Luận văn Thực trạng đầu tư phát triển vào các khu công nghiệp ở Việt Nam

Tài liệu Luận văn Thực trạng đầu tư phát triển vào các khu công nghiệp ở Việt Nam: 1 Luận văn Thực Trạng Đầu Tư Phát Triển Vào Các KCN ở Việt Nam 2 Chương 1: Lý Thuyết Chung Về Đầu Tư Phát Triển KCN I/Lý Thuyết Chung: 1) Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước Một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, một vấn đề trong cuộc sống được mọi gia đình, mọi cá nhân quan tâm khi có điều kiện nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình. Bản chất thuật ngữ “đầu tư” là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh sự chi phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao động,...) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn (các chi phí đã bỏ ra) trong tương lai 2) Phân loại đầu tư: * Đầu tư tài chính Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doa...

pdf54 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 894 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng đầu tư phát triển vào các khu công nghiệp ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Thực Trạng Đầu Tư Phát Triển Vào Các KCN ở Việt Nam 2 Chương 1: Lý Thuyết Chung Về Đầu Tư Phát Triển KCN I/Lý Thuyết Chung: 1) Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước Một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, một vấn đề trong cuộc sống được mọi gia đình, mọi cá nhân quan tâm khi có điều kiện nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình. Bản chất thuật ngữ “đầu tư” là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh sự chi phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao động,...) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn (các chi phí đã bỏ ra) trong tương lai 2) Phân loại đầu tư: * Đầu tư tài chính Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài chính nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho Công ty thì đây lại là đầu tư phát triển nếu được Nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do Nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. 3 * Đầu tư thương mại Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung (chúng ta cần lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất, nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó khăn cho việc quản lý lưu thông phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng chi của người tiêu dùng). * Đầu tư phát triển Xét về bản chất chính là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài sản mới cho mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại, bổ sung tài sản và tăng thêm tiềm lực của mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Ở đây chúng ta thấy hoạt động đầu tư vào các khu công nghiệp chính là hoạt động đầu tư phát triển,nên ta sẽ đi vào làm rõ khái niệm và vai trò của đầu tư phát triển 4 3) Khu công nghiệp: Khái niệm: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp có ranh giới địa lý xác định,không có dân cư sinh sống do chính phủ hoặc phủ tướng chính phủ ra quyết định thành lập.Doanh Nghiệp khu công nghiệp là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp,gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ II/Nội Dung Đầu Tư Phát Triển Khu Công Nghiệp: 1) Vai Trò Của Đầu Tư Phát Triển: Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế,kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy:muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỉ lệ đầu tư phải đạt từ 15% đến 25% so với GDP tùy thuộc vào ICOR của mỗi nước. Đầu tư góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế đối với những ngành nông,lâm,ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai,các khả năng sinh học do vậy muốn đạt tốc độ tăng trưởng cao là rất khó khăn..Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới,muốn đạt tốc độ tăng trưởng cao cần tăng cường đầu tư vào khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư quyết định sự ra đời,tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở,để tạo dựng cơ sở vật chất,kỹ thuật của doanh nghiệp phải có vốn đầu tư. 2) Sự cần thiết trong việc thu hút đầu tư xây dựng các khu công nghiệp -Đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp,khu chế xuất là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn phát triển kinh tế:Đối với Việt Nam,để tăng trưởng và phát triển kinh tế đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn,nguồn vốn trong nước chưa thể đáp ứng nổi nhu cầu đó.Do đó thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN 5 là rất quan trọng vì KCN phản ánh tiềm năng phát triển công nghiệp của quốc gia đó.Do vậy việc thu hút thêm nguồn vốn đầu tư vào các KCN là rất quan trọng. Thu hút công nghệ:Việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản lý,kinh nghiệm là điều rất quan trọng đối với các nước đang phát triển,trong đó có VN.Thông qua việc thu hút thêm đầu tư vào KCN sẽ là những hoạt động chuyển giao công nghệ,qua đó chúng ta có thể có được những công nghệ tiên tiến hiện đại cũng như kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,hiện đại hóa:Việc thu hút được nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các KCN sẽ làm cho cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ,giảm tỉ trọng nông nghiệp.Thực tế đã có rất nhiều nước thành công trong công cuộc CNH-HĐH đất nước thành công nhờ một phần không nhỏ vào hoạt động của KCN,KCX như Trung Quốc,Hàn Quốc,Nhật Bản,Đài Loan…Tại VN,sụ phát triển và lớn mạnh của các KCN,KCX đã góp phần quan trọng đưa đất nước ta tiến nhanh trên con đường CNH_HĐH đất nước. III)Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển khu công nghiệp: a)Vị trí địa lý -Gần các tuyến giao thông đường bộ,đường hàng không,đường biển -Có nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động Rõ ràng việc xây dựng các khu công nghiệp,khu chế xuất sẽ tận dụng được các đầu vào sẵn có,làm giảm chi phí vận chuyển,có điều kiện mở rộng. b)Vị trí kinh tế xã hội: Các trung tâm đô thị vừa là trung tâm kinh tế,vừa là trung tâm chính trị.Do đó sẽ là nơi tập trung nhiều ngành sản xuất,cơ sở vật chất kỹ thuật tốt,đội ngũ lao động có trình độ cao,chuyên môn giỏi.Do vậy,hiện nay ở nước ta các KCN,KCX 6 chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn để tận dụng các điều kiện sẵn có,giảm rủi ro cho các nhà đầu tư,tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư. c)Kết cấu hạn tầng: Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút đầu tư vào KCN,KCX. Với các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thì mối quan tâm là vị trí thì với các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh lại là kết cấu hạ tầng:điện,nước,công trình công cộng,đường xá cầu cống…tác động trực tiếp đến giá thuê đất,ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư d)Thị trường Đối với các công ty nước ngoài,mục tiêu đầu tư vào KCN,KCX là tận dụng thị trường nước chủ nhà,đưa nguồn vốn vào hoạt động sinh lợi tránh tình trạng ứ đọng vốn,đồng thời có thể tận dụng được nguồn tài nguyên nhân công rẻ và thị trường rộng lớn. e)Vốn đầu tư nước ngoài: Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào một quốc gia có tỷ lệ lớn là vào KCN,vì thế hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn đầu tư vào KVN f)Yếu tố chính trị: Quan hệ chính trị tốt đẹp,ổn định sẽ là dấu hiệu tốt cho việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế.Thông thường những tác động này thể hiện ở: -Việc dành cho các nước kém phát triển các điều kiện ưu đãi về vốn như vốn ODA,các khoản cho vay ưu đãi… -Tạo điều kiện xuất nhập khẩu nguyên liệu,sản phẩm,thiết bị công nghệ. -Ký kết các hiệp ước thương mại giữa các chính phủ cho phép các tổ chức,cá nhân,các đơn vị kinh tế đầu tư sang nước kia. 7 Chương II/Thực Trạng Đầu Tư Phát Triển Vào Các KCN ở VN I/Đầu tư hạ tầng và sản xuất khu công nghiệp: A)Từ ngày 24/9/1991,thủ tướng chính phủ phê duyệt cấp giấy phép thành lập KCN_KCX đầu tiên với quy mô 300ha tại TPHCM đến hết tháng 12/2001 trên địa bàn cả nước đã có 69 dự án KCN-KCX được hình thành phát triển hoặc được chính phủ cấp phép thành lập,trong đó 65 KCn tập trung,3 KCX,1 khu công nghệ cao với tổng diện tích lên tới 10.500 ha,các khu CN được hình thành tại 27 tỉnh thành,trong đó các tỉnh miền bắc có 15 KCN,miền trung có 13KCN và miền nam có 1. Về loại hình có 16 KCN hình thành trên cơ sở đã có 1 số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động,10 KCN phục vụ di dời,22 KCN có quy mô nhỏ ở đồng bằng bắc bộ,duyên hải miền trung và đồng bằng sông cửu long,21 KCN mới được xây dựng quy mô khá lớn,trong đó có 13 KCN là hợp tác với nước ngoài. Tính đến thời điểm năm 2000 đã có 914 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động trong các khu công nghiệp với tổng vốn kinh doanh đăng kí là 7,7 tỷ USD,trong đó có 596 doanh nghiệp nước ngoài thuộc 24 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới,có tổng vốn đầu tư là 6,4 tỷ USD chiếm 82% tổng vốn đăng kí kinh doanh,345 doanh nghiệp trong nước có tổng vốn đăng kí là 18000 tỷ(tương đương 1,4 tỷ USD),chiếm 18% tổng vốn kinh doanh trong các khu công nghiệp được cấp giấy phép.Ngành nghề phát triển trong các khu CN gồm các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nhẹ,điện tử,hóa chất,cơ khí chế tạo,luyện thép,dầu khí,chế biến thức ăn gia súc,phân bón,dịch vụ thương mại xuất khẩu...Các doanh nghiệp tại khu công nghiệp,khu chế xuất có tốc độ tăng trưởng ngày càng cao nhờ khai thác các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp các nguồn lực từng vùng và địa phương.Chỉ tính riêng 3 năm 1997-1999,giá trị sản lượng và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong khu CN cả nước là 8 Bảng giá trị sản lượng và xuất khẩu các doanh nghiệp KCN Giá trị sản lượng (triệu USD) Giá trị xuất khẩu (triệu USD) Tăng trưởng sản lượng Tăng trưởng xuất khẩu 1997 1.155 848 1998 1.871 1.300 61% 53% 1999 2.982 1.761 59% 35% Năm 1999,các khu CN đóng góp 25% giá trị sản lượng công nghiệp và 16% giá trị sản phẩm của cả nước,thu hút 140.000 lao động.Ngay trong các khu CN,phần lớn các nhà máy có công nghệ tiên tiến,chất lượng sản phẩm cao đã trực tiếp gia tăng tỉ lệ xuất khẩu các sản phẩm của khu CN,các khu CN đã thực sự tiếp nhận được những phương pháp quản lý tiến bộ,kinh nghiệm về tổ chức kinh doanh của các nước công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Tính đến cuối tháng 10/2007, cả nước đã có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 32.831 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 21.775 ha, chiếm 66% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 92 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 20.758 ha và 62 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích tự nhiên 12.073 ha. Trong 10 tháng đầu năm 2007, cả nước có 13 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập các KCN Thạnh Đức, tỉnh Long An (256 ha); KCN Minh Hưng, tỉnh Bình Phước (194 ha); KCN Việt Hoà - Kenmark, tỉnh Hải Dương (46 ha); KCN Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (54 ha); KCN Thanh Bình, tỉnh Bắc Kạn (73,5 ha); KCN Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long (131,5 ha); KCN Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình (71,2 ha); KCN Phía Nam Yên Bái, tỉnh Yên Bái (137,8 ha); KCN Long Bình An, tỉnh Tuyên Quang (109 ha); KCN Bình Long, tỉnh An Giang (28,56 ha); KCN Hoà Phú, tỉnh Đắk Lắk (181,73 ha) và mở rộng KCN Việt Hương II, tỉnh Bình Dương (140 ha); KCN Mỹ Xuân B1 - Đại Dương, 9 tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (146 ha). Tổng diện tích KCN thành lập mới và mở rộng đạt 1.569 ha. Tính đến cuối tháng 10/2007, cả nước đã có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 32.831 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 21.775 ha, chiếm 66% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 92 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 20.758 ha và 62 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích tự nhiên 12.073 ha. Các KCN phân bố ở 55 tỉnh, thành phố trên cả nước, tập trung ở 3 Vùng kinh tế trọng điểm miền Nam, miền Trung, miền Bắc với tổng số 110 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên trên 25.900 ha, chiếm gần 80% tổng diện tích các KCN cả nước. Trong 10 tháng đầu năm, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động của KKT Đông Nam Nghệ An, tỉnh Nghệ An với diện tích 18.827 ha và KKT Vân Đồn với diện tích 210.100 ha, nâng tổng số KKT đã thành lập lên 10 KKT gồm Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng áng, Vân Phong, Phú Quốc, Chân Mây – Lăng Cô, Đông Nam Nghệ An, Vân Đồn với tổng diện tích 559.867 ha. Trong 10 tháng đầu năm, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận bổ sung một số KCN vào Quy hoạch, trong đó có một số KCN, dịch vụ, đô thị (Bắc Ninh, Tiền Giang). Ngoại trừ một số KCN có trong Quyết định số 1107/QĐ-TTg đã được thành lập, từ nay đến năm 2015, dự kiến có 109 KCN được thành lập mới với tổng diện tích quy hoạch 29.326 ha và 30 KCN mở rộng với tổng diện tích mở rộng 6.174 ha. Trong 10 tháng đầu năm 2007, các KCN đã thu hút được 432 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 3.470 triệu USD, chiếm trên 30% tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước và tăng gần 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu hiện là các tỉnh dẫn đầu cả nước về vốn đầu tư nước ngoài thu hút được với tổng vốn đầu tư trên 1,4 tỷ USD, tiếp theo là Đồng Nai (470 triệu USD). 10 Về tình hình tăng vốn, trong 10 tháng đầu năm 2007 có 329 lượt dự án đầu tư tăng vốn tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 1.191 triệu USD, chiếm khoảng 45% số vốn tăng thêm của cả nước và tăng nhẹ so với so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 10 tháng đầu năm, các KKT thu hút được thêm trên 500 triệu USD, trong đó có dự án Khu nghỉ cao cấp tại KKT Chân Mây – Lăng Cô (276 triệu USD). Như vậy, trong 10 tháng đầu năm 2007, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KCX đạt 4.661 triệu USD, chiếm trên 40% tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước và tăng gần 1,6 lần so với 10 tháng đầu năm ngoái. Tính đến cuối năm 2007, các KCN cả nước đã thu hút được trên 2.600 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 25,3 tỷ USD và gần 2.800 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 137 nghìn tỷ đồng (chưa kể các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 976 triệu USD và 43 nghìn tỷ đồng. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên cả nước đạt 54%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy trên 71%. Cuối năm 2007,đã có khoảng 3.600 dự án trong các KCN cả nước đã đi vào sản xuất kinh doanh với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt gần 12 tỷ USD và 80 nghìn tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN 10 tháng đầu năm ước đạt gần 13 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái; giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 6 tỷ USD, tăng trên 20% so với cùng kỳ năm ngoái; nộp ngân sách đạt gần 900 triệu USD. Các doanh nghiệp KCN đã giải quyết việc làm cho gần 910 nghìn lao động trực tiếp. Cùng với dòng vốn đầu tư vào Việt Nam tăng cao, thời gian gần đây, các KCN đạt kết quả tốt trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài vào KCN trong tổng vốn đầu tư thu hút được hàng năm trên cả nước luôn ở mức 40-45%. Năm 2007, các KCN đã thu hút được trên 8 tỷ USD vốn FDI, chiếm trên 40% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên cả nước. 11 Tính đến cuối tháng 5/2008, các KCN cả nước đã thu hút được trên 3200 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư gần 31,5 tỷ USD và 3.100 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 195 nghìn tỷ đồng. Riêng lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KCN, có 31 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 1.755 triệu USD và 155 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư trên 61.160 tỷ đồng. Điểm nổi bật trong thu hút đầu tư vào KCN thời gian qua là bên cạnh việc tiếp tục thu hút các dự án quy mô vừa, các KCN đã thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao như Samsung, Compal, Foxconn… Các dự án này sẽ có tác động lớn tới sự phát triển công nghiệp, thu hút lao động của địa phương trong thời gian tới, góp phần đáng kể tạo sự biến đổi về chất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của địa phương. Thực tế cho thấy, ngay từ khi đang trong giai đoạn xây dựng nhà xưởng, tác động lan tỏa của các dự án này đã được thể hiện rõ trong việc tạo việc làm cho người lao động địa phương và việc thu hút thêm các dự án vệ tinh đầu tư vào khu vực lân cận. Đến cuối tháng 5/2008, các KCN đã cho thuê được khoảng 14.374 ha đất công nghiệp, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê gần 50%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74% (cho thuê được trên 13.108 ha đất công nghiệp). Trong những tháng nửa đầu năm 2008, nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn như tình hình lạm phát tăng cao, thâm hụt cán cân thương mại, Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tỷ giá giữa VND – USD biến động lớn, ... Mặc dù vậy tình hình phát triển các KCN trong cả nước vẫn đạt được những bước phát triển tích cực, góp phần thúc đẩy sản xuất, nhanh chóng ổn định nền kinh tế. Về tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), 7 tháng đầu năm 2008, các KCN trong cả nước đã thu hút được tổng cộng 4,03 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) bao gồm 227 dự án mới với tổng vốn đầu tư đạt gần 2,8 tỷ USD và 201 lượt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt trên 1,05 tỷ USD. Tính đến nay, các KCN trên cả nước đã thu hút được gần 3.305 dự án có vốn ĐTNN với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 33,8 tỷ USD. 12 Các tỉnh có lợi thế về thu hút vốn ĐTNN như Đồng Nai, Bình Dương, Bắc Ninh tiếp tục phát huy được lợi thế. Trong 7 tháng đầu năm 2008, Bắc Ninh dẫn đầu về thu hút vốn ĐTNN vào các KCN với 941,9 triệu USD (gồm 29 dự án mới và 11 dự án tăng vốn). Tiếp theo là Đồng Nai với 861,5 triệu USD gồm 44 dự án đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 361,1 triệu USD và 58 dự án tăng vốn với tổng vốn tăng thêm 500,41 triệu USD; Cần Thơ - 554,45 triệu USD (trong đó có 2 dự án đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 553 triệu USD và 2 dự án tăng vốn với tổng vốn tăng thêm 1,45 triệu USD); KCN Việt Nam - Singapore VSIP với 346,03 triệu USD (trong đó có 20 dự án đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 285,12 triệu USD và 20 dự án tăng vốn với tổng vốn tăng thêm 60,9 triệu USD). Một số địa phương khác cũng thu hút được trên 100 triệu USD vốn ĐTNN vào các KCN trong 7 tháng đầu năm là Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Long An, Thái Bình. Về thu hút vốn ĐT trong nước, trong 7 tháng đầu năm 2008 các KCN trong cả nước cũng thu hút được một lượng lớn vốn ĐT trong nước. Các tỉnh thu hút được nhiều vốn ĐT trong nước vào các KCN là Đồng Nai - 2.905,55 tỷ đồng, Đà Nẵng - 1.117,6 tỷ đồng, Bắc Ninh - gần 800 tỷ đồng, Quảng Ninh - 632,3 tỷ đồng. Những con số ấn tượng trên cho thấy các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn đánh giá khá cao về triển vọng phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian sắp tới vì vậy họ vẫn tiếp tục đầu tư mạnh vào các dự án tại các KCN trong cả nước. Nổi bật có thể kể đến dự án hơn 500 triệu USD của tập đoàn Samsung đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất điện thoại di động tại tỉnh Bắc Ninh. Về tình hình xây dựng và phát triển các KCN, trong 7 tháng đầu năm đã có 7 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập các KCN gồm: KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh, tỉnh Bắc Ninh (603 ha); KCN Đông Nam, tỉnh Long An (106 ha); KCN Phụng Hiệp, tỉnh Hà Tây (175 ha); KCN Cộng Hòa, tỉnh Hải Dương (357 ha); KCN Long Bình – Amata mở rộng, tỉnh Đồng Nai (133 ha); KCN Ông Kèo, tỉnh Đồng Nai (823 ha); KCN Đức Hòa III – Minh Ngân, tỉnh Long An (147 ha). Tính đến cuối tháng 7/2008, cả nước có 186 KCN, KCX đã được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 45.042 ha, trong đó diện đất công nghiệp có thể cho 13 thuê đạt 29.469 ha, chiếm 66.6% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 110 KCN, KCX đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 26.115 ha và 76 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 18.926 ha. Các KCN, KCX phân bố ở 52 tỉnh, thành phố trên cả nước, tập trung ở 3 vùng kinh tế trọng điểm với tổng diện tích đất tự nhiên chiếm trên 60% tổng diện tích các KCN trong cả nước. Cụ thể, vùng Đông Nam Bộ có 75 KCN với tổng diện tích 22.352 ha, vùng Đồng bằng sông Hồng có 42 KCN với tổng diện tích 10.046 ha, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 28 KCN với tổng diện tích 5.027 ha. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên cả nước đạt gần 50%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74%. ở một số địa phương có thế mạnh về thu hút vốn đầu tư như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, ... số KCN đạt tỷ lệ lấp đầy 100% tương đối cao. Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bất chấp những khó khăn của tình hình kinh tế vĩ mô, các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN trên cả nước vẫn đạt được những kết quả tương đối khả quan. Trong 6 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp hoạt động tại các KCN trong cả nước đạt khoảng 14 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2007. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 7 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2007. Một số tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ tăng trưởng cao là: Hà Nội, Cần Thơ, Thái Bình, ... Trong 6 tháng đầu năm 2008, tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN ở Hà Nội đạt 697,3 triệu USD – tăng 26%, tổng giá trị xuất khẩu đạt 943,4 triệu USD – tăng 32,2%, tổng doanh thu đạt 1,04 tỷ USD – tăng 7,6%, nộp ngân sách Nhà nước 25,31 triệu USD – tăng 5,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Các doanh nghiệp KCN Cần Thơ đạt tổng doanh thu 875,5 triệu USD – tăng 169% so với năm 2007 trong đó giá trị sản xuất công nghiệp đạt 368,4 triệu USD – tăng 136,7%, giá trị dịch vụ đạt 507,10 triệu USD – tăng 200%, nộp ngân sách Nhà nước đạt 660,9 tỷ đồng – tăng 66,89%. Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN tỉnh Thái Bình đạt 1.248 tỷ đồng – tăng 22% so với cùng kỳ năm 2007. Ngoài ra, Đồng Nai - một trong các tỉnh dẫn đầu về thu hút vốn ĐTNN cũng như vốn ĐT trong 14 nước vào các KCN cũng đạt tỷ lệ tăng trưởng khá. Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm, tổng giá trị hàng nhập khẩu đạt 2,04 tỷ USD – tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái, tổng doanh thu đạt 3,03 tỷ USD – tăng 10%, nộp ngân sách Nhà nước 94,2 triệu USD – tăng 7%. Từ đầu năm đến cuối tháng 9/2008, các KCN trên cả nước đã thu hút được gần 9,4 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 271dự án mới với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lượt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt trên 1,6 tỷ USD. Các KCN cả nước đã thu hút được 3325 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư gần 39.3 tỷ USD. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên cả nước đạt gần 50%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74%. Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất và Khu kinh tế. Trong năm 2008, Việt Nam triển khai các cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại… Trong điều kiện tình hình khủng hoảng tài chính thế giới chưa được ngăn chặn và có những diễn biến phức tạp ở những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước EU, trước bối cảnh đổi mới sâu sắc về thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, công tác quản lý nhà nước KCN, KKT cũng như bản thân hoạt động của các KCN, KKT đã có những điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, năng lực, chương trình và trọng tâm công tác để thích nghi với điều kiện mới. Nhờ đó, các KCN, KKT trong năm 2008, một mặt, tiếp tục đà tăng trưởng những năm trước, mặt khác, có những nét phát triển mới mang tính đột phá. Trong năm 2008, công tác xây dựng và phát triển hệ thống các KCN, KKT đã đạt được một số kết quả nổi bật sau đây: Trong năm 2008, có 48 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập mới 40 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 15.675,6 ha (tăng 73% so với năm 2007) và mở rộng 8 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 2.810,8 ha (tăng 41,1% so với năm 2007). Năm 2008 là năm có số lượng 15 KCN được thành lập mới và mở rộng nhiều nhất trong gần 17 năm xây dựng và phát triển KCN. Kết quả này xuất phát từ nhu cầu phát triển KCN của các địa phương nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư hiện đang tăng cao trên cả nước. Mặt khác, do nhiệm vụ cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho Dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN đã được phân cấp về địa phương, nên đã tạo điều kiện cho các địa phương chủ động và đẩy nhanh quá trình thực hiện thủ tục đầu tư. Tính đến cuối tháng 12/2008, cả nước đã có 219 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên là 61.472,4 ha, phân bố trên 54 tỉnh, thành phố trên cả nước. Trong đó, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê theo quy hoạch đạt gần 40. 000 ha, chiếm 65% diện tích đất công nghiệp. Theo quy hoạch, từ nay đến năm 2015 sẽ thành lập thêm 91 KCN với tổng diện tích 20.839 ha và mở rộng thêm 22 KCN với tổng diện tích 3.543 ha. Dự kiến đến năm 2015 sẽ có thêm 24.381 ha đất KCN. Qua kết quả thành lập mới và mở rộng KCN trong năm 2008, có thể thấy rằng mặc dù sự phân bố KCN đã được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện cho một số địa bàn đặc biệt khó khăn ở Tây Bắc (Yên Bái, Tuyên Quang, Hòa Bình, Sơn La, Bắc Kạn), Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng), Tây Nam Bộ (Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng…) phát triển KCN để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, song các KCN vẫn tập trung ở các địa phương thuộc ba Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đến cuối tháng 12/2008, với 149 KCN và tổng diện tích đất tự nhiên 49.232 ha, ba Vùng kinh tế trọng điểm chiếm tới 68% tổng số KCN và 80,9% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước. Trong năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động cho 2 KKT: Nam Phú Yên (Phú Yên), Hòn La (Quảng Bình), nâng tổng số KKT được thành lập lên 13 KKT với tổng diện tích cả mặt đất và mặt nước là 612.229 ha. Năm 2008, vốn đầu tư tăng thêm trong các KCN đạt được mức cao nhất từ trước tới nay xét cả khu vực đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trong năm 2008, chưa kể tới vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN, các KCN trên cả nước đã thu hút được 12,79 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó vốn 16 của các dự án cấp mới đạt 10,45 tỷ USD với 540 dự án và 2,34 tỷ USD vốn tăng thêm với 537 lượt điều chỉnh dự án. Dẫn đầu trong thu hút đầu tư nước ngoài năm 2008 là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với tổng vốn đầu tư thu hút là 4,5 tỷ USD. Ngoài ra có 3 tỉnh thu hút được trên 1 tỷ USD là Bắc Ninh (1,14 tỷ USD), Bình Dương (1,08 tỷ USD), Đồng Nai (1,01 tỷ USD). Tính đến 31/12/2008, các KCN trong cả nước thu hút được 3.564 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 42,667 tỷ USD; trong năm 2008, các KKT cả nước thu hút 18,23 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó cấp mới 18 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 15,78 tỷ USD và 12 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư là 2,45 tỷ USD. Lũy kế đến 31/12/2008, các KKT đã thu hút được 72 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký gần 20 tỷ USD. Cơ cấu vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm cho thấy trong năm 2008, tại các KCN có nhiều nhà đầu tư mới, lần đầu đầu tư vào Việt Nam triển khai các dự án làm cho vốn đầu tư cấp mới tăng 4,45 lần so với vốn đầu tư mở rộng. Trong khi đó tại các KKT vốn đầu tư mở rộng gấp trên 13 lần so với vốn đăng ký mới. Về thu hút đầu tư trong nước, năm 2008, các KCN đã thu hút 59.199,57 tỷ đồng (gần 3,5 tỷ USD), trong đó có 524 dự án mới với tổng vốn đăng ký là 53.254, 87 tỷ đồng và điều chỉnh 173 dự án với tổng vốn đầu tăng thêm đạt 5.944,7 tỷ đồng. Lũy kế đến 31/12/2008, các KCN của cả nước thu hút được 3.588 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký là 251.541,57 tỷ đồng (tương đương 14,8 tỷ USD). Trong năm 2008, các KKT đã thu hút được 31.491,2 tỷ đồng (tương đương 1,85 tỷ USD) vốn đầu tư trong nước, trong đó có 74 dự án mới với tổng vốn đăng ký là 30.746 tỷ đồng và 8 dự án tăng vốn với tổng vốn đăng ký là 745,2 tỷ đồng. Lũy kế đến 31/12/2008, các KKT cả nước đã thu hút được 230 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký đạt 111.114 tỷ đồng (tương đương 6,5 tỷ USD). Các KCN, KKT tiếp tục tăng trưởng nhanh và ổn định về sản xuất kinh doanh và thực hiện vốn đầu tư 17 Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn do sự biến động tiêu cực của thị trường thế giới, song các dự án trong KCN, KKT vẫn triển khai với tốc độ khá cao. Trong năm 2008, các dự án đầu tư nước ngoài trong KCN, KKT đã thực hiện thêm được 2,5 tỷ USD, bằng 22% tổng số vốn đầu tư nước ngoài giải ngân được trong năm. Tỷ trọng vốn giải ngân này cho thấy các KCN, KKT đã đóng góp đáng kể vào hiệu quả thực hiện vốn đầu tư nước ngoài trên cả nước. Tính đến cuối tháng 12/2008, các KCN cả nước đã có 2.250 dự án FDI và 2.258 dự án trong nước đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 16,2 tỷ USD và 121,1 nghìn tỷ đồng, tương ứng 38% và 49% tổng vốn đầu tư nước ngoài và trong nước đăng ký vào KCN. Các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các KCN trong năm 2008 đã đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp KCN đã đạt tổng doanh thu 28,9 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt 14,5 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2007 và chiếm 24,7% giá trị xuất khẩu của cả nước. II/Kết quả và hạn chế trong đầu tư phát triển KCN: 1) Những thành tựu đạt được Xây dựng và phát triển KCN ở nước ta được đặt ra trong quá trình CNH, HĐH đất nước, quá trình triển khai Nghị quyết của Đảng, xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước từng thời kỳ nhất định. Trong giai đoạn vừa qua (1991 - 2006), hoạt động các KCN trong cả nước đã đạt được những thành tựu quan trọng. B.1) Hình thành hệ thống các KCN trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH cả nước; quy hoạch phát triển ngành, địa phương và vùng lãnh thổ. Đến cuối tháng 12/2005, cả nước đã có 131 KCN, được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 26.986 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 18.044 ha. Các KCN được phân bố trên 47 tỉnh thành trên cả nước theo hướng vừa tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở các vùng có lợi thế và tiềm năng, vừa tạo điều 18 kiện để các địa phương có ít lợi thế hơn, có động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Quy mô các KCN đa dạng và phù hợp với từng điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của mỗi địa phương. Phần lớn các KCN thuộc Danh mục các KCN ưu tiên thành lập theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt B.2) KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho CNH, HĐH đất nước. Việc áp dụng các chính sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi về hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, các KCN ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Số dự án ĐTNN và tổng vốn đăng ký vào KCN ngày càng được mở rộng. Giai đoạn 5 năm 1991-1995, số dự án ĐTNN có 155 dự án, đến 5 năm 2001-2005 là 1.377 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần về số dự án và 12% về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996 - 2001. Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN đã thu hút được 2.120 dự án có vốn ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 16.843 triệu USD. Thực tế đã chứng tỏ, nguồn vốn nước ngoài đầu tư xây dựng và phát triển KCN 15 năm qua là hết sức quan trọng. Cùng với nguồn lực từ bên ngoài, chúng ta còn đặc biệt coi trọng phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước. Nếu như trong 5 năm 1991 - 1995, chỉ có gần 50 dự án trong nước đầu tư vào các KCN, thì đến 5 năm 2001 - 2005 thu hút được 1870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với kế hoạch 5 năm trước. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2.367 dự án trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư trên 117 nghìn tỷ đồng. B.3) KCN đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài không chỉ đối với địa phương có KCN mà còn góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước. Tại các KCN, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nói chung khá hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho bãi, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. 19 Đến cuối tháng 12/2005, 131 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN trên cả nước bao gồm 19 dự án có vốn ĐTNN và 112 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đạt hơn 1 tỷ USD và 33 nghìn tỷ đồng. Hình thức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đa dạng và phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương. Các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuộc các hình thức với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế: đơn vị sự nghiệp có thu, doanh nghiệp có vốn ĐTNN, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong đó, các KCN do doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm chủ đầu tư chiếm số lượng lớn nhất: 45 KCN với tổng vốn đầu tư 15.673 tỷ đồng; 33 KCN được đầu tư theo cơ chế đơn vị sự nghiệp có thu với tổng vốn đầu tư hạ tầng đạt trên 7.424 tỷ đồng, các KCN còn lại do doanh nghiệp nhà nước làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư hơn 9.835 tỷ đồng (34 KCN). Đã hình thành một đội ngũ doanh nghiệp phát triển hạ tầng có kinh nghiệm và năng lực quản lý, điển hình là Công ty Phát triển KCN Thăng Long, Công ty Phát triển KCN Biên Hoà (Sonadezi), Công ty cổ phần KCN Tân Tạo... Trên phạm vi cả nước, đến cuối năm 2005, có 79 KCN, đã hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào vận hành; 51 KCN còn lại đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. B.4) KCN có tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương theo hướng CNH, HĐH, đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của cả nước, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế. Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN tăng đều qua các năm, và tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp trong KCN đều vượt so với tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN thời kỳ 1996 - 2000 đạt khoảng 9,5 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 20%/năm. Trong thời kỳ 2001 - 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN (kể cả trong nước và nước ngoài) đạt khoảng 44,4 tỷ USD, gấp gần 5 lần so với 5 năm trước. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh 20 nghiệp KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức khoảng 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và từ mức 17% năm 2001 lên khoảng 28% năm 2005. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp KCN trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong thời gian qua. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN thời kỳ 5 năm 1996 - 2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 18%/năm; trong 5 năm tiếp sau (2001-2005), giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt trên 22,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu công nghiệp của cả nước. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức khoảng 15% năm 2000 lên gần 20% năm 2005. Tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN thời kỳ 2001-2005 đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm và tăng gấp 3,4 lần so với tổng giá trị nhập khẩu trong 5 năm 1996-2000. Các doanh nghiệp KCN bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước, trong thời kỳ 2001-2005, tổng nộp ngân sách của các doanh nghiệp KCN tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45%/năm và gấp 6 lần so với 5 năm 1996 - 2000. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cùng với dòng vốn ĐTNN đầu tư vào các dự án sản suất kinh doanh trong KCN các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong đó, đặc biệt phải kể đến những dự án công nghiệp kỹ thuật cao với 11 doanh nghiệp đều tập trung ở KCN với tổng vốn đầu tư hơn 1 tỷ USD (phần lớn của Nhật Bản) như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel,... Các dự án ĐTNN vào KCN không những góp phần nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm của các doanh nghiệp KCN mà còn mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư từng bước nâng cao vị thế và sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực. 21 B.5) Các KCN sử dụng ngày càng hiệu qua cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế. Cùng với việc gia tăng diện tích thành lập mới và mở rộng hàng năm, trong thời gian qua các địa phương đã thành lập và hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng mỗi năm tăng thêm từ 2 - 5 KCN. Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, có thêm 15 KCN đi vào hoạt động. Hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng gắn liền với đất của các KCN ngày càng được nâng cao, thể hiện ở các chỉ tiêu: - Trong thời kỳ 2001 - 2005, các KCN đã cho thuê thêm được khoảng 7.000 ha đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy các KCN đã vận hành được nâng lên hàng năm từ 40% năm 1996 lên 50% năm 2000 và từ 55% năm 2001 lên 72% năm 2005. - Tính đến cuối tháng 12/2005, bình quân 1 ha đất công nghiệp của các KCN đã vận hành thu hút được hơn 2 triệu USD tăng 60% so với năm 2001 (1,2 triệu USD/ha). - Giá trị sản xuất công nghiệp do 1 ha đất công nghiệp tạo ra tăng đều qua các năm từ 0,54 triệu USD/ha lên 0,76 triệu USD/ha; giá trị xuất khẩu bình quân hàng năm trong 5 năm 2001 - 2005 đạt trên 0,33 USD/ha. Số lao động thực tế sử dụng bình quân một ha đất sản xuất trong KCN được huy động khoảng 80 - 100 người với giá trị sản xuất ra khoảng 30 tỷ đồng/ha/năm. B.6) Các KCN đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội Phát triển KCN mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tiềm năng để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Trong thời kỳ 2001-2005, các KCN đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp 4 lần so với thời kỳ trước (1991-2000), hiện nay (5/2006), các KCN, đã thu hút được khoảng 864.000 lao động trực tiếp, nếu tính cả số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút được còn lớn hơn nhiều (ước tính lượng lao động gián tiếp khoảng 1,5 triệu người). Phát triển KCN đồng nghĩa với hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình 22 độ khu vực và quốc tế. Hiện nay, một số KCN đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (Trung tâm dạy nghề Việt Nam - Singapore, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên Huế, Trường Cao đẵng kỹ thuật - công nghệ Biên Hoà…). - Doanh nghiệp trong KCN có mô hình tổ chức và quản lý nói chung, tổ chức và quản lý nhân lực nói riêng. Đây là môi trường rất tốt để đào tạo, chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp của Việt Nam. B.7) KCN đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý, tránh tình trạng khó kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất. KCN góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ nội đô; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường trong việc kiểm soát ô nhiễm và có biện pháp xử lý kịp thời đối với hành vi gây ô nhiễm của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp ngoài KCN. Thực tế cho thấy một số KCN thực hiện rất tốt và hài hoà mục tiêu thu hút đầu tư với giải quyết vấn đề về môi trường, thực sự là những "công viên công nghiệp", là mẫu hình để các KCN khác tiếp tục triển khai áp dụng, điển hình là KCN Biên Hoà II, KCN Thăng Long. B.8) Các KCN có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành, lĩnh vực KCN mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung quanh KCN. Liên kết ngành trong KCN bước đầu đã có những kết quả nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ KCN bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong KCN đã tạo điều kiện cho các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp KCN hoặc bản thân các doanh nghiệp trong các KCN có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các cơ sở kinh doanh xung quanh KCN. Các KCN ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình 23 dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu qủa này đặc biệt rõ nét ở các KCN thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến tại KCN tại Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Cần Thơ...góp phần tiêu thụ nông sản của các hộ gia đình, cơ sở nông nghiệp ở vùng nông thôn xung quanh, cải thiện một bước đời sống nông dân. KCN góp phần mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra tại các vùng lân cận, đặc biệt là những địa phương trình độ công nghiệp phát triển, có sức lan tỏa lớn tại thành phố Hồ Chí Minh tới các tỉnh lân cận, chuyển các địa phương này từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Trong thời gian tới, xu hướng lan tỏa từ các KCN, ở các địa phương này sẽ còn mở rộng hơn nữa sang các địa phương khác như Long An, Bình Phước... Việc phát triển các KCN có tác động rất rõ rệt đến quá trình quy hoạch, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương nơi KCN đóng và các địa phương lân cận. Với thế mạnh về công nghệ, thiết bị hiện đại, phương pháp quản lý tiến bộ, các doanh nghiệp này sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt và ổn định, các doanh nghiệp trong KCN đã và đang tác động tích cực tới yếu tố chất lượng sản phẩm của công nghiệp địa phương, góp phần giúp công nghiệp địa phương từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả nước và xuất khẩu. Đánh giá một cách chung nhất, có thể nói các KCN không chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng có KCN phát triển mạnh mẽ trong 15 năm qua, mà còn có tác động lan toả rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. B.9) Mô hình quản lý - áp dụng cơ chế "một cửa, tại chỗ" đối với KCN Những năm qua, KCN thực sự là nơi thử nghiệm mô hình cơ chế "một cửa, tại chỗ" và đã đạt được những chuyển biến tích cực: 24 - Cùng với việc thành lập các KCN, các Ban quản lý các KCN cũng được thành lập nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước KCN ở địa phương, là đầu mối liên hệ giữa nhà đầu tư với KCN. Hiện nay, 46 Ban quản lý KCN đã được thành lập ở tất cả các địa phương có KCN, trong đó 45 Ban quản lý KCN trực thuộc UBND tỉnh, Ban quản lý KCN Việt Nam - Singapore trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Thông qua Ban quản lý KCN, nhà đầu tư có điều kiện dễ dàng tiếp cận với các thông tin về KCN, giải quyết các thủ tục đầu tư vào KCN ngay tại địa phương. - Những năm qua, quy chế uỷ quyền trong quản lý các KCN tiếp tục được hoàn thiện, hầu hết các BQL KCN đều được Bộ Kế hoạch và Đầu tư ủy quyền quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư (gồm tiếp nhận hồ sơ, cấp phép và giả quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt đồng đầu tư đối với ĐTNN của doanh nghiệp) . Nội dung uỷ quyền phù hợp với trình độ quản lý của các BQL. Hoạt động đầu tư trong phạm vi thẩm quyền được BQL giải quyết nhanh gọn, thuận lợi và về cơ bản nằm trong năng lực quản lý của các BQL. Quá trình uỷ quyền đã đạt được hiệu quả về 2 mặt: vừa giúp nhà đầu tư nước ngoài nhanh chóng và đơn giản hóa việc xin phép đầu tư, đồng thời giúp giảm bớt khối lượng công việc của cơ quan trung ương, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN được trực tiếp và sâu sát hơn. Tuy nhiên, đến nay khi nghiên cứu hoàn thiện mô hình quản lý cho thấy cần thiết phải chuyển từ mô hình uỷ quyền sang mô hình phân cấp và tương ứng là mở rộng quy mô phân cấp về vốn của dự án đầu tư, đặc biệt với các dự án không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện, nhằm tạo sự năng động và chịu trách nhiệm của BQL và chính quyền địa phương. - Ngoài việc ủy quyền quản lý hoạt động đầu tư, các bộ, ngành cũng đã ủy quyền cho BQL trong việc xét duyệt kế hoạch nhập khẩu, cấp giấy chứng nhận xuất xử hàng hóa C/O form D, giấy phép lao động... Trong thời gian tới, với việc áp dụng Luật Đầu tư chung, xu hướng phân cấp sẽ tiếp tục được mở rộng. 25 2)Những hạn chế trong đầu tư vào khu công nghiệp: a)Thủ tục đầu tư vào khu công nghiệp_khu chế xuất còn rườm rà Mặc dù thủ tục đầu tư vào các khu sản xuất tập trung đã được đơn giản hóa, song câu chuyện “hành chính” khi đầu tư vào đây vẫn khiến nhiều doanh nghiệp than trời vì chậm trễ, ách tắc... Tại hội nghị thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế diễn ra ngày 26-3 tại Bắc Ninh, nhiều vấn đề bức xúc cũng như hiến kế đã được đặt ra. Công nhận hiện có tới 30% vốn FDI vào VN chảy thẳng vào các KCN, tuy vậy theo ông Ryoichi Nakagawa - giám đốc điều hành Cơ quan Xúc tiến đầu tư Nhật Bản, dù đã được đơn giản hóa nhưng từ khi được cấp phép tới khi xây dựng nhà máy, nhanh nhất các doanh nghiệp phải mất 2-3 tháng mới xong thủ tục. Đặc biệt các quy định về thuế, xuất nhập khẩu, các quy định về lao động không rõ ràng gần đây vẫn gây thiệt hại trực tiếp cho doanh nghiệp. Chứng minh điều này, ông Nakagawa cho biết suốt từ tháng 6-2007 đến tháng 5-2008, do quy định về thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp trong KCX không rõ, doanh nghiệp phải nộp tới hàng trăm ngàn USD. Phải đợi đến tháng 1- 2009 mới có văn bản hướng dẫn lại, nhưng đến nay nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thể xong các thủ tục để được nhận lại tiền của mình... Ngoài ra, sự phiền toái còn thường xảy ra do các cán bộ địa phương. Theo văn bản Văn phòng Kinh tế văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội gửi đến hội nghị, những khó khăn mà các doanh nghiệp Đài Loan ở các KCN, KCX tại VN đang phải đối mặt thuộc đủ loại, như: khó mua USD khi cần nhập khẩu máy móc và nguyên vật liệu, giá đất tăng, giải phóng mặt bằng chậm, điện nước bị cắt, quy trình giải quyết thủ tục hành chính quá chậm... 26 Bà Nguyễn Thị Nguyệt Hương, chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đầu tư phát triển VN - đơn vị đang đầu tư 10 KCN trên cả nước, cho rằng thủ tục hành chính hiện nay mỗi tỉnh làm một cách. “Chỉ một việc là tách sổ đỏ cho các nhà đầu tư, có tỉnh làm dễ nhưng có tỉnh lại khó. Có nơi chúng tôi xin cấp phép đầu tư chỉ mất 24 giờ, nhưng có nơi mất hơn chục ngày”... B)Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất giảm mạnh: Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất giảm mạnh, một phần do bãi bỏ ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ có 30 dự án đầu tư được cấp chứng nhận đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) của Hà Nội từ đầu năm tới nay, với tổng vốn đăng ký khoảng 80 triệu USD và 600 tỷ đồng, bằng 30% so với cùng kỳ năm trước. Thậm chí, trong số này, chỉ có 12 dự án là cấp mới, còn lại là các dự án tăng vốn. Theo ông Nguyễn Xuân Chính, Trưởng ban Quản lý Các KCN, KCX Hà Nội, nguyên nhân cơ bản nhất của sự sụt giảm này là do khủng hoảng tài chính toàn cầu, khiến lưng vốn của nhà đầu tư bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó là việc từ ngày 1/1/2009, Việt Nam bãi bỏ ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (DN) đối với cả DN đầu tư hạ tầng KCN và DN hoạt động trong các KCN. “Các DN đầu tư xây dựng hạ tầng KCN kêu nhiều nhất về vấn đề này. Không thể đánh đồng việc đầu tư xây dựng khu đô thị với việc xây dựng hạ tầng KCN, bởi vì việc đầu tư cho các KCN sẽ liên tục phát sinh lợi nhuận, tăng thu cho ngân sách, khác hẳn với đầu tư một khu chung cư. Ưu đãi cho phát triển các KCN cũng chính là sự đầu tư cho nguồn thu sau này”, ông Chính nói. Trên một khía cạnh khác, ông Chính cũng cho rằng, việc Nghị định 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc thu hút đầu tư vào các KCN. Việc này, theo ông Chính, khiến nhiều DN đầu tư hạ tầng KCN lừng chừng trong thực hiện dự án. Liên quan tới vấn đề này, trong một cuộc trao đổi gần đây với phóng viên báo chí, ông Hong Sun, Chủ tịch, kiêm Tổng giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và Phát triển HS cho rằng, việc các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn đầu tư tại Việt 27 Nam là do tiền thuê đất rẻ hơn, nhưng với các quy định tại Nghị định 69/2009/NĐ- CP, lợi thế này đang mất dần. “Áp dụng các quy định của Nghị định 69/2009/NĐ-CP thì tốt cho nông dân Việt Nam, nhưng với chúng tôi thì không, thậm chí Việt Nam mất đi lợi thế cạnh tranh so với nước khác. Nhiều dự án KCN gặp khó khăn và không biết có triển khai tiếp hay không”, ông Hong Sun nói và cho biết, Công ty của ông có một dự án KCN ở Thường Tín (Hà Nội). Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 90 triệu USD, trong đó tiền đề bù giải phóng mặt bằng ban đầu dự kiến tối đa là 18 triệu USD, nhưng bây giờ, vì Thường Tín đã sáp nhập về Hà Nội, nên tiền đền bù đã lên tới 30 triệu USD. Cộng thêm các quy định từ Nghị định 69/2009/NĐ-CP, Công ty HS sẽ phải mất nhiều hơn thế tiền đền bù giải phóng mặt bằng. Và điều đó, tất nhiên sẽ gây khó khăn cho các nhà đầu tư hạ tầng KCN như HS. C)Chất lượng quy hoạch còn thấp, thực hiện quy hoạch chưa triệt để. Thời gian qua, số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập tăng lên nhanh chóng; điều đó phản ánh phần nào tiềm năng của các vùng trong việc phát triển sản xuất công nghiệp. Đối chiếu với mục tiêu lâu dài của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất theo quy hoạch hiện nay chưa phải là nhiều. Nhưng điều đáng quan tâm là ở chỗ, việc phân bổ các khu công nghiệp, khu chế xuất giữa các vùng còn bất hợp lý. Chẳng hạn, thành lập quá nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ở cùng một vùng, trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế hoặc không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho các khu công nghiệp. Điều này vô hình trung hình thành nên các khu công nghiệp, khu chế xuất có chức năng tương tự ở các địa phương, dẫn tới tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo “phong trào”, thu hút đầu tư không phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của vùng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất của cả nước. Tình trạng này làm cho hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, không khai thác được những lợi thế riêng có của các địa phương trong việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hơn nữa, giữa công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa gắn với nhau. Nhiều quy hoạch được duyệt, thậm chí đã đi vào xây dựng kết cấu hạ tầng vẫn bị địa phương thay đổi quy hoạch về diện tích, ranh giới, 28 gây ra sự hoài nghi về tính ổn định của môi trường đầu tư và hiệu lực của các cơ quan quản lý nhà nước. D) tình trạng tự phát trong việc thu hút đầu tư còn diễn ra phổ biến: Trong thời gian qua, để khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, các cấp, các ngành đã không ngừng nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách ưu đãi, thủ tục đầu tư thuận tiện, đơn giản hơn so với bên ngoài. Tuy nhiên, hiện tại đang nổi nên một thực tế là các địa phương ra sức ganh đua, cạnh tranh để thu hút các nguồn vốn đầu tư về khu công nghiệp, khu chế xuất ở địa phương mình. Nhiều địa phương đã ban hành những ưu đãi riêng, có tính chất “xé rào” nhằm thu hút đầu tư, chấp nhận dùng ngân sách địa phương để bù lỗ. Điều này làm ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước. Thậm chí, ở một số địa phương còn xảy ra tình trạng chèn lấn, “ngáng chân” nhau trong việc thu hút đầu tư, làm giảm hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất, không tận dụng được lợi thế của địa phương và các doanh nghiệp. Trong thời gian tới, vấn đề này cần được xem xét một cách nghiêm túc. Nhà nước có chính sách cân đối các dự án đầu tư giữa các địa phương, vùng, miền. Đồng thời, tập trung ưu đãi, đầu tư lớn cho các địa phương, vùng, miền trọng tâm, trọng điểm về dân cư, địa lý hành chính, tiềm lực nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ, về điều kiện tài nguyên - môi trường, giao thông - vận tải, kể cả về an ninh - quốc phòng... Đặc biệt, cần có sự ưu đãi đối với các địa phương, vùng, miền tuy có sự hạn chế về nguồn vốn nhưng có tiềm lực lớn về nguồn nhân lực, đất đai, có điều kiện thuận lợi trong phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Bởi vì, đầu tư phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở những nơi này sẽ tạo nên một nền công nghiệp hỗn hợp và quan trọng hơn, góp phần to lớn vào việc công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn và xóa đói, giảm nghèo. Tóm lại, để khắc phục tình trạng tự phát trong việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, chúng ta cần dựa trên nguyên tắc: vừa đầu tư theo kế hoạch thống nhất của Nhà nước, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương trong việc huy động các nguồn vốn tại chỗ; vừa đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, dàn đều, vừa đầu tư theo quy mô rộng lớn nhằm tạo sự phát triển mạnh mẽ, đồng bộ về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng trên phạm vi cả nước. 29 E) cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập: Trong những năm gần đây, xu hướng đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang ngày càng tăng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập. Hầu hết các dự án hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất đều là các dự án công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng như dệt, sợi, may mặc, da giày... Còn các dự án đầu tư vào những ngành công nghiệp nặng hay những ngành đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại như điện, điện tử, vật liệu mới còn quá ít. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm, bởi vì nếu không thu hút và phát triển được những ngành đòi hỏi công nghệ cao thì nước ta khó tránh khỏi tụt hậu và vẫn là thị trường gia công cho nước ngoài. Hơn nữa, cơ cấu nguồn vốn đầu tư cũng đang nổi lên nhiều vấn đề đáng chú ý, đó là: 1 - Trong những năm đầu phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, nguồn vốn đầu tư vào chủ yếu là nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nhưng trong những năm gần đây, nguồn vốn này đang có xu hướng giảm sút. Quy mô bình quân của một dự án có chiều hướng năm sau thấp hơn năm trước. Thực tế này cho thấy, các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta vẫn chưa đủ sức hấp dẫn những nhà đầu tư từ các công ty lớn, xuyên quốc gia, nắm những công nghệ gốc, sản xuất những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. 2 - Mặc dù có trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, nhưng phần lớn là từ các nước châu Á (chiếm gần 80%), còn những quốc gia châu Âu, Bắc Mỹ - những nước có kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, hiện có vị trí khá khiêm tốn trong cơ cấu đầu tư vào khu vực này. F)Còn thiếu lao động có trình độ cao. Hiện nay, đang tồn tại một nghịch lý trong việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển một lực lượng lớn lao động có kỹ thuật, tay nghề cao, có kỷ luật lao động tốt, 30 thế nhưng đa số lực lượng lao động ở các địa phương không đáp ứng được những yêu cầu này. Theo số liệu điều tra, hầu hết lực lượng lao động ở các địa phương có khu công nghiệp, khu chế xuất chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn, không quen với môi trường lao động công nghiệp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của công nghệ quản lý, sản xuất hiện đại của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Số lao động có trình độ đại học và trên đại học trong các khu công nghiệp, khu chế xuất chỉ chiếm 4,5% tổng số lao động, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo chiếm 31%, lao động giản đơn chiếm tới 60%. Chính vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp của các địa phương có khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn ở mức cao, trong khi các doanh nghiệp lại thiếu lao động. Trong thời gian tới, chúng ta cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp, khu chế xuất như sau: 1 - Trước mắt, các địa phương và Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất chủ động, nhanh chóng kết hợp với các bộ, ngành có liên quan để mở các trung tâm đào tạo nghề nhằm trực tiếp đào tạo công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp tại các khu vực này. Về phía các doanh nghiệp, chủ động tiếp cận các cơ sở đào tạo nghề để kết hợp mở các khóa đào tạo nghề cho người lao động trong doanh nghiệp. 2 - Về lâu về dài, các cơ quan quản lý nhà nước cần quy hoạch sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề, có cơ chế bồi dưỡng, đào tạo theo nhiều hình thức, phù hợp với nhiều loại đối tượng học nghề để đáp ứng yêu cầu nguồn lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất. Mặt khác, Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ nâng cấp trang thiết bị học tập tại các trung tâm đào tạo nghề gắn với địa bàn các khu công nghiệp, khu chế xuất; đổi mới chương trình giảng dạy và phát triển đội ngũ giảng viên dạy nghề; mở rộng nhiều hình thức dạy nghề theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Đồng thời, cũng phải tính đến việc sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao sao cho có hiệu quả như các nhà khoa học, quản lý, các du học sinh đang được đào tạo ở nước ngoài. 31 G) Quản lý và sử dụng đất còn nhiều hạn chế. Trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta hiện nay, việc phát triển hạ tầng kỹ thuật vẫn được tiến hành theo hình thức Nhà nước giao đất cho doanh nghiệp phát triển hạ tầng thuê đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc thuê lại đất đã phát triển hạ tầng. Doanh nghiệp muốn đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất thuê lại đất đã xây dựng hạ tầng của doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Do đó, giá thuê đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất bao gồm giá đất thô cộng với chi phí giải tỏa, chi phí đầu tư phát triển hạ tầng và lợi nhuận của doanh nghiệp. Do không có sự quy định rõ ràng về quyền cho thuê đất thô (của Nhà nước) và quyền cho thuê hạ tầng (của doanh nghiệp phát triển hạ tầng) nên đã dẫn đến hiện tượng một số doanh nghiệp hạ tầng đầu cơ đất. Điều này làm cho Nhà nước không chi phối được giá cho thuê đất, và khi Nhà nước có chính sách thu hút bằng việc miễn, giảm tiền thuê đất thì khó có thể can thiệp một cách trực tiếp và cụ thể. Một vấn đề nữa đáng quan tâm là, việc đền bù giải phóng mặt bằng ở các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Tình trạng này đã làm tốn nhiều thời gian, tiền bạc của nhiều dự án. Không ít dự án phải mất 2 - 3 năm mới đền bù, giải tỏa xong. Điều này đã đẩy chi phí xây dựng tăng lên, dẫn đến giá cho thuê đất tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn của khu công nghiệp, khu chế xuất. Để quản lý và sử dụng đất trong các khu công nghiệp, khu chế xuất có hiệu quả, cần tách bạch giữa việc cho thuê đất (quyền của Nhà nước) và phí sử dụng hạ tầng (quyền của doanh nghiệp phát triển hạ tầng). Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng cần có một chế tài pháp lý thích hợp và có sự chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ giữa các chính quyền địa phương với các doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Luật Đất đai (năm 2003) quy định việc phân cấp thẩm quyền quản lý, sử dụng đất cho chính quyền địa phương, trong đó có thẩm quyền thu hồi đất. Bởi vậy, để việc sử dụng đất đúng mục đích, nhanh chóng, thuận lợi, nhất là đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất, các cấp ủy và chính quyền địa phương cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ 32 công tác giải tỏa đền bù khi thu hồi đất theo đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt, cần tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc định giá đất tại Điều 56 của Luật Đất đai khi thu hồi đất để cấp cho các dự án khu công nghiệp, khu chế xuất. H)Vấn đề môi trường trong KCN Trong thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường trong KCN mặc dù đã được chú trọng hơn nhưng đa số các KCN trên phạm vi cả nước còn chưa được cải thiện nhiều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường theo quy định. Nhiều KCN chưa xây dựng nơi tập trung và xử lý rác thải. Việc thu gom và vận chuyển rác thải chỉ thực hiện trong phạm vi từng nhà máy. Những nhà máy sản xuất bao bì, hoá chất, nhựa,… thường có những chất khó phân huỷ, gây độc hại cho môi trường nước mặt, nước ngầm và đất. Ô nhiễm về nước thải công nghiệp càng trở nên nghiêm trọng. Hiện chỉ có 33 KCN đã có công trình xử lý nước thải tập trung, 10 KCN đang xây dựng, còn lại các KCN khác đều trực tiếp thải ra sông, biển đã gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường xung quanh, nhất là những KCN tập trung các ngành công nghiệp dệt, thuộc da, hoá chất…có lượng nước thải thải ra với khối lượng lớn và có tính độc hại cao. 33 Chương III/Phương Hướng Và Giải Pháp Thúc Đẩy Đầu Tư Phát Triển KCN_KCX A)Tăng cường thu hút thêm vốn đầu tư: 1. Đối với thu hút đầu tư nước ngoài Một là, nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư. Để tăng cường tinh minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước được môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lực chọn cơ hội đầu tư, cần thực hiện đúng quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN vào KCN khi được công bố thì được coi là đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ, đồng thời phải tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của nhà đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án..vv trong Danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao. Hai là, đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước), với các công ty, các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào KCN; mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư vấn, xúc tiến ĐTNN.. vv để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng nhân dịp các chuyến thăm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chính phủ đi các nước. Kết hợp vận động đầu tư trong các dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm, hội chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn, báo chí, truyền hình 34 trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào KCN; kịp thời chuẩn xác thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN ở Việt Nam; duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với với cộng đồng các nhà đầu tư, đặc biệt là trong khuôn khổ Diễn dàn doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp có vốn ĐTNN.. nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới; tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Kịp thời khen thưởng các cá nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Việt Nam. Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ.. vv. Mặt khác, cần nghiên cứu tình hình, xu hướng ĐTNN trên thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của một nước trong khu vực, đặc biệt là các cơ chế pháp lý song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư. Bốn là, tăng cường hợp tác song phương và đa phương vế xúc tiến đầu tư. Sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã ký với Hàn Quốc theo những nguyên tắc về đối xử đã thoả thuận với Hoa Kỳ, xem xét áp dụng nguyên tắc đối xử nói trên đối với các nhà đầu tư EU. Tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư song phương đã được thiết lập trong thời gian qua với JICA và JETRO (Nhật Bản), Trung tâm xúc tiến đầu tư và du lịch ASEAN (Nhật Bản), OPIC (Hoa Kỳ), GTZ (Đức).. nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình vận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể. Nghiên cứu thực trạng và xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các công ty đa quốc gia, hỗ trợ đào tạo về kỹ 35 thuật xúc tiến đầu tư..vv. Nối lại quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các cơ quan Chính phủ ở các nước trong khu vực như Văn phòng Hội đồng đầu tư Thái Lan (OBOI), Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng phát triển kinh tế Singapore (EDB). Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực theo hướng sau: xây dựng và cập nhật thường xuyên các chương trình hành động quốc gia về tự do hoá, thuận lợi hoá và xúc tiến đầu tư mà Việt Nam đã cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC và ASEM; tham gia tích cực vào chương trình hợp tác và tham vấn giữa các cơ quan quản lý đầu tư của các nước thành viên, đồng thời tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác để xác định các rào cản đối với đầu tư và kiến nghị các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư của khu vực nói chung và từng nước thành viên nói riêng; duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các tổ chức quốc tế như WB, IFC, FIAS, MIGA, ESCAP theo chương trình đã thoả thuận. Năm là, nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư. Khẩn trương xây dựng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam, đồng thời kết nối mạng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam với trang Web của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh, cũng như trang Web của các Công ty phát triển hạ tầng KCN của cả nước hình thành hệ thống mạng thông tin chung về KCN của Việt Nam. Sáu là, bố trí ngân sách phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN hoặc bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN. 2. Đối với thu hút đầu tư trong nước Một là, Nhà nước phải tạo khung pháp lý nhất quán và ổn định, môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện tốt cơ chế một cửa, tại chỗ”, bảo đảm các chế độ ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư vào KCN. 36 Hai là, KCN phải ban hành Danh mục dự án gọi vốn đầu tư vào KCN để mọi thành phần kinh tế trong nước có cơ hội đầu tư. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, cá nhân trong nước đầu tư vào KCN. Ba là, Nhà nước cần có chính sách thoả đáng để di dời các doanh nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn vào KCN. Bốn là, ở những KCN thuộc khu vực khó khăn, hoặc KCN gắn với quốc phòng, cần có chính sách định hướng, vận động các tổng công ty Nhà nước, trên cơ sở chiến lược phát triển của ngành mình đầu tư vào KCN . Đối với KCN vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn, Nhà nước phải có biện pháp, chính sách di chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da-giầy..vv.), chế biến nông, lâm sản ở các thành phố và đô thị về các KCN này; đồng thời có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào KCN loại này. Năm là, khi thành lập KCN trên địa bàn, đòi hỏi các tỉnh, thành phố phải phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý KCN cấp tỉnh, doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN trong việc vận động định hướng đầu tư vào KCN tránh tình trạng đầu tư phân tán, không tuân thủ quy hoạch, gây khó khăn cho việc kiểm soát môi trường. B)Thực hiện quy hoạch đồng bộ,nâng cao chất lượng quy hoạch cũng như quản lý KCN_KCX: Rà soát, điều chỉnh lại các bản quy hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất trong từng vùng và trong phạm vi cả nước để hình thành một quy hoạch thống nhất. Quy hoạch này phải mang tính tổng thể, căn cứ vào tiềm năng, lợi thế phát triển của từng tỉnh, thành phố và khu vực, tạo được sự liên kết giữa tất cả các hình thức tổ chức sản xuất trong toàn lãnh thổ (khu công nghiệp, khu chế xuất vừa và nhỏ của địa phương, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp...); liên kết được sự phát triển giữa các ngành, các vùng lãnh thổ, đồng thời phải tính đến các yếu tố bên ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất cũng như thị trường trong và ngoài nước. 37 Khi xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất phải tuân thủ các quy hoạch được phê duyệt; tránh tình trạng làm quy hoạch để đối phó, chiếu lệ, còn khi tổ chức xây dựng thì “tùy nghi di tản”, không đúng quy hoạch. Quy hoạch chi tiết trên địa bàn nào thì đồng thời triển khai ngay các công trình hạ tầng ở địa bàn đó, đi liền với tạo cơ chế thuận lợi để các doanh nghiệp vào đầu tư, lấp đầy ngay diện tích của địa bàn. Chỉ có như vậy mới nâng cao được hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xây dựng hạ tầng, khai thác được lợi thế so sánh của các địa phương và các doanh nghiệp cùng nhóm ngành, sử dụng có hiệu quả các diện tích phục vụ khác ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. Cần thống nhất nhận thức KCN là một dự án đầu tư quy mô lớn, dài hạn. Từ khi có quyết định thành lập phải mất vài năm để đền bù, giải phóng mặt bằng, phát triển hạ tầng mới có điều kiện thu hút đầu tư và sau đó cũng phải nhiều năm mới lấp đầy được. Chúng ta thành lập KCN bây giờ là bước chuẩn bị cho thực hiện mục tiêu cho 5 đến 7 năm tới. Đó là việc phát triển có tính toán cho một quãng thời gian dài. Trong tổ chức thực hiện cần kiên trì và cùng hiệp lực thì mới bảo đảm phát huy hiện quả của nó vì lợi ích của ngành, của địa phương và của nền kinh tế. Cần đề phòng nguy cơ phát triển kém hiệu quả, lãng phí nguồn lực, hoặc thiên hướng ngược lại, chùn bước, nản chí trước một số khó khăn, trở ngại, thách thức tạm thời trước mắt. Phát triển KCN cần theo hướng gia tăng hàm lượng kỹ thuật - công nghệ trong sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh khu vực và quốc tế, chuyển dần từ phát triển KCN, KCX theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, lựa chọn những ngành công nghệ cao, công nghệ cơ khí, công nghiệp phù trợ. Ngay từ khâu xây dựng chiến lược phát triển đến khâu tổ chức triển khai xây dựng KCN luôn phải gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững. 38 Một trong những mục tiêu quan trọng của phát triển KCN phát huy vai trò là hạt nhân hình thành đô thị hiện đại, do đó trong quá trình xây dựng KCN, cơ sở hạ tầng KCN phải đi trước một bước, cần gắn việc xây dựng hạ tầng trong hàng rào với xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN theo hướng đồng bộ, hiện đại. Quy hoạch KCN phải thường xuyên được rà soát, điều chỉnh phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế, đồng thời công tác triển khai thực hiện quy hoạch phải linh hoạt, thông thoáng nhưng đảm bảo nhất quán. Kết quả bước đầu hoạt động của những KCN cho thấy phát triển KCN đạt kết quả tốt gắn liền với sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, nhanh nhạy, dám chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, sự phối hợp kịp thời, có hiệu quả giữa BQL KCN cấp tỉnh với các sở, ban ngành của tỉnh, thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức đủ sức gánh nhiệm vụ. Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ", tăng cường mối liên hệ giữa Ban quản lý, doanh nghiệp hạ tầng và doanh nghiệp KCN theo hướng đảm bảo một đầu mối giải quyết, đồng thời có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các đơn vị trong phối hợp. Cần kết hợp giữa khâu cấp phép và khâu thanh tra giám sát theo hướng giải quyết việc cấp phép nhanh gọn, đáp ứng kịp thời nhu cầu của các nhà đầu tư, tuy nhiên thực hiện chặt chẽ và thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, chế độ báo cáo của các doanh nghiệp tới cơ quan quản lý nhà nước, của các cơ quan quản lý cấp địa phương với cấp trung ương nhằm đảm bảo hoạt động của các doanh nghiệp lành mạnh, đúng pháp luật. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, gồm cả cán bộ quản lý KCN các cấp theo chương trình, chiến lược đào tạo cụ thể 39 C)Điều chỉnh cơ cấu đầu tư vào KCN_KCX: Cần có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất một cách thích hợp để không chỉ đem lại sự tăng trưởng kinh tế trước mắt mà còn cả về lâu dài, không chỉ đem lại sự tăng trưởng kinh tế nhanh, mà còn cả sự tăng trưởng ổn định, bền vững, chắc chắn. Muốn vậy, ngoài việc nhanh chóng đưa các khu công nghiệp, khu chế xuất về công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng vào hoạt động ổn định, đạt hiệu quả cao, cần thành lập thêm những khu công nghiệp, khu chế xuất về công nghiệp nặng. ở đây, điều cần lưu ý là, có thể chuyển mục đích sử dụng, hoặc xen kẽ mục đích sử dụng giữa hai khu vực này. Cụ thể, chuyển hoàn toàn hoặc chuyển một phần các khu công nghiệp, khu chế xuất về công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng làm ăn kém hiệu quả thành khu công nghiệp, khu chế xuất về công nghiệp nặng. Việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất về công nghiệp nặng cần dựa trên nguyên tắc trọng tâm, trọng điểm chứ không nhất thiết phải căn cứ vào sự đồng đều giữa các vùng, miền, và điều quan trọng nữa là cần có sự đầu tư lớn, thích đáng, dứt điểm. Bên cạnh đó, cần có sự ưu tiên, ưu đãi, tạo điều kiện hết sức thuận lợi đối với các nhà đầu tư trong nước và đặc biệt là nước ngoài tại khu vực này Nhà nước nên tập trung xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất phục vụ riêng cho ngành nông nghiệp. Nước ta là một nước nông nghiệp với hơn 80% số dân làm nghề nông. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Do đó, cần một số khu công nghiệp, khu chế xuất ở các vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm để hỗ trợ và thúc đẩy phát triển nông thôn. D)Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các KCN_KCX Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực phục vụ các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng là vấn đề cần được quan tâm. Thực tiễn của quá trình phát triển đã chỉ rõ sự bất cập trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung, phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng. Đang có nghịch lý là xã hội khủng hoảng thừa lao động, nhưng các doanh nghiệp lại đang thiếu 40 nguồn nhân lực trầm trọng, do chúng ta đào tạo nhưng không tính đến nhu cầu sử dụng thực tế của các nhà doanh nghiệp. Kết quả là, những ngành nghề mà các doanh nghiệp đang cần chúng ta lại không tập trung đào tạo để đáp ứng. *Một số giải pháp - Thành lập một số cơ sở đào tạo trình độ cao về khoa học và công nghệ tại KCN với chương trình đào tạo kiến thức và kỹ năng tiên tiến nhất để đào tạo kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ... - Thành lập các cơ sở đào tạo nghề theo các chuẩn kỹ năng chuyên tiêu chuẩn quốc tế. - Mở rộng hợp tác quốc tế, liên kết “du học tại chỗ”, hình thành trường đại học công nghệ quốc tế trong KCN. - Đặt hàng hoặc gửi người đi học tập và thực hành tại các trường đại học, viện nghiên cứu hoặc cơ sở CNC có uy tín trong nước hoặc trên thế giới để tạo nguồn cán bộ lãnh đạo chủ chốt, chuyên gia giỏi. - Thiết lập một cơ sở pháp lý với chế độ đãi ngộ xứng đáng để có thể tuyển chọn, thu hút được các nhà quản lý, chuyên gia có năng lực về làm việc lâu dài và chuyên tâm cho sự nghiệp phát triển của KCN. - Có chính sách đãi ngộ phù hợp dành cho các chuyên gia làm việc tại KCN. - Thành lập Sàn cung ứng nhân lực để kết hợp các cơ sở đào tạo trong và ngoài KCN với các đơn vị sử dụng nhân lực trong KCN - Xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực làm việc và được huấn luyện trong KCN E)Đảm bảo môi trường khu CN: Ngày 15/7/2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT quy định quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế (KKT), khu công nghệ cao (KCNC), khu công nghiệp (KCN) và cụm công nghiệp (CCN). Thông tư nêu rõ, bảo vệ môi trường KKT, KCNC, KCN và CCN phải thực hiện thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính, trong tất cả các giai đoạn: Lập quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầ u tư, xét duyệt dự án đầu tư; thi công xây dựng kết cấu hạ 41 tầng kỹ thuật; thi công xây dựng các dự án đầu tư và trong suốt quá trình hoạt động. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư xây dựng, quy hoạch xây dựng KKT, KCNC, KCN, CCN phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, quy hoạch sử dụng đất của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hạn chế sử dụng đấ t canh tác nông nghiệ p, không xâm phạm các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, bảo đảm phát triển bền vững và an ninh quốc phòng. Quy hoạch xây dựng KKT phải đảm bảo bố trí không gian các khu chức năng hợp lý rõ ràng, phù hợp với tính chất hoạt động của KKT, đảm bảo giảm thiểu tác động xấu đối với môi trường xung quanh và giữa các khu chức năng với nhau. KCN và các dự án trong KKT phát sinh nhiều nguồn khí thải và tiếng ồn phải được bố trí ở cuối hướng gió chủ đạo đối với KKT và được cách ly với khu đô thị và cá c khu chức năng yên tĩnh bằng các dải cây xanh có chiều rộng theo quy định; các dự án phát sinh nhiều nước thải phải được bố trí gần nhau và ở cuối nguồn nước của KKT. KCNC, KCN và CCN phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung. Các nhà máy xử lý nước thải tập trung phải thiết kế lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với các thông số: pH, DO, COD, TSS và một số thông số đặc trưng khác trong nước thả i của KCNC, KCN, CCN. Bên cạnh đó, trong KKT, KCNC, KCN và CCN phải bố trí địa điểm tạm lưu giữ, trung chuyể n chất thải rắn và xác định rõ cơ sở tiếp nhận, xử lý chất thải rắn thông thường và chất thải nguy hại. Trách nhiệm của chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KKT, KCNC, KCN và CCN phải thực hiện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hoặc cam kết bảo vệ môi trường theo quy định tại Nghị định số 80/2006/NĐ-CP và Nghị định số 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi và bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ. Trong giai đoạn triển khai thi công xây dựng KKT, KCNC, KCN và CCN, các tổ chức, cá nhân thực hiện giải phóng mặt bằng và chuẩn bị đất xây dựng phải có trách nhiệm thu gom và xử lý tất cả các chất thải rắn phát sinh theo đúng quy định của pháp luật về quản lý chất thải rắn. Trách nhiệm của các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng phải thực hiện đúng nội dung Quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM và có văn bản báo cáo gửi cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM và 42 Ban quản lý KKT, KCNC, KCN hay cơ quan quản lý CCN về kế hoạch xây lắp kèm theo hồ sơ thiết kế chi tiết của công trình xử lý môi trường, kế hoạch giám sát môi trường trong giai đoạn thi công để các cơ quan này theo dõi, kiểm tra, giám sát. Về xử lý nước thải, nhà máy xử lý nước thải tập trung phải được thi công xây dựng theo đúng tiến độ và thiết kế trong dự án đầu tư đã được phê duyệt; phải lập kế hoạch vận hành thử nghiệm các nhà máy xử lý nước thải của KCN, CCN và các công trình xử lý nước thải của các khu chức năng khác trong KKT, KCNC gửi cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM và Ban quản lý KKT, KCNC, KCN hay cơ quan quản lý CCN trước khi đi vào vận hành chính thức. Trong giai đoạn hoạt động, Ban quản lý KKT, KCNC, KCN và cơ quan quản lý CCN phải có trá ch nhiệm xem xét tiếp nhận các dự án đầu tư thuộc ngành nghề trong báo cáo ĐTM của dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật KKT, KCNC, KCN và CCN đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; ưu tiên cá c dự án có công nghệ sả n xuất hiện đại, công nghệ cao, không hoặc ít gây ô nhiễm môi trường, các dự án áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn, công nghệ thân thiệ n môi trườ ng, tiết kiệm năng lượng; đồng thời kiên quyết không tiếp nhận các dự án có công nghệ, thiết bị lạc hậu, hiệu quả sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu thấp, phát sinh nhiều chất thải, có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Sau đó, các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải theo dõi, giám sát hoạt động xả thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo đúng hợp đồng đã ký kết; lắp đặt đồng hồ đo lưu lượng nước thải của cá c cơ sở đổ vào nhà máy xử lý nước thải tập trung và bảo đảm các công trình xử lý nước thải, công trình thu gom, phân loại, lưu giữ tạm thời và xử lý chất thải rắn của KKT, KCNC, KCN và CCN hoạt động đúng kỹ thuật. 43 *Phụ Lục Tình hình các KCN,KCX VN tháng 9/2008 Ngµy Chủ đầu tư DiÖn tÝch (ha) STT Tªn KCN, KCX Địa Phương cÊp Xây dựng ®Êt tù ®Êt CN cã thÓ ®· cho tû lÖ phÐp CSHT nhiªn cho thuª thuª (%) (ha) (ha) (ha) I KCN ®· thµnh lËp vµ vËn hµnh 1 §µ N½ng §µ N½ng 1994 Malaysia - ViÖt Nam 50 43 36 83.7 2 Liªn ChiÓu §µ N½ng 1998 ViÖt Nam 374 300 129 43.0 3 Hoµ CÇm §µ N½ng 2003 ViÖt Nam 137 74 60 80.9 4 Hoµ Kh¸nh (G§1+MR) §µ N½ng 1997 2004 ViÖt Nam 572 358 316 88.3 5 T©m Th¾ng §¾k N«ng 2002 ViÖt Nam 181 131 56 42.4 6 Biªn hoµ II §ång Nai 1995 ViÖt Nam 365 261 261 100.0 7 Gß DÇu §ång Nai 1995 ViÖt Nam 184 137 137 100.0 8 Nh¬n Tr¹ch I §ång Nai 1995 ViÖt Nam 430 311 275 88.3 9 LOTECO §ång Nai 1996 NhËt B¶n - ViÖt Nam 100 72 72 100.0 10 Nh¬n Tr¹ch III (G§1 & 2) §ång Nai 1997 ViÖt Nam 688 461 313 67.8 11 S«ng M©y (G§1 & 2) §ång Nai 1998 2007 ViÖt Nam 474 334 132 39.5 12 Biªn hoµ I §ång Nai 2000 ViÖt Nam 335 248 248 100.0 13 DÖt may Nh¬n Tr¹ch §ång Nai 2003 ViÖt Nam 184 121 86 71.1 14 Long Thµnh §ång Nai 2003 ViÖt Nam 488 283 206 72.8 15 Nh¬n Tr¹ch V §ång Nai 2003 ViÖt Nam 302 205 160 77.9 16 Tam Phíc §ång Nai 2003 ViÖt Nam 323 215 215 100.0 17 §Þnh Qu¸n §ång Nai 2004 ViÖt Nam 54 38 38 100.0 18 Bµu XÐo §ång Nai 2006 ViÖt Nam 500 328 307 93.4 19 Nh¬n Tr¹ch 2 - Léc Khang §ång Nai 2006 ViÖt Nam 70 43 27 63.5 44 20 Long B×nh (Amata) (G§1&2 vµ më réng) §ång Nai 1994 2007 2008 Th¸i Lan -ViÖt Nam 494 314 190 60.5 21 Nh¬n Tr¹ch II (G§1 & 2) §ång Nai 1997 2005 ViÖt Nam 347 257 257 100.0 22 Hè Nai (G§1 & 2) §ång Nai 1998 2007 ViÖt Nam 497 301 129 42.9 23 Sa §Ðc (G§ 1&MR) §ång Th¸p 1998 2006 ViÖt Nam 132 93 93 100.0 24 Long Mü (G§ 1) B×nh §Þnh 2004 ViÖt Nam 100 73 63 86.2 25 Phó Tµi (G§ 1, 2, 3 &MR) B×nh §Þnh 1998 2003 ViÖt Nam 348 244 241 98.9 26 Sãng ThÇn I B×nh D¬ng 1995 ViÖt Nam 180 154 151 97.8 27 §ång An B×nh D¬ng 1996 ViÖt Nam 139 93 92 99.5 28 Sãng ThÇn II B×nh D¬ng 1996 ViÖt Nam 319 194 203 104.7 29 ViÖt H¬ng B×nh D¬ng 1996 ViÖt Nam 36 25 25 98.0 30 B×nh §êng B×nh D¬ng 1997 ViÖt Nam 17 14 14 99.6 31 T©n §«ng HiÖp A B×nh D¬ng 2001 ViÖt Nam 53 37 40 106.9 32 Mü Phíc B×nh D¬ng 2002 ViÖt Nam 377 267 236 88.5 33 T©n §«ng HiÖp B B×nh D¬ng 2002 ViÖt Nam 193 108 76 70.0 34 DÖt may B×nh An B×nh D¬ng 2004 ViÖt Nam 24 18 16 86.3 35 Mai Trung B×nh D¬ng 2005 ViÖt Nam 51 35 23 64.3 36 Mü Phíc II B×nh D¬ng 2005 ViÖt Nam 471 329 333 101.3 37 Nam T©n Uyªn B×nh D¬ng 2005 ViÖt Nam 331 204 105 51.6 38 ViÖt Nam - Singapore (1&2) B×nh D¬ng 1996 2004 Singapore - ViÖt Nam 845 660 582 88.2 39 ViÖt H¬ng II B×nh D¬ng 2004 2007 ViÖt Nam 250 168 89 53.0 40 Phan ThiÕt (G§ 1&2) B×nh ThuËn 1998 2007 ViÖt Nam 164 103 50 48.6 41 Song Khª - Néi Hoµng B¾c Giang 2007 ViÖt Nam 180 107 52 49.0 42 §×nh Tr¸m (G§ 1&2) B¾c Giang 2003 2005 ViÖt Nam 98 69 68 98.5 43 §¹i §ång - Hoµn S¬n B¾c Ninh 2005 ViÖt Nam 284 194 130 67.0 44 Tiªn S¬n (G§1&MR) B¾c Ninh 1998 2004 ViÖt Nam 349 239 216 90.3 45 QuÕ Vâ (G§1&MR) B¾c Ninh 2002 2007 ViÖt Nam 637 434 336 77.4 46 §«ng Xuyªn BR-VT 1996 ViÖt Nam 161 129 125 96.7 45 47 Phó Mü I BR-VT 1998 ViÖt Nam 954 651 614 94.4 48 C¸i MÐp BR-VT 2002 ViÖt Nam 670 449 165 36.8 49 Mü Xu©n A BR-VT 1996 2002 ViÖt Nam 302 228 215 94.1 50 Mü Xu©n B1 BR-VT 1998 2006 2007 ViÖt Nam 573 390 64 16.5 51 Mü Xu©n A2 (g®1+mr) BR-VT 2001 2007 §µi Loan - ViÖt Nam 422 292 105 35.8 52 Trµ Nãc I CÇn Th¬ 1995 ViÖt Nam 135 113 113 100.0 53 Trµ Nãc II CÇn Th¬ 1998 ViÖt Nam 165 107 96 90.1 54 Trµ §a Gia Lai 2003 ViÖt Nam 109 80 69 85.6 55 §ång V¨n I Hµ Nam 2003 ViÖt Nam 138 104 102 98.6 56 Ch©u S¬n Hµ Nam 2006 ViÖt Nam 170 119 80 67.4 57 Néi Bµi Hµ Néi 1994 Malaysia - ViÖt Nam 100 66 66 100.0 58 Hµ Néi - §µi T Hµ Néi 1995 ViÖt Nam - §µi Loan 40 32 6 18.8 59 Sµi §ång B Hµ Néi 1996 ViÖt Nam 73 51 49 96.1 60 Th¨ng Long (G§ 1,2&3) Hµ Néi 1997 2002 2006 NhËt B¶n - ViÖt Nam 274 206 148 71.8 61 §¹i An H¶i D¬ng 2003 ViÖt Nam 171 109 84 76.4 61b §¹i An (më réng) H¶i D¬ng 2007 ViÖt Nam-§µi Loan 433 280 20 7.1 62 Nam S¸ch H¶i D¬ng 2003 ViÖt Nam 64 44 44 100.0 63 Phóc §iÒn H¶i D¬ng 2003 ViÖt Nam 87 59 59 99.6 64 Tµu thñy Lai Vu H¶i D¬ng 2007 ViÖt Nam 213 137 137 100.0 65 Nomura - H¶i Phßng H¶i Phßng 1994 NhËt B¶n - ViÖt Nam 153 123 104 84.0 66 §å S¬n H¶i Phßng 1997 Hång K«ng - ViÖt Nam 150 97 23 24.1 67 Phè Nèi B (DÖt may - G§ 1&2) Hng Yªn 2003 ViÖt Nam 128 80 16 20.0 68 Phè Nèi A Hng Yªn 2004 ViÖt Nam 390 274 195 71.2 69 Suèi DÇu Kh¸nh Hßa 1997 ViÖt Nam 78 47 40 85.5 46 69b Suèi DÇu g® 2 Kh¸nh Hßa 2007 ViÖt Nam 59 35 2 5.6 70 Léc S¬n L©m §ång 2003 ViÖt Nam 94 65 48 73.5 71 §øc Hoµ I (G§ 1&2) Long An 1997 §µi Loan - ViÖt Nam 274 183 74 40.3 72 ThuËn §¹o - BÕn Løc Long An 2003 §µi Loan - ViÖt Nam 114 104 93 89.5 73 T©n §øc (G§ 1 &2) Long An 2004 2008 ViÖt nam 544 373 163 43.8 74 Long HËu Long An 2006 ViÖt Nam 142 91 71 78.6 75 Hoµ X¸ Nam §Þnh 2003 ViÖt Nam 328 206 206 100.0 76 B¾c Vinh NghÖ An 1998 ViÖt Nam 60 42 30 71.2 77 Trung Hµ Phó Thä 2005 ViÖt Nam 126 87 49 55.9 78 Thuþ V©n (G§ 1, 2 &3) Phó Thä 1997 2003 2004 ViÖt Nam 306 221 122 55.2 79 Hoµ HiÖp Phó Yªn 1998 ViÖt Nam 102 62 48 77.2 80 T©y B¾c §ång Híi Qu¶ng B×nh 2005 ViÖt Nam 66 41 34 82.6 81 §iÖn Nam-§iÖn Ngäc (G§ 1&MR) Qu¶ng Nam 1996 2005 ViÖt Nam 390 251 172 68.6 82 TÞnh Phong Qu¶ng Ng·i 1997 ViÖt Nam 142 101 45 44.6 83 Qu¶ng Phó Qu¶ng Ng·i 1998 ViÖt Nam 120 93 61 65.9 84 C¸i L©n Qu¶ng Ninh 1997 ViÖt Nam 78 45 40 88.0 84b C¸i L©n më réng Qu¶ng Ninh 2004 ViÖt Nam 200 133 115 86.6 85 Nam §«ng Hµ Qu¶ng TrÞ 2004 ViÖt Nam 99 62 34 54.8 86 An NghiÖp Sãc Tr¨ng 2005 ViÖt Nam 257 178 110 61.9 87 Linh Trung III T©y Ninh 2002 Trung Quèc - ViÖt Nam 203 126 76 60.4 88 Tr¶ng Bµng (G§ 1&2) T©y Ninh 1999 2003 ViÖt Nam 191 135 125 92.7 89 Phóc Kh¸nh Th¸i B×nh 2002 §µi Loan 120 74 70 94.7 90 NguyÔn §øc C¶nh Th¸i B×nh 2005 ViÖt Nam 68 44 44 100.0 91 S«ng C«ng I Th¸i Nguyªn 1999 ViÖt Nam 69 48 49 102.9 92 LÔ M«n Thanh Ho¸ 1998 ViÖt Nam 88 60 53 87.4 93 Phó Bµi (G§ 1&2) Thõa Thiªn HuÕ 1998 2004 ViÖt Nam 184 123 84 68.6 47 93b Phó Bµi g® III Thõa Thiªn HuÕ 2007 Hµn Quèc 85 55 94 Mü Tho TiÒn Giang 1997 ViÖt Nam 79 60 60 100.0 95 KCX T©n ThuËn TP. HCM 1991 §µi Loan - ViÖt Nam 300 196 150 76.7 96 KCX Linh Trung 1 TP. HCM 1992 Trung Quèc - ViÖt Nam 62 42 42 100.0 97 B×nh ChiÓu TP. HCM 1996 ViÖt Nam 27 21 21 100.0 98 HiÖp Phíc TP. HCM 1996 ViÖt Nam 311 222 200 90.2 99 T©n T¹o TP. HCM 1996 ViÖt Nam 381 197 191 97.2 100 KCX Linh Trung 2 TP. HCM 1997 Trung Quèc - ViÖt Nam 62 47 47 100.0 101 Lª Minh Xu©n TP. HCM 1997 ViÖt Nam 100 66 66 100.0 102 T©n B×nh TP. HCM 1997 ViÖt Nam 110 77 77 100.0 103 T©n Thíi HiÖp TP. HCM 1997 ViÖt Nam 29 21 21 100.0 104 T©y B¾c Cñ Chi TP. HCM 1997 ViÖt Nam 207 145 133 91.6 105 VÜnh Léc TP. HCM 1997 ViÖt Nam 203 124 117 94.3 106 C¸t L¸i (II) TP. HCM 2003 ViÖt Nam 112 72 50 69.3 107 Hoµ Phó VÜnh Long 2004 ViÖt Nam 136 93 93 100.0 108 Quang Minh VÜnh Phóc 2004 ViÖt Nam 344 221 221 100.0 109 Khai Quang VÜnh Phóc 2006 ViÖt Nam 262 171 126 73.9 110 B×nh Xuyªn VÜnh Phóc 2007 ViÖt Nam 271 163 88 54.0 110 Tæng KCN ®· vËn hµnh (I) 26382 17938 #### 74.4 II KCN ®· thµnh lËp vµ ®ang x©y dùng c¬ b¶n 1 An Phíc §ång Nai 2003 ViÖt Nam 130 91 2 Nh¬n Tr¹ch VI §ång Nai 2005 ViÖt Nam 319 220 3 N. Tr¹ch II - Nh¬n Phó §ång Nai 2006 ViÖt Nam 183 108 2 2.1 4 Th¹nh Phó §ång Nai 2006 ViÖt Nam 177 122 58 47.6 5 Xu©n Léc §ång Nai 2006 ViÖt Nam 109 64 29 45.9 6 Agtex Long B×nh §ång Nai 2007 ViÖt Nam 43 28 24 87.7 7 Long §øc §ång Nai 2007 ViÖt Nam 283 183 8 T©n Phó §ång Nai 2007 ViÖt Nam 54 35 48 9 Ông Kèo §ång Nai 2008 ViÖt Nam 823 503 386 76.8 10 TrÇn Quèc To¶n §ång Th¸p 2006 ViÖt Nam 58 39 13 32.2 11 B×nh Long An Giang 2007 ViÖt Nam 29 17 12 R¹ch B¾p B×nh D¬ng 2005 ViÖt Nam 279 188 13 Kim Huy B×nh D¬ng 2006 ViÖt Nam 213 144 11 7.3 14 §ång An 2 B×nh D¬ng 2007 ViÖt Nam 158 101 15 §Êt Cuèc B×nh D¬ng 2007 ViÖt Nam 213 138 1 0.4 16 An T©y B×nh D¬ng 2007 Singapore 500 335 17 Bµu Bµng B×nh D¬ng 2007 ViÖt Nam 998 700 9 1.3 18 Phó Gia B×nh D¬ng 2007 ViÖt Nam 133 92 16 17.2 19 Sãng ThÇn 3 B×nh D¬ng 2007 ViÖt Nam 534 385 61 15.8 20 Ch¬n Thµnh B×nh Phíc 2003 ViÖt Nam 115 73 20 26.7 21 Minh Hng B×nh Phíc 2007 Hµn Quèc 194 125 67 53.8 22 Hµm KiÖm I B×nh ThuËn 2007 ViÖt Nam 143 91 23 Hµm KiÖm II B×nh ThuËn 2007 ViÖt Nam 436 279 24 Quang Ch©u B¾c Giang 2006 ViÖt Nam 426 275 0 25 V©n Trung B¾c Giang 2007 ViÖt Nam - Trung Quèc 433 259 26 Thanh B×nh B¾c K¹n 2007 ViÖt Nam 74 51 27 Yªn Phong B¾c Ninh 2006 ViÖt Nam 341 206 103 50.0 28 VSIP B¾c Ninh B¾c Ninh 2007 ViÖt Nam - Singapore 700 485 29 Nam S¬n - H¹p LÜnh B¾c Ninh 2008 Hµn Quèc 603 392 30 Giao Long BÕn Tre 2005 ViÖt Nam 99 66 28 42.1 31 Phó Mü II BR-VT 2004 ViÖt Nam 621 373 160 42.9 32 Phó Mü III BR-VT 2007 ViÖt Nam 994 630 0 0.0 33 Kh¸nh An (G§ 1&2) Cµ Mau 2004 2007 ViÖt Nam 360 217 3 1.2 34 Hng Phó I (G§ 1&2) CÇn Th¬ 2004 ViÖt Nam 262 212 30 14.1 35 §Ò Th¸m Cao B»ng 2008 ViÖt Nam 62 36 B×nh Vµng Hµ Giang 2008 ViÖt Nam 143 49 37 §ång V¨n II Hµ Nam 2006 ViÖt Nam 264 177 11 6.4 38 Nam Th¨ng Long (G§ 1) Hµ Néi 2001 ViÖt Nam 30 21 10 47.0 39 Phó NghÜa Hµ T©y 2007 ViÖt Nam 170 126 40 Th¹ch ThÊt - Quèc Oai Hµ T©y 2007 ViÖt Nam 156 101 41 Phông HiÖp Hµ T©y 2008 ViÖt Nam 175 42 T©n Trêng H¶i D¬ng 2005 ViÖt Nam 199 132 40 30.1 43 ViÖt Hoµ - Kenmark H¶i D¬ng 2007 §µi Loan 46 31 9 27.4 44 Céng Hoµ H¶i D¬ng 2008 ViÖt Nam 357 232 45 CÈm §iÒn - L¬ng §iÒn H¶i D¬ng 2008 ViÖt Nam 184 124 46 Lai C¸ch H¶i D¬ng 2008 ViÖt Nam 132 91 47 Trµng DuÖ H¶i Phßng 2007 ViÖt Nam 150 119 48 S«ng HËu HËu Giang 2006 ViÖt Nam 126 80 49 Th¨ng Long II (mr PNB) Hng Yªn 2006 NhËt B¶n 220 155 50 Minh §øc Hng Yªn 2007 ViÖt Nam 198 130 51 L¬ng S¬n Hoµ B×nh 2007 ViÖt Nam 71 50 3 6.7 52 Sao Mai (G§ 1) Kon Tum 2005 ViÖt Nam 79 43 53 Th¹nh Léc Kiªn Giang 2008 ViÖt Nam 249 54 Trµ Kha Kiªn Giang 2008 ViÖt Nam 66 55 Xuyªn ¸ Long An 1997 ViÖt Nam 306 199 81 40.8 56 T©n Kim Long An 2003 ViÖt Nam 104 67 20 30.3 57 VÜnh Léc 2 Long An 2005 ViÖt Nam 226 136 58 Th¹nh §øc Long An 2006 ViÖt Nam 256 165 59 CÇu Trµm Long An 2007 ViÖt Nam 78 54 60 Nhùt Ch¸nh Long An 2007 ViÖt Nam 125 74 15 20.5 61 §«ng Nam ¸ Long An 2008 Anh 106 62 §øc Hßa III - Minh Ng©n Long An 2008 ViÖt Nam 147 111,39 63 Th¸i Hßa Long An 2008 ViÖt Nam 100 64 §øc Hßa III - Resco Long An 2008 ViÖt Nam 296 65 Mü Trung Nam §Þnh 2006 ViÖt Nam 145 98 10 10.2 50 66 Ninh Phóc (G§ 1& MR) Ninh B×nh 2003 ViÖt Nam 334 232 86 37.2 67 Phíc Nam Ninh ThuËn 2006 ViÖt Nam 370 247 68 Hßn La (G§ 1) Qu¶ng B×nh 2005 ViÖt Nam 98 78 10 12.8 69 H¶i Yªn Qu¶ng Ninh 2005 ViÖt Nam 193 112 1 0.6 70 ViÖt Hng Qu¶ng Ninh 2006 ViÖt Nam 301 200 5 2.7 71 Phong Thu Thõa Thiªn HuÕ 2007 Hµn Quèc 100 72 T©n H¬ng (G§ 1) TiÒn Giang 2004 ViÖt Nam 197 119 44 37.5 73 T©n H¬ng më réng TiÒn Giang 2007 ViÖt Nam 59 44 74 Long Giang TiÒn Giang 2007 Trung Quèc 540 357 75 C¸t L¸i (IV) TP. HCM 1997 ViÖt Nam 134 90 76 Phong Phó TP. HCM 2002 ViÖt Nam 148 114 77 T©n Phó Trung TP. HCM 2004 ViÖt Nam 543 300 78 Long §øc Trµ Vinh 2005 ViÖt Nam 100 62 5 8.1 79 Long B×nh An Tuyªn Quang 2007 ViÖt Nam 109 69 80 B×nh Minh VÜnh Long 2007 ViÖt Nam 132 92 81 Kim Hoa VÜnh Phóc 1998 ViÖt Nam 117 70 40 56.9 82 B¸ ThiÖn VÜnh Phóc 2007 §µi Loan 327 226 100 44.2 83 Quang Minh II VÜnh Phóc 2007 §µi Loan 267 176 94 53.5 84 PhÝa Nam Yªn B¸i Yªn B¸i 2007 ViÖt Nam 138 82 84 Tæng KCN ®ang XDCB (II) 20206 12302 1605 13.0 194 Tæng KCN c¶ níc (I+II) 46588 30239 #### 87 51 Tài liệu tham khảo: 1)Giáo trình Kinh Tế Đầu Tư 2)Giáo trình Kinh Tế Phát Triển. 3) 4) 5) 52 MỤC LỤC Chương 1: Lý Thuyết Chung Về Đầu Tư Phát Triển KCN ................................ 2 I/Lý Thuyết Chung: ........................................................................................... 2 1) Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước.......................................... 2 2) Phân loại đầu tư: ........................................................................................ 2 3) Khu công nghiệp: ....................................................................................... 4 II/Nội Dung Đầu Tư Phát Triển Khu Công Nghiệp: ........................................ 4 1) Vai Trò Của Đầu Tư Phát Triển: .............................................................. 4 2) Sự cần thiết trong việc thu hút đầu tư xây dựng các khu công nghiệp.... 4 III)Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển khu công nghiệp: ................................................................................................................ 5 a)Vị trí địa lý ................................................................................................... 5 b)Vị trí kinh tế xã hội: .................................................................................... 5 c)Kết cấu hạn tầng:......................................................................................... 6 d)Thị trường ................................................................................................... 6 e)Vốn đầu tư nước ngoài: ............................................................................... 6 Chương II: Thực Trạng Đầu Tư Phát Triển Vào Các KCN ở VN ..................... 7 I/Đầu tư hạ tầng và sản xuất khu công nghiệp: ................................................ 7 Bảng giá trị sản lượng và xuất khẩu các doanh nghiệp KCN ............................. 8 II/Kết quả và hạn chế trong đầu tư phát triển KCN: .................................... 17 1) Những thành tựu đạt được ...................................................................... 17 B.1) Hình thành hệ thống các KCN trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH cả nước; quy hoạch phát triển ngành, địa phương và vùng lãnh thổ............................................................................................ 17 B.2) KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, ........................................................................ 18 53 B.3) KCN đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài không chỉ đối với địa phương có KCN mà còn góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước. ................................................. 18 B.4) KCN có tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương theo hướng CNH, HĐH, đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của cả nước, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế. ............................................................... 19 B.5) Các KCN sử dụng ngày càng hiệu qua cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế. ......... 21 B.6) Các KCN đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội ............................................. 21 B.7) KCN đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. ...... 22 B.8) Các KCN có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành, lĩnh vực ............................................................................. 22 B.9) Mô hình quản lý - áp dụng cơ chế "một cửa, tại chỗ" đối với KCN ..... 23 2)Những hạn chế trong đầu tư vào khu công nghiệp: .................................... 25 a)Thủ tục đầu tư vào khu công nghiệp_khu chế xuất còn rườm rà ........... 25 B)Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất giảm mạnh:........... 26 C)Chất lượng quy hoạch c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Thực Trạng Đầu Tư Phát Triển Vào Các KCN ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan