Luận văn Sự nghiệp phê bình thơ của Xuân Diệu

Tài liệu Luận văn Sự nghiệp phê bình thơ của Xuân Diệu: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÁI NGUYÊN ------------&------------- ĐÀO THỊ THU HIỀN SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH THƠ CỦA XUÂN DIỆU LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN Thái Nguyên – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------&------------- ĐÀO THỊ THU HIỀN SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH THƠ CỦA XUÂN DIỆU Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ Thái Nguyên – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 MỤC LỤC Trang Mở Đầu 1 Chƣơng 1- Phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX và vị trí của Xuân Diệu trong nền phê bình văn học 8 1.1. Vài nét về phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX 8 1.2. Vị trí của Xuân Diệu trong nền phê bình văn họcViệt Nam thế kỷ XX 13 1.3. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ và phê bình thơ 17 1.3.1. ...

pdf147 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1123 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Sự nghiệp phê bình thơ của Xuân Diệu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÁI NGUYÊN ------------&------------- ĐÀO THỊ THU HIỀN SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH THƠ CỦA XUÂN DIỆU LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN Thái Nguyên – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------&------------- ĐÀO THỊ THU HIỀN SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH THƠ CỦA XUÂN DIỆU Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ Thái Nguyên – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 MỤC LỤC Trang Mở Đầu 1 Chƣơng 1- Phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX và vị trí của Xuân Diệu trong nền phê bình văn học 8 1.1. Vài nét về phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX 8 1.2. Vị trí của Xuân Diệu trong nền phê bình văn họcViệt Nam thế kỷ XX 13 1.3. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ và phê bình thơ 17 1.3.1. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ 17 1.3.2. Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ 33 Chƣơng 2- Đóng góp của Xuân Diệu trong việc tôn vinh các giá trị thơ ca dân tộc 45 2.1. Xuân Diệu với gia tài văn học cổ điển của dân tộc 45 2.1.1. Chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi trong thơ Nôm 46 2.1.2. Những phát hiện về chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du 51 2.1.3. Giá trị đích thực và vẻ đẹp của thơ Nôm Hồ Xuân Hương 57 2.1.4. Nguyễn Khuyến- Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam 63 2.2. Xuân Diệu với nền thơ Việt Nam hiện đại. 68 2.2.1. Vẻ đẹp tâm hồn Bác trong tập thơ Nhật ký trong tù 69 2.2.2. Tố Hữu- Nhà thơ của tình thương mến 72 2.2.3. Nét đặc sắc của hồn thơ Huy Cận 79 2.2.4. Trần Đăng khoa- Một hồn thơ nhạy cảm, với những vần thơ “hồn nhiên như một bình minh ríu rít” 83 Chƣơng 3- Một số đặc điểm trong phong cách nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu 90 3.1. Tìm hiểu nội dung tư tưởng tác phẩm bằng cách đi sâu khám phá hình thức nghệ thuật thơ 91 3.2. Kết hợp bình và giảng 101 3.3. Lối phê bình giàu tính trực cảm 112 3.4. Cách hành văn sôi nổi mãnh liệt 117 4.4. Một số hạn chế 122 Kết luận 125 Tài liệu tham khảo 128 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Xuân Diệu (1916- 1985) là một trong những tác gia lớn, một tài năng đa dạng của nền văn học Việt Nam hiện đại, với một phong cách riêng đặc sắc. Hơn nửa thế kỷ cầm bút sáng tác, ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm lớn, và có giá trị lâu dài ở nhiều thể loại : thơ, văn xuôi, nghiên cứu phê bình , dịch thuật. Với nhà thơ tài năng này, ở thể loại nào ông cũng đạt được những thành tựu, in đậm dấu ấn riêng.Trong sự nghiệp sáng tạo của Xuân Diệu, bên cạnh phần sáng tác thơ mà ông dành phần lớn bút lực của đời mình, còn một mảng sáng tác không kém phần quan trọng, đó là phê bình tiểu luận. Bằng vốn hiều biết phong phú cùng với dụng công tìm tòi nghiên cứu và sự tinh tế nhạy cảm của một nhà thơ tài năng, bằng lối viết tràn đầy nhiệt tình, tràn đầy cảm xúc, Xuân Diệu đã mang đến cho những trang phê bình tiểu luận của mình một giọng điệu riêng độc đáo.Ông có nhiều công trình nghiên cứu phê bình thơ Việt Nam từ cổ điển đến hiện đại, bên cạnh đó ông còn phê bình giới thiệu thơ của nhiều tác giả nước ngoài. Gần hai chục tập tiểu luận phê bình và rải rác nhiều bài khác đăng trên các báo, tạp chí,khối lượng lớn những tác phẩm của ông trong lĩnh vực này đã phần nào khẳng định công phu lao động miệt mài của Xuân Diệu với tư cách một nhà nghiên cứu phê bình thơ. Từ trước đến nay, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu đã thu hút sự quan tâm của các cây bút nghiên cứu phê bình nhiều thế hệ. Đặc biệt số lượng bài viết về thơ Xuân Diệu rất phong phú. Điều đó đã nói lên rằng giới nghiên cứu phê bình văn học nước ta ngày càng nhận thấy giá trị lớn lao của Xuân Diệu trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Mặc dầu vậy phần đóng góp rất quan trọng của Xuân Diệu đối với phê bình văn chương chưa được nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 đánh giá một cách công phu và đầy đủ. Số lượng bài viết về lĩnh vực này còn rất ít ỏi. Vì vậy luận văn chọn đề tài “Sự nghiệp nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu” hy vọng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu đánh giá vị trí vai trò và ý nghĩa của cây bút nghiên cứu phê bình thơ Xuân Diệu trong nền nghiên cứu phê bình thơ Việt Nam hiện đại, ghi nhận những thành tựu to lớn của ông, phát huy những tư tưởng và phong cách riêng độc đáo của ông . Xuân Diệu là một trong số các tác gia được chọn đưa vào giảng dạy ở trường trung học phổ thông. Điều này đã nói lên vị trí của Xuân Diệu trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên để góp phần hiểu Xuân Diệu một cách đầy đủ hơn thì không thể không nghiên cứu mảng phê bình của ông. Bởi ở đây nhà thơ, nhà phê bình Xuân Diệu bộc lộ những quan niệm, những suy nghĩ của bản thân về sáng tác thơ ca. Là người trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông chúng tôi thấy việc tìm hiểu Xuân Diệu ở phương diện nhà phê bình thơ là hết sức cần thiết. Nó sẽ giúp chúng ta hiểu rõ Xuân Diệu ở phương diện nhà thơ. Bởi Xuân Diệu viết phê bình với kinh nghiệm của “ người làm vườn vĩnh cửu”, kinh nghiệm của một nhà thơ lớn có nhiều đóng góp cho nền thơ ca dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề: Là một gương mặt sáng giá của văn học Việt Nam hiện đại, thơ và văn của Xuân Diệu đã được sự quan tâm thường xuyên của giới nghiên cứu phê bình văn học đã có những công trình nghiên cứu công phu tâm huyết, có nhiều khám phá sáng tạo về tác gia Xuân Diệu trên các chặng đường sáng tác, nhưng hoạt động nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu chưa được nghiên cứu một cách đúng mức. 2.1 Những đánh giá chung về di sản nghiên cứu phê bình của Xuân Diệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Đa số các bài nghiên cứu về Xuân Diệu chủ yếu đi sâu vào sự nghiệp thơ cũng như văn xuôi, chỉ nói qua, nói lướt đến công việc nghiên cứu phê bình thơ của ông- như bài viết của các tác giả: Nguyễn Duy Bình, Huy Cận, Nam Chi, Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Trung Thông. Ở bài nghiên cứu Xuân Diệu thuộc quyển “ Nhà thơ Việt Nam hiện đại”, bên cạnh việc chủ yếu phân tích quá trình Xuân Diệu trưởng thành trong sáng tác thơ sau cách mạng Mã Giang Lân phát hiện một số đóng góp của ông trong hoạt động phê bình giới thiệu thơ, dịch thơ: “Ưu thế về kinh nghiệm sáng tác, năng lực cảm thụ thơ tinh tế, cách xâu chuỗi, phát hiện, phân tích, liên tưởng độc đáo, khen nhiều chê ít, làm cho các tác giả thơ như được xuân hoá trẻ thêm” Trong cuốn Nhà văn Việt Nam tập I, ở bài Xuân Diệu, giáo sư Hà Minh Đức là người đầu tiên đã nêu lên một số nhận xét khái quát về mảng nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Ông khẳng định một tấm gương cần mẫn đối với thơ cổ điển, thơ hiện đại, suy nghĩ về chất lượng thơ và công việc phê bình thơ, giới thiệu thơ nước các nước và dịch; một diễn giả hăng say giao tiếp, giao cảm, có mặt ở tất cả các hoạt động của thơ, đưa thơ về với cuộc sống. Giáo sư đã có những nhận xét xác đáng, chẳng hạn “ Xuân Diệu có khả năng tự phân tích và trình bày sáng tỏ những diễn biến của mạch tư tưởng và cảm xúc ngay ở những khía cạnh uẩn khúc và khó diễn đạt. Anh thường lấy thực tế sáng tác thơ ca của mình từ trong quá trình sáng tạo đến thành quả cụ thể để chứng minh cho những vấn đề lý luận mà anh đề xuất” Trong Từ điển văn học hoạt động phê bình của ông được Nguyễn văn Long nêu ngắn gọn “ Bằng một vốn hiểu biết phong phú và sự tinh nhạy của nhà thơ, với lối viết văn tràn đầy nhiệt tình, cảm xúc, những tác phẩm phê bình, tiểu luận , bút ký của Xuân Diệu có một tiếng nói riêng đáng chú ý”. Cũng trong cuốn này Phan Cự Đệ ,Trần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Hữu Tá có đánh giá công lao đóng góp của Xuân Diệu cùng Đặng Thai Mai, Xuân Trường, Hồng Chương.. trong đội ngũ lực lượng phê bình, đã kịp thời phát huy vai trò của người chiến sỹ trên mặt trận đấu tranh tư tưởng của Đảng bằng nhiều tiểu luận có giá trị và có tính chiến đấu cao.Trong quyển sưu tập dày dặn Xuân Diệu Tác phẩm văn chƣơng và lao động nghệ thuật (1999) tác giả Lưu Khánh Thơ dành khoảng hai mươi trang giới thiệu khái quát về những đóng góp của Xuân Diệu trong phê bình văn chương, phần còn lại của cuốn sách chủ yếu tuyển chọn và giới thiệu những bài nghiên cứu về thơ của Xuân Diệu . Với bài Xuân Diệu in trong giáo trình Văn học Việt Nam 1945- 1975 tập II, Nguyễn Trác nhìn nhận bên cạnh “ Xuân Diệu- nhà sáng tác thơ văn” còn có “ Xuân Diệu- nhà bút ký, tiểu luận phê bình văn học”. Bài viết chỉ ra những hướng chính mà Xuân Diệu gắn bó trong suốt sự nghiệp văn học của mình: Dìu dắt các nhà thơ lớp sau, giới thiệu các phong trào thơ quần chúng, phát hiện cái hay cái đẹp ở các nhà thơ ưu tú, đi sâu vào thế giới tâm tình những nhà thơ nổi tiếng của dân tộc, dịch và giới thiệu thơ nước ngoài. Bên cạnh đó , Nguyễn Trác còn chú ý phát hiện một số nét phong cách phê bình của Xuân Diệu với “ Nghệ thuật diễn đạt mạnh bạo, hồn nhiên từ rất khoẻ, ý rất mạnh, tạo được những hình ảnh, những câu lý thú không thể quên trong phê bình văn học” Nói đến Xuân Diệu là người ta nhớ ngay đó là một nhà thơ nổi tiếng, ít người quan niệm được đầy đủ rằng ông còn là một nhà nghiên cứu phê bình thơ lỗi lạc. 2.2 Những bài nghiên cứu trực tiếp bàn về một số tập phê bình tiểu luận của Xuân Diệu Trước cách mạng hầu như chưa có ai nghiên cứu về phê bình thơ Xuân Diệu. Sau hoà bình lập lại, có thể nói người đầu tiên bàn về tiểu luận phê bình của Xuân Diệu là Chế Lan Viên, với bài “Đọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 những bước đường tư tưởng của tôi”. Chủ yếu Chế Lan Viên đã khen cái lý sống trong thể động của Xuân Diệu sau cách mạng và khen cái tình ở nhà tiểu luận có lý này. Chế Lan Viên cũng chỉ ra những nhược điểm chính của nhà phê bình Xuân Diệu lúc bấy giờ là “ còn thiếu thực tế, thiếu vốn sống, nói quá ít đến những sự việc của thế giới xung quanh anh sau cách mạng”. Sau đó mỗi khi một tập tiểu luận phê bình của Xuân Diệu ra đời lại có một vài bài viết trên báo đánh giá ưu khuyết về tập đó. Chẳng hạn: Phê bình giới thiệu thơ(Lê Đình kỵ, Nam Mộc), Dao có mài mới sắc (Đông Hoài), Và cây đời mãi mãi xanh tƣơi (Nguyễn Xuân Nam), Mài sắt nên kim (Vũ Quần Phương), lƣợng thông tin và những kỹ sƣ tâm hồn ấy (Chế Lan Viên, Thiếu Mai), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (Mai Quốc Liên, Triều Dương, Vương Trí Nhàn), ngoài ra còn có một số ý kiến điểm sách ngắn… những bài này thường nêu nhận xét khen chê cụ thể một số đoạn, bài trong từng tập hoặc cả tập Phần lớn các bài báo, các tiểu luận đề cập đến những công trình nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu chủ yếu từ sau Cách mạng tháng Tám, ít nhiều đã khẳng định đóng góp của ông trong thời đại mới của thi ca dân tộc. Các tác giả thống nhất khi nói đến cách phê bình phát hiện, tìm tòi, sự nghiên cứu công phu, tài thẩm thơ tinh tế , khiếu thẩm mỹ sành và nhuyễn, tính trung thực, tính chiến đấu, tính sáng tạo của Xuân Diệu- một cây bút phê bình có bản sắc….song đó mới chỉ là những nhận xét chung, những nhận định quá ngắn, hoặc lẻ tẻ từng phương diện.Cho đến năm 2000,chưa có những công trình nghiên cứu, đánh giá toàn diện, nhiều mặt một cách có hệ thống các hoạt động phê bình giới thiệu thơ của Xuân Diệu. Thời gian gần đây sự nghiệp nghiên cứu phê bình của Xuân Diệu đã được chú ý một cách thoả đáng hơn. Đã trở thành đối tượng nghiên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 cứu của một số công trình, bài viết, của một vài luận án và luận văn. Đặc biệt là hai tác giả Trần Thị Thanh Hà và Phan Ngọc Thu đã đi vào tìm hiểu những thành tựu trong công việc nghiên cứu phê bình văn học của Xuân Diệu Trên cơ sở tiếp thu và kế thừa ý kiến của những người đi trước chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Sự nghiệp nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu”, với suy nghĩ rằng, đối với những tác gia lớn của một nền văn học cần có nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau. Trong một chừng mực nhất định, chúng tôi đã cố gắng đưa ra một cách nhìn và những cảm nhận mới về những đóng góp đáng trân trọng trong sự nghiệp phê bình thơ của Xuân Diệu. 3.Nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu. Qua việc tìm hiểu những công trình, bài viết nghiên cứu trước đây về phê bình văn học nói chung và phê bình văn học của Xuân Diệu nói riêng luận văn sẽ hướng tới các nhiệm vụ sau: Luận văn sẽ chỉ ra vị trí của nhà phê bình Xuân Diệu trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX Tìm hiểu một cách hệ thống và tương đối toàn diện về thành tựu và bản sắc trong phê bình thơ của Xuân Diệu, bắt đầu từ quan niệm của ông về thơ và phê bình thơ, đến một số đóng góp cơ bản của ông trong việc nghiên cứu phê bình các hiện tượng thơ cụ thể, những đặc điểm nổi bật trong phong cách nghiên cứu phê bình thơ của ông Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các bài tiểu luận phê bình của Xuân Diệu mà chúng tôi thu thập được. Tuy nhiên trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, không thể nghiên cứu toàn bộ sự nghiệp phê bình của Xuân Diệu, luận văn chỉ tập trung đi sâu vào hai mảng cơ bản: nghiên cứu phê bình thơ cổ điển và thơ hiện đại. Không tiến hành nghiên cứu tất cả mọi hoạt động phê bình thơ, cũng như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 không xem xét tất cả các tác giả tác phẩm mà Xuân Diệu đã đề cập, chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu những hiện tượng nổi bật, thể hiện rõ quan niệm nhất quán của nhà thơ về thơ và phê bình thơ, để bước đầu nhận định về Xuân Diệu với tư cách nhà nghiên cứu phê bình thơ có nhiều đóng góp đối với nền thơ hiện đại Việt Nam 4.Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây: 4.1 Phương pháp hệ thống. Với quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ đặc điểm riêng trong thi pháp nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu, luận văn chú trọng tìm ra những thành tố tạo nên diện mạo và qui luật hoạt động nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Mọi đối tượng, mọi vẫn đề khảo sát được chúng tôi đặt trong tương quan, hệ thống, trong qui luật tác động lẫn nhau giữa quan niệm, tư tưởng, phương pháp và phong cách cùng thành tựu của nhà phê bình 4.2 Phương pháp thống kê, tổng hợp. Đối với từng thành tố luận văn thực hiện phương pháp thống kê tổng hợp, nhằm tập hợp các ý kiến của các nhà nghiên cứu phê bình văn học trong các bài viết, các sách báo…để có tư liệu phục vụ cho luận văn. 4.3 Phương pháp so sánh đối chiếu Luận văn sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh để khẳng định các mặt tiêu biểu và những nét độc đáo cá nhân về một phương diện trong sáng tác của Xuân Diệu: nghiên cứu phê bình thơ. 4.4 Ngoài ra trong luận văn này chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích văn học, phương pháp khái quát hoá và một số phương pháp khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 5 Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương Chƣơng 1: Vị trí và vai trò của Xuân Diệu trong nền phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX Chƣơng 2: Đóng góp của Xuân Diệu trong việc tôn vinh các giá trị thơ ca dân tộc Chƣơng 3: Một số đặc điểm trong phong cách nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Chƣơng 1 VÀI NÉT VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX VÀ VỊ TRÍ CỦA XUÂN DIỆU TRONG NỀN PHÊ BÌNH VĂN HỌC 1.1 VÀI NÉT VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX Phê bình văn học cùng với lịch sử văn học và lý luận văn học là ba bộ môn chính của khoa học văn học. Khái niệm phê bình văn học được các nhà nghiên cứu văn học bàn đến từ rất lâu và được tiếp nhận dưới nhiều góc độ, tiêu chí khác nhau. ở góc độ lý luận Biêlinski xem phê bình là “mĩ học đang vận động”. Về bản chất, đối tượng thì phê bình vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Còn trên ranh giới giữa sáng tạo và thưởng thức, phê bình văn học là chiếc cầu nối gắn kết hai công đoạn của một quá trình nghệ thuật và công chúng. Các nhà nghiên cứu văn học còn mở rộng thêm, phê bình văn học vừa là một hoạt động, vừa là một bộ môn khoa học về văn học. Phê bình văn học vừa tác động tới sự phát triển của văn học, vừa tác động đến độc giả góp phần hình thành thị hiếu thẩm mỹ cho quảng đại quần chúng. Là một môn khoa học, phê bình văn học “nhận thức các phương hướng vận động của văn học đương đại, tìm kiếm chỗ làm bàn đạp cho văn học đi tới, khám phá những nhân tố nghệ thuật có khả năng mở ra một quá trình văn học mới và chỉ ra những nhược điểm trong sáng tác so với nhu cầu của thời đại và nhu cầu của bản thân văn học” [18, 206].Theo Trần Đình Sử thì “phê bình văn học là hoạt động nghiên cứu, phán đoán giá trị đối với một hiện tượng văn học cụ thể bao gồm tác phẩm, nhà văn, tiếp nhận và cả lý luận phê bình xuất phát từ một quan niệm lý luận nhất định trên cơ sở cảm thụ, thưởng thức tác phẩm” [ 15, 665] . Như vậy văn học gắn liền với phê bình văn học. Có văn học thì có phê bình văn học. Nếu văn học là phát ngôn về nhân sinh dưới hình thức ngôn ngữ nghệ thuật, thì phê bình văn học là nghệ thuật khám phá văn hoá cảm nhận ẩn tàng trong tác phẩm. Mãi mãi, người sáng tác và người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 đọc, người phê bình tiếp sức nhau trong cuộc chạy đua vô tận để tìm bắt ý nghĩa cuộc đời và ý nghĩa nghệ thuật, ý nghĩa là niềm mê hoặc lớn, là đầu đề tranh cãi lớn trong mọi quan hệ văn học và phê bình xưa nay. Văn học tồn tại trong tiếp nhận, cũng tức là tồn tại trong phê bình bởi phê bình là hình thức tiếp nhận tích cực nhất tự giác nhất. Dù muốn hay không tác phẩm văn học vẫn được cảm nhận qua lăng kính phê bình dưới mọi hình thức: Dư luận xã hội, giáo dục ở nhà trường, những cây bút phê bình, nhà nghiên cứu văn học. Chính vì vậy phê bình có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống văn học Văn học viết Việt Nam ra đời từ thế kỷ X, với sự xuất hiện của chữ Hán, chữ Nôm, sau này là chữ Quốc ngữ. Có văn học tất yếu có phê bình văn học, nhưng lúc đầu phê bình văn học chỉ xuất hiện dưới các dạng thức với các bài bi, ký, tự, bạt, thư , luận, xướng hoạ….Phê bình lúc này chủ yếu mang tính chất thưởng thức, cảm thụ, hoặc với tính chất hướng dẫn sáng tác theo các qui luật, nguyên tắc. Trước kia các nhà thơ trung đại, không ý thức trở thành nhà thơ, nhà văn. Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến…. và những người làm thơ khác họ thường có quan niệm làm quan mới là con đường lập nghiệp. Làm thơ văn chỉ là giãy bày cái gì đó bên trong về mặt tình cảm. Ngày xưa có một ông Nguyễn Khuyến chẳng hạn viết xong một bài thơ đưa đi đâu, ông gửi cho ai ? Nếu không tìm được tri kỷ trong làng ngoài xóm có ai đó đủ chữ nghĩa, đáng mặt tri âm tri kỉ, thì ông đành phải bỏ tác phẩm vào trong một cái tráp khoá lại. Ngày lại ngày, những bài thơ lần lượt ra đời và lần lượt được xếp lên nhau trong chiếc tráp son đặt ở đầu giường. Đợi đến một ngày đẹp trời, ông bạn Dương Khuê đi cáng đến chơi- Đã bấy lâu nay bác tới nhà chủ nhân hấp tấp và mừng rỡ hối thúc người nhà sửa ngay bữa rượu. Và khi đôi bạn ngà ngà thì là lúc những cái tráp được mở ra và cuộc ngâm vịnh thù tạc tưởng như không bao giờ dứt. Văn chương thuở ấy là như thế: Chỉ thu hẹp trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 một số ít văn nhân tài tử, khó phân biệt ai là tác giả, ai là độc giả , ai là nhà phê bình. Thường thì mỗi người đều “kiêm nhiệm” tất cả.Ta hiểu vì sao khi nghe tin Dương Khuê mất- Bác Dương thôi đã thôi rồi… thì Nguyễn Khuyến đau đớn đến rụng rời, lời thở than của Nguyễn Khuyến phần nào giúp ta hiểu được văn chương lúc bấy giờ : Câu thơ nghĩ đắn đo không viết Viết đưa ai, ai biết mà đưa… Nhà phê bình, nghề phê bình chưa thể có được vào thời ấy là như vậy. Phải đến thế kỷ XX do sự vận động nội tại của văn học, dưới sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, cùng với nhu cầu đòi hỏi tất yếu của sự phát triển văn học, phê bình mới chính thức trở thành một thể loại. Các hoạt động báo chí, in ấn, xuất bản…ngày càng phát triển tạo thuận lợi cho phê bình. Vì thế phê bình văn học ngày càng hoạt động sôi nổi, có nhiều khởi sắc, các vấn đề mang tính thời sự của văn học được phê bình quan tâm. Hơn một thế kỷ ra đời và phát triển, nền lý luận phê bình văn học Việt Nam đã nhanh chóng trưởng thành, và khẳng định được vị thế của mình. Phê bình văn học ngày càng thể hiện được vai trò là người bạn tin cậy của độc giả và nhà văn, là cầu nối để hoàn tất quá trình tồn tại một tác phẩm văn học. Phê bình văn học qua các giai đoạn phát triển đã tạo ra nhiều gương mặt phê bình xuất sắc, với nhiều tác phẩm có giá trị cho sự phát triển của văn học.Tuy nhiên sự xuất hiện ấy là không đồng đều ở từng giai đoạn khác nhau.Theo ý kiến chung của nhiều công trình nghiên cứu văn học Việt Nam, quá trình phát triển lý luận phê bình có thể chia làm bốn giai đoạn. Giai đoạn đầu thế kỷ đến năm 1931: Đây là giai đoạn mở đầu, là bước chuẩn bị cho sự trưởng thành của lý luận, phê bình văn học Việt Nam giai đoạn sau. Giai đoạn từ năm 1932 đến năm 1945 : Giai đoạn trưởng thành vượt bậc của lý luận phê bình, có những cuộc tranh luận sâu sắc động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 chạm đến những vấn đề cốt tử của văn học, có những công trình nghiên cứu vượt thời đại và trở thành kinh điển, xu hướng tìm tòi lý luận và phương pháp phê bình đa dạng nhiều hướng. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985: Giai đoạn hình thành, củng cố lý luận, phê bình văn học dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Phê bình lý luận trở thành vũ khí chiến đấu đắc lực của Đảng nhằm chống lại văn học phi vô sản, khẳng định văn học cách mạng, đem văn học cách mạng đến với đông đảo quần chúng nhân dân. Phê bình văn học chủ yếu thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng và trưởng thành nhanh chóng qua các cuộc đấu đấu tranh ấy về mặt chính trị; nội dung học thuật của công tác lý luận phê bình cũng được phát triển nhưng vẫn còn những mặt hạn chế. Chính vì vậy mà cùng với nhu cầu đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, lý luận phê bình cũng tích cực tự cởi trói, đổi mới vào giai đoạn sau. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000: Đây là giai đoạn đổi mới mạnh mẽ của lý luận, phê bình văn học Việt Nam. Các vấn đề đặc trưng của văn học, vấn đề con người, quan hệ văn học và chính trị, văn học phản ánh và sáng tạo, thi pháp học được quan tâm chú ý và gây được sự hưởng ứng rộng rãi. Vấn đề đánh giá lại các hiện tượng văn học quá khứ được thực hiện khá thoả đáng, từ Thơ mới đến sáng tác của trào lưu hiện thực, văn học Tự lực văn đoàn. Nghiên cứu văn học cổ điển cũng có những bước tiến triển vượt bậc.Việc phê bình văn học đương đại cũng sôi nổi khi có những tác phẩm mới thực sự xuất hiện. Nhưng rồi từ năm 1995 hoạt động phê bình văn học chững lại. Có nhiều cuộc tranh luận lời lẽ nặng nề nhưng nội dung học thuật rất mỏng manh, nếu không muốn nói là không có gì. Lý luận, phê bình đang chờ đợi một bầu không khí thuận lợi để bứt lên đáp ứng yêu cầu phát triển của bản thân văn học dân tộc trong thời đại ngày nay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Nhìn lại chặng đường phát triển của lý luận ,phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX, giáo sư Trần Đình Sử đã tổng kết: “Nhìn lại lý luận phê bình nghiên cứu văn học Việt Nam ta có thể thấy đó là một quá trình phát triển mau lẹ, liên tục và không ít kịch tính. Bốn giai đoạn lý luận phê bình, văn học trong thế kỷ hiện đại hoá văn học và hội nhập vào đời sống văn học thế giới đã làm cho một nền văn học vốn từ thời trung đại chưa thật sự phát triển về lý luận, phê bình trở thành một nền lý luận phê bình tuy có phần hạn chế nhưng vẫn cố gắng đồng hành với văn học dân tộc và lý luận phê bình văn học thế giới trong những trào lưu lớn”[15, 795]. Làm nên diện mạo lý luận phê bình văn học Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua về cơ bản có hai lực lượng chính: các nhà phê bình chuyên nghiệp và các nhà phê bình thuộc giới văn nghệ sỹ. Lý luận phê bình Việt Nam ghi nhận sự đóng góp của thế hệ các nhà phê bình chuyên nghiệp đầu tiên như: Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều, Đặng Thai Mai, Trần Thanh Mại, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa…Đến thế hệ các nhà phê bình chuyên nghiệp trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp như: Lê Trí Viễn, Huỳnh Lý, Trương Chính, Đinh Gia Khánh, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Xuân Nhị, Đông Hoài, Hoàng Như Mai, Lê Đình Kỵ, Vũ Khiêu, Hà Xuân Trường…Những người được đào tạo trong chế độ mới như: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Chu Xuân Diên,Nguyễn Đăng Mạnh, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Xuân Nam, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Văn Hạnh, Phương Lựu, Lương Duy Thứ, Trần Đình Sử, Trần Hữu Tá, Mã Giang Lân, Phong Lê, Huỳnh Khái Vinh, Nhị Ca…Các nhà lý luận phê bình thế hệ sau như : Phạm Văn Long, Mai Quốc Liên, Trần Đăng Xuyền, Lê Ngọc Trà, Vũ Tuấn Anh, Đỗ Lai Thuý,Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân…Các nhà phê bình chuyên nghiệp thể hiện tập trung nhất cho trình độ học thức, ý thức tự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 giác về nghề nghiệp, quan niệm lý luận và phương pháp phê bình. Phê bình chuyên nghiệp kết tinh thành tựu của phê bình thời đại. Bên cạnh đó là các nhà phê bình thuộc giới văn nghệ sỹ, có thể kể tên một đội ngũ đông đảo gồm nhiều thế hệ ,thế hệ các nhà phê bình thuộc giới văn nghệ sỹ trước 1945 tiêu biểu là: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, LưuTrọng Lư, Lan Khai,Vũ trọng Phụng… Thế hệ các nhà phê bình thuộc giới văn nghệ giai đoạn sau 1945 tiêu biểu là: Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc,…Thế hệ sau những năm 60, 70 như Vũ Quần Phương, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Trọng Tạo, Trịnh Thanh Sơn… Xuất phát từ chỗ đứng của mình là người nghệ sỹ viết phê bình, nên phê bình của họ có cái nhìn của người trong cuộc.Theo Chế Lan Viên thì đó là “phê bình bên trong”, có cái nhìn thấu suốt từ bên trong quá trình sáng tạo đó là thuận lợi cơ bản nhất của người nghệ sỹ viết phê bình. Là người mẹ đã từng mang nặng đẻ đau những đứa con tinh thần,hơn ai hết họ hiểu được kỹ thuật và công việc “bếp núc”, hiểu được sản phẩm tinh thần ấy được ra đời như thế nào. Tác phẩm phê bình của các nhà văn , nhà thơ rất giầu chất văn, có tính trực cảm mạnh, và thường có những phát hiện độc đáo tinh vi, chỉ có thể có được sự rung động sâu sắc của một người có trái tim nghệ sỹ. Vì vậy, có thể nói những tác phẩm phê bình của họ thực chất đã là những “siêu tác phẩm” đầy sáng tạo hấp dẫn, bởi những nhà phê bình đó đã là những nghệ sỹ thực sự. Nói chung các cây bút phê bình này thường chú trọng đến việc phát hiện ra những cái mới, cái đẹp, cái độc đáo của tác phẩm văn chương trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật, nhưng chủ yếu là phương diện nghệ thuật- qua sự rung động, qua sự nhạy cảm của tâm hồn nghệ sỹ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Trong nền lý luận phê bình Việt Nam hai lực lượng phê bình trên đều có vai trò vị trí riêng không thể thay thế, họ cùng nhau tạo nên những thành tựu của lý luận phê bình nước nhà. 1.2 VỊ TRÍ CỦA XUÂN DIỆU TRONG NỀN PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX. Bạn đọc biết đến Xuân Diệu, trước hết ở tư cách nhà thơ, từ một “nhà thơ mới nhất”, “đại biểu đầy đủ nhất” cho phong trào Thơ mới (1932- 1945),đến một nhà thơ tài năng gắn bó sự nghiệp của mình với sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó ông còn là một nhà nghiên cứu phê bình thơ, có vị trí và vai trò quan trọng. Suốt một đời lao động cật lực, “ tay năng làm lụng, mắt hay kiếm tìm”. “ dao có mài mới sắc”, “ mài sắt nên kim”, Xuân Diệu có nhiều đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu phê bình văn chương. Dù biết rằng “ làm thơ tuy vất vả nhưng có cảm xúc bù đắp khi suy nghĩ. Viết nghiên cứu dễ tổn thọ”, nhưng Xuân Diệu đã đầu tư nhiều công sức vào lĩnh vực này. Ngay từ những năm trước cách mạng Xuân Diệu đã tiến hành hoạt động phê bình song song với sáng tác thơ, ông viết nhiều tiểu luận bàn về thơ, về nhà thơ (Thơ khó, Thơ của người, Tính cách An Nam trong văn chương, Mở rộng văn chương, Một thời trơ trẽn, Cái học quẩn quanh…), Ông không chỉ giới thiệu thơ mình (Lời đưa duyên…) mà còn giới thiệu thơ cổ điển (Nguyễn Du..), thơ cận đại (Tản Đà…), thơ hiện đại (Huy Cận., Thế Lữ…). Sau cách mạng đến với công chúng mới, ngòi bút phê bình của Xuân Diệu càng dồi dào, sung sức, ông là tác giả của hàng ngàn trang phê bình, với gần hai chục công trình, kể từ Tiếng thơ đến bài viết cuối cùng Sự uyên bác với công việc làm thơ. Có ý kiến cho rằng: “Về căn bản, văn tài của Xuân Diệu ở giai đoạn này phát triển chủ yếu theo ngả tiểu luận nghiên cứu, chứ không phải là thơ” (Tế Hanh), Trần Đăng Khoa đánh giá: “ Sự đóng góp lớn lao của Xuân Diệu sau cách mạng không phải là thơ ca, mặc dù thơ ông vẫn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 hay, cũng không phải ở mảng dịch thuật…tài năng của Xuân Diệu sau thời Thơ Thơ Gửi hương cho gió, một lần nữa lại chói sáng lên ở lĩnh vực phê bình, nghiên cứu thơ ca”[20,54-55]. Nói như Chế Lan Viên, một mình Xuân Diệu làm việc bằng cả một viện hàn lâm văn học, ở đó ông vừa là viện trưởng vừa là một ông loong toong. “Chỉ tính riêng các tác phẩm lí luận, phê bình đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia”, đặc biệt những tác phẩm tìm hiểu về các nhà thơ cổ điển Việt Nam, bàn về công việc làm thơ….xứng đáng là những công trình tầm cỡ chỉ có những nhà nghiên cứu phê bình thực sự tài hoa uyên bác mới vươn tới được. Không viết tài tử như Nguyễn Tuân, hoặc chỉ tập trung vào từng vấn đề như Chế Lan Viên, hoạt động nghiên cứu phê bình của Xuân Diệu trải ra rất rộng, trên nhiều bình diện, nhiều lĩnh vực. Hầu hết các sự kiện có tính chất tiêu biểu của nền văn học nước nhà ông đều tham gia ý kiến đóng góp. Đối với công việc tìm hiểu gia tài văn học ông cha, Xuân Diệu là người đi tiên phong và có công rất lớn. Ông đã viết nhiều chuyên luận công phu về hầu hết các nhà thơ cổ điển lớn của dân tộc. Bộ sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam(hai tập) là một công trình nghiên cứu bề thế. Tác giả đã mang vào trong đó tất cả tâm huyết và tình yêu đối với văn học cổ điển. Nhiều nhà thơ lớn của dân tộc : Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu…đã được Xuân Diệu nghiên cứu, phân tích và bình giải. Với những khám phá và nhận định mới mẻ, tinh tế, ông đã làm cho những tên tuổi lớn trong kho tàng văn học dân tộc thêm thăng hoa toả sáng, từ đó người đọc kính trọng và yêu thích hơn các nhà thơ cổ điển. Điều đó giúp cho các bài viết của ông có chất lượng và đạt hiệu quả cao. Công chúng và bạn bè đồng nghiệp trong giới ghi nhận phần đóng góp đáng tin cậy đó của nhà thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Xuân Diệu. Nhà thơ Chế Lan Viên đánh giá về công việc này của Xuân Diệu: “Chỉ một mình Xuân Diệu đã viết hầu hết các danh nhân văn học. Viết hay khó ai thay thế được”.Việc nghiên cứu phê bình thơ cổ điển có vai trò rất quan trọng trong đời sống văn học hiện đại. Phát hiện giá trị mới trong văn học truyền thống cũ là con đường làm giàu truyền thống đem năng lượng tiềm tàng trong quá khứ để đẩy nhanh quá trình nâng cao tầm văn hoá. Nó là cái cầu nối giữa hiện tại và quá khứ, giúp ta “ ôn cố tri tân”. Đúng như Xuân Diệu xác định: “ Muốn xây dựng nền văn học mới, việc học tập cái gốc văn học Việt Nam cũ là rất cần thiết”. Những trang viết và thái độ chân thành hết mình đi vào nghiên cứu văn học cổ điển của Xuân Diệu đã giúp chúng ta có ý thức và quyết tâm hơn trong việc kế thừa và tiếp thu truyền thống văn học dân tộc, trong việc tìm hiểu các tác giả, tác phẩm đã trải qua sự thử thách và chọn lọc khắc nghiệt của thời gian. Đối với thơ ca hiện đại, những đóng góp của ông rất đa dạng phong phú. Dù là ở thời nào, trong hoàn cảnh nào, Xuân Diệu bao giờ cũng thiết tha đấu tranh cho những giá trị đích thực của thơ. Ông là người có tư tưởng cách mạng, phấn đấu cho một nền nghệ thuật chân chính vì nhân dân, vì con người. Hầu như ông có mặt trong tất cả các hoạt động thơ: là thành viên của ban giám khảo trong các cuộc thi, viết lời tựa cho các tuyển thơ, viết bài tổng kết đáng giá từng chặng đường sáng tác thơ. Xuân Diệu là một trong những người hàng đầu nhặt nhạnh tìm kiếm những bài thơ hay, câu thơ hay của Tiếng thơ quần chúng trong kháng chiến. Người ta còn khâm phục Xuân Diệu ở vai trò phát hiện tài năng, truyền luyện tay nghề, phát triển lớp trẻ, xây dựng thơ ca cách mạng. Xuân Diệu chú ý phát hiện những tài năng thơ ngay từ trong những sáng tác đầu tay của họ, ví dụ từ thời Thơ mới là Huy Cận, từ kháng chiến chống Pháp đến sau này là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 những nhà thơ như: Quang Dũng, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa,….Ông đặc biệt quan tâm tới sáng tác của những tác giả lớn như: Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên…. Ông hăng hái Phê bình giới thiệu thơ, thơ nghiệp dư, thơ chuyên nghiệp, thơ bộ đội, thơ thiếu nhi….Ông theo sát các cuộc thi thơ, làm giám khảo công minh, nghiêm khắc với mong muốn nâng cao dần chất lượng thẩm mỹ của thơ theo yêu cầu thời đại. Trước sau Xuân Diệu vẫn nhất quán tiếp tục đấu tranh bảo vệ những giá trị của thơ ca chân chính, ông dũng cảm đi vào những vấn đề bức xúc đặt ra cho phê bình thơ hiện đại: đó là vấn đề chất lượng thẩm mỹ của thơ, chất lượng của việc phê bình và biểu dương thơ, đáng giá những thành tựu thơ cách mạng. Xuân Diệu đã góp phần nâng cao cảm thụ thơ thời đại. Đúng như Trần Đình Sử nhận định, ta gặp ở đây “ Một Xuân Diệu uyên bác trung thực, dũng cảm và chí tình”, “ Thái độ thẳng thắn đó là biểu hiện của một tinh thần trách nhiệm lớn, một nhân cách lớn”. Hoạt động nghiên cứu phê bình của Xuân Diệu khá phong phú đa dạng,nhìn vào tổng thể các công trình lớn nhỏ mà ông để lại, ta thấy được tầm vóc khổng lồ và bóng dáng sừng sững của ông trong nền phê bình thơ hiện đại. Trong bối cảnh phê bình thơ hiện đại Việt Nam còn thưa thớt, ta càng nhận thấy những đóng góp của Xuân Diệu thật là to lớn. Những thành tựu mà ông để lại đã phát huy tác dụng trong việc xây dựng và phát triển nền thơ Việt Nam hiện đại 1.3 QUAN NIỆM CỦA XUÂN DIỆU VỀ THƠ VÀ PHÊ BÌNH THƠ 1.3.1 Quan niệm của Xuân Diệu về thơ 1.3.1.1 Thơ trước tiên là cuộc đời, là hiện thực . Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 Trong bài Công việc làm thơ Xuân Diệu đã phát biểu: “ Trong một tác phẩm văn học cái mà người ta yêu trước hết là cuộc sống, chân lý cuối cùng và cao nhất của nghệ thuật là cuộc sống. Nghệ thuật không thể là một thế giới riêng ở ngoài đời”[7, 33]. Cái chân lý dường như hiển nhiên và giản dị ấy, với thế hệ nhà thơ như Xuân Diệu có được là cả một quá trình nhận thức, quá trình ấy diễn ra vừa có tính quy luật, vừa nhiều vẻ gắn với hoàn cảnh riêng của mỗi người. Những năm trước cách mạng tháng Tám, sống trong xã hội thực dân phong kiến, nhiều nhà thơ lãng mạn có khuynh hướng thoát ly , quay lưng với thực tại bằng cách tự đưa mình vào cõi tiên, trốn vào thiên nhiên thơ mộng, “ phiêu lưu trong trường tình”, tìm đến thượng đế, trốn vào đạo, thậm chí cả điên loạn. Riêng cái tôi khát khao rạo rực, ham sống , ham yêu của Xuân Diệu, cho dù có lúc không khỏi cô đơn, sầu tủi. Vẫn cứ bám riết lấy cuộc đời: “ Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn Làm dây đa quấn quýt cả mình xuân Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần, Chân hoá rễ để hút màu dưới đất… (Thanh niên) Ngay cùng thời gian ấy, trên báo Ngày nay, Xuân Diệu đăng bài tiểu luận Thơ của người; ở một dạng diễn đạt khác, tư tưởng và tâm hồn Xuân Diệu vẫn gắn với “ Nhân sinh” đắm đuối xiết bao: “Thoát ra ngoài cuộc đời, ồ! Mộng tưởng cao quý; nhưng cứ ở trong cuộc đời, sự cao quý lại càng cao hơn. Công việc dễ dàng là đuổi một người tình nhân phụ ta, nhưng ở với họ và còn yêu họ luôn, điều ấy chỉ ai thi sỹ mới làm nổi. Sao những người tự xưng thi sĩ lại không làm được cái công việc ngang tàng sâu sắc: ở với đời và còn luôn luôn yêu đời, dầu đời phụ ta”[4, 102]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Giọng văn tranh luận có cái bồng bột của tuổi trẻ, nhưng chúng ta một lần nữa lại thấy được thái độ sống và quan niệm nghệ thuật nhất quán của Xuân Diệu. Ông khẳng định thơ là của người, là của đời và phải ở trong cuộc đời; nhà thơ phải là những người yêu cuộc đời nồng nàn thiết tha nhất, chỉ vậy mới xứng đáng với “sự rộng lớn mênh mông” và “niềm bao dung quảng đại” của thơ. Nhà thơ Thế Lữ đã vô cùng thấu hiểu và chí lý khi đề tựa tập Thơ thơ những dòng sau “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Tưởng như cho đến nay, chưa có ai có thể khái quát đúng bản chất con- người – thơ- Xuân Diệu và quan niệm – nghệ thuật của Xuân Diệu gọn và đủ đến vậy. Những năm sau cách mạng, cũng như rất nhiều nhà thơ cùng thời,ở Xuân Diệu có sự chuyển biến sâu sắc và mạnh mẽ trong tâm hồn và tư tưởng. Cuộc đời và hiện thực trong quan niệm cũng như trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng chỉ dừng ở mức chủ yếu là tâm tư của cái tôi- cá nhân cá thể, “Chỉ tự quay nhìn vào trong”. “Cái vũ trụ riêng tư ấy” nghe được những cái rất tinh diệu và rất đáng trân trọng, nhưng không thể nào “giàu sức mạnh” bằng cái tôi sau này. Sau này mỗi khi nhìn lại mình, chính Xuân Diệu vẫn tự suy nghĩ trăn trở : “Làm thế nào mà một tâm hồn thi sĩ cảm thương đã chuyển thành một tâm hồn thi sĩ tham gia cải tạo thế giới”. Đó là cả một quá trình phấn đấu của người cầm bút dưới ánh sáng lí tưởng cách mạng, là sự hoà quyện nỗi niềm Riêng chung để cái tôi của nhà thơ gắn bó máu thịt với số phận chung của cộng đồng. Xuân Diệu đã diễn tả rất cảm động và chân thực niềm tự hào của cái tôi ấy “ …Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu Tôi sống với cuộc chiến đấu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Của triệu người yêu dấu gian lao” Khi đã nhận thức bằng cả con tim và trí tuệ như vậy thì cảm quan của nhà thơ về đời sống và văn học ngày càng phong phú và nhạy bén hơn. Trong nền thơ hiện đại nước ta sau 1945, Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng “cần phải mở rộng một cánh thơ nữa: thơ trữ tình diễn đạt thực tại”[6,80]. Trong hàng loạt các bài phê bình tiểu luận như Thơ với cuộc sống, thơ và thực tế, Quy luật cuộc sống và quy luật tác phẩm trong thơ, Công việc làm thơ… tư tưởng lý luận của Xuân Diệu về mối quan hệ giữa văn học nói chung và thơ nói riêng với đời sống đã được thể hiện một cách nhuần nhuyễn, biện chứng và toàn diện hơn. Với Xuân Diệu, sự sống là Cây đời mãi mãi xanh tươi, là vô hồi vô hạn “Không bao giờ chán nản”, cuộc đời sáng tạo nhanh hơn trí tưởng tượng”; người văn nghệ muốn ca ngợi cuộc sống, không thể không nói chuyện đâu đâu, mà phải vào trong bếp núc của cuộc đời. Có lúc trong mạch “triều lên” ông cổ vũ: “Văn chương, sáng tác, không tiếp xúc với đầu sóng ngọn gió của cuộc đấu tranh, thì sẽ thành hoa giấy thôi”.Với Xuân Diệu “Thơ trước tiên là cuộc đời, là hiện thực”, mà hiện thực lúc đó chính là thực tế cách mạng, thực tế chiến đấu và sản xuất: “Thơ của chúng ta là thơ của sự sống, mà sự sống là từ thực tế, thực tiễn; cái cốt lõi máu thịt của thơ chúng ta là thực tế chiến đấu và sản xuất”. “Còn thực tế nào có ý nghĩa lịch sử hơn cái thực tế chiến đấu hoàn thành giải phóng dân tộc ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta ?”[6,84].Xuân Diệu nhắc lại chân lý: “Đời sống, thực tế và quần chúng là kho vô tận, là nguồn bồi dưỡng vô hạn cho nhà thơ”[6,79],ông gọi hiện thực đó chính là hạt giống, hạt giống ấy gieo vào tấm lòng thơ của người thi sĩ thì có thể nảy cây, khai hoa kết quả. Xuân Diệu coi hiện thực không những là điều kiện tất yếu, mà còn là cái điều kiện tiên quyết. Xuất phát từ quan Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 niệm đó ông khuyên nhà văn nghệ cần phải tắm mình trong cái nguồn hiện thực và quần chúng,để mở rộng một cánh thơ nữa: thơ trữ tình diễn đạt thực tại[6,80]. Xuân Diệu ca ngợi các nhà thơ cổ điển như Đỗ Phủ: “ Nhà thơ thiên tài nói về hiện thực của xã hội, đã đưa ào ạt thực tế vào thơ, đã làm những câu thơ hiện thực rất sớm trong văn học thế giới”,thi hào Victo Huy gô “trở thành nhà thơ đầu tiên thực sự là hiện thực của nền thơ Pháp”[6, 80-81]. Tuy nhiên “tác phẩm thơ được sinh ra do sự quyện xe của thực tại khách quan với tâm hồn, trí tụê con người”[ 7,35] cái gì cũng trở thành thơ được cả” nhưng “muốn thành thơ phải lọc qua tâm hồn người , thấm cảm xúc người”. Vì vậy, thơ nói riêng văn học nói chung không phản ánh cuộc sống một chiều, mà sự phản ánh ấy còn bao hàm cả sự sáng tạo ra chất sống , sự sống: Thơ là sự sống.Đó không chỉ là vấn đề thơ phản ánh hiện thực không thoát ly cuộc đời, mà thơ tràn đầy sự sống đắm say ấm nóng. “ Thơ trước tiên là cuộc đời, là hiện thực, vì ngay bản thân nó cũng chính là cuộc sống”. Xuân Diệu nhấn mạnh: “Theo tôi nghĩ suy và sắp xếp thì trong sự sáng tạo của nhà thơ, thứ nhất là sáng tạo chất sống, thứ nhì là sáng tạo chất sống, thứ ba, thứ tư mới đến sáng tạo ngôn ngữ. và tô i dám nghĩ rằng loại thơ sáng tạo ngôn ngữ quá tài giỏi cũng chỉ là thơ loại nhì”[7,58].Cuộc sống được tái tạo thêm nhiều lần qua cái nhìn và tài năng thể hiện của người nghệ sỹ, người làm thơ không chỉ phản ánh đời sống mà còn truyền thêm chất sống, sáng tạo thêm sự sống, có lẽ chính bởi vì thế mà nhiều hình tượng nhân vật, nhiều bài thơ đã bước ra cuộc đời, sống mãi trong lòng bạn đọc. Càng đề cao chất sống chất đời trong thơ bao nhiêu Xuân Diệu càng đề cao tính chân thật của tác phẩm thơ bấy nhiêu. Với Xuân Diệu, Chân thật chính là nền tảng của thơ, trong nhiều bài viết Xuân Diệu nhắc như một yêu cầu thường trực: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 “ Thơ phải: Chân, chân, chân ! Thật, thật, thật !” Tức là thơ phải có cái gốc ở trong cuộc đời, trong sự sống, bắt nguồn từ lòng người, từ tâm hồn người. “Chạm trổ bao nhiêu cũng phải chân thật, nghĩa là có mang tình cảm của con người; chứ không phải tỉa tót khéo léo những khoé tay vặt. Vì vậy, người ta xưa nay vẫn phân biệt được những chân thi sĩ- là thi sĩ xúc cảm thật vào đến tận gan ruột, rung động thật đến tận chân tơ kẽ tóc mình” [7, 49].Ông giảng giải, nhấn mạnh chữ “Chân’’: “Trong thơ, phải chân, nghĩa là mình có bao nhiêu tâm hồn thì viết bấy nhiêu, đừng gắng hơi, đừng cố mượn hơi ở người khác mà thổi cái bong bóng của mình; phải chân, chứ đừng định lừa người đọc; phải chân, như cái hương tự nhiên của tâm hồn”[5,350]. Tính chân thật của thơ nói riêng và văn học nói chung là biểu hiện sự kết hợp hữu cơ giữa khách quan và chủ quan, giữa sự am tường đời sống và “ nội tâm rất đầy” của nhà thơ. “Chân thật” ở đây tuyệt nhiên không phải là “ Sự thực” hiểu theo nghĩa máy móc đơn giản. Xưa nay, những nhà thơ nhà văn lớn bao giờ cũng khát vọng qua tác phẩm của mình nói lên được những vấn đề bản chất của con người và cuộc sống; nhưng ít có ai quan tâm đến tính chân thật của thơ một cách thường trực và yêu cầu gay gắt quyết liệt như Xuân Diệu.Ông không chấp nhận sự giả dối trong thơ, theo Xuân Diệu có nhiều loại thơ: “Thơ hay, thơ khá, thơ thường, thơ kém, thơ dở….thơ thành công ít, nhiều, hoặc không thành công, chứ nhất định đừng có thơ giả” [5, 350]. Nói trực tiếp như vậy chưa đủ, ông còn khắc sâu bằng hình ảnh cụ thể: “Là vàng, là bạc, là đồng, là thiếc, hay là chì, chứ nhất định đừng là mạ vàng” [5, 351]. Xuân Diệu dặn dò các nhà thơ trẻ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 “Những bạn làm thơ phải ghét cái giả như ghét rắn độc, thấy nó ở đâu phải triệt ! còn thơ non kém, thì ta dần dần rèn luyện mà nâng lên. Chỉ có một con đường chân thực để bồi dưỡng cho sự làm thơ, con đường ấy trước hết là đào sâu suy nghĩ, đào sâu xúc cảm” [5, 350]. Xuân Diệu đã trích lời của một nhà thơ nước ngoài: “Thơ là con đẻ của lòng thành thật, vì thiếu cái đó, thì thi phẩm không còn đủ sức sống”,ở đây không đơn thuần chỉ là quan niệm về thơ, về văn chương, mà còn là vấn đề con người, vấn đề nhân cách người cầm bút, người làm sao sẽ viết ra thơ văn làm vậy, thơ tức là người mà lại là “ người ở phần tinh vi nhất” nên càng không chịu được sự giả dối. Chân thật được Xuân Diệu coi như một trong những tiêu chí để phân biệt “thứ thơ lớn” với “thứ thơ bé”, là nền tảng của phong cách lớn, bút pháp lớn. “Thứ thơ bé’ là các bài thơ có tình cảm bé, suy nghĩ hẹp, không chú ý gốc chân cảm, mà chỉ chú ý đi vào hình thức giả tạo, “khôn vặt”, “kỹ thuật vặt”dùng cái khéo léo của câu chữ để loè người,thứ thơ này “gầy và bé”, ngày càng còi cọc, sẽ chết dần theo thời gian năm tháng. “Thứ thơ lớn” theo quan niệm của ông là thứ thơ có chất, có kỹ thuật, nhưng tác giả không coi kỹ thuật là chính, mà quan trọng chất hơn là hình. “Thứ thơ lớn” là thứ thơ có tình cảm lớn, suy nghĩ rộng và có cách nói của phong cách lớn, bút pháp lớn. [7, 46 - 49] Biết rằng văn chương cần hướng tới cuộc sống con người, nâng cao chiều kích của nó lên, văn chương cần phải chân thực, chống cái giả tạo, nhưng không có nghĩa là hiện thực trần trụi. Hơn ai hết đã từng là người sáng tác thơ ca, Xuân Diệu đòi hỏi bên cạnh cái “chân thực” còn phải “Say”, phải có yếu tố “mộng’’. Bởi: “Văn học nghệ thuật là lấy những cái thường của ngày thường mà làm nên những cái rất say sưa, nếu chưa có khả năng làm người ta say sưa, thì chưa phải là văn nghệ. Làm thơ, là làm cho người đọc thơ phải say mê, muốn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 như vậy, thì bản thân người thi sĩ phải thật say mê” [5,335]. “Thơ với đời, thực với mộng không tách rời nhau nữa, đời nên thơ, thực chứa mộng, cho nên thơ hiện nay phải mở rộng và đón những vật và sự của cuộc sống mới” [6, 80]. “Thơ của ta phải rất tỉnh và rất mê; rất tỉnh : chủ nghĩa Mác – Lê nin, chính sách của Đảng và chính phủ, khoa học hiện đại, là cái thông minh của loài người và của dân tộc phải hướng dẫn cho đường thơ; nhưng hướng dẫn mà không lộ ra; rất mê : nền thơ đúng đắn vẫn sinh nở theo phương thức của mình, làm cho người ta mê thú như đàn ngọt, hát hay,người xinh, cảnh đẹp. [10, 172]. Với Xuân Diệu thơ muốn hay thì không thể thiếu niềm “say mê”, tuy nhiên ông cũng nhấn mạnh: “Người thi sỹ phải say, nhưng say mà tỉnh, chứ không phải say say…Là mờ mịt tất cả việc đời, thì là tuý luý, ù cạc, chỉ còn cái chủ quan, mà không có cái khách quan, không những là công chúng không thể ưa, mà thi sĩ cũng mất cả nhân cách. Phải rất say mê mà rất tỉnh táo, phải dậy rực lên tất cả tâm hồn cho đến từng cuống tóc, mà lại phù hợp với chân lý” [5, 335-336]. Xuân Diệu đã ca ngợi cái “say thơ quyện kết với cái say đời” của Tố Hữu trong bài thơ Huế tháng Tám: “Cái say sưa những ngày Huế tháng Tám sảng khoái lạ thường; nhà thơ đã mượn một thoáng siêu thực để nói cái hiện thực thần thánh”. Trong thơ nhiều khi cần phải “say” phải “mộng” mới lắng nghe và hiểu được cái thực của cuộc đời sâu hơn, đa chiều và tinh diệu hơn, “dùng cả những thoáng siêu thực, tượng trưng…để làm cho cái tinh thần hiện thực thêm sinh động” [10, 126]. Gần với quan điểm này, nhà thơ Chế Lan Viên trong câu chuyện Vào nghề cũng nói đến việc “ nên tăng cường chất tưởng tượng trong thơ, trên cơ sở “chân” cần có“ ảo”, Chế Lan Viên đã dẫn ra ví dụ: Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím Em có chồng rồi trả yếm lại cho anh Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi. Và phân tích: “Hẳn chưa có nhà thảo mộc nào lại lấy hoa cúc màu vàng nở ra hoa cúc màu khác, thậm chí là nở ra cái màu rất vô lý là màu xanh. Nhưng ở đây là sự giáo dở có thực của lòng một người nào đó, chứ không cốt nói cái màu có thực của một loài hoa. Do đó hoa cúc xanh vẫn sống ! và khi hoa cúc xanh sống được thì quả tim xanh cũng có quyền sống được chứ sao ?”[45,143]. Ảo và thực là hai mặt của cuộc đời, là sự chuyển hoá không ngừng của tư duy sáng tạo nghệ thuật, vấn đề đặt ra là người nghệ sĩ phải tìm tòi sáng tạo thế nào để diễn đạt mà thôi. 1.3.1.2 Thơ là tinh chất của cuộc đời Xuân Diệu quan niệm “Thơ trước tiên là cuộc đời, là hiện thực”, nhưng thực tế cuộc sống vốn phong phú đa dạng , nếu người làm thơ đưa vào thơ “ngổn ngang trăm thứ” thì cũng khó mà “nên câu tuyệt diệu”.Vấn đề đặt ra là người làm thơ phải biết rút lấy tinh chất của hiện thực. “Làm thơ là lọc lấy tinh chất, lấy cái hồn sự vật” [7, 95]. Quy luật thẩm mỹ trong tác phẩm thơ theo Xuân Diệu còn được thể hiện ở vẻ đẹp tinh chất của thơ.Vẻ đẹp này đòi hỏi nhà thơ phải có năng khiếu thẩm mỹ chắc chắn để nhạy bén phát hiện được cốt lõi của sự vật tức là cái đánh thức được cảm xúc và trí tuệ của con người, có khi nó không phải ở vỏ ngoài mà lặn vào bên trong. “Tinh chất của vật là cái đập được vào sự xúc cảm, sự suy nghĩ của con người; nó không phải ở vỏ ngoài, mà lặn ở bên trong; tìm tinh chất là tìm cái phần người, cái phần nhân hoá trong sự vật” [ 7,38- 39] Mặt khác, nhà thơ còn phải biết chọn lọc một số nét thông thường, có khi quen thuộc, nhưng chính nhờ tâm hồn rung động của mình, những chi tiết sự vật tưởng như quen thuộc ấy lại hoá thành “mới” trở lại.Tinh chất là cái tinh tuý, cốt lõi, sâu sắc, bản chất đẹp đẽ, những gì có giá trị cao nhất rút ra từ mọi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 sự vật và hiện tượng trong đời sống, như rượu nồng cất từ gạo nếp, như tơ óng rút từ ruột tằm, như “ những viên ngọc từ hồn nảy ra”…phẩm chất thẩm mĩ này của thơ là một nét để phân biệt sự khác nhau giữa thơ và văn xuôi. Vẫn là sự sống nhưng thơ có một thế g iới riêng, “ thơ khó” vì phải súc tích “ phải sắc lại như một thứ thuốc nấu nhiều lần”. “ những sự vật thường thường vẫn nhạt, vẫn loãng, thi sỹ đem kết lại, đọng lại, tụ lại, làm nên những câu thơ đậm đà; tài liệu thì vẫn lấy trong đời thường, trong cuộc sống hằng ngày, trong những sự rung động của trái tim, của xương thịt; nhưng khi đã đem vào thơ thì tài liệu biến thành ngọc châu”. “Vì sao thơ khó? vì thơ đi xa hơn văn xuôi, thơ ỏ trong một thế giới riêng; thơ vẫn là sự sống, nhưng đầy sự sống đọng lại, kết tinh lại biến thành cái đẹp” [35,145]. Thông thường người đọc chỉ in sâu vào trí nhớ của mình những bài thơ hay những câu thơ hay mà họ cho là tinh hoa nhất, độc đáo nhất, sâu sắc nhất. Người làm thơ trong khi sáng tác muốn cho người đọc nhớ lâu thơ mình, cần phải rèn luyện một khả năng “đi trước thời gian”, làm cái công việc mà trí nhớ vẫn làm, nhưng lại không chờ đến năm tháng- “phải rút lấy tinh chất của sự vật để gây ấn tượng” [7, 38- 39]. Xuân Diệu khuyên những người làm thơ nên học kinh nghiệm rút tinh chất đời sống của Nguyễn Du trong truyện Kiều.Cụ Tiên Điền chỉ dùng 3254 câu lục bát mà “hồi hồi lớp lớp” là những “chuyện đời rất phong phú”, có cả “chiến tranh và hoà bình” ”[7,275]. Trong từng chặng sự việc diễn biến 15 năm của cuộc đời Thuý Kiều, “Nguyễn Du đều rút lấy cái tinh chất; từ trong cái dài, đã rút lấy cái ngắn; cái ngắn này lại gợi lên được cả cái dài” [7,39]. Ngược lại ông nhận xét Trần Đăng Khoa chưa biết rút tinh chất khi viết trường ca Khúc hát người anh hùng kéo dài ngót 1300 dòng thơ: “Bởi vì kéo dài ra cho nên phải tả tỉ mỉ, đáng lẽ một chi tiết nên nói một câu, thì tác giả nói đến hai ba câu- như vậy là đã sai với cái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 nguyên lý thuộc về thơ rồi: là hàm súc, hàm súc, là vẽ phác hơn là vẽ hết, là kêu gợi hơn là phô bày”. [7, 276]. Nhân làm giám khảo trong một cuộc thi thơ do tạp chí văn nghệ tổ chức năm 1961,Xuân Diệu đã phê bình hai bài thơ Gửi quê hương trung du của Xuân Hồng và Hoa vạn Thọ của Phù Thăng có ưu điểm đưa chất hiện thực vào thơ, nhưng còn có nhược điểm đang dừng lại nhiều ở tài liệu. “Rất tiếc tác giả Xuân Hồng không hy sinh bớt đi một số nét, để rườm rà, làm cho những tình cảm sâu bị lộn xộn, rối rắm như tác giả chưa gỡ ra được, chưa vượt lên được để nắm những nét chính của sự sống, của đề tài”. Còn tác giả Phù Thăng trong bài thơ Hoa Vạn Thọ đã nắm được khá kỹ, biết nhiều sự việc trong những cảnh sống rất khác nhau, có một tầm bao quát, ôm trùm sự vật để làm thơ. Nhưng bài thơ lại rơi vào “ sự bộn bề của sự vật và lời nói, làm cho thơ đi đến một kết quả là truyền cảm khó khăn, khi đọc thì thấy bài thơ, gấp lại không thấy rõ nữa”. Sở dĩ như vậy là bởi tác giả chưa biết rút tinh chất thơ: “ôm trùm đến đâu cần phải rút tinh chất thơ đến đó” [10,198- 199]. Đúng như quan niệm của Xuân Diệu: thơ là tinh chất của cuộc đời, với thời gian thử thách, chỉ những bài thơ nào tinh chất thì mới còn lại trong trí nhớ người đọc muôn đời. 1.3.1.3 Thơ là sự sống mãnh liệt được lọc qua tâm hồn trí tụê Trong tiểu luận Công việc làm thơ Xuân Diệu đã phát biểu “Thơ trước hết là cuộc đời, là hiện thực.Và thơ còn là thơ nữa”[7,35] .Thơ không chỉ thoả mãn quy luật của cuộc sống, mà thơ còn phải tuân theo những quy luật nội tại của một tác phẩm nghệ thuật.Ông cho rằng quy luật quan trọng trước tiên của thơ là: “Sự cộng thêm vào thực tại một tâm hồn, một trí tuệ, một tình cảm, một sáng tạo”. “Không xuất phát từ thực tại thì thơ chán phèo, nhạt thếch…có thực tại mà người làm thơ chưa tiêu hoá cái thực tại ấy qua tâm trí mình, thì theo tôi, hiện tượng thơ cũng chưa được sản sinh”[7,36]. Quy luật lớn của thơ là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 tình cảm, là những thực tế ngồn ngộn kia xúc động thế nào vào một tâm trí, để rồi từ tâm trí, bản lĩnh cá thể hoá đó, tác động vào hàng triệu tâm trí cá thể hoá khác” [ 7, 136]. Xuân Diệu gọi tâm hồn và trí tụê của nhà thơ là “cái lò cừ nung nấu sự đời” mà qua đó những nguyên liệu, chất liệu của cuộc sống phong phú ngồn ngộn được nhào luyện, tái tạo để thành thơ văn [5, 715]. Thơ chính là cuộc đời, là sự sống được lọc qua tâm hồn trí tuệ nhà thơ.Thơ là sản phẩm của tâm hồn trí tuệ, “thơ là tiếng hát của tâm hồn, là sự thực trần trụi của tâm hồn” [10, 228] thể loại này thiên về phía bộc lộ cảm xúc tình cảm. Ngày xưa Lê Quý Đôn (1726- 1784) khi bàn về thơ cũng đã sắp xếp theo thứ tự Tình, rồi mới đến Cảnh, và Sự: “Ta thường cho làm thơ có ba điều chính: một là Tình, hai là Cảnh, ba là Sự. Trong lòng có cảm xúc thật sự, rung cảm sẽ nên lời….Tình là người, cảnh là tự nhiên, sự là sự hợp nhất cả trời và đất. Lời tình tham cảnh, lấy cảnh hội việc, gặp việc thì nói ra thành lời, thành tiếng.” Ngô Thì Nhậm trò chuyện về thơ với Phan Huy ích cũng khẳng định: “…Hãy xúc động hồn thơ để ngọn bút có thần”. Kế thừa và phát huy truyền thống thơ ca dân tộc, Xuân Diệu đặc biệt đề cao vai trò của cảm xúc tình cảm trong thơ: “Thơ là một vấn đề của tâm tình, hơn là vấn đề bày biện. Thơ bảo ta phải nói cảm xúc”[5,125]. “Quy luật lớn của thơ là xúc cảm và suy nghĩ”[7,152].Theo ông xúc cảm không đơn thuần chỉ là rung động tình cảm, bởi vì người ta có thể rung động rất nhiều thiết tha chân thành đến ứa lệ, nhưng ra nước mắt chưa hẳn đã ra thơ; nói xúc cảm là nói “những rung động tình cảm cộng với đồng thời một cơn rung động về vần điệu, hình tượng âm thanh, một hứng thú sáng tạo” [6,85].Và suy nghĩ ở trong thơ cũng phải cao hơn suy nghĩ bình thường “ tức là suy nghĩ trở thành xúc cảm” [ 7,152]. Từ đấy Xuân Diệu xác định: “Bài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 thơ hay kết hợp được cảm và nghĩ; cảm là xúc cảm tình cảm; nghĩ, hiểu theo nghĩa rộng là có tính tư tưởng, chứ không phải bắt buộc bà i thơ cứ phải suy nghĩ, cố mà “suy nghĩ” đến nỗi thành ra triết lý dễ dàng; trong xúc cảm, tình cảm cũng mang tính tư tưởng” [7,178] . Xuân Diệu quan niệm “bài thơ nên đầy nặng tư tưởng”, nhưng tư tưởng trong thơ phải được diễn đạt qua xúc cảm, “văn học mang tư tưởng xuyên qua tình cảm cảm xúc”. Khác với một nhà tư tưởng, một nhà triết học là “nhà thơ đầy xúc cảm, diễn đạt bằng xúc cảm, suy nghĩ qua xúc cảm” [7,178].Cái mà người đọc đòi hỏi ở thơ là tình cảm: “Dù nói đến người, đến vật, đến việc cũng phải tràn trề tình cảm! người ta đòi hỏi người thi sỹ phải nói bằng tất cả trái tim, linh hồn của mình, càng dạt dào càng hay”. Thơ văn đối với Xuân Diệu bao giờ cũng ra đời trong nỗi niềm “ đầy rẫy cảm xúc” của thế giới nội tâm của nhà thơ, nhà phê bình này liên tưởng thật thú vị khi viết : “ Tác phẩm văn học là sự cưới xin giữa ngoại vật và nội tâm nhà thơ”, nội tâm có sức mạnh “ qui tụ cảnh vật bên ngoài vào quanh một cái trục, biến vật vô tri thành ra tình cảm”[5, 1017].Có lẽ chính vì thế mà ông lưu ý các bạn làm thơ không được coi thường nội tâm: “Thơ là kỹ sư của tâm hồn hơn loại nào hết, là nội tâm của tình cảm…Làm thơ sao lại coi thường nội tâm” [7,143] “hơn các thể loại khác, thơ diễn đạt xúc cảm tình cảm…diễn đạt thế giới bên trong nội tâm. Làm thơ mà không chú trọng nội tâm, thì sẽ bị sự thiếu sót đó quật lại mình,bài thơ sẽ không ở lại trong trí nhớ người đọc.Trên cơ sở đó Xuân Diệu nhận xét về nhược điểm của trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, là chưa quan tâm nhiều đến nội tâm của tình cảm, cho nên: Đường tới thành phố để lại cho tâm trí tôi một cảm tưởng hơi rối, và tôi thấy lắng đọng lại ít”.[7,142- 143].Ông ca ngợi tập thơ Từ ấy của Tố Hữu, tràn đầy cảm xúc tràn đầy tình cảm; nó có một điệu cảm xúc say mê. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 Thấy rõ vai trò của tình cảm trong thơ, Xuân Diệu nhận ra những người trẻ tuổi và thơ là hai ý niệm thường gắn liền với nhau, bởi “đã nói đến thơ là phải nói đến trẻ: sức sống trẻ, trí tưởng tượng trẻ, cảm xúc trẻ, ngôn ngữ trẻ, vần điệu trẻ, tâm hồn mãi mãi trẻ”.Tuổi trẻ là cái tuổi bắt đầu cuộc đời, người ta có trăm nghìn cảm xúc mới lạ, người ta có sức trẻ cần thiết cho thơ, người ta thường tràn trề đầy rẫy chứ không khô cạn; người ta dễ hăng hái, táo bạo; tâm hồn người ta rất nên thơ, người ta yêu thơ”… [5, 331-332]. Trong bài Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ Xuân Diệu tâm sự: các bạn làm thơ muốn làm được thơ hay cái phải bồi dưỡng trước hết là cái gốc tình cảm, bồi dưỡng tâm hồn, nếu người làm thơ yêu qua loa cảm xúc cạn như đĩa đèn thì không bao giờ có được thơ hay: “Bạn muốn làm thơ, bạn muốn làm thơ hay, mà bạn yêu cuộc sống như thế nào..Bạn có nhìn cuộc sống như khi bạn nhìn khuôn mặt thương yêu hay không? cuộc sống đây trước hết là những con người làm nên xã hội, là nhân dân lao động..; cuộc sống đây là thiên nhiên rất mực xinh đẹp…Mồ hôi nước mắt, nụ cười của những con người lao động và đấu tranh xáo trộn lòng bạn sâu đến đâu. Bạn có thấy lòng yêu, ghét đúng đắn và lớn lao vọt lên từ đáy trái tim bạn.Đó chính là cái gốc của thơ” [5, 349]. Xuân Diệu nêu những suy nghĩ này ra không chỉ đòi hỏi ở các bạn làm thơ trẻ mà còn là một yêu cầu với chính bản thân mình- một nhà thơ. Đọc thơ Xuân Diệu từ tập thơ đầu tay Thơ thơ, ta đã gặp một tâm hồn trẻ trung dào dạt sức sống ,với những cảm xúc tràn đầy.Ngay từ Lời đưa duyên mở đầu tập Thơ thơ, nhà thơ trẻ này đã tự giới thiệu những bài thơ của ông: “Đây là hồn tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân, và đây là tuổi xuân của tôi, và đây là sự sống của tôi nữa: tôi đem tặng cho mọi người….Tôi để lòng tôi trong những câu những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 tiếng, tôi đã gửi nhịp máu trong nhịp thơ, đã gói gém hơi thở của tôi trong ít nhiều âm điệu. Tôi sợ mất sự sống của tôi, không muốn nó rơi rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng, tôi đã ráng bỏ từng mảng đời tôi trong hàng chữ, để gửi đi, gửi đi cho người, cho bốn phương”[34,36]. Chúng ta thấy ở đây sự sống ăm ắp trong tất cả nối niềm của thi sĩ, đó là tiếng nói của một tâm hồn tràn đầy xúc động, tràn đầy tình yêu cuộc sống. Cao hơn nữa Xuân Diệu cho rằng “Thơ là một sản phẩm của trí tuệ, sản phẩm trí tuệ ấy gắn chặt với thực tại với xã hội, với tình cảm con người”[10, 130]…. ông viết “gần đây, nhiều bạn làm thơ có chủ ý tốt, muốn làm thơ chứa đầy trí tuệ, có tầm cao của tư tưởng.Thơ phải như thế thật, chứ không nên lẹt đẹt. Tuy nhiên, số bạn đó hiểu nhầm thơ trí tuệ, thơ tư tưởng. Theo tôi nghĩ không phải cứ nói những chuyện tư tưởng, tôi suy nghĩ cuộc đời như thế này, thì mới là thơ cao, rộng, xa,”[7,62]. Xuân Diệu đã phân biệt rõ các khái niệm “lí trí”, “Lí trí luận” “trí tuệ” để tránh sự lẫn lộn hoặc đồng nhất những khái niệm này. “Lý trí là nòng cốt của tư rưởng, là cái sức lý luận của trí tuệ, cái khả năng nhìn sự vật một cách khách quan, khoa học. Lý trí là cái phần tỉnh ở trong thơ, cái phần dẫn dắt bài thơ, bảo đảm cho nó đúng và tốt”.Trí tuệ “là do cái kết quả cao cuối rất tinh vi, kỳ diệu của sự phản ánh thực tại vào trong tâm não con người, và ở trong nghệ thuật, trí tuệ tự nó lại lấy những tài liệu, chất liệu của thực tại mà sáng tạo ra tác phẩm”. Từ đó ông xác định: “Một tác phẩm nghệ thuật là sự quyện xe nhào nặn giữa thực tại và trí tuệ (bao gồm tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, cá tính…) của nghệ sỹ”…Bài thơ là kết quả của mối quan hệ biện chứng giữa lý trí, trí tuệ và tình cảm tâm hồn. Thơ cần chú ý bảo đảm được phần tỉnh táo, đúng đắn của lý trí, nhưng không phải là lý trí luận. Những sự vật trong đời sống thực tế, những tình cảm, xúc cảm trong con người là những nguyên liệu cho trí tuệ nhào nặn. Nếu không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 gắn chặt với tình cảm thì thơ sẽ đi vào mờ mịt mông lung, và cuối cùng là trống rỗng, nếu không có trí tuệ thì thơ sẽ kể lể, chụp ảnh, cóp nhặt, đếm, “thơ sẽ thành một cô tuỳ tùng vụng dại, tầm thường của thực tại”[10, 130]. Xuân Diệu đánh giá trí tuệ của người thi sĩ khi làm thơ ở hai khả năng: khả năng trừu tượng hoá và khả năng cụ thể hoá bằng hình tượng nghệ thuật “tôi nghĩ rằng, đứng về phía trí tuệ mà nói, một nhà thi sĩ cần phải có một khả năng trừu tượng hoá càng cao lại càng quý báu, thì sức hiểu biết cuộc đời mới rộng lớn; nhưng trừu tượng hoá rồi lại phải cụ thể hoá, và phải dùng hình tượng thì cuộc đời mới có da có thịt”[10,131]. Thơ dùng suy nghĩ hình tượng, và những suy nghĩ hình tượng đó thể hiện sự hiểu biết trong trí tuệ của nhà thơ. Tóm lại quy luật quan trọng đối với một tác phẩm thơ , theo cách nói của Xuân Diệu là “sự cộng thêm vào thực tại một tâm hồn, một trí tuệ, một tình cảm, một sáng tạo”. “Tác phẩm thơ được sinh ra do sự quyện xe rất tập trung, nâng lên cao độ của thực tại khách quan với tâm hồn trí tuệ con người”. Đây là một quan niệm đúng đắn và đầy đủ, bởi: “thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người lao động, phấn đấu, suynghĩ, yêu thương, trong cái phần cao nhất, sâu nhất của họ , tức là tâm trí” [ 7, 36]. 1.3.1.4 Thơ phải mang cá tính sáng tạo của nhà thơ Khi nhà thơ đã hoà tâm hồn vào thực tại, khi người cầm bút đã sáng tác với tất cả niềm say mê của con tim, khi bài thơ đã ra đời đã kết tinh những sự sống quyện xe ấy thì nhất định nó sẽ mang vẻ đẹp của chủ thể sáng tạo. Cũng như nhiều nhà thơ khác, Xuân Diệu rất coi trọng cá tính sáng tạo trong lao động nghệ thuật. Nhiều lần ông khẳng định “tác phẩm nghệ thuật là một sản phẩm rất cá thể hoá, không thể họp những đầu, mình, tay, chân đẹp ở nhiều nơi để thành một con người đẹp được” và “hơn tất cả mọi ngành nghệ thuật nào, thơ phải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 thật cá thể và cụ thể”. Xuân Dịêụ lấy từ sự vật hiển nhiên trong đời sống, không có hai người nào cá tính giống nhau dù là anh em sinh đôi, mặt mũi giống nhau, cùng chung một sự nuôi dưỡng giáo dục, đến câu chuyện người nghệ sỹ múa bậc thầy U- na- lô- va biết chú trọng cá tính học trò, để khẳng định: thơ phải rất sống, thơ phải cá thể hoá.[7, 40- 41]. Cá tính là gì ? Xuân Diệu cho rằng:“cá tính đây không phải là những khúc khuỷnh của tính nết cá nhân…ỏ đây ta muốn nói cá tính của sự sáng tạo thơ nó nằm trong quy luật biện chứng của đời sống, là cái chung phải thể hiện qua những cái riêng, riêng càng sâu thì chung càng phong phú” [7, 40]. Đó là sự in dấu của tâm hồn trí tuệ vào thơ, sự in dấu đó càng sâu sắc, càng cá thể,càng độc đáo càng hay. [7, 36]. Xuân Diệu gọi cá tính là “hương sắc tâm hồn riêng” của từng tác giả, ông ví cá tính của các nhà thơ như hương sắc riêng của từng loài hoa: “Ít nhất tâm hồn của các nhà thơ cũng phải được như sự giàu có của giới tự nhiên: trăm hoa, trăm hình,trăm sắc, trăm hương… không được như vậy thì thơ buồn lắm! Thật ra hương sắc tâm hồn các nhà thơ còn phải cá thể hoá gấp muôn ngàn lần các thứ hoa, chứ sao lại bằng với các thứ hoa !”[7, 40] Theo Xuân Diệu cá tính có được là do chính tài năng sáng tạo, điệu cảm xúc tâm hồn của nhà thơ đã đóng được một con dấu riêng vào đời sống chung.“Những nghệ sỹ có tài đem điệu cảm xúc của mình hoà kết vào chất liệu của vấn đề đẻ ra những tác phẩm cụ thể hoá, có mang tên người làm không trộn lẫn được”.“Chính tài năng và những tìm tòi của tác giả, chính tâm hồn tác giả đóng được một con dấu riêng vào những sự vật chung” [5, 217-218].Tuy nhiên Xuân Diệu cũng lưu ý người làm thơ cá thể hoá không phải là cá nhân chủ nghĩa,nó không nên là cái lo đầu tiên của người nghệ sỹ, mà cái lo trước hết là cái lo “có bột mới gột nên hồ”, có chất sống, để rồi từ đó Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 mới in dấu hương sắc tâm hồn riêng của mình vào đó. Người đọc thơ và người làm thơ không đi tìm một thứ cá tính, một thứ độc đáo giả tạo, vay mượn, cố tình, lố bịch!, người yêu thơ đòi hỏi hương sắc tâm hồn riêng của tác giả phải là hữu xạ tự nhiên hương, là một sự chân thành chân thực [7, 41- 42]. Cá tính là một đặc điểm tiêu biểu của một nghệ sỹ chân chính, nói như Tuốcghênhiep “cái quan trọng là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình, không thể tìm thấy trong cổ họng của bất cứ người nào khác”…Chính cái giọng điệu riêng biệt, bút pháp độc đáo ấy khiến cho người ta nhớ thơ yêu thơ “thơ phải rất sống, thơ phải cá thể hoá, thơ không có cái nhọn sắc cá thể hoá của sự sống thì người ta chẳng yêu thơ” [7, 40]. “Chính cái cá tính, cái tâm hồn, cái điệu cảm xúc của những nhà thi sỹ vào trong thơ và làm cho câu thơ hàng vạn người đã dùng trong hàng nghìn năm bỗng chốc mới và trẻ ra” [5,138]. Xuân Diệu chứng minh điều đó bằng việc so sánh cách sử dụng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống quen thuộc: “Những câu lục bát chẳng hạn, của những thi sĩ có tài có giống nhau chút nào đâu ? ngay lục bát của ca dao đã trăm hình ngàn vẻ rồi”. Lục bát của bà Đoàn Thị Điểm than thở hiền lành, lục bát trong Cung oán ngâm thì gò gẫm khô khan, Nguyễn Du trong Truyện Kiều có hàng trăm điệu lục bát. Lục bát của Huy Cận không giống chút gì với các nhà thơ cổ điển nọ, lục bát của Nguyễn Bính cũng không nhầm lẫn được với ai, đến câu lục bát của anh vệ quốc lại là một điệu mới hẳn”.Và ông nhận xét: “Những câu thơ dở giống nhau trong cái vô vị nhạt nhẽo mà thôi; những thi sỹ không làm nổi một điệu lục bát của mình phân biệt với điệu lục bát của những người xung quanh, thì cũng chưa phải là thi sĩ” “nếu những điệu thơ đều đặn cứ giống nhau, có khác gì bảo những mặt người đều có tai có mắt có miệng như nhau , và nhìn rất chán”. [5,138]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Là nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho cái tôi cá nhân, cá thể được thức tỉnh trong phong trào Thơ mới 1932- 1945, nói như Hoài Thanh đó là một cái tôi “thiết tha rạo rực băn khuăn”, Xuân Diệu định nghĩa “phong cách Thơ Mới tức là cảm xúc đầy rẫy, đồng thời với việc cá thể hoá” [5,591]. Ông đánh giá tập thơ Từ ấy của Tố Hữu độc đáo, có cá tính sâu sắc là bởi “không nói chung chung như thơ của rất nhiều chiến sỹ khác, mà nói xuyên qua trường hợp cá thể của mình, của “tôi”. Cái tôi bao trùm hàng trăm ngàn chiến sĩ cộng sản chứ không cá nhân cô đơn; nhưng đồng thời nó là “ tôi” cảm xúc rất sâu, rất sắc, nhà thơ cách mạng tự biểu hiện mình, tâm hồn nhà thơ cách mạng tự ca hát” [5, 593]. Sự quan tâm đến yêu cầu cá thể hoá trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng cũng chính là sự quan tâm đến chiều sâu vẻ đẹp nhân bản và tính hiện đại của văn học. Quan niệm của Xuân Diệu về cá tính trong thơ xuất phát từ những khách quan trong thực tiễn sáng tác và những yêu cầu của bạn đọc, nó mang tính khoa học đúng đắn. 1.3.2 Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ. Bêlinxk gọi phê bình văn học là “ sự tự nhận thức của thời đại”, là “mĩ học vận động”. Đó là sự phán đoán thẩm bình, đánh giá và giải thích tác phẩm văn học, nghiên cứu một cách toàn diện những mối liên hệ bên trong và bên ngoài hết sức phức tạp của sáng tác nghệ thuật để nhận thức sâu sắc hiện thực đời sống được tác phẩm phản ánh. Chính vì vậy điều mà Xuân Diệu đặc biệt quan tâm là khoa học phê bình, nghệ thuật phê bình. Ông có quan niệm về phê bình thơ vừa bao quát mang tính nhất quán, vừa là biểu hiện sống động của quan niệm thơ của ông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 1.3.2.1 Phê bình văn học phải coi trọng vai trò của công chúng Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình luôn có cái nhìn hướng tới công chúng, độc giả. Bởi trước hết ông là một độc giả yêu thơ, đến với thơ ca từ rất sớm. Hơn nữa bất cứ nhà phê bình nào trước khi phê bình họ cũng đều là công chúng, độc giả của văn học. Hay nói cách khác ở bình diện thứ nhất cả nhà phê bình và công chúng đều là độc giả của tác phẩm văn học.Ở bình diện thứ hai trên cơ sở lý thuyết và tầm hiểu biết cao nhà phê bình phải “điều chỉnh”, định hướng sự tiếp nhận các giá trị văn học. Cùng với lao động nghệ thuật sáng tạo thơ ca, sau cách mạng tháng Tám, được tắm mình trong đời sống nhân dân, Xuân Diệu đã tâm sự chân thành: “Tôi ao ước và ao ước chỉ một cái việc làm anh kép, bác xẩm vẻ vang đi bình thơ tận nơi cho những người chiến đấu và lao động nghe ngay tươi sốt, cũng đáng cho mình sống một, hai cái đời nữa ! “Tôi ao ước muốn viết được nhiều tiểu luận, vì công chúng mới của ta cần chiếm lĩnh kho tàng văn hoá, rất cần sự môi giới của nhà văn. Tôi ao ước viết Thi thoại, cái việc mà Tuỳ Viên xưa đã làm, m ình với người đọc như đôi bạn gác đùi lên nhau nói chuyện thơ xưa nay, thích thì vỗ đùi mình hoá ra vỗ đùi bạn…Tôi ao ước làm thế nào hút nhuỵ mật từ những sáng tác quần chúng hiện nay đang lên một chất lượng cao, vượt bậc thành những bài thơ thật xứng đáng với tên ấy”. [6,14- 15]. Đó là “sự tâm đắc của lòng yêu” và cũng là “sức điện” thôi thúc Xuân Diệu đến với hàng trăm cuộc bình thơ, viết nên hàng nghìn trang tiểu luận, phê bình đầy sức cuốn hút người đọc. Ở lĩnh vực hoạt động này, chúng ta càng có cơ sở để hiểu hơn một phương diện thế giới tinh thần phong phú của nhà thơ Xuân Diệu qua những quan niệm của ông về phê bình văn học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 Trước hết, với Xuân Diệu dù là “phê bình nói” hay “phê bình viết” đều không ngoài mục đích đưa tác phẩm văn học nói chung và thơ ca nói riêng đến với người nghe người đọc. Ông ý thức được một cách sâu sắc, công chúng- người đọc, là lẽ sống còn của nhà văn. Nhà văn phục vụ nhân dân bằng tác phẩm của mình. Đó là mối quan tâm hàng đầu, là xuất phát điểm của Xuân Diệu khi đi vào sáng tác và nghiên cứu phê bình. Với quan niệm “thơ là thứ hoa càng nhiều người hái, nhiều người yêu, thì hoa thơ càng tươi càng sống”, Xuân Diệu rất thấm thía “thật ngây thơ dại dột là người nào viết thơ, phê bình thơ mà không thấy mỗi cá nhân người đọc là then chốt”. Câu chuyện giữa công chúng và nhà văn là câu chuyện giữa “mình với ta” “mình với ta tuy hai nhưng là một”, ông gọi đó là “mối duyên văn tự”. “Mình là nghìn vạn tri âm tri kỷ của ta! ta là kẻ luôn luôn tìm đến hoà làm một với mình; ta chỉ xin được làm người đầy tớ của mình, phục vụ hầu mình suốt đời bằng ngòi bút” [10, 148].Ông chỉ rõ đây là mối quan hệ tương tác hai chiều: nhà văn tác phẩm phải tìm đến độc giả, nhưng công chúng độc giả cũng cần tìm cách đến với nhà văn, với tác phẩm có sự gặp nhau nhanh chóng hơn. Độc giả không chỉ là người cứu vớt cái chai trong tác phẩm như thi sĩ Pháp thế kỷ XIX Đờvinhi, mà trong chế độ mới độc giả còn là cái áo giáp giữ gìn che chở cho nhà thơ khỏi những lầm lạc. Nhà thơ ví mối quan hệ đó như quan hệ cá với nước: “Phải, các anh, các chị bạn đọc là nơi tôi đi đến, là mộng tưởng,mơ ước của tôi; bạn là nước, tôi là cá, cá sung sướng quẫy đuôi trong nước xanh leo lẻo” [10,148- 149]. Xuân Diệu đã kể lại câu chuyện về nhà thơ Maiakốpski – một nhà thơ lớn được nhân dân Xô Viết và nhân dân thế giới rất yêu quý.Sinh thời, Maiakốpski đã phải phấn đấu cật lực để làm cho công chúng yêu và hiểu thơ mình. Với suy nghĩ : “Câu thơ khó nhất, nếu nó được bình giảng bằng vài ba câu giới thiệu, thì trở nên lý thú và hiểu được”,nhà thơ Xô Viết này đã đọc thơ mình cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 nông dân, cho thợ khuân vác bến tàu, cho công nhân nghe, và những người lao động ấy đã thông cảm và hiểu thơ của ông. Xuân Diệu đề nghị người phê bình nên học tập,vận dụng cái phương tiện tuyên truyền giải thích các tác phẩm mà Maiakốpski đã đề ra: “Các nhà văn, nhà phê bình, các cán bộ văn hoá, phát hành… đều nên là những người tuyên truyền cổ động cho những tác phẩm nâng cao”, ông cho rằng đây là cách tốt nhất để “cướp lấy thời gian”, để “rút ngắn cái thời gian thiệt thòi của quần chúng, nó đã lâu hàng nghìn năm rồi”.[10,154-159] Với quan điểm nhà phê bình phải luôn luôn gần gũi công chúng, bằng vốn hiểu biết sâu rộng của mình , Xuân Diệu dã viết hàng ngàn trang tiểu luận, phê bình viết vẫn chưa đủ ông còn là người đi nhiều nơi nói chuyện thơ với công chúng, theo Huy Cận ghi nhớ “có tới gần một nghìn cuộc bình thơ cho đến ngày Xuân Diệu mất”.Ông tự coi mình là “anh kép, bác xẩm vẻ vang” của cách mạng, đi bình thơ tận nơi cho nhân dân, giúp họ nâng cao trình độ thưởng thức thơ, lòng yêu thơ. Nhà thơ Pháp Mirây Găngxen gọi Xuân Diệu là “một người hát dạo của nhân dân trong thời kỳ hiện đại”.Về phía nhà thơ như vậy còn công chúng thì sao ? công chúng cũng nên ủng hộ nhà thơ bằng cách chống quan niệm “tự nhiên nhi nhiên” thủ công nghiệp và nông nghiệp, bằng một thái độ tìm hiểu chiếu cố; những bài thơ đoạn thơ thoạt đọc như là khó, thì chưa nên vứt đi ngay, mà hãy làm như Maiakốpski yêu cầu: thử đọc lại ba lần, năm lần, xem nó chứa đựng một cái duyên ngầm nào không. Có như vậy công chúng mới hưởng được niềm vui cao quý: Càng đọc càng hiểu sâu, càng phát hiện càng khám phá cái hay, vẻ đẹp đa dạng của thơ. Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình với cái nhìn hướng tới công chúng, coi trọng vai trò của công chúng độc giả có cội rễ sâu xa từ bản chất của một hồn thơ rộng mở luôn khao khát giao cảm với con người và cuộc đời. Đồng thời quan niệm ấy cũng thể hiện những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 chuyển biến lớn lao trong tâm hồn và tư tưởng của nhà thơ khi được Đi trên đường lớn, khi cái tôi – cá nhân cá thể được hoà nhập với cái ta rộng lớn của đất nước dân tộc. “Cách mạng đã mở ra cho tôi những chân trời mà trước đây tôi không thể mơ ước được… Sự công nhận của đông đảo quần chúng là nguồn sức mạnh, nguồn cảm hứng của tôi…” 1.3.2.2 Nhà phê bình phải có ý thức về mục đích, nhiệm vụ phê bình thơ Trong mối quan hệ giữa nhà thơ và bạn đọc, phê bình văn học chính là chiếc cầu nối giữa tác giả, tác phẩm và người đọc; nhà phê bình chính là người môi giới hết sức cần thiết giúp cho công chúng chiếm lĩnh kho tàng văn hoá nói chung và thơ ca nói riêng.Đó chính là mục đích của phê bình, mục đích ấy luôn luôn được Xuân Diệu xác định rõ ràng trong các bài tiểu luận của mình. Phê bình thơ một mặt phải cổ vũ, động viên khuyến khích được phong trào sáng tác; mặt khác phải đấu tranh chống những quan điểm hoặc cực đoan, hoặc thô thiển dung tục về văn hoá văn nghệ. Điều quan trọng là vừa bảo vệ được những giá trị đích thực của thơ, vừa giúp các tác giả thơ có ý thức phấn đấu nâng cao chất lượng sáng tác, vừa định hướng thẩm mỹ đúng đắn cho công chúng, giúp cho công chúng ngày càng nâng cao trình độ thưởng thức thơ, đánh giá thơ, hướng tới xây dựng một nền thơ hiện đại. Xuân Diệu Bàn về chất lượng thơ, Phê bình giới thiệu thơ không có tâm tình nào khác hơn là “muốn sản phẩm thơ của chúng ta được người đọc công nhận hơn nữa, mến yêu hơn nữa, có tác dụng với bạn đọc với cương vị là thơ” [7, 205], giúp cho những người làm thơ “nghiêm ngặt đối với ngòi bút của mình”. Về nhiệm vụ của phê bình thơ, xuân Diệu khẳng định điều quan trọng nhất là phải đưa cái đúng, cái tốt, cái hay của thơ vào công chúng. Đó là mãnh lực của thơ để đưa mọi người lên đường đấu tranh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 xây dựng. Yêu cầu của quần chúng lao động ngày nay là không chỉ được thưởng thức cái đúng, tức không sai, thuộc phạm trù chân lý; tốt không xấu, thuộc phạm trù đạo đức, mà cần có cái hay, tức không dở, thuộc phạm trù thẩm mỹ – cái hay ở đây bao gồm: đẹp đẽ, hấp dẫn, thoả mãn cái nhu cầu về tình cảm, xúc cảm, những khát khao và những mơ mộng…[7, 286]. “Nhân dân lao động có quyền được hưởng những tác phẩm hay có chất lượng cao” [7,220]. Nhân dân lao động yêu cầu các nhà thơ giáo dục họ xuyên qua cái đẹp, cái tình cảm rung động, cái xúc cảm sâu sắc, họ có một mảng tâm hồn mà họ yêu cầu thơ thoả mãn cho mình” [7, 287]. Chính vì vậy mà nhiệm vụ của phê bình thơ là “cần nêu được cái hay tuyệt vời , hoàn mỹ” của các tác phẩm thơ, để “giúp các bạn yêu thơ hiểu một thời đại, một nền thơ, một nhà thơ” 1.3.2.3 Nhà phê bình phải có khát vọng cảm thông và thấu hiểu Đi sâu hơn nữa vào lĩnh vực phê bình, Xuân Diệu quan niệm rằng mỗi tập thơ là “một cơ thể, một sinh vật”, “một tác giả”, “một con người”, do đó trong phê bình “khen hay chê chưa quan trọng bằng cảm thông và thấu hiểu” [10, 142].Nói “khen hay chê chưa quan trọng bằng” có nghĩa là Xuân Diệu khẳng định cần thiết phải có khen chê trong phê bình văn học. Khen chê là chuyện thường tình của bất cứ độc giả nào khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, nhưng nhà phê bình khi tiến hành công việc phân tích lí giải, đánh giá một tác phẩm, thì việc nhận xét khen chê của họ sẽ có ảnh hưởng đến cả người viết và người đọc. Bởi: “Chê thơ mà không đúng thì rất có hại, làm nản người viết. Nhưng khen thơ mà không đúng, thì cũng rất có hại, vì khuyến khích sự viết dở, và có một cái gì như là quảng cáo cho hàng không tốt , ngoài sự làm sai lạc khiếu thẩm mỹ của công chúng, còn phạm vào sự chân thật, sự thật thà” [7,207]. Ông cho rằng viết kém viết dở là điều không đáng vui, nhưng cũng là chuyện bình thường của sáng tác, còn việc đem những bài thơ viết kém, viết dở “đặt lên bục, dội đèn pha Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 vào và khen là hay, thì vấn đề đã khác thường rồi, đã bắt đầu nặng lên rồi”.Việc làm đó cũng giống như sự lẫn lộn mơ hồ giữa vàng thật với vàng giả, hậu quả thật ghê gớm: nó sẽ thủ tiêu văn học, bởi cuối cùng không biết thế nào là văn học nữa. Vì vậy Xuân Diệu nhấn mạnh: “Đức tính trước tiên của một lời phẩm bình là sự chính xác, sự xác đáng” [7,205].“Tất cả vấn đề của sự đánh giá là phải xác đáng. Chê phũ phàng, chê vùi dập là không nên đối với một nền văn học mới còn trẻ tuổi; mặt khác, nói khuyết điểm mà đúng huyệt và chí tình còn làm cho tác giả có bản lĩnh khoái và cảm động hơn là một lời khen quá thặng lên…” [7,268]. “Những người sáng tác vẫn thường khao khát một sự điểm trúng huyệt; có khi chê mà rất tri âm, nghe lại khoái, như gãi đúng hộ chỗ ngứa ở sau lưng”. [10,129]. Chỉ có khen chê một cách xác đáng, phê bình mới thực sự đóng vai trò hướng dẫn dư luận bạn đọc và thúc đẩy sáng tác.Cái hay, cái khó của phê bình văn học có khi chính là ở chỗ này. Và cũng ở đây sẽ thể hiện trình độ, tài năng, bản lĩnh và cả đạo đức của Nhà phê bình. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã từng phát biểu về vấn đề này: “Phê bình thật là khó. Theo tôi nghĩ có khi còn khó hơn cả sáng tác, vì chính bản thân cái cái công tác ấy, nó rất có tính sáng tạo, và nó cần phải được như thế. làm đúng làm hay, nó có giá trị cả hai mặt : trước là đánh lui và đánh chết cái hư hỏng , cái ác; và mặt khác, nó đưa cái tốt lên, nó làm yên tâm và gây hào hứng cho những thiện chí, và nói theo tự vị kinh tế, thì nó đẩy mạnh lực lượng sản xuất, mức sản xuất và chất lượng sản phẩm”.[42,286]. Vốn đã từng tham gia ban chung khảo nhiều cuộc thi thơ, từng là chủ tịch nhiều năm Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Xuân Diệu càng thấm trải cái khó khăn của việc lựa chon đáng giá. Trong hơn nửa thế kỷ, vừa là nhà thơ hàng đầu, vừa là “nhà Luật pháp” đầy uy tín của nền thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu rất quan tâm đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 việc khen chê kịp thời để động viên phong trào sáng tác và khẳng định những thành tựu mới của từng tác giả, tác phẩm. Đôi khi ý kiến của Xuân Diệu chưa hẳn đã thoả đáng, nhưng nhìn chung phần lớn đều được công chúng chờ đón, tin cậy. Ở những mức độ khác nhau, mỗi lời góp ý chân thành của Xuân Diệu, cả người đọc và người được phê bình đều lắng nghe và tiếp nhận. Tuy nhiên để phê bình văn học thực sự trở thành người bạn đường của văn học, Xuân Diệu rất coi trọng niềm cảm thông và thấu hiểu giữa nhà phê bình và nhà sáng tác.Thấu hiểu ở đây được Xuân Diệu giải thích rõ là thấu hiểu tư tưởng lập trường đã đành, còn thấu hiểu phương pháp cấu tứ, tạo hình, bút pháp, thói quen, cá tính, lối “kiến trúc”, “dạ đẻ thơ” của một nhà thơ… nói như Hoài Thanh: “Ta đừng nói to, đừng bước nặng, hãy lắng hồn ta lại để đón lấy hồn người…chớ làm kinh động chút hồn thơ đang nương mình trong bụi cỏ lời thơ…”. Sở dĩ như vậy, bởi vì theo ông, “một niềm vui lớn mà văn học đưa đến cho tâm trí con người là sự hiểu biết, sự cảm thấu, Nếu được cảm thấu người ta sẽ sống lên gấp hai, gấp ba lần, nghĩa là khám phá thấy loài người ở trong một bản thân mình” [11,463]. Nhà phê bình thật sự bao giờ cũng giúp cho người đọc qua mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm sẽ có được cuộc sống như vậy, chứ không phải lên lớp chủ quan bằng chủ quan của mình. Xuân Diệu quan niệm “nhiệm vụ chính của nhà bình luận, nhà phê bình không phải là lên lớp, mà giúp cho bạn yêu thơ hiểu một thời đại, một nền thơ, một nhà thơ” [11,124]. Xuất phát từ quan niệm ấy, khi tìm về văn học quá khứ dân tộc, ông luôn ý thức phải nói sao cho thấu lý đạt tình. ông tra cứu, suy ngẫm từng từ, từng câu, ông đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác, hoàn cảnh sống của từng tác giả để lắng nghe cho thấu hiểu nỗi niềm của người xưa và đưa tâm tư ấy về gần với con người hiện tại. Năm 1957, sau khi chúng ta vừa tìm lại được Quốc âm thi tập, theo nhà phê bình Hoài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 Thanh, thì Xuân Diệu là người đầu tiên viết bài bình thơ Nôm Nguyễn Trãi với một nỗi niềm cảm thông sâu sắc: “Các bạn ơi! Hơn năm thế kỷ rồi thơ Nguyễn Trãi không bao giờ ngủ trong thơ Việt Nam, vời vợi cái lo âu điển hình của Nguyễn Trãi….Tóc bạc trên đầu, hoà lẫn với đêm khuya không ngủ, thơ Nguyễn Trãi thao thức một nỗi niềm gì…Người thi sỹ trước năm trăm năm, đốt tâm hồn cháy vòi vọi ở giữa trời đất…Khắc khoải như con quốc suốt một đời, cho dẫu chết rồi, lòng ưu ái của ông vẫn cứ cháy ran trên trang thơ, trong lịch sử” [33,34]. Xuân Diệu đã bộc bạch: “Năm 1957, khi Quốc âm thi tập vừa được phát hiện lại, trở về với đời sống, với chúng ta, tôi đã vui sướng vô hạn. Và bản thân tôi đã hào hứng đem ngay thơ Nguyễn Trãi vào quần chúng, giới thiệu những bài, những câu hay nhất” [11,78]. Hai mươi hai năm sau viết lại, ông nhận thấy khi đó mình vẫn chưa thật thấu hiểu, chưa biết nghe cho thủng “tiếng sấm”, cho nên không tránh khỏi lối viết sơ lược, nhiều khi tuỳ tiện. Lần thứ hai viết, Xuân Diệu đã thấy mình chín hơn: “Tôi đi theo Nguyễn Trãi, và để thơ Quốc Âm của cụ quần tôi cho tới mê mệt; tôi xin theo tác giả chứ không bắt tác giả theo tôi; tôi tìm hiểu, tìm hiểu, và tìm hiểu Ức Trai…Tôi cố gắng giữ mình đừng có tuỳ tiện gọt bớt Nguyễn Trãi để cho vào cái khung, cái khuôn mà tôi chuẩn bị sẵn theo ý tôi muốn” [11,124]. Để thấu hiểu nhà thơ Nguyễn Trãi, Xuân Diệu “phải lặn xuống cho thật sâu trong sự sống, trong tâm trí, trong sáng tạo của tác giả”[11,124] Khi Đọc một số ca dao kháng chiến của bộ đội , Xuân Diệu đã viết: “Tôi viết đây, chưa phải như một người phê bình văn học, cân nhắc đánh giá, mà như một người yêu mến, cảm thông- Thực ra, không phải tôi đọc, mà ở đây, tôi sống một số ca dao kháng chiến của bộ đội”[10, 173]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 Sở dĩ, “khen hay chê chưa quan trọng bằng cảm thông và thấu hiểu” vì theo Xuân Diệu, phê bình thơ còn thuộc về phạm trù thẩm mỹ, cái “gout”, phạm trù khiếu thưởng thức. mỗi người phê bình có cái “ gout” riêng của mình. Người thi sĩ làm thơ với tư tưởng và tình cảm và với cả những tế bào riêng của họ. Do đó nếu không cùng nhau thấu hiểu ở một quan niệm chung, nhận thức chung, nếu không thông cảm với nhau về một chất lượng chung thì biết cãi nhau thế nào cho hết lẽ.[7, 214] Có một thời, giữa nhà sáng tác và giới phê bình là một cái hố ngăn cách, giữa họ không có được sự “cảm thông và thấu hiểu” bởi có một số nhà phê bình chỉ dựa vào lý thuyết máy móc, giáo điều, và thực chất là không hiểu được quá trình sáng tạo nghệ thuật. Nhà phê bình thì lên mặt “dạy đời”, nhà sáng tác thì coi nhà phê bình là những “bà dì ghẻ cay nghiệt, lắm điều”.Nhà phê bình có nhiệm vụ phát hiện mặt mạnh, mặt yếu, cái được, cái chưa được, kịp thời khẳng định, biểu dương những khuynh hướng tư tưởng tiến bộ, đồng thời phê phán uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, góp phần định hướng cho sự phát t riển của một nền văn học. Đồng thời phê bình còn góp phần tạo nên công chúng độc giả cho văn học. Nhà phê bình chân chính phải là một nhà phê bình trong niềm cảm thông và khát vọng thấu hiểu, có như vậy phê bình mới thực sự là người bạn đồng hành của sáng tác, mới xứng đáng là bà đỡ cho những công trình mang nặng đẻ đau của người nghệ sỹ. Chế Lan Viên đã từng nói: “Chớ thấy mặt trời mọc lên rực rỡ ở đằng đông mà quên rằng nó đã thao thức trong suốt đêm qua ở phía bên kia chân trời”. Nỗi thao thức ấy cần một tình bạn Bá Nha - Chung Tử Kỳ, vì lẽ đó Xuân Diệu vẫn thường yêu cầu các nhà thơ, nhà văn, không được “cầu an”, nhà phê bình, người nghiên cứu cũng không thể cầu an để cùng vươn tới sự đồng điệu tâm hồn, niềm “tri kỷ” thiêng liêng trong sáng tạo nghệ thuật và thưởng thức nghệ thuật. Muốn thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 hiện được khát vọng cảm thông và thấu hiểu, ngoài lập trường, vốn sống, vốn kiến thức, nhà phê bình thơ còn phải am hiểu đặc điểm của sự sáng tác thơ, và cần hơn nữa là phải có con mắt xanh, biết thẩm bình tinh tế. 1.3.2.4 Nhà phê bình thơ phải có con mắt xanh biết thẩm bình tinh tế Một nhà phê bình chân chính cần có rất nhiều phẩm chất, một trong những phẩm chất mà Xuân Diệu nhiều lần đề cập tới trong các bài phê bình tiểu luận của mình, đó là cái “gu” của nhà phê bình thơ, nhà phê bình thơ phải có con mắt xanh biết thẩm bình tinh tế. Trong tiểu luận công việc làm thơ, Xuân Diệu viết: “Tiếng Châu Âu tiếng Pháp có chữ “gu”(gout) tức là năng khiếu phân biệt cái thanh và cái tục, cái ý nhị và cái sỗ sàng” [7,155]. Theo cách hiểu thông thường “gu” chính là khiếu thẩm mỹ, là năng lực cảm nhận cái đẹp. Cái “gu” của nhà phê bình thơ là linh khiếu, là khả năng nhận biết và định giá cái hay, cái đẹp của thơ, khả năng ấy kết tinh ở “con mắt Xanh biết thẩm mỹ”. Đây là một phẩm chất không thể thiếu ở một nhà phê bình giỏi, bởi công việc phê bình thơ nhiều khi “không ở trong phạm trù chân lý, đúng hay sai, mà ở trong phạm trù thẩm mỹ, trong phạm trù của cái “gu”, cái tinh khiếu thưởng thức. Ở đây cần phải rất bình tâm tĩnh trí, và không ở trong phạm trù chân lý, nên không thể dùng sự chứng minh” [7,266]. Hay nói như Nguyễn Đăng Mạnh: “Nếu các nhà khoa học khác phải nói chính xác về những đối tượng có thể cân đo đong đếm được thì phê bình văn chương lại phải nói những điều hết sức mong manh, mơ hồ nhiều khi là nửa hư, nửa thực” [25 ,343]. Giá trị của tác phẩm văn học không phải lúc nào cũng lộ ra ngay trên bề mặt câu chữ, vì thế nhà phê bình thơ “Phải có cái linh cảm của nhà nghệ sỹ chân chính để phun được cái hồn vào cho cái thân, phải làm cho cái hồn toát ra được từ cái thân, phải có cái linh nhãn để con mắt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 sắc hơn dao”, và theo ý Xuân Diệu “con mắt sâu lại còn cao cường hơn con mắt sắc”[7,214], có như vậy nhà phê bình mới chạm tới được “cõi sâu kín” mơ hồ, mong manh của tác phẩm văn học, mới có thể đánh giá bình luận một cách xác đáng và định hướng thẩm mỹ cho công chúng. Muốn vậy nhà phê bình cần phải rèn luyện để có “con mắt xanh biết thẩm mĩ….đừng để lọt mất nhân tài” “cần có con mắt tinh đời, tinh văn, tinh thơ, để nếu chưa có đủ sự lùi xa đặng chọn được các tác phẩm hay nhất liệt được vào hạng cổ kim đông tây, thì cũng đừng gieo rắc sự thẩm mỹ kém, đừng làm cho một sự quá dễ tính đến mức xô bồ” [7,219-220].“Con mắt xanh” ấy giúp nhà phê bình phân biệt được thế nào là “văn thợ trời”, thế nào là “văn thợ vẽ”,phân biệt thứ thơ hay với thứ thơ khéo léo, phân loại “bài thơ nào còn là ở mức thợ thủ công, bài thơ nào đã là đại công nghiệp, nên phân biệt thơ hay ở mức “nghệ nhân” và thơ hay đến mức “nghệ sỹ”, lại đến đại nghệ sỹ”[7, 224]. Trong công việc phê bình thơ Xuân Diệu đã tỏ rõ mình là một nhà phê bình có con mắt xanh, biết thẩm mỹ. Cái “linh khiếu” “linh cảm” của người phê bình đã giúp ông cảm nhận được cái dư ba, cái khoảng lắng ngoài ngôn từ và sau ngôn từ, sự nhạy cảm tinh tế giúp ông khẽ chạm tới được “cõi sâu kín” mong manh mơ hồ khó nắm bắt của các tác phẩm văn học. Với con mắt xanh tinh tường Xuân Diệu đã phát hiện ra câu thơ Bố cu lổm ngổm bò trên bụng trong bài thơ Thân phận người đàn bà của Hồ Xuân Hương “không phải là một câu thơ khôi hài thô kệch, và nông cạn; mà là một câu thơ nói cái bản lĩnh to tát của Hồ Xuân Hương”, ông cảm nhận người phụ nữ không phải là “em” là “thiếp” nữa, mà nàng đã trở thành bà mẹ tạo Tạo vật, bà mẹ thiên nhiên, đã là đất rộng núi sông [11, 442]. Hay câu Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve trong bài thơ Tát nước, nếu đọc lướt câu thơ này ta chẳng thấy gì cả, nhưng Xuân Diệu đã phát hiện ra cái kỳ diệu của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 câu thơ chính là ở tư tưởng “biểu dương người phụ nữ lao động đến tót vời” của Hồ Xuân Hương [11,520]. Bằng tài thẩm thơ của mình Xuân Diệu đã xếp trường ca Khúc hát người anh hùng của Trần Đăng Khoa là một bài thơ được viết rất khéo chứ không phải là một bài thơ hay, “Trần Đăng Khoa với tập Khúc hát người anh hùng đã không phát huy được chỗ mạnh của thơ anh khi còn tuổi thiếu niên, đó chính là “ cảm giác có tính chất thơ đối với cuộc sống”, mà anh đã đi vào kỹ xảo, anh đã viết rất khéo” [7, 273]. Con mắt xanh tinh tường của Xuân Diệu không chỉ phát hiện bản cáo trạng cuối cùng nằm ở màn đoàn viên tái hợp “mà đã tinh tế chỉ ra ba cấp độ trong ba lần Kiều cất tiếng của nạn nhân lên tố cáo”[17, 89]. Khi nghiên cứu phê bình, ở mỗi một nhà thơ Xuân Diệu đều lấy “mắt xanh” phát hiện và thâu tóm những nét độc đáo tiêu biểu, để dựng chân dung họ trong bảo tàng văn học dân tộc: “Nguyễn Trãi chính cống là một tâm hồn thi sỹ” [11,16], Hồ Xuân Hương – Bà chúa thơ Nôm, Thơ Cao Bá Quát có “ chất hào sảng và giọng bi tráng”[8,459-461], Nguyễn Khuyến- “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” [8,495],Nguyễn Đình Chiểu – “Nhà thơ mù toả sáng” “Một người xẩm bậc nhất” [8,669], Tản Đà- “Cái nắp xì hơi cho tâm hồn xã hội” [8,759], “Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sỹ đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã,dám có một cái tôi”. Xuân Diệu là nhà phê bình thuộc giới văn nghệ sỹ, những tác phẩm phê bình của ông chủ yếu tập trung ở giai đoạn thứ ba (1945- 1985), tuy không phải là người thuộc thế hệ mở đường cho phê bình văn học Việt Nam, nhưng Xuân Diệu là một nhà phê bình xuất sắc, có vị trí quan trọng trong nền phê bình Việt Nam. Xuân Diệu có quan niệm về phê bình thơ khá rõ ràng, nhất quán, nó chính là biểu hiện sinh động,cụ thể hoá quan niệm thơ của ông: nhà phê bình phải coi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 trọng vai trò của công chúng, lấy công chúng làm đối tượng phục vụ, nhà phê bình phải có ý thức về mục đích nhiệm vụ phê bình nhấn mạnh khát vọng cảm thông, thấu hiểu, và con mắt xanh biết thẩm bình tinh tế ở mỗi nhà phê bình. Với hệ thống các quan niệm trên về thơ về phê bình thơ chúng ta có thể kết luận Xuân Diệu không chỉ là một nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại, mà ông còn là một nhà phê bình có ý thức lý luận sâu sắc về thơ, một người tự giác cao độ trong mọi hoạt động sáng tác cũng như phê bình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 Chƣơng 2 ĐÓNG GÓP CỦA XUÂN DIỆU TRONG VIỆC TÔN VINH CÁC GIÁ TRỊ THƠ CA DÂN TỘC Thành tựu nghiên cứu thơ của Xuân Diệu rất phong phú đa dạng, bao quát nhiều tác giả, tác phẩm từ nền thơ cổ điển đến nền thơ hiện đại.Song phạm vi luận văn không cho phép trình bày kỹ hết mọi đóng góp của nhà phê bình dưới đây chúng tôi chỉ đi vào phân tích, khái quát đóng góp của Xuân Diệu trong việc tôn vinh các giá trị thơ ca dân tộc, cụ thể ở một số tác giả tiêu biểu cho hai mảng phê bình thơ cổ điển và hiện đại. Trước hết đó là những tác giả ưu tú, xuất sắc của nền văn học dân tộc, tác phẩm của họ luôn luôn đòi hỏi cần thiết phải có sự đánh giá thẩm bình, phát hiện những giá trị về nội dung và nghệ thuật. Hơn nữa đây cũng là những tác giả mà Xuân Diệu say mê tâm huyết và dành nhiều thời gian công sức nghiên cứu hơn cả. Việc nghiên cứu tìm hiểu về họ đã thể hiện tập trung, rõ nét những đặc điểm cơ bản trong phong cách phê bình của Xuân Diệu. 2.1 XUÂN DIỆU VỚI GIA TÀI VĂN HỌC CỔ ĐIỂN CỦA DÂN TỘC Xuân Diệu tiếp cận gia tài văn học của ông cha với một tình cảm yêu mến và “một say sưa đầy rẫy”, ông trân trọng đặt từng bước trên nền gạch cũ” để “tìm dấu vết người xưa” với một mong muốn dựng lên một “bảo tàng văn học Việt Nam song song bên cạnh bảo tàng lịch sử”, đồng thời cũng như một nhu cầu của bản thân tác giả nữa. Xuân Diệu là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời, hồn thơ này muốn ôm riết lấy cuộc đời và muốn sống mãi với đời, có phải thế chăng mà ông muốn gắn tên tuổi mình với những cây bút bất tử để có thể sống mãi với mai sau. Không phải ngẫu nhiên mà ông toàn viết về các nhà thơ lớn của dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương , Tản Đà…Với niềm tâm huyết ấy, Xuân Diệu đã dành thời gian và công sức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 gần trọn ba mươi năm, chọn lọc giới thiệu, ngợi ca những tinh hoa văn học cổ điển nước nhà. 2.1.1. Chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, người anh hùng cứu quốc, nhà tư tưởng nhà văn hoá, nhà thơ, tất cả những phẩm chất trên của Người qui tụ lại trong nhiều tác phẩm văn chương và hậu thế đã tìm hiểu, nghiên cứu ông trên nhiều bình diện. Đinh Gia Khánh nghiên cứu quan điểm văn chương của Nguyễn Trãi; Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi tìm hiểu Quân Trung từ mệnh tập - tập luận chiến sự và ngoại giao, Bình Ngô đại cáo được đánh giá cao qua nhiều bài viết từ Bùi Kỷ, Vũ Khiêu đến Bùi Văn Nguyên, rồi thơ văn chữ Hán, văn thơ Quốc âm cũng được nhiều người nghiên cứu khai thác. Trong số đó phải kể đến Xuân Diệu, khi bắt đầu công trình Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, người mà Xuân Diệu chú ý đầu tiên là thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, ông phát hiện vị trí “Nhà thơ lớn mở đầu thơ cổ điển Việt Nam” [11,97] “Nhà thơ số một” “Người đất Việt đầu tiên làm thơ bằng tiếng Việt”. Xuân Diệu là người nghiên cứu về Nguyễn Trãi một cách sâu sắc và toàn diện, đặc biệt đối với tập thơ Quốc âm thi tập- “Tập thơ đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ của ta, cổ nhất chính xác nhất còn lại cho văn học Việt Nam”.[11, 64]. Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời phong kiến. Đã có nhiều bài viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Trước Xuân Diệu, người ta thường nghiêng về khẳng định tầm cỡ lớn của Nguyễn Trãi ở phương diện anh hùng dân tộc. Tất nhiên Xuân Diệu không phủ nhận điều ấy, nhưng ông muốn nhấn mạnh phương diện con người, phương diện thi sỹ của Ức Trai. Khi nghiên cứu tiếp cận Nguyễn Trãi, Xuân Diệu đã tự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 xác định cho mình chỉ đóng khung lại trong phạm trù nhà thơ lớn “Nghĩa là lớn trong thơ, qua thơ thấy được cái lớn của Nguyễn Trãi với tư cách là một thi sỹ ở trong bảo tàng văn học” [11, 10]. Trên tinh thần ấy Xuân Diệu đã nghiên cứu và phân tích rất kỹ Quốc âm thi tập và giúp cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai - vẻ đẹp tâm hồn của một bậc vĩ nhân nhưng vẫn là “con người nhất thế giữa trần gian” [ 11, 37 ]. Để làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn Ức Trai, Xuân Diệu đã so sánh, đối chiếu những bài thơ trùng nhau giữa thơ Nguyễn Trãi với thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này (Sau Nguyễn Trãi hơn 100 năm).Theo Xuân Diệu so sánh như vậy “không phải để nâng ai hạ ai, vì cùng nằm trong vốn quý của văn học dân tộc”, nhưng Xuân Diệu đã chứng minh một cách khá thuyết phục về tài thơ của Nguyễn Trãi và đi đến nhận xét rất đích đáng “Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà đạo đức làm thơ; Nguyễn Trãi chính cống là một tâm hồn thi sỹ”[11,16]. Tâm hồn thi sĩ ấy đã tạo ra 254 bài thơ Nôm, “những bài, những câu, những đoạn đã hay của Nguyễn Trãi “ thi treo giải nhất chi nhường cho ai”. Mượn câu ca dao Hoa thơm thơm lạ thơm lùng- Thơm gốc thơm rễ người trồng cũng thơm, Xuân Diệu ca ngợi tài thơ đặc biệt là ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi: “Ở trong thơ đây chính người trồng thơm trước, nghĩa là chính chất lượng nội dung tâm hồn Ức Trai là cao là sâu, là rộng, là đẹp [11, 21]. Bởi vậy khi tiếp xúc với thơ Nguyễn Trãi, Xuân Diệu có cái cảm giác tâm hồn mình “sực nức lan xạ của thơ người”. [11, 21]. Xuân Diệu phát hiện thơ của Nguyễn Trãi “nhiều nội tâm”, nỗi niềm tâm sự trăn trở đầy ắp trong những vần thơ nôm. Nỗi niềm lớn nhất mà Xuân Diệu cảm nhận được ở bậc thi hào này là tấm lòng ưu quốc ái dân,“lo nước yêu dân ở trong Nguyễn trãi đã trở thành tâm huyết”,“ Tâm trí Nguyễn Trãi là điển hình cao cả nhất, toàn vẹn nhất về lòng ưu ái, ưu quốc ái dân”. Xuân Diệu đã bộc lộ biết bao nhiêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 xúc động và khâm phục trong những nhận xét : “Nguyễn Trãi là ưu ái tâm huyết: Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược- Có nhân có trí có anh hùng; Nguyễn Trãi là chí khí: Khó bền mới phải người quân tử- Mạnh gắng thì nên kẻ trượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf2.pdf
Tài liệu liên quan