn bừng tỉnh trong tâm hồn của họ, từng bước nhen nhóm phong trào dân tộc. Có lẽ là xuất phát từ suy nghĩ như thế mà năm 1941, Hồ Chí Minh đã viết cuốn sách "Lịch sử nước ta" để tuyên truyền và giáo dục về kiến thức lịch sử dân tộc cho toàn dân Việt Nam. Thông qua đó, những suy nghĩ trên của Hồ Chí Minh sẽ được thực hiện trong thực tiễn của xã hội. Cuốn sách mở dầu bằng việc đề ra mục đích là giáo dục tường tận kiến thức lịch sử nước nhà cho dân chúng và kết thúc bằng việc kêu gọi họ đoàn kết: "Dân ta phải biết sử ta cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam ........ Dân ta xin nhớ chữ đồng Đồng tình đồng sức đồng lòng đồng minh" [32,tr.221-229] Cuốn sách đã phản ánh một cách khá đầy đủ những trang sử oanh liệt, dũng cảm của nhân dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Đặc biệt sách không hề có lấyk một chữ nói về xung đột giai cấp, dân tộc hay tôn giáo trong lòng xã hội Việt Nam. Khi Hồ Chí Minh viết cuốn sách này vào năm 1941 ở Cao Bằng chắc là chỉ dựa vào trí nhớ thôi. Bởi vì thời điểm này ở Cao Bằng chắc không có tài liệu lịch sử dân tộc Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ Chí Minh thì phải hoạt động bí mật, không có điều kiện để tiếp cận sách báo đại chúng. Điều đó chứng tỏ rằng chủ nghĩa yêu nước và những trang sử quá khứ Việt Nam luôn bừng tỉnh trong Hồ Chí Minh, trở thành động lực thúc đẩy mọi hoạt động cách mạng của Người. Như thế, Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo trong TTHCM được khơi nguồn từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống. Song việc Hồ Chí Minh thừa nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân chỉ có thể xuất phát trực tiếp từ nhận thức của Người về các giai cấp trong xã hội. 2.1.3. Nhận thức của Hồ Chí Minh về Vai trò, vị trí các giai cấp trong xã hội : Thời đại Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên là thời đại chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa này như bóng đen hung dữ bao phủ lên các nước và các dân tộc chậm tiến, biến các nước và các dân tộc này trở thành thuộc địa. Việt Nam là một bộ phận của hệ thống thuộc địa của Pháp, do đó dưới con mắt của Hồ Chí Minh, mọi giai cấp tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều có vai trò, vị trí thái độ chính trị khác nhau, quan hệ với chủ nghĩa đế quốc khác nhau, đóng vai trò khác nhau trong tiến trình lịch sử dân tộc. Họ bị tấn công từ rất nhiều phía: Địa chủ, tư sản, đế quốc; bị đạp lên "đầu" lên "cổ" lên "mặt mũi" lên "tay" lên "chân" lên mọi chỗ trên "cơ thể" vốn đã "ốm yếu" và "tiều tuỵ" của họ. Nông dân Việt Nam vô cùng tối tăm, dốt nát, khổ cực. Họ có 3 kẻ thù không đội trời chung. Cả về lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh cho rằng nông dân không thể lãnh đạo được cách mạng. Thứ hai là giai cấp chủ: Theo Hồ Chí Minh, về cơ bản đây là giai cấp phản động.Họ là rường cột của chế độ phong kiến. Khi Pháp và sau này là Mỹ xâm lược Việt Nam thì họ trở thành tay sai của đế quốc. Thứ ba là tầng lớp tiểu tư sản. Tầng lớp này có mầm mống trong xã hội phong kiến. Khi Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, tiểu tư sản ngày càng phát triển nhanh về số lượng. Xét về mặt bị áp bức, thì theo Hồ Chí Minh, trí thức bị đế quốc áp bức, tiểu thương tiêu chủ vừa bị đế quốc, vừa bị phong kiến áp bức Vì bị áp bức mà sinh ra cách mạng, nhưng mức độ áp bức của đế quốc và phong kiến đối với tiểu tư sản không nặng nề bằng nông dân. Do đó theo Hồ Chí Minh thì trong giai đoạn đầu của cách mạng, mặt cách mạng của tiểu tư sản được xem là "bầu bạn của cách mạng". Nhưng trải qua thời kỳ dài, tiểu tư sản được Hồ Chí Minh xem là "Động lực cách mạng" [35,tr.460]. Song đặc điểm của tiểu tư sản là "Tự tư tự lợi, rời rạc, kém kiên quyết…" do đó họ không thể lãnh đạo được cách mạng. Thứ tư là giai cấp tư sản dân tộc. Theo Hồ Chí Minh giai cấp tư sản dân tộc có địa vị kinh tế xã hội yếu kém, bị đế quốc và phong kiến chèn ép. Đó là mặt bị áp bức, mặt thứ nhất của giai cấp này. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng thấy được mặt thứ hai của họ là mặt thỏa hiệp: Tính chất hai mặt ấy của giai cấp tư sản dân tộc làm cho họ "vừa muốn cách mạng vừa muốn thỏa hiệp" [36,tr.215]. Đồng thời nó cũng làm cho giai cấp này không tạo ra được cho mình hệ tư tưởng riêng. Do đó họ cũng không thể lãnh đạo được cách mạng Việt Nam.Tuy nhiên mặt bị áp bức của họ làm cho họ trở thành lực lượng cách mạng khá quan trọng. Thứ năm là giai cấp công nhân Việt Nam. Công nhân Việt Nam theo Hồ Chí Minh là những người không có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động mà sống. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì cũng đều thuộc về giai cấp công nhân.Chủ chốt của giai cấp này là những công nhân ở xí nghiệp, những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng những cố nông…. Đời sống của công nhân Việt Nam luôn luôn chịu sự áp bức bóc lột từ nhiều phía khác nhau. Theo Hồ Chí Minh so với các giai cấp tầng lớp khác thì "công nhân bị áp bức nặng hơn" [31,tr.266] . Như vậy trong kết cấu xã hội - giai cấp của Việt Nam và các mâu thuẫn vốn có của nó ,Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng, Thứ nhất: các giai cấp công nhân, nông dân, Tiểu tư sản, tư sản dân tộc đều có kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Thứ hai: Cả 4 giai cấp tầng lớp này đều là lực lượng cách mạng ở một mức độ nhất định. Do đó theo Hồ Chí Minh, cách mạng phải là sự nghiệp của toàn dân, tức là của nhân dân "Nhân dân là: Bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc" [36,tr.217]. Đồng thời qua phân tích như trên, chúng ta cũng đã nhận ra rằng, Hồ Chí Minh đã phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của nông dân, tiểu tư sản tư sản dân tộc và phong kiến. Vậy người lãnh đạo cách mạng Việt Nam chỉ có thể là giai cấp công nhân. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo được hay không là do đặc tính của giai cấp chứ không phải số lượng nhiều hay ít của giai cấp đó. Trong bài "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh viết về đặc tính của giai cấp công nhân như sau: "Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất…Giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là CNMLN. Đồng thời tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo" [36,tr.212]. Xem xét vai trò các giai cấp trong xã hội Việt Nam, lựa chọn ra giai cấp công nhân là tiến bộ nhất, xuất sắc nhất, đó là căn cứ để Hồ Chí Minh khẳng định: giai cấp công nhân là người lãnh đạo cách mạng. 2.1.4. Hồ Chí Minh Khẳng định và hiện thực hoá vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và giai cấp công nhân : Lựa chọn con đường cách mạng vô sản theo CNMLN, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng & giai cấp công nhân đối với xã hội và dân tộc Việt Nam. Đồng thời, người cũng tìm mọi cách để hiện thực hoá sự khẳng định ấy. Trong tác phẩm "Đường cách mệnh" của mình, Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò đầu tàu lịch sử dân tộc của Đảng như sau: "Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động & tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức & vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy" [31,tr.267-268].. Nhận thức ra vai trò đầu tàu của Đảng trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nỗ lực truyền bá CNMLN vào Việt Nam, chuẩn bị các điều kiện tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Năm 1930, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Sự ra đời và phát triển vững chắc của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh là quá trình hiện thực hoá tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản. Thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX có được là nhờ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chính vì vậy mà nó cũng là thắng lợi của TTHCM. 2.1.5. Hồ Chí Minh xác Định vai trò, vị trí các giai cấp, tầng lớp nhân dân, kêu gọi toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng: Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân. Nếu tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh được thể hiện trong chiến lược tập trung lực lượng cách mạng thì cụ thể hoá hơn nữa, chiến lược này lại được thể hiện trong việc định vị các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; trong việc kêu gọi toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng của Hồ Chí Minh. Năm 1927, trong tác phẩm "Đường cách mệnh"của mình, Hồ Chí Minh định vị các tầng lớp nhân dân trong cách mạng như sau: "Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mạng của công nông thôi" [31,tr.266]. Như vậy vị trí các giai cấp tầng lớp trong xã hội theo cách nhìn của Hồ Chí Minh là do ách áp bức của đế quốc và phong kiến quy định. Khi ách áp bức thay đổi thì vai trò, vị trí các giai cấp cũng phải định vị lại cho sát đúng với tình hình. Có lẽ qua thực tiễn của cách mạng mà thái độ chính trị các giai cấp thay đổi. Do đó Hồ Chí Minh đã định vị chính xác hơn trước về các giai cấp vào năm 1953, trong bài "Thường trực chính trị" như sau: "Theo tính chất cách mạng mỗi nước mà xác định động lực cách mạng gồm những giai cấp nào. Tính chất cách mạng của ta là cách mạng dân chủ mới cho nên động lực cách mạng gồm có những giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản. Trong một thời kỳ và một trình độ nhất định, giai cấp tư sản dân tộc cũng là động lực cách mạng. Nếu việc phân loại thái độ chính trị của khối cộng đồng nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc có ý nghĩa to lớn cho việc tập trung lực lượng đánh đế quốc thì việc phân loại ấy về họ trong công cuộc xây dựng đất nước càng có ý nghĩa lớn hơn và khó khăn hơn nhiều. Bởi vì, cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, không chỉ là trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn trong công cuộc xây dựng kinh tế. Cho nên việc phân loại ấy càng làm cho mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng bền vững và được rộng mở: "Chúng ta đang tiến lên một nền kinh tế XHCN. Đi đôi với những thắng lợi ấy, quan hệ giai cấp trong xã hội Miền Bắc đã thay đổi. Giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ. Giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh và tăng cường lãnh đạo đối với nhà nước. Giai cấp nông dân đang đi vào con đường hợp tác hoá. Liên minh công nông ngày càng được thắt chặt. Những người trí thức cách mạng đang góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng nước nhà. Các nhà tư sản dân tộc nói chung đều tiếp thu cải tạo XHCN. Các tầng lớp nhân dân đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận dân tộc thống nhất" [38,tr.584]. Việc định vị như thế về vai trò, vị trí của từng giai cấp tầng lớp là cách nhìn cụ thể, nhìn cái bộ phận của Hồ Chí Minh về cộng đồng nhân dân. Trên cơ sở của quan điểm ấy, Người đã khái quát thành lực lượng cách mạng XHCN như sau: "Ai xây dựng CNXH? nói chung là những người lao động trong xã hội gồm công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, … nhưng lực lượng chủ chốt xây dựng CNXH là công nhân" [41,tr.564]. Định vị các giai cấp, tầng lớp nhân dân là quá trình xác định bạn bè loại 1, loại 2, loại 3 … của cách mạng. Đi đôi với quá trình này, trong mỗi bước ngoặt của lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đều ra sức kêu gọi toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng:. Hỡi đồng bào!. Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc" [33,tr.480]. "Vì độc lập của tổ quốc, vì nghĩa vụ đối với các dân tộc đang chống đế quốc Mỹ, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng không sợ hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn" [41,tr.109]. Song mỗi tầng lớp nhân dân đều có những vai trò, sở trường nhất định trong từng lĩnh vực. Do đó theo Hồ Chí Minh, toàn dân cách mạng ắt phải toàn diện cách mạng. Người kêu gọi: "Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp lâu dài và gian khổ, song nhất định thắng lợi. Mọi người chúng ta, bất kỳ ai làm việc gì, ở cương vị nào, đều phải là những chiến sĩ dũng cảm của sự nghiệp vẻ vang ấy" [40,tr.234]. "Bất kỳ giàu nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến Toàn diện kháng chiến" [34,tr.444]. Chỉ có thể toàn diện kháng chiến, toàn diện làm cách mạng mới có thể phát huy được sức mạnh của toàn dân. Toàn dân & toàn diện là 2 cách nhìn về một vấn đề. Toàn dân là nhìn nhận dân tộc theo cơ cấu dân cư. Toàn diện là nhìn nhận theo cơ cấu nghề nghiệp của cộng đồng dân cư ấy. Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân! quan điểm đó của Hồ Chí Minh là sự phản ánh sáng tạo xu thế vận động của dân tộc. Nó được thể hiện không chỉ qua các lời kêu gọi của Hồ Chí Minh mà còn qua thực tiễn cách mạng. Trong mỗi bước đi của lịch sử, nếu hiện thực cách mạng Việt Nam vận động rời rạc, không mang tính thống nhất trên toàn quốc, nhất là vào những bước ngoặt vĩ đại thì Hồ Chí Minh đều quyết định uốn nắn. Đặc biệt là cuối năm 1944, Ban liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng quyết định khởi nghĩa bộ phận thì ngay lập tức đã bị Hồ Chí Minh chặn đứng. Cho đến tháng tám 1945, khi mà "cả dân tộc ta từ Bắc chí Nam đã vùng dậy với một sức mạnh như triều dâng, thác đổ" [18,tr.138], thì Hồ Chí Minh mới thấy được hiện thực của tư tưởng mình. Người quyết định: "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải dành cho được độc lập". Như vậy, cách mạng tháng tám 1945 là sự vùng dậy của cả một dân tộc. Trong những ngày cách mạng thắng lợi chúng ta nghe thấy âm hưởng của LCLN, âm hưởng của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam truyền thống đang thức dậy với sắc thái mới. Với thắng lợi của cách mạng, các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam được chưng cất qua mấy nghìn năm lịch sử đã được trưng bày, được phô diễn. Cách mạng thực sự là cuộc trường chinh từ quá khứ đến hiện tại của dân tộc Việt Nam. Và người có vai trò lớn trong cuộc trường chinh này là Hồ Chí Minh. 2.2. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - CON ĐƯỜNG GIẢI QUYẾT TRIỆT ĐỂ GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC: 2.2.1. Độc lập dân tộc là điều kiện hàng đầu để giải phóng giai cấp: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được" [23,tr.335]. Hội nghị Trung ương tám tháng 5 năm 1941 của Đảng cộng sản Đông Dương, do Hồ Chí Minh chủ trì, đã nhận định như vậy Nhận định nêu trên thể hiện một tư tưởng điển hình vào một hoàn cảnh điển hình của một nhân vật lịch sử điển hình: Hồ Chí Minh! Tư tưởng điển hình này là việc chia nhiệm vụ cách mạng thành nhiều thời điểm khác nhau. Trong mỗi thời điểm có một nhiệm vụ cấp bách, nổi bật lên hàng đầu. Đối với Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc, việc giành độc lập cho dân tộc cho toàn thể mọi giai cấp tầng lớp trong xã hội là nhiêm vụ hàng đầu. Vì "trong lúc này" mâu thuẫn giữa toàn thể các dân tộc Đông Dương, không phân biệt giai cấp, tầng lớp với chủ nghĩa đế quốc đang trở lên vô cùng quyết liệt không lúc nào bằng. Như vậy theo Hồ Chí Minh tinh thần dân tộc của người Đông Dương rất cao là do mâu thuẫn giữa dân tộc Đông Dương với chủ nghĩa thực dân gây nên. Mâu thuẫn này ở Đông Dương chỉ là một bộ phận của mâu thuẫn chung giữa chủ nghĩa thực dân với các thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Từ nhận thức như vậy, Hồ Chí Minh đã rút ra được QHGC-DT của cách mạng thuộc địa. Theo người, đối với các nước thuộc địa thì vấn đề dân tộc là ưu tiên hàng đầu còn vấn đề giai cấp thì phải giải quyết lâu dài. Người viết: "Dân tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công thương đều đều nhất trí chống lại cường quyền" [30,tr.266]. Đó là sự khái quát mang tính quy luật của cách mạng thuộc địa của Hồ Chí Minh. Quy luật ấy hình thành là do mâu thuẫn cơ bản của thời đại đế quốc chủ nghĩa sinh ra Nhận định của Hội nghị Trung ương tám diễn ra vào một hoàn cảnh điển hình, phản ánh các mâu thuuẫn của Đông Dương đã đạt đến mức độ điển hình. Cho nên nó không những đã khái quát sự phát triển của các mâu thuẫn của Đông Dương trong quá khứ mà còn phản ánh các mâu thuẫn của Đông Dương trong tương lai! Ngoài mặt phản ánh mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thư yếu của kết cấu xã hội – giai cấp Đông Dương hiện tại, TTHCM coi ĐLDT là điều kiện hàng đầu để giải phong giai cấp, còn là sự tiếp nối của QHGC-DT của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam truyền thống.Nếu dân tộc và giai cấp là hai yếu tố song sinh thì trong mọi giai đoạn của lịch sử, vấn đề dân tộc bao giờ cũng là "gen" trội. Như vậy trong TTHCM, ĐLDT là yếu tố nổi trội, hàng đầu để mở đường giải phóng giai cấp. Điều đó không thể chối cãi. Chủ nghĩa dân tộc, việc đặt độc lập lên hàng đầu, trên yếu tố giai cấp của Hồ Chí Minh cũng được UNESCO thừa nhận: "Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam" [51,tr.5]. Suy nghĩ và hành động, đó là một thể thống nhất không thể tách rời trong Hồ Chí Minh. Với quan điểm kết hợp dân tộc và giai cấp như trên, Hồ Chí Minh đã quyết tâm giành, giữ và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quyết tâm ấy được thể hiện trong các lời kêu gọi của Hồ Chí Minh đối với toàn thể dân chúng Việt Nam. Có thể nói rằng các lời kêu gọi vang dậy sông núi của Hồ Chí Minh đã đóng vai trò là linh hồn và khí phách của dân tộc Việt Nam trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng tháng 8 và kháng chiến chống Pháp, Mỹ của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX. ĐLDT là điều kiện hàng đầu để giải phóng giai cấp, nhưng sau khi đã có độc lập rồi thì giai cấp sẽ được giải phóng bằng thể chế chính trị nào? TBCN hay XHCN? Theo Hồ Chí Minh ĐLDT phải gắn với CNXH thì mới giải phóng được hoàn toàn giai cấp công nhân & nhân dân lao động 2.2.2. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội - con đường giải quyết triệt để giai cấp và dân tộc: ĐLDT gắn liền với CNXH là thành quả tư tưởng của công cuộc "đãi cát tìm vàng"của Hồ Chí Minh trong cuộc đời của Người. ĐLDT gắn liền với CNXH là chiến lược xuyên suốt của TTHCM, được thể hiện trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Ngay trong "Chính cương vắn tắt" năm 1930, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chiến lược ấy như sau: "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội công sản" . Cụ thể hoá một bước chiến lược trên, trong "thường thức chính trị"(1953), Hồ Chí Minh viết: "Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện người cày có ruộng, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới... Bước thứ hai là tiến lên CNXH, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản" [36,tr.209-210]. Qua mọi giai đoạn lịch sử, khi chiến lược ấy cuả Hồ Chí Minh được tung ra cho toàn thể dân chúng Việt Nam được biết thì QHGC-DT ở Việt Nam trong các giai đoạn này sẽ được giải quyết đạt hiệu quả tối ưu. Bởi vì chiến lược ấy nếu tung ra khi Việt Nam chưa giành được độc lập thì nó vừa đáp ứng nhu cầu nguyện vọng trước mắt của toàn dân, vừa đáp ứng nhu cầu nguyện vọng lâu dài của họ, do đó đã thu hút được tất cả họ đi theo, tạo ra lực lượng vô cùng to lớn cho cách mạng. Khi đó quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản cũng được khẳng định trên thực tế và ngày càng được tăng cường củng cố chắc hơn. Tức là nhân dân, toàn dân được giải phóng đến đâu thì công nhân và Đảng cũng được giải phóng đến đó. QHGC-DT sẽ luôn hài hoà xoắn xít bên nhau.Còn nếu chiến lược ấy được tung ra khi Việt Nam đã giành được độc lập thì một mặt nó vừa bảo đảm nắm giữ thật chắc nền độc lập đã giành được; mặt khác nó vừa đáp ứng nguyện vọng trước mắt và đáp ứng nguyện vọng lâu dài của cách mạng. Chính vì thế quyền lợi của toàn dân, tức là của cả dân tộc được giải quyết. Do đó mà lợi ích và vai trò của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản ngày càng được khẳng định cao hơn, chắc hơn. Theo quy luật của lịch sử, con người, nhân dân của các dân tộc đều hướng tới độc lập, tự do. Nhưng trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nhu cầu của con người đều bị giới hạn bởi những điều kiện mà họ đang sống. Vì thế một cộng đồng dân tộc, xã hội chỉ có thể thực hiện được nhu cầu đời sống của họ ở một thời điểm nào đó với những điều kiện có sẵn, đã cho phép. TTHCM, gắn ĐLDT với CNXH có thể nói là một hàm số liên tục, đa biến. Trong hàm số này, những sự kiện lịch sử ở Việt Nam, ở khu vực và thế giới diễn ra vào thời điểm nào đó là những biến số. Còn những giá trị vật chất, tinh thần,... mà nhân dân Việt Nam đạt được cũng trong thời điểm này là hàm số. Quá trình Việt Nam đã lên CNXH theo Hồ Chí Minh có thể nói được phán ánh, ghi nhận trong hàm số ấy. Có thể nói rằng từ ngày độc lập (1945) trở về sau, tính chất và giá trị của nền độc lập Việt Nam được thay đổi nhiều, giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước. Tương ứng với tính chất và giá trị của nền ĐLDT thì QHGC-DT cũng được giải quyết tốt hơn của giai đoạn sau so với giai đoạn trước. Tính chất và giá trị ấy của nền ĐLDT trong một thời điềm được coi như những lát cắt của Lịch sử Việt Nam. Đó chính là sự thể nghiệm cụ thể của TTHCM, gắn liền ĐLDT với CNXH. Khi cách mạng giải phóng dân tộc phát triển thành cách mạng XHCN thì những thành quả mà nhân dân lao động đã giành được trong cách mạng giải phóng dân tộc (độc lập về chính trị... ruộng đất cho nông dân) sẽ tiếp tục được phát huy, đồng thời quyền lợi và vai trò của giai cấp công nhân sẽ tiếp tục được nâng cao. Chính vì thế có thể nói rằng ĐLDT gắn liền với CNXH hoặc cách mạng giải phóng dân tộc phát triển thành cách mạng XHCN là con đường giải quyết triệt để QHGC-DT. 2.2.3. Chủ nghĩa xã hội - điều kiện bảo đảm độc lập thực sự ,hoàn toàn: Trong mục (2.2.2), nếu ĐLDT gắn liền với CNXH được xem xét như một "phong trào hiện thực", được xem xét ở dạng thể nghiệm của nó trong thực tiễn, được xem xét từ nguồn gốc hình thành của nó trong TTHCM thì ở mục (2.2.3) này nó lại được xem xét ở dạng lý thuyết, được xem xét như một hình thái kinh tế xã hội và sự thể nghiệm của nó ở Miền Bắc Việt Nam. ở phần này, CNXH trong TTHCM được xem xét về lý luận và thực tiễn như một điều kiện đảm bảo ĐLDT thực sự, hoàn toàn. Độc lập hoàn toàn trong TTHCM có nghĩa là phải độc lập về chính trị, độc lập về kinh tế, độc lập về ngoại giao... độc lập về chính trị đòi hỏi phải được bảo đảm về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, có chính quyền riêng, quân đội riêng và độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế. Độc lập về kinh tế đòi hỏi phải có đường lối chính sách kinh tế riêng, không phụ thuộc về kinh tế đối với bất cứ một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào cả. Tóm lại độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn trong TTHCM có nghĩa là nhân dân phải tự làm chủ cuộc sống của mình, phải tự quản lý lấy đất nước mình, phải có quyền tự quyết. Nhưng làm thế nào để có được như vậy? Hồ Chí Minh cũng cho rằng Việt Nam sẽ được độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự khi dựa vào CNXH. Người viết: "Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [39,tr.126]. Lòng tin của Hồ Chí Minh vào CNXH đã được ông Jonh lê văn hoá viết như sau: "Cụ hoàn toàn tin vào tính độc nhất vô nhị của chủ nghĩa này trong việc giúp Việt Nam giành lại độc lập" [23,tr.239]. Hồ Chí Minh tin tưởng như vậy là dựa trên những nét tương đồng giữa CNXH với văn hoá và truyền thống Việt Nam. Niềm tin ấy của Hồ Chí Minh là niềm tin trí tuệ, có tính chất duy lý. Khi nước nhà giành được độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự thì QHGC-DT cũng được giải quyết triệt để. Với niềm tin tuyệt đối về học thuyết CNXH như vậy về mặt lý thuyết, Hồ Chí Minh nghĩ rằng cần phải có một hình thức CNXH phù hợp với trình độ dân trí của nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) còn đang thấp kém. Hình thức ấy vừa phản ánh được nguyện vọng về đời sống hằng ngày, trực tiếp trước mắt của dân, vừa là điều kiện, vừa là môi trường bảo đảm cho nhân dân Việt Nam tiếp tục duy trì và phát triển những giá trị tinh thần truyền thống của họ. Tóm lại là hình thức của CNXH phải làm thế nào để ĐLDT phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Có lẽ xuất phát từ suy nghĩ như thế mà Hồ Chí Minh có những quan niệm về CNXH, về hình thức của CNXH hết sức ngắn gọn, đơn giản khi người đối diện với dân: Hình thức của CNXH trong TTHCM với tư cách như một học thuyết cách mạng đã bảo đảm cho Việt Nam giành độc năm 1945 và kháng chiến chống quân xâm lược Pháp thành công năm 1954. Nhưng sau 1954, Việt Nam vẫn chưa giành được độc lập hoàn toàn. Miền Bắc đã được giải phóng, nhưng Miền Nam còn bị đế quốc Mỹ xâm lược. Vấn đề đặt ra tiếp theo cho cách mạng Việt Nam là Miền Bắc cần phải thực hiện quyền dân tộc tự quyết của mình theo chế độ chính trị nào? TBCN hay XHCN? theo Hồ Chí Minh, Miền Bắc phải đi lên CNXH trong khi đó Miền Nam vẫn tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chỉ có chế độ XHCN hiện thực ở Miền Bắc mới có thể đủ điều kiện cho Miền Nam thực hiện tốt nhất cuộc cách mạng giải phóng, tiến tới hoà bình, thống nhất đất nước thực sự. Cách mạng XHCN ở Miền Bắc theo Hồ Chí Minh là "cơ sở" cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. * * Kể từ khi âm hưởng EURÊKAII vang lên, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc mình. Đó là con đường cách mạng vô sản. Với việc lựa chọn con đường này, QHGC-DT đã được xác lập ở Việt Nam về lý luận. Nội dung cơ bản của quan hệ này là quyền lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân đối với toàn thể nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; tính chất của dân tộc Việt Nam sau khi giành được độc lập sẽ là XHCN. Sự lựa chọn của Hồ Chí Minh cũng là sự lựa chọn của lịch sử, văn hoá và truyền thống lâu đời của Việt Nam. Với CNXH của Hồ Chí Minh, các truyền thống của Việt Nam đã được hiện đai hoá, đã được sống lại và bừng tỉnh trong thời đại cách mạng vô sản. Với một niềm tin có tính chất duy lý vào sự lựa chọn của mình, Hồ Chí Minh đã nỗ lực xác lập sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong phong trào dân tộc ở Việt Nam. Tin tưởng vào sức mạnh của truyền thống, Hồ Chí Minh trong các giai đoạn phát triển của cách mạng đã làm nổi bật yếu tố dân tộc trong quan hệ với yếu tố giai cấp. Trên thực tế người đã thành công trong các nỗ lực và các mục tiêu chính trị của mình. Với thành công này quyền tự quyết của nhân dân và dân tộc Việt Nam được thực hiện. Quyền này được thực hiện đến mức độ nào thì QHGC-DT ở Việt Nam được kết hợp hài hoà đến mức độ ấy. Hiện nay, con đường mà Việt Nam thực hiện đổi mới là sự phát triển của lý luận QHGC-DT của Hồ Chí Minh trước đây.Việc nghiên cứu thực trạng của QHGC –DT ở Việt Nam thời gian qua để từ đó xây dựng phương hướng vận dụng tốt hơn nữaTTHCM về QHGC–DT đang là vấn đề cấp bách. Ta hãy đi vào chương 3 để giải quyết vấn đề này. Chương 3 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. THỰC TRẠNG VIỆC GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VỪA QUA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA. Vấn đề dân tộc và giai cấp cũng như việc giải quyết. Nghiên cứu, xem xét những thành tựu, những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, khuyết điểm, những tồn tại trong việc giải quyết QHGC-DT ở nước ta trong thời gian qua, chúng ta có thể nêu lên những nhận định sau: 3.1.1. Về thành tựu: 3.1.1.1. Thành tựu trên phương diện xác định phương hướng, hoạch định chủ trương, chính sách chung: Việc giải quyết quan hệ biện chứng giữa giai cấp công nhân và dân tộc trong cách mạng Việt Nam thể hiện tập trung ở đường lối chính trị của Đảng đó là: kết hợp ĐLDT với CNXH. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, sự kết hợp ấy có những biểu hiện đặc thù với những nội dung xác định. Đảng ta từng bước hoàn thiện đường lối mới. Đường lối này đã xác định những nét chính của mô hình CNXH ở Việt Nam với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; vạch ra những giải pháp chiến lược, những điều kiện tiên quyết để khơi dậy tiềm năng, phát triển đất nước. Bản chất, linh hồn của những chủ trương đổi mới trên đây của Đảng ta là nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH, kết hợp nhuần nhuyễn ĐLDT và CNXH, tức thực hiện lợi ích dân tộc trên quan điểm lập trường giai cấp công nhân, cũng là thực hiện lý tưởng giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích dân tộc. 3.1.1.2. Thành tựu trên phương diện tổ chức các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội: Việt nam là một trong những nước thành công trong chuyển đổi cơ chế: từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tổng kết thành tựu thời kỳ 1991-2000, đại hội IX của Đảng nhận định: “đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Công tác xóa đói, giảm nghèo đã được triển khai mạnh mẽ ở hầu hết các tỉnh, nhất là ở các vùng nghèo, xã nghèo; đã thu hút được nhiều nguồn hỗ trợ và đạt được kết quả khá. … Nhiều chương trình quốc gia đã được tiến hành, trong đó nổi bật là chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đạc biệt khó khăn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, gọi tắt là chương trình 135. Vấn đề quyền làm chủ của nhân dân ngày nay được Đảng, Nhà nước quan tâm với ý thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Vì vậy, nhân dân đã thực hiện quyền làm chủ, tham gia vào đời sống chính trị, đóng góp ý kiến, xây dựng đường lối, chính sách, các văn bản pháp luật, những quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà nước; tích cực tham gia công tác bầu cử các cấp, giám sát hoạt động của các đại biểu dân cử và cán bộ Đảng và Nhà nước; khắc phục dần tình trạng mất dân chủ, dân chủ hình thức. Quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp chăm lo xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, để Nhà nước thực sự là nơi đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên lĩnh vực văn hoá: Một trong những thành tựu quan trọng trong những năm đổi mới vừa qua là đã tích cực phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và xây dựng nhiều giá trị văn hoá tiên tiến phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta và xu thế chung của thế giới. Những thành tựu của việc giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và dân tộc trong 17 năm đổi mới vừa qua đã góp phần rất quan trọng đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua được những thử thách hiểm nghèo, thế và lực đã có sự biến đổi về chất, khắc phục một bước tình trạng nước nghèo và kém phát triển, tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên trong thế kỷ XXI. 3.1.2. Khuyết điểm, tồn tại: Bên cạnh những thành tựu nêu trên thì trong quá trình đổi mới, do lập trường giai cấp, quan điểm giai cấp công nhân của chúng ta có phần nào đó chưa vững, bị mờ nhạt, nên đã dẫn đến những khuyết điểm, tồn tại trong việc giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và dân tộc ở nước ta. Điều đó thể hiện trên các lĩnh vực sau đây: Một là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội: Khuyết điểm và yếu kém cần nói ở đây là việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng, vừa buông lỏng. Chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Sự thống nhất lợi ích giai cấp và lợi dân tộc thể hiện trong việc kết hợp đúng đắn tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế những năm đổi mới vừa qua, sự tăng trưởng kinh tế chưa thật sự gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; chưa kết hợp thật tốt chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Do đó, sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường thì bên cạnh những yếu tố tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời đã phát sinh những mặt trái, những yếu tố tiêu cực, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước, đến công cuộc đổi mới. Hai là trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng: Hiện đang diễn ra xu hướng tuyệt đối hoá lợi ích và các giá trị vật chất, xem nhẹ và coi thường các giá trị văn hoá - tinh thần, các giá trị và chuẩn mực đạo đức, lối sống. Tuy chúng ta đã tích cực giáo dục, đấu tranh, nhưng những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong xã hội, không những không giảm sút, mà còn có chiều hướng phát triển nghiêm trọng, làm tổn hại tới sự ổn định chính trị và sự lành mạnh xã hội. Sự suy thoái, dao động về tư tưởng, xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân: thể hiện ở khuynh hướng sống vụ lợi, thực dụng, cá nhân vị kỷ, chạy theo đồng tiền, sùng bái nước ngoài, coi thường các giá trị truyền thống của dân tộc. Chủ nghĩa cá nhân thực dụng đang lây lan với quy mô khá rộng: Sự suy thoái về đạo đức xã hội ở một bộ phận nhân dân và cán bộ, đảng viên đang là vấn đề nhức nhối. Tệ tham nhũng, lãng phí tài sản của Nhà nước và nhân dân rất nghiêm trọng; bệnh quan liêu, xa thực tế, xa dân, ý thức tổ chức kỷ luật kém, tình trạng coi thường kỷ cương, phép nước rất nặng nề. Tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương, kèn cựa địa vị … dẫn đến mất đoàn kết kéo dài ở một số nơi. Những thành tựu và khuyết điểm tồn tại trong sự nghiệp đổi mới đất nước thời gian qua đang đặt ra nhu cầu là: phát huy những thanh tựu đã đạt được, đẩy lùi những nguy cơ đang đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc.Muốn vậy cần vận dụng tốt hơn nữa TTHCM về QHGC – DT vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. 3.2. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ GIAI CẤP – DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 3.2.1.Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh: Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: "Trong quá trình đổi mới, phải giữ vững mục tiêu ĐLDT và CNXH; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kiên trì CNMLN , TTHCM, kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy bén nắm bắt cái mới… Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội" [14,tr.14]. Vấn đề QHGC - DT hiện nay thể hiện tập trung trong đường lối và quan điểm phát triển. Con đường phát triển bảo đảm cho dân tộc ta thoát khỏi vĩnh viễn ách áp bức dân tộc, tránh đi vào chế độ xã hội trong đó giai cấp này áp bức bóc lột giai cấp khác, tiến tới xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh chỉ có thể là con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Con đường phát triển đó cho phép kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Không thể có CNXH nếu không bảo vệ vững chắc ĐLDT, ngược lại, ĐLDT không thể được củng cố vững chắc nếu không tiến lên CNXH. Đây không chỉ là vấn đề thuộc nguyên tắc căn bản mà còn là thước đo bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; là nhu cầu chân chính và khát vọng cháy bỏng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của cả dân tộc trên con đường phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là mảnh đất phát triển của giai cấp công nhân, là lý do tồn tại của Đảng và là con đường sinh tồn, phát triển của cả dân tộc Việt Nam. Chúng ta không có phương hướng nào khác và càng không còn sự lựa chọn nào khác. Đây là phương hướng bất di bất dịch. Lịch sử dân tộc hơn 70 năm qua chứng minh con đường mà nhân dân ta đã lựa chọn là đúng đắn. Đường lối kết hợp ĐLDT với CNXH là nhân tố quyết định của những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam. Tuy thế, trước cuộc khủng hoảng hiện nay của CNXH thế giới một số người đã dao động, thậm chí hoài nghi, mất niềm tin con đường chúng ta đang đi - con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Trên diễn đàn lý luận xuất hiện nhiều loại quan niệm khác nhau. Trong đó có cả xu hướng muốn quay sang phía CNTB. Có hàng trăm nước thế giới thứ ba đi theo con đường tư bản không ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và phụ thuộc; trái lại, đang lâm vào tình cảnh vỡ nợ, đình đốn, nạn đói, bệnh tật, mù chữ tràn lan. Trong khi đó chỉ có một số nước trước đây lạc hậu nay thuộc loại nước phát triển. Tương quan ấy không cung cấp đủ luận cứ để nói rằng cứ đi theo con đường tư bản là nhanh chóng "hoá rồng". Chúng ta không nên phủ nhận sự năng động, sáng tạo của những nước công nghiệp mới. Song, sự thật là họ đã "hoá rồng" trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Rõ ràng, CNTB không chỉ toàn là tốt đẹp như có người ca ngợi, không phải là tương lai tươi sáng, càng không phải là mô hình xã hội lý tưởng của nhân loại để chúng ta đi theo. Hiện nay, CNXH thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất từ trước tới nay. Sự vận dụng không đúng đắn và sáng tạo CNMLN vào thực tế cuộc sống, cũng như việc chậm tổng kết những bài học từ thực tiễn để bổ sung và phát triển lý luận, việc duy trì quá lâu một "mô hình" cứng nhắc trong đó có những nét không phù hợp với ý tưởng nhân đạo và thực tiễn của cuộc sống… đã làm cho bản chất của CNXH bị xuyên tạc. ở một số nước, khi tiến hành cải tổ những người lãnh đạo tối cao của đất nước lại mắc sai lầm nghiêm trọng theo lối cơ hội, xét lại CNMLN… làm cho CNXH phải chịu những tổn thất to lớn và chế độ XHCN đã sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Nhưng CNXH sẽ rút ra được nhiều bài học thực tế khi nhìn lại những thành quả to lớn cần phải bảo vệ và phát huy, cũng như những thiếu sót, sai lầm cần nghiêm túc sửa chữa, khắc phục. Muốn thay đổi căn bản cuộc sống của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của cả dân tộc, từ kiếp nô lệ, làm thuê trở thành người làm chủ thì cần thiết và tất yếu phải kiên trì mục tiêu và con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. 3.2.2. Củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản: Trong bảy thập kỷ qua, được dẫn dắt bởi CNMLN, TTHCM, kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc. Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trước yêu cầu của thời kỳ mới, hơn lúc nào hết, chúng ta phải ra sức củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tinh thần cơ bản, nhiệm vụ bao trùm của đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới đã được Đại hội IX của Đảng ta chỉ ra là: "Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" [54,tr.123-124]. Để giải quyết yêu cầu, nhiệm vụ trên cần quán triệt những quan điểm, chủ trương sau đây: Một là, đại đoàn kết vì mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền, quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư ở nước ngoài. Hai là, đại đoàn kết trước hết phải được thể hiện trong các chủ trương của Đảng cũng như trong các chính sách và pháp luật của Nhà nước, đáp ứng được lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo trong xã hội; gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi người với nghĩa vụ công dân, trong đó lấy lợi ích dân tộc làm trọng. Ba là, xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực cao, thật sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bốn là, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bằng các hình thức phong phú, đa dạng, thích hợp với từng giới, từng thành phần xã hội, từng địa phương, cơ sở… nhằm khơi nguồn trí tuệ, sáng kiến, phát huy mọi năng lực của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy trách nhiệm của Nhà nước đối với Mặt trận, khắc phục những quan điểm tư tưởng sai lầm coi Mặt trận là tổ chức tượng trưng. Mặt khác, mọi sự phủ nhận lập trường giai cấp công nhân, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và dân tộc chính là gián tiếp phủ nhận đại đoàn kết dân tộc, và do đó, đều có hại cho việc củng cố, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc ta. 3.2.3. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Ở nước ta hiện nay, mặc dù nền kinh tế - xã hội đang vận động theo con đường của giai cấp công nhân, định hướng lên CNXH, song vấn đề đặt ra là phải phù hợp với đặc điểm dân tộc. Điều đó có nghĩa: không phải là xoá bỏ ngay chế độ tư hữu để thiết lập sở hữu công cộng với tính cách là chế độ sở hữu duy nhất, mà bên cạnh việc củng cố và tăng cường khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, làm cho kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế, khuyến khích phát triển các ngành, xí nghiệp, cơ sở sản xuất cần thiết thuộc sở hữu tư nhân làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Như thế chế độ sở hữu ở nước ta trong thời kỳ quá độ là thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hưũ trên cơ sở bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước ta xây dựng và thực hiện mô hình kinh tế nhiều thành phần được coi là mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta trên con đường quá độ đi lên CNXH. Công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo ra sự chuyển biến căn bản từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Kết quả đó là một thực tế được mọi người thừa nhận. Điều quan trọng là, chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, nhưng không để đất nước phát triển theo con đường TBCN. Việc chúng ta tham khảo và vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường của các nước TBCN là vì lợi ích của CNXH, của dân tộc. Trên thực tế, mức tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian qua, nhất là giai đoạn 1991 - 2002 đạt được khá cao, trung bình mỗi năm tăng hơn 7%. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế đó chủ yếu còn dựa vào một nền sản xuất nhỏ mang tính khai thác. Đó là sự nối tiếp của nền kinh tế chậm phát triển trong một cơ chế kinh tế mới. Sức tăng trưởng này khó có thể kéo dài và sức cạnh tranh sẽ rất thấp. Đặc biệt trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nếu không bảo đảm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, ổn định, thì sự tụt hậu kinh tế là không tránh khỏi và đó là nguy cơ lớn nhất đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục đổi mới, phát huy mọi khả năng các thành phần kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở - vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý. Có như vậy mới nâng cao được đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, bảo đảm quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc. Phát huy mọi khả năng các thành phần kinh tế trong điều kiện mới của nước ta cần tập trung vào những vấn đề sau: Một là: Tập trung đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước Hai là: Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức kinh tế hợp tác Ba là: Đa dạng hoá và áp dụng một cách phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Bốn là: Khuyến khích, hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển Năm là: Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài. KẾT LUẬN QHGC-DT về thực chất là quan hệ giữa giai cấp cầm quyền trong xã hội với toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh là người đã thành công trong việc vận dụng CNMLN vào Việt Nam, giành độc lập cho dân tộc, đem lại quyền tự quyết cho nhân dân. Sự thành công của Hồ Chí Minh trong quá khứ và của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hôm nay, như đã nghiên cứu ở trên có thể rút ra những kết luận sau: Thứ nhất: Hồ Chí Minh là người có phẩm chất thiên bẩm đặc biệt. óc thông minh, tim nhân hậu, lòng dạ sắt son, tinh thần dũng cảm đã tạo ra ở người mầm mống thiên tài của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Đó là yếu tố nội sinh. Nhờ vậy Hồ Chí Minh đã tìm ra được hình thức phù hợp cho việc du nhập CNMLN vào Việt Nam, hình thức đó chính là những quan điểm của Người về QHGC-DT. Thứ hai: Những luận điểm của Hồ Chí Minh về QHGC-DT (luận điểm 2.1 và 2.2) không chỉ là tư tưởng riêng của Người mà còn là sự chưng cất lâu đời của tư tưởng, văn hóa truyền thống Việt Nam. Đó là sản phẩm của sự giao lưu văn hóa Việt Nam - thế giới trong thời đại mới, mà Hồ Chí Minh là người kết nối. Thứ ba: QHGC-DT trong TTHCM có một sự kết hợp rất cao giữa lý luận và thực tiễn. Hay nói cách khác, TTHCM về QHGC-DT là phương hướng vận động tất yếu của lịch sử Việt Nam. Đồng thời, trong mỗi hoàn cảnh nhất định, tư tưởng ấy là những lát cắt của lịch sử Việt Nam. Thứ tư: Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công ít, nhiều trong việc vận dụng TTHCM về QHGC-DT vào sự nghiệp đổi mới. Với kết quả đã đạt được, chúng tôi đề nghị tiếp tục nghiên cứu đề tài này theo hướng: nghiên cứu, phát triển hơn nữa CNMLN, TTHCM về QHGC-DT;Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới để tìm ra bước đi cụ thể cho việc vận dụng tốt hơn nữa lý luận QHGC-DT vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lương Gia Ban (2000), Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Ban nghiên cứu lịch sử Công đoàn Việt Nam (1977), Lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam (1860-1945), NXB Lao Động, Hà Nội. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh (1989), Bác Hồ thời niên thiếu, NXB Sự thật, Hà Nội. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1975), Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tiểu sử và sự nghiệp, NXB Sự Thật, Hà Nội. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1981), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam sơ thảo (1920 - 1954), tập I, NXB Sự thật, Hà Nội. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Richard – Bergerom (1995), Phản phát triển - Cái giá của chủ nghĩa tự do, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Ep-ghê-nhi Cô-bê-lép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, tập I, NXB Thanh niên, Hà Nội. Ep-ghê-nhi Cô-bê-lép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, tập II, NXB Thanh niên, Hà Nội. Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam (2001), Chính sách dân tộc của các chính quyền Nhà nước phong kiến Việt Nam (X - XIX), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư, NXB Sự Thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự Thật, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự Thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (1964), Từ nhân dân mà ra, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (1970), Những năm tháng không thể nào quên, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồng Hà (1980), Bác Hồ trên đất nước Lênin, NXB Thanh Niên, Hà Nội. Trần Văn Hải (2001), Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Học Viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. John Lê Văn Hoá (1996), Tìm hiểu nền tảng văn hoá dân tộc trong tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội, Hà Nội. Joy-ce Kolko (1991), Cải cách cơ cấu kinh tế thế giới, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 35, NXB Tiến Bộ, Matxcơva. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 37, NXB Tiến Bộ, Matxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, NXB Tiến Bộ, Matxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, NXB Tiến Bộ, Matxcơva. C.Mac-Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập I, NXB Sự Thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10,NXBChính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập11,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập12,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa (1997), Tư tưởng tiết học Hồ Chí Minh, NXB Lao động, Hà Nội. Nguyễn Quang Ngọc (1998), Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nhà xuất Bản chính trị Quốc gia (1995), Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam, Hà Nội. Nguyễn Anh Thái (1998), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội Mạch Quang Thắng (1996), Một số chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đình Thuận (2002), Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (1911 - 1945), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Dân Tiên (1985), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh, NXB Văn học, Công ty xuất bản đối ngoại, Hà Nội. Trần Hữu Tiến, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Xuân Sơn (2002), Quan hệ giai cấp – dân tộc – quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Chu Đức Tính (2000), Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc – dân chủ trong cách mạng Việt Nam (từ 1930 – 1954), Luận án Tiến sĩ lịch sử, Học viên Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. UNESCO và Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam (1990), Hội thảo Quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc nhà văn hoá lớn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam (1976), Lịch sử Việt Nam, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam (1985), Lịch sử Việt Nam, Tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam (1985), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Biên soạn ban tuyên huấn Trung ương (1978), Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (Trích văn kiện Đảng), Tập 1 (1930 – 1945), NXB Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTC104.DOC