Luận văn Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam trong 21 năm qua

Tài liệu Luận văn Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam trong 21 năm qua: Luận văn: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam trong 21 năm qua Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 21 Chƣơng 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam trong 21 năm qua 2.1. Tóm tắt quá trình hình thành hệ thống pháp luật về đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) 21 năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện nay, ĐTNN thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển Nhìn lại 21 năm trước, trong bối cảnh quốc tế: chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam trên nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị trường quốc tế... Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á ...

pdf41 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam trong 21 năm qua, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam trong 21 năm qua Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 21 Chƣơng 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam trong 21 năm qua 2.1. Tóm tắt quá trình hình thành hệ thống pháp luật về đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) 21 năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện nay, ĐTNN thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển Nhìn lại 21 năm trước, trong bối cảnh quốc tế: chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam trên nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị trường quốc tế... Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới” toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977 thành Bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp “đổi mới” trong chặng đường vừa qua. Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 22 Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Đây là một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam đã thể chế hóa đường lối của Đảng, mở đầu cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Kể từ khi ban hành năm 1987 đến nay, Luật ĐTNN đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000; cùng với các văn bản dưới Luật đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một đạo luật thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật ĐTNN và các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTNN được ban hành đã tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến ĐTNN cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ. Vì vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện, các nhà ĐTNN vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư thuận lợi ở Việt Nam mà không có sự khác biệt đáng kể so với một số nước có kinh tế thị trường truyền thống. Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn ĐTNN, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Mặt khác, đó cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 23 biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006 tới nay Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế cũng như các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT Việc phân cấp cấp GCNĐT về UBND cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ trương thực hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được tổng kết trong nhiều năm qua, đã tạo điều kiện thuận lợi để UBND cấp tỉnh và Ban quản lý thực hiện được trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư trong nước và ĐTNN trên địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho UBND tỉnh và Ban quản lý đã tạo điều kiện cho các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung thực hiện chức năng hoạch định chính sách, dự báo, kiểm tra, giám sát 2.2. Sự cần thiết phải thu hút vốn ĐTTTNN đối với Việt Nam Trước hết FDI là ngồn bổ sung vốn đầu tư. Giải quyết tình trạng thiếu vốn ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thường trong vòng luẩn quẩn như sau: SX không hiệu quả Thu nhập thấp Tích lũy thấp Đầu tư thấp Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 24 Khi có FDI  Đầu tư tăng  Quy mô XS, hiệu quả XS tăng  Thu nhập tăng  Tích luỹ tăng  Tạo đà phát triển cho giai đoạn sau. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống dân cư:  Khi chưa có FDI : Đầu tư thấp  quy mô SX nhỏ  Sử dụng ít lao động  thất nghiệp  Khi có FDI : Đầu tư tăng  quy mô SX tăng  Sử dụng nhiều lao động, tạo nhiều việc làm  Giảm thất nghiệp Tăng thu nhập dân cư.  Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ kích thích quá trình SX: FDI  đầu tư tăng  SX tăng Cầu đầu vào tăng (NVL) Tăng SX cung cấp đầu vào (NVL) Kể từ khi giành được độc lập, sự phát triển của nền kinh tế ở miền Bắc nước ta gắn với sự hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau nhiều thập kỷ chiến tranh đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ, việc tìm đến nguồn lực bên ngoài cho phát triển cả về vốn và công nghệ dưới hình thức FDI là hết sức cần thiết. Đối với nền kinh tế nước ta, việc vay thương mại để nhập khẩu công nghệ là quá sức chịu đựng của nền kinh tế. Xuất phát từ bối cảnh trên, để thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế-xã hội nguồn vốn nước ngoài mà chúng ta có thể sử dụng được chính là vốn FDI. Thực tế đến nay đã chứng tỏ sự lựa chọn của chúng ta là đúng đắn, đồng thời cũng nói lên sự cần thiết có tính lịch sử và khách quan của FDI đối với công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước. Mục tiêu của nước ta là đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn nhỏ bé, vấn đề tăng vốn đầu tư xã hội nói chung, trong đó có nguồn vốn từ bên ngoài (thông qua việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) đang nổi lên như một yêu cầu cấp bách. Sự cần thiết của FDI đã thể hiện qua tất cả các đặc điểm và ưu thế của nó: vừa là sự bổ sung đáng kể về vốn đầu tư phát triển, vừa là kênh dẫn chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm và phương thức quản lý tiên tiến, Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 25 tăng năng lực và trình độ sản xuất của nền kinh tế, vừa giúp cho nền kinh tế dần mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Hiện nay, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội bền vững, thu hẹp dần khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực, Đảng và Nhà nước đã đề ra định hướng cơ bản cho việc thu hút, sử dụng và quản lý FDI một cách có hiệu quả.Chúng ta cần một lượng vốn lớn, phải huy động cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế mới xuất hiện và hình thành ngày càng rõ nét trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thu hút nhiều hơn và sử dụng hiệu quả cao FDI là một nội dung quan trọng của việc thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế. Thông qua việc đẩy mạnh thu hút FDI sẽ tranh thủ công nghệ của các nước có nền khoa học tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường… Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện đang được xem là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy tiến trình CNH – HĐH của nước ta. 2.3. Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1988 đến nay 2.3.1. Cấp phép đầu tư Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít chỉ có 214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD, ĐTNN chưa tác động mạnh đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên với 1.409 dự án có tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 26 thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước. Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước: năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998, chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông). Năm 2000 đã có thêm 391 dự án được cấp mới với tổng số vốn đăng ký cấp mới đạt 2,7 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1999. Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001- 2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%). Trong 5 năm này đã có tổng cộng 3.630 dự án được cấp nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch - dịch vụ cao cấp .v.v.). Năm 2006 cả nước đã thu hút được trên 10,2 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 5,7% so với năm trước và đạt mức cao nhất từ khi ban hành luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đến thời điểm này. Trong tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 2006 có gần 8 tỷ USD vốn đăng ký của hơn 800 dự án mới và hơn 2,2 tỷ USD vốn tăng thêm của 440 lượt dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Năm 2007 đã có thêm 1.544 dự án được cấp mới với số vốn đăng ký ban đầu là 18,7 tỷ USD. Trong năm 2008, số dự án tăng vốn cũng rất lớn với 311 dự án đăng ký tăng vốn với tổng số vốn đăng ký tăng thêm 3,74 tỷ USD. Chỉ tính riêng số vốn tăng thêm của các Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 27 dự án đang hoạt động tại Việt Nam trong năm 2008 đã tương đương với tổng số vốn đăng ký mới trong một năm của đầu những năm 2000 với 1.171 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 60,217 tỷ USD (bên Việt Nam chiếm khoảng 10%) tăng 222% so với năm 2007. Do đó, tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và vốn đăng ký tăng thêm, tổng số vốn FDI đăng ký tại Việt Nam năm 2008 (tính đến 19/12) đạt 64,011 tỷ USD, tăng 199,9% so với năm 2007 Tính đến cuối năm 2008, cả nước có hơn 10.671 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 158,217 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Riêng 4 tháng đầu năm 2009 (22/4/2009) đã cấp thêm 145 dự án mới với tổng số vốn đăng ký là 2,483.24 tỷ USD Biểu đồ 2.1: Số dự án cấp mới từ 1988 đến 2009 (4 tháng đầu năm) 2.3.2. Tình hình tăng vốn đầu tư Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2008 có gần 4.411 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 22,64 tỷ USD, bằng 42,36% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới (53,44 tỷ USD). 214 1409 1654 550 820 748 723 789 800 1544 1171 145 0 200 400 600 800 1000 1200 1400 1600 1800 Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 28 Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2008 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Biểu đồ 2.2: Tổng số vốn vốn cấp mới và tăng thêm cho các dự án từ 2001-2005(tỷ USD) Biểu đồ 2.3: Tình hình vốn cấp mới và tăng thêm qua 4 năm 2006-2009 (4 tháng đầu) Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996- 2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm. Riêng năm 2008 tỷ lệ các dự án thuộc lĩnh 3.2 2.9 3.1 4.5 6.5 0 1 2 3 4 5 6 7 2001 2002 2003 2004 2005 2.2 2.6 3.7 3.87 10.2 21.3 64.01 6.35 0 10 20 30 40 50 60 70 80 2006 2007 2008 2009 Vốn cấp mới và tăng thêm Vốn tăng thêm Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 29 vực sản xuất công nghiệp và xây dựng đã giảm xuống còn 48,85% về số dự án và 54,12% về vốn đầu tư đăng ký và tính đến hết ngày 22/4/2009 thì tỷ lệ vốn tăng thêm lại tăng nhiều ở lĩnh vực dịch vụ với 99,49% tổng vốn tăng thêm trong 4 tháng đầu năm nay. Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%. 2.3.3. Quy mô dự án Biểu đồ 2.4: Quy mô một dự án qua các năm (Triệu USD) Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong 7.5 11.6 12.3 3.4 14.4 51.47 0 10 20 30 40 50 60 1988-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2007 2008 Quy Mô dự án Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 30 giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....). Đặc biệt năm 2008 quy mô dự án bình quân là 51,47 triệu USD/dự án, cao hơn rất nhiều so với thời gian trước. 2.3.4. Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến nay 2.3.4.1. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao. Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 31 công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2008, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 6,303 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 87,79 tỷ USD, chiếm 64,3% về số dự án, 58,6% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. Chuyên ngành Số dự án TVĐT Vốn điều lệ Công nghiệp và xây dựng 6,303 87,799,745,637 29,663,816,911 CN dầu khí 48 14,477,841,815 4,658,841,815 CN nhẹ 2,740 15,680,141,811 6,884,439,318 CN nặng 2,602 47,164,684,169 14,132,235,521 CN thực phẩm 350 4,199,005,162 1,875,954,424 Xây dựng 563 6,278,072,680 2,112,345,833 Bảng 2.1: Phân bố vốn FDI trong ngành công nghiệp và xây dựng 2.3.4.2. ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 32 nghiệp (51,4% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch - khách sạn (27%), giao thông vận tải-bưu điện (10,9%) Chỉ tiêu Số dự án cấp mới TVĐT Năm 2008 2007 2008 2007 Dịch vụ 438 316 1,278,636,542 386,328,570 GTVT-Bưu điện 25 26 1,858,586,500 571,791,647 Khách sạn-Du lịch 26 52 9,126,098,875 1,951,121,408 Tài chính-Ngân hàng 1 2 18,200,000 25,000,000 Văn hóa-Ytế-Giáo dục 21 43 489,511,894 236,084,200 XD Khu đô thị mới 5 9 137,249,866 445,021,655 XD Văn phòng-Căn hộ 5 3 4,896,500,000 400,000,000 XD hạ tầng KCX-KCN 33 33 9,594,481,114 4,931,042,082 Tổng cộng 554 484 27,399,264,791 8,946,398,562 Bảng 2.2: So sánh số dự án cấp mới và vốn đầu tư cho ngành dịch vụ trong 2 năm (chỉ tính dự án còn hiệu lực) Chuyên ngành Số dự án TVĐT Vốn điều lệ Dịch vụ 2,524 57,182,184,193 20,059,393,674 Dịch vụ 1,438 3,332,641,410 1,347,865,673 GTVT-Bưu điện 235 6,254,568,683 3,475,235,406 Khách sạn-Du lịch 250 15,411,708,335 4,465,834,460 Tài chính-Ngân hàng 68 1,057,777,080 991,354,447 Văn hóa-Ytế-Giáo dục 294 1,758,606,263 642,864,566 XD Khu đô thị mới 14 8,224,680,438 2,841,813,939 XD Văn phòng-Căn hộ 189 19,361,686,326 5,735,689,586 XD hạ tầng KCX-KCN 36 1,780,515,658 558,735,597 Bảng 2.3: Phân bố vốn FDI trong ngành dịch vụ (chỉ tính dự án còn hiệu lực) Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 33 Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v. Tính tới năm 2008 lĩnh vực dịch vụ có 554 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 27,4 tỷ USD, chiếm 47,3% về số dự án và 45,4% về vốn đầu tư đăng ký. 2.3.4.3. Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông - Lâm ngư chưa được như mong muốn. Đến hết ngày 19/12/2008, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 976 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,79 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,29 tỷ USD; chiếm 10% về số dự án ; 4,4% tổng vốn đăng ký. Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 90% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 138 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 470 triệu USD. Chuyên ngành Số dự án TVĐT Vốn điều lệ Nông, lâm nghiệp 976 4,792,791,569 2,290,827,787 Nông-Lâm nghiệp 838 4,322,791,540 2,024,892,567 Thủy sản 138 470,000,029 265,935,220 Bảng 2.4: Phân bố vốn FDI trong ngành Nông, lâm nghiệp đến 19/12/2008 ( chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 34 Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi) vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Các dự án ĐTNN trong ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước 2.3.4.4. Đầu tư nước ngoài phân theo vùng, lãnh thổ Qua 21năm thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận. Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, Tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 35 vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa - Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD qua 21 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình trạng “cháy” buồng, phòng cho khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn còn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước. Khu vực Số dự án Tổng vốn (tỷ USD) Phía Bắc 2220 24 Phía Nam 5293 44,87 Miền Trung 491 8,6 Bảng 2.5: Thống kê số dự án và tổng vốn các dự án ở các khu vực tới cuối năm 2008 Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa lý- kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế tại các địa bàn này còn rất thấp. 2.3.4.5. Đầu tư nước ngoài phân theo hình thức đầu tư Tính đến hết năm 2008, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 7574 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 87 tỷ USD, chiếm 77,3% về số dự án và 58.5% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có 1.822 dự án Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 36 với tổng vốn đăng ký 51,5 tỷ USD, chiếm 18,6% về số dự án và 34,4% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 227 dự án với tổng vốn đăng ký 4,6 tỷ USD chiếm 1,7% về số dự án và 2,8% tổng vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. 2.3.4.6. ĐTNN phân theo đối tác đầu tư Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 21 năm đã có 84 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 149,7 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Hiện đã có 20 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam. Đứng đầu là Đài Loan với vốn đăng ký 19,6 tỷ USD, thứ 2 là Malaysia 17,7 tỷ USD, thứ 3 là Nhật Bản 17,1 tỷ USD, thứ 4 là Hàn Quốc 16,5 tỷ USD. 2.3.4.7. Tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà Lạc và Tp Hồ Chí Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm thành lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN, đến cuối năm 2008 đã thu hút gần 6.303 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 87,7 tỷ USD, chiếm 64,3% về số dự án và 58,6% tổng vốn đăng ký của cả nước. Các dự án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN, KCX đa dạng về hình thức đầu tư 2.4. Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án ĐTNN 2.3.1. Vốn giải ngân FDI từ 1988 đến nay Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 37 Trong số 9.803 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 149,7 tỷ đô la Mỹ, đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 54,5 tỷ USD (bao gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn), chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 49 tỷ USD, chiếm 90% tổng vốn thực hiện, các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra. Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu như cả giai đoạn 1991- 1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng ký mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD) thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam là 1,5 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Năm 1991-1995 1996-2000 2001-2005 Giải ngân (Tỷ USD) Tổng giải ngân 7.1 13.5 14.3 Vốn bên VN 1 1.5 2.3 Vốn nước ngoài 6.1 12 12.6 Giải ngân so với vốn đăng ký (%) 44 64.80 64.80 Tăng (%) – 89 6 Bảng 2.6: tình hình giải ngân 1991-2005 (Tỷ USD) Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng vốn thực hiện đạt 12,53 tỷ USD, năm 2006 vốn thực hiện cũng xác lập con số mới với 4,2 tỷ USD (tăng 25% so với năm 2005), đạt cao Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 38 nhất kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1987 đến nay. Tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới, nhưng vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006 đạt 8,03 tỷ USD, vượt 4 tỷ USD so với báo cáo ban đầu (4,6 tỷ USD). Vốn giải ngân tháng 12/2008 trên cả nước là 1,45 tỷ USD, nâng tổng số vốn giải ngân trong năm 2008 của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam lên con số 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007 Biểu đồ 2.5: Tình hình giải ngân từ 2005-2008 2.3.2. Triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án ĐTNN Trong 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm 1996-2000. Trong thời kỳ 2001- 2005, tỷ trọng trên đạt trung bình là 14,6%. Riêng năm 2005, khu vực ĐTNN đóng góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (15%). Trong ba năm 2006, năm 2007 và 2008 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đóng góp trên 17% GDP. 3.15 4.2 8.03 11.5 0 2 4 6 8 10 12 14 2005 2006 2007 2008 Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 39 Biểu đồ 2.6: Đóng góp bình quân cho GDP cả nước qua các giai đoạn Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 30% tổng doanh thu) thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt 27,09 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 10,59 tỷ USD, chiếm 39% tổng doanh thu), tăng gấp 6,5 lần so với 5 năm trước. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh thu), tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm 1996-2000. Trong hai năm 2006, 2007 tổng giá trị doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6 tỷ USD, chiếm 41% tổng doanh thu. Doanh thu của các doanh nghiệp FDI tháng 12 đạt 5,1 tỷ USD, đưa tổng doanh thu của khối này trong năm 2008 lên 50,55 tỷ USD, tăng 24,4% so với năm 2007. Biểu đồ 2.7: Doanh thu của khu vực ĐTNN từ 1991 đến 2008 Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng gia tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ USD, nhưng đã 6.3 10.3 14.6 17 0 5 10 15 20 1991-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2008 4.1 27.09 77.4 119.55 0 20 40 60 80 100 120 140 1991-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2008 Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 40 tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp hơn 8 lần so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng hơn năm trước, năm 2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt (nếu tính cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2007, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 19,7 triệu USD, nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm 56,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt 24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, Khối doanh nghiệp FDI cũng chính là khối có kim ngạch nhập khẩu rất lớn, 28,458 tỷ USD. Do đó, khối doanh nghiệp FDI vẫn là khối nhập siêu trong năm 2008, với tổng kim ngạch nhập siêu 4 tỷ USD, chiếm khoảng 25% thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008. Biểu đồ 2.8: giá trị xuất khẩu khu vực FDI (Tỷ USD) Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần qua các năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 1.4 9.6 34.6 0 5 10 15 20 25 30 35 40 1991-1995 1996-2000 2001-2005 Giá trị XK không dầu thô 12.6 27.3 24.465 0 5 10 15 20 25 30 2006 2007 2008 Giá trị XK tính cả dầu thô Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 41 (10%). Giai đoạn 1991-1995 do chính sách ưu đãi, khuyến khích ĐTNN của Nhà nước ta nên các doanh nghiệp ĐTNN đóng góp ngân sách còn hạn chế 115 triệu USD, nhưng con số này đã tăng hơn 10 lần trong thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý do một số doanh nghiệp ĐTNN đã qua thời gian hưởng chính sách ưu đãi thuế của nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5 năm trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996- 2000. Năm 2007, thu ngân sách đạt 1,480 tỷ USD, tăng gần 7% so với năm 2006. Năm 2008, khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách nhà nước 1,982 tỷ USD, tăng 25.8% so với năm 2007. Biểu đồ 2.9: Đóng góp vào ngân sách của khu vực FDI (Tỷ USD) Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988 đến cuối 2008 có trên 1,467 triệu lao động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc trong khu vực dịch vụ mà theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới, cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho khoảng từ 2-3 lao động gián tiếp khác. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ĐTNN cũng tăng lên qua từng giai đoạn, từ 21 vạn người vào cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào cuối năm 2000, tăng 80% so với 5 năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng gấp 2,5 lần so với 5 năm trước thể hiện số lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án tăng lên. Trong 2 năm 2006 và 2007 do lượng dự án vào nhiều và triển khai nhanh nên số lượng lao động trong khu vực ĐTNN tính đến cuối 2 năm này đã tăng 9,9% và 12% so với cuối 0.115 1.49 3.6 4.862 0 1 2 3 4 5 6 1991-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2008 1.4 1.48 1.982 0 0.5 1 1.5 2 2.5 2006 2007 2008 Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 42 năm 2005. Trong năm 2008, khối doanh nghiệp FDI đã tạo ra trên 200 nghìn việc làm mới, nâng tổng số lao động làm việc trong các dự án FDI lên 1,467 triệu người, góp phần quan trọng vào giải quyết vấn đề công an việc làm vốn đang rất nóng bỏng của Việt Nam hiện nay. 2.3.3. Rút giấy phép đầu tư, giải thể trước hạn Tính đến hết năm 2007, đã có 38 dự án ĐTNN kết thúc đúng thời hạn với tổng vốn đăng ký 658 triệu USD. Các dự án kết thúc đúng thời hạn chủ yếu là các dự án đầu tư trong những lĩnh vực đặc thù như trục vớt tàu đắm, thăm dò và khai thác dầu, khí, nuôi trồng thuỷ sản... Đồng thời, đã có 1.359 dự án ĐTNN bị giải thể trước thời hạn với số vốn đăng ký giải thể khoảng 15,5 tỷ USD, trong đó, vốn giải thể chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 50%, lĩnh vực công nghiệp- xây dựng chiếm 42,3%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp thuộc dịch vụ không vượt qua được khó khăn, trở ngại trong hoạt động. Trong các dự án ĐTNN bị giải thể, số dự án hoạt động theo hình thức liên doanh chiếm đa số (56% về số dự án và 67,2% về tổng vốn đăng ký), tiếp theo là hình thức Hợp doanh (10,2% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký). Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm13,1% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2008 trong đã có 34 dự án bị rút giấy phép , các dự án này phần lớn đều kéo dài quá thời gian quy định, không có khả năng thực hiện. Trong các dự án bị giải thể có nơi vốn đầu tư lên đến hàng chục triệu USD, chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, xây dựng.  Trong 6 tháng đầu năm 2008, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đã quyết định đình hoãn tổng cộng 29 dự án và rút giấy phép nhiều dự án không đảm bảo tiến độ (đình hoãn chưa khởi công 21 dự án đầu tư và 7 dự án chuẩn bị đầu tư chưa thực sự cấp bách với tổng số vốn đình hoãn 31,9 tỷ đồng  Tại Đà Nẵng thì Ban quản lý các Khu công nghiệp và Chế xuất đã quyết định thu hồi giấy chứng nhận đầu tư của 05 dự án không triển khai hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả. Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 43  Bắc ninh kiểm tra và thu hồi 37 Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 86,62 triệu USD, gồm 30 dự án đầu tư trong nước, 7 dự án đầu tư nước ngoài. … 2.5. Tác động của FDI tới nền kinh tế Việt Nam 2.5.1. Mặt tích cực Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất. 2.5.1.1. Về mặt kinh tế  ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế: Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%). Năm 2008 tuy 3/4 thời gian thực hiện chính sách thắ chặt tiền tệ và 1/4 thời gian bị tác động của khủng hoảng kinh tế thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 189,9 nghìn tỷ đồng tăng 46,9% và chiếm 29,8% tổng vốn đầu tư của xã hội. Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991- 2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 44 nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%. Năm 2008 đạt 6,23% ( nông lâm ngư nghiệp tăng 3,79%; công nghiệp xây dựng tăng 6,33%, dịch vụ tăng 7,2%) Biểu đồ 2.10: Tốc độ tăng GDP qua các năm (nguồn Thời Báo Kinh Tế, kinh tế 2008-2009, trang 69 bảng số 6)  ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp Trong 21 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu... Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41,02% năm 2005; 41,54% năm 2006; 41,58% năm 2007 và 39,91% năm 2008 ) còn tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước là 14,8% năm 2002, 16,8% năm 2003, 16,6% năm 2004, 17,1% năm 2005, 17% năm 2006, 17,1% năm 2007 và 4,6% năm 2008 (ước tính). (Nguồn Thời báo kinh tế, kinh tế 2008-2008, trang 33). 6.01 4.68 5.09 5.81 8.7 8.08 8.83 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.8 6.9 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.48 6.23 0 2 4 6 8 10 12 Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 45 Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005. Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn. ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc. Biểu đồ 2.11: Cơ cấu % các ngành qua các năm (Thời báo kinh tế, kinh tế 2008-2009, trang 10) Trong tổng số lao động tăng thêm của toàn bộ nền kinh tế (15.624.9 nghìn người) trong thời kỳ 1990 - 2008 thì:  Khu vực nhà nước tăng thêm 6.577.7 nghìn người, chiếm 42% tổng số tăng thêm.  Khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng thêm 14967,2 nghìn người, chiếm 95,8% tổng số tăng thêm. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã chuyênr dịch theo hướng tích cực, trong tổng số lao động tăng thêm từ 1990 – 2008 (15.634.9 nghìn người): 38.1 44 38 38 28.9 28.8 41 39.91 33 27.2 21 21.99 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 1986 1955 2005 2006 Dich vụ CN, xây dựng NL ngư nghiệp Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 46  Nhóm nghành Nông - Lâm - Ngư nghiệp - Thủy sản đã thu hút thêm 2.148,7 nghìn người, chiếm 13,8% tổng số tăng.  Nhóm ngành công nghiệp xây dựng đã thu hút thêm 6.079,8 người chiếm 38,9% tổng số tăng.  Nhóm ngành dịch vụ thu hút thêm 7.396,4 nghìn người, chiếm 47,3 tổng số tăng Do năng suất lao động của nhóm ngành Công nghiệp - Xây dựng (62.924 nghìn đồng/người) và nhóm ngành dịch vụ (46.849 nghìn đồng/người) nên con đường chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, rút bớt lao động nhóm ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp - Thủy sản sang làm Công nghiệp - Xây dựng và dịch vụ là con đường nâng cao năng suất lao động chung và cũng là con đường cải thiện mức sống dân cư, giảm tỷ lệ nghèo...  Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy chuyển giao công nghệ: ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v) Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. Trong Nông - Lâm - Ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.  Tác động lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế: Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 47 với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.  Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô: Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD (năm 2007 hơn 1,5 tỷ USD), gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...  Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007. ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc… Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 48 Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. 2.5.1.2. Về mặt xã hội  Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực: Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của World Bank cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.  Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới: Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 49 ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện. 2.5.1.3. Về mặt môi trường Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản lý kinh tế trung ương), đa số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước (có 77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp ĐTNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị xử lý nước thải đúng tiêu chuẩn (so sánh với tỷ lệ 10% của các doanh nghiệp trong nước). Không có doanh nghiệp ĐTNN nào được điều tra vi phạm tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. 2.5.2. Mặt hạn chế Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau 2.5.2.1. Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 50 những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN. 2.5.2.2. Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được giải quyết kịp thời Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp. ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN 2.5.2.3. Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 51 Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. 2.6. Bài học kinh nghiệm đối với Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam 2.6.1. Bài học về thời cơ Kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tạo ra thời cơ thuận lợi cho mỗi quốc gia. Thời cơ và thách thức tồn tại đồng thời, khi xuất hiện thời cơ mới thì đồng thời phải đối phó với thách thức mới. Vấn đề đặt ra cho các Chính phủ là phải biết tranh thủ thời cơ bằng đổi mới chính sách và luật pháp, tạo môi trường kinh doanh và đầu tư hấp dẫn, biến thời cơ thành thế và lực mới, để vượt qua thách thức đưa đất nước tiến lên. Thời cơ sẽ qua đi nếu không biết tận dụng chúng; thách thức sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu không có giải pháp đúng để vượt qua. Từ 1991 đến 1997, FDI vào nước ta đã gia tăng mạnh mẽ, năm 1991 vốn thực hiện là 328,8 triệu USD thì năm 1997 là 3.115 triệu USD, bằng 9,5 lần. Nhưng sau đó, từ 1998 đến 2004, FDI giảm sút nghiêm trọng, vốn thực hiện giao động từ 2,2 đến 2,5 tỷ USD. Trước thực trạng đáng buồn đó, có ý kiến cho rằng, nguyên nhân chủ yếu là tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực bắt đầu giữa năm 1997 đến tình hình kinh tế- xã hội nước ta. Cách lý giải đó tỏ ra không thuyết phục, vì chỉ tìm mối liên hệ “nhân-quả” theo logic hình thức, không giúp gì cho các nhà hoạch định chính sách của đất nước. Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 52 Cần lưu ý rằng, tháng 7 năm 1995 là tháng đầy ắp sự kiện đối ngoại: Việt Nam gia nhập ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký Hiệp định khung về hợp tác với EU. Ba sự kiện lớn đó tạo ra thời cơ mới cho đất nước. Tuy vậy, một số hoạt động đã diễn ra trái chiều; điển hình là việc sửa đổi lần thứ ba Luật đầu tư nước ngoài năm 1996, trong đó có một số nội dung đã gây phản ứng tiêu cực của các nhà đầu tư quốc tế; đồng thời nhiều Bộ ban hành các thông tư về xây dựng, nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng, môi trường, phòng chống cháy, nổ đẻ thêm nhiều giấy phép con, thủ tục hành chính phiền hà làm cho môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn hơn trước. Ngày 2 tháng 7 năm 2007, cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực bắt đầu từ Thái Lan, khi nước này thả nổi tỷ giá đồng Bath, tiếp đó lan sang Philippines, Malaysia, Indonesia, Singapore và một số nước khác ở Châu Á. Việt Nam nằm ngoài vòng xoáy của cuộc khủng hoảng có thể được hưởng lợi do các nước láng giềng gặp khó khăn, nếu chủ động đề ra giải pháp đối phó, tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, tranh thủ lôi kéo các nhà đầu tư muốn di dời nhà máy tại các nước đang khủng hoảng kinh tế sang nước ta. Điều đó đã không trở thành hiện thực. Như vậy là thời cơ đã được tạo ra do các sự kiện lớn về hội nhập quốc tế vào tháng 7 năm 1995 và thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực có thể biến thành cơ hội đã bị bỏ lỡ rất đáng tiếc. Hiện nay nước ta đang đứng trước làn sóng thứ hai FDI vào Việt Nam, thì bài học đắt giá về việc bỏ lỡ thời cơ vào cuối thập niên trước cảnh tỉnh chúng ta rằng, thời cơ mới chỉ tồn tại vài ba năm, nếu không biết tranh thủ thì khó mà biến thành thế và lực mới. 2.6.2. Bài học về lợi ích FDI hình thành mối quan hệ giữa các lợi ích cơ bản: lợi ích đất nước với lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài; lợi ích Bên Việt Nam với lợi ích Bên nước ngoài; lợi ích người sử dụng lao động với lợi ích người lao động. 2.6.2.1. Quan hệ giữa lợi ích đất nước đầu tư với lợi ích nhà ĐTNN Nước ta thu hút FDI nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của các chiến lược phát triển; còn nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam chủ yếu nhằm mục đích lợi nhuận. Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 53 Do vậy, trong bối cảnh đang diễn ra cuộc cạnh tranh thu hút FDI khá gay gắt đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng thể chế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để hài hòa được lợi ích đất nước với lợi ích nhà đầu tư thì mới có thể thu hút được nhiều FDI. Lợi ích đất nước đòi hỏi lợi ích ngành, địa phương, doanh nghiệp phải phục vụ mà không được đối lập với nó. Đáng tiếc là trong thực tế đã có nhận thức và hành động tác động tiêu cực đến lợi ích dân tộc, như không chịu mở cữa thị trường, muốn kéo dài tình trạng độc quyền, đề ra những điều kiện trái với luật pháp. Có thể dẫn ra một số ví dụ điển hình. Tình trạng thiếu điện đã ảnh hưởng tiêu cực đối với hoạt động kinh tế và dân sinh, nhưng do giữ thế độc quyền nên Tập đoàn điện lực không muốn thực hiện BOT đối với FDI các dự án điện năng, mặc dù đó là phương thức đươc nhiều nước áp dụng. Ngành bưu chính viễn thông chủ trương không liên doanh và đầu tư 100% vốn nước ngoài trong dịch vụ viễn thông, nên đã hạn chế việc đáp ứng nhu cầu đang gia tăng nhanh chóng đối với dịch vụ này. Một số địa phương đề ra chủ trương ưu đãi thuế, tiền thuê đất cao hơn khung pháp lý. Nhiều doanh nghiệp gây sức ép và bằng một số kênh liên hệ để Chính phủ kéo dài chủ trương bảo hộ mậu dịch. Tình trạng đó vừa trái với luật pháp của Nhà nước, không phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta, vừa làm chậm quá trình chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Chính sách, luật pháp của Nhà nước phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Ngành và địa phương có thể vận dụng chính sách, luật pháp phù hợp với đặc điểm của mình, nhưng không thể vượt ra ngoài khung khổ mà Nhà nước đã quy định. Cần lưu ý rằng, nước ta có quyền ban hành chính sách và luật pháp thì các nhà đầu tư có quyền lựa chọn quốc gia mà họ thực hiện dự án. Trong trường hợp lợi ích của họ hài hòa với lợi ích nước ta thì họ sẽ triển khai dự án; ngược lại, nếu chính sách, luật pháp không tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn thì họ không đầu tư, thậm chí chuyển nhà máy đang được vận hành sang nước khác. Cũng cần nhận biết giới hạn đáp ứng lợi ích nhà đầu tư trong khi hình thành chính sách và luật pháp, để không làm tổn hại lợi ích dân tộc. Giá bán ô tô ở nước ta là một điển Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 54 hình về việc các nhà đầu tư đã được hưởng lợi quá nhiều và quá dài do chính cách bảo hộ mậu dịch của Nhà nước, gây tổn hại đến lợi ích người tiêu dùng và lợi ích đất nước. 2.6.2.2. Quan hệ giữa lợi ích bên Việt Nam với lợi ích bên nước ngoài Trong doanh nghiệp liên doanh giữa tổ chức, cá nhân Việt Nam với nước ngoài hình thành quan hệ lợi ích giữa hai bên. Hoạt động cuả doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc rất lớn đến việc chia sẻ lợi ích giữa Bên nước ngoài với Bên Việt Nam; nếu hài hòa lợi ích thì thuận lợi, ngược lại khi có xung đột lợi ích thì gặp khó khăn. Trong thực tế đã xảy ra tình trạng giải thể trước thời hạn một số doanh nghiệp liên doanh mà Bên Việt Nam là tư nhân, nguyên nhân chủ yếu là mâu thuẩn về lợi ích do thiếu sự tin cậy lẫn nhau, thiếu thiện chí trong giải quyết tranh chấp. Trong các liên doanh mà Bên Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước thì tình trạng phổ biến là đại diện Bên Việt Nam không đủ năng lực, thiếu đấu tranh bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mình; thường phó mặc cho người nước ngoài điều hành kinh doanh, miễn là hàng tháng lĩnh những khoản tiền lương hậu hĩnh. Đây là vấn đề cần phải được giải quyết, nếu không muốn biến các liên doanh thành nơi chỉ để làm giàu cho một vài cá nhân. 2.6.2.3. Quan hệ giữa lợi ích người sử dụng lao động với lợi ích người lao động Các doanh nghiệp FDI phần lớn là của tư nhân, một số liên doanh là hỗn hợp giữa tư nhân và nhà nước; do vậy quan hệ lao động chủ yếu là quan hệ chủ- thợ thường nảy sinh mâu thuẩn lợi ích; chủ doanh nghiêp muốn tăng thời gian lao động, trả lương vừa phải để thu lợi nhuận nhiều; người lao động đòi tăng lương, giảm giờ làm. Mặc dù luật lao động đã quy định quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động, việc giải quyết mâu thuẩn giữa chủ và thợ, kể cả đình công, bãi công, nhưng trên thực tế tồn tại hai vấn đề cần được lưu ý: 1) Người lao động thiếu hiểu biết luật pháp, chưa được tổ chức công đoàn hướng dẫn việc đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ, đồng thời thực hiện nghĩa vụ lao động đối với doanh nghiệp; 2) Chủ doanh nghiệp thiếu tôn trọng luật pháp, chưa ứng xử phù hợp với văn hóa và tập quán người Việt Nam; không thực hiện đúng quy định của Chính phủ Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 55 về tiền lương, thời gian lao động và các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp đối với người lao động. Các phương tiện truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra công luận việc xâm phạm lợi ích của người lao động; nhưng cũng tránh từ những vụ việc cá biệt quy thành vấn đề chính trị hay quan hệ giữa nước ta với các nước khác. 2.6.3. Bài học về lợi thế so sánh Mỗi nước đều tìm cách khai thác tối đa lợi thế so sánh cuả đất nước để thu hút nhiều FDI. Trong thế giới hiện đại, lợi thế so sánh đã biến đổi. Tài nguyên thiên nhiên là một lợi thế, nhưng không còn đóng vai trò trọng yếu như thời kỳ phát triển công nghiệp chủ yếu dựa vào tài nguyên và vốn. Địa- chính trị vẩn là yếu tố quan trọng, nhưng cũng giảm bớt ảnh hưởng do cuộc cách mạng về viễn thông và giao thông vận tải đang làm cho thế giới “ thu nhỏ lại”. Sau sự kiện khủng bố quốc tế 11/9/2001, vấn đề an ninh kinh tế, an toàn xã hội, ổn định chính trị nổi lên như là yếu tố hàng đầu. Chi phí lao động vẩn được các nhà đầu tư quan tâm, nhất là trong các dự án sử dụng nhiều lao động; nhưng năng suất lao động mới là yếu tố quan trọng gắn với trình độ lành nghề, năng lực tiếp cận công nghệ hiện đại của đội ngũ lao động được đào tạo có chất lượng với cơ cấu hợp lý. 1) Tiếp cận khách hàng 77% 2) Môi trường chính trị và xã hội ổn định 64% 3) Điều kiện kinh doanh dễ dàng 54% 4) Độ tin cậy và chất lượng cơ sở hạ tầng 50% 5) Khả năng thuê chuyên viên có trình độ cao 39% 6) Khả năng thuê nhân viên quản lý 38% 7) Mức độ tham nhũng 36% 8) Chi phí lao động 33% 9) Tội phạm 33% 10) Khả năng thuê lao động kỷ thuật 32% Bảng 2.7: 10 nhân tố hàng đầu thường được nhà đầu tư tính đến khi lựa chọn địa bàn đầu tư (Nguồn: MYGA, Điều tra đầu tư trực tiếp nước ngoài, tháng 1/2002 ) Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 56 Nước ta có tài nguyên đa dạng, trừ bốc xít thuộc loại giàu của thế giới, các khoáng sản khác có trử lượng không nhiều; hiện nay chỉ có dầu thô mỗi năm khai thác để xuất khẩu 15- 16 triệu tấn, đưa lại nguồn thu ngoại tệ 6-7 tỷ USD, nhưng khó có thể tăng thêm, các tài nguyên khác chỉ đủ đáp ứng nhu cầu trong nước, do vậy không có lợi thế về tài nguyên. Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nước ta được đánh giá có lợi thế về lao động dồi dào, chi phí thấp; nhưng hiện nay lại là nhược điểm lớn do trình độ tay nghề thấp, cơ cấu lao động không hợp lý, ở những địa phương thu hút được nhiều FDI như Đồng Nai, Bình Dương thì thiếu lao động có kỷ năng cao, khi có dự án lớn trong ngành công nghệ thông tin thì thiếu hàng ngàn kỷ sư lành nghề. Hạ tầng kỷ thuật và kinh tế như đường giao thông, vận tải hàng không, hàng hải, đường bộ, chất lượng cung ứng điện, cấp thoát nước, mạng lưới thông tin và viễn thông, dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, công nghiệp phụ trợ…không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội cũng là nhược điểm lớn. Lợi thế nổi trội của nước ta hiện nay là sự ổn định về chính trị gắn với thể chế kinh tế, an ninh và an toàn xã hội được bảo đảm so với nhiều nước trong khu vực; tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập của người dân tăng lên nhanh chóng sắp vượt qua ngưỡng của nước có thu nhập thấp, dung lượng thị trường ngày càng lớn của hơn 80 triệu người trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Để làn sóng FDI đang diễn ra hiện nay đưa lại những kết quả lớn hơn, nước ta cần phát huy lợi thế về ổn định chính trị, an toàn xã hội, thị trường tiềm năng; đồng thời có giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo để hình thành đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ kỷ thuật, chuyên viên kinh tế, nhà quản lý có trình độ cao, xây dựng đồng bộ hạ tầng kỷ thuật và kinh tế đủ sức tiếp nhận nhiều dự án FDI có quy mô lớn, phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. 2.6.4. Bài học về chính sách FDI Chính phủ nhiều nước đang theo đuổi chính sách khuyến khích mạnh mẽ FDI; trong đó có nước vừa quan tâm đến gia tăng vốn đầu tư và chất lượng FDI; có nước chỉ chú Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 57 trọng chất lượng, thể hiện giá trị gia tăng sản phẩm và tính lan tỏa của FDI đối với kinh tế trong nước. Các Chính phủ đều coi FDI là một thành phần kinh tế, nhưng lại hướng hoạt động FDI theo các hướng khác nhau, hoặc nhằm thu hút nhiều hơn FDI, hoặc nâng cấp FDI và khuyến khích mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước. Việc hình thành thể chế kinh tế trước hết cần hướng vào việc tự do hóa thương mại và thị trường vốn để khơi các dòng chảy hàng hóa và dịch vụ, vốn đầu tư; kích thích mở rộng thị trường trong nước và giao lưu quốc tế, đồng thời bảo đảm sự bảo hộ hợp lý đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh, bao gồm FDI. Việc theo đuổi chính sách khuyến khích FDI, đồng thời coi trọng chất lượng FDI là hai mặt có quan hệ hữu cơ của thể chế và chính sách của Việt Nam. Gia tăng về số lượng dự án và vốn FDI trong các ngành và lĩnh vực, trừ một số ngành, lĩnh vực có điều kiện hoặc cấm là nhiệm vụ có tính chiến lược, đồng thời bảo đảm chất lượng của FDI. Trong điều kiện hoạt động đầu tư trong nước đang gia tăng nhanh chóng, thì việc lựa chọn dự án FDI cần bảo đảm hiệu quả kinh tế- xã hội trong mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực. Các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các Tập đoàn kinh tế lớn đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải có những cam kết rõ ràng như công khai và minh bách về luật pháp, thực hiện quy định của WTO về đầu tư có liên quan đến thương mại, về xử lý tranh chấp…và bảo đảm các cam kết đó được thực hiện trong cả quá trình đầu tư và kinh doanh của họ. Từ khi Chính phủ phân cấp cho Chính quyền tỉnh, thành phố quyền hạn lớn hơn đối với FDI, bên cạnh mặt tích cực, đã xảy ra tình trạng mà các nhà kinh tế thế giới gọi là “ cuộc chiến chào mời khuyến khích đầu tư”, tác động tiêu cực đến phúc lợi xã hội của địa phương tiếp nhận FDI do những ưu đãi không cần thiết, chỉ vì để cạnh tranh với địa phương lân cận. Trong điều kiện nước ta đã là thành viên WTO, thì Chính phủ cần hướng vào chính sách nâng cấp FDI; trong khi vẩn khuyến khích các nhà đầu tư vừa và nhỏ, cần khai thác thế mạnh của những Tập đoàn kinh tế nằm trong 500 doanh nghiệp lớn nhất thế giới; trong khi vẩn quan tâm đến đầu tư từ các nước Châu Á, cần có giải pháp để gia tăng Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 58 nhanh chóng FDI từ các nước OECD, nhất là Mỹ, nước có FDI đứng đầu thế giới và các nước lớn trong EU như Đức, Pháp, Anh. Kinh nghiệm thực tế cũng đã chỉ ra rằng, ốn định chính sách FDI là đòi hỏi chính đáng của nhà đầu tư. Trong trường hợp Chính phủ thay đổi chính sách thì cần tạo thuận lợi cho họ; hết sức tránh gây ra tâm lý phản kháng vì làm thiệt hại lợi ích của nhà đầu tư như đã xảy ra trong lần sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài năm 1996. Trong trường hợp bất khả kháng, khi Chính phủ áp dụng chính sách không có lợi cho họ thì cần thực hiện nguyên tắc “ không hồi tố”, hoặc bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư do chính sách mới gây ra. 2.6.5. Bài học về quản lý nhà nước Vai trò Nhà nước trong kinh tế thị trường luôn là vấn đề thời sự, gây ra nhiều cuộc tranh luận trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay, quan điểm được nhiều đồng tình là đã qua rồi thời kỳ “ Nhà nước cai trị”, “Nhà nước quản lý đơn thuần bằng mệnh lệnh hành chính”; cũng không thể có “Nhà nước yếu và thị trường mạnh” được; ngày nay Nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường thể chế và cơ sở hạ tầng thuận lợi, hấp dẫn để mọi ý tưởng mới, sáng tạo của cá nhân và tổ chức trong hoạt động đầu tư và kinh doanh được thực hiện có hiệu quả. Trong những năm đầu thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, từ 1988 đến 1993, do nước ta bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường, FDI là một hoạt động kinh tế đối ngoại còn khá mới mẻ, nên nhìn chung môi trường đầu tư khá hấp dẫn nhờ có Luật đầu tư thông thoáng, thủ tục hành chính đơn giản, các cơ quan nhà nước từ địa phương đến trung ương “ trải chiếu hoa” đón nhà đầu tư. Từ 1994 về sau, nhiều Bộ đã ban hành thông tư quy định thủ tục hành chính theo hướng “ tăng cường quản lý nhà nước”, đẻ ra không biết bao nhiêu là “ giấy phép con” kèm theo hồ sơ xin phép và lệ phí, gây ra phiền hà cho nhà đầu tư, tác động tiêu cực đến tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh ở nước ta. Đây là một bài học liên quan đến nhận thức và quan điểm về Nhà nước trong kinh tế thị trường, mà cho đến nay, mặc dù đã có nhiều nghị quyết của Đảng và Chương trình hành động của Chính phủ về việc cải cách nền hành chính quốc gia nhưng xem ra vẩn là một vấn đề thời sự, mà nếu Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 59 không được giải quyết một cách cơ bản sẽ ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế- xã hội, trong đó có FDI. Thực tế của nước ta cũng đã chỉ ra rằng, để xây dựng được Nhà nước có hiệu năng trên cơ sở quan điểm đúng về Nhà nước trong thị trường hiện đại, cần tiến hành đồng bộ đổi mới bộ máy, cơ chế và đội ngũ công chức. Cần phải làm cho mọi công chức trong bộ máy nhà nước có được nhận thức đúng về một nhà nước hiện đại trong nền kinh tế thị trường đang chuyển biến nhanh chóng ở nước ta, trong một thế giới đang bước vào giai đoạn mà cuộc ganh đua giữa các dân tộc trước hết tùy thuộc vào sức mạnh kinh tế. Bộ máy nhà nước từ chổ làm “ từ A đến Z”, làm thay công việc của người dân và doanh nghiệp phải chuyển sang làm đúng chức năng “ Nhà nước dịch vụ” đối với đầu tư và kinh doanh, tạo lập hành lang pháp lý thông thoáng, công khai và minh bạch, hướng dẫn và tạo điều kiện để nhà đầu tư nhanh chóng thực hiện dự án; xây dựng quy trình, quy chuẩn phù hợp với thông lệ quốc về xây dựng, môi trường, an toàn lao động, phòng chống cháy, nổ; trên cơ sở đó giám sát và kiểm tra thường xuyên, xử lý kịp thời mọi vi phạm pháp luật. Cần đặt trọng tâm công tác quản lý nhà nước FDI vào hoạt động xúc tiến đầu tư, bởi vì đây là công đoạn đầu tiên và quan trọng nhất để các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án ở Việt Nam. Tuy Bộ KH&ĐT đã lập ba Trung tâm xúc tiến đầu tư; nhiều địa phương đã tổ chức các đoàn vận động, tổ chức hội thảo đầu tư ở trong và ngoài nước; nhưng tình trạng phổ biến là kém hiệu quả. Hoạt động xúc tiến đầu tư phải đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoài, không phải chỉ là giải thích môi trường, luật pháp như trong thời kỳ đầu, mà là các tư liệu cụ thể, chính xác tiềm năng kinh tế, nguồn nhân lực, dự án phát triển, các quy định về đất đai, ưu đãi thuế, tình trạng giao thông, nguồn điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc, mặt bằng, điều kiện cư trú, đi lại, địa chỉ liên hệ khi cần thiết. Nhiều cơ quan và địa phương đã lập Website về FDI, nhưng đáng tiếc là thiếu những thông tin mà nhà đầu tư cần biết và thiếu cập nhật. Đó là nhược điểm lớn cần được khắc phục bằng việc thành lập nhóm chuyên viên về Website, quảng bá rộng rãi trên Chương 2: Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam … Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở 60 mạng Internet và tìm đến địa chỉ các nhà đầu tư đầy tiềm năng để giữ mối liên hệ thường xuyên. Làn sóng FDI thứ hai đang diễn ra ở nước ta với khối lương lớn hơn và chất lượng cao hơn so với làn sóng đầu tiên vào giữa thập kỷ 90. Thời cơ là to lớn, nhưng nếu không biết chớp lấy thời cơ thì nó sẽ qua đi và thách thức trở nên gay cấn hơn. Kỷ niệm 20 năm Quốc hội ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là dịp để từ những bài học kinh nghiệm trên đây đề ra các giải pháp đồng bộ, có hiệu quả hơn theo hướng tiếp cận những chuẩn mực quốc tế tốt nhất, biến làn sóng FDI mới thành nguồn lực quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đưa nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 Chương 2 đã cho chúng ta một cái nhìn cụ thể, chi tiết về tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong suốt thời gian qua. Kể từ năm 1988 khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành và có hiệu lực cho đế nay, hình trình thu hút FDI đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và có xu hướng phát triển khá mạnh mẽ trong những năm gần đây. Qua chương 2 chúng ta có thể thấy được kết quả mà chúng ta đã đạt được qua hơn 21 năm thu hút và sử dụng dòng vốn này và sự đóng góp cũng như ảnh hưởng của dòng vốn FDI đến sự phát triển nền kinh tế nước ta để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc thu hút và sử dụng dòng vốn FDI. Tiếp theo chương 3, chúng ta sẽ bàn về những giải pháp và đưa ra những kiến nghị để phần nào khắc phục được những mặt hạn ché và giải quyết những tồn tại trong hoạt động thu hút và sử dụng dòng vốn FDI tại Việt Nam hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn Hiệu quả của việc sử dụng FDI tại Việt Nam trong 21 năm qua.pdf
Tài liệu liên quan