Luận văn Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945

Tài liệu Luận văn Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945

pdf96 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
§¹i häc th¸i nguyªn trƯỜNG §¹i häc sƯ ph¹m ---------------- Ph¹m thÞ thƯ Quan niÖm v¨n chƯƠNG cña Xu©n DiÖu TRƯỚC 1945 Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam M· sè: 60.22.34 LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n Người hướng dÉn khoa häc: PGS.TS. Vò TuÊn Anh Th¸i nguyªn, 2008 §¹i häc th¸i nguyªn trƯỜNG §¹i häc SƯ ph¹m ---------------- Ph¹m thÞ THƯ Quan niÖm v¨n chƯƠNG cña Xu©n DiÖu TRƯỚC 1945 LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n Th¸i nguyªn, 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 Mục lục Trang A. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Cấu trúc luận văn B. Phần nội dung Chương I: Tư tưởng của xuân diệu về xây dựng nền quốc văn mới 1.1. Sự xuất hiện của Xuân Diệu và những tác phẩm văn xuôi trữ tình, phê bình - tiểu luận trong bối cảnh văn chương đương thời. 1. 2. Thiết tha xây dựng một nền quốc văn, một nền văn chương An Nam. 1.2.1. Đề cao tiếng mẹ đẻ, kêu gọi sáng tạo bằng quốc ngữ để xây dựng nền quốc văn. 1.2.2. Mối quan hệ giữa Tính cách An Nam trong văn chương và vấn đề Mở rộng văn chương. 1.3. Vấn đề thanh niên với quốc văn. 1.4. Tư tưởng văn chương và quan niệm về thơ của Xuân Diệu qua phê bình. Chương II: Quan niệm của Xuân Diệu về văn chương và thi ca 2.1. Quan niệm về văn chương và người nghệ sĩ 2.1.1 Người nghệ sĩ phải có tâm hồn thành thật và một trái tim đa cảm. 2.1.2. Người nghệ sĩ phải là kẻ hiến dâng. 3 6 12 12 13 15 15 20 20 25 28 31 38 38 40 44 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 2.2. Quan niệm về thi ca và nhà thơ. 2.2.1. Sự tinh chất của thơ-Thơ ngắn. 2.2.2. Tính trừu tượng và phức tạp của thơ - Thơ khó 2.2.3. Thơ phải hướng về con người - Thơ của người 2.2.4. Quan niệm về Ái tình và Thơ tình. Chương III: Một phong cách văn Xuôi trữ tình và phê bình - tiểu luận độc đáo 3.1. Tương quan giữa văn xuôi và thơ. 3.2. Cách diễn đạt giàu hình tượng. 3.3. Giọng điệu. 3.3.1. Giọng tâm tình chia sẻ 3.3.2. Giọng điệu nồng nàn, tha thiết. 3.4. Cách tổ chức ngôn ngữ trong diễn ngôn phê bình - tiểu luận của Xuân Diệu. 3.4.1. Lối đặt tên bài, cách mở đầu mới mẻ tạo ấn tượng 3.4.2. Lối hành văn diễn đạt mới mẻ. 3.4.3. Cách lặp từ vừa tạo những điểm nhấn cho tư tưởng , vừa tạo nhạc điệu cho văn. 3.4.4. Mới mẻ và táo bạo trong sử dụng từ ngữ c. Kết luận Tài liệu tham khảo 49 49 51 54 59 67 67 70 72 73 75 77 77 78 80 81 84 89 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 A - Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. 1.1 Xuân Diệu (1916-1985) là một nghệ sĩ đa tài, một tài năng độc đáo của thơ ca Việt Nam hiện đại. Trải qua nửa thế kỉ miệt mài sáng tạo, ông đã để lại trong kho tàng Văn học dân tộc một gia tài đồ sộ , gần năm mươI tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: thơ văn, nghiên cứu, dịch thuật, phê bình. ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, gây được nhiều cảm tình trong lòng bạn đọc, bạn thơ văn và những người mến mộ tài năng của ông. Xuân Diệu mở đầu sự nghiệp và nổi tiếng trên văn đàn từ những năm 1930 bằng hàng loạt các tác phẩm: Thơ thơ (1938) Gửi hương cho gió (1945) tập truyện ngắn Phấn thông vàng, Trường ca và một số tác phẩm lẻ sáng tác từ 1938 đến 1945. Với tư cách là nhà Thơ Mới, Xuân Diệu là người đưa Thơ Mới lên đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật và ông là một hiện tượng tiêu biểu của phong trào. Sở dĩ ông được coi là một hiện tượng điển hình, là một nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới, là bởi ông không chỉ có đóng góp lớn về số lượng mà chính là những đóng góp mới về chất lượng và nội dung tác phẩm. Đọc thơ Xuân Diệu ta thấy ở đó có một cái tôi thi sĩ luôn rạo rực say mê, luôn hối hả, gấp gáp với cuộc sống đang chảy trôi theo thời gian. Đó là cái tôi của một tấm lòng yêu đời, yêu con người, yêu cuộc sống đến tha thiết. 1.2 Bên cạnh một Xuân Diệu với tư cách là nhà thơ xuắt sắc của Thơ Mới, “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” ta còn thấy một Xuân Diệu - nhà văn với nhiều tác phẩm văn xuôi, phê bình - tiểu luận đặc sắc. Thông qua những bài tiểu luận -phê bình này, người ta nhận thấy nổi bật vai trò của một cây bút nhiệt huyết và mang tinh thần tiên phong trong xây dựng và đổi mới văn chương đương thời. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Phấn thông vàng và Trường ca của Xuân Diệu khi xuất hiện trên văn đàn đã được giới nghiên cứu phê bình văn học đánh giá cao , thể hiện một xu hướng sáng tạo mang vẻ đẹp riêng với tính chất độc đáo, đặc sắc của một kiểu mô hình văn xuôi mới. Điều này được Huy Cận đưa ra nhận xét như sau: “Phấn thông vàng đã gây xôn xao, một sự xôn xao thú vị trong giới văn học thời đó, xôn xao bởi vì đây là một sư sáng tạo: Truyện mà gần như không có truyện, không phải truyện đời mà là truyện tâm hồn, còn văn là những bài thơ văn xuôi dạt dào cảm xúc, cực kì gợi cảm” [2,442] Song song với mảng văn xuôi trữ tình, ông còn viết nhiều bài phê bình - tiểu luận thể hiện rõ những tư tưởng đặc sắc của ông về văn chương và quốc văn.Đây cũng là một cách bộc bạch con người Xuân Diệu trong cuộc đối thoại với chính mình, với văn chương và thời đại. Những bài phê bình - tiểu luận đó chủ yếu được đăng báo Phong hoá, Ngày nay trong những năm 1937- 1939. Có thể nói Xuân Diệu xứng đáng được xem là một tài năng đa dạng, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn. Xuân Diệu với tư cách là một nhà thơ đã được nghiên cứu nhiều và càng ngày người ta càng nhận ra những giá trị mới, những vẻ đẹp mới của thơ Xuân Diệu. Về văn xuôi Xuân Diệu, đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình khảo sát và phân tích giá trị của nó, nhưng có thể nói cho đến nay, mảng văn xuôi trữ tình của Xuân Diệu với vẻ đẹp của ý tưởng nghệ thuật riêng, mang đậm phong cách Xuân Diệu đã được phân tích khá nhiều tuy vẫn cần được tiếp tục có những nghiên cứu phân tích. Đồng thời mảng phê bình, tiểu luận của Xuân Diệu - một phương diện rất đáng được chú ý trong hoạt động văn chương của người thi sĩ trẻ khi ấy còn ít được nghiên cứu. Một vài bài trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 số đó có vẻ như bị lãng quên, chúng không có mặt trong Tuyển tập Xuân Diệu và ngay cả trong Toàn tập Xuân Diệu mới được xuất bản. Chọn đề tài Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945 , luận văn nhằm tới những mục đích như sau: Một là, văn xuôi, phê bình - tiểu luận của Xuân Diệu thể hiện một phần tư tưởng tài năng của ông, chứa trong đó những giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc. Có nhiều tư tưởng, quan niệm, cảm xúc của Xuân Diệu về nghệ thuật và cuộc đời được trình bày qua truyện ngắn, tuỳ bút, phê bình tiểu luận mở ra cho ta thấy nhiều khía cạnh, phương diện trong tư duy và cảm xúc của Xuân Diệu - người thi sĩ trẻ tuổi. Hai là, thông qua việc nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu (truyện ngắn, bút kí) cũng như mảng văn tiểu luận - phê bình của nhà thơ, có thể hiểu thêm được thực trạng nhu cầu, khát vọng của văn chương đương thời và của Thơ Mới. Đặt tư tưởng, Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945 trong mối tương quan với văn chương đương thời cũng để thấy rõ hơn phong cách riêng của Xuân Diệu, đồng thời thấy được những đóng góp của ông cho nền văn học hiện đại. Ba là, tác gia Xuân Diệu được chọn giảng trong chương trình Đại học , Cao đẳng và các trường THPT như một tác giả văn học có một vị trí quan trọng. Trong nhà trường phổ thông, tác phẩm của ông không chỉ có thơ mà cả văn xuôi được giảng dạy với một số tiết tương đối lớn. Về thơ, Đây mùa thu tới, Thơ duyên, Vội vàng là ba tác phẩm được chọn giảng chính thức. Còn Nguyệt Cầm chọn đọc thêm. Về văn xuôi có bài đọc thêm Toả nhị Kiều. Như vậy cùng với thơ, văn xuôi Xuân Diệu mà Toả nhị Kiều là một trong những tác phẩm tiêu biểu cũng đã được khẳng định như những giá trị văn chương Xuân Diệu. Việc nghiên cứu mảng văn phê bình -tiểu luận của Xuân Diệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 cùng những quan niệm văn chương của ông sẽ góp phần làm rõ hơn những tác phẩm của ông được giảng dạy trong nhà trường. Vì vậy, với đề tài Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945, luận văn mong muốn góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu những đặc sắc nội dung và nghệ thuật của văn xuôi, phê bình tiểu luận của Xuân Diệu một cách đầy đủ hơn. Đồng thời về mặt chuyên môn, luận văn cũng hi vọng góp phần thiết thực phục vụ cho việc giảng dạy những sáng tác của Xuân Diệu ở trong nhà trường phổ thông. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1 Thời kì trước 1945. Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, Xuân Diệu đã gây được sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình văn học, đã lọt vào “mắt xanh” của những cây bút có tên tuổi và uy tín trong giới văn nghệ. Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, khen có, chê có. Nhưng tựu trung lại, các bài viết đều thống nhất đánh giá cao đóng góp của Xuân Diệu ở cả hai thể loại thơ và văn xuôi. Ngay khi Xuân Diệu xuất hiện với những bài thơ đầu tiên, Thế Lữ đã hào hứng giới thiệu nhà thơ trẻ này với bài Một nhà thi sĩ mới - Xuân Diệu trên báo Ngày nay Khi Thơ thơ- tập thơ đầu của Xuân Diệu được xuất bản (1937), Thế Lữ viết Lời tựa với những tình cảm ưu ái và hào hứng đón chào nhà thơ mới. Người ta thường đánh giá bài viết này là "chiếu nhường ngôi " của nhà thi sĩ lãng mạn Thế Lữ nổi tiếng nhất đương thời dành cho Xuân Diệu. Báo chí cũng đăng tải nhiều bài khen ngợi. Xuân Diệu được đánh giá là "nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh), hay “Một thi sĩ rất giàu lòng yêu dấu” (Vũ Ngọc Phan). Về văn xuôi Xuân Diệu, dư luận cũng đã chú ý nhiều đến phong cách viết độc đáo, đầy chất trữ tình trong văn ông. Ra đời sau tập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Thơ thơ một năm, tập văn xuôi Phấn thông vàng của Xuân Diệu được công chúng đón nhận nồng nhiệt và đánh giá cao ngay từ khi mới ta đời. Là nhà văn viết văn xuôi, nên văn xuôi Xuân Diệu rất giàu chất thơ, ý vị thơ. Vũ Ngọc Phan, tác giả của Nhà văn hiện đại đã rất tinh tế khi phát hiện ra chất thơ chan chứa ở văn xuôi Xuân Diệu; “Xuân Diệu ở đâu cũng đem theo một hồn thơ bát ngát và mộng mơ. Trong quyển Phấnthông vàng mà Xuân Diệu gọi là một tập tiểu thuyết ngắn, tôi chỉ thấy thơ là thơ. Không phải thơ bằng những câu có vần, có điệu, không phải thơ ở những lời gọt đẽo mà là thơ ở những lối diễn tính tình cùng tư tưởng, ở những cảnh vật cỏn con mà tác giả vẽ nên nhưng nét tỉ mỉ, khi ảm đạm lúc xinh tươi tuỳ theo cái hứng sáng tạo của tác giả” [28,208] Đồng thời, Vũ Ngọc Phan sau khi đọc Phấn thông vàng cũng đưa ra nhận xét về mối quan hệ giữa ý và lời văn Xuân Diệu: “lời chẳng qua chỉ là những dấu hiệu để ghi những ý nghĩ và tình cảm, vậy cứ gì lời thanh, lời thô, lời nào phô diễn được hết tình ý đều có thể dùng được cả”. Như vậy, Vũ Ngọc Phan cho rằng văn xuôi Xuân Diệu rất chú trọng vào việc phô diễn ý nghĩ và tình cảm con người nên không qúa chú ý đến lời, bởi thế, bất luận là lời thanh hay lời thô ông đều không đắn đo khi sử dụng, miễn sao nói được hết ý nghĩ và tình cảm của mình: "“Có lẽ Xuân Diệu chú trọng về ý nghĩ về tình cảm thái quá nên không nghĩ đến sự lựa lời, dùng chữ. [28,209]. Huy Cận - người bạn thân thiết nhất của Xuân Diệu trong bài Phấn thông vàng và những truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu đưa ra nhận xét về một đặc trưng của văn xuôi Xuân Diệu: “Truyện mà gần như không có truyện, không phải là truyện đời mà là chuyện tâm hồn” và chính Xuân Diệu cũng cho rằng: Tâm hồn người có biết bao nhiêu là chuyện. Vấn đề tâm hồn mà Xuân Diệu muốn nói ở đây là vấn đề nhân bản chủ nghĩa, trong đó tác giả đầu tư cảm nghĩ của mình về cuộc sống, về con người, nhưng trong đó cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 đầy rẫy những nét, những tình tiết của cuộc đời “thiên hạ”. Rõ ràng là tác phẩm của một người có các thớ lòng đã gắn bó xoắn xưýt với đồng loại” [2,442]. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh trong nghiên cứu về lối viết văn xuôi của Xuân Diệu, khẳng định ngay rằng cái điều tưởng như “chơi vơi”, tưởng như “trẻ con học nói, hay người ngoại quốc võ vẽ tiếng Nam, câu văn tuồng bỡ ngỡ” lại chính là chỗ “Xuân Diệu hơn người”. Sở dĩ theo Hoài Thanh, đó là do “dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những điều sẵn có, ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn cũng phải lung lay” [32,116]. Tóm lại Hoài Thanh, Huy Cận, Vũ Ngọc Phan vừa là những nhà phê bình văn học, vừa là những người cùng thời với Xuân Diệu, đều đánh giá rất cao về những vấn đề nội dung, ý tưởng, phong cách trong sáng tác của văn xuôi trữ tình Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945. Tuy vậy, hình như những bài phê bình - tiểu luận của ông ít được dư luận chú ý vì đây chỉ là những bài báo lẻ, không in thành sách. Tập Thanh niên với quốc văn được in trước Cách mạng tháng Tám vài tháng nên cũng chưa kịp được nhắc đến nhiều trên báo chí trong một hoàn cảnh đặc biệt của một không khí sôi sục trước Cách mạng. 2.2. Thời kì sau 1945. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính Xuân Diệu đã tự kiểm điểm về các sáng tác thời kì lãng mạn của mình và tự ăn năn, hối lỗi: “Những tác phẩm của tôi, trong thời Pháp thuộc đã tuyên truyền cho một tình yêu mê muội, đắm đuối, một trò ích kỉ của cá nhân, cho một lòng thương ngậm ngùi, buồn tủi, cho sự hưởng lạc trong cảm xúc, sắc dục, cho sự bị động buông xuôi, tiêu cực. Đứng trên lập trường mà xét, tiểu thuyết đó hoàn toàn vô giá trị. Những thơ văn ấy đều đầu độc một số người thành thị nhất là thanh niên học sinh”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Từ năm 1975 đến nay, sự nhìn nhận đánh giá của xã hội đối với Thơ Mới không còn khắt khe như trước nữa. Các tác phẩm của Xuân Diệu cũng được nhìn nhận một cách thoả đáng hơn, đúng đắn hơn đặc biệt đưa vào giảng dạy ở nhà trường và được khẳng định bằng hàng loạt các bài nghiên cứu. Mã Giang Lân trong bài “Sự đa dạng của Xuân Diệu” đánh giá cao văn xuôi Xuân Diệu: “Văn xuôi Xuân Diệu mang một hình thức toàn mĩ và thơ khẳng định ở anh sự mẫn cảm dồi dào”. Lưu Khánh Thơ trong bài “Xuân Diệu một tài năng đa dạng” cũng đã đưa ra nhận xét về đặc điểm của văn xuôi Xuân Diệu: Đặc điểm nổi bật trong văn xuôi của Xuân Diệu thời kì này chính là tính trữ tình lãng mạn. Những trang văn thật đẹp, với những câu văn, những hình ảnh được trau chuốt, gọt giũa kĩ càng, câu văn giàu nhạc điệu, không sa vào biền ngẫu song lại luôn tạo được âm hưởng riêng...Xuân Diệu đã giãi bày đầy đủ hơn, rõ ràng và đậm nét hơn những quan niệm về tình yêu con người và cuộc sống. Bao trùm lên những trang văn của Xuân Diệu là niềm khát khao gắn bó với cuộc đời và một tình yêu say đắm không giới hạn [34,13]. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, người nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về Xuân Diệu, trong bài “Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu”, đã điểm lại toàn bộ sáng tác của văn xuôi Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Về văn xuôi Xuân Diệu trước cách mạng, ông đưa ra nhiều nhận xét ở nhiều góc độ nghệ thuật khác nhau. Ông cho rằng “Phấn thông vàng và Trường ca là hai tác phẩm đều mang đậm một đặc tính chung: tính trữ tình, nội dung trữ tình khi thì sục sôi, mãnh liệt, khi thì tha thiết vỗ về như ru lòng người trong tình thương mến” [19,98] Về sự giao hoà, bổ sung và hô ứng giữa thơ và văn xuôi Xuân Diệu, ông nhận xét: “có rất nhiều tứ thơ của Xuân Diệu đã được diễn đạt bằng cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 của văn xuôi”. Đó là tứ “xuân không mùa, xuân vĩnh viễn”, “tình yêu lớn gặp người yêu nhỏ”. Như vậy, văn xuôi của ông thật sự đã trở thành những câu chuyện tâm tình của cái tôi chủ quan, bộc lộ những quan niệm sâu xa, mới mẻ của ông về nghệ thuật và cuộc sống. Hơn nữa, ông còn đưa ra ý kiến “không muốn tách biệt văn với thơ” và đặc biệt nhấn mạnh đến khả năng chuyển tải tư tưởng và cảm xúc của văn xuôi Xuân Diệu: “Văn vẫn có nhiều khả năng thuật tả chuyện đời cặn kẽ hơn thơ. Cho nên cái phần gắn bó với đời của Xuân Diệu được thể hiện đầy đủ hơn, đậm nét hơn trong văn xuôi”; "Về mặt giọng điệu, Xuân Diệu năm 1939 cũng là Xuân Diệu những năm về sau, tự nhiên, nhẹ nhàng mà không kém phần duyên dáng. Văn ông không sa vào biền ngẫu nhưng lại tạo được âm hưởng riêng. Câu văn như lời trò chuyện dung dị, thỉnh thoảng lại có cái đột ngột của một thứ đối thoại tâm tình. Đọc những bài viết ra từ năm 1939 này, người ta vẫn nhận ra nét bút riêng của con người sau này sẽ viết nên Tiếng thơ, Dao có mài mới sắc, Và cây đời mãi mãi xanh tươi..." [19,100]. Các quan điểm về văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng đã được các nhà nghiên cứu chú ý. Trong bài Xuân Diệu và một quan niệm cởi mở về tính dân tộc của Vương Trí Nhàn { 33;257} đã sưu tầm giới thiệu bài Mở rộng văn chương của Xuân Diệu, trong đó nhấn mạnh đến tinh thần cới mở của nhà thơ về tính dân tộc. Ông viết: " Chúng ta sẽ gặp ở đây một cách hiểu khá rộng rãi của Xuân Diệu: ông không nghĩ tính dân tộc là một cái gì nhất thành bất biến. Ngược lại, từ kinh nghiệm riêng của một người làm việc, ông bảo chúng ta phải mở cửa, phải biết tiếp nhận. Có những cách nói ban đầu khó nghe rồi dần dần sẽ quen. Chừng nào còn là người Việt, những cái chúng ta viết sẽ là văn chương Việt Nam. Không phải chỉ có một lối giản dị, "chân quê" mới là dân tộc như có người đã nghĩ!" Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Lê Quang Hưng cũng là một nhà nghiên cứu có nhiều bài viết đề cập đến các vấn đề về lý tưởng thẩm mỹ, cái tôi trữ tình của Xuân Diệu. Trong bài Tinh thần phục hưng trong lý tưởng thẩm mỹ của Xuân Diệu trước 1945, nhà nghiên cứu cho rằng: " Lịch sử phát triển nghệ thuật nhân loại phản ánh cố gắng của con người tìm cách khẳng định mạnh mẽ hơn bản lĩnh, in ấn sắc nét hơn bộ mặt cá nhân mình trong thế giới tác phẩm do mình tạo nên". Và ông đã làm rõ điều này thông qua việc phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong mối quan hệ với thế giới và con người (33;325). Có thể kể thêm một số bài viết khác đề cập đến một số khía cạnh trong phong cách thơ và thế giới tư tưởng -thẩm mỹ của Xuân Diệu, trong đó ít nhiều cũng có đề cập đến văn xuôi Xuân Diệu như Nỗi buồn và sự cô đơn trong thơ Xuân Diệu của Lý Hoài Thu (33;295), Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Xuân Diệu của Nguyễn Thị Hồng Nam (33;339)... Tập trung nghiên cứu sự nghiệp phê bình của Xuân Diệu, công trình của tác giả Phan Ngọc Thu Xuân Diệu - nhà nghiên cứu phê bình văn học đã có sự phân tích đánh giá khá hệ thống về vấn đề này. Tác giả đã chú ý đến Quan niệm của Xuân Diệu về văn học và phê bình, Thành tựu của lý luận phê bình Xuân Diệu qua các thời kỳ và phong cách phê bình của Xuân Diệu. Như tên công trình, tác giả chú ý trước hết đến công việc lý luận phê bình của Xuân Diệu, đồng thời cũng đề cập đến một số quan niệm về văn chương của ông. Cuốn sách cũng đã nhìn lại một số tác phẩm phê bình của Xuân Diệu qua các thời kỳ, nhấn mạnh thành tựu phê bình của Xuân Diệu đối với di sản văn học cổ điển dân tộc cũng như một nét đặc sắc trong phong cách phê bình của ông - đó là "nhà thơ trong nhà phê bình" [35]. Gần đây, nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh cũng đã có một bài viết trực tiếp đề cập đến T ư tưởng về quốc văn và văn chương của Xuân Diệu thời trẻ (trước 1945) đăng trên Tạp chí Văn học số 2-2008. Nhà nghiên cứu đã chú ý Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 phân tích mảng tiểu luận phê bình của Xuân Diệu để từ đó nhận ra những tư tưởng văn chương độc đáo và có tính tiên phong của nhà thơ trẻ này: nhiệt tình xây dựng nền quốc văn, chống những biểu hiện nô lệ và xa rời dân tộc, bàn bạc về những vấn đề về thơ với nhiều ý kiến mới mẻ so với quan niệm thơ ca đương thời. Những bài viết, công trình trên dù đề cập trực tiếp hay không trực tiếp đến đề tài luận văn cũng là những gợi ý quý báu để chúng tôi thực hiện luận văn Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945. Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy toàn bộ những ý kiến trên đều khá thống nhất trong việc khẳng định giá trị tư tưởng, nghệ thuật của văn xuôi Xuân Diệu: 1. Tác phẩm văn xuôi của ông đều thấm đẫm chất trữ tình, rất gần với thơ, ở đó thế giới cảm xúc phong phú của chủ thể trữ tình được phơi bày đậm nét. 2. Tư tưởng và quan niệm về văn chương của Xuân Diệu khá phong phú. Nó được thể hiện trong cả những áng văn xuôi trữ tình như Phấn thông vàng, Người lệ ngọc, Chú lái khờ..., đồng thời cũng được thể hiện một cách trực tiếp qua các bài phê bình - tiểu luận như Thơ của người, Tuy Lý Vương - thi sĩ Tàu, Tính cách An nam trong văn chương, Mở rộng văn chương, Thanh niên với quốc văn... Nhìn một cách tổng quát, ta thấy các sáng tác của Xuân Diệu đã thu hút được nhiều nhà nghiên cứu phê bình với các công trình nghiên cứu công phu, đa dạng và phong phú. Tuy vậy, hầu hết các công trình đều tập trung khẳng định những đóng góp và vị trí của Xuân Diệu trong phong trào Thơ Mới mà chưa tập trung nhiều vào vị trí của văn xuôi Xuân Diệu và nhất là phần tiểu luận phê bình còn hầu như ít được đề cập. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 3. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: 1. Về tiểu luận phê bình: các bài Tuy Lý Vương - thi sĩ Tàu, Công của thi sĩ Tản Đà, Đôi lời tự thuật Thơ Thơ, Thơ ngắn, Thơ khó, Thơ của người, Thơ ái tình. Tính cách An Nam trong văn chương, Mở rộng văn chương, Đàn bà hay người yêu: ái tình và khuôn sáo, những bài này chủ yếu đăng trên báo Ngày nay trong khoảng 1937-1939. Ngoài ra còn có tập Thanh niên với Quốc văn (lấy tên bài nói chuyện với Sinh viên tại trường Đại học ngày 4 tháng 2 năm 1945) cùng một số bài khác như Hàng bia Văn Miếu, Công danh và sự nghiệp, Cái học quẩn quanh. 2. Hai tập Phấn thông vàng, Trường ca cùng một số tác phẩm lẻ in trong Tuyển tập Xuân Diệu tập II - NXB Văn học Hà Nội 1987, trong đó chú ý đặc biệt đến những truyện ngắn liên quan đến đề tài như Người lệ ngọc, Chú lái khờ, Phấn thông vàng... 4. Phương pháp nghiên cứu Khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu, chúng tôi kết hợp sử dụng các phương pháp: 4.1 Phương pháp hệ thống Nghiên cứu Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945, chúng tôi xem xét cả những tác phẩm văn xuôi trữ tình cũng như mảng văn xuôi, phê bình tiểu luận như một hệ thống, có chú ý đến đặc điểm nội dung và nghệ thuật riêng. Đồng thời, các quan điểm về văn chương của Xuân Diệu được đặt trong toàn bộ hệ thống và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu để làm nổi bật quan điểm, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của ông. 4.2 Phương pháp phân tích - tổng hợp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Tiến hành khảo sát phân tích các tác phẩm, bài viết tiêu biểu, làm sáng tỏ khía cạnh nội dung nghệ thuật, đồng thời sử dụng phương pháp nghệ thuật tổng hợp hệ thống hoá để nhận ra những đặc điểm lớn, có tính đặc trưng. 4.3 Phương pháp so sánh, đối chiếu Trong quá trình phân tích chúng tôi sẽ so sánh, đối chiếu sự tương giao giữa văn xuôi và thơ Xuân Diệu cũng như trong mối tương quan với một số tác giả khác để thấy được nét đặc trưng trong cảm quan sáng tác cũng như phong cách phê bình - tiểu luận của Xuân Diệu so với các tác giả cùng thời như Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Thạch Lam... 5 .Cấu trúc luận văn I. Phần Mở đầu II. Phần nội dung: gồm 3 chương Chương I: Tư tưởng của Xuân Diệu về xây dựng nền Quốc văn mới Chương II: Quan niệm của Xuân Diệu về văn chương và thi ca. Chương III: Một phong cách văn xuôi trữ tình và phê bình - tiểu luận độc đáo. III. Phần Kết luận. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Chương I Tư tưởng của Xuân Diệu về xây dựng nền quốc văn mớiT 1.1. Sự xuất hiện của Xuân Diệu và những tác phẩm văn xuôi trữ tìnhS, phê bình - tiểu luận trong bối cảnh văn chương đương thời. Xuân Diệu đã sớm nổi tiếng từ những bài thơ đăng báo từ giữa những năm 30 và thực sự được thừa nhận như một nhà thơ đặc sắc hàng đầu của Thơ mới với hai tập thơ Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945).Đã có biết bao nhiêu định ngữ gắn liền với các tên Xuân Diệu ngay từ khi nhà thơ trẻ xuất hiện trên thi đàn Thơ Mới. Thế Lữ, người đã có công đầu trong việc gây dựng phong trào Thơ mới và được coi như nhà thơ xuất sắc nhất vào giai đoạn khởi đầu của Thơ mới đã sung sướng nhận ra Một nhà thi sĩ mới - Xuân Diệu. Thế Lữ trân trọng giới thiệu Xuân Diệu trong số Xuân Ngày nay 1937. Dư luận tiếp tục đánh giá Xuân Diệu bằng những lời ngợi ca nồng nàn nhất. Ông được coi là nhà thơ " mới nhất trong những nhà thơ mới" (Hoài Thanh), “thi sĩ nồng nàn nhất" (Vũ Ngọc Phan), đặc biệt trong thơ tình. Dường như vượt lên tất cả các nhà thơ đương thời, những vần thơ tình say đắm của ông đã mở ra cho Thơ Mới cả một vườn trần đầy hương sắc. Xuân Diệu bước vào làng thơ khi Thơ mới đã thực sự thắng thế Thơ cũ và xác lập vị trí độc tôn của nó trên thi đàn cũng như trong lòng người đọc. Có thể nói, Xuân Diệu xuất hiện vào thời cực thịnh của Thơ mới và chính nhà thơ trẻ này càng làm cho Thơ mới càng thêm xuân sắc. Thơ mới thời kỳ này đã có một đội ngũ nhà thơ đông đảo và tài năng, đã có nhiều tác phẩm không phải chỉ đủ sức xô đổ những cũ kỹ của Thơ cũ mà còn thực sự cho thấy những sự lộng lẫy say đắm của một nền thơ ca mới đang có sức hấp dẫn lớn với độc giả đương thời. Các tác phẩm của Xuân Diệu càng làm Thơ mới giàu sức quyến rũ. Nhưng khi Xuân Diệu xuất hiện, Thơ mới vẫn còn đang tiếp tục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 vượt lên: biết bao nhiêu vấn đề đang đặt ra cho sự phát triển của cả nền thơ khi đó. Báo Ngày nay với mục Tin thơ do Thế Lữ chủ trì vừa đăng thơ vừa bình thơ, vừa có mục đích khuyến khích sáng tác thơ và có thể nói, "gánh vác" cả nhiệm vụ dạy người đọc làm thơ thông qua những bài phê bình giới thiệu, nhiều khi làm cả công việc sửa chữ, uốn vần cho nhiều bài thơ. Hàng loạt bài phê bình lý luận Thơ mới được đăng tải trên báo chí cho thấy Thơ mới tiếp tục củng cố những bước đi và thành tựu của nó trên con đường phát triển. Không còn là chuyện cần đấu tranh với sự trì trệ, sáo mòn của Thơ cũ nữa mà vấn đề là Thơ mới cần khắc phục những công thức mới của chính nó , tiếp tục mở rộng con đường sáng tạo thơ ca. Đồng thời, nhìn rộng hơn ra nền văn học Việt Nam đương thờ i, công việc xây dựng nền quốc văn mới được khởi sự từ những năm đầu thế kỷ vẫn được tiếp tục đặt ra ngày càng cấp bách, đặc biệt trong yêu cầu hiện đại hóa. Làm sao để xây dựng nền quốc văn mới, vừa có sự tiếp thu những thành tựu hiện đại của văn học Tây phương, vừa giữ vững bản sắc và tinh thần Việt Nam. Luồng gió văn hóa Tây phương đã ùa vào Việt Nam, đem đến biết bao sự mới mẻ, hấp dẫn và chính nó đã tạo một lực đẩy to lớn cho văn hóa và văn học Việt Nam trên đường hiện đại hóa. Nhưng đồng thời, người ta đã có thể nhìn thấy và lo lắng về một cuộc "xâm lăng văn hóa" từ phương Tây. Vấn đề xây dựng một nền quốc văn mới, thực sự Việt Nam đang trở thành một thách thức trước những người trí thức và những nhà văn nghệ đương thời. Liệu có thể tạo nên một sự phục hưng văn hoá, đưa văn hoá dân tộc hoà đồng vào thế giới hiện đại? Khát vọng ấy đòi hỏi một sự tăng tốc mạnh mẽ và mở rộng cánh cửa văn hoá ra thế giới. Nhưng tình thế ấy lại đặt văn hoá dân tộc trong một tư thế chênh vênh: liệu một nền văn hoá “ nhỏ” có thể chống lại ảnh hưởng áp đặt của những nền văn hoá “ lớn” và có thể chống lại sự cưỡng bức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 văn hoá của chủ nghĩa thực dân phương Tây sẵn sàng xoá bỏ từng bước truyền thống văn hoá bản địa. Trước tình thế ấy, văn hoá Việt Nam đã thể hiện một cách ứng xử mềm dẻo, linh hoạt và khôn ngoan, thể hiện rõ bản lĩnh văn hoá và tinh thần dân tộc trên cả hai phương diện: một mặt, nhanh chóng và gấp gáp củng cố nội lực văn hoá, vun đắp gốc rễ truyền thống và mặt khác, tiếp thu mạnh mẽ những tinh hoa, kinh nghiệm của văn hoá hiện đại phương Tây, và rộng hơn, của cả thế giới văn minh hiện đại. Nhưng bản thân việc tiếp thu và sáng tạo cũng là một vấn đề không đơn giản. Có thể thấy điều này qua rất nhiều ý kiến xuất hiện trên báo chí và trong văn chương. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh viết trong Lời tựa cuốn Việt Nam văn hoá sử cương: “ Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cổ truyền của văn hoá cũ với những điêù mới lạ của văn hoá Tây phương. Cuộc xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy. Nhưng muốn giải quyết thì phải nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy. Tức một mặt phải xét cho biết nội dung của văn hoá xưa là thế nào, một mặt phải nghiên cứu chân giá trị của văn hóa mới". Như vậy, vấn đề xây dựng một nền quốc văn mới vừa dân tộc, vừa hiện đại đang được đặt ra một cách khẩn thiết. Với tư cách một nhà thơ trẻ, một người có tinh thần tiên phong và nhất là có một lòng yêu quốc văn tha thiết, Xuân Diệu đã có những tiếng nói tích cực và đầy nhiệt huyết để xây dựng nền quốc văn mới trong hàng loạt bài viết về chủ đề này. Sự vồ vập với thơ Xuân Diệu và rất nhiều hào quang quanh thơ ông đã phần nào lấn át đi một phương diện rất đáng chú ý trong hoạt động văn chương của người thi sĩ trẻ khi ấy: đó là những tư tưởng đặc sắc của ông về văn chương và quốc văn được lên tiếng trực tiếp qua các bài phê bình - tiểu luận. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 ở giai đoạn văn học 1930-1945, các thể loại văn học đều phát triển và đại đến đỉnh cao. Thơ Mới ra đời và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ với công lao to lớn của những nhà thơ như: Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Văn học giai đoạn 1930-1945, song song với sự thức tỉnh ý thức xã hội và ý thức cá nhân mạnh mẽ đã mở ra nhiều hướng, nhiều dòng hay có thể nói nhiều loại hình văn xuôi khác nhau: văn xuôi trào phúng, văn xuôi tả thực, văn xuôi tâm lý, văn xuôi phong tục... Mỗi loại hình mang những nét thẩm mỹ riêng, chức năng riêng, cấu trúc loại hình riêng, tạo nên sự đa dạng phong phú cho mầu sắc của văn xuôi nghệ thuật. Bên cạnh những loại hình văn xuôi nói trên, trong đời sống văn học Việt Nam những năm 1930-1945 người ta đã có thể nhận ra một dòng văn xuôi khác, đó là văn xuôi mang đậm tính trữ tình, được khởi nguồn từ Thạch Lam, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Ngọc Giao, Đỗ Tốn, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh Văn xuôi nghệ thuật là một thể loại mới và trẻ, đang trên đường tìm kiếm phát triển và hoàn thiện về cấu trúc và chức năng thể loại. Các tác giả văn xuôi vẫn đang tiếp tục đào sâu, mở rộng tầm nhìn tiếp cận xã hội bằng nhiều cách khác nhau. Khác hẳn với các thể loại văn xuôi kể trên, văn xuôi trữ tình là một loại hình phức hợp. Nó vân dụng nhiều phương pháp, kết hợp nhiều yếu tố thể loại khác nhau tạo nên sự đan cài, khó phân định những tiêu chí thể loại và thẩm mỹ rạch ròi. Là văn xuôi song lại có rất nhiều yếu tố thơ, khiến cho văn xuôi đôi khi trở thành những bài văn xuôi đầy sức hấp dẫn, lắng đọng sâu xa. Đồng thời trong văn xuôi trữ tình lại có sự hài hoà giữa chất hiện thực và chất lãng mạn, giữa tính thời sự và tính trữ tình, tạo thành đặc điểm và công năng thẩm mỹ riêng; ở đây có sự tiếp thu, kế thừa truyền thống và ưu thế văn học dân tộc, đó là thơ ca. Vì thế ta thấy văn xuôi trữ tình du nhập khá mạnh các yếu tố thơ vào văn xuôi, làm cho nó trở nên thân quen, nồng ấm, tác động mạnh mẽ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 vào cảm xúc con người thời đại. Loại hình văn xuôi này về cơ bản vẫn mang đặc điểm của một tác phẩm tự sự nhưng lại xen những đoạn mang tính trữ tình. Những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả thâm nhập vào câu chuyện và các biến cố vẫn trong kiểu cấu trúc của các tác phẩm tự sự, kết hợp với cách kể khéo léo: cốt truyện, nhân vật, người kể cùng hiện diện khiến cho khả năng tự biểu hiện và cảm xúc trữ tình bộc lộ một cách tự nhiên. Do đó văn xuôi trữ tình là loại hình nghệ thuật nằm ở khu vực ranh giới giữa văn xuôi và thơ. Nằm trong dòng chảy của văn xuôi nghệ thuật nói chung và văn xuôi trữ tình nói riêng, văn xuôi Xuân Diệu lại có đặc điểm riêng mang những nét đặc trưng của phong cách Xuân Diệu. Nếu như nhiều tư tưởng nghệ thuật được thể hiện trong thơ, thông qua lăng kính thơ thì văn xuôi Xuân Diệu lại có ý nghĩa và vị trí riêng. Đó là những phát biểu trực tiếp dưới hình thức văn xuôi trữ tình những quan niệm của ông về cuộc sống và nghệ thuật. Văn xuôi của Xuân Diệu là những trang văn rất gần với thơ mà tiêu biểu là tập Phấn thông vàng, Trường ca . Song song với những tác phẩm văn xuôi trữ tình, Xuân Diệu còn là một cây bút phê bình tiểu luận năng động, sắc sảo và đầy nhiệt huyết. Những bài này chủ yếu đăng tải trên báo trong khoảng thời gian 1936-1945 như: Tuy Lý Vương - thi sĩ Tàu, Công của thi sĩ Tản Đà, Đôi lời tự thuật Thơ Thơ, Thơ ngắn, Thơ khó, Thơ của người, Tính cách An Nam trong văn chương, Mở rộng văn chương, Thơ ái tình. Ngoài ra ông còn có tập: Thanh niên vói quốc văn, Hàng bia Văn Miếu, Công danh với sự nghiệp, Cái học quẩn quanh... Những tư tưởng đặc sắc của ông về văn chương và quốc văn được lên tiếng trực tiếp qua các bài phê bình N - tiểu luận này. Chúng thể hiện cái nhìn của ông, suy nghĩ của ông về những vấn đề đang đặt ra cho sự phát triển của văn học đương thời. Cho đến nay một số bài viết ấy có vẻ như đã bị lãng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 quên, chúng không có mặt trong các Tuyển tập và Toàn tập Xuân Diệu. So sánh với những nhà thơ đương thời, người ta có thể đưa ra một nhận xét: ông là một nhà thơ viết nhiều nhất cũng như đề cập đến nhiều vấn đề trong văn chương và quốc văn rộng rãi hơn cả những nhà Thơ Mới thời kỳ này. Trong một số truyện ngắnT, thực chất là những áng văn xuôi trữ tình, Xuân Diệu đã gửi gắm nhiều quan niệm của ông về văn chương và người nghệ sĩ. Đồng thời, qua những bài phê bình tiểu - luận của Xuân Diệu, ta có dịp nhìn lại những tư tưởng của ông để có một chân dung đầy đặn về ông, qua đó, có thể lý giải những động lực tư tưởng và cảm xúc làm nên cái mới và sức trẻ trong thơ ông. Cũng qua đó, người ta có thể hiểu thêm những yêu cầu cấp thiết đặt ra trong sự phát triển của Thơ Mới cũng như của văn chương đương thời được lên tiếng thông qua một đại diện xuất sắc - nhà thơ trẻ Xuân Diệu. Những bài tiểu luận, phê bình này cũng còn là một cách bộc bạch con người Xuân Diệu - tư tưởng và cảm xúc của con người nghệ sĩ trong cuộc đối thoại với chính mình, với văn chương và thời đại. 1.2. Thiết tha xây dựng một nền quốc văn, một nền văn chương An Nam. Xuân Diệu được coi là nhà thơ "mới nhất trong những nhà Thơ mới" vì cảm xúc thi ca của ông trẻ trung mới mẻ, đồng thời cũng là một nhà thơ viết những câu thơ được coi là “Tây quá" (Vũ Ngọc Phan) “có những lối dùng chữ đặt câu quá Tây” (Hoài Thanh). Một nhà thơ trí thức Tây học, từng làm công chức nhà nước bảo hộ (Bỗng dưng thi sĩ hóa Tây đoan) mà lên tiếng một cách nồng nàn thiết tha về việc xây dựng nền quốc văn mới - điều ấy chứng tỏ tinh thần dân tộc, lòng yêu văn hóa nước nhà của nhà thơ trẻ là sâu rễ bền gốc đến ngần nào! 1.2.1. Đề cao tiếng mẹ đẻ, kêu gọi sáng tạo bằng quốc ngữ để xây dưng nền quốc văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 Những tiếng nói thiết tha về quốc văn của Xuân Diệu là sự đáp ứng với yêu cầu sinh tồn và phát triển của văn hóa Việt trong nửa đầu thế kỷ XX và cũng hòa điệu với tiếng nói của nhiều trí thức học giả cùng nhiều nhà văn nghệ khác về vấn đề này. Xây đắp quốc văn, giữ vững bản sắc dân tộc là tinh thần của văn hóa Việt, của văn học Việt - điều này từng được thể hiện trong nhiều bài viết. Sáng tạo ra cái của mình, mang bản sắc của dân tộc mình - đó cũng là điều luôn được quan tâm trong dư luận phê bình. Tính cách An nam trong văn chương cũng là tên một bài viết của Thạch Lam và đây cũng là một nhà văn hết sức chú ý đến bản sắc dân tộc trong văn chương. Nguyễn Văn Tố , một học giả uyên thâm cả Hán học lẫn Tây học phát biểu: “Mỗi văn chương có một cái đặc sắc riêng. Văn chương ta cũng vậy, để bỏ mất cái đặc sắc ấy đi, rất là không nên”. Và so sánh với văn chương nước ngoài, dư luận thời đó cũng đã có được niềm tự hào và đề cao những tác phẩm Việt Nam: “Ngồi mà nghiền mãi những khoé văn của Flaubert thì có hứng sao bằng đọc bài văn tả chân của ông Phạm Duy Tốn? Đem tuồng Andromarque ra mà tỉa tách thì chi bằng dò cho hết nghĩa Truyện Kiều. Văn ông Alphonse Daudet ở Pháp , tôi tưởng cũng không hơn văn ông Nguyễn Công Hoan trong những chương đoản thiên tiểu thuyết” (Nguyễn Triệu LuậtN). Xót xa về thực trạng văn chương nước nhà còn nghèo, Xuân Diệu kêu gọi các nhà văn, đặc biệt là tuổi trẻ hãy yêu mến Quốc văn và ra sức sáng tạo để xây dựng ngôi nhà văn chương không thua kém các dân tộc khác. Như hầu hết những nhà Thơ Mới “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu trong tình yêu Tiếng Việt” - tiếng An Nam, lòng tha thiết xây dựng một nền thơ phong phú trong nền quốc văn nước nhà là chủ đề tập trung trong các bài tiểu luận của Xuân Diệu. Để xây dựng ngôi nhà văn chương của dân tộc, trước hết, cần có sự đoạn tuyệt với văn chương Tàu, với "chữ Tàu". Điều này được Xuân Diệu nói Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 lên một cách dứt khoát, mạnh mẽ và không khỏi có phần cực đoan bồng bột. Có thể coi bài Tuy Lý Vương - một thi sĩ Tàu là một bài viết ít nhiều mang tính "luận chiến” với cuốn khảo cứu mới xuất bản về nhà thơ này. Sau khi dẫn hai câu ngự thi “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán - Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường” vốn như một niềm tự hào của văn chương nước nhà, Xuân Diệu bày tỏ thái độ của mình: "Tuy Lý Vương là nhà thi hào làm mất cả Thịnh Đường? Có lẽ, có lẽ lắm. Nhưng dường như thời Thịnh Đường ở bên Tàu thì phải. Vậy thì ông Tuy Lý Vương ấy có quan hệ gì đến tôi, người chỉ biết tiếng Việt Nam? Với tôi, với văn chương Việt Nam, Tuy Lý Vương chỉ là: "thi sĩ củ khoai" mà thôi!. Ông giỏi giang đến thế, ông giàu có đến thế, mà ông đành tâm vứt cài tài của ông vào trong những bài thơ chữ Hán, những bài thơ mà người Việt Nam và cả người Tàu nữa chẳng biết dùng để làm gì!". Xuân Diệu phản đối cái mà người ta gọi Tuy Lý Vương là một “ bậc thi hào” và ông cho rằng cái việc Tuy Lý Vương làm thơ chữ Hán giống như hành động “gánh vàng đổ xuống sông Ngô”, “đem tài hoa của mình phụng sự văn chương ngoại quốc”. Và ông trách: “Nếu ông đừng chê tiếng của mẹ ông thì văn chương Việt Nam thì văn chương Việt Nam tự hào rằng có thể hay hơn văn chương Tàu, vì trong thơ Việt Nam, làm bằng tiếng Việt Nam, cái thi tứ lại dồi dào tao nhã hơn thơ Đường nhiều lắm”. Phê phán giễu cợt Tuy Lý Vương làm thơ chữ Hán, Xuân Diệu không hề có ý khinh thị văn chương truyền thống. Ông vẫn tỏ ra trân trọng chữ nôm, văn thơ nôm dùng tiếng mẹ đẻ để ghi lại ý tình: "Trong đôi bài văn thơ chữ nôm, Thần Siêu Thánh Quát đã tỏ cho ta thấy những đặc điểm rất hay". Và trong bài này, còn không ít những câu phê phán nặng nề hơn nữa về văn chương chữ Hán và cả việc cha ông ta đã sử dụng chữ Hán để sáng tác văn chương, bộc lộ tư tưởng tình cảm của con người Việt Nam. Chắc không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 cần phải đến khi nhà thơ trở thành tác giả của cuốn sách Các nhà thơ cổ điển (1959), có lẽ chỉ ít lâu sau, chính Xuân Diệu (khi viết bài này mới 21 tuổi) sẽ nhận ra sự bồng bột trong những câu như thế. Nhưng “thiết tha và bồng bột” đó chính là cái “tạng” của Xuân Diệu và chính sự bức xúc bảo vệ tiếng mẹ để và xây dựng một nền Quốc văn đã khiến ông cất những lời nồng nàn và cũng cực đoan đến thế. Nhưng người ta sẽ hiểu hơn toàn bộ tư tưởng ông trong lời kết luận cuối cùng: “Và, thưa các bậc kỳ tài làm văn, làm thơ Tây, nãy giờ tôi chưa nói mất lòng các ngài, nhưng chắc các ngài cũng khá thông minh để hiểu rằng sở dĩ tôi cãi kịch liệt về Tuy Lý Vương, là cốt ý cho các ngài cũng tự ngắm các ngài một chút”. Qua những lời kết luận của bài viết, người có thể hiểu và thông cảm với ý kiến của Xuân Diệu: ông không chỉ giễu cợt một thi nhân hoàng tộc làm những câu thơ hay không phải bằng tiếng mẹ đẻ, mà còn đả kích chua cay những người lấy tiếng Tây làm phương tiện diễn đạt ý tình trong văn chương. Hàng bia Văn Miếu cũng đầy tinh thần cảnh tỉnh, luận chiến khi nói về cách lập thân bằng công danh để đạt trong khoa cử thi chữ Hán thời xưa. Ông chế giễu tên tuổi những Thái học sinh từng được khắc tên bia đá là những người chỉ "khéo thuộc lòng, khéo ăn cắp sách, khéo nấu nướng những món văn sách, kinh nghĩa, nấu giả Đường, giả Tống cũng như người ta nấu giả cầy và dọn lên cho các quan trường thưởng thức” và do thế, họ chỉ là những người làm việc không công cho nước Tàu”. Như chúng ta đã biết, nền thi cử bằng chữ Hán đã bị bãi bỏ năm 1919 nhưng dư âm của nó thì mãi mãi vẫn còn, cụ thể là trong Văn Miếu (Hà Nội) có hai hàng bia khắc tên các vị khoa giáp ngày trước. Bia làm bằng đá và mỗi tấm đứng trên lưng một con rùa với ý nghĩa là lưu danh thiên cổ và “sống lâu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 như rùa" - con rùa mà theo Xuân Diệu là biểu tượng của "sự đi chậm, sự lười biếng, sự ngu độn nữa kia"! Xuân Diệu đã cho rằng hai hàng bia đá đó là sự mỉa mai cho “phương danh, quý tính của chư vị Thái học sinh, của những bậc đỗ đạt rất cao, văn tài rất giỏi, vẻ vang cho nước nhà thuở xưa”. Nhà thơ trẻ mỉa mai: "Chắc những người có tên trên hai bảng vàng danh dự đó, xưa kia đã chắc mẩm nắm được hậu thế trong tay, và gật gù làm thêm những sách vở bằng chữ Tàu để sau này cho con cháu Việt Nam học. - Cũng như bây giờ..." Câu văn buông lửng đầy hàm ý. Cái hàm ý ấy lại một lần nữa bộc lộ công khai trong lời kết của bài viết nhằm tới một chủ đích rõ ràng: Cái dụng ý xây đài kỷ niệm cho các ông nghè, “nay đã hỏng bét” và "Người Việt Nam đời này đã bỏ xó cái “công danh Tàu” đời trước; còn cái “công danh Tây” đời này, người Việt Nam đời sau sẽ để vào góc nào? ” Cũng liên quan đến học vấn và công danh được các thế hệ trước xây dựng trên nền tảng Hán học, trong bài tiểu luận Công danh và sự nghiệp viết ngày 20-3-1945) Xuân Diệu nói về khoa cử thời xưa: “Khoa cử là cái khuôn sẵn của nhà cầm quyền để nắn ép nhân tài. Khoa cử là cái học chật hẹp , cái học bóp chẹt người ta trong khuôn khổ một câu văn, trong sáo hủ của vài ý tưởng chính thức được nhà cầm quyền công nhận, cái khoa cử ấy nó nghiêm ngặt quá, nên nhân tài nào đi qua cũng phải chặt bớt, đẽo bớt, gọt cho nhẵn, sửa cho cân, đến nỗi ra xong cái khuôn, thì nhân tài đã chết rồi, chỉ còn lại một ông cống, ông nghè vô vị”. Tựu trung lại vẫn chỉ là sự đả phá của nhà thơ trẻ với mọi thứ công danh văn nghiệp xây dựng từ cái vốn ngoại lai và mong muốn tha thiết vun đắp một nền quốc văn nước nhà - nhất là khi cái nền quốc văn ấy còn đang trong cảnh “nhà nghèo cơm thiếu”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Cái tâm nguyện thiết tha ấy được nói lên một cách bồng bột và có những ý không đủ độ sâu sắc và chính xác nhưng cũng đủ sức thuyết phục và chia sẻ vì nhiệt tình chân thực và nồng nàn trong mỗi bài viết. Và có lẽ nhiều nhà khảo cứu văn chương chữ Hán đang cố công phục hồi những giá trị quá khứ cũng không lấy làm phật ý bởi những lời bồng bột của nhà thơ trẻ. Họ đọc thấy ở đấy rất nhiều sự đồng cảm về sự tha thiết với nền quốc văn Việt Nam cũng đang thức tỉnh trong chính lòng họ và thúc đẩy những cố gắng âm thầm của họ. Xuân Diệu là như thế. Với ông, tình yêu là vô biên, tuyệt đích, dù đó là ái tình hay tình yêu dành cho tiếng Việt: “Anh em không nghe tiếng mẹ gọi hay sao? Anh em nỡ lòng nào mà hờ hững cho được! Nhà nghèo mà anh em biết chịu thương, chịu khó, biết cố gắng, biết hi sinh thì chả mấy chốc mà cái nhà Văn học Việt Nam từ vách đất mái tranh sẽ hoá nên lâu đài cung điện (Sinh viên với quốc văn). Trước phong trào "phục cổ", "quay về vốn cũ của cha ông", "nhiều bạn tân học quay về học chữ Hán", Xuân Diệu viết bài Cái học quẩn quanh. Tiếp tục phê phán chế giễu lối học nệ cổ, ca ngợi giá trị văn chữ Hán, ông viết: " Sao chúng ta, người Việt Nam, lại lấy vốn văn chương của người Tàu làm cái vốn của mình? ". Lấy tiếng Việt, vốn văn chương Việt làm căn cốt cho mọi sáng tạo - tư tưởng ấy vang lên như một thúc giục thiết tha. Một loạt bài chung một chủ đề: hãy xây dựng nền quốc văn thực sự, nền quốc học thực sự Việt Nam bộc lộ rõ rệt tình cảm thiết tha của Xuân Diệu đối với văn hóa văn chương nước nhà. 1.2.2. Mối quan hệ giữa Tính cách An nam trong văn chương và vấn đề Mở rộng văn chương. “Tính cách An Nam trong văn chương"và "Mở rộng văn chương" là hai tiểu luận gắn bó với nhau một cách mật thiết, tập trung thể hiện quan niệm tích cực, mới mẻ của Xuân Diệu về tính dân tộc trong văn chương và khát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 vọng cách tân, đưa văn chương dân tộc hoà nhập với văn chương nhân loại. Chúng ta bắt gặp cái tôi của Xuân Diệu với ý thức cá nhân, cá thể đã được thức tỉnh dám lên tiếng nói thẳng những suy nghĩ riêng của mình. Ông viết : “Có lẽ ý tôi sẽ ngược với rất nhiều người” song vẫn “mong được cái tự do tư tưởng”; “nói những điều tôi thành thực tin”; và dám cam đảm chấp nhận” dù bị công kích cũng đánh”. Một thái độ dũng cảm của tuổi trẻ, hay đúng hơn, của một Xuân Diệu trẻ tuổi đầy tự tin vào tư tưởng của mình. Đứng vững trên lập trường dân tộc, với nhiệt tình yêu nước của tuổi trẻ Xuân Diệu phê phán kịch liệt những tư tưởng cố chấp , hủ lậu nhân danh thuyết “Tính cách An nam” nhưng thực ra đã biến cái thuyết đẹp kia thành một thuyết chật hẹp, nông nổi. Xuân Diệu thẳng thắn bầy tỏ thái độ: “Chúng ta phải giữ gìn cho tính cách An Nam. Điều ấy rất phải. Nhưng giữ gìn bờ cõi có phải là đóng hết cửa biển, tuyệt hết giao thông, bế tắc cả nước lại đâu! Giữ gìn không phải là đánh tâm mến yêu một cảnh nghèo đói” Nhà thơ tin vào quy luật đào thải tự nhiên của văn chương: những cái phản với tinh thần quốc văn tất phải tiêu diệt, cái gì không hợp với tiếng Việt Nam tất phải chết. Xuân Diệu phê phán lối văn nô lệ cho văn Tàu hay văn Tây đồng thời rất quan tâm đến vấn đề mà ngày nay chúng ta vẫn thường gọi là bản sắc dân tộc: “Văn mỗi nước có một tinh thần, khó diễn tả cho rõ được, ta phải có một thứ cảm xúc riêng để cảm nghe cái tinh thần ấy”. Và cái bản sắc riêng ấy, tức là tính dân tộc của văn học, hay nói theo cách diễn đạt của tác giả lúc bấy giờ: “ Tính cách An Nam trong văn chương” được Xuân Diệu quan niệm một cách rất cởi mở. Trước hết, “Văn chương Việt Nam được giữ gìn một cách chắc chắn là tiếng Việt Nam; có hình thức, có mẹo luật riêng” và có cả một “tinh thần riêng mà ta cảm nghe rất rõ”. Vì vậy, dùng Tiếng Việt (chữ Xuân Diệu dùng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 là tiếng An Nam) như một khí cụ, dùng đúng, dùng cẩn thận theo tinh thần Việt Nam thì nhất định văn ta là văn Việt Nam. Quan điểm này đặt vào hoản cảnh ra đời của nó khi mà sau gần chín thế kỷ, văn học nước ta vẫn còn nặng nề với những điển cố, điển tích, Hán tự, khi mà dân tộc ta dù đã có chữ viết nhưng trong nhà trường để đào tạo ra tầng lớp công chức Tây học , nhà nước thực dân thống trị chỉ daỵ học bằng tiếng Pháp, còn Tiếng Việt lại bị kinh bỉ, khinh rẻ, chúng ta mới thấy hết được ý nghĩ sâu xa bền chặt của tình yêu và cả một thế hệ nhà thơ cùng thời nói chung. Mặt khác, Xuân Diệu còn lập luận: “Chúng ta là người An Nam, có chịu ảnh hưởng Âu Tây, nhưng vẫn là người An Nam. Mà người Âu Tây là gì? Họ cũng là người. Trừ những điều riêng Tây quá, chứ cái “kho” cái “đáy”; cái “vốn” của con người ở đâu đâu cũng giống nhau”. Do đó “có cái đẹp riêng của văn mỗi nước và có cái đẹp mà văn nước nào cũng có thể như nhau”. Phải chăng, ở đây Xuân Diệu là một trong những nhà phê bình, bằng tiên cảm của một nhà thơ lớn đã thấy được mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính nhân loại. Và cũng từ đó, Xuân Diệu cho rằng để có tính cách An Nam trong văn chương, không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi dân tộc mình với những cái đã có mà còn cần phải “mở rộng văn chương” để giao lưu tiếp thu thêm, để làm mở mang thêm trí não, tình cảm dân tộc, làm cho “con người” của ta giàu thêm. Ông đặt câu hỏi: “Cái học Âu Tây đã làm cho chung ta tinh vi, kỹ lưỡng; vì sao chúng ta không có những điều ấy trong văn học Việt Nam? ” ! Đồng thời cũng như nhiều nhà văn khác, trong quan niệm của Xuân Diệu, văn chương là một sự sáng tạo, người viết văn còn phải truyền sự sống, thêm sự sống vào cho người thường, nó không chỉ dừng lại ở sự mô tả mà thôi đâu, văn chương còn là sự dò xét, sự đoán hiểu.Vì vậy Xuân Diệu nhiệt tình cổ vũ cho sự tiếp thu và sáng tạo cái mới với mục đích để văn học làm sao diễn tả biểu hiện cho được sự sống đa dạng, phong phú và phát triển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 không ngừng của tâm hồn con người Việt Nam. Xuân Diệu hào hứng và sôi nổi: “Chúng ta phải tạo thêm, phải bày đặt ra những cách dùng mới mà xưa kia các cụ không chịu tìm, vả lại chúng ta ở thế kỉ XX, chúng ta có những cái phức tạp mà các cụ không có”; “Đốt đi, củi sẽ cháy, tưới đi đất sẽ ướt, ta cứ nói đến một sự sống mãnh liệt, đầy đủ, tất nhiên những tâm hồn Á Đông sẽ có sự hưởng ứng. Người Á Đông giấu trong lòng một ngọn lửa thần, như than lấp dưới tro ta phải làm cho ngọn lửa ấy biểu lộ”. Tất nhiên cũng phải thấy rằngT, trong cái nhìn và quan niệm của Xuân Diệu về tính dân tộc thời bấy giờ đôi lúc chưa thể tránh khỏi phiến diện hoặc cực đoan. Chẳng hạn như ông viết: “Chúng ta nay chịu ảnh hưởng của văn học Tây Âu, nhưng ta phải ngoan lên nhiều lắm, đã tỉnh dậy nhiều lắm, đã không nô lệ cho văn học nước ngoài. Ta đã biết làm như La Fontaine: Sự bắt chước của ta không phải là nô lệ”; chứ ngẫm cái quá khứ văn học của ta mà xem, cha ông ta đă bắt chước Tàu một cách tệ hại là nhường nào. Đành rằng ta gần Tàu hơn Tây, nhưng chúng ta xưa đã ăn cắp chứ không chịu ảnh hưởng”. Chỉ nhấn mạnh một chiều "cha ông ta đã bắt chước Tàu một cách tệ hại là nhường nào" mà không thấy sự tiếp thu có sáng tạo của cha ông để tạo nên không ít kiệt tác văn chương, mang đậm tâm hồn và bản sắc Việt Nam - điều đó phản ánh cái nhìn một chiều và không khách quan của nhà thơ trẻ. Có lẽ cách nói quá lên này âu cũng là một cách gây ấn tượng và cũng là căn bệnh thường gặp của những cuộc cách tân ở vào buổi đầu của nó. 1.3. Vấn đề thanh niên với quốc văn. Thiết tha xây dựng nền quốc văn nước nhà, Xuân Diệu bộc lộ tâm nguyện và nhiệt huyết ấy trong nhiều bài viết. Và một điều đáng chú ý là ông đã chia sẻ tâm nguyện ấy trước hết và tha thiết hơn cả với những người đồng lứa, những trí thức văn nhân thuộc thế hệ ông. Nhà thơ trẻ đã có bài nói Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 chuyện Sinh viên với quốc văn - một bài nói với sinh viên trường Đại học ngày 4 tháng 2 năm 1945- trước ngày 9 tháng 3 (Nhật đảo chính PhápN) chỉ hơn một tháng và cuộc Cách mạng tháng Tám cũng đã đến rất gần. Đó trước hết là một cuộc nói chuyện tâm tình, " tâm tình với quốc văn, tâm tình của chúng ta với quốc văn". Những gì ấp ủ trong lòng nhà thơ về đất nước, dân tộc càng có dịp bộc lộ mạnh mẽ và tha thiết. Trước hết nhà thơ nói về tình trạng coi thường tiếng mẹ đẻ, "tiếng nói của mẹ Việt Nam ". Với nhiều sinh viên khi đó, " có cái gì như là khinh khỉnh đối với quốc ngữ. Ông giáo giảng văn, các bạn nghe bằng lỗ tai chểnh mảng" vì còn cố làm bài luận Pháp văn cho kịp nộp! Với lối học coi thường tiếng Việt, cái thứ tiếng bị coi là "nôm na mách qué" như thế, làm sao tuổi trẻ có thể hiểu và cảm được cái hay của những áng văn chương dân tộc. Sau khi nhấn mạnh tình trạng quốc ngữ, quốc văn bị "bỏ hoang", Xuân Diệu nói về việc sinh viên phải có bổn phận với quốc văn. Nhà thơ nhấn mạnh: "Trong những việc hệ trọng, tất phải có việc ra sức vì quốc văn", bởi vì sinh viên là những học sinh bậc nhất, những thanh niên may nhất, học cao nhất. Nếu sinh viên, bên cái học nhà trường, không nghĩ đến cái học quốc ngữ, thì những người nhiệt tâm với quốc ngữ đều là những người khác hay sao? ".Xuân Diệu ví von: tiếng Việt chỉ như người "mẹ nhỏ" so với tiếng Pháp ở vị trí "mẹ cả", nhưng người con vẫn phải dành phần thiêng liêng nhất cho mẹ đẻ của mình; tình cảm ấy dù có phải che giấu đi, thì "càng che giấu lại càng thắm thiết, càng lấp vùi lại càng nóng hổi, càng chặt đẽo lại càng nở lộc, đâm chồi". Bài tiểu luận này của Xuân Diệu cũng đề cập đến những công việc cụ thể phải làm với quốc văn. Qua những ý kiến của nhà thơ, người ta có thể nhận ra phần nào thực trạng quốc văn ở thời kỳ này và những việc thiết thực mà sinh viên, trí thức phải làm để xây dựng và củng cố quốc văn. Trước hết, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 đó là công việc dịch những tinh hoa văn chương thế giới. Không phải là dịch cẩu thả, không phải là dịch qua bản dịch của một ngôn ngữ khác mà phải dịch tận nguồn. Nhà thơ xót xa với tình trạng "cái gia tài văn học của ông cha ta để lại, hiện nay ta chưa khai thác gì cả". Phải nghiên cứu, tìm hiểu nhưng phải làm công việc đó một cách nghiêm cẩn, sâu sắc. Và sau tất cả những điều ấy, là phải sáng tác, sáng tạo cho nền văn chương nước nhà. Xuân Diệu dành những lời trân trọng nhất đề cao văn chương sáng tác: “ Viết bài này, tôi muốn dựng lại cái thang giá trị, muốn lập lại các ngôi thứ, muốn dành bậc nhất cho văn sáng tạo. Tôi muốn nhắc cho công chúng nhớ rằng chỉ có văn ở đầu óc ta nghĩ ra, còn mang vết máu tuỷ của ta, mới là đáng kể. Tất cả những cái khác chỉ có giá trị của những tài liệu. Những văn mượn, văn dịch chỉ là những món phân để vun bón cho những lá, những hoa của văn nước nhà... Chúng ta tha hồ dịch, dịch tất cả văn hay ngoại quốc, thu thập rất nhiều của lạ, nhưng trí sáng suốt của ta không lầm lẫn bao giờ, không xao lãng sự sáng tạo của chúng ta". Chỉ có như thế, văn chương nước nhà mới phát triển, "chứ không lơ thơ lẻ tẻ nhơ cái cảnh chợ chiều hiện nay". Với tư cách là người đi trước cùng với uy tín của một tên tuổi lừng lẫy trên thi đàn, Xuân Diệu tiếp tục đi xa hơn trong việc vạch ra và phê phán "những tật xấu trong tinh thần A đông" - những tật xấu này sẽ làm phương hại, trì trệ đến công việc xây dựng quốc văn. Đó là lối lười suy nghĩ, chỉ dập khuôn theo cổ nhân, theo Tàu; phải thực sự cúc cung tận tụy với công việc; phải làm thực, nghĩ thực chứ không phải bôi phết qua loa như những công trình khảo cứu, dịch thuật đương thời - ông gọi đó là thứ "voi nan". Nhà thơ cũng đề ra những điều mà ông gọi là "nguyên tắc" : đó là trọng sự thật, trọng sự lành mạnh. Giọng văn Xuân Diệu đầy tính phê phán khi ông nói về những "tài tử văn nhân" sống sa đọa với rượu và thuốc phiện đồng thời gieo rắc cái đó trong văn chương đương thời. "Họ ca tụng rằng: Khói huyền lên! Khói Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 huyền lên!... Họ nói rằng: Nhớ quê sầu trắng một đêm nay... Quê đây là cái quê nâu của họ, của một bọn người không còn quê hương nào để phụng thờ nữa cả, cho nên phải lấy thuốc phiện làm quê hương". Một nguyên tắc nữa, theo Xuân Diệu, đó là trọng sự sáng sủa. Ông phê phán thứ văn chương làm bộ tân kỳ, bí hiểm, tối tăm. Thứ văn ấy, "nói mà chẳng muốn cho người ta nghe, thì cứ nói riêng ở trong phòng, chứ sao lại còn in ra thành sách để bán? ". Không gọi đích danh tác giả của các "hiện tượng" được đem ra phê phán, nhưng những sinh viên, những độc giả thời ấy hẳn cũng nhận ra những hiện tượng, những tác giả văn chương này. Một lần nữaM, người ta lại thấy thái độ thẳng thắn nhìn vào sự thật của văn chương đương thời, dũng cảm lên tiếng về nó là sự thể hiện trực tiếp nhất tình cảm nồng nàn yêu mến của Xuân Diệu đối với quốc văn. Sáng tạo , xây dựng là cho hôm nay và cho tương lai. "Phải học quốc ngữ, để mà viết quốc ngữ, phải làm ra sách hay bằng quốc ngữ, để cho các em của ta lớn lên, chúng nó được hưởng cây nhà lá vườn", để chúng khỏi "như chúng ta hiện nay, phải đi lang thang xin xỏ ở văn học ngoài những thứ cần thiết". Nhà thơ kết thúc bài viết bằng những lời tha thiết và tin tưởng: "Nhà nghèo mà anh em ta biết chịu thương chịu khó, biết cố gắng, biết hi sinh thì chả mấy chốc mà cái nhà văn học Việt Nam, từ vách đất mái tranh sẽ hóa nên lâu đài cung điện. Thưa anh em, văn học Việt Nam đang mong mỏi ở mỗi người chúng ta!". 1.4. Tư tưởng văn chương và quan niệm về thơ của Xuân Diệu qua phê bình. Trước 1945, Xuân Diệu không viết nhiều bài phê bình trực tiếp về một tác giả, tác phẩm thơ. Dường như những tác giả, tác phẩm nào thực sự gây cho ông những ấn tượng sâu sắc, gợi cho ông những suy nghĩ và cảm xúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 mạnh mẽ mới tạo nên cảm hứng cho ngòi bút phê bình Xuân Diệu. Bời thế, những bài viết về thơ Tản Đà, thơ Huy Cận có thể được coi là những bài tiêu biểu và đầy giá trị của ngòi bút phê bình văn học của Xuân Diệu . Về Tản Đà, Xuân Diệu đã có những bài tiểu luận như Công của thi sĩ Tản Đà và Một vài kỉ niệm về yêu thơ Tản Đà. Nói về Công của nhà thi sĩ lớp trước Tản Đà, mở đầu bài tiểu luận, Xuân Diệu khẳng định: “Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tàn Đà là người thứ nhất có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái “Tôi”. . Để làm rõ hơn thái độ khẳng định qủa quyết của mình, Xuân Diệu phân tích, lý giải, so sánh bằng cách gợi lại truyền thống dân tộc và đặt Tản Đà vào bối cảnh chung của nền văn học nước nhà: “Chúng ta nói sự thật, thì chúng ta nói rằng trong văn học Việt Nam, những chân thi sĩ không nhiều, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Xuân Hương, số thi sĩ chân thành đếm không đủ lên mười ngón tay". Từ xưa hồn thơ Việt Nam tù túng trong khuôn khổ của lễ nghi, đạo đức. Tản Đà sinh vào hồi giao thời lúc thơ cổ vào hồi tàn lụi, và thơ kim đương phôi thai. Không ai khác mà chính là Tản Đà bắt đầu ca lên những điệu mới, đầy rẫy hồn thơ: "Giữa lúc thơ Việt Nam khô khan ở trong dấu xe cũ, giữa lúc lối “thơ Nam Phong” trị vì một cách bệ vệ, dùng những tiếng lớn nói những chuyện con, diễn những ý sáo bằng những lời sáo hơn bội phần, giữa lúc trống rỗng và buồn tênh, Tản Đà đem đến một hồn thơ, Tản Đà cho văn học Việt Nam một thi sĩ”. Bằng niềm tri ân tinh nhạy giữa những tâm hồn đồng điệu, Xuân Diệu phát hiện lên những cái mà “lần đầu” thi sĩ Tản Đà đem đến cho thơ Việt Nam: lần đầu tiên, người ta được nghe một giọng nói dịu dàng trong trẻo, nhẹ nhõm có duyên của “một tấm lòng thực thà hé phơi, và người ta cảm động”; lần đầu tiên, Tản Đà dám vẩn vơ, dám mơ mộng, dám cho trái tim và linh hồn được có quyền sống cái đời sống của chúng, lần đầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 tiên “ông tự nhiên để cho bản ngã của mình tràn ra ngoài khuôn khổ”. Những nét đặc sắc ấy chính là phong cách nghệ thuật và đóng góp của thơ Tản Đà: “Say, Ngông và Mộng, ba điểm ấy làm cho thơ ông nhẹ nhàng phóng khoáng. Tản Đà đã có một bản ngã, đó là công trình của ông trong thơ Việt Nam”. Và Xuân Diệu phê phán, tranh luận: “Thế mà xưa kia có người thấy đó là một điều đáng mỉa mai trách móc. Sao nhà học giả đeo kính lại muốn cản đường của nhà thi sĩ đeo hồ lô? ”. Ngòi bút phê bình của Xuân Diệu trong một ít dòng, quả là đã phơi bày những khía cạnh bản chất nhất của hồn thơ Tản Đà. Đồng thời, Xuân Diệu cũng nhấn mạnh tính chất An nam trong thơ Tản Đà - cũng là một cách khẳng định quan niệm về Tính cách An Nam trong văn chương. Xuân Diệu khẳng định: “Là thi sĩ đầu tiên trong thơ Việt Nam hiện đại, là cái mầm thứ nhất của thơ chân thành, Tản Đà còn là thi sĩ rất An Nam, có thể nói là hoàn toàn An Nam. Đó là một điều không dễ”. Ông chỉ ra tính dân tộc trong thơ Tàn Đà với “những vần thơ nhẹ nhàng, phất qua như gió”, “những câu ca có duyên, những đoạn phong dao mộc mạc” mà Tàn Đà thể hiện rất thuần thục, rất trong trẻo như hơi thở tự nhiên của phong cách Việt Nam; rồi ngay cả cách hài hước bóng bẩy, vừa ngộ nghĩnh, điểm một thứ hóm hỉnh nhẹ nhàng, đặc biệt là Việt Nam. Không những vậy, khi Tản Đà làm thơ thất ngôn Đường luật, cũng không chút gì gò gẫm khó khăn như các cụ nhà Nho thuở trước vì thi sĩ đã am hiểu tường tận tiếng nói dân tộc. Cũng vì vậy, thơ Tản Đà đã có sức phổ biến rộng rãi, đi đến mọi hạng người. Xuân Diệu khép lại bài tiểu luận với những dòng đầy tự tin và ân nghĩaX: “Chúng ta từ nay có một tâm hồn khúc chiết, dù xu hướng về một lối thơ hợp với những tình cảm mới, chúng ta vẫn yêu và kính phục luôn luôn nhà thi sĩ thứ nhất đã cho chúng ta nghe những khúc giáo đầu đặc biệt tài hoa, những khúc giáo đầu của thơ hiện kim, của Thơ Mới” ( ). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 Trong bài tiểu luận “Một vài kỉ niệm về yêu thơ Tản Đà”, vừa như một bài phê bình, vừa như một hồi ký, Xuân Diệu đã xúc động kể lại: “Tôi sẽ là người bội bạc nếu tôi quên cả một thời tuổi nhỏ, thời tôi đã yêu, đã mê thơ của thi sĩ Tản Đà...Cả một thời thơ ngây của tôi đã nhuần thấm cái vẩn vơ, cái mộng của người trích tiên, tôi đã có một cớ để yêu người đến mê say”. Từ lúc muời ba tuổi đã chép những bài thơ của Tản Đà vào sổ con với “cảm giác mơ hồ như hứng lấy một bóng trăng thanh” và “mờ mờ hiểu ra rằng người thi sĩ là lạ, khác khác, không phải những người quen biết” mà mình đã gặp, để rồi càng xem càng thấy cái tài đặc biệt của Tản Đà. Càng ngày, như Xuân Diệu nhớ lại, ông giác ngộ ra rằng “những bài thơ đạo mạo, hoặc sâu thẳm, nhưng bao giờ cũng khô khan, nhạt nhẽo đăng ở Nam Phong thì bì sao được những câu ca dao bay bổng của Nguyễn Khắc Hiếu đăng ở Hữu Thanh”. “Trong năm sáu năm trời“,từ lúc sơ học đến lúc thi Thành chungt, thơ Tản Đà nuôi lòng yêu thơ của tôi. Chung quanh Tản Đà, những người khác làm những bài thơ không một chút rung động. Thơ Mới chưa ra đời, thơ cũ lặp lại những câu sáo; tình yêu của tôi đi đến Tản Đà như đi đến người thi sĩ độc nhất của Việt Nam.” Xuân Diệu mê và phục Tản Đà từ “cách dùng từ tinh xảo”, “mẹo luật li kì và một âm nhạc chảy trôi, bay bướm”, mê từ “những vần giản dị, êm ngọt, đọc nghe lanh lảnh bên tai” đến “những câu thoát dịch thơ Tàu”. Yêu thơ, yêu lây đến văn, yêu đến trở thành độc giả trung thành và ngong ngóng đợi chờ từng số An nam tạp chí để được đọc thơ Tản Đà. Tuy nhiên cũng ở hồi ức này, đoạn cuối Xuân Diệu viết: "Càng lớn tôi càng cần sự tha thiết, sự mãnh liệt mà tôi không thấy trong thơ Tản Đà. Cái thích hôm nay không giống cái thích ngày trước và một ngày mai không còn cái thích hôm nay”. Có thể nói, Xuân Diệu qua bài phê bình Tản Đà đã từ lòng yêu mến, sự ca tụng nhà thi sĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 này mà nhìn ra con đường đã qua và cả những yêu cầu mới của thơ ca hiện đại. Ông đã biết từ đó, chọn một con đường cho hướng đời và hướng thơ của mình. Đó là bản lĩnh của một nhà thơ lớn, nhà phê bình lớn trong tương lai. Hơn cả ý nghĩa phê bình một tác giả, người ta có thể đọc thấy ở hai bài phê bình thơ Tản Đà không ít vấn đề của đời sống thơ ca đương thời. Đó là cách mà những nhà Thơ mới, mà ở đây là Xuân Diệu đánh giá trân trọng và công bằng về Tản Đà, một nhà thơ tài hoa, dù thuộc về lớp nhà Thơ cũ, nhưng đã có công mở đầu cho bước chuyển mình đầu tiên của Thơ mới. Các nhà Thơ mới trong công cuộc tạo ra một cuộc cách mạng trong thi ca, đã phê phán quyết liệt thơ cũ. Và khi Thơ mới, như một điều tất yếu, đã chiến thắng Thơ cũ, phát triển và trưởng thành thì lớp nhà thơ mới đã nhận ra rằng nhiều người thuộc lớp thơ cũ ấy, đặc biệt là Tản Đà chính là người đã góp phần quan trọng vào sự hình thành Thơ mới. Tản Đà là người đầu tiên dám khẳng định bản ngã, khẳng định một cái tôi trong thơ, biểu lộ một thái độ dám là mình, phơi bày mình một cách thành thật trong thơ cùng với cả một kho kinh nghiệm vận dụng tài tình ngôn ngữ thi ca tiếng Việt. "Từ xung khắc đến hòa giải với truyền thống" (Trần Đình HượuT), tinh thần ấy được thể hiện ở những bài viết của Lưu Trọng Lư trước đó về Tản Đà, và càng được thể hiện rõ hơn và tha thiết hơn nữa trong hai bài viết của Xuân Diệu về Tản Đà. Hoài Thanh sau này cũng đã đánh giá trân trọng Tản Đà trong Hhi nhân Việt Nam năm 1942 khi tổng kết về phong trào Thơ mới. Hoài Thanh viết: "Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo.. . Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa". Những lời ấy không phải không chịu nhiều ảnh hưởng của những ý kiến đánh giá của Xuân Diệu về Tản Đà qua hai bài viết này năm năm trước đó (1937) .Chính Xuân Diệu là người đầu tiên nhận ra những điều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 này: "Chúng ta vẫn yêu và kính phục luôn luôn nhà thi sĩ thứ nhất đã cho chúng ta nghe những khúc giáo đầu đặc biệt tài hoa, những khúc giáo đầu của thơ hiện kim, của Thơ Mới”. Khác với bình luận thơ Tản Đà, khi giới thiệu thơ Huy Cận (1939) và viết Lời tựa cho “Lửa thiêng” (1940), Xuân Diệu không phải chỉ giới thiệu thơ của một người bạn thân thiết “đã giáp một năm nay đi tới giữa chúng ta với những bài thơ đặc biệt" mà là một cách đi vào khám phá thế giới tâm hồn của một thi sĩ. Ông nhận ra ở Huy Cận một “tâm hồn có nhiều hương vị, một kho tàng tuy đương hỗn tạp nhưng thực sự là giàu”. Ông biểu hiện thái độ hào hứng trân trọng của mình đối với một thi tài mới xuất hiện, rộng hơn, đối với “cái đương dậy, cái đương lên” của Thơ mới.Theo Xuân Diệu, đó cũng là bổn phận của mọi người yêu thơ đối với văn chương Nam Việt tức là phải “ráng thấu hiểu để yêu mến những văn tài mới lên”. Những gì Xuân Diệu nói trong bài viết sẽ chẳng bao lâu được chứng minh: Huy Cận ngày càng trở thành một nhà thơ có vị trí quan trọng của Thơ mới và được người đọc yêu mến. Mượn lời Thế Lữ khi giới thiệu thơ mình, Xuân Diệu khẳng định Huy Cận cũng là “một người của đời, một người ở giữa loài người”, “ông không đi giữa lối thơ phù phiếm, mộng mơ”. Thơ Huy Cận cũng mang đặc tính chung của Thơ khó; thơ không thật nệ vào ý mà luôn gợi mở một vũ trụ mênh mông, một không gian mơ hồ. Điều đó khiến nhiều bài thơ của Huy Cận dường như khó hiểu nhưng kì thực không có gì bí hiểm. Những bài phê bình thơ này báo hiệu một năng lực cảm nhận tinh tế, giàu sức phát hiện của nhà phê bình Xuân Diệu. Ông chỉ ra được những đặc sắc của hồn thơ Huy Cận ngay từ buổi đầu qua “Lửa thiêng” với chất “ôm nhiều vũ trụ”, với "cảm giác không gian" mênh mông, với vẻ đep “thầm kín rạo rực” “không phô bày” “phảng phất một linh hồn Đường thi”, “nóng chảy bên trong, e lệ bên ngoài, hay nói Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 nhỏ và hay làm thinh để men lòng càng rạo rực hơn nữa”, “một tâm hồn hay lặng yên để nước mắt chảy, không biết khóc cái gì, vừa mạnh vừa yếu, rất mới và rất xưa, rất Âu Tây và rất Á Đông, nghĩa là cả con người, con người phức tạp muôn thuở”.Sau này, những ý kiến đánh giá về Huy Cận có vẻ cũng không vượt xa nhiều những ý kiến trên của Xuân Diệu về nỗi sầu vũ trụ, về hơi Đường thi cổ kính trong thơ Huy Cận. Và cũng chỉ có Xuân Diệu, nhà thơ của tuổi trẻ, tình yêu, bạn thân của Huy Cận mới nhận ra ở "chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm" có một tâm hồn hiền hòa và là một chàng trẻ tuổi đa tình với những vần thơ ái tình trong trẻo. Nhà phê bình ví von: “Huy Cận đa tình, tâm hồn ông là một cô gái xưa rón rén, ung dung, trông nết na dè dặt, kì thực hay liếc trộm và rất ưa viết thư tình”. "Có lẽ, Xuân Diệu là người viết đầu tiên và cũng là người viết kĩ lưỡng nhất về thơ Huy Cận. Thực ra Xuân Diệu biểu dương thơ Huy Cận qua Lửa thiêng, cũng chính là khẳng định sự chiến thắng của cả phong trào Thơ Mới: “Không phải rượu đã rót vào chén” mà là “men đường lên”, “Không phải là hoa sẵn trên cành” mà là “dòng nhựa đương chuyển”, không phải là “một lời hứa hẹn nữa” mà đã là nụ lộc xanh tốt, đem đến một hương sống lạ lùng [2, 57]. Kết hợp với những ý tưởng trên, chúng ra thấy ngay từ đầu Xuân Diệu cũng như một số nhà thơ, nhà phê bình thời ấy quan niệm Thơ Mới sở dĩ thành công không chỉ là sự tiếp thu thơ ca Âu Tây mà còn là sự góp nhặt “bao nhiêu cái đẹp tốt của Á Đông, nhất là cái lửa tro nồng ấm ở bên trong và cái xa vắng mênh mông của Thời cũ”. Qua ý kiến Xuân Diệu, có thể thấy Thơ mới đang nhận ra mình trong từng bước phát triển của nó. Nó nhận ra rằng phải biết tự phê phán cái yếu kém của chính mình, phải hào hứng nồng nhiệt mở rộng giao lưu tiếp thu cái mình chưa có, nhưng không bao giờ xa rời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 nguồn cội, Cũng như cây có rễ càng sâu thì bóng cành mới có sức vươn cao lan toả. Và cũng chính trên tinh thần này mà những nhà Thơ mới không trở thành những người "thất cước": chân họ vẫn đứng vững trên truyến thống thi ca dân tộc, vẫn thu hút vào mình "cái lửa tro nồng ấm và cái xa vắng mênh mông của Thời cũ" để từ đó có được sức sống và sự giàu có tinh thần để tiếp tục làm "một cuộc cách mạng trong thi ca". Cũng từ những bài phê bình tiểu luận này, một lần nữa Xuân Diệu bày tỏ quan niệm về văn chương và thơ của mình, tiếp tục nhấn mạnh tư tưởng về “Tính cách An nam trong văn chương” và sự cần thiết phải “Mở rộng văn chương”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Chương II Quan niệm của Xuân Diệu về văn chương và thi ca 2.1.Quan niệm về văn chương và người nghệ sĩ. Văn xuôi trữ tình của Xuân Diệu có nhiều nét độc đáo. Chúng tồn tại trong một hình thức linh động, có khi như một áng tản văn, có khi như một câu chuyện không có đầu, không có cuối, nhưng lại giúp Xuân Diệu phát biểu được nhiều suy nghĩ, nhiều tình cảm và bộc lộ những quan niệm về nghệ thuật và cuộc đời. Điều này được chính tác giả bộc bạch: “Xin đừng tìm trong Phấn thông vàng những chuyện có đầu có cuối, có công việc, có sáng hôm trước và chiều hôm sau. ở đây chỉ có một ít đời và rất nhiều tâm hồn hợp lại thành bao nhiêu nghĩ ngợi bâng khuâng” [3;6] Ngoài ra còn một số tác phẩm lẻ là những câu chuyện bộc lộ quan niệm của tác giả về cuộc đời của những người nghệ sỹ trước sự sống. Các tác phẩm Người lệ ngọc, An ủi giữa loài người, Thơ của Người, Kinh cầu nguyện của những kẻ đi làm là những tác phẩm tiêu biểu mà ở đó Xuân Diệu gửi gắm rất nhiều ý nghĩ và tình cảm giành cho công việc sáng tạo nghệ thuật, một công việc luôn luôn đòi hỏi tình cảm chân thật từ nội tâm của chính minh, đòi hỏi lòng nhiệt tình, sự say mê dồn tâm lực cho công việc. Tuy mang phong cách riêng, văn xuôi trữ tình Xuân Diệu không tách biệt hẳn mà vẫn tuân theo văn mạch chung của văn xuôi nghệ thụât. Tác giả khéo léo xen lẫn tình tự sự và tính trữ tình, những suy nghĩ chân thành mang đậm cảm xúc của tác giả. Có thể nói văn xuôi trữ tình Xuân Diệu là một loại văn xuôi nghệ thuật có sự cân bằng giữa văn xuôi và thơ, có ưu thế biểu cảm hơn là miêu tả, thiên về biểu hiện chủ quan hơn là tái tạo khách quan. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận xét: "Trong quyển Phấn thông vàng mà Xuân Diệu gọi là một tập tiểu thuyết ngắn, tôi chỉ thấy thơ là thơ. Không phải thơ bằng những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 câu văn có vần có điệu, không phải thơ ở những lời gọt đẽo mà thơ ở những lối diễn tính tĩnh cùng tư tưởng" [28,208] Đây là một nhận xét hoàn toàn đúng. Điều này cũng được Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: " Tôi không muốn tách biệt giữa văn Xuân Diệu với thơ Xuân Diệu. Văn hay thơ thì vẫn là hình ảnh phập phồng. nóng hổi của một trái tim đắm say sự sống, mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu" [18;98]. Còn chính tác giả trong lời tựa Phấn thông vàng bộc bạch về văn xuôi của mình: “Những bài ấy không phải là thơ tản văn, không phải bút ký cũng không hẳn truyện ngắn. ấy là trong tất cả các lối ấy hợp lại với nhau ... Viết hẳn ra bút ký hay là thơ tản văn, như thế có lẽ trắng đen rõ hơn. Nhưng cuộc đời đem đến những bài thơ có truyện và những câu chuyện có thơ thì tất nhiên chúng ta cũng được lưng chừng trên hai biên giới” [3;7]. Đúng vậy, văn xuôi Xuân Diệu trước cách mạng là một phần sáng tạo có giá trị của Xuân Diệu, làm phong phú thêm cho nền văn xuôi đương thời, đồng thời khẳng định vị trí đáng chú ý của ông trong dòng văn xuôi trữ tình. Nghiên cứu văn xuôi trữ tình Xuân Diệu ta không chỉ dược thưởng thức sản phẩm tinh thần độc đáo của Xuân Diệu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật mà qua các tác phẩm hiểu thêm về quan niệm của ông về con người và văn chương. Xuân Diệu đã từng phát biểu quan niệm về nghệ thuật qua nhiều bài thơ, đặc biệt là bài Là thi sĩ . Bài thơ vừa chứa đựng trong nó quan điểm khá tiêu biểu của những nhà Thơ Mới lãng mạn, vừa thể hiện rõ cảm quan cá thể của nhà thi sĩ trẻ về thơ ca và nghệ thuật: Là thi sĩ nghĩa là ru với gió - Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây - Để tâm hồn ràng buộc bởi muôn dây - Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến... Văn xuôi trữ tình Xuân Diệu có cả một loạt bài dưới hình thức truyện ngắn, tuỳ bút và cả tiểu luận thể hiện một cách hệ thống và tập trung những suy nghĩ của ông về nghệ thuật. Có thể nói, rất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 nhiều tư tưởng, cảm xúc tràn đầy của ông không thể chuyển tải trong hình thức ước lệ và nhịp nhàng của thơ, vì thế ông tìm cách trang trải giãi bày nó trên những trang văn. Đó là những tác phẩm: Người lệ ngọc, An ủi giữa loài người, Chú Lái Khờ, Phấn thông vàng.... Khảo sát các tác phẩm văn xuôi trữ tình Xuân Diệu chúng ta có thể nhận thấy, những tư tưởng nghệ thuật tươi mới và độc đáo rất đáng được lưu ý của Xuân Diệu thời kỳ này. 2.1.1 Người nghệ sĩ phải có một tâm hồn thành thật và một trái tim đa cảm. Với Xuân Diệu, thiên tài của người nghệ sĩ là ở trái tim - một trái tim đắm say giàu tình cảm biết rung động trước cuộc đời. Là nhà thơ của niềm giao cảm với đời, Xuân Diệu cũng là một nhà văn trữ tình. Linh hồn của mọi tác phẩm Xuân Diệu thực chất là trữ tình. Phương thức trữ tình là chủ đạo, là đặc trưng sáng tác của Xuân Diệu. Dù làm thơ hay viết văn xuôi, bút ký, tuỳ bút..., ông đều thâm nhập vào đối tượng bằng con tim nóng hổi giàu cảm xúc của mình, sáng tạo nó, chuyển hoá nó để cho nguồn mạch trữ tình tuôn trào. “Có thể nói trên đời này có bao nhiêu cách để tiếp xúc với đời, Xuân Diệu đều không bỏ qua và đều khai thác triệt để...Cả một đời lao động miệt mài cật lực cho đến hơi thở cuối cùng. Vì động cơ nào vậy? Vì đấy là một trái tim nóng bỏng, trái tim của một con người sinh ra để mà yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm đầy tính nhân bản kia” [18;240] Ta dễ dàng nhận thấy tính đặc trưng trong văn xuôi Xuân Diệu là ở nội tâm, là sự giãi bày của chủ thể sáng tạo. Mọi biến cố và chi tiết bên ngoài chỉ là duyên cớ, nguồn cơn cho khả năng tự biểu hiện mình một cái tôi độc đáo. Hoài Thanh đã nhắc đến "khát vọng được thành thật" như một khát vọng căn bản nhất của các nhà Thơ mới khi mà họ cảm thấy muốn phơi bày tận cùng cái tôi được giải phóng và tự ý thức về nó. Khát vọng thành thật ấy được thể Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 hiện rõ hơn bất cứ nhà thơ nào khác trong thơ và trong văn Xuân Diệu. Cũng có thể coi đây là một tiền đề căn bản trong quan niệm của Xuân Diệu về bản chất của người nghệ sĩ. Xuân Diệu đã tự nói về văn xuôi của mình như sau: “Trong phần nhiều truyện của tôi, vai chính không phải là một người mà là một nỗi lòng, một tình ý hay một con vật, một đồ dùng; nói vật, nói đồ dùng nhưng chẳng qua lấy nó làm cái giá cái giàn để mắc , để cài vào đó nỗi lòng của mình” [4,7] Môi trường và hoàn cảnh xuất thân cũng là một yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến cảm quan sáng tác của người nghệ sĩ. Với Xuân Diệu, dòng máu trung hoà giữa “cha đàng ngoài” “mẹ ở đàng trong” phần nào ảnh hưởng tới tâm hồn ông. Là thân phận con vợ lẽ, phải xa mẹ từ nhỏ, thiếu tình thương, nên ông càng khao khát tình thương. Điều ấy giúp ta hiểu ở Xuân Diệu một trái tim thiết tha vồ vập bám lấy cuộc sống, giao cảm hết mình đối với mọi người, chia sẻ với mọi người và mong được mọi người chia sẻ. Vì thế, đọc những trang văn của ông ta thấy rất gần với cuộc đời thực của chính tác giả. Có thể nói ông đã tự phơi trải tâm hồn mình cuộc đời mình một cách thành thật trên những trang văn. Cái tôi độc đáo trong Phấn thông vàng và Trường ca là sự hiển hiện chân dung người nghệ sĩ, là khát vọng sống giao hoà, gắn kết, là sống một cách mãnh liệt, đầy đủ với những tình cảm, cảm giác đầy phức tạp nồng nàn và say đắm. Câu chuyện thể hiện quan niệm về một cái tôi nghệ sĩ hào phóng và yêu đời, dấn thân vào cuộc sống và đem tài năng, tâm hồn mình hiến dâng cho đời. Trong truyện ngắn Phấn thông vàng, nhân vật trữ tình là một chàng hoạ sĩ đi tìm cảm xúc cho sáng tác vào cái giờ đẹp nhất của buổi chiều. "Chàng hoạ sĩ nghe lòng thơ thới, linh hồn chàng giãn nở” bởi chàng đã lạc vào rừng thông đang toả nhị vàng chi chít: “Phấn vàng ở đâu nhẹ tuôn bay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 xuống, quả là một trận mưa phấn vàng”. Nhưng khung cảnh buổi chiều nơi rừng thông và cả người nghệ sĩ cũng chỉ là tượng trưng ước lệ, bởi vì như Xuân Diệu viết “cảnh có lẽ ở bên Tàu và người có lẽ ở bên Tây”. Truyện Phấn thông vàng là chuyện của tâm hồn người nghệ sĩ “chuyện này không cốt nơi chỗ ở hay cốt chỉ có một chỗ ở: lòng người”. Y hướng "luận đề", ""biểu tượng" của câu chuyện được thể hiện rõ : không có một không gian và một câu chuyện cụ thể nào, chính lòng người mới là điều cốt yếu mà Xuân Diệu muốn khám phá. Nhà văn như đang sống trong chính cái quang cảnh mà mình tạo ra với một niềm say đắm - Xuân Diệu cũng như chàng họa sĩ kia, coi mình như những phấn thông vàng đang tự hoà mình vào gió và tản bay trong không gian, với tình yêu dào dạt, để làm đẹp cho đời: “nhị vàng mênh mông tràn đầy dư dật, cùng nhau viễn hành, sắc vàng khắp nơi. Phấn thông vàng đi đến sự vu vơ. Có lẽ đằng chân trời, một rừng thông chưa chín hoa, đang đứng chờ nhị của rừng thông này đến”. Quang cảnh thơ mộng mà chàng họa sĩ được sống trong vài thời khắc huyền diệu ấy đã làm chàng thức tỉnh. Chàng đã buồn vì không được yêu và chàng buồn đến không muốn vẽ nữa. Đám bụi phấn thông vàng mênh mông trong nắng gió đã tiếp thêm sức sống và niềm yêu đời cho chàng. Chàng sẽ yêu, yêu mãnh liệt cho đến khi được yêu và chàng sẽ tiếp tục con đường sáng tạo. Và điều quan trọng là cái thông điệp tư tưởng - thẩm mỹ mà tác phẩm muốn truyền đến người đọc, đến những người nghệ sĩ: Hãy sống, hãy yêu với tất cả tâm hồn mình. Và mọi sáng tạo đều bắt đầu từ đó. Phấn thông vàng thể hiện một quan niệm về người nghệ sĩ của Xuân Diệu.Chàng hoạ sĩ phải chăng chính là hình bóng của cái tôi Xuân Diệu trước cảnh phấn thông vàng đang bay miên man trong không gian một cách “phung phí” và chàng tự nhủ: “ờ sao chàng không phung phí như thông? Sao chàng nghĩ chi đến sự thiên hạ nhận? ” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 Tình người nghệ sĩ cũng như phấn thông vàng vậy, mở rộng, tung bay để dâng hiến cho đời món ăn tinh thần vô giá mà không hề mưu lợi. Nếu người đời coi những gì nhận được là hạnh phúc thì người nghệ sĩ lại lấy sự cho đi, sự ban tặng làm hành phúc. Thi sĩ cứ hãy đắm say trong sáng tạo để phát hiện đến cùng những tinh tuý nhất của cuộc đời người nghệ sĩ. Trong truyện ngắn Chú Lái Khờ, Xuân Diệu đã đưa hình tượng Chú Lái Khờ lên thành biểu tượng của thi nhân, của người nghệ sĩ nói chung. Người nghệ sĩ tâm hồn giàu có thành thật, khác nào chú lái khờ. Đó là người có “số thiên kim”, có khả năng làm giàu nơi “mười ngón tay” tài hoa của mình: “Ngọc vàng sai khiến bốn phương, càng đi, của cải càng chạy về tay chú lái. Chú giàu có nhờ huyền, ngọc trai, vàng, bạch kim nhưng chú chẳng hề ham hố giữ gìn tiếc gì nó. Chú ghé vào chốn Hồng Lâu uống rượu, “chú say, hay chú tự say chứ rượu làm sao say được chú, chú vẫn tỉnh nhưng chú muốn khờ”. Tính phong lưu, tấm lòng rộng mở chú đã tạo cơ hội cho mỹ nữ, người đời lấy kết vàng bạc châu báu, lụa là, gấm, vóc. Người đời chưa chịu lấy hết, chú tự tay lấy để dâng người đời vậy. Mọi người được vàng, bạc một cách dễ dàng, lại bảo chú là khờ, khúc khích cười chế nhạo. “Chú lái thực sự là một anh khờ, không biết phòng ngừa, không chịu cẩn thận; ngọc trai đã mất, bao giờ về Hợp Phố nữa đâu”. Nhưng chú chẳng khờ đâu, chỉ là giả khờ mà thôi vì “khách có phải là lái buôn đâu, khách là một tấm lòng thơ, trời đem dạo giữa phong trần, cho đầy thêm cái chất sầu não”. Thông qua hình tượng chú Lái Khờ, Xuân Diệu muốn phát biểu quan niệm nghệ thuật của mình, nói lên thiên chức của người nghệ sĩ: Tài năng thiên bẩm của người nghệ sĩ là hết sức quí giá là bao châu báu ngọc ngà. Để dâng hiến thứ châu báu ấy một cách vô tư và hào hiệp cho cuộc đời, người nghệ sĩ phải “ghé vào nhân gian, trọ một vài đêm, tìm đôi an ủi. Người đời tìm đến chàng, ai cũng lấy được ngọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 châu. Và họ lấy chưa vừa ư?, thì người thi sĩ tự tay lấy vào cái lõi sống của mình mà phân phát”. Xuân Diệu quan niệm c ông việc sáng tác của người nghệ sĩ là lấy từ lõi sống của mình những giá trị quí báu và bởi thế là được thể hiện hết mình. Được nói thực lòng, nói từ nội tâm của chính mình, là một ước nguyện đồng thời cũng là một quan niệm đúng đắn của người nghệ sĩ , vì sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng đòi hỏi sự chân thực, phản ánh đúng sự thật vốn có của cuộc đời, và của cả nội tâm. Ông cho rằng nội tâm giàu có của người nghệ sĩ có được là nhờ chất liệu cuộc đời, nhờ sự gắn bó của người nghệ sĩ với cuộc đời. Chỉ có cuộc đời trần tục mới là nơi nuôi dưỡng tâm hồn cao quí của người nghệ sĩ. Văn chương là của người, thơ cũng là của người và nhà nghệ sĩ đừng mơ tưởng một thế giới nào khác ngoài cuộc đời ngay ở trần gian này. 2.1.2. Người nghệ sĩ phải là kẻ hiến dâng. Cả tập truyện Phấn thông vàng là sự lan toả tâm hồn, một nỗi niềm khao khát, một ngọn sóng triều dâng, yêu thương vỗ mãi vào đời: “Chỉ sợ ta nghèo không đủ tình để mà phung phí, ta không thèm thiên hạ cho lại, nhưng ta cứ cho, tự khắc thiên hạ cũng đem đến cho ta”. Đây giống như một tuyên ngôn nghệ thuật về sự dâng hiến của đời người nghệ sĩ, suốt đời lo lắng trăn trở, sợ “không đủ tình” để chia cho thiên hạ. Cho mà không mong được nhận lại. Xuất phát từ ý tưởng trên Xuân Diệu cứ hồn nhiên mà viết, viết theo tâm tưởng của chính mình để được thoả sức dâng hiến, giãi bày mọi tâm sự từ cõi lòng mình, tâm hồn mình. Đúng là một trái tim đang đập theo những nhịp đời, để thấu hiểu ngóc ngách của cuộc đời. Và như con ong chăm chỉ hút nhuỵ hoa về làm mật, con tằm cần mẫn nhả tơ làm đẹp cho đời, người nghệ sĩ như ông quan niệm phải dâng trọn cuộc đời mình cho công việc sáng tạo nghệ thuật, tạo nên: một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 chiếc cầu nối giữa tác giả và bạn đọc, một chiếc cầu bằng tơ, bằng ánh trăng, bằng những rung động tinh tế của lòng người và những làn sóng dặt dìu của tạo vật nữa”. [2,419] Với Xuân Diệu làm thơ, viết văn thực sự là một nghề, đã là nghề thì phải sống chết với nó, phải vất vả vì nó. Để những cảnh đời, cảnh vật được lên trang giấy, người nghệ sĩ phải dồn tâm lực, thậm chí phải đau đớn mới có được. Nó được sinh ra từ những rung động thực sự, từ những say mê sáng tạo đích thực, từ nhiệt thành cháy bỏng chứ không phải nông cạn hời hợt. Người lệ ngọc, một truyện có màu sắc hoang đường của Xuân Diệu được thai nghén trong một thời gian khá dài từ năm 1937 đến 1943 chứng tỏ sự chiêm nghiệm và nghĩ ngợi kĩ lưỡng điều mà tác giả muốn gửi gắm. Ông xây dựng hình ảnh Người lệ ngọc - hình ảnh ẩn dụ của thi nhân như một con người đặc biệt, kì dị. Người đó sinh ra không biết khóc, “trong hai mươi năm người không khóc, vẫn có đôi mắt ráo khô. Nhưng đôi mắt xanh sâu đẹp chưa từng có trên đời, mà trong sao! Veo veo như toả ra ánh sáng”. Có lẽ bao nhiêu cảm xúc đã được tích tụ trong chàng, để rồi bỗng một hôm “cả người chàng đùn đùn như chứa một cơn giông, xương thịt chuyển như có bão, một ngọn gió thần chạy đi các ngả, chàng run và tái đi, chàng cảm thấy có một cái gì vẫn đùn tới như mây, ngập lên như lụt. Ngực chàng tức như sắp tung xương”. Phải chăng đó là nguồn sống, là xúc cảm đã chín trong thi nhân chờ đợi đã lâu. Và chàng đã khóc ra những giọt lệ bằng ngọc: Người - không - khóc đã thành người - lệ - ngọc”. Những giọt nước mắt chính là những hạt ngọc long lanh trong sáng, vừa vô giá, vừa quí giá vô ngần. Đó chính là hình ảnh kết tinh cảm xúc, là sự thai nghén để sản sinh cho đời những tác phẩm văn chương có giá trị đích thực. Sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi người nghệ sĩ phải có quá trình nung nấu, phải dày công vun đắp khó nhọc mới có được. Không phải ngẫu nhiên Người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 lệ ngọc với đôi mắt xanh sâu đẹp chưa từng có trên đời phải hai mươi năm sau mới khóc, mới vọt trào thành lệ ngọc. Điều đó chính là nhờ chàng qua “Hai mươi năm mục kích bao nhiêu cảnh tượng, chàng chỉ nín lại để kết tinh cảm xúc, và con mắt ráo chỉ để chờ khóc một lần cho xứng đáng ; cả người chàng thu vén tâm hồn vật vã mới bật lên thành những hạt lệ châu”. Như vậy muốn có một tác phẩm nghệ thuật xứng đáng người nghệ sĩ phải toàn tâm, toàn ý để tạo ra nó, cuối cùng chẳng qua cũng chỉ làm đẹp cho đời, cho phong phú tâm hồn người đời và người nghệ sĩ lấy đó làm niềm vui lớn nhất của họ. Giống như Chú Lái Khờ sau khi đã mở rương hòm ban phát cho mọi người tất cả tài sản của mình, người thi sĩ cũng khờ như chú lái. Sau khi đã ban phát hết châu báu, chú mỉm miệng cười hân hoan như một vị Phật. Hòm rương tuy nhẹ nhưng tài chí không vơi thì chú lái còn buồn nỗi chi”. Có thể nói Xuân Diệu là người hiểu hơn ai hết: tình cho đi không lấy lại bao giờ nhưng ông vẫn nguyện dâng cho đời khát khao được cống hiến được lan toả thanh âm và hương sắc cho muôn đời sau. Xuân Diệu cho đó là niềm an ủi lớn nhất đối với đời người nghệ sĩ. Trong bài An ủi giữa loài người ông viết: “Tấm lòng thơ của tôi chỉ thấy an ủi khi nghĩ đến người ta. Người ta sẽ không nghĩ đến tôi, nhưng tôi sẽ không cần họ nghĩ, tôi chỉ thấy bớt buồn đành sống vui yên. Vì có triệu người ngoài kia...Trước biển loài người tôi quên nghĩ đến thân mình”. Đây chính là nỗi niềm tâm sự về cuộc đời người nghệ sĩ cũng có ý nghĩa như một thông điệp về tư tưởng nghệ thuật mà Xuân Diệu muốn gửi đến mọi người. Một lời tâm sự hết sức thành thật từ một trái tim chân thành vừa như thủ thỉ chân tình, vừa như khuyên dặn của một người có ý thức cao về nghệ thuật. Như trên đã nói, Xuân Diệu thực sự coi lao động nghệ thuật là một nghề, thành công và thất bại là không thể tránh khỏi. Đồng thời người nghệ sĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 cũng chịu không ít những đâu khổ buồn thương từ mọi phía đời sống thường nhật dội đến. Lấy hình ảnh Người lệ ngọc làm biểu tượng của người nghệ sĩ, ta thấy cuộc đời Người lệ ngọc là những lần sinh ngọc kế tiếp nhau, mỗi lần sinh ngọc đều có sự chuyển hoá chứa đựng một ý nghĩa ẩn dụ khác nhau gián tiếp bộc bạch quan niệm của Xuân Diệu về nghệ thuật. Hình ảnh đầu tiên là sự chuyển hoá từ người không khóc thành Người - lệ - ngọc. Đây là sự chuyển hoá tất yếu của đôi mắt xanh sâu đã chứng kiến bao cảnh đời. Sau năm năm, tình yêu đến, “bởi tình yêu chàng thêm cảm thông với vạn vật”. Vậy là tình yêu đã nâng đỡ cho chàng, chàng trở thành một nghệ sĩ toàn vẹn, “mắt chàng cũng dường bằng thơ phú của thi sĩ”. Nhưng vì nhu cầu cuộc sống, vì miếng cơm manh áo đeo đẳng bám riết, khiến cho bao ước mơ cao xa tan biến. Người ta buộc phải làm những gì trái với hoài bão thuở ban đầu của mình; “hồn thanh cao của chàng đẹp như vũ trụ mà phải sa vào cái cảnh đem hồn đi rao”. Ngọc dần mất sắc, không trong suốt như xưa. Người lệ ngọc càng ngày càng rơi vào cảnh túng quẫn. Chàng đau khổ bước qua lời nguyền: “Nhất quyết chừa cái nghề bán ngọc, cái sự không phải của người làm! Thế mà một ngày túng quá, chàng đã nảy ra cái ý rụng rời: Chàng nghĩ đến những viên ngọc của mình. Chàng bán ngọc đây. Chàng bán mình đấy! Chàng sẽ tệ hơn người con gái bán thân, chàng sẽ phải bán chính cái hồn chàng đó. Càng ngày chàng càng trụy lạc dần. Đôi mắt xanh giờ đây dù sâu hoắm, mầu xanh có bóng mây qua chỉ vì những lần gắng gượng vặn hồn mình để sinh ra ngọc. Vậy là đầu óc chàng chỉ xoay quanh những kế để khóc được, chỉ gợi những chuyện trăm thảm nghìn sầu, xót thương li biệt... Tìm mọi cách kích thích nội tâm, chàng đã thành một cái máy”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 Từ cách sinh ngọc một cách thần kỳ và cả cách mất đi, cạn dòng lệ quý của Người lệ ngọc, ta liên tưởng đến cuộc đời của người nghệ sĩ. Người viết văn không có con đường nào khác là phải lao động cật lực, phải biết tự yêu cầu cao đối với công việc của chính mình và phải thực sự có tài, hơn thế nữa phải tự mình nghiêm khắc với mình. Đem bán rao nghệ thuật một cách dễ dàng là tự đánh mất giá trị và tài năng thiên phú.Anh ta sẽ thất bại, thậm chí thui chột mầm văn chương. Đòi hỏi nhà văn phải có tài là một qui luật khách quan của xã hội, nhờ có tài, người nghệ sĩ mới đem được điều cảm xúc của mình hoà vào chất liệu của đời sống, của mọi vấn đề mới tạo được tác phẩm có giá trị lớn. Đồng thời, công việc viết văn không đơn giản, và rất công phu, vì phải đối đầu với những thói thường của đời người và của bản thân nghề nghiệp. Trong cuộc đời lao động nghệ thuật, nếu chỉ muốn có danh lợi, thì sẽ đánh mất sự hồn nhiên trong sáng của nghề nghiệp. Viết văn cũng phải xuất phát từ bản chất nghệ thuật, đến với nó bằng thái độ tự nguyện, vì nhu cầu của tâm hồn, vì sự thúc đẩy bên trong chứ không thể gò ép, khiên cưỡng. Người lệ ngọc đã bán tài năng và cảm xúc của mình vì miếng cơm manh áo và đổi lấy một đời sống vật chất đầy đủ. “Nước mắt ngọc đối với chàng đã thành một cái nghề. Gian nhà ở, bữa cơm; lệ ngọc. Trang giấy viết, bức tranh treo; lệ ngọc. Gương lược của người yêu, đôi giày, áo mới cùng ở lệ ngọc cả. Cho đến cuộc chơi thuyền - bữa rượu nhỏ; chút phong lưu nào cũng ở giọt lệ chi ra”. Vậy là cuộc sống của chàng cần ngọc để bán, chàng phải tự hành xác lấy gai châm vào quanh mắt để lệ rơi ra, kết ngọc, nhưng bây giờ “ngọc của chàng không hồn nhiên, đọng phải kích thích vặn vẹo nên kém vẻ đẹp trong cái sáng tinh tuý mất đi, sắc ngọc mà cũng thấy rõ phần mệt nhọc. Lệ cho ra không trong suốt như xưa. Một vẻ đục bao lấy viên ngọc , cho đến người mua cũng trông thấy. Giá ngọc sụt đi”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Cơm áo không đùa với khách thơ là một sự thật khắc nghiệt của cuộc đời. Nhưng trong mọi hoàn cảnh người nghệ sĩ phải luôn tỉnh táo , giữ minh, dẫu biết rằng cuộc đời đầy gai lửa và nhiều cám dỗ nếu không vững vàng sẽ gục ngã, liên tiếp sai lầm, thất bại. Ngọc hết, tình chàng hết. Người lệ ngọc trắng tay, mình gầy xác ve tâm hồn mệt mỏi chán chường: “ mắt chàng đã đỏ như san hô. Tất cả điệu nhạc xanh veo veo như toả ra ánh sáng đã biến mất từ lúc nào! Người mình yêu cũng đã bỏ đi. Thân hình rạc như con ve sắp cuối hè, đôi mắt như máu mà thêm lửa”. Mùa xuân đã sang. Pháo giao thừa nổ năm mới đã đến cuộc đời đáng lẽ sang trang mới tươi đẹp hơn. Song Người lệ ngọc tài hoa mới ba mùa xuân đã phải trả giá quá đắt cho những gì chàng đã làm. Cuối tác phẩm là hình ảnh Người lệ ngọc: “Chàng tĩnh tâm. Linh hồn người như thắm lại, hồi xuân. Có lẽ người đã nhuần thấm trở lại bắt đầu từ phút này”. Pháo giao thừa nổ như sự bừng sáng của tâm hồn: “ Cả tâm hồn người đẹp rực rỡ như tự tha thứ... Người lệ ngọc khóc ra máu”. Một lần nữa Xuân Diệu nói đến sự thức tỉnh, sự thanh lọc chính ngay trong con người nghệ sĩ. Và như vậy, trong câu truyện Người lệ ngọc này mỗi lần sinh ngọc đều tiềm ẩn một ý nghĩa, một quan niệm về nghệ thuật văn chương của Xuân Diệu: Có được một tác phẩm văn chương người nghệ sĩ phải lao động thực sự, phải lao tâm khổ tứ . Giá trị của mỗi tác phẩm sự trân trọng, quí mến của tác giả đối với tác phẩm đó phụ thuộc vào ý thức nghệ thuật và sự chân thành, sự hồn nhiên của người cầm bút. Điều đó làm nên sự thành công hay thất bại của nhà văn. 2.2. Quan niệm thi ca và nhà thơ: 2.2.1. Sự tinh chất của thơ - Thơ ngắn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 Xuân Diệu chủ trương một thứ thơ ngắn – có thể hiểu là ông nói về sự hàm súc, sự tinh tuý của thơ. Theo ông “cái đẹp chỉ lộ ra trong một chớp nhoáng. Đấy là cái đẹp ở trên tất cả mọi cái đẹp. Đây là đỉnh cao nhất, mà cái nhất chỉ có một thôi” vì “cái đẹp chỉ lộ ra trong một chớp nhoáng” nên ta phải chộp ngay, vồ ngay lấy nó. Chính sau này nhà thơ của chúng ta cũng nhấn mạnh lại ý tưởng ấy; “ Phải biết lắng nghe, dò xét tâm lí của con người, đặng mà bắt chộp cho được những trạng thái đặc biệt của tâm hồn, những thoáng run rẩy của nội tâm. Đối với Xuân Diệu, thơ là cuộc đời, là tâm hồn, là lẽ sống của ông. Chính vì thế mà ông luôn khao khát được hoà nhập tâm hồn mình vào những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc sống trần thế này. Ông đón nhận chờ đợi những giờ phút diệu kỳ chợt đến rồi chợt đi. “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. (Hoài Thanh). Sống đã vậy, thơ cũng là một hình thức sống - nó cần đến cái khoảnh khắc sáng rực ấy, nó cần cái mùi hương, cần cái tinh chất của đời. Xuân Diệu nói “Ta dàn trải làm gì? Ta hãy đọng lại nơi vài dòng châu sáng". Ông cho rằng chỉ có thơ ngắn mới có thể thể hiện được tài năng thâu tóm của thi sĩ và chính là cây cầu chuyển tải những tư tưởng tình cảm giữ con người với con người, nó làm cho người gần người hơn. Quan niệm của Xuân Diệu về thi sĩ và những dòng thơ được chắt lọc từ chính tâm hồn: “Nhà thi sĩ không bán những thùng nước loãng chỉ tốt để tưới đường cho vạn chân đi, người chỉ tặng một, hai giọt thơm đựng trong bình thuỷ tinh sáng loáng” thơ như một thứ hương “như một giọt sương tinh mà gió đêm gieo trên đời làm bằng sự kết đọng của muôn thước - khối bóng trăng”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 Yêu thơ ngắn, thích thưởng thức thứ thơ tinh tuý, hàm súc bao nhiêu thì Xuân Diệu chối bỏ những bài thơ trường thiên bấy nhiêu. Ông cho rằng “ một bài thơ dài là một điều vô lý, một sự giả dối, một cách mâu thuẫn nữa”. Vì sao?- vì một bài thơ dài sẽ làm ta “nhọc mệt, chán chê, bần thần, cho đến khó chịu”, nó giống như ta “ngửi lâu một mùi hương xói thấm, uống nhiều một nước rượu choáng nồng” và những bài thơ dài “thực ra chỉ ghép bằng những bài thơ ngắn: thứ hồ dán thơ tự nhiên phải dã ra để lộ sự gắng công vô duyên và uổng phí của nghệ thuật. Đóng những khung gỗ đã gắn dát ngọc vào , là làm một việc mất thì giờ: chất không vĩnh viễn tất phải mục nát, mà có lẽ lại hư lây đến những của đẹp lẫn trong cát bụi tầm thường”. Phải viết một bài báo dành riêng cho chủ đề thơ ngắn, Xuân Diệu gửi gắm trong ấy khá nhiều suy nghĩ của ông về thơ. Phải chăng ông nhận ra nhiều bài Thơ mới, trong đó có thể có những bài thơ của chính ông còn dàn trải, kể lể mà thiếu đi sự cô đọng, tinh chất. Một lần nữa, ông lại có dịp trình bày những quan niệm của ông về bản chất thơ ca như một lời nhắn nhủ chung cho thi đàn, như một tâm niệm của chính ông? Nhấn mạnh đến sự tinh chất của thơ- thơ ngắn, nhà thơ trẻ có những cực đoan khi ông phủ nhận thơ trường thiên nhưng người đọc vẫn có thể tiếp nhận cái lý căn bản trong bài viết này nó thôi thúc ông lên tiếng: thơ, hơn bất cứ hình thức nghệ thuật nào, phải biết chưng cất lấy tinh hoa của cuộc đời. Chính vì yêu thơ ngắn, chủ trương một thứ thơ ngắn như vậy nên ta thấy hầu hết những bài thơ của Xuân Diệu thường ngắn gọn và súc tích nó chứa đựng nhiều những ẩn ý sâu xa mà không phải ai đọc một lần cũng có thể hiểu hết tâm hồn Xuân Diệu. – “một nguồn sáng dồi dào” (Hoài Thanh). 2.2.2. Tính trừu tượng và phức tạp của thơ - Thơ khó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 Một nhà thơ luôn viết những bài thơ “sáng trưng”, mỗi lời thơ là một bộc bạch như Xuân Diệu cũng lại từng bàn đến Thơ khó trên báo Ngày nay năm 1939. Ông bênh vực thứ thơ khó của Mallarme, Valery, Baudelaire mà nhiều người cho rằng “bí hiểm”. Ông cãi: “Cái tính cách cốt yếu của thơ là sự khó. Đó là quan niệm mới nhất, mà cũng đúng nhất. Vì sao? Vì thơ thực sự là thơ thì phải “thuần tuý”. Người thi sĩ gắng sức đi tìm cái thơ thuần tuý (poesie pure) nghĩa là đi thu góp những cái tinh hoa, những cái cốt yếu, cốt lõi của sự vật. Thơ khó là vì nói những điều khó, phải suy nghĩ, phải nghiền ngẫm: khó vì cách nói khác với cách nói thường”. Xuân Diệu bênh vực thơ khó, đồng thời cố gắng lý giải sự tồn tại có lý của nó bởi vì “tính cách cốt yếu của thơ là sự khó”. Xuân Diệu lý giải: “ Thơ khó ấy cũng là do bản thân đời sống có những điều dễ nói, có những ý tưởng thông thường hễ nói ra ai cũng hiểu được, có những ý sâu sắc thì không phải ai cũng hiểu, ví như những bông hoa, có hoa vừa tầm tay hái, có những hoa phải vươn cả mình lên mới ngắt được và có những bông hoa phải qua đèo, leo núi khó nhọc lắm mới mang được về. Hơn nữa muốn thực là thơ thì bản thân nó phải có một cuộc sống riêng, nhà thi sĩ phải biết “thu góp những cái tinh hoa, những cái cốt yếu, cốt lõi của sự vật” đem kết đọng lại làm nên những câu thơ đậm đà. “Tài liệu thì vấn lấy trong đời thường, trong cuộc sống hằng ngày, trong những rung động của trái tim, của xương thịt, nhưng khi đã đem vào thơ thì tài liệu mất đi thành ngọc châu”. “Thơ khó” vì thơ khác văn xuôi, thơ ở trong một thế giới riêng; thơ vẫn là sự sống, nhưng là sự đọng lại, kết tinh biến thành cái đẹp. Để giúp người đọc khám phá sâu hơn vào bản chất của thơ, Xuân Diệu nhấn mạnh đặc trưng “Thơ khó”.Ông cho rằng có hai loại thơ khó. Có loại khó cao kì về ý tưởng và cả về hình thức của những người chủ trương rằng thơ phải khó như hai nhà thi sĩ Mallarme, Valery. Đó là thơ khó do người viết rất cố gắng, rất xếp đặt, có khi “đặc biệt dụng công làm cho tối nghĩa”. Và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 loại khó thứ hai, “người thi sĩ làm thơ rất tự nhiên, rất vô tâm, thế mà thơ lại có tính cách khó khăn”. “Người thi sĩ tìm cái đẹp, chứ có tìm cái khó đâu! Khó hiểu hay dễ hiểu đó là lời bình phẩm của người chứ trong khi làm, người thi sĩ không ngờ rằng thơ mình lại khó hiểu”. Vậy thì thơ khó ít nhiều là do sự thưởng thức của người đọc. Mối quan hệ song hành, song phương giữa nhà thơ và người đọc ít nhiều đã được đề cập đến trong bài viết. Như đã biết, Xuân Diệu yêu cầu rất cao đối với nhà văn, đồng thời cũng quan niệm vai trò của công chúng độc giả một cách tích cực : tác giả phải ngày càng “nấu nướng cho tốt lành nhiều hơn nữa” và độc giả cũng phải “cải tạo cái lưỡi của mình” mới thưởng thức được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Ông diễn đạt bằng lí lẽ và cảm xúc: “Những nhà thơ tận dụng về phần mình, còn công chúng cũng nên ủng hộ th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945.pdf
Tài liệu liên quan