Luận văn Tổchức dạy học chương “động lực học chất điểm”- Vật lý 10 ban cơbản gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao hiệu quả của việc dạy học

Tài liệu Luận văn Tổchức dạy học chương “động lực học chất điểm”- Vật lý 10 ban cơbản gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao hiệu quả của việc dạy học: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Thị Thu Hằng TỔ CHỨC DẠY HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM”- VẬT LÝ 10 BAN CƠ BẢN GẮN VỚI THỰC TIỄN NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC DẠY HỌC Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong một công trình khoa học nào. Tác giả Phạm Thị Thu Hằng Lời cảm ơn Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến:  TS. Nguyễn Mạnh Hùng - người đã trực tiếp khuyến khích, động viên và hướng dẫn tôi để thực hiện hoàn thành đề tài bằng tất cả sự tận tình và trách nhiệm.  Quý thầy cô trong Khoa Vật Lý, trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa Học Công Ngh...

pdf163 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 3026 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tổchức dạy học chương “động lực học chất điểm”- Vật lý 10 ban cơbản gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao hiệu quả của việc dạy học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Thị Thu Hằng TỔ CHỨC DẠY HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM”- VẬT LÝ 10 BAN CƠ BẢN GẮN VỚI THỰC TIỄN NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC DẠY HỌC Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong một công trình khoa học nào. Tác giả Phạm Thị Thu Hằng Lời cảm ơn Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến:  TS. Nguyễn Mạnh Hùng - người đã trực tiếp khuyến khích, động viên và hướng dẫn tôi để thực hiện hoàn thành đề tài bằng tất cả sự tận tình và trách nhiệm.  Quý thầy cô trong Khoa Vật Lý, trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa Học Công Nghệ & Sau Đại Học đã quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện đề tài.  Ban Giám Hiệu trường Trung học phổ thông Cần Đước, huyện Cần Đước đã tạo nhiều thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.  Gia đình, bạn bè, các thầy cô, các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2009 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐC : đối chứng GV : giáo viên HS : học sinh TN : thực nghiệm TNSP : thực nghiệm sư phạm SGK : sách giáo khoa PHT : phiếu học tập THPT : trung học phổ thông PT : phổ thông MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Một thực tế chúng ta cần phải nhận thấy rằng đa số GV ở vùng sâu, vùng xa thường giảng dạy cho HS những gì có trong SGK nên khi học xong một chương bất kỳ nào đó thì HS hầu như không thể và không biết áp dụng nó như thế nào cả, HS chỉ có thể áp dụng kiến thức đã học vào việc giải các bài tập theo yêu cầu của SGK và theo yêu cầu của GV mà thôi, nên những kiến thức các em đã học đôi khi không giúp ít gì cho cuộc sống thực tiễn, như vậy kiến thức đã học không những không được phát huy mà đôi lúc làm cho HS cảm thấy mệt mỏi vì các kiến thức đã học quá xa rời với thực tiễn của cuộc sống, HS cũng biết rằng vật lý học giúp cho cuộc sống rất nhiều, nhưng các em không biết phải vận dụng nó vào thực tiễn như thế nào. Như vậy HS cảm thấy không có nhu cầu tìm tòi khám phá thế giới xung quanh, không say mê yêu thích học tập, nên hiện nay số học sinh chán nản và sợ học môn vật lý càng ngày càng tăng lên. Nếu như HS học mà vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống thì các em sẽ thích học hơn và thấy rằng việc học tập rất có ích cho bản thân. Bên cạnh phương pháp giảng dạy của GV thì đối với HS ở vùng sâu vùng xa, đa số HS chỉ học tập và tham khảo sách giáo khoa, kiến thức chưa vượt ra khỏi chương trình, các kiến thức chỉ thể hiện dưới dạng công thức định luật, chưa dùng để giải quyết các vấn đề thực tiễn cũng góp phần làm cho HS sợ học môn học này. Do đó ở điều 28, yêu cầu về nội dụng phương pháp giáo dục phổ thông mục tiêu giáo dục phổ thông, tại khóa XI kỳ họp thứ 7 từ ngày 5 tháng 5 đến ngày 14 tháng 6 năm 2005 có nêu rõ: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.[50] Việc đổi mới phương pháp dạy học không những chỉ có ở người giáo viên mà cả người học cũng phải nỗ lực rất nhiều trong quá trình học tập, vận dụng và chiếm lĩnh kiến thức. Giáo viên và học sinh phải xóa bỏ những thói quen thầy dạy, trò thụ động chờ đến giờ lên lớp mới lúc đó học những kiến thức mới, mà không có sự suy nghĩ tìm tòi để giải quyết một nhiệm vụ trước đó đã đặt ra. Cách đánh giá kết quả học tập của HS còn mang tính truyền thống bằng cách kiểm tra miệng để trả bài cũ cùng một số kiểm tra giấy mà không dựa trên những sáng kiến và khả năng liên hệ thực tiễn của HS. Chính những cơ sở trên nên chúng tôi chọn đề tài: Tổ chức dạy học chương “Động lực học chất điểm”- vật lí 10 Ban cơ bản gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao hiệu quả của việc dạy học làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu Xây dựng tiến trình dạy học chương “Động lực học chất điểm” ( Vật lý 10- Cơ Bản) gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú cho học sinh đồng thời nâng cao hiệu quả của việc dạy học. 3. Giả thuyết khoa học Nếu tổ chức dạy học vật lý gắn với thực tiễn cuộc sống phù hợp về mặt khoa học, sư phạm, phù hợp với yêu cầu đổi mới PPDH thì sẽ làm cho học sinh có hứng thú trong học tập môn vật lý đồng thời nâng cao hiệu quả của việc dạy học. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận, vận dụng phương pháp dạy học thích hợp để dạy học theo hướng gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú trong học tập và nâng cao hiệu quả của việc dạy học. - Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa Vật lý 10 – Chương: “Động lực học chất điểm” - Ban cơ bản. - Tìm hiểu thực trạng dạy gắn với thực tiễn cuộc sống của giáo viên và việc học của học sinh theo hướng tạo hứng thú trong học tập của học sinh. - Soạn thảo tiến trình dạy học theo hướng gắn với thực tiễn cuộc sống nhằm tạo hứng thú học tập cho HS trong chương “Động lực học chất điểm” vật lý 10- Ban cơ bản. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT nhằm xác định mức độ phù hợp, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của tiến trình sau đó rút kinh nghiệm để hoàn thiện. 5. Phương pháp nghiên cứu  Nghiên cứu lí luận - Nghiên cứu tư liệu về cơ sở lí luận dạy học nhằm tổ chức cho HS học tập gắn với thực tiễn cuộc sống. - Nghiên cứu nội dung, cấu trúc của chương II- Động lực học chất điểm, Lớp 10- Ban cơ bản. - Nghiên cứu, điều tra thực trạng dạy và học của chương II- Động lực học chất điểm, Lớp 10- Ban cơ bản ở các trường THPT của Long An. Dựa trên thực trạng đã biết rồi vận dụng lí luận để xây dựng các tiến trình cụ thể.  Nghiên cứu thực nghiệm - Nghiên cứu, khai thác tài liệu liên quan đến việc thiết kế dạy học gắn với thực tiễn. - Chọn mẫu và thực nghiệm sư phạm ở trường THPT thuộc tỉnh Long An để kiểm tra giả thuyết.  Phương pháp thống kê toán học Sử dụng phương pháp thống kê toán học để trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm và kiểm định giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm. 6. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: Mục tiêu Mục tiêu giáo dục Nội dung chương trình và phương pháp dạy vật lý THPT Việc vận dụng lí luận của dạy học hiện đại vào dạy học để tổ chức hoạt động học tập cho học sinh ở trường THPT.  Khách thể nghiên cứu Lí luận và thực tiễn dạy học ở trường THPT. 7. Giới hạn của đề tài Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động học tập vật lý gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú trong học tập cho HS và nâng cao hiệu quả của việc dạy học trong chương “Động lực học chất điểm” vật lý 10 Ban cơ bản. 8. Cấu trúc luận văn Luận văn có cấu trúc như sau: Mở đầu Nội dung Chương 1- Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2- Xây dựng tiến trình dạy học chương “Động lực học chất điểm” vật lý 10 Ban cơ bản gắn với thực tiễn Chương 3- Thực nghiệm sư phạm Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục Trong đó: Phần mở đầu có 4 trang Phần nội dung có 125 trang Phần kết luận có 2 trang Phần phụ lục có 25 trang Luận văn có sử dụng 50 tài liệu tham khảo Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay [33] 1.1.1. Mục tiêu chung của giáo dục phổ thông hiện nay Mục tiêu giáo dục là tiêu chí cần phải được xác định, nó định hướng cho toàn bộ các hoạt động trong quá trình giảng dạy, từ việc xác định nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cũng như các hình thức kiểm tra, đánh giá trong quá trình giảng dạy. Mục tiêu giáo dục phải phù hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn xác định của đất nước. Nếu xác định mục tiêu quá cao sẽ là duy ý chí, còn nếu xác định mục tiêu quá thấp sẽ không tạo điều kiện cho sự phát triển một cách toàn diện. Ở điều 27, mục tiêu giáo dục phổ thông, khóa XI kỳ họp thứ 7 từ ngày 5 tháng 5 đến ngày 14 tháng 6 năm 2005 có chỉ rõ: Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. [50] Mục tiêu giáo dục luôn giữ vững quan điểm giáo dục toàn diện, chú trọng cả bốn mặt trí, đức, thể, mỹ nhằm đào tạo ra những con người lao động mới có khả năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong giai đoạn nước ta đang mở cửa hội nhập với cộng đồng quốc tế rộng lớn, mục tiêu giáo dục đã cụ thể hóa thêm một số điểm cho phù hợp với tình hình mới: + Coi trọng giáo dục tư tưởng, đạo đức, coi đó là nền tảng nhân cách của con người mới. + Bên cạnh việc bồi dưỡng năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phải chú trọng gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. + Một mặt phải học để nắm vững và làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại mà nhân loại đã tích lũy được; mặt khác lại phải có tư duy sáng tạo, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, tìm ra những cách làm mới phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước để đưa đất nước tiến lên. + Người lao động mới vừa phải có ý thức cộng đồng, tinh thần tập thể vì sự nghiệp chung hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, vừa phải phát huy tính tích cực cá nhân, năng động, chủ động, đem hết tài năng, trí tuệ, sức lực của mình cống hiến cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.[36] Như vậy mục tiêu giáo dục ở nước ta không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt kiến thức, bồi dưỡng năng lực sáng tạo ra tri thức mới mà còn rèn luyện cho HS những kỹ năng sống để có thể đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn. 1.1.2. Mục tiêu giáo dục môn học vật lý THPT hiện nay Mục tiêu giáo dục thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của đất nước nên mục tiêu giáo dục ở nhà trường cũng phải bám sát và có những điều chỉnh cho phù hợp. Nên dạy học vật lý ở cấp THPT hiện nay nhằm giúp HS: - Đạt được một hệ thống kiến thức Vật lý phổ thông, cơ bản và phù hợp với những quan điểm hiện đại, bao gồm: + Các khái niệm về các sự vật, hiện tượng và quá trình vật lý thường gặp trong đời sống và sản xuất. + Các đại lượng, các định luật và nguyên lý vật lý cơ bản. + Những nội dung chính của một số thuyết vật lý quan trọng nhất. + Những ứng dụng phổ biến của Vật lý trong đời sống và sản xuất. + Các phương pháp chung của nhận thức khoa học và những phương pháp đặc thù của Vật lý, trước hết là phương pháp thực nghiệm và phương pháp mô hình. - Rèn luyện và phát triển các kỹ năng + Quan sát các hiện tượng và các quá trình vật lý trong tự nhiên, trong đời sống hàng ngày hoặc trong các thí nghiệm; điều tra, sưu tầm, tra cứu tài liệu từ các nguồn khác nhau để thu thập các thông tin cần thiết cho việc học tập môn Vật lý. + Sử dụng các dụng cụ đo phổ biến của Vật lý, kỹ thuật lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm vật lý đơn giản. + Phân tích, tổng hợp và xử lý các thông tin thu được để rút ra kết luận, đề ra các dự đoán đơn giản về các mối quan hệ hay về bản chất của các hiện tượng hoặc quá trình vật lý cũng như đề xuất phương án thí nghiệm để kiểm tra dự đoán đã đề ra. + Vận dụng kiến thức để mô tả và giải thích các hiện tượng và quá trình vật lý, giải các bài tập vật lý và giải quyết những vấn đề đơn giản của cuộc sống và sản xuất ở mức độ phổ thông. + Sử dụng các thuật ngữ vật lý, các biểu, bảng, đồ thị để trình bày rõ ràng, chính xác những hiểu biết, cũng như những kết quả thu được qua thu thập và xử lý thông tin. - Hình thành và rèn luyện thái độ tình cảm + Có hứng thú học Vật lý, yêu thích tìm tòi khoa học; trân trọng đối với những đóng góp của Vật lý học cho sự tiến bộ của xã hội và đối với công lao của các nhà khoa học. + Có thái độ khách quan, trung thực; có tác phong tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác và có tinh thần hợp tác trong việc học tập môn Vật lý, cũng như trong việc áp dụng các hiểu biết đã đạt được. + Có ý thức vận dụng những hiểu biết vật lý vào đời sống nhằm cải thiện điều kiện sống, học tập cũng như để bảo vệ và giữ gìn môi trường sống tự nhiên.[5] 1.2. Cơ sở tâm lý học của việc dạy học gắn với thực tiễn 1.2.1. Mô hình giáo dục hướng vào người học [33] 1.2.1.1. Dạy học hướng vào người học Để thực hiện yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường những năm gần đây có rất nhiều những thuật ngữ cũng như khái niệm “phương pháp tích cự hóa, phương pháp hợp tác, ….đặc biệt là “lấy học sinh làm trung tâm” được chú ý đến nhiều nhất. Để chuyển từ “ người dạy làm trung tâm” sang “người học làm trung tâm” có rất nhiều ý kiến khác nhau, nhưng người đầu tiên phải kể đến J.Dewey (Mỹ), đầu thế kỷ XX, ông là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “dạy học hướng vào người học”. Quan điểm của ông như sau: “Trong dạy học hướng vào người dạy”, các chuẩn, nội dung và phương được quyết định bởi người dạy chứ không phải người học. Mức độ tham gia của HS vào việc quyết định các quá trình và mục đích tối thiểu. Mục đích bao trùm là đảm bảo cho họ nắm được những gì ghi trong sách và những suy nghĩ của thầy mà chủ yếu là thông qua giao tiếp bằng lời. Còn “dạy học hướng vào người học” phải giải quyết vấn đề dạy học như thế nào để HS không những nắm vững tri thức khoa học, có kỹ năng một cách hoàn toàn tự giác, hứng thú và sáng tạo, đảm bảo cho học sinh phân tích, xử lý kinh nghiệm của mình, khuyến khích người học trở nên biết chủ động và tự chịu trách nhiệm nhiều hơn. Các kỹ năng được tích lũy không phải bằng luyện tập và ghi nhớ vẹt mà bằng những hoạt động mà người học tự tiến hành với sự giúp đỡ của thầy để đáp ứng những lợi ích và nhu cầu của mình. Và theo ông : giáo dục chính là cuộc đời chứ không phải là nơi chuẩn bị vào đời. Trong “dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn cho rằng hệ thống kiến thức lý thuyết chưa đủ đáp ứng mục tiêu chuẩn bị cho cuộc sống. Cần chú trọng các kỹ năng thực hành vận dụng các kiến thức lý thuyết, năng lực phát hiện và giải quyết những vấn đề thực tiễn”[16] với phương châm “từ học đến biết làm, muốn làm và cuối cùng tồn tại phát triển nhân cách con người, lao động tự chủ, lao động sáng tạo”. Như vậy, lý thuyết “lấy người học làm trung tâm” là một khuynh hướng tiến bộ, lành mạnh nhằm phát triển năng lực học tập của HS, giúp cho họ rèn luyện khả năng tư duy, sáng tạo, sẵn sàng giải quyết các vấn đề thực tiễn của cuộc sống. 1.2.1.2. Cơ sở sinh học và tâm lý học [36] * Cơ sở sinh học Theo học thuyết của Pavlov: Dạy học là thành lập những phản xạ có điều kiện, hình thành cho đối tượng những kinh nghiệm hành động. Còn học là hình thành những phản xạ trả lời mới chưa có trong vốn phản xạ không điều kiện được di truyền. Cách tăng hiệu quả giảng dạy là củng cố, ôn luyện thường xuyên, tăng cường độ kích thích, thưởng hoặc phạt để thúc đẩy học tập (đây chính là cơ sở của mô hình dạy học truyền thống). Sơ đồ của Skinner thoáng và có hiệu quả: học là tự điều chỉnh hành vi để dẫn tới hành vi mong muốn. Dạy là tạo cơ hội cho học. Học thông qua hành động, làm để học, hiểu biết là hành động có kết quả. Học thông qua thử và sai, thông qua hành vi đem lại hiệu quả, khen thưởng kịp thời. Như vậy sự khác biệt giữa hai quan điểm trên là: + Pavlov nhấn mạnh mặt dạy: dạy là thành lập phản xạ có điều kiện, hình thành kinh nghiệm hành động, mục đích nội dung do người dạy quyết định, phương pháp truyền đạt được coi trọng. Cách học do người dạy áp đặt. Hiệu quả do kinh nghiệm người dạy quyết định.Trong quá trình học, HS học tập một cách thụ động. + Skinner nhấn mạnh mặt học: bài học đặt ra vì lợi ích của người học, người học tự mò mẫm, tự lựa chọn cách học có hiệu quả, tiến độ học tùy thuộc vào năng lực của người học, con người không thụ động trả lời kiến thức bằng phản xạ mà còn phản ánh có ý thức hành động cụ thể tùy thuộc môi trường. Quan điểm của Pavlov và Skinner được vận dụng bổ sung cho nhau. Quan niệm của Skinner gần với cách hiểu “lấy người học làm trung tâm” hơn, tuy nhiên rất khó vận dụng vào những nhiệm vụ học tập phức tạp. Vì dạy học là một quá trình phức tạp, khó có một học thuyết nào được áp dụng đúng nhất. * Cơ sở tâm lý học Nhà trường với những yêu cầu chặt chẽ, hoạt động tự nhiên, xây dựng cho HS những hứng thú cá nhân. Trường học cổ truyền biến mọi hoạt động thành cơ chế cưỡng ép. Trường học đổi mới hiện đại thì các hoạt động đó bổ sung cho nhau, có sự cưỡng ép của người lớn và sự hợp tác của trẻ em. Nếu đáp ứng được tâm lý hưng phấn tự nhiên của trẻ thì sự cưỡng ép sẽ có kết quả tích cực hơn. Khổng Tử cũng từng khuyên học trò của mình: “biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui mà học”. Còn người Pháp thì lại rất dí dỏm: “niềm vui là linh hồn của giáo dục”. Trong quá trình học tập động cơ học tập ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình học tập. Động cơ ảnh hưởng đến thái độ, niềm tin, tình cảm, của việc học của HS, mặc khác động cơ và tình cảm còn ảnh hưởng đến chất lượng trong quá trình tư duy. Tình cảm ảnh hưởng đến hứng thú học tập và quyết định đến động cơ cũng như quá trình học tập của HS. 1.2.2. Xu hướng đưa thực tiễn cuộc sống vào dạy học Mọi vấn đề thực tiễn trong cuộc sống điều liên quan đến tất cả các lãnh vực, cũng khó có vấn đề nào chỉ giải quyết trọn vẹn bằng kiến thức của một lãnh vực. Sự bùng nổ của khoa học và công nghệ, xã hội càng phát triển, yêu cầu phải đào tạo những con người không những biết mà còn phải có kỹ năng sống. Bên cạnh đó, để trả lời hàng loạt các câu hỏi: Làm thế nào để HS học được những kiến thức dù là cổ điển vẫn hấp dẫn và có ý nghĩa trong cuộc sống hôm nay?. Làm thế nào để HS tìm thấy sự thích ứng của mình trong quá trình học tập vậy lý?. Làm thế nào để phát triển hiểu biết của HS trong quá trình học tập?. Hay làm thế nào để dạy học vật lý góp phần rèn luyện những kỹ năng sống và làm việc cần thiết cho HS? ……[32] tất cả các vấn đề đó đặt chúng ta phải nghĩ đến phải đổi mới phương pháp, phải thay đổi mục tiêu dạy học, nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học, những phương pháp, do vậy những mô hình học tập mới được nghiên cứu để vận dụng vào thực tiễn dạy học, tất cả chúng đều có những điểm tương đồng sau: + HS chỉ thật sự tích cực, chủ động tham gia vào quá trình học tập khi vấn đề học tập có mối quan hệ thực sự với thực tiễn đích thực mà họ đang sống và chỉ có những vấn đề như thế mới làm họ hứng thú tham gia giải quyết và cố gắng phát huy hết khả năng của mình giải quyết. Chính vì vậy, với ngay những kiến thức cổ điển cũng cần làm thế nào để đặt chúng vào các vấn đề thực tiễn ngày hôm nay. + HS là trung tâm quá trình dạy học không chỉ thể hiện ở chổ họ được quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc học tập. HS được giải quyết một phần (hay toàn bộ) chiến lược học tập, đồng thời HS cũng cần phải chịu trách nhiệm một phần với kết quả học tập của mình (sự phát triển hiểu biết, phát triển cá nhân). + Quan tâm đến sự phát triển hiểu biết, phát triển tư duy bậc cao, rèn luyện kỹ năng sống, và làm việc thông qua giải quyết các vấn đề thực tiễn. Do đó hầu hết các chương trình hiện nay cũng đã chú ý đến việc liên hệ giữa các lãnh vực khác nhau và với thực tiễn của xã hội nhằm giúp HS phát triển những ý tưởng trọng yếu và toàn diện. Thực tế chúng ta cũng cần nhìn nhận rằng trường học ở nông thôn có một số khó khăn sau: + Đời sống vật chất còn nhiều thiếu thốn, nhiều nơi HS phải dành nhiều thời gian để lao động kiếm sống và giúp đỡ gia đình. + Xa các trung tâm, thông tin chậm và thiếu, sách vở, phòng thí nghiệm ,…. còn nghèo nàn. + Không được tiếp cận cũng như trao dồi công nghệ thông tin kể cả GV và HS, tuy nhiên trong một hai năm trở lại đây cũng được đề cập, nhưng vẫn với một mức độ còn hạn chế. Các trường nông thôn đa số còn thiếu GV nên phải dạy rất nhiều lớp cũng như khối lớp nên trong điều kiện đó các mô hình học tập mới khó mà áp dụng, mặt khác số lượng HS trên một lớp rất đông nên không thể nào tổ chức một cách rập khuôn, máy móc theo một mô hình học tập nào đó. Các mô hình học tập dù rất tiên tiến, điều có xu hướng đưa thực tiễn vào trong quá trình dạy học nhưng khó có thể áp dụng trong thực tiễn, khó để biên soạn SGK, hay tài liệu tham khảo, bên cạnh đó, nó còn tùy thuộc vào điều kiện của từng vùng miền, mối quan tâm của cuộc sống trong từng giai đoạn khác nhau,… nên trong những điều kiện của chúng ta và nhất là đối với những HS ở vùng nông thôn thì khó mà áp dụng, chính vì vậy mỗi GV cần nghiên cứu để ứng dụng việc dạy học gắn với thực tiễn cho phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng đơn vị công tác. 1.3. Hứng thú và sự cần thiết phải tạo hứng thú trong học tập 1.3.1. Khái niệm hứng thú [37] Theo quan điểm duy vật biện chứng hứng thú không phải là cái trừu tượng vốn có trong mỗi cá nhân mà là kết quả hình thành và phát triển nhân cách, nó phản ánh một cách khách quan thái độ đang tồn tại của con người. Khái niệm hứng thú được xét dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: + Theo khía cạnh nhận thức - V.N.Miasixep, V.G.Ivanôp, A.Gackhipop coi hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của cá nhân với những đối tượng trong hiện thực khách quan. - A.A. Luiblinxcaia đã khẳng định hứng thú là thái độ nhận thức, thái độ khao khát đi sâu vào một khía cạnh nhất định của thế giới xung quanh. + Theo sự lựa chọn của cá nhân đối với thế giới khách quan - X.L. Rubinstêin đưa ra tính chất hai chiều trong mối quan hệ tác động qua lại giữa đối tượng với chủ thể. Nếu như một vật nào đó mà tôi chú ý có nghĩa là vật đó rất thích thú đối với tôi. - A.V.Daparôzét coi hứng thú như là khuynh hướng lựa chọn của sự chú ý. Ông đưa ra khái niệm “hứng thú là khuynh hướng chú ý tới đối tượng nhất định là nguyện vọng tìm hiểu chúng một cách càng tỉ mỉ càng tốt”. + Hứng thú xét theo khía cạnh gắn với nhu cầu - Sbinle cho rằng hứng thú được kết cấu bởi nhu cầu. Quan niệm này đồng nhất hứng thú với nhu cầu. Thực chất hứng thú có quan hệ mật thiết với nhu cầu của từng cá nhân nhưng nó không phải là chính bản thân nhu cầu. Vì nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu được thỏa mãn, là cái con người cần, nhưng không phải mọi cái đều đem lại sự hứng thú. Quan điểm này đã bó hẹp khái niệm hứng thú chỉ trong phạm vi nhu cầu. - Trong từ điển tâm lý học, hứng thú được coi là một biểu hiện của nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn nhu cầu tạo ra khoái cảm thích thú. - Ngoài ra, nhà tâm lý học A.Phreiet cho rằng: Hứng thú là động lực của những xúc cảm khác nhau. - Sbline giải thích hứng thú là tính nhạy cảm đặc biệt của cảm xúc. + Một vài quan điểm khác về hứng thú - Trong cuốn tâm lý học cá nhân, A.G.Coovaliôp coi hứng thú là sự định hướng của cá nhân vào một đối tượng nhất định, tác giả đã đưa ra một khái niệm được xem là khá hoàn chỉnh “Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong cuộc sống và sự hấp dẫn về tình cảm của nó”. - L.A. Gôđơn coi hứng thú là sự kết hợp độc đáo của các quá trình tình cảm, ý chí, trí tuệ, làm cho tính tích cực của hoạt động của con người nói chung được nâng cao. - A. Kossakowski, nhà tâm lý học người Đức, coi hứng thú là hướng tích cực tâm lý vào những đối tượng nhất định với mục đích nhận thức chúng, tiếp thu những tri thức và nắm vững những hành động phù hợp. Hứng thú biểu hiện mối quan hệ tới tính lựa chọn đối với môi trường và kích thích, con người quan tâm tới những đối tượng những tình huống hành động quan trọng có ý nghĩa đối với mình. Tóm lại: hứng thú theo quan điểm duy vật biện chứng được các nhà tâm lý nghiên cứu và chỉ ra tính phức tạp, xem xét nó trong mối quan hệ với các thuộc tính khác của nhân cách như nhu cầu, cảm xúc, … + Ở Việt Nam, hứng thú được các nhà tâm lý học quan tâm tìm hiểu và đưa ra một số khái niệm không giống nhau. - Theo Nguyễn Quang Uẩn, trong tâm lý học đại cương, hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. Khái niệm này vừa nêu được bản chất của hứng thú, vừa gắn hứng thú với hoạt động cá nhân. - Nhóm tác giả Phạm Minh Hạc - Lê Khanh - Trần Trọng Thủy cho rằng: khi ta có hứng thú về cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức và hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó tạo ra tâm lý khao khát tiếp cận đi sâu vào nó. - Nhiều nhà tâm lý cho rằng: hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân với đối tượng thể hiện ở sự chú ý tới đối tượng, khao khát đi sâu nhận thức đối tượng và có sự thích thú được thỏa mãn với đối tượng. - Theo Đại Từ Điển Tiếng Việt [42], hứng thú có hai nghĩa: “Biểu hiện của một nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo ra khoái cảm, thích thú và huy động sinh lực để cố gắng thực hiện” và “sự ham thích”. Như vậy, hứng thú là thái độ của cá nhân đối với một đối tượng hay một quá trình nào đó đã đem lại khoải cảm, thích thú và tác động tích cực đến mỗi cá nhân đòi hỏi họ phải tìm mọi cách để thực hiện. Chính vì thế gây hứng thú học tập cho HS là một việc làm cần được GV quan tâm giúp HS yêu thích, say mê với môn học là một việc làm rất quan trọng, nó góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học. 1.3.2. Sự cần thiết của việc tạo hứng thú cho học sinh trong học tập Hứng thú học tập do đâu mà có, vì sao có người càng học càng thấy hứng thú, có người càng học hứng thú đó càng giảm. Trong thực tế chúng ta cũng thấy có rất nhiều trường hợp diễn ra như vậy; như ông trùm công nghệ thông tin thế giới Bill Gates ông không cảm thấy phù hợp với cách dạy học ở nhà trường và ông rời khỏi mái trường đại học Harvad danh tiếng, khi ông còn là sinh viên năm thứ hai, hay nhà phát minh người Mỹ Edison lúc còn ngồi ghế nhà trường ở bậc tiểu học luôn trong tâm trạng chán chường và kết quả thu lại không đạt được điều gì khả quan, chính vì thế ông chưa hoàn thành chương trình tiểu học trong tiểu sử học tập của mình. Chính những trường hợp này, không phải vì họ là những người nổi tiếng nên họ có những cách hành xử như vậy, suy cho cùng chính bản thân của họ không tìm được sự hứng thú trong quá trình học tập, vì vậy họ sẽ chuyển sang một môi trường học qua làm việc để tìm kiếm hứng thú thật sự. Bên cạnh đó: “Quá trình học tập là một quá trình huy động tối đa của bộ não, bản thân của quá trình đó đã tạo ra sự căng thẳng, dù bạn có nhận ra hay không.” [23] họ cảm thấy căng thẳng mệt mỏi nếu không tìm được hứng thú trong học tập, học tập vật lý cũng không nằm ngoài trường hợp đó, HS còn cảm thấy nặng nề hơn, với hàng loạt các công thức, định lý ,định luật vật lý. Một khi tâm trạng chán ghét học tập thì HS sẽ không tự giác học tập, cũng như tích cực tìm kiếm kiến thức để khám phá thế giới xung quanh nên không đem lại kết quả gì trong quá trình học tập. “Hứng thú là tiền đề của hoạt động có tính tự giác, điều này có nghĩa là không hứng thú thì không tự giác. Không có hứng thú, không có sự chủ động hay hoạt động sẽ là thụ động, là bắt chước. Khi người học không tham gia vào hoạt động hay tham gia một cách thụ động, không hứng thú thì kết quả học tập nghèo nàn, thường chỉ là những kiến thức được ghi nhớ máy móc, không mục đích rõ ràng ( nhiều HS thường lấy mục tiêu vượt qua kỳ thi làm động cơ ghi nhớ máy móc nội dung bài học, kiến thức như thế sẽ không vững bền nhanh quên, có tính công cụ thấp). Điều quan trọng hơn là nó không mang lại sự chuyển biến tích cực nào về tâm lý và nhận thức người học, người học không tiếp thu được phương thức hành động (tư duy hay thực hành) khi không hứng thú tham gia các hoạt động” [32] , trong dạy học việc hứng thú trong học tập là một việc làm hết sức cần thiết. Muốn HS ngày càng hứng thú, và để tạo hứng thú cho HS trong học tập, điều này nằm trong tầm tay của mỗi GV, GV dù có kiến thức rộng, năng lực chuyên môn cao mà không biết khơi dậy hứng thú học tập cho HS thì kết quả sẽ bị hạn chế. Mặt khác, quá trình dạy học có tính hai mặt: GV truyền thụ kiến thức đến HS đồng thời HS tiếp nhận một cách tích cực, chủ động có chọn lọc. Nếu như GV không khơi gợi sự hứng thú, say mê cho HS thì họ sẽ tiếp nhận tri thức mang tính ép buộc; kiến thức mà GV truyền đạt chưa biến thành động cơ học tập của HS. Việc tích cực đưa các hiện tượng tự nhiên gần gũi với cuộc sống của người học vào trong bài dạy dưới nhiều hình thức để họ cảm nhận được: “thực tiễn rất rộng lớn, nhưng con người hứng thú những cái gì cần thiết, quan trọng gắn liền với kinh nghiệm và sự phát triển trong tương lai của họ” [41] , cụ thể như là các thí dụ về ứng dụng vật lý trong cuộc sống, cũng có thể là vận dụng các kiến thức vừa học để giải thích các hiện tượng tự nhiên. Hứng thú học tập còn là hoạt động có tính chọn lọc và mang tính định hướng cá nhân, nó kích thích và lựa chọn những cách thức làm việc độc lập mở rộng, đào sâu kiến thức, làm xuất hiện sự say mê đối với môn học giúp HS quên đi những lo âu, mệt nhọc khi hàng ngày phải “bơi” trong nhiều môn học. Việc học không còn là “cực hình” nữa mà nó trang bị cho HS chiếc chìa khóa để mở cánh cửa tương lai. 1.3.3. Các biểu hiện của hứng thú trong học tập [37] Có khá nhiều quan niệm khác nhau về biểu hiện của hứng thú nhưng chúng ta có thể rút ra những biểu hiện của hứng thú như sau: - Về mức độ của hứng thú: có 2 mức độ: + Mức độ I: chủ thể mới dừng lại ở việc nhận thức về đối tượng nhưng chưa tiến hành hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. + Mức độ II: đối tượng thúc đẩy chủ thể hoạt động tìm hiểu, chiếm lĩnh đối tượng. - Về nội dung của hứng thú: hứng thú trong học tập, trong công việc, đi chơi, đi mua sắm,…. - Về chiều sâu, chiều rộng của hứng thú: đối với mỗi người có hứng thú với những đối tượng khác nhau, ví dụ trong học tập có HS thấy hứng thú với môn Toán, cũng có HS lại tìm thấy hứng thú với môn vật lý, hoặc ngoại ngữ, công dân, v.v. Trong thực tế một số người tìm được hứng thú ở trong một phạm vi nào đó dễ dẫn họ đến những thành công hơn. - Theo Sukina “ Hứng thú thể hiện ra trước mắt chúng ta như là: + Xu hướng lựa chọn quá trình tâm lý của con người nhằm vào các đối tượng và hiện tượng của thế giới xung quanh. + Xu thế, nguyện vọng, nhu cầu của cá nhân muốn được hiểu một lĩnh vực hiện tượng cụ thể, một hoạt động xác định mang lại sự thỏa mãn cho cá nhân. + Nguồn kích thích mạnh mẽ nhất tới tính tích cực cá nhân, do ảnh hưởng của nguồn kích thích này mà tất cả các quá trình tâm lý diễn ra khẩn trương, còn hoạt động thì trở nên say mê và đem lại hiệu quả. + Thái độ lựa chọn đặc biệt ( không thờ ơ, bàng quan mà không tràn đầy những ý định tích cực, một cảm xúc trong sáng, ý chí tập trung) đối với ngoại giới, đối với các đối tượng quá trình”. Theo chúng tôi hứng thú là khuynh hướng chú ý, hướng tới đối tượng từ đó có nhu cầu tìm hiểu đối tượng được thể hiện ở các mặt sau: - Về mặt kiến thức: + Luôn say mê, tích cực, ham hiểu biết, sẵn sàng học hỏi, luôn nảy sinh vấn đề cần tìm tòi, học hỏi. + Có nhu cầu vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. - Về mặt ý chí: + Luôn nhẫn nại, không ngại khó, ngại khổ, khắc phục mọi khó khăn để tìm hiểu vấn đề đến cùng. + Chịu khó tìm hiểu kiến thức qua các phương tiện thông tin đại chúng hay qua những người xung quanh để nâng cao sự hiểu biết của mình. - Về mặt năng lực: + Phát triển các năng lực quan sát, năng lực tư duy, so sánh, phân tích, khái quát hóa và trừu tượng hóa. - Về mặt tình cảm: + Rất hứng thú, phấn khởi trong quá trình tìm hiểu, dành nhiều thời gian cho việc tìm hiểu và vận dụng kiến thức. + Cảm thấy vui sướng và hạnh phúc khi biết thêm kiến thức mới, vấn đề mới. - Về mặt kết quả: + Không nản chí khi gặp thất bại, biết rút ra bài học kinh nghiệm từ những thất bại đó để đi đến thành công. + Thường xuyên thành công trong công việc. 1.3.4. Bản chất của việc gây hứng thú [37] Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề hứng thú trong học tập cũng như trong dạy học chúng tôi rút ra một số bản chất của việc gây hứng thú như sau: 1.3.4.1. Hứng thú là tiền đề của tự giác có liên quan mật thiết với nhu cầu Hứng thú là một thuộc tính tâm lý mang tính chất cá nhân và liên quan mật thiết với nhu cầu. Khi HS có hứng thú trong học tập, HS sẽ học tập mang tính tự giác hơn. Hứng thú sẽ giúp HS chủ động tham gia vào các hoạt động thay vì tham gia một cách thụ động như trước đây. HS tích cực tham gia vào các hoạt động học tập thì kết quả học tập cao, cũng như góp phần để đạt được mục tiêu mà chúng ta đã đề ra, HS học tập có mục đích rõ ràng, có thái độ học tập tốt, những kỳ thi không phải là động cơ học tập của các em nữa, mà ngay chính HS cũng sẽ đặt ra cho mình một mục tiêu học tập mới, một cách thức học tập mới. Chính khi có hứng thú học tập sẽ kích thích tâm lý học tập ở các em. 1.3.4.2. Hứng thú là kết quả của vấn đề tự học, phát huy tính tự giác, tích cực, sáng tạo của HS Như chúng ta đã biết những kích thích bên ngoài luôn tác động tới HS thông qua những điều kiện bên trong, nghĩa là thông qua những quan điểm, những tập quán của tư duy. Cho nên khi điều khiển quá trình dạy học thầy giáo không thể chỉ chú trọng đến việc truyền thụ nội dung kiến thức, mà đặc biệt là chỉ đạo tư tưởng, ý chí, tình cảm của HS đối với quá trình nhận thức. Phương pháp tổ chức và rèn luyện phương pháp học tập cho HS không phải chỉ là biện pháp để nâng cao hiệu quả của việc dạy học mà còn là một vấn đề của mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện đại, cùng với việc bùng nổ thông tin như hiện nay đang đưa chúng ta tiến gần tới một “xã hội học tập” thì không thể nhồi nhét vào đầu óc HS khối lượng kiến thức càng nhiều, tri thức là vốn quý của mỗi cá nhân, nó có chức năng tạo ra tri thức và liên tục được bổ sung, do đó kiến thức mà HS học được càng ngày trở nên càng ít ỏi, nên trong quá trình dạy học GV phải làm thế nào để GV tạo được lòng ham học, khơi gợi nội lực vốn có trong mỗi HS, từ đó họ có phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học. Một khi đã hình thành ở HS niềm say mê học tập, hứng thú đối với môn học sẽ là tiền đề cho mọi hoạt động tự giác học tập. HS tự giác học tập,định hướng đúng vai trò, nhiệm vụ học tập của mình, không những HS có kiến thức vững vàng mà còn có bản lĩnh để xử lý trước bất cứ một tình huống, một vấn đề phức tạp họ sẽ kiên trì vượt qua những khó khăn trở ngại, chống lại căn bệnh ỷ lại, chờ đến giờ học sẽ được GV giảng dạy và cung cấp những kiến thức rồi từ đó giải một số bài tập. Hầu hết HS cho rằng khi mà họ thích môn học nào đó thì việc học tập môn đó trở nên dễ dàng hơn đồng thời họ sẽ luôn tìm mọi cách để tìm kiếm kiến thức ở môn đó. Nên hơn lúc nào nên việc làm thế nào tạo được hứng thú môn học cho HS để nâng cao hiệu quả cho việc dạy học của chính mình. 1.3.4.3. Hứng thú là một phương tiện dạy học [37] Trong quá trình dạy học, hứng thú là phương tiện nhân cao tính tích cực nhận thức của HS. GV không thể truyền đạt tất cả những kiến thức về thế giới xung quanh cho HS mà cần phải giúp các em chủ động tìm hiểu đối tượng. Hứng thú nhận thức của HS chịu sự ảnh hưởng bởi người GV, nó trở thành một phương tiện dạy học đáng tin cậy khi GV sử dụng cùng với những phương tiện dạy học khác nhằm giúp cho việc nảy sinh cái mới trong sự phát triển tư duy cho HS. Để tích cực hóa họat động nhận thức của HS, hứng thú là vấn đề được các thầy giáo quan tâm nhất vì: a) Nó có thể hình thành ở HS một cách nhanh chóng và bất cứ lúc nào trong quá trình dạy học b) Có thể gây hứng thú ở HS ở mọi lứa tuổi c) Điều quan trọng hơn cả là nó nằm trong tầm tay của người thầy. Người thầy có thể điều khiển hứng thú của HS qua các yếu tố của quá trình dạy học: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức, qua các bước lên lớp: mở bài, bài giảng bài mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra kiến thức, qua mối quan hệ thầy trò.v.v… Về phía HS, vai trò hứng thú đối với kiến thức giữ vị trí rất quan trọng trong việc làm cho các em học tốt hơn. Mọi người đều biết hứng thú là sự phản ánh thái độ (mối quan hệ) của chủ thể đối với thực tiễn khách quan. Đây là sự phản ánh có chọn lọc. Thực tiễn rất rộng lớn, nhưng con người hứng thú những cái gì cần thiết, quan trọng gắn liền với kinh nghiệm và sự phát triển tương lai của họ. Nói cách khác, muốn kích thích hứng thú thì điều quan trọng nhất là phải nắm được khả năng , nhu cầu, nguyện vọng và định hướng giá trị của HS. Xét về môi trường, hứng thú là sự thống nhất giữa bản chất bên trong của chủ thể và thế giới khách quan. Như vậy, hứng thú không phải là một quá trình tự lập và khép kín mà phải có nguồn gốc từ cuộc sống tự nhiên và xã hội xung quanh. Nếu ta thay đổi điều kiện sống thì hứng thú có thể thay đổi. Điều đó có nghĩa là có thể điều khiển được hứng thú, khác với quan niệm cho rằng hứng thú là một cái gì đó bẩm sinh, bất biến. Sự thống nhất giữa môi trường và chủ thể ở đây trước hết phải thể hiện ở sự thống nhất giữa mục đích cá nhân và mục đích xã hội, ở sự đồng điều về tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, ở sự đồng cảm trong quan hệ thầy trò, ở không khí đạo đức chung của tập thể (trường, lớp) ở sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục. Tất cả những điều trên là cần thiết, nhưng chúng thường được triển khai trong một kế họach dài lâu và có sự phối hợp của nhiều người, nhiều thành phần xã hội. Điều mà thầy giáo phải thực hiện thường xuyên là kích thích hứng thú trong quá trình dạy học, thông các yếu tố của nó: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức,… để tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS. Các biện pháp nâng cao tính tích cực nhận thức của HS trong giờ lên lớp được phản ánh trong các công trình xưa và nay có thể tóm tắt như sau: 1. Nói lên ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu. 2. Nội dung dạy học phải mới, những cái gì mới ở đây không phải quá xa lạ với HS, cái mới phải liên hệ và phát triển cái cũ. Kiến thức phải có tính thực tiễn, gần gũi với sinh họat, với suy nghĩ hằng ngày, thỏa mãn nhu cầu nhận thức của các em. 3. Phải dùng các phương tiện đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so sánh, làm việc độc lập và phối hợp chúng với nhau. Kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẩn với nhau. Những vấn đề quan trọng, các hiện tượng then chốt có lúc diễn ra một cách đột ngột bất ngờ. 4. Sử dụng các phương tiện dạy học, đặt biệt ở các lớp nhỏ, dụng cụ trực quan có tác dụng tốt trong việc kích thích hứng thú học tập của trẻ 5. Sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau cá nhân, nhóm, tập thể tham quan, làm việc trong vườn, trong phòng thí nghiệm… 6. Thầy giáo, bạn bè động viên, khen thưởng, có thành tích tốt trong học tập. 7. Luyện tập dưới các hình thức khác, vận dụng kiến thức vào thực tiễn các tình huống mới. 8. Kích thích tính tích cực qua thái độ, cách ứng xử giữa thầy giáo và HS. Phát triển kinh nghiệm sống của HS trong học tập [41] 1.4. Dạy học vật lý gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh 1.4.1. Khái niệm thực tiễn “Thực tiễn” là những hoạt động của con người, trước hết là lao động sản xuất, nhằm tạo điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội (Trích: Từ điển tiếng việt (Minh Tân- Thanh Nghi- Xuân Lãm (1999), Nhà xuất bản Thanh Hóa) Theo Đại từ điển tiếng việt thì “thực tiễn” là hoạt động thực tế của con người: ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn. [42] Còn theo phạm trù triết học thì tác giả Nguyễn Ngọc Khá cho rằng nói đến thực tiễn là nói đến hoạt động vật chất mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội. Nó gắn liền với tính tích cực, năng động sáng tạo của con người, gắn liền với các nhu cầu, mục đích của con người. Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng thực tiễn là cơ sở của nhận thức, cơ sở của sự phát triển những kiến thức khoa học trong quá trình kinh nghiệm xã hội – lịch sử của loài người. Ở đây chúng ta có thể hiểu “thực tiễn” chính là hoạt động GV và HS, những kiến thức được cụ thể hóa bằng những hiện tượng, vận dụng những kiến thức được học để giải thích hiện tượng, những số liệu mang tính thực tiễn, ứng dụng của kiến thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn, nhằm tạo điều kiện cho HS học tốt môn học, thích thú với môn học . Trong quá trình dạy học, thực tiễn là điều kiện tất yếu để hình thành ở HS kỹ năng và kỹ xảo, thông qua việc tham gia vào hoạt động sáng tạo dưới những hình thức vừa sức, HS tiếp thu kinh nghiệm xã hội, góp phần vào sự tiến bộ của xã hội. 1.4.2. Mục đích và ý nghĩa của việc dạy học vật lý gắn với thực tiễn Vật lý, một môn khoa học tự nhiên gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của mọi người đồng thời góp phần vào sự phát triển của khoa học và công nghệ, những kiến thức vật lý luôn được áp dụng trong những hoạt động của con người, ở đâu đâu bất cứ lúc nào cũng có mặt, có sự hiện diện của vật lý, dựa trên những nguyên lý, những định luật con người có thể phát minh, tìm tòi, khám phá và cho ra đời nhiều sản phẩm phục vụ cho đời sống, cũng như những sản phẩm có chất lượng và công nghệ cao như hiện nay. Ngay từ còn ở bậc THPT vấn đề giảng dạy để làm sao gắn với thực tiễn và đưa những kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, để HS thấy rõ sự liên hệ của kiến thức với thực tiễn từ đó HS hiểu được ý nghĩa của bài học, các định luật định lý, cũng như vận dụng chúng một cách dễ dàng …. nhưng thực tế trong quá trình giảng dạy, đa số GV chỉ cung cấp và giảng dạy theo kiến thức của SGK để đảm bảo đủ, đúng nội dung, và đúng thời gian quy định…, cũng chính vì thế mà làm cho HS đôi lúc không biết học nó để làm gì, cứ nghĩ rằng học là phải học. Theo một cuộc điều tra vào tháng 1 năm 2008 của 200 HS lớp 10 trường THPT Cần Đước, trên 80% HS trả lời phải học vật lý chỉ vì trong chương trình có nên bắt buộc phải học. Cũng trong cuộc điều tra này hầu hết HS cho rằng khi học môn vật lý rất nặng nề, khó hiểu, không biết vận dụng chúng vào đâu với một mới kiến thức khô khan, những kiến thức vật lý đã học để làm gì, chúng gắn kết với đời sống và sinh hoạt như thế nào, mặt khác có quá nhiều công thức hầu như HS không biết vận dụng chúng ra sao. Tuy HS cũng cho biết rằng đâu đâu cũng xuất hiện sự có mặt của những kiến thức đã học, nhưng họ cũng chẳng biết nó thể hiện như thế nào, chính vì vậy càng ngày môn vật lý trở nên rất nặng nề với những kiến thức hàn lâm mà GV truyền đạt lại, những kiến thức đó sẽ quên ngay sau khi HS học xong, và cũng chẳng biết trong thực tế nó như thế nào, cảm thấy các kiến thức càng ngày càng xa rời với thực tế, từ đó rất khó tiếp thu môn học. Học để ứng dụng như thế nào? Bên cạnh sự phát triển của xã hội, những kiến thức cơ bản hầu như HS có thể tìm được ở rất nhiều sách báo, cũng xin đề cập đến vấn đề: tại sao HS rất thích xem phim khoa học, họ có thể dành rất nhiều thời gian để xem phim nhưng họ rất ngại đọc sách, và ngại tìm tòi học hỏi, tra cứu, chán học đồng thời cảm thấy mệt mỏi. Chính vì trong phim là những ứng dụng khoa học vào trong đời sống của họ, hay những hiện tượng vật lý gắn liền với cuộc sống từ đó kích thích khả năng tìm tòi, khám phá. Những kiến thức đã học, HS cảm thấy khô khan, thay vì với tình huống có vấn đề mang tính chất là những ứng dụng hay những câu hỏi thực tế sẽ kích thích óc tìm tòi của HS, để giải quyết những câu hỏi thực tế ấy không những HS cảm thấy mình phải tìm tòi để trả lời những câu hỏi, mà từ đó những kiến thức đã học họ cảm thấy có ích cho bản thân, cho đời sống của họ nhiều hơn. Một khi HS nhìn nhận thấy tầm quan trọng của môn học, thì việc học tập trở nên dễ dàng hơn, họ tìm kiếm những kiến thức để giải quyết các vấn đề của cuộc sống xung quanh và biết được các kiến thức ảnh hưởng đến cuộc sống của mình vì thế nhu cầu tìm hiểu cũng tăng lên. Dạy học gắn thực tiễn cũng là một yêu cầu cần phải đặt ra đối với cả GV, quá trình dạy học không còn là dạy các bài học cụ thể để xây dựng kiến thức mới cho HS nữa. Cũng chính vì lối “giảng dạy thiên về xây dựng tiến trình xây dựng kiến thức với quá nhiều tham vọng, quá nhiều mục tiêu cần phải đạt tới bằng gần như duy nhất một loại họat động học tập là xây dựng kiến thức mới vốn luôn khiêm cưỡng, mang nặng tính hàn lâm, lý thuyết khô khan, đơn điệu, xa rời thực tiễn và nhu cầu người học, là do họat động học tập đuợc tổ chức phỏng theo hoạt động nhận thức khoa học” [32] , đứng trước kiến thức vừa xây dựng HS cũng không giải quyết và áp dụng nó như thế nào, dẫn đến tình trạng HS càng học càng cảm thấy chán học, nên việc dạy học không thể đáp ứng được mục tiêu đã đặt ra. Ngày nay, quá trình dạy học phải hướng tới quá trình lĩnh hội kiến thức mới, và cũng chính là quá trình sử dụng kiến thức mới vào giải quyết vấn đề thực tiễn đích thực đang có trong cuộc sống. Có như vậy thì kiến thức HS học được không những có ích cho bản thân các em mà còn có thể tăng lên rất nhiều, nó còn là cơ sở quan trọng hơn việc thực hiện những thí nghiệm kiểm chứng, HS sẽ có niềm tin vào kiến thức đã học, cũng như tin tưởng vào khoa học nói chung. Một khi kiến thức của HS được áp dụng không những để giải quyết nhiệm vụ học tập mà còn hình thành ở HS nhiều vấn đề khác, qua việc giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ học tập, tìm hiểu những ứng dụng của kiến thức đã học trong đời sống trong khoa học, sự hiểu biết của HS sẽ vượt qua khỏi một phạm vi hạn hẹp mà trước đây họ đã từng có, kiến thức học vượt qua khuôn khổ của chương trình, nội dung của môn học, đồng thời thấy được sự gắn kết của các môn học cũng như những các môn khoa học khác. Dạy học gắn với thực tiễn không những GV làm cho HS thấy được những ứng dụng của kiến thức mình đã học, những ứng dụng khoa học kỹ thuật, ứng dụng vào đời sống mà nó còn hình thành ở HS một niềm say mê khoa học, một sự hứng thú để tìm tòi, giải thích những sự thay đổi xung quanh mình, hình thành nên một động cơ học tập đúng đắn. Về mặt tâm lý học, cần khơi gợi động cơ học tập, bằng các tình huống học tập, các vấn đề thực tiễn phù hợp với khả năng và tùy mức độ hiểu biết của HS, có nhận thức đúng đắn trong quá trình học tập … tạo cho HS một môi trường học tập để HS có thể tin tưởng vào khả năng làm việc của mình với những kiến thức đã đang và sẽ có. Mặt khác, kiến thức vật lý PT thường là những kiến thức tương đối đơn giản mà HS có thể tìm đọc được ở bất kỳ những tài liệu SGK, hoặc sách tham khảo, nhưng việc vận dụng nó trong thực tiễn và việc ứng dụng nó chưa được GV đào sâu một cách thỏa đáng, đa phần chỉ cung cấp những kiến thức đã có trong SGK, và để làm bài tập. Với lối dạy học như thế, khi học xong thì làm được bài tập mà thôi chứ chưa rèn cho HS một thái độ học tập, tinh thần làm việc hợp tác (đó là tinh thần làm việc tập thể), quan niệm dạy học cho rằng HS rất trống rỗng khi bắt đầu học, đến khi học họ mới có thể tiếp thu và biết được là sai lầm: “học trò không thể như con chim non nằm trong tổ há miệng chờ chim mẹ tha mồi về mớm cho ăn. HS phổ thông nhất là THPT, đã có mức độ trưởng thành nhất định. GV phải dạy cho các con chim này bắt đầu bay đi tìm mồi. Trong nhà trường phải bắt đầu huấn luyện cho HS tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập để sau này các em có năng lực bươn trãi trong cuộc sống. Câu nói “kiến thức này thầy không dạy trên lớp, nên em không học” không thể chấp nhận được. Do đó, trọng tâm của việc đánh giá một tiết dạy phải đặt vào những hoạt động của HS trong tiết ấy” [4]. Hiện nay khoa học công nghệ, truyền thông phát triển một cách mạnh mẽ, những kiến thức khoa học bắt đầu được đưa hẳn vào các chương trình truyền hình, những chương trình em yêu khoa học, mục đích của những chương trình đó cho các em thấy được những kiến thức bổ ích trong cuộc sống. Nên trong việc dạy học chúng ta cũng phải mạnh dạn đưa những ứng dụng khoa học vào trong dạy học, từ đó HS tự tìm hiểu các kiến thức. Với mức độ của các em và dưới sự hướng dẫn của GV, hệ thống câu hỏi trong PHT với những câu hỏi gần gũi với cuộc sống sẽ giúp các em trả lời một cách dễ dàng không phải mất nhiều thời gian. Chúng ta cũng cần nhận thấy rằng có rất nhiều trường hợp GV không dám mạnh dạn giao cho HS làm vì ngại là họ không thể làm được. Điều đó cũng có phần đúng, HS sẽ không bao giờ giải quyết được nếu như chỉ giao cho HS những nhiệm vụ, rồi đến giờ báo cáo, đến tiết học thì cho HS trả lời thì chắc chắn rằng họ không thể làm được, còn một khi có sự hướng dẫn, theo dõi nhắn nhở và những câu hỏi gợi ý cho một vấn đề nào đó thì họ sẽ làm được, khi đó việc học của họ trở nên nhẹ nhàng hơn, mà môi trường học, lớp học cũng trở nên thân thiện hơn, dễ gần hơn, HS sẽ cảm nhận được những kiến thức xung quanh thật hay và có ý nghĩa cho cuộc sống. Với cách làm này không những HS thích học môn học mà mình đảm nhận mà còn tìm tòi khám phá những tiết học khác. Thực tế, nếu tìm cách cho HS tự lực học tập nhưng HS chỉ tự lực học tập trong khuôn khổ kiến thức đã biết và tự trả lời các câu hỏi để nhằm đáp ứng yêu cầu là tìm hiểu kiến thức và đi xây dựng các kiến thức trong SGK chứ chưa vượt khỏi ra khỏi khuôn khổ của lớp học. Dạy học gắn với thực tiễn sẽ góp phần làm phát triển nhân cách của HS thông qua việc khuyến khích các cách tư duy ngẫu hứng ngay trong quá trình lĩnh hội kiến thức, hình thành ở HS rất nhiều đức tính quan trọng và rất cần thiết cho việc học tập của các em cũng như trong đời sống sau này của các em, để HS học tập thoải mái hơn, tinh thần và thái độ học tập tốt hơn. Trong quá trình giảng dạy GV không những kích thích hứng thú học tập cho HS mà các hình thức và cách tổ chức học tập gắn với thực tiễn cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập của HS. “Qua những thảo luận, tranh luận, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, được khẳng định hay bác bỏ, qua đó những hiểu biết của họ sẽ được hình thành hoặc được chính xác hóa. Mặt khác, trong việc học tập theo nhóm, tất cả mọi HS, từ người kém đến người khá, đều có thể trình bày ý kiến của mình, tức là có điều kiện tự thể hiện mình. Điều đó có tác dụng kích thích rất mạnh hứng thú học tập của HS, chẳng khác gì việc đi hát karaôkê” [4], từ đó rèn luyện cho HS rất nhiều những kỹ năng sống và làm việc ( giao tiếp, ngôn ngữ, hợp tác, tổ chức, quản lý, ra quyết định), và kỹ năng thu thập thông tin, xử lý thông tin từ những nguồn thông tin khác nhau ( thực tiễn, tài liệu, sách báo, internet ….) đó là những kỹ năng cần thiết cho một công dân trong thời kỳ hội nhập. Trong kiểu dạy học gắn với thực tiễn HS có thể tiếp cận với các vấn đề có nội dung rất thực tế “mang hơi thở của thời đại” [4]. Ví dụ: Trong một tai nạn giao thông, một ôtô tải đâm vào một ôtô con đang chạy ngược chiều. Ôtô nào chịu tác dụng lớn hơn? Ôtô nào nhận gia tốc lớn hơn” Hãy giải thích?. Mặt khác “HS chỉ thực sự tích cực, chủ động tham gia vào quá trình học tập khi vấn đề học tập cần giải quyết có mối liên hệ thực sự với thực tiễn đích thực mà họ đang sống và chỉ có những vấn đề như thế mới thực sự làm cho họ hứng thú tham gia giải quyết và cố gắng phát huy hết khả năng của mình để giải quyết. Chính vì vậy, với ngay cả những kiến thức cổ điểm cũng cần phải đặt chúng vào các vấn đề của thực tiễn đích thực hôm nay”. [32] Và cũng cần phải dạy vật lý gắn với thực tiễn để thể hiện được tầm quan trọng cũng như tính đặc thù của môn học, từ đó giúp tạo được hứng thú, mở rộng hiểu biết của HS về thế giới xung quanh. 1.4.3. Các biện pháp để dạy học vật lý gắn với thực tiễn 1.4.3.1. Dùng dụng cụ trực quan mang tính thực tiễn Trong chương trình vật lý 10 nói chung cũng như trong chương “động lực học chất điểm” nói riêng đó là những kiến thức về định luật định lý, và những lực cơ học, nên thông thường và hầu hết GV chỉ dạy “chay”, nhưng với những dụng cụ học tập, dụng cụ thí nghiệm, phim, tranh ảnh, hình vẽ… sẽ làm cho HS dễ nhớ và hiểu sâu. Việc sử dụng phim khoa học, tranh ảnh, hình vẽ để dạy học gắn với thực tiễn có nhiều ưu điểm: - Nếu như không có điều kiện để cho HS tham quan, thì HS cũng có thể thấy được cấu tạo của các máy móc. - HS sẽ có ấn tượng rất sâu sắc khi thấy được xem phim hoặc các tranh ảnh, cũng như hình vẽ. Từ đó các em dễ hình dung, tiếp thu bài nhanh, nhớ bài giảng lâu hơn. Một khi những kiến thức được mô tả qua hình ảnh HS cảm thấy dễ nhớ và dễ học hơn, các nghiên cứu giáo dục cho thấy HS chỉ nhớ được 10% những gì chúng đọc, 20% những gì chúng nghe và khoảng 50% những gì chúng thấy, khi chúng trực tiếp quan sát các thiết bị, các vật thật HS cảm thấy dễ học hơn, có ý nghĩa hơn và đặc biệt là khả năng quan sát. Với hình thức trực quan sẽ nâng cao hiệu quả của việc dạy học nhờ những biểu tượng rõ ràng, phát huy được hình tượng tư duy trực quan bằng trí nhớ. GV có thể cho HS quan sát những thiết bị trong thực tế để là tăng tính sinh động, đối với những dụng cụ nhỏ và đơn giản GV cho HS chuẩn bị nếu được, còn những dụng cụ HS không thể chuẩn bị có thể cho HS quan sát khi GV đem đến lớp, những thiết bị tương đối lớn khó vận chuyển thì GV có thể cho HS quan sát tại phòng thí nghiệm, còn đối với những kiến thức về các tính chất tương đối khó và trừu tượng GV có thể cho HS quan sát những các thiết bị công nghiệp, hoặc có thể cho HS tìm hiểu trong thực tế. Ví dụ: khi dạy các kiến thức về lực căng của sợi dây, GV có thể cho HS tìm hiểu về việc xây các cây cầu, nếu được có thể cho HS đi tham quan một số cây cầu ở địa phương hoặc giới thiệu chúng với các bạn trong lớp, hoặc tìm hiểu về một số cây cầu đẹp nhất trên thế giới cũng như ở trong nước, hoặc khi dạy các kiến thức về vật lý hạt nhân GV có thể cho HS tìm hiểu về các lò phản ứng hạt nhân trên thế giới, và những lò phản ứng hạt nhân làm việc hiệu quả. Tóm lại: phim, tranh ảnh, hình vẽ, đóng vai trò trung gian giữa thực tế với tư duy bởi vì chúng đã cụ thể hóa những gì trừu tượng thành đơn giản, những gì mà thực tế quá phức tạp. 1.4.3.2. Trình bày những ứng dụng kỹ thuật của vật lý “Việc nghiên cứu các ứng dụng kỹ thuật của vật lý là thiết lập mối quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa cái trừu tượng (các khái niệm, định luật vật lý) và cái cụ thể (các hiện tượng xảy ra trong máy móc, thiết bị). Nhờ đó mà làm cho việc nhận thức các kiến thức vật lý trừu tượng trở thành sâu sắc, mềm dẻo hơn. Việc nghiên cứu các ứng dụng kỹ thuật của vật lý góp phần phát triển tư duy vật lý kỹ thuật của HS, làm cho HS thấy được vai trò quan trọng của kiến thức vật lý đối với đời sống và sản xuất, qua đó kích thích hứng thú, nhu cầu học tập của HS” [36] . GV trình bày những ứng dụng của kiến thức vật lý là hình thức đơn giản nhất. Tùy theo điều kiện của GV, HS cũng như điều kiện của nhà trường việc trình bày những ứng dụng kỹ thuật này có thể trình bày sau bài học hoặc nếu có điều kiện thì cho HS tìm hiểu rồi báo cáo cho cả lớp, đồng thời các bạn khác trong lớp nhận xét. Quá trình trình bày có thể mở rộng khá nhiều ra ngoài chương trình nhưng mục tiêu chủ yếu là cung cấp thông tin, minh chứng mối liên hệ giữa kiến thức và vận dụng kiến thức của con người trong khoa học và đời sống. Việc làm này sẽ mang lại hiệu quả học tập nhân đôi nếu GV có sử dụng hình minh họa, phim ảnh hoặc đề cập được những ứng dụng, những phát minh mới nhất có liên quan đến kiến thức bài đang học. Ví dụ: khi dạy về bài lực hướng tâm GV có thể cho HS trình bày những kiến thức về lực hướng tâm cũng như lực ly tâm: tìm hiểu nguyên tắc hoạt động của máy li tâm, vận dụng chúng vào đời sống. Chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin, với những phát minh khoa học của nhân loại đang nở rộ với tốc độ ngày càng cao. Vốn hiểu biết của nhân loại từng ngày, từng giờ được bổ sung thêm những bằng chứng mới về các quy luật diễn ra trong thực tế quanh ta. Nếu trong giảng dạy chúng ta chỉ dừng lại ở các kiến thức kinh điển, không đề cập đến các phát minh, những ứng dụng mới nhất của các kiến thức, thì điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta không tạo điều kiện để HS thâm nhập thực tế và làm thui chột những khả năng sáng tạo. 1.4.3.3. Hướng dẫn HS tìm hiểu các ứng dụng của những kiến thức vật lý trong cuộc sống GV có thể yêu cầu HS tìm những ví dụ cụ thể mà các em thường gặp trong đời sống để minh họa cho bài học. Trong quá trình tìm ví dụ minh họa sẽ nảy sinh hai chiều hướng nhận thức sau: - Một là, HS đưa ra được những ví dụ sát với kiến thức bài học, chứng tỏ rằng HS hiểu nội dung, biết vận dụng kiến thức bài học vào thực tiễn. - Hai là, HS đưa ra những ví dụ không đúng hoặc không sát với kiến thức bài học, khi đó HS đã bộc lộ được những sự nhầm lẫn hoặc hiểu sai kiến thức bài học. Qua đây, người dạy sẽ kịp thời bổ sung, hiệu chỉnh lại những nhầm lẫn của các em, đồng thời cũng rút ra được kinh nghiệm trong việc hướng dẫn và truyền đạt kiến thức mới cho HS. Như vậy, dù quá trình nhận thức có xảy ra theo chiều hướng nào thì cũng có lợi về mặt giáo dục. GV cũng nên khuyến khích HS tự tìm những ứng dụng của của kiến thức đã học, xem chúng phát hiện và giải quyết như thế nào, từ đó khơi gợi và rèn luyện cho HS tự tìm kiến và vận dụng kiến thức một cách linh hoạt. 1.4.3.4. Liên hệ giữa kiến thức vật lý đã học với kinh nghiệm và hiểu biết đã có của học sinh trong đời sống để giải quyết một số vấn đề thực tiễn Trong cuộc sống hàng ngày, HS sẽ thấy vận dụng rất nhiều những kiến thức của các định luật Niu-tơn cũng như các lực cơ học, vấn đề ở chổ HS khó có thể nhận ra điều đó, nghĩa là HS chỉ làm mọi việc theo suy nghĩ của mình chứ chưa áp dụng một cách khoa học các kiến thức đã học. GV cần phải chỉ ra những điều này cho HS hoặc hướng dẫn HS phát hiện những điều này. Một khi HS có sẵn những vốn kinh nghiệm tương đối phong phú, sẽ rất thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức khoa học, ví dụ: khi nghiên cứu đặc điểm của lực đàn hồi: GV có thể tổ chức cho HS trình bày trước những hiểu biết của mình về lực đàn hồi, sau đó cho HS sử dụng các dụng cụ sẵn có để kiểm chứng lại những gì HS đã phân tích, bên cạnh đó GV sẽ sử dụng thí nghiệm với lò xo, để nhìn nhận vấn đề rõ ràng, chính xác hơn khi rút ra kết luận. Hoặc khi các em đã có kiến thức về việc đi xe đạp, GV có thể cho HS tìm hiểu việc ứng dụng quán tính vào việc đi xe đạp, cũng dựa vào kinh nghiệm đó HS tìm hiểu về các loại lực ma sát cũng như những ứng dụng thực tế của nó. Tùy trường hợp có thể dùng thí nghiệm để thấy rằng vốn kinh nghiệm cũng như hiểu biết của HS thường sai lầm như: HS sẽ cho rằng tất cả các vật chuyển động được vì có lực tác dụng nhưng GV dùng thí nghiệm để làm cho HS thấy được sai lầm của mình (Định luật I Niu-tơn) hoặc nếu những quan niệm ban đầu và vốn kinh nghiệm đúng với kiến thức khoa học GV có thể tổ chức cho HS làm thí nghiệm hoặc những tình huống gây ra vấn đề ngược lại với kinh nghiệm đã có của HS. GV cũng chú ý rằng cần “tổ chức các tình huống gây hứng thú học tập, khuyến khích cho HS vận dụng những kinh nghiệm, hiểu biết của mình đưa ra những câu hỏi, dự đoán, giải thích, giải quyết vấn đề, xây dựng phương án thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm,… tạo môi trường thuận lợi, và khuyến khích HS làm việc hợp tác, thảo luận nhóm, thảo luận chung cho cả lớp. Khuyến khích HS trình bày ý tưởng, tự phân tích, thu thập, đưa ra các chứng cứ, để hỗ trợ thách thức các ý tưởng khác” [43] như các thí nghiệm về lực đàn hồi, lực ma sát và các định luật Niu-tơn. 1.4.3.5. Liên hệ kiến thức vật lý qua bài tập mang tính thực tiễn Trong giáo trình về phương pháp dạy học vật lý cũng như trong SGK vật lý, những bài tập là những bài luyện tập được lựa chọn một cách phù hợp với mục đích chủ yếu là nghiên cứu các hiện tượng vật lý, hình thành các khái niệm vật lý, phát triển năng lực tư duy vật lý của HS và rèn luyện kĩ năng vận dụng các kiến thức của HS vào thực tiễn. Việc sử dụng cũng như giảng dạy bài tập vật lý trong trường PT có tác dụng giúp HS hiểu và vận dụng một cách sâu sắc những kiến thức đã học, đồng thời là một trong những phương tiện giúp cho HS phát huy tính tích cực, sáng tạo, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức, để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Kỹ năng vận dụng kiến thức trong việc giải bài tập và trong thực tiễn đời sống chính là thể hiện khả năng tiếp thu, hiểu biết và vận dụng những kiến thức mà HS đã thu nhận được. Bài tập vật lý với chức năng là một phương pháp dạy học có một vị trí đặc biệt trong dạy học vật lý. Thông qua bài tập vật lý HS nắm được qui luật vận động của thế giới vật chất, nó còn giúp HS hiểu rõ những qui luật, biết phân tích và vận dụng những qui luật ấy vào thực tiễn. Việc giải các bài tập còn tạo điều kiện cho HS vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì kiến thức đó mới trở nên hoàn thiện. Trong quá trình giải quyết các tình huống cụ thể mà các bài tập đặt ra, HS phải sử dụng các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa , trừu tượng hóa …để giải quyết vấn đề, do đó tư duy của HS có điều kiện để phát triển. Có thể nói bài tập vật lý là một phương tiện rất tốt để phát triển tư duy, óc tưởng tượng, khả năng độc lập trong suy nghĩ và hành động, tính kiên trì trong việc khắc phục những khó khăn trong cuộc sống của HS. Bài tập còn cung cấp thêm kiến thức, mở rộng hiểu biết của HS về các vấn đề đời sống và sản xuất đồng thời phát triển tư duy của HS. Bài tập vật lý còn là cơ hội để GV đề cập đến những kiến thức mà trong giờ học lý thuyết chưa có điều kiện để đề cập, qua đó bổ sung kiến thức cho HS. Bài tập còn cung cấp cho HS những số liệu mới về phát minh, những ứng dụng … không những giúp HS hòa nhịp với sự phát triển khoa học kỹ thuật của thời đại mà các em đang sống mà còn rèn cho HS tính kiên trì, chịu khó, cẩn thận, chính xác khoa học, HS yêu thích bộ môn, say mê khoa học. Do vậy việc xây dựng bài tập mang tính thực tiễn để sử dụng trong quá trình dạy học cũng như trong học tập của HS cũng là vấn đề cần được GV quan tâm. 1.4.3.5.1. Bài tập vật lý định tính hay bài tập câu hỏi lý thuyết mang tính thực tiễn Là bài tập mà HS không cần phải tính toán (hay chỉ có các phép toán đơn giản), chỉ vận dụng các định luật, định lý, qui luật để giải tích hiện tượng thông qua các lập luận có căn cứ, có lôgic. Bài tập vật lý định tính không những tạo điều kiện cho HS cũng cố kiến thức mà còn là phương tiện để cũng cố và đào sâu kiến thức, những kiến thức đã học rất gần với đời sống xung quanh. “Việc giải bài tập rèn luyện cho HS hiểu được bản chất của những hiện tượng vật lý và những quy luật của chúng, dạy cho HS biết áp dụng kiến thức vào thực tiễn”. [36] Bài tập định tính là một hình thức sẽ giúp HS những ứng dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống và giải quyết nó, dựa trên những kết quả của các bài tập định tính HS rút ra được những hiểu biết những kinh nghiệm cho cuộc sống bản thân. Bên cạnh đó bài tập vật lý định tính cũng là một hình thức để GV có thể tăng cường các hoạt động tuyên truyền, hướng nghiệp trong dạy học vật lý, như các vấn đề về an toàn giao thông, vấn đề đi lại bằng xe đạp cũng được đưa vào, các nội dung vật lý phục vụ các ngành nghề đặc thù như trong thể thao; ví dụ: Tại sao một vận động viên muốn đạt thành tích cao về môn nhảy xa thì lại phải luyện tập chạy nhanh?. Trong nông nghiệp; ví dụ: nước ta là nước nông nghiệp, hãy quan sát và vận dụng kiến thức đã học vào kinh nghiệm việc nhổ cỏ của người nông dân? Một số bài tập vật lý định tính cũng có thể chuyển thành thí nghiệm hoặc cho HS thiết kế một số thí nghiệm. Hoặc HS có thể tìm hiểu những bài tập hoặc tự tìm được những bài tập vật lý định tính mới phù hợp với kiến thức và vốn kinh nghiệm mà HS có được. Mặt khác, dựa trên các bài tập vật lý định tính HS sẽ kích thích sự suy nghĩ tìm tòi của HS, đồng thời vận dụng kiến thức đã học vào giải thích các hiện tượng tự nhiên, ứng dụng trong đời sống, trong kỹ thuật cũng như mở rộng tầm mắt kỹ thuật cho HS, chuẩn bị cho HS đi vào hoạt động thực tế. 1.4.3.5.2. Bài tập vật lý định lượng mang tính thực tiễn Là bài tập mà muốn giải quyết nó ta phải thực hiện một loạt các phép tính. Dựa vào mục đích dạy học ta có thể phân loại bài tập dạng này thành 2 loại: * Bài tập tập dượt: Là bài tập đơn giản được sử dụng ngay khi nghiên cứu một khái niệm hay một qui tắc vật lý nào dó để HS vật dụng kiến thức vừa mới tiếp thu. Ví dụ: Vào lúc hạ thủy con tàu Titanic xấu số là con tàu nặng nhất được con người chế tạo ra, nó có khối lượng 6,0.107kg. Độ lớn của hợp lực này là bao nhiêu để cho tàu Titanic có một gia tốc có độ lớn 0,1m/s2. * Bài tập tính toán tổng hợp: Là những bài tập phức tạp mà muốn giải nó HS vận dụng nhiều kiến thức ở nhiều khái niệm, định luật, hoặc có thể dùng nhiều chương, nhiều phần, nhiều cấp học và thuộc nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó trong quá trình dạy học GV cũng có thể sử dụng loại bài tập định lượng này được thiết kế lại cho phù hợp với yêu cầu và tùy mục đích sử dụng. Khi sử dụng chúng có thể tùy vào từng trường hợp, có thể sau khi học xong một định luật, một định lý nào đó thì có thể cho HS áp dụng vào để phân tích và giải thích, hoặc có thể sử dụng bài toán này để làm vấn đề để cho HS đi tìm hiểu kiến thức mới. Ví dụ: khi dạy về định luật II Niu-tơn GV có thể sử dụng bài toán sau: Một người chạy xe gắn máy có khối lượng tổng cộng người và xe là 150kg, xe đang chạy với vận tốc 36km/h thì gặp chướng ngại vật cách xe 30m, liền đạp phanh để dừng lại. Biết lực cản do ma sát tạo ra là 300N. a. Liệu người này có kịp tránh được chướng ngại không? Vì sao? b. Nếu xe chở thêm người có khối lượng 50kg thì tình hình có khác không? c. Từ đó rút ra nhận xét gì khi chạy xe gắn máy. Như vậy với những loại bài tập này không những dùng để giảng dạy cho HS kiến thức mà còn thấy rằng bài tập mang tính chất thực tiễn và đang phù hợp với trình độ hiểu biết của HS. 1.4.3.6. Tổ chức, tham gia các buổi ngoại khóa hoặc mời những người thuộc lãnh vực có liên quan Hoạt động ngoại khóa là những hoạt động rất thiết thực và bổ ích. HS vừa được học, vừa được vui chơi giải trí tạo thêm niềm hứng khởi để học tập tốt hơn. Trong điều kiện học tập hiện nay “hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học có tính chất tự nguyện được tiến hành ngoài giờ lên lớp. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho HS hoạt động theo hứng thú, sở thích riêng của từng HS, và góp phần hướng nghiệp cho họ. Hoạt động ngoại khóa còn có thể giúp HS củng cố, mở rộng, khơi sâu thêm tri thức về một số lĩnh vực nhất định, gắn liền với thực tế, phát huy tác dụng học tập với đời sống” [41] ,việc tổ chức học tập theo hình thức này chỉ có thể thực hiện trong điều kiện như một buổi sinh hoạt chuyên đề, để đưa các kiến thức vật lý gắn với đời sống cho HS, không thể tổ chức hết trong một tiết học, với kiểu học tập như thế này chỉ có thể học tập sau khi học xong một chương nào đó thuộc chương trình học. Dạy học gắn với thực tiễn có thể mời các chuyên gia ngoài ngành cùng tham gia để tạo ra những tình huống dạy học. HS có thể, thể hiện việc học của mình trước những đối tượng thực tế, liên hệ với các nguồn lực cộng đồng, tham khảo các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu, hoặc trao đổi thông qua công nghệ hiện đại. Có thể như học về các loại kiến thức vật lý mang tính ứng dụng kỹ thuật cao, cũng như vận dụng kiến thức trong việc phát các phát minh mới, như vật lý và ứng dụng của chúng khoa học cũng như trong công nghệ thông tin. Quá trình thảo luận khiến người học chú tâm hơn đến các đề tài đang được bàn thảo trong quá trình học, những vấn đề được đào sâu hơn, tham gia sáng tạo tri thức, trao đổi suy nghĩ và có quan điểm một cách rõ ràng, hình thành thói quen tương tác trong học tập, nhưng bên cạnh đó cũng phát triển một số kỹ năng khác, trong quá trình thảo luận sẽ xuất phát các vấn đề về thực tế; Ví dụ: Nhìn thấy một tai nạn giao thông trên đường hãy phân tích và đưa ra nhận xét, khi đó trong buổi thảo luận này HS sẽ lại các vấn đề về tương tác, vấn đề lực trong chuyển động đồng thời trong quá trình này chúng ta cũng có thể mời thêm những người khác cùng tham gia như cán bộ công an để phân tích quá trình và đồng thời rút ra các bài học kinh nghiệm cho HS trong quá trình vận chuyển, cũng như tham gia giao thông đi lại.Trong quá trình thảo luận các vấn đề thực tiễn cuộc sống được đưa vào giải quyết và đồng thời thấy được tính thực tiễn của kiến thức đã học và những ứng dụng của nó, mặt khác trong các buổi thảo luận không hạn hẹp trong một tiết học nên HS có thể thoải mái hơn khi trình bày quan điểm của mình, và đồng thời không chịu áp lực về điểm số, do đó các em sẽ tự tin hơn, thích thú hơn khi tiếp xúc với các vấn đề đó. 1.4.3.7. Tổ chức các cuộc thi “thiết kế mô hình thí nghiệm, thiết bị vật lý”, tìm hiểu về kiến thức vật lý cũng như việc vận dụng giải thích các hiện tượng tự nhiên hay ứng dụng khoa học kỹ thuật Thiết kế mô hình thí nghiệm hoặc các thiết bị vật lý là một biện pháp để phát huy sự sáng tạo, khéo léo của HS cũng như GV. Đồng thời hỗ trợ đắc lực cho GV trong quá trình giảng dạy. Việc tổ chức các cuộc thi này tùy vào thời điểm có kỷ niệm những ngày lễ lớn trong năm học, GV có thể phát động cho HS thiết kế các mô hình thí nghiệm có tác dụng minh họa những kiến thức đã và đang học trong chương trình hoặc các mô hình, các thiết bị vật lý có ứng dụng và có ý nghĩa khoa học. Thông qua các cuộc thi này, HS sẽ tích cực tìm hiểu kiến thức, việc lôi cuốn vào phong trào nhưng mang tính học tập, HS rất năng động trong học tập, phát triển tư duy cho HS, từ chỗ mở rộng hiểu biết cho HS về ứng dụng những khoa học kỹ thuật của vật lý để bồi dưỡng tình cảm yêu thích bộ môn, đồng thời giáo dục hướng nghiệp với những ngành nghề sau này cho HS bên cạnh việc tổ chức này có thể tiến tới góp phần vào việc tiến đến thành lập một câu lạc bộ vật lý trong nhà trường đó cũng là một mô hình học tập thoải mái, kiến thức không bó gọn trong chương trình học mà nó sẽ vượt ra ngoài kiến thức đã học, đồng thời kích thích sự tò mò, sáng tạo trong quá trình học tập của HS. 1.4.3.8. Tham quan Tham quan là một phương pháp được tiến hành bằng cách đưa HS đi thăm, đi xem những sự vật hiện tượng có ý nghĩa tích cực trong cuộc sống. Đây là một hình thức cũng cố kiến thức và giáo dục tư tưởng cho HS. Trong quá trình tham quan, HS được tận mắt chứng kiến các thiết bị, mô hình, nhà máy … được nghe các chuyên gia kỹ thuật kể chuyện, mô tả cách vận hành của máy móc, được tận mắt thấy được sự vận hành của các thiết bị máy móc, bên cạnh đó HS cũng có thể đặt câu hỏi với người hướng dẫn. Chính những chuyến tham quan này sẽ để lại trong các em những ấn tượng khó phai, ảnh hưởng đến động cơ chọn nghề của các em, đồng thời các em thấy được tầm quan trọng của vật lý trong nền kinh tế cũng như trong cuộc sống. Để tham quan có hiệu quả cần phải xác định rõ mục đích, nhiệm vụ của buổi tham quan, liên hệ với nơi cần tham quan để có kế hoạch cụ thể, phổ biến kế hoạch đến HS (nhấn mạnh địa điểm, thời gian, chi phí, qui định khi tham quan), đồng thời phải có viết bài thu hoạch. Tuy nhiên tham quan phải tùy điều kiện của từng lớp, từng nhóm học sinh, cũng như những điều kiện thuận lợi về từng vùng miền, từng chương hoặc bài học mới thực hiện được. 1.4.4. Dạy học vật lý gắn với thực tiễn ở các trường THPT hiện nay 1.4.4.1. Mục đích và đối tượng điều tra + Mục đích điều tra - Tìm hiểu mức độ quan tâm đến việc dạy học vật lý gắn với thực tiễn của GV, đồng thời tìm hiểu việc sử dụng các hình thức dạy học vật lý gắn với thực tiễn tại các trường THPT hiện nay. - Rút ra kết luận cần thiết và tìm hiểu những biện pháp dạy học vật lý gắn với thực tiễn hiện nay. + Đối tượng điều tra Chúng tôi tiến hành điều tra 30 GV đang dạy vật lý ở các trường THPT. 1.4.4.2. Kết quả- phân tích kết quả Bảng 1.1: Bảng thăm dò ý kiến Stt Mức độ thường xuyên Rất thường xuyên Thường xuyên Không thường xuyên Không khi nào 1 Khi giảng bài thầy (cô) đã chú ý đến việc liên hệ bài giảng với thực tiễn. 23.33% 30% 46.67% 0% 2 Thầy (cô) đã vào bài bằng cách lấy ví dụ thực tiễn . 10% 26.67% 56.67% 6.67% 3 Thầy (cô) đã liên hệ bài giảng với thực tiễn bằng các hình thức: a. Trực quan (TN, tranh ảnh, ..) b. Trình bày những ứng dụng kỹ thuật. c. Hướng dẫn HS tìm hiểu các ứng dụng của kiến thức vật lý. d. Cho HS giải quyết các vấn đề thực tiễn. e. Liên hệ kiến thức qua bài tập vật lý. f. Ngoại khóa g. Thiết kế mô hình, vận dụng giải thích các hiện tượng tự nhiên. h. Tham quan 20% 6.67% 13.33% 3.33% 16.67% 0% 10% 0% 50% 36.67% 33.33% 20% 23.33% 3.33% 30% 3.33% 30% 46.67% 33.33% 56.67% 53.33% 60% 50% 46.67% 0% 10% 20% 20% 6.67% 36.67% 10% 50% Dựa vào kết quả thu được ta nhận thấy Với kết quả câu 1: có thể nhận xét chung như sau Việc dạy học gắn với thực tiễn có thể làm bài giảng phong phú, thu hút hơn, gây được hứng thú học tập cho HS nên có đến 53.33% GV rất thường xuyên và thường xuyên quan tâm đến việc liên hệ bài giảng với thực tiễn. Với kết quả câu 2: có thể nhận xét chung như sau Có 36.67% GV áp dụng biện pháp này nhưng chúng tôi thiết nghĩ khi bắt đầu giảng bài GV lấy ngay những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống hàng ngày sẽ tạo được sự gần gũi, dễ hiểu, HS cũng thấy được ích lợi của kiến thức mình đang học, tạo cho các em luôn nghĩ đến những ứng dụng thiết thực của môn học mà từ đó tìm được cảm hứng, kích thích và thu hút HS vào bài giảng đồng thời bài giảng của GV cũng sinh động hơn. Với kết quả câu 3: chúng tôi có thể rút ra nhận xét như sau GV sử dụng rất phong phú các hình thức để dạy học gắn với thực tiễn đặc biệt là sử dụng ở mức độ rất thường xuyên và thường xuyên với hình thức trực quan có 70%, hướng dẫn HS tìm hiểu các ứng dụng kỹ thuật 46%, trình bày ứng dụng kỹ thuật 43.33%, liên hệ kiến thức vật lý qua các bài tập vật lý và thiết kế các mô hình 40%, qua thực tế giảng dạy GV chọn các hình thức này vì chúng phù hợp với điều kiện cũng như tình hình thực tế ở các trường THPT. Những hình thức trên dễ thực hiện, ít chịu ảnh hưởng bởi thời gian mà vẫn thu hút lôi cuốn HS vào bài học. Ở mức độ sử dụng rất thường xuyên và thường xuyên hình thức cho HS giải quyết các vấn đề thực tiễn 23.33%, và hình thức tham quan và ngoại khóa 3.33%. Các hình thức này tuy không được GV sử dụng nhiều, nhưng cũng tùy vào điều kiện của từng trường, từng đối tượng để chọn ra hình thức liên hệ bài giảng với thực tiễn cuộc sống cho phù hợp. Bảng 1.2: Những khó khăn của GV khi dạy học vật lý gắn với thực tiễn Thầy (cô) đã gặp những khó khăn khi dạy học vật lý gắn với thực tiễn Rất nhiều Nhiều Vừa phải Không ảnh hưởng a. do ít có tài liệu b. do ít có thời gian c. chưa biết cách đưa vào khéo léo 33.33% 20% 26.67% 36.67% 43.33% 33.33% 20% 23.33% 30% 10% 13.33% 10% Dựa vào kết qủa chúng tôi có nhận xét như sau: - Với 70% GV cho rằng họ gặp khó khăn nhiều hoặc rất nhiều về vấn đề tài liệu, trong quá trình điều tra chúng tôi cũng có trao đổi với một số GV, đối với những GV trẻ thì họ cảm thấy thật khó khăn vì mới vào nghề, tài liệu chưa có, tuy hiện nay họ có thể bổ sung từ các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng đối với việc tìm một quyển sách đối với GV ở huyện là rất khó, còn đối với GV lâu năm phần đông ở GV nữ tuy có kinh nghiệm giảng dạy nhưng trình độ tin học, internet rất hạn chế nên ít nhiều điều này ảnh hưởng đến việc bổ sung những kiến thức, cũng như những phát minh khoa học hiện đại. - Có 63.33% GV gặp khó khăn do ít thời gian, với nỗi lo cháy giáo án khi phải mất thời gian liên hệ thực tiễn, điều quan trọng là phải dạy cho hết các kiến thức cơ bản còn việc mở rộng cần phải có thời gian, nhưng đối với GV lâu năm với kinh nghiệm giảng dạy, họ có cách đưa các vấn đề vào dạy học một cách khéo léo, đỡ tốn thời gian mà lại khoa học. Đối với GV mới vào nghề vấn đề thời gian cũng là một áp lực rất lớn. - Với 60% GV gặp khó khăn về trong việc gắn kết bài giảng với thực tiễn, cho thấy trong quá trình dạy học GV còn lúng túng nhưng khó khăn này sẽ dần được khắc phục theo thời gian khi GV đã dạy lâu năm. Tóm lại, qua kết quả thu được cũng như việc phân tích, tuy số lượng khảo sát cũng khiêm tốn nhưng chúng tôi cũng nhận thấy được mức độ quan tâm của GV đến việc dạy học gắn với thực tiễn, đồng thời cũng thấy được một số khó khăn mà GV đang gặp phải, từ kết quả thu được cùng với việc nghiên cứu lý luận để dạy học gắn với thực tiễn một cách hiệu quả. 1.4.5. Dạy học vật lý gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh 1.4.5.1. Vai trò dạy học gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh đồng thời nâng cao hiệu quả của việc dạy học Hiện nay ở trường phổ thông đa số GV chỉ giảng dạy những kiến thức đã có theo trình tự trong SGK, hầu như ít chú ý đến nguồn gốc phát sinh hay nhu cầu thực tế thúc ép thế nào để có được kiến thức hoặc những ứng dụng của các kiến thức đã học, tầm quan trọng của các kiến thức đó đối với cuộc sống... Như thế phần lớn HS dễ có khuynh hướng chán nản, không thích học tập vật lý, cho rằng kiến thức quá khó đối với bản thân, học mà không được ứng dụng thực tế, dẫn đến việc không thích học môn vật lý nói riêng và các môn tự nhiên khác nói chung. Chúng ta cũng biết rằng: “Học sinh tiếp thu được nhiều nhất khi giáo viên yêu cầu họ áp dụng những khái quát và nguyên tắc vào thực tiễn một khi họ đã hiểu nó” [27 ] Một khi họ có yêu thích môn học thì họ mới có thể học tập tốt được, HS cho rằng: “chúng em rất muốn được học vật lý liên quan đến các hiện tượng đang diễn ra xung quanh mình, cũng như những ứng dụng của kiến thức mà chúng em đã học”. Trước hơn hết, việc dạy học của GV phải hướng đến việc dạy học như thế nào để HS có thể vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống cũng như bước đầu HS có thể sử dụng kiến thức đã học để giải thích được các hiện tượng vật lý diễn ra xung quanh mình, từ đó thấy được ích lợi của việc học tập, HS hiểu được vấn đề, cũng như những kiến thức mà chúng học được “Làm bất cứ việc gì, muốn đam mê thì phải hiểu được ngọn ngành rõ ràng công việc. Hiểu được công việc là hiểu được quy luật biểu diễn của công việc từ đó có phương pháp làm việc phù hợp” [23] Chính vì vậy hơn bao giờ hết việc dạy học cần đưa vào các vấn đề thực tiễn, giải quyết thực tiễn cuộc sống để cho HS cảm thấy yêu thích và có động cơ đúng đắn trong quá trình học tập. Dạy học gắn với thực tiễn được hiểu là kiểu dạy học trong đó người học thực hiện một số nhiệm vụ phức hợp có sử dụng phối hợp kiến thức kỹ năng thuộc một số lãnh vực khoa học khác nhau, có kết hợp thực tiễn, thực hành. Trong quá trình học tập người học được trang bị kỹ năng, kỹ xảo để xử lý các vấn đề thực tiễn đặt ra dựa trên vốn kiến thức mới cùng với kinh nghiệm đã có để rèn luyện phương pháp học tập, cũng như giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện tại. Trong kiểu dạy học này có một số đặc điểm như sau: - Các bài học được học xuất phát từ các tình huống thực tiễn của đời sống cũng và đồng thời vận dụng kiến thức đã học để giải thích lại các vấn đề thực tiễn đã đang diễn ra hiện nay. - Có sự kết hợp kiến thức, kỹ năng của một số môn học khác. - Có sự kết hợp giữa các thành viên trong quá trình học tập . Với kiểu dạy học này HS thấy được những ứng dụng của môn học cũng như sự cần thiết của môn vật lý cũng như các môn học khác mà HS được học ở trường PT, đồng thời hình thành nên các em những mục đích cũng như động cơ trong quá trình học tập do đó dễ dàng đạt được mục tiêu của việc dạy học đồng thời tiết kiệm thời gian, công sức,…. nhưng mang lại một kết quả ngoài mong đợi. 1.4.5.2. Mối quan hệ giữa dạy học gắn với thực tiễn và việc tạo hứng thú học tập cho học sinh Có nhiều cách để tạo hứng thú cho HS trong quá trình học tập vật lý, nhưng qua việc quá trình tìm hiểu về hứng thú cũng như việc dạy học gắn với thực tiễn chúng tôi nhận thấy việc dạy học gắn với thực tiễn và tạo hứng thú học tập cho HS có mối liên hệ như sau: + Học sinh có thể hứng thú trong quá trình học tập bằng các dụng cụ học tập thì ở dạy học gắn với thực tiễn với những dụng cụ học tập tương đối đơn giản, HS tự chuẩn bị thì có được sự phấn khởi khi trong quá trình chuẩn bị, những dụng cụ được tự tay chuẩn bị, tự tay làm dù tương đối đơn giản cũng giúp HS thấy thoải mái, dễ chịu hơn trong học tập, bên cạnh đó những dụng cụ trực quan khác, cũng như các mô hình thật làm kích thích sự tò mò và tư duy. + Giáo viên có thể khai thác yếu tố tâm lý để tạo sự thích thú cho HS, thì ở đây những bài tập định tính sẽ giúp HS thấy được ứng dụng của kiến thức, mặc khác qua quá trình giảng dạy chúng tôi có trao đổi với HS và nhận thấy rằng đa số HS rất thích khi được giải thích các hiện tượng,… đó cũng làm cho không khí lớp học thay đổi hẳn lên. + Dạy học vật lý gắn với thực tiễn, HS được ứng dụng nhiều, kiến thức vượt qua khỏi chương trình, sách giáo khoa nên nó cũng là nguồn tạo hứng thú cho HS trong quá tình học tập. Mặt khác, việc tổ chức dạy học HS cảm thấy thoải mái, trong việc tranh luận, cũng như trao đổi, tham khảo ý kiến của các bạn cũng như GV, từ đó HS có cái nhìn thiện cảm hơn đối với môn học vốn được cho là khô khan trong chương trình. 1.4.5.3. Các nguyên tắc cần thực hiện khi dạy một bài học vật lý gắn với thực tiễn nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh Khi dạy một bài học vật lý gắn với thực tiễn chúng ta cần 1. Xác định rõ mục tiêu bài, nội dung kiến thức. 2. Xác định hệ thống các bài tập có nội dung phù hợp gắn với bài giảng. 3. Xác định vấn đề thực tiễn đồng thời có tác dụng giáo dục tư tưởng, đạo đức, thế giới quan khoa học cho HS ở từng bài học. 4. Xác định những ứng dụng kỹ thuật của từng bài cũng như những ứng dụng của vật lý trong cuộc sống để xây dựng hệ thống bài tập định tính. 5. Xác dụng cụ học tập cần thiết, cũng như các dụng cụ thí nghiệm, các phương tiện trực quan, công cụ hỗ trợ trong quá trình giảng dạy và học tập. 6. Xác định tư liệu hỗ trợ học tập cho học sinh. Bên cạnh đó trong quá trình trong quá trình giảng dạy GV cần chú ý đến các nguyên tắc sau 1. Phải có khả năng thực hiện, phù hợp với hoàn cảnh thực tế ( trường hợp thiết kế mô hình, hoặc tham quan). 2. Không lạm dụng quá nhiều, số lượng hơn chất lượng. 3. Những ứng dụng đưa ra hấp dẫn, có chọn lọc, đảm bảo tính chính xác, khoa học, phù hợp với trình độ của HS. 4. Mang tính phổ biến, hoặc tính thời sự. 5. Bố trí thời gian hợp lý, trong quá trình giảng dạy luôn tạo sự thoải mái cho HS, ngữ điệu phù hợp, vui vẻ, nghiêm túc tránh sự nhàm chán. 1.5. Kết luận chương 1 Dạy học vật lý gắn với thực tiễn nhằm đưa thực tiễn vào trong quá trình dạy học, ở đây GV không những hướng dẫn cho HS tìm kiếm kiến thức, xử lý thông tin mà còn hướng dẫn HS, cho HS thấy được tầm quan trọng của kiến thức cũng như những ứng dụng của kiến thức mà mình đã đang và sẽ trên con đường tìm kiếm và học tập, từ đó các kỹ năng của HS được phát triển, HS cảm thấy thoải mái học tập cũng như tiếp thu tri thức. Thay vì áp dụng rập khuôn các mô hình học tập tiên tiến để sử dụng vào giảng dạy, thì ở đây dạy học vật lý gắn với thực tiễn sẽ phù hợp trong điều kiện mà các trường không đầy đủ các cơ sở vật chất đặc biệt là các trường ở những vùng sâu, vùng xa như hiện nay. Dạy học vật lý gắn với thực tiễn là một hình thức học tập gắn kết được kiến thức đã học với thực tiễn cuộc sống, khơi dậy ở người học sự sáng tạo, hứng thú trong hành trình khám phá thế giới khoa học. Chương 2: XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM” VẬT LÝ 10 BAN CƠ BẢN GẮN VỚI THỰC TIỄN 2.1. Cấu trúc nội dung của chương “Ðộng lực học chất điểm” Bảng 2.1: Bảng cấu trúc nội dung kiến thức chương “Động lực học chất điểm” [4],[34] Bài Nội dung kiến thức Bài 9: Tổng hợp và phân tích lực. Điều kiện cân bằng của chất điểm - Lực. Cân bằng lực - Tổng hợp lực - Điều kiện cân bằng của chất điểm - Phân tích lực Bài 10: Ba định luật Niu-tơn - Định luật I Niu-tơn + Thí nghiệm lịch sử của Ga-li-lê + Định luật I Niu-tơn, + quán tính - Định luật II Niu-tơn + Định luật II Niu-tơn + Khối lượng và mức quán tính + Trọng lực. Trọng lượng - Định luật III Niu-tơn + Sự tương tác giữa các vật + Định luật + Lực và phản lực Bài 11: Lực hấp dẫn. Định luật vạn vật hấp dẫn - Lực hấp dẫn - Định luật vạn vật hấp dẫn + Định luật + Hệ thức - Trọng lực là trường hợp riêng của lực hấp dẫn Bài 12: Lực đàn hồi của lò xo. Định luật Húc - Hướng và điểm đặt của lực đàn hồi của lò xo - Độ lớn của lực đàn hồi của lò xo. Định luật Húc + Thí nghiệm + Giới hạn đàn hồi của lò xo + Định luật Húc Bài 13: Lực ma sát - Lực ma sát trượt - Lực ma sát lăn - Lực ma sát nghỉ “Động lực học chất điểm” là một chương rất quan trọng trong phần cơ học thuộc Vật lý lớp 10 ở học kỳ một. Với phần kiến thức của chương này sẽ áp dụng để giải những bài tập cơ học cổ điển ở chương trình THPT, đồng thời áp dụng để giải thích những hiện tượng trong cuộc sống, mặt khác kiến thức ở chương này HS sẽ gặp lại rất nhiều lần trong cả ba khối lớp. Các định luật Niu-tơn là các định luật quan trọng trong cơ học cổ điển, nó có rất nhiều ứng dụng trong đời sống cũng như trong các lãnh vực khoa học khác, trong đó phải kể đến vận dụng các định luật để giải thích các vấn đề cấp bách, mang hơi thở của thời đại như: “vấn đề an toàn trong giao thông đi lại”, “các vấn đề về tương tác”, ứng dụng khoa học vào trong đời sống như “hoạt động của máy giặt”,… và còn nhiều vấn đề khác sẽ được GV nghiên cứu để đưa vào.Việc nghiên cứu các định luật này không chỉ tìm hiểu, để tích lũy kiến thức cho quá trình học tập, mà còn để tích lũy vốn kiến thức cho việc vận dụng chúng vào trong đời sống. Các định luật, hiện tượng rất gần gũi trong đời sống, được HS nghi ngờ sẽ một phần làm sáng tỏ. Các lực cơ học lại chi phối toàn bộ các hoạt động thuộc lãnh vực cơ học, do đó kiến thức này rất là quan trọng. Nên các định luật Niu-tơn và các lực cơ học đó là những kiến thức mà HS phải biết và vận dụng chúng một cách thành thạo. Nhìn chung, kiến thức phần này rất quan trọng và cũng tương đối khó đối với HS, có thể nói nó chính là linh hồn để giải quyết các vấn đề đã và sẽ học trong chương trình, bên cạnh đó nó còn có tác dụng để HS như là kiến thức nền cho HS khi học tập môn vật lý, nhưng hầu như khi dạy kiến thức phần này, hầu hết các tiết học thông thường được GV giảng dạy để đáp ứng nhu cầu trang bị kiến thức về các định luật, và kiến thức về các lực cho HS, còn những ứng dụng thì chỉ được đề cập rất hạn chế, nếu có thì chỉ được phân tích vai trò của chúng lực ma nghỉ mà thôi, còn nhiều ứng dụng vẫn chưa được đề cập. Mặt khác, trong quá trình giảng dạy thì hầu hết là trang bị kiến thức cho HS mà chưa đề cập nhiều đến ứng dụng của nó, còn nếu có chỉ cho HS giải thích qua loa một số hiện tượng mà thôi, còn việc đề cập và đào sâu đến các hiện tượng và cho HS phân tích kỹ thì chưa được đề cập. Chúng ta sẽ phân tích những khó khăn đó ở các phần tiếp theo. 2.2. Thiết kế các bài dạy ở chương “Ðộng lực học chất điểm” gắn với thực tiễn 2.2.1. Các bước cần thực hiện khi thiết kế dạy học vật lý gắn với thực tiễn 2.2.1.1. Xác định mục tiêu Mục tiêu cần đạt được sau khi học xong một chương sẽ được xác định dựa trên mục tiêu đào tạo, mục tiêu của môn học, của chương, của bài học, tùy theo nhu cầu, trình độ của HS. Mục tiêu kiến thức - Phát biểu được định nghĩa lực, nêu được quy tắc tổng hợp và phân tích lực. - Phát biểu được điều kiện cân bằng của một chất điểm. - Phát biểu được định luật I Niu-tơn, hiểu ý nghĩa của định luật. - Nêu được quán tính của vật và kể một số ví dụ về quán tính. - Nêu được mối liên hệ giữa lực, gia tốc và khối lượng, phát biểu cũng như viết được định luật II Niu-tơn. - Hiểu được khối lượng, tính chất khối lượng. - Nêu được gia tốc rơi tự do, viết được biểu thức trọng lực. - Phát biểu được định luật III Niu-tơn, viết được biểu thức của định luật. - Nêu được đặc điểm của lực và phản lực. - Phát biểu được định luật vạn vật hấp dẫn và viết được hệ thức của định luật này. - Phát biểu được định luật Húc và viết hệ thức của định luật này. - Nêu được đặc điểm của các lực ma sát, viết được biểu thức lực ma sát. Kỹ năng Trong quá trình học cũng như sau khi học xong một chương HS sẽ được rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho việc học tập kiến thức thực tại và nó cũng góp phần hình thành kỹ năng trong quá trình học tập ở những mức độ cao hơn và trong cuộc sống của bản thân HS như: - Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống một cách linh hoạt: các vấn đề về quán tính, an toàn trong giao thông đi lại, ban đầu giải thích các hiện tượng thủy triều, v.v.… một cách khoa học, đồng thời thấy được tầm quan trọng của khoa học trong đời sống qua việc vận dụng cũng như những phát minh giúp cho con người đỡ vất vả hơn trong cuộc sống hiện đại như: máy giặt,… - Vận dụng kiến thức đã học để giải được các bài tập về lực đàn hồi, lực hấp dẫn, lực ma sát đồng thời vận dụng tốt các định luật I,II,III Niu-tơn để giải các bài tập đối với một vật, hoặc hệ nhiều vật, vận dụng giải bài toán chuyển động ném ngang. - Thu thập thông tin từ các nguồn, khả năng tìm hiểu thực tế, sưu tầm tài liệu, khai thác trên tất các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trên mạng internet. - Xử lý thông tin: phân tích, so sánh, tổng hợp, suy luận, khái quát hóa, … để rút ra kết luận. - Truyền đạt thông tin, tranh luận nhóm, thảo luận, báo cáo kết quả thực hiện. - Bước đầu hình thành khả năng tự bảo vệ ý kiến, làm việc tập thể, khả năng phân công công việc trong nhóm. - Thiết kế, lắp ráp và thực hiện các thí nghiệm với những dụng cụ đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, dễ tìm. Thái độ - Tạo sự hứng thú trong học tập môn vật lý, đồng thời yêu thích say mê khoa học qua việc biết được ý nghĩa thực tiễn của kiến thức, những ứng dụng của vật lý học trong đời sống, giảm bớt những căng thẳng trong học tập làm cho môn học trở nên gần gũi và dễ học hơn. - Sẵn sàng áp dụng kiến thức đã học để áp dụng vào các hoạt động thực tiễn. - Tác phong làm việc khoa học, trung thực, nghiêm túc, khách quan trong khoa học. - Tinh thần hợp tác trong học tập, có ý thức và tinh thần trách nhiệm luôn nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời có thái độ chia sẽ cũng như học hỏi ở mọi người xung quanh trong quá trình học tập cũng như trong lao động. Như vậy, nếu thực hiện được các mục tiêu đã đặt ra thì việc dạy học gắn với thực tiễn cuộc sống không những đáp ứng được đầu đủ các mục tiêu của việc dạy học, kiến thức HS thu nhận được không còn ở mức độ kiến thức lý thuyết mà nâng lên nhằm phát huy kỹ năng ở một mức độ cao hơn là đưa các kiến thức đã biết vào cuộc sống thực tiễn, HS thấy được sự cần thiết của môn học, đồng thời lấy lại hứng thú học tập. 2.2.1.2. Xác định một số vấn đề thực tiễn của chương Các vấn đề thực tiễn để ứng dụng kiến thức thì rất nhiều, nhưng việc đưa các vấn đề nào để cho HS giải quyết là một việc rất quan trọng khi dạy học phụ thuộc vào điều kiện cũng như HS từng vùng miền khác nhau mà GV đưa ra những vấn đề cho phù hợp. Ví dụ: Tìm hiểu về hoạt động của máy giặt là chẳng hạn thì chỉ phù hợp đối với những HS ở vùng thành thị hơn HS nông thôn vì ở nông thông còn rất nhiều HS có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, rất nhiều HS chưa nhìn thấy máy giặt lần nào thì làm sao có thể tìm hiểu về nguyên tắc hoạt động của nó. Dựa vào mục tiêu, nội dung kiến thức của chương và sự ứng dụng của các kiến thức để xác định các vấn đề thực tiễn mang vừa phù hợp với khả năng và trình độ vận dụng kiến thức nên chúng tôi chỉ đưa một số vấn đề để HS giải quyết như sau: - Vấn đề 1: Quán tính, việc con người vận dụng quán tính trong đời sống và trong giao thông. - Vấn đề 2: Quan sát, phân tích, giải thích hiện tượng kéo co. - Vấn đề 3: Tìm hiểu sơ lược về lịch sử hình thành các cây cầu đơn giản ở vùng sông nước. - Vấn đề 4: Tìm hiểu việc ảnh hưởng của lực ma sát trong đời sống và trong việc đi xe đạp, các vấn đề chưa biết xung quanh việc đi xe đạp, cách khắc phục. - Vấn đề 5: Tìm hiểu về hiện tượng thủy triều, ứng dụng khai năng lượng sạch từ nguồn nước và những đề phòng khi hiện thủy triều rút sâu. - Vấn đề 6: Tìm hiểu về môn ném tạ và ném lao….v.v… 2.2.1.4. Xây dựng hệ thống bài tập định lượng gắn với thực tiễn Việc thiết kế hệ thống bài tập định lượng gắn với thực tiễn rất cần thiết cho việc rèn kỹ năng cũng như việc vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết nhiệm vụ học tập. Hệ thống bài tập định lượng với số liệu và những tình huống xảy ra trong thực tế phần nào giúp cho HS thấy được tính ứng dụng của các kiến thức vật lý. Căn cứ vào yêu cầu của môn học và trình độ HS lớp cơ bản chúng ta xác định hệ thống bài tập như sau: HỆ THỐNG BÀI TẬP ĐỊNH LƯỢNG GẮN VỚI THỰC TIỄN (PHT2) 1. Một con chim có khối lượng 26g đậu ở chính giữa của sợi dây căng. Hãy chỉ ra rằng lực căng dây có công thức được cho bởi: 2.sinT mgF  . ( với  là góc hợp bởi dây treo và phương ngang) Xác định lực căng dây khi 05  và khi 00,5  2. Sau một khoảng thời gian ngắn nhảy ra ngoài máy bay, một vận động viên nhảy dù có trọng lượng là 720N đạt được một vận tốc hầu như không đổi. Trong tình huống đó có hai lực đáng kể tác dụng lên vận động viên. Các lực đó tác dụng như thế nào? Độ lớn và hướng của mỗi lực như thế nào 3.Một người chạy xe gắn máy có khối lượng tổng cộng người và xe là 150kg, xe đang chạy với vận tốc 36km/h thì gặp chướng ngại vật cách xe 30m, liền đạp phanh để dừng lại. Biết lực cản do ma sát tạo ra là 300N. a. Liệu người này có kịp tránh được chướng ngại không? Vì sao? b. Nếu xe chở thêm người có khối lượng 50kg thì tình hình có khác không? c. Từ đó rút ra nhận xét gì khi chạy xe gắn máy. 4. Vào lúc hạ thủy con tàu Titanic xấu số là con tàu nặng nhất được con người chế tạo ra, nó có khối lượng 6,0.107kg. Độ lớn của hợp lực này là bao nhiêu để cho tàu Titanic có một gia tốc có độ lớn 0,1m/s2. 5. Một học sinh đẩy một chiếc xe đạp có khối lượng 10kg qua đoạn đường dài 5m, biết lực ma sát cản trở 13N. Biết người đó tác dụng lực 20N vào xe. Nếu xe xuất phát từ trạng thái nghỉ, tính vận tốc cuối cùng mà xe có thể đạt được. 6. Một thùng gỗ có khối lượng m=360kg nằm trên sàn một xe tải. Xe chạy với tốc độ . Người lái dậm phanh cho xe giảm tốc độ xuống còn 62km/h trong thời gian 17s. Hỏi trong thời gian này thùng gỗ chịu tác dụng 1 lực bằng bao nhiêu? Giả thuyết thùng gỗ không trượt trên sàn của xe. 0 120 /v km h 7. Một ôtô có khối lượng 2 tấn bắt đầu khởi hành khi không chở hàng nó đi với gia tốc 0,3m/s2, khi ôtô có chở chở thêm thùng hàng thì đi với gia tốc 0,2m/s2. Biết rằng hợp lực tác dụng vào ôtô trong hai trường hợp đều bằng nhau. Tìm khối lượng của hàng? 8. Một vận động viên bóng chày đánh một quả bóng 0,15kg sao cho vận tốc của quả bóng từ 48m/s theo phương nằm ngang và hướng sang phía đông thành 81m/s theo phương ngang nhưng hướng sang phía tây trong một khoảng thời gian ngắn 0,01 s. Hãy ước lượng lực mà người vận động viên đã tác dụng lên quả bóng, giả sử lực này là đều và bỏ qua tất cả các lực khác tác dụng lên quả bóng. 9. Để xách một túi đựng thức ăn, một người tác dụng vào túi một lực bằng 35N hướng lên. Hãy miêu tả “phản lực” theo định luật III Niu-tơn bằng cách chỉ ra: độ lớn của phản lực, hướng của phản lực, phản lực tác dụng vào vật nào? Vật nào gây ra phản lực này? 10. Hai xe 1 và 2 có khối lượng 1,0 kg đều được gắn lò xo vào giữa .Một vật có khối lượng m chưa biết được buộc vào xe 1. Đẩy xe 2 vào để nén các lò xo và sau đó thả ra. Độ lớn gia tốc của hai xe là , và ; các xe này có bánh nhỏ và được bôi trơn. Hãy xác định m. 2 1 0,51 /a m s s m kg 2 2 1,14 /a m 11. Trái Đất hút Mặt Trăng với một lực bằng bao nhiêu? Cho biết khoảng cách giữa Mặt Trăng và Trái Đất là , khối lượng của Mặt Trăng là , khối lượng của Trái Đất 738.10r  227.37.10m  246.0.10M kg . 12. Hai tàu thủy mỗi tàu có khối lượng 50.000 tấn ở cách nhau 1km. So sánh lực hấp dẫn giữa chúng với trọng lượng của quả cân có khối lượng 20g. Lấy g=9,8m/s2. 13. Một hộp gỗ có khối lượng m=2,5kg đang nằm yên trên mặt sàn nằm ngang. Hệ số ma sát trượt giữa vật và mặt sàn là 0,2. Lấy g=9,8m/s2. a. Nếu tác dụng vào hộp gỗ một lực nằm ngang có độ lớn 3,5N thì hộp có chuyển động không? Lực ma sát tác dụng vào hộp khi ấy bằng bao nhiêu và có hướng như thế nào? b. Cũng hỏi tương tự như trên nhưng với lực tác dụng là 5N. 14. Đặt một cái ly lên trên 1 tờ giấy nhẹ đặt trên bàn rồi dùng tay kéo tờ giấy theo phương ngang. a. Cần truyền cho tờ giấy một gia tốc bao nhiêu để ly bắt đầu trượt trên tờ giấy? Biết hệ số ma sát giữa cái ly và tờ giấy là 0.3  , . 210 /g m s b. Trong điều kiện trên, lực tác dụng lên tờ giấy sẽ là bao nhiêu? Biết hệ số ma sát trượt giữa giấy và bàn lúc này là 0.2  , khối lượng của ly . 50m g c. Kết quả trong câu b trên có thay đổi không nếu ly có nước. 15. Một tủ lạnh có trọng lượng 890N chuyển động thẳng đều trên sàn nhà. Hệ số ma sát trượt giữa tủ lạnh và sàn nhà là 0,51. Hỏi lực đẩy tủ lạnh theo phương ngang bằng bao nhiêu? Với lực đẩy tìm được có thể làm cho tủ lạnh chuyển động từ trạng thái nghỉ được không? 16. Một xe tải có khối lượng 1 5m  tấn, kéo một xe con có tấn bằng dây cáp có độ cứng , kể từ lúc bắt đầu chạy, 2 xe chạy nhanh dần đều sau 20s đi được 200m. Xác định độ giãn của dây cáp và lực kéo xe tải chuyển động, bỏ qua ma sát của mặt đường. 2 1m  62.10 /k  N m 17. Một cô gái đẩy một xe trượt trên đường nằm ngang . Khi xe có tốc độ là 2,5m/s cô gái thả tay ra và xe tự trượt một khoảng dài s = 6,4m trước khi dừng lại. Xác định hệ số ma sát giữa xe và mặt đường. 18. Giả sử xe trượt thả ra khi tốc độ của nó là 5m/s dọc theo đường nằm ngang hệ số số ma sát là k giữa xe và mặt đường là 0,050. Xe sẽ trượt được một quãng đường bao xa trước khi dừng. 19. Một người kéo một hòm gỗ 45kg với vận tốc không đổi trên một sàn nằm ngang nhờ một dây nối với hòm gỗ. Góc  giữa dây và phương ngang là 330, hệ số ma sát giữa hòm gỗ và sàn là 0,63. Hãy xác định lực căng của dây. 2.2.1.5. Xây dựng hệ thống bài tập định tính mang tính thực tiễn và các ứng dụng của kiến thức trong đời sống Bài tập định tính mang tính thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho HS đào sâu, cũng cố kiến thức, chúng cũng là phương tiện kiểm tra kiến thức và kỹ xảo thực hành của HS PT. Bài tập định tính mang tính thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho HS phân tích các hiện tượng, làm phát triển tư duy logic, khả năng phán đoán, mơ ước sáng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoko.vnTochucdayhocchuongquotD.pdf
Tài liệu liên quan