Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

Tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam: 1 Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam 2 LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay các Ngân hàng thương mại đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế thị trường, trong đó hoạt động tín dụng ngân hàng trở thành một nhân tố quan trọng, là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ để phát triển nền kinh tế. Đất nước ta đang trong giai đoạn đầu tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên nhu cầu vốn đầu tư phát triển, mở rộng và nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh là rất lớn. Theo nguyên lý chung, nhu cầu vốn lớn và dài hạn phải được đáp ứng bởi thị trường vốn nhưng trong điều kiện nước ta, khi thị trường này đang còn nhiều khó khăn và yếu kém thì vai trò này chủ yếu thuộc về hệ thống ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng là hoạt...

pdf80 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam 2 LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay các Ngân hàng thương mại đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế thị trường, trong đó hoạt động tín dụng ngân hàng trở thành một nhân tố quan trọng, là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ để phát triển nền kinh tế. Đất nước ta đang trong giai đoạn đầu tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên nhu cầu vốn đầu tư phát triển, mở rộng và nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh là rất lớn. Theo nguyên lý chung, nhu cầu vốn lớn và dài hạn phải được đáp ứng bởi thị trường vốn nhưng trong điều kiện nước ta, khi thị trường này đang còn nhiều khó khăn và yếu kém thì vai trò này chủ yếu thuộc về hệ thống ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng nhưng cũng luôn chứa đựng những rủi ro làm thất thoát vốn của Ngân hàng thương mại nên chất lượng tín dụng là vấn đề đang được các ngân hàng rất quan tâm. Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam được thành lập và hoạt động hơn mười năm, chủ yếu hoạt động trên lĩnh vực đầu tư và phát triển. Do đó nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn có ý nghĩa quan trọng với đơn vị và với nhu cầu vốn trung và dài hạn của đất nước. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam không những là đòi hỏi cấp thiết trong hoạt động ngân hàng mà còn là đòi hỏi khách quan đối với sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Xuất phát từ thực tế trên, đi sâu vào nghiên cứu công tác tín dụng trung và dài hạn của Sở giao dịch, em đã chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam". 3 CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại 1.1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, từ việc đổi tiền, giữ hộ tiền đến việc thực hiện thanh toán hộ đã dần dần hình thành các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại ra đời, trở thành một cầu nối không thể thiếu giữa những người muốn tiết kiệm và những người muốn đầu tư, trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại. Theo quan điểm của Mỹ, "Ngân hàng thương mại là một công ty chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính". Hay một cách thận trọng có thể xem tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Tại Việt Nam, sự chuyển dịch nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nướcnăm 1986 tất yếu dẫn dến sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và tổ chức tín dụng. Để quản lý và hướng dẫn hoạt động cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, bảo vệ lợi ích của cá nhân và các thành phần kinh tế, theo Pháp lệnh số 38 ngày 25/5/1990: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó 4 để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu các phương tiện thanh toán". Và mới đây Luật các tổ chức tín dụng có quy định "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan". Theo đó ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng nhận tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Tóm lại, dù định nghĩa Ngân hàng thương mại như thế nào cũng đều có chung một nội dung và tính chất hoạt động của ngân hàng là huy động vốn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh doanh khác của ngân hàng. 1.1.1.2.Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 1.1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên ngân hàng thương mại cũng cần vốn cho các hoạt động kinh doanh của mình. Các Ngân hàng thương mại thường huy động bằng các phương thức khác nhau: * Đầu tiên ngân hàng phải có vốn tự có của mình. Vốn tự có là vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng thương mại. Đây là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng. Vốn tự có ban đầu của ngân hàng ít nhất phải bằng vốn pháp định và trong quá trình hoạt động nguồn vốn này được bổ sung bằng nhiều phương thức khác nhau như nguồn bổ sung từ lợi nhuận, phát hành cổ phiếu hoặc xin thêm vốn ngân sách hay được trích từ các quỹ như quỹ dự phòng tổn thất, quỹ đầu tư, quỹ thặng dư vốn... Tuy nguồn vốn này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng lại là nguồn quan trọng, cung cấp những cơ sở vật chất ban đầu để ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, đồng thời cung cấp nền 5 tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn tự có là cơ sở xác định mức nợ tối đa và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Ở Việt Nam, để ngăn chặn và đẩy lùi các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nướcquy định: Dư nợ cho vay tối đa một khách hàng phải nhỏ hơn hoặc bằng 15% vốn tự có của Ngân hàng thương mại (trừ một số trường hợp Chính phủ cho phép) và các Ngân hàng thương mại phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tài sản "Có", kể cả các cam kết ngoại bảng, được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. Hơn thế nữa vốn tự có còn là nguồn tạo uy tín của ngân hàng, là cơ sở thu hút các nguồn vốn khác và được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng mất khả năng thanh khoản. * Phương thức huy động vốn thứ hai là nhận tiền gửi. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã thực hiện nhiều hình thức huy động tiền gửi khác nhau và trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho việc khách hàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt để cho ngân hàng sử dụng vốn. Như vậy, khi cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi, ngân hàng thu "phí" gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng tiền gửi đó. Hiện nay, huy động tiền gửi trung và dài hạn đang là một hình thức phổ biến của các ngân hàng thương mại nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong thời hạn dài hơn. Các Ngân hàng thương mại tận dụng tối đa nguồn vốn này để đầu tư các dự án trung và dài hạn. * Phương thức huy động thứ ba là phát hành các giấy tờ có giá như phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng. Đây là một cách huy động vốn rất nhanh của các ngân hàng và nó góp phần đa dạng hoá các loại hàng hoá giao dịch trên thị trường chứng khoán, khuyến khích các tầng lớp dân cư tích luỹ vốn cho đầu tư phát triển. 6 * Một phương thức huy động khác nữa của Ngân hàng thương mại là đi vay các ngân hàng khác. Nguồn huy động theo phương thức này được dựa trên mối quan hệ giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Nhà nướchoặc các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng. Tuy nhiên hình thức huy động này chỉ mang tính tạm thời nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả và phải chịu chi phí lớn nên trong thực tế nguồn huy động này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể huy động vốn nhàn rỗi từ các hoạt động uỷ thác. Các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu.Từ đó hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng. 1.1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn Sử dụng và khai thác các nguồn vốn huy động được là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Vốn của Ngân hàng thương mại thường được sử dụng trong hai hoạt động lớn là tín dụng và đầu tư. * Hoạt động tín dụng Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Trong quan hệ này, bên cho vay chuyển giao tài sản (tiền hoặc hàng hoá) cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Giá trị thanh toán phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng thì thuật ngữ tín dụng ngân hàng chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính và sinh lãi cao nhất của ngân hàng. Chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng gồm một bên là ngân hàng, một bên là nhà nước, các tổ chức kinh tế, dân cư... 7 Trong những năm 1960 trở về trước, hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Nhưng sau đó các ngân hàng còn cung cấp tín dụng cho khách hàng dưới hình thức cho thuê tài sản (tín dụng thuê mua) hoặc bảo lãnh. Cả hai hình thức này giúp ngân hàng mở rộng tín dụng cũng như các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán... góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. * Hoạt động đầu tư Đây cũng là một trong những hoạt động giúp ngân hàng khai thác tối đa nguồn vốn đã huy động, tăng cường khả năng thanh khoản cho dự trữ của các ngân hàng thương mại đồng thời tăng thu nhập cho ngân hàng. Các ngân hàng đầu tư thông qua hoạt động hùn vốn, góp vốn liên doanh và kinh doanh chứng khoán. Thường khi đầu tư các ngân hàng đều có được những thông tin chính xác và hoàn hảo nên ít khi gặp rủi ro. 1.1.1.2.3. Các dịch vụ trung gian khác Bên cạnh hoạt động cơ bản là huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn, các ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ trung gian khác. Chính việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả đã tạo ra sự khác biệt và ưu thế cạnh tranh cho từng ngân hàng. Có thể kể các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp như dịch vụ mua bán ngoại tệ, trung gian thanh toán, dịch vụ uỷ thác và tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, quản lý ngân quỹ, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý... 1.1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, bên cạnh việc phải xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng đúng đắn, phải không ngừng đa dạng hoá các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Tín dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: 8 * Phân loại theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê... Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoản thời gian xác định. Ngân hàng cho thuê khi khách hàng không đủ điều kiện để vay. Ngân hàng có thể mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định và cũng phải hoàn trả cả gốc và lãi khi hết hạn. Bảo lãnh là hoạt động ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. * Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng thì hoạt động tín dụng gồm có tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm. Tín dụng có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có đảm bảo. Nhưng ngân hàng có thể cấp tín dụng không có bảo đảm cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Ngoài ra, các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản 9 đảm bảo, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. * Phân loại theo thời gian cho vay có tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Phân theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Tín dụng ngắn hạn có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Tín dụng trung hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng tài trợ cho các tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn có thời hạn trên 60 tháng được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, mua các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Việc xác định thời hạn trên cũng có tính chất tương đối do nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Trên thực tế, ngân hàng thường gộp tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn thành một _ tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng trung và dài hạn ngày càng chiếm phần lớn tỷ trọng của ngân hàng vì một mặt chúng đáp ứng yêu cầu vốn trung và dài hạn của xã hội trong mở rộng sản xuất đầu tư, xây dựng cơ bản, mặt khác nó phù hợp với khả năng huy động vốn ngày một cao của ngân hàng. * Ngoài các tiêu thức trên, ngân hàng còn phân loại tín dụng theo độ rủi ro, theo ngành kinh tế, theo đối tượng tín dụng, theo mục đích sản xuất... 10 Với các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng, cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. 1.1.2. Tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại 1.1.2.1.Khái niệm và đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn Như đã trình bày ở phần trên, tín dụng ngân hàng thương mại là một giao dịch về tài sản, tức là bao gồm cả hình thức cho vay (bằng tiền) và cho thuê (tài sản thực như máy móc, nhà ở, văn phòng...). Tuy nhiên trong phạm vi bài chuyên đề này, tín dụng ngân hàng chỉ được hiểu hẹp hơn là chỉ bao gồm hoạt động cho vay. Tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại là một hình thức tín dụng ngân hàng được phân loại theo tiêu thức thời gian. Đó là những khoản cho vay có thời hạn lớn hơn một năm nhằm phục vụ cho việc làm nhà hoặc đầu tư thực hiện các công trình xây dựng mang tính thương mại cũng như cho các dự án đầu tư khác. Đối với một số nước trên thế giới tín dụng dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 7 năm nhưng tại Việt Nam, theo quy định hiện hành thì các khoản tín dụng trung hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng (5 năm), và từ 60 tháng trở lên là tín dụng dài hạn. Tín dụng trung và dài hạn có các đặc điểm lớn sau: * Mục đích và đối tượng cho vay Trong một nền kinh tế, nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên phát sinh do các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị, xây dựng... hoặc do Nhà nướcvay để đầu tư phát triển đất nước. 11 Đối tượng cho vay là các doanh nghiệp đang đầu tư vào các dự án mà giá trị vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ chuyển giao, chi phí nhân công, giá thuê mua các tài sản khác, chi phí mua bảo hiểm và các chi phí khác đòi hỏi vốn lớn. * Thời hạn và giá trị khoản vốn cho vay Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Thời hạn cho vay do ngân hàng và khách hàng thoả thuận. Việc thoả thuận này phải căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và khả năng nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Xuất phát từ việc tín dụng trung và dài hạn được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, tài trợ cho các hạng mục công trình, dự án đầu tư xây dựng... do đó thời hạn cho vay trung và dài hạn thường dài (hơn một năm) và giá trị của các khoản cho vay trung và dài hạn thường rất lớn. * Nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn Về nguyên tắc, để hoạt động an toàn, ngân hàng cấp tín dụng trung và dài hạn cho khách hàng từ những nguồn vốn ổn định và có thời gian tương đương, bao gồm nguồn vốn tự có của ngân hàng do góp vốn hoặc do tích luỹ được trong quá trình kinh doanh; vốn huy động dưới hình thức tiền gửi trung và dài hạn, phát hành trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi dài hạn; nguồn vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước, vay trên thị trường liên ngân hàng, vay nợ nước ngoài; vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư. Tuy nhiên, các ngân hàng thường phản ánh rằng ngân hàng không đủ vốn trung và dài hạn để cho vay trung dài hạn. Trước tình hình đó Ngân hàng Nhà nướcđã mở rộng quy định về việc dùng vốn ngắn hạn định kỳ vào việc cho vay trung và dài hạn. Các ngân hàng xem xét, tính toán nguồn 12 này để trích ra một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đó tuỳ thuộc vào sự biến động của quá trình gửi tiền và rút tiền của khách hàng để tạo ra một nguồn ổn định lâu dài để cho vay dài hạn. Việc làm này có thể mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng do lãi suất huy động ngắn hạn nhỏ hơn lãi suất huy động dài hạn và lãi suất cho vay dài hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Song ngân hàng cũng rất ngại đối với rủi ro có thể gặp phải là rủi ro về thanh khoản. Với nguồn vốn trung và dài hạn còn hạn chế ở các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nướcđã cho phép các ngân hàng có thể sử dụng 25% - 30% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn - tạo đều kiện thuận lợi cho các ngân hàng chủ động, linh hoạt trong cho vay. * Rủi ro và lãi suất cho vay Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có thời hạn cho vay dài nên đi kèm với nó là rủi ro rất lớn bởi vì trong thời gian đó có thể xảy ra nhiều biến động lớn như về giá cả, ngoại hối, thuế, tâm lý người dân, chính sách pháp luật... Hơn thế nữa, giá trị khoản vay lớn nên khi rủi ro xảy ra sẽ càng gây những hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Mặc dù ngân hàng đã thẩm định, phân tích các thông tin trước khi ra quyết định cho vay nhưng rủi ro vẫn xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ phía khách hàng. Do đó để đảm bảo an toàn vốn vay, đảm bảo tăng trách nhiệm của người vay đối với khoản tiền vay, ngân hàng buộc các khách hàng phải có tài sản đảm bảo cho món vay. Giữa rủi ro và lãi suất có mối quan hệ với nhau. Thời hạn càng dài, rủi ro càng lớn thì lãi suất vay càng cao bởi vì ngân hàng phải trang trải những chi phí để bù đắp rủi ro lớn và những chi phí huy động và quản lý nguồn vốn phục vụ cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Lãi suất cho vay được xác định tuỳ thuộc vào lãi suất huy động, tỷ lệ lạm phát, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và ở Việt Nam còn phụ thuộc vào lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nướcquy định. 13 * Nguyên tắc cho vay trung và dài hạn Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại phải dựa trên một số nguyên tắc nhằm đảm bảo tính an toàn và sinh lời. - Vốn trung và dài hạn phải được sử dụng đúng mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Muốn vay vốn trung và dài hạn, người vay phải soạn thảo dự án, chương trình sản xuất kinh doanh, trong đó chi tiết việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Trên cơ sở đó, ngân hàng thẩm định và phê duyệt. Ngân hàng cho vay căn cứ vào nhiều chỉ tiêu và yêu cầu khách hàng phải cam kết sử dụng vốn đúng mục đích đã đưa ra trong phương án vay vốn, không trái với pháp luật và cương lĩnh của ngân hàng, phù hợp với đường lối chính sách phát triển kinh tế của đất nước. - Việc sử dụng vốn trung và dài hạn phải có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Hiệu quả kinh tế - xã hội của một món vay trung và dài hạn được thể hiện qua các chỉ tiêu của dự án (phương án) như chỉ tiêu phản ánh hiệu quả, chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán, chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời... Một dự án, chương trình sản xuất có hiệu quả sẽ dẫn đến việc hoàn trả vốn đúng hạn. - Vốn vay phải được hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn. Nguồn vốn ngân hàng cho vay trung và dài hạn là nguồn ngân hàng nhận tiền gửi hoặc đi vay mượn. Ngân hàng cũng có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã thực hiện như đã cam kết. Do đó ngân hàng yêu cầu người vay phải hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn - đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển 1.1.2.3.Quy trình tín dụng trung và dài hạn Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có đặc trưng thời hạn dài, chứa đựng nhiều rủi ro nên các Ngân hàng thương mại cần xây dựng quy trình tín dụng trung và dài hạn chặt chẽ để hoạt động này đạt được hiệu quả cao nhất. 14 Quy trình tín dụng trung và dài hạn được soạn thảo với mục đích giúp cho quá trình vay diễn ra thống nhất, khoa học, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng. Nhìn chung quy trình này thường gồm 5 bước có quan hệ qua lại và hỗ trợ nhau, kết quả của bước trước là cơ sở thực hiện bước tiếp theo và tác động đến chất lượng công việc của các bước sau. * Bước 1: Lập hồ sơ yêu cầu cấp tín dụng Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn. Xét về mặt kinh tế, mặc dù quan hệ tín dụng chưa hình thành, nhưng đây là bước chuẩn bị những điều kiện cần thiết để quan hệ tín dụng được thiết lập lành mạnh. Xét về mặt thủ tục hành chính, thì đây là bước hình thành đầy đủ giấy tờ, văn bản chứng tỏ khách hàng thực sự có nhu cầu về vốn tín dụng trung và dài hạn, cũng như chứng minh được tính hợp pháp về nhân thân khách hàng và tính tự nguyện xin cấp tín dụng của khách hàng. Căn cứ vào việc phân tích các nguồn thông tin từ hồ sơ này và các nguồn liên quan mà ngân hàng ra quyết định là có cấp tín dụng hay không. * Bước 2: Thẩm định tín dụng Thẩm định tín dụng là thẩm định khả năng hiện tại và tiềm năng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng. Do tính chất phức tạp của tín dụng trung và dài hạn nên cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định phải dựa vào các thông tin đã có và tiến hành thẩm định một cách chặt chẽ các yếu tố phi tài chính (như phân tích, kiểm tra tính pháp lý của khách hàng, uy tín của họ, mục đích của khoản vay...) và các yếu tố tài chính (như hiện trạng tài chính và các dự báo về tài chính trong tương lai của khách hàng nhằm tìm kiếm và tiên lượng những trường hợp xấu có thể xảy ra...). * Bước 3: Quyết định tín dụng 15 Ra quyết định tín dụng như thế nào, chấp thuận hay không chấp thuận là công việc cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến tiến trình hoạt động của khách hàng, mà còn ảnh hưởng đến cả uy tín của ngân hàng. Kết thúc bước này được đánh dấu bởi các văn bản thể hiện kết quả ra quyết định là từ chối cho vay (ngân hàng phải nêu rõ lý do) hay chấp thuận thông qua việc ký hợp đồng tín dụng. * Bước 4: Giải ngân Sau khi hợp đồng tín dụng trung và dài hạn được ký kết, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cấp tiền trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết theo hợp đồng. Cán bộ tín dụng có nhiệm vụ theo dõi tiến trình giải ngân đúng theo những điều kiện và số lượng như trong hợp đồng. Khi phát hiện khách hàng không thực hiện những điều kiện giải ngân, ngân hàng có thể tạm ngừng giải ngân tiếp hoặc chấm dứt hợp đồng do khách hàng vi phạm hợp đồng. * Bước 5: Giám sát và thanh lý tín dụng Ngân hàng phải giám sát tín dụng nhằm theo dõi, đánh giá mức độ chấp hành hợp đồng tín dụng của khách hàng và kịp thời có các ứng xử thích hợp. Các cán bộ tín dụng phải tiến hành giám sát hoạt động của khách hàng, tình hình sử dụng vốn vay, giám sát tài sản đảm bảo... Sau đó người giám sát phải lập báo cáo về kết quả giám sát trình các cấp quản trị để có xử lý kịp thời. Đến kỳ hạn trả nợ ngân hàng sẽ tiến hành thu vốn gốc và lãi. Nếu việc thanh toán không đúng hạn đòi hỏi ngân hàng phải xử lý, đưa ra các phán quyết tín dụng mới. Các bước trên mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Việc các cán bộ tín dụng 16 thực hiện theo quy trình trên sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 1.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại 1.2.1.Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn Là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ trong một môi trường cạnh tranh khá gay gắt nên việc ngân hàng thương mại quan tâm đến chất lượng hoạt động, trong đó có chất lượng hoạt động tín dụng, là tất yếu vì khi chất lượng được tăng lên sẽ đảm bảo thoả mãn mọi yêu cầu ngày càng cao của khách hàng đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường. Có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng. Các nhà kinh tế thì cho rằng chất lượng là "sự phù hợp với mục đích hoặc việc sử dụng", là "năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng". Với cách tiếp cận như vậy, có thể hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Có thể nói, chất lượng tín dụng là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung nào đó. Nó là một chỉ tiêu tổng hợp, được xác định bằng tổng thể các chỉ tiêu cả cụ thể lẫn trừu tượng, nhằm phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng thương mại với môi trường bên ngoài và sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại cũng được nhìn nhận theo quan điểm trên. Nó được thể hiện rất rõ đối với ba bên trong một quan hệ tín dụng, cụ thể là khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế xã hội. 17 Khi có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn, khách hàng tìm đến ngân hàng. Trên cơ sở thẩm định tín dụng, ngân hàng sẽ thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Chất lượng tín dụng sẽ được đánh giá qua mức độ thoả mãn nhu cầu khách hàng như có thái độ đón tiếp, hướng dẫn và phục vụ ân cần hoà nhã; thủ tục đơn giản, thuận tiện; phục vụ nhanh nhất cho khách hàng trong thời gian quy định; tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn hợp lý; đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền theo hợp đồng đã ký... Đối với ngân hàng chất lượng tín dụng trung và dài hạn thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Ở các nước đang phát triển, nhu cầu tín dụng trung và dài hạn là rất lớn. Với số lượng các doanh nghiệp ngày càng nhiều, họ càng cần nhiều vốn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ... Vì vậy chất lượng tín dụng trung và dài hạn phản ánh sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế. Tín dụng trung và dài hạn phải phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá; góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế. 1.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn Như đã nói ở trên, chất lượng tín dụng trung và dài hạn được xác định bằng tổng thể các chỉ tiêu vừa trừu tượng vừa cụ thể. Các chỉ tiêu trừu tượng như chỉ tiêu phản ánh mức độ thoả mãn của khách hàng... không thể lượng hoá được mà chỉ có thể kết luận chất lượng qua một thời gian dài, qua số lượng khách hàng đến với ngân hàng hay qua những lời nhận xét 18 của khách hàng. Và để đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn một cách chính xác chúng ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể sau. 1.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng Doanh số cho vay trung và dài hạn là lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng theo hợp đồng tín dụng trung và dài hạn trong một niên độ kế toán, thường là một năm. Chỉ tiêu này là một số tuyệt đối phản ánh xu hướng hoạt động tín dụng trung và dài hạn là thu hẹp hay mở rộng. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn là số dư cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng, phản ánh lượng vốn ngân hàng đã giải ngân cho các khoản tín dụng trung và dài hạn mà khách hàng đang còn nợ ngân hàng tại một thời điểm cụ thể. Doanh số thu nợ tín dụng trung và dài hạn là tổng các khoản thu nợ, phản ánh lượng vốn cho vay trung và dài hạn được hoàn trả trong một thời kỳ. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn được tính bằng cách lấy dư nợ cho vay cuối kỳ trừ số dư nợ đầu kỳ, chia cho số dư nợ đầu kỳ. Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng cho thấy khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, khả năng cạnh tranh thu hút khách hàng, do vậy phần nào thể hiện chất lượng tín dụng. Tuy nhiên không thể chỉ nhìn vào việc mở rộng tín dụng để đánh giá chất lượng mà phải xem xét đến tính an toàn và lành mạnh của các khoản tín dụng đó. 1.2.2.2. Hiệu suất sử dụng vốn Hiệu suất sử dụng vốn = Error! Chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng trung và dài hạn so với tổng nguồn vốn tương ứng của ngân hàng tại một thời điểm. Tỷ lệ này mà cao sẽ là điều tốt khi ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn dồi dào và ổn định, đồng thời cũng sẽ thể hiện việc quản lý các khoản tín dụng của ngân hàng có thể là tốt. Ngược lại, nếu một ngân hàng không có tiềm lực về vốn trung 19 và dài hạn lại cho vay trung và dài hạn quá nhiều, tức là ngân hàng đã phải sử dụng nguồn ngắn hạn thì nguy cơ rủi ro cho ngân hàng là rất lớn. Ngân hàng có thể mất khả năng thanh toán bất cứ lúc nào nếu khách hàng ồ ạt đến rút tiền. Do vậy khi xem xét chỉ tiêu này cần phải kết hợp xem xét cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng. 1.2.2.3. Chỉ tiêu về tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo Xuất phát từ đặc trưng là có rủi ro lớn nên tín dụng trung và dài hạn cần có tài sản đảm bảo đi kèm. Điều này làm tăng khả năng thu hồi vốn của ngân hàng, do vậy phần nào thể hiện chất lượng của hoạt động tín dụng. Tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo được tính bằng dư nợ trung và dài hạn có tài sản đảm bảo chia cho tổng dư nợ trung và dài hạn. Tuy nhiên chỉ tiêu trên chưa phản ánh được số vốn thực tế thu hồi được từ tài sản đảm bảo nên các ngân hàng cần sử dụng đồng thời chỉ tiêu tỷ lệ thanh toán nợ từ tài sản đảm bảo được đo bằng số tiền thực tế thu được từ khai thác tài sản đảm bảo chia cho tổng dư nợ trung và dài hạn có tài sản đảm bảo. 1.2.2.4. Chỉ tiêu nợ quá hạn Nguyên tắc của tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn hay khả năng trả nợ của khách hàng là yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành chất lượng tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan, do đó tất yếu có nợ quá hạn. Song nếu một ngân hàng có quá nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì có nguy cơ mất vốn dẫn đến mất khả năng thanh toán và làm giảm thu nhập của ngân hàng. Ngân hàng nào có tỷ lệ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp. Tuy nhiên có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng quy định... thì lúc này chỉ tiêu nợ quá hạn không phản ánh được chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó cũng có khoản nợ quá hạn vẫn còn khả 20 năng thanh toán cho ngân hàng, làm giảm khả năng mất vốn của ngân hàng nên cũng cần quan tâm những khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi này khi đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn tín dụng trung và dài hạn và tổng dư nợ tương ứng ở một thời điểm nhất định. Tỷ lệ này càng cao thể hiện ngân hàng có nhiều khoản nợ trung và dài hạn quá hạn hay chất lượng tín dụng trung và dài hạn là thấp. Ngược lại, chất lượng tín dụng là cao khi tỷ lệ này càng thấp. Tuy nhiên khoản vay như thế nào được coi là quá hạn? Theo thông lệ quốc tế, khi một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết thì bị chuyển ngay thành nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trước đây ở Việt Nam, theo Quyết định 284/2000/QĐ-NHNN, chỉ những khoản nợ gốc hoặc nợ lãi không được trả đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn hay gia hạn nợ thì mới chuyển sang nợ quá hạn, còn số dư nợ còn lại vẫn được coi là trong hạn. Quy định này không phản ánh đúng thực chất chất lượng tín dụng vì những khoản cho vay trong hạn, nhất là khoản vay trung và dài hạn có thời gian trong hạn dài, có nguy cơ tiềm ẩn là khó thu hồi nhưng vẫn được coi là khoản vay hiệu quả. Và câu hỏi đặt ra là liệu tỷ lệ nợ xấu (nợ khó đòi, nợ chờ xử lý...) trong toàn hệ thống ngân hàng có vượt quá tỷ lệ 9-10% như đã tổng kết. Nhìn nhận được hạn chế của quy định này, đặc biệt trong điều kiện hội nhập quốc tế như nước ta hiện nay, Ngân hàng Nhà nướcđã đưa ra quy định mới. Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN có quy định "Khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi, thì tổ chức tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn". Và mới đây trong văn bản chỉnh sửa, bổ sung Quyết định 1627_Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN có nhiều thay đổi: " Đối với khoản 21 nợ vay không trả nợ đúng hạn, được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn và gia hạn nợ vay), thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ; việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thoả thuận trên cơ sở quy định của pháp luật", và "toàn bộ số dư nợ vay gốc của khách hàng có khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ được coi là nợ quá hạn". Như vậy, đối với khoản nợ vay không trả đúng hạn dù được cơ cấu lại thời hạn trả nợ hay không đều bị coi là nợ quá hạn. Đây là bước thay đổi rất tích cực, phản ánh đúng hơn chất lượng tín dụng, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điệu kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam tiến xa hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 1.2.2.5.Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi * Chỉ tiêu vòng quay vốn trung và dài hạn là chỉ tiêu đánh giá tần suất sử dụng vốn của ngân hàng trong một thời kỳ. Vòng quay vốn trung và dài hạn = Error! Nếu vòng quay càng lớn thì chứng tỏ nguồn vốn trung và dài hạn luân chuyển nhanh, tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất kinh doanh đồng thời phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là tốt, chất lượng tín dụng trung và dài hạn là cao. Với một lượng vốn nhất định, nhưng vòng quay vốn nhanh chứng tỏ ngân hàng có thể đáp ứng được phần lớn nhu cầu khách hàng. Chỉ số này cao còn thể hiện hiệu quả cho vay của ngân hàng, một đồng vốn cho vay nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy vậy, cần xét đến yếu tố quan trọng là dư nợ cho vay bình quân. Thực chất, khi dư nợ bình quân thấp, làm cho vòng quay lớn không có nghĩa là tốt, bởi thực chất nó thể hiện khả năng cho vay kém của ngân hàng. 22 * Chỉ tiêu về lợi nhuận: Đây là lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động cho vay trung và dài hạn, là nguồn chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Lợi nhuận do tín dụng đem lại chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được mà còn thu được lãi, đảm bảo được an toàn cho đồng vốn cho vay và cũng góp phần đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn. * Lãi treo là thuật ngữ dùng để chỉ số tiền đáng lẽ là lãi thu được của ngân hàng từ hoạt động cho vay trung và dài hạn mà khách hàng chưa trả. Thực tế có thể hiểu lãi treo ở đây là số tiền lãi của nợ quá hạn trung và dài hạn mà ngân hàng chưa thu được từ khách hàng. Nó phản ánh mặt trái của chất lượng tín dụng. Số lượng và tốc độ tăng của lãi treo là một trong những dấu hiệu tiềm ẩn sự giảm sút của chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 1.2.3.Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn * Đối với ngân hàng Nâng cao chất lượng tín dụng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mang tính chất sống còn đối với hoạt động của ngân hàng vì hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, đem lại nhiều thu nhập nhất cho ngân hàng nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Đặc biệt, tín dụng trung và dài hạn với thời hạn dài và khối lượng lớn thì nếu rủi ro xảy ra thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn được tăng cường sẽ làm gia tăng sinh lợi của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng trung và dài hạn tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng bởi chất lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và những khoản lợi nhuận để bổ sung vốn đầu tư, cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. 23 * Đối với nền kinh tế Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, vốn trung và dài hạn là rất quan trọng và cần thiết. Với điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển thì nguồn vốn trung và dài hạn do Ngân hàng thương mại cung cấp giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Sự tham gia của nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn ngân hàng sẽ góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tín dụng trung và dài hạn thường dùng để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, xây dựng các công trình có giá trị lớn... vì thế làm tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền kinh tế. Với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín dụng trung và dài hạn của các Ngân hàng thương mại là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng, và cũng chính vì vậy chất lượng tín dụng trung và dài hạn luôn phải được nâng cao. 1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại Chất lượng tín dụng trung và dài hạn có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế và Ngân hàng thương mại nhưng để quản lý đòi hỏi phải hiểu rõ những tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng nước, từng Ngân hàng thương mại mà các nhân tố sau ảnh hưởng khác nhau đến chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn. 24 1.3.1.Nhân tố thuộc về phía ngân hàng * Chính sách tín dụng của ngân hàng Đối với từng ngân hàng trong từng thời kỳ sẽ có các chính sách tín dụng khác nhau cho phù hợp. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành bản hướng dẫn cho cán bộ tín dụng đưa ra quyết định hợp lý. Đó là một hệ thống các chỉ tiêu mà ngân hàng đặt ra và các biện pháp cụ thể để thực hiện các chỉ tiêu đó. Chính sách tín dụng cho ta biết trong một thời kỳ, ngân hàng chú trọng vào loại hình tín dụng ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Chính sách tín dụng cũng đưa ra các quy định và điều kiện tín dụng, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng, lĩnh vực tài trợ, quy mô các khoản vay, hình thức cấp tín dụng, lãi suất... Việc thực hiện tốt chính sách tín dụng của ngân hàng sẽ tránh được những rủi ro trong hoạt động tín dụng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, từ đó chất lượng tín dụng sẽ được nâng lên. * Quy trình tín dụng trung và dài hạn Một quy trình tín dụng không phù hợp do thiếu các bước hoặc đủ nhưng không tốt sẽ có thể dẫn ngay đến một khoản vay xấu, hoặc một quy trình chặt chẽ quá mức cũng bị coi là không hợp lý, không cần thiết, gây tốn kém mất thời gian và có thể dẫn đến bỏ lỡ cơ hội. Chất lượng tín dụng có được đảm bảo hay không phụ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định của từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng. Trong quy trình tín dụng trung và dài hạn, bước thẩm định rất quan trọng, là cơ sở để lượng định rủi ro trong quá trình cho vay. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn sẽ phụ thuộc vào kết quả của công tác thẩm định về năng lực, uy tín, tình hình tài chính và sản xuất của khách hàng, thẩm định 25 dự án đầu tư cũng như những quy định về điều kiện và thủ tục cho vay của mỗi ngân hàng. Làm tốt công tác thẩm định, ngân hàng sẽ lựa chọn được những khách hàng tốt và dự án đầu tư có hiệu quả, là điều kiện để nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, đó chưa phải là sự bảo đảm chắc chắn để có được chất lượng tín dụng cao, nhất là với tín dụng trung và dài hạn. Bởi lẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian dài luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn không lường trước được. Chính vì vậy, công tác kiểm tra giám sát khoản vay là rất quan trọng. Công tác kiểm tra, giám sát khoản vay giúp cho ngân hàng nắm được nguyên nhân diễn biến của khoản tín dụng trung và dài hạn đã cấp để có những hành động điều chỉnh hay can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ thiết lập được một hệ thống phòng ngừa hữu hiệu, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Thu nợ và xử lý phát sinh là khâu quan trọng có tính quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Do đó ngân hàng phải tích cực trong công tác này. Sự nhạy bén của ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những điều kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác động tích cực đối với chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng trung và dài hạn, đảm bảo vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, đúng kế hoạch. Việc linh hoạt trong quy trình tín dụng sẽ gây được cảm tình cho khách hàng và sẽ góp phần thoả mãn nhu cầu của khách hàng, nâng cao chất lượng tín dụng. * Thông tin tín dụng 26 Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn sẵn có ở ngân hàng, từ khách hàng, từ các tổ chức chuyên cung cấp thông tin tín dụng ở trong và ngoài nước. Số lượng và chất lượng của thông tin thu nhận được có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định thị trường, khách hàng... để đưa ra những quyết định phù hợp. Thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng lớn, nhất là hoạt động tín dụng trung và dài hạn làm cho chất lượng tín dụng càng cao. * Hoạt động huy động vốn Ngân hàng hoạt động dựa trên nguyên tắc đi vay để cho vay nên muốn mở rộng hay nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn thì trước hết phải quan tâm đến nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn. Ngân hàng phải đưa ra chiến lược hợp lý để thu hút nguồn vốn này để tránh trường hợp thiếu vốn trung và dài hạn, ngân hàng phải sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Điều này sẽ khiến hoạt động tín dụng trung và dài hạn gặp rủi ro, làm giảm chất lượng tín dụng. * Chất lượng cán bộ tín dụng Chất lượng tín dụng trung và dài hạn chịu ảnh hưởng rất lớn của chất lượng cán bộ tín dụng. Một dự án có được quyết định cho vay hay không phụ thuộc vào kết quả mà cán bộ tín dụng thẩm định. Nếu cán bộ có trình độ cao thì họ sẽ đưa ra được những quyết định chính xác về dự án, phát hiện những thông tin không trung thực mà khách hàng cung cấp. Sau khi cấp tín dụng, cán bộ tín dụng cũng phải trực tiếp theo dõi quá trình hoạt động của dự án để tư vấn cho khách về việc sử dụng vốn vay một cách hợp lý, đề xuất các biện pháp khắc phục nếu dự án không đem lại hiệu quả như mong muốn... nhằm giảm thiểu rủi ro xảy ra cho ngân hàng. 27 * Công tác tổ chức ngân hàng Công tác tổ chức tác động một phần không nhỏ đến chất lượng tín dụng. Công tác này thực hiện tốt được thể hiện bằng việc tổ chức khoa học trong việc phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự thống nhất đoàn kết nhất chí từ ban lãnh đạo đến cán bộ nhân viên sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng quản lý sát sao các khoản cho vay. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh, nâng cao chất lượng tín dụng. 1.3.2.Nhân tố thuộc về phía khách hàng Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào các hoạt động của bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của khách hàng vay vốn. * Tính khả thi của dự án vay vốn Dự án khả thi là các dự án đáp ứng được nhu cầu của thị trường, phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế của ngành, vùng và của Nhà nướcvà có hiệu quả kinh tế. Dự án vay vốn có khả thi thì cán bộ ngân hàng sẽ dựa vào đó để quyết định cho vay, quy mô tín dụng sẽ được mở rộng, chất lượng tín dụng trung và dài hạn sẽ được tăng lên do dự án có khả năng sinh lãi và khả năng trả nợ cho ngân hàng. * Năng lực tài chính của doanh nghiệp Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có, hệ số nợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lãi... Tỷ trọng vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án còn có tác dụng kích thích doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện dự án nhằm tránh rủi ro cho chính doanh nghiệp và cho cả ngân hàng. Tiềm lực của doanh nghiệp càng cao thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng lớn, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, để các ngân hàng có thể đánh giá được khả 28 năng tài chính của doanh nghiệp thì các báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải đầy đủ, chính xác và tốt nhất phải qua kiểm toán để tránh sự không trung thực của khách hàng. * Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay Việc ngân hàng xem xét tính khả thi của dự án vay vốn và tiềm lực tài chính của doanh nghiệp mới chỉ là điều kiện cần của việc đảm bảo chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay mới là điều kiện đủ để đảm bảo chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt. Đó là việc doanh nghiệp sẽ quản lý và sử dụng vốn như thế nào sau khi nhận được vốn vay. Việc doanh nghiệp có sử dụng vốn đúng mục đích không, có năng lực sản xuất hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay hay không... sẽ quyết định khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động tốt thì chất lượng tín dụng của ngân hàng được nâng cao. 1.3.3.Nhân tố khách quan khác * Môi trường kinh tế và các chính sách vĩ mô của Nhà nước Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng trung và dài hạn ngân hàng phát triển. Nền kinh tế ổn định, tỷ lệ lạm phát vừa phải thì dự án được tài trợ bằng vốn tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng sẽ mang lại hiệu quả và doanh nghiệp sẽ trả được nợ cho ngân hàng. Như thế chất lượng tín dụng trung và dài hạn được nâng cao. Ngược lại trong thời kỳ suy thoái, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, nhu cầu vốn tín dụng trung và dài hạn là rất thấp bởi vì rất ít có cơ hội đầu tư và các doanh nghiệp cũng khó có khả năng đi vay hay khó có khả năng trả được các khoản nợ trước đó. Điều này khiến chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng bị giảm sút. 29 Vai trò can thiệp điều tiết nền kinh tế của Chính phủ cũng rất quan trọng. Các chính sách kinh tế của Chính phủ sẽ tác động đến các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và trả nợ của doanh nghiệp. Sự can thiệp này có thể gây tác động xấu hoặc tốt đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. * Môi trường pháp lý Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả cao, là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp xảy ra. Trong hoạt động tín dụng, việc tuân thủ đúng những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật là rất quan trọng và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Môi trường pháp lý không chỉ tác động đến hoạt động của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng khoản vay mà ngân hàng cấp cho doanh nghiệp. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ một cách nghiêm túc thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai phía, chất lượng tín dụng trung và dài hạn mới được đảm bảo. *Môi trường chính trị - xã hội Đất nước ổn định về chính trị xã hội giúp các doanh nghiệp yên tâm thực hiện đầu tư phát triển, Ngân hàng thương mại mạnh dạn đầu tư vào các dự án trung và dài hạn. Sự mất ổn định chính trị - xã hội làm suy thoái đất nước, việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ngân hàng bị ngưng trệ, có khi phá sản. Vì vậy sự ổn định chính trị - xã hội cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Ngoài những nhân tố trên, chất lượng tín dụng trung và dài hạn còn chịu tác động của các nhân tố bất khả kháng như thiên tai hoả hoạn, dịch bệnh... những nguyên nhân này là khó phòng tránh nhất nhưng chiếm tỷ lệ 30 không lớn và ngân hàng thường được chia sẻ rủi ro bởi các công ty bảo hiểm hoặc được Nhà nướchỗ trợ. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM (NHĐT&PT VN) 2.1. Giới thiệu khái quát về Sở giao dịch NHĐT&PT VN 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Ngày 26 tháng 4 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ký nghị định 177- TTG thành lập Ngân hàng kiến thiết Việt nam tại Bộ Tài chính thay thế cho Vụ cấp phát vốn kiến thiết cơ bản. Lúc này ngân hàng không mang bản chất của một ngân hàng. Đến năm 1990 Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ra quyết định thành lập Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thay thế ngân hàng kiến thiết cũ và trở thành ngân hàng có chức năng huy động vốn trung và dài hạn trong nước và ngoài nước và nhận vốn của Ngân sách Nhà nướccho vay các dự án chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Ngày 28 tháng 3 năm 1991, Tổng giám đốc NHĐT&PT Việt Nam ra quyết định thành lập Sở giao dịch NHĐT&PT Việt Nam. Sự hình thành và phát triển của Sở được đánh dấu với các mốc: * Từ năm 1991 đến 1997, Sở giao dịch NHĐT&PT Việt Nam là một đơn vị phụ thuộc thực hiện cho vay, nhận gửi từ trên xuống. Mọi hoạt động của Sở đều mang tính bao cấp thực hiện theo chỉ thị. Lỗ, lãi không tự hạch toán và không tự chịu trách nhiệm, chủ yếu do ngân hàng mẹ đỡ đầu. * Năm 1998, mặc dù đã có sự tách ra, chuyển về địa chỉ 53 Quang Trung nhưng Sở vẫn còn mang dấu ấn của sự bao cấp, chỉ thị. * Đến năm 2000, các chỉ tiêu do cấp trên đề ra như nợ, lợi nhuận, dư nợ, lương, chi phí... không còn, Sở giao dịch chính thức trở thành một đơn vị hạch toán độc lập có quyền tự chủ thực sự trong mọi hoạt động kinh doanh. 31 * Ngày 21/1/2005 Sở đã chuyển trụ sở về Trung tâm thương mại Vincom. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch NHĐT&PT VN Sau 15 năm hoạt động, Sở giao dịch có những bước phát triển lớn mạnh và hiện nay Sở có 265 cán bộ công nhân viên với cơ cấu tổ chức gồm có Ban giám đốc và 11 phòng nghiệp vụ. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Sở giao dịch NHĐT&PT VN Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 4 phó giám đốc thực hiện việc chỉ đạo chung và ra những quyết định chỉ đạo chiến lược kinh doanh, chính sách kinh doanh, các biện pháp thực hiện cụ thể trong từng thời kỳ phù hợp với chiến lược phát triển chung của Ngân hàng. Ban giám đốc Phòng tín dụng Phòng tài chính kế toán Phòng nguồn vốn Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng dịch vụ khách hàng Phòng tổ chức hành chính Phòng thẩm định quản lý tín dụng Phòng điện toán Phòng thanh toán quốc tế Phòng kiểm tra kế toán nội bộ Phòng giao dịch 32 Các phòng nghiệp vụ gồm các phòng như sơ đồ trên. Tuỳ vào khối lượng công việc và các mục đích khác nhau mà các phòng này còn có thể chia thành các phòng nhỏ. Cụ thể, phòng tín dụng được chia thành 3 phòng tín dụng 1, 2 và 3 nhằm tập trung vào phục vụ từng nhóm khách hàng như phòng 1 và 2 cho vay doanh nghiệp lớn còn phòng 3 thì cho vay doanh nghiệp nhỏ, khách hàng cá nhân. Để phục vụ từng đối tượng khách hàng tốt hơn, Sở giao dịch cũng chia phòng dịch vụ ra phòng dịch vụ khách hàng cá nhân và phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp... Mỗi phòng nghiệp vụ có một chức năng nhiệm vụ riêng nhưng đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, cùng hoạt động phục vụ một mục đích chung là sự tồn tại và phát triển của Sở giao dịch. 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh những năm gần đây. Sở giao dịch NHĐT&PT VN là một trong những đơn vị thành viên lớn nhất của hệ thống NHĐT&PT VN. Trong vài năm gần đây, với nỗ lực hết mình, Sở đã đạt được những kết quả khá xuất sắc. * Nguồn vốn huy động: Năm 2004 là năm quan trọng trong lộ trình gia nhập WTO của Việt Nam, do vậy được nhận định là thời điểm quan trọng với nhiều cơ hội kinh doanh nhưng cũng gặp phải không ít thách thức.Trước tác động xấu về lãi suất và tỷ giá cạnh tranh mạnh mẽ về huy động vốn, Sở giao dịch vẫn giữ vững nguồn vốn, số huy động cuối kỳ đạt 98% kế hoạch. Cơ cấu nguồn vốn huy động của Sở gồm: tiền gửi dân cư, tiền gửi tổ chức kinh tế thông thường và tiền gửi tổ chức tài chính. Bảng 1:Tình hình tăng giảm nguồn vốn theo từng nhóm khách hàng Đơn vị: tỷ đồng Nhóm khách hàng Thực hiện 2003 Thực hiện 2004 Tiền gửi tổ chức tài chính 1.746 19,0% 1.949 21,4% 33 Tiền gửi tổ chức kinh tế thông thường 2.015 21,9% 1.927 21,1% Huy động dân cư 5.447 59,1% 5.248 57,5% Tổng số 9.208 100% 9.124 100% (Nguồn: hội nghị báo cáo kết quả kinh doanh của Sở năm 2004) Như vậy huy động vốn tổ chức tăng 115 tỷ, trong đó tiền gửi của tổ chức tài chính tăng 203 tỷ và tiền gửi tổ chức kinh tế thông thường giảm 88 tỷ. Do cuối năm 2004 chỉ số giá cả của một số mặt hàng thiết yếu tăng đột biến nên tiền gửi của dân cư giảm 199 tỷ, tuy nhiên tiền gửi dân cư vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn (57,5%). Bảng 2: Về cơ cấu nguồn vốn huy động theo đơn vị và cơ cấu kỳ hạn Đơn vị: tỷ đồng Loại tiền gửi Thực hiện 2003 Thực hiện 2004 Tổng số 9.210 100% 9.214 100% 1.Về cơ cấu loại tiền -VND -Ngoại tệ quy đổi 5.818 3.392 63,2% 36,8% 5.862 3.262 64,2% 35,8% 2.Về cơ cấu kỳ hạn -Ngắn hạn -Trung dài hạn 4.124 5.086 44,8% 55,2% 3.849 5.275 42,2% 57,8% (Nguồn: hội nghị báo cáo kết quả kinh doanh của Sở năm 2004) Qua bảng số liệu cho thấy nguồn vốn có cơ cấu tương đối ổn định. Về đơn vị tiền tệ, huy động VND tăng 44 tỷ và huy động ngoại tệ quy đổi giảm 130 tỷ. Về cơ cấu kỳ hạn nguồn ngắn hạn giảm 275 tỷ và nguồn trung dài hạn tăng 189 tỷ. Như vậy về kỳ hạn nguồn vốn đã có xu hướng tốt vì nhu cầu đầu tư và cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn. Về điều hành lãi suất, Sở giao dịch luôn theo sát, bám sát diễn biến lãi suất thị trường, đảm bảo duy trì tính cạnh tranh để giữ vững và tăng 34 trưởng nền vốn theo đúng kế hoạch đồng thời thực hiện theo đúng chỉ định của Hội sở chính theo cam kết với hiệp hội ngân hàng. Các đợt phát hành Giấy tờ có giá, Sở giao dịch luôn chuẩn bị và thực hiện tốt, trong đó riêng đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi dài hạn đợt 1/2004, Sở hoàn thành chỉ tiêu huy động. Do cạnh tranh về huy động vốn càng mạnh đã đẩy lãi suất tăng liên tục, đặc biệt trong quý 3 đã ảnh hưởng, góp phần làm tăng lãi suất bình quân huy động. Tại thời điểm 31/12/2003, lãi suất huy động bình quân là 6,47%/năm đối với tiền VND và 2,29%/năm đối với tiền USD, đến cuối tháng 11/2004, lãi suất huy động bình quân là 6,63%/năm đối với VND và 2,33%/năm đối với USD. Tóm lại, công tác nguồn vốn tại Sở giao dịch tiếp tục giữ vững được số dư huy động cao và có tăng trưởng đảm bảo thực hiện được kế hoạch kinh doanh được giao. Cơ cấu nguồn vốn vẫn giữ mức ổn định, tỷ trọng huy động trung dài hạn tăng đáp ứng hoàn toàn nhu cầu cho vay và đầu tư. Bên cạnh đó Sở có vốn kỳ hạn tại Hội sở chính là 62,1 triệu USD và 4.380 tỷ góp phần tham gia điều hoà vốn toàn hệ thống. * Công tác tín dụng Về quy mô tăng trưởng tín dụng: Năm 2004, Sở đã nghiêm túc thực hiện chỉ đạo về tăng trưởng tín dụng, đảm bảo dư nợ tín dụng trung dài hạn được giao. Cụ thể tới thời điểm 31/12/2004, tổng dư nợ đạt 5.057 tỷ, giảm 129 tỷ so với 31/12/2003. Về cơ cấu tín dụng: đến thời điểm cuối năm 2004, cơ cấu tín dụng của Sở chưa đạt được cơ cấu chung toàn ngành do Sở thực hiện giải ngân các công trình trọng điểm của Nhà nướchoặc các ngành kinh tế theo chỉ định của Hội sở chính. Dư nợ tín dụng của Sở năm 2004 giảm hơn so với năm 2003 (giảm 2,49%) do trong năm này, phòng giao dịch Láng Hạ của NHĐT&PT VN được nâng cấp thành Chi nhánh Đông Đô nên theo chỉ đạo 35 của Tổng giám đốc Sở phải chuyển một số khách hàng ra chi nhánh Đông Đô để hỗ trợ Chi nhánh trong những bước đầu. 36 Bảng 3: Cơ cấu tín dụng theo thời gian Đơn vị : tỷ đồng Loại vay Dư nợ 2003 % dư nợ Dư nợ 2004 % dư nợ 2004/2003 (%) Ngắn hạn Trung dài hạn 1.Trung dài hạn thương mại 2.Kế hoạch Nhà nướcvà chỉ định 917 4.269 3.366 903 17,68 82,32 64,90 17,42 1.119 3.938 3.264 674 22,12 77,88 64,55 13,33 +22,03 -7,75 -3,03 -25,36 Tổng 5.186 100 5.057 100 -2,49 (Nguồn: hội nghị báo cáo kết quả kinh doanh của Sở năm 2004) Năm 2003 dư nợ ngắn hạn là 917,15 tỷ chiếm 17,68%, năm 2004 là 1.119 tỷ chiếm 22,12% tổng dư nợ. Mặc dù dư nợ tín dụng ngắn hạn đã tăng lên nhưng vẫn chưa thể hiện hết tiềm năng của nhóm khách hàng ngoài quốc doanh tại Sở. Trong thời gian tới, Sở sẽ cố gắng tiếp tục đẩy mạnh cho vay ngắn hạn, mở rộng cho vay nhiều ngành nghề, góp phần tích cực trong việc cơ cấu lại thực trạng tín dụng tại Sở theo hướng tăng dần tỷ trọng nợ ngắn hạn trên tổng dư nợ và giảm tỷ trọng cho vay đối với ngành xây lắp. Dư nợ tín dụng trung dài hạn đã giảm đi rõ rệt, đảm bảo yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu lại cho vay. Đến 31/12/2004, dư nợ tín dụng trung dài hạn thương mại là 3.264 tỷ đồng, giảm 3,03% so với năm 2003. Dư nợ tín dụng theo kế hoạch Nhà nướcvà tín dụng chỉ định liên tục giảm trong thời gian cả về số tuyệt đối và tương đối. Tới thời điểm 31/12/2004, dư nợ kế hoạch Nhà nướcvà chỉ định đạt 674 tỷ đồng chiếm 13,33% tổng dư nợ và giảm 25,36% so với năm 2003 do công ty xi măng Hoàng Thạch trả nợ trước hạn, góp phần nâng cao năng lực vốn cho hệ thống. 37 Bảng 4: Cơ cấu dư nợ phân theo thành phần kinh tế Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Dư nợ Tỷ lệ % So với tỷ lệ kế hoạch Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh 4.276 781 84,56% 15,44% Không đạt (17%) Tổng 5.057 100% (Nguồn: hội nghị báo cáo kết quả kinh doanh của Sở năm 2004) Có thể thấy tỷ lệ dư nợ của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 15,44%, thấp hơn so với tỷ lệ được giao là 17%. Trên thực tế, từ thời điểm 30/11/2004, tỷ lệ này là hơn 18%, tuy nhiên trong tháng 12, do giải ngân đối với ngành điện lớn (trên 200 tỷ) nên tỷ lệ này đã giảm đi rõ rệt. Tuy nhiên, so với năm 2003, cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tăng 138 tỷ. Cơ cấu theo tài sản đảm bảo nợ vay: ngay từ đầu năm, nhận thức được tầm quan trọng của tài sản đảm bảo trong dư nợ vay, dưới sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Ban giám đốc Sở giao dịch cùng với nỗ lực cố gắng cao nhất của các bộ phận nghiệp vụ, Sở đã áp dụng mọi biện pháp an toàn để tăng tỷ lệ tài sản đảm bảo nợ vay trong tổng dư nợ. Kết quả đạt được là dư nợ có tài sản đảm bảo tăng từ 21% năm 2003 lên 53% năm 2004 tương đương với số tuyệt đối từ 1.101 tỷ lên 2.742 tỷ đồng. Công tác thu hồi công nợ: trong năm qua, công tác thu hồi nợ, đặc biệt là thu nợ tín dụng chỉ định và kế hoạch Nhà nướcluôn đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch. Trong năm qua đã thu được 138,92 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch. Việc thu nợ tốt đã giúp Sở giao dịch chủ động thêm nguồn vốn để góp phần đẩy mạnh các hoạt động tăng trưởng tín dụng trong các năm tiếp theo. * Công tác dịch vụ 38 Trong năm 2004, công tác dịch vụ ngân hàng đã được nâng lên một bước rõ rệt, công tác thanh toán được tập trung đảm bảo chính xác, kịp thời, an toàn tài sản của Ngân hàng và khách hàng. Trong 4 tháng cuối năm, doanh thu thanh toán trong nước tăng 100 triệu/tháng. So với bình quân 8 tháng đầu năm, nâng cao hơn nữa chất lượng thanh toán hộ các chi nhánh khác, phát huy vai trò đầu mối thanh toán trên địa bàn Hà Nội. Tiếp tục phát huy các thế mạnh của Sở như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh tiền tệ. Thu dịch vụ ròng đạt 25,63 tỷ, chiếm 19,97% chênh lệch thu chi. Tỷ trọng thu dịch vụ ròng/tổng thu gần đạt cơ cấu 20% theo phấn đấu của toàn hệ thống và đã có bước tăng trưởng đáng kể so với thực hiện năm 2003 là 13,16%. Tiếp tục ký hợp đồng trả lương tự động cho các đơn vị lớn như công ty bảo hiểm Manulife, công ty bia Foster, công ty vận tải dầu khí Việt Nam... Sở giao dịch đề xuất và đã được Hội sở chính phê duyệt cho phép thực hiện chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu hàng xuất đối với những khách hàng có uy tín, có hạn mức tín dụng thường xuyên tại Sở trên cơ sở bộ chứng từ có khả năng đòi tiền cao. Không ngừng đổi mới tác phong, phong cách giao dịch, lắng nghe các nhu cầu của khách hàng để phát huy thêm các dịch vụ tiện ích phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Qua định kỳ thống kê đo lường sự hài lòng của khách hàng, về cơ bản, công tác dịch vụ của Sở đã được khách hàng đánh giá cao cả về chất lượng dịch vụ và phí dịch vụ. * Tài chính - Kế toán - Kho quỹ Công tác tài chính - kế toán được tổ chức tốt, thực hiện chỉ tiêu tài chính đúng nguyên tắc, chế độ, đảm bảo chi tiêu tiết kiệm và hiệu quả. 39 Công tác kho quỹ tuân thủ đúng quy định về kiểm đếm và giao nhận tiền mặt. Thực hiện đúng quy trình thu chi tiền mặt, đảm bảo an toàn, chính xác, không để xảy ra tổn thất, mất mát. 40 * Công tác khách hàng Nhận thức được tầm quan trọng của công tác khách hàng đối với việc giữ vững nền vốn, cho vay và phát triển dịch vụ, trong năm 2004, cán bộ viên chức Sở đã rất chú trọng tới việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đặc biệt là bộ phận giao dịch trực tiếp. Mỗi cán bộ đều không ngừng trau dồi nghiệp vụ, cập nhật văn bản chế độ để có thể xử lý nghiệp vụ nhanh chóng chính xác, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng với thái độ ân cần, niềm nở. Mặc dù gặp phải cạnh tranh, mở rộng của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn, tuy nhiên khách hàng đến mở tài khoản tại Sở tăng đáng kể, thêm được 200 khách hàng là tổ chức kinh tế và 2.500 khách hàng cá nhân, trong đó 1.500 khách hàng cá nhân sử dụng thẻ ATM. Sở đang từng bước chuyển dịch cơ cấu khách hàng, tập trung vào đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh và hộ dân doanh. Kết quả kinh doanh Trong những tháng cuối năm 2004, tình hình KT-XH có nhiều diễn biến không thuận lợi cho hoạt động ngân hàng. Đến 31/12/04, về cơ bản Sở giao dịch đã hoàn thành các chỉ tiêu chủ yếu kế hoạch kinh doanh năm 2004, cụ thể: - Tổng tài sản đạt 11.455 tỷ đồng, tăng 0,7% so với thời điểm 31/12/03. Tài sản sinh lời đạt 11.052 tỷ đồng chiếm 96,48% tổng tài sản. - Cơ cấu nguồn vốn có sự thay đổi theo hướng ngày càng hợp lý và tích cực. Nguồn vốn huy động của Sở đảm bảo đủ phục vụ cho nhu cầu thanh toán hàng ngày, nhu cầu giải ngân tín dụng. Trên cơ sở nguồn vốn, Sở giao dịch đã từng bước chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng hợp lý phù hợp cơ cấu vốn đồng thời đẩy mạnh tăng trưởng dư nợ thương mại. Tuy nhiên, tỷ trọng dư nợ cho vay ngoài quốc doanh vẫn còn thấp so với mục tiêu đặt ra. 41 - Thị phần huy động vốn trên địa bàn Hà Nội năm 2004 ước đạt 5,44% giảm 0,82% so với năm 2003 (6,26%), thị phần tín dụng đạt 5,9% giảm 1,17% so với năm 2003 (7,07%) do Sở đã chuyển một phần dư huy động vốn và tín dụng cho Chi nhánh Đông Đô. Năm 2004, Sở giao dịch đã tích cực phát triển các dịch vụ hiện có, triển khai mở rộng nhiều loại dịch vụ mới như chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu hàng xuất, thanh toán liên hàng mở rộng... góp phần tăng dịch vụ. Thu dịch vụ ròng đạt 25,63 tỷ đồng chiếm 20% chênh lệch thu chi. Mặc dù là dịch vụ có chênh lệch thu chi lớn (chủ yếu là thu từ lãi) nhưng tỷ trọng thu dịch vụ ròng/lợi nhuận trước thuế đạt tỷ lệ yêu cầu là 20%. 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch NHĐT&PT VN những năm gần đây Trong những năm qua, với mục tiêu hoàn thành xuất sắc kế hoạch kinh doanh góp phần thực hiện kế hoạch phát triển 5 năm (2001-2005) của cả hệ thống NHĐT&PT VN, hoạt động của Sở giao dịch đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Để đạt được điều đó, Sở luôn xác định tín dụng là hoạt động có ảnh hưởng nhiều nhất đến kết quả kinh doanh. Sở rất chú trọng và coi đây là trọng tâm hoạt động của mình, đặc biệt là thế mạnh tín dụng trung và dài hạn. Sở đã đáp ứng được nhu cầu về vốn trung và dài hạn phục vụ đầu tư, phát triển; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; cho vay ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học vào sản xuất, kết hợp với quỹ hỗ trợ và phát triển, cho vay đồng tài trợ các dự án, cho vay tiêu dùng... 2.2.1. Quy trình tín dụng trung và dài hạn Với mục tiêu "phấn đấu trở thành một ngân hàng hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực cho vay trung và dài hạn", NHĐT&PT Việt Nam đã thiết lập một quy trình tín dụng trung và dài hạn để áp dụng trong toàn bộ hệ thống NHĐT&PT ở Việt Nam. Quy trình này vẫn được dựa trên cơ sở 42 của quy trình tín dụng trung và dài hạn chung nhưng được cụ thể hoá hơn ở từng bước. * Bước 1: Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ. Bộ hồ sơ gồm giấy đề nghị vay vốn, hồ sơ pháp lý về khách hàng, hồ sơ về tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính (báo cáo tài chính tối thiểu một năm gần nhất và quý gần nhất), hồ sơ về dự án vay vốn (quyết định phê duyệt dự án đầu tư của cấp thẩm quyền, thông báo chỉ tiêu kế hoạch đầu tư đối với doanh nghiệp là thành viên của tổng công ty...). * Bước 2: Thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ Dựa vào các thông tin đã có, cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định những nội dung sau: thẩm định về năng lực pháp lý của khách hàng; thẩm định về năng lực và uy tín của khách hàng (ngành nghề kinh doanh; mô hình tổ chức, bố trí lao động; quản trị điều hành của lãnh đạo; quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng...); tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của khách hàng; thẩm định về hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án, thẩm định về kinh tế - kỹ thuật của dự án; thẩm định xác định nguồn vốn, thời hạn, lãi suất cho vay; thẩm định các biện pháp bảo đảm tiền vay. Sau khi thẩm định xong, những nhân viên được giao nhiệm vụ này lập tờ trình cho cấp trên để làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, vấn đề quan trọng là phải phân tích và đánh giá được hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp từ đó có cơ sở xem xét và quyết định có cho vay đối với doanh nghiệp đó hay không và nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Nhận thức được điều đó, Sở giao dịch đã đưa vào sử dụng mô hình SWOT và mô hình PORTER nhằm nhận biết những rủi ro ảnh hưởng đến doanh nghiệp, xem xét doanh nghiệp xin vay có khả năng và có sẵn lòng trả nợ hay không. Việc Sở sử 43 dụng hai mô hình này góp phần đảm bảo hoạt động ngân hàng ổn định và có hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Sở, nhất là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro như hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Mô hình SWOT là mô hình được áp dụng trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau, việc nghiên cứu theo mô hình này chủ yếu dựa vào phân tích, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (Strength, Weakness, Opportunity,Threat). Cụ thể trong hoạt động tín dụng ngân hàng, việc áp dụng mô hình này tập trung vào phân tích dựa trên 5 khía cạnh chủ yếu: Môi trường kinh doanh, ngành kinh doanh, vấn đề quản lý, vấn đề sở hữu và khả năng sinh lời/ dòng tiền của một doanh nghiệp. Việc phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp dựa trên các khía cạnh trên giúp Ngân hàng biết được những ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp đã làm gì để giảm rủi ro và Ngân hàng có thể kiểm soát được những rủi ro đó hay không, doanh nghiệp có giành được thế chủ động trong môi trường cạnh tranh không, sản phẩm có phù hợp với nhu cầu thị trường hay không, xu hướng phát triển của doanh ngiệp trong tương lai, đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp có đủ tin cậy để Ngân hàng quan hệ lâu dài hay không, đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp từ đó có kế hoạch cho vay một cách an toàn hiệu quả. Như vậy việc sử dụng mô hình SWOT là cơ sở để đưa ra phán quyết cuối cùng là doanh nghiệp đó có đáng tin cậy để cho vay vốn hay không. Doanh nghiệp luôn hoạt động trong môi trường cạnh tranh nên cũng chứa đựng nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Do đó, bên cạnh mô hình SWOT, Sở giao dịch cũng sử dụng mô hình PORTER. Đây là mô hình phân tích tình hình hoạt động kinh doanh và các yếu tố cạnh tranh trên thị trường ảnh hưởng đến doanh nghiệp, từ đó giúp cho Ngân hàng có được những khoản vay tốt, đảm bảo hoạt động ngân hàng ổn định và có hiệu quả. 44 Mô hình PORTER chỉ ra 5 nhân tố cạnh tranh của một ngành kinh doanh. Đó là sự đe dọa của các đơn vị mới tham gia, đe dọa của sản phẩm thay thế, cạnh tranh không lành mạnh giữa các đối thủ hiện tại, lợi thế của người mua, lợi thế của người cung cấp. Dựa vào 5 yếu tố cạnh tranh này, Ngân hàng đánh giá vị trí của ngành hay của doanh nghiệp trên thị trường, phân tích xem những rủi ro của doanh nghiệp đó như thế nào, liệu doanh nghiệp có thành công hay không... để từ đó đưa ra quyết định tín dụng đúng đắn. * Bước 3: Quyết định cho vay Theo quy định, thời hạn xem xét quyết định cho vay đối với dự án nhóm A là không quá 25 ngày, nhóm B là 18 ngày và 12 ngày đối với dự án còn lại kể từ khi chi nhánh nhận đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết từ phía khách hàng. Kết thúc bước này được đánh dấu bởi các văn bản thể hiện kết quả ra quyết định là từ chối cho vay (Ngân hàng nêu rõ lý do không cho vay) hay chấp thuận thông qua việc ký hợp đồng tín dụng. * Bước 4: Giải ngân, kiểm tra, giám sát Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, Ngân hàng chịu trách nhiệm thực hiện những điều khoản đã thoả thuận: thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản, giải ngân và tiến hành kiểm tra giám sát quá trình vay vốn, sử dụng và trả nợ của khách hàng. * Bước 5: Thu nợ, thu lãi và xử lý phát sinh Đến kỳ hạn trả nợ Ngân hàng sẽ tiến hành thu vốn gốc và lãi. Nếu việc thanh toán không đúng hạn đòi hỏi Ngân hàng phải xử lý, đưa ra các phán quyết tín dụng mới. * Bước 6: Kết thúc hợp đồng tín dụng Đây là một quy trình thống nhất toàn hệ thống NHĐT&PT VN nên được các cán bộ tín dụng của Sở giao dịch tuân thủ rất chặt chẽ, nghiêm 45 ngặt, đảm bảo cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn diễn ra nhanh chóng, an toàn, hiệu quả. 2.2.2. Quy mô và tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn * Doanh số cho vay trung và dài hạn Bảng 5: Tình hình doanh số cho vay trung và dài hạn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So 03/02 So 04/03 Tổng doanh số cho vay 3.923,317 3.509,405 3.395,751 -10,56% -3,24% Doanh số cho vay TDH -TDH TM -TDH theo KHNN&CĐ 3.092,978 2.080,802 1.012,176 2.684,235 1.955,707 728,528 2.325,987 1.681,642 644,345 -13,22% -6,02% -28,03% -13,35% -14,02% -11,56% Tỷ trọng 78,83% 76,48% 68,49% - - (nguồn: Phòng tín dụng Sở giao dịch NHĐT&PT VN) Nhìn bảng số liệu trên cho ta thấy doanh số cho vay trung và dài hạn tại Sở liên tục giảm qua các năm, cả về số tuyệt đối và tương đối. Năm 2002 doanh số cho vay trung và dài hạn đạt 3.092,978 tỷ đồng, đến năm 2003 con số này giảm xuống còn 2.684,235 tỷ (giảm 13,22%) so với năm 2002, do đó tỷ trọng doanh số cho vay trung và dài hạn trên tổng doanh số cho vay cũng giảm từ 78,83% xuống còn 76,48%. Đến năm 2004, doanh số cho vay trung và dài hạn vẫn tiếp tục giảm 13,35%, chỉ còn 2.325,987 tỷ, chiếm 68,49% so với tổng doanh số cho vay. Cho vay trung và dài hạn thương mại giảm 6,02% năm 2003 và 14,02% năm 2004, tương ứng giảm 274,065 tỷ (năm 2003 là 1.955,707 tỷ; năm 2004 là 1.681,642 tỷ). Đặc biệt cho vay trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nướcvà chỉ định giảm 28,03% năm 2003 (giảm 283,648 tỷ) và 11,56% năm 2004. Thực tế trong hai năm 2003 và 2004 không phát sinh dự án mới trong cho vay theo kế hoạch Nhà 46 nướcvà chỉ định, mà Sở giao dịch chỉ tiến hành giải ngân theo đúng thủ tục quy định trên cơ sở các hợp đồng đã ký. Doanh số cho vay trung và dài hạn giảm do Sở giao dịch thực hiện giảm cho vay trung và dài hạn, đảm bảo yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu lại cho vay cho tương ứng với cơ cấu nguồn vốn và do chuyển một số khách hàng ra chi nhánh Đông Đô. Việc ngừng cho vay theo kế hoạch Nhà nướcvà chỉ định cũng hoàn toàn thực hiện đúng lộ trình mà NHĐT&PT VN đã cam kết với ngân hàng thế giới. * Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Tình hình dư nợ tín dụng trung và dài hạn của Sở giao dịch NHĐT&PT VN trong thời gian qua thể hiện ở bảng số liệu sau: Bảng 6: Tình hình dư nợ tín dụng trung và dài hạn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So 03/02 So 04/03 Tổng dư nợ tín dụng 4.478 5.186 5.057 115,81% 97,51% Dư nợ trung dài hạn -Dư nợ TDH TM -Dư nợ TDH KHNN&CĐ 3.556 2.432 1.124 4.269 3.366 903 3.938 3.264 674 120,05% 138,40% 80,33% 92,24% 96,96% 74,64% Tỷ trọng 79,41% 82,31% 77,87% - - (nguồn: Phòng tín dụng Sở giao dịch NHĐT&PT VN) Mặc dù doanh số cho vay trung và dài hạn có xu hướng giảm dần nhưng dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng vào năm 2003 và giảm xuống trong năm 2004. Điều đó là do trong năm 2003, nhiều ngành kinh tế gặp khó khăn trong quá trình hội nhập, ngân sách Nhà nướcdo các bộ ngành bố trí không kịp thời tiến độ đầu tư của doanh nghiệp dẫn đến tình trạng nợ 47 đọng, chiếm dụng vốn lẫn nhau và chậm trả nợ Ngân hàng, đặc biệt là việc thất thoát trong xây dựng cơ bản chưa được cải thiện đã ảnh hưởng tới nền khách hàng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực xây lắp nên doanh số thu nợ tín dụng thương mại năm 2003 thấp ảnh hưởng đến dư nợ tín dụng trung và dài hạn. Cụ thể là năm 2002 dư nợ tín dụng trung và dài hạn đạt 3.556 tỷ, đến năm 2003 tăng đột biến lên 20,05% (4.269 tỷ đồng) và đến năm 2004 giảm đi chỉ còn 3.938 tỷ (bằng 92,24% so với năm 2003). Năm 2003 dư nợ tín dụng trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nướcgiảm nhiều (giảm 19,67% so với năm 2002) chủ yếu là do ngân hàng không thực hiện cho vay đầu tư xây dựng theo kế hoạch Nhà nướcmà chuyển sang cho Quỹ hỗ trợ và phát triển thực hiện. Mặc dù vậy, dư nợ tín dụng trung dài hạn vẫn tăng vọt do dư nợ tín dụng trung và dài hạn thương mại tăng cao từ 2.432 tỷ lên 3.366 tỷ (tăng 38,4%). Nhưng đến năm 2004 cả dư nợ tín dụng thương mại và kế hoạch Nhà nướcđều giảm, làm cho dư nợ tín dụng trung và dài hạn cũng giảm (bằng 92,24% năm 2003). Tương ứng với sự tăng giảm đó, tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn so với tổng dư nợ trong năm 2002 là 79,41% và năm 2003 là 82,31%. Tỷ lệ như vậy là quá cao, cách khá xa so với tỷ lệ toàn ngành và không tương ứng với nguồn vốn huy động. Vì vậy Sở đã đưa ra kế hoạch trong năm 2004: tỷ lệ dư nợ tín dụng trung và dài hạn/tổng dư nợ tối đa là 79% và Sở đã thực hiện được kế hoạch đó. Với việc chỉ tiếp cận, thẩm định cho vay các dự án hiệu quả, có tài sản đảm bảo chắc chắn, chủ đầu tư là các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, làm ăn có hiệu quả, từng bước giảm dần tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn năm 2004 xuống còn 77,87%. Những năm gần đây Sở giao dịch chủ yếu cho vay các doanh nghiệp Nhà nước. Trong khi đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là những doanh nghiệp có nhiều nhu cầu tín dụng và tiềm năng lớn lại ít tiếp cận được với Sở giao dịch. 48 Bảng 7: Dư nợ tín dụng trung và dài hạn theo loại hình doanh nghiệp Đơn vị:tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 Thực hiện Tỷ lệ Thực hiện Tỷ lệ Dư nợ TDH 4.269 100% 3.938 100% - DNNN 3.505 82,1% 3.133 79,56% - DN ngoài quốc doanh 764 17,9% 805 20,44% (Nguồn: Phòng tín dụng Sở giao dịch NHĐT&PT VN) Từ bảng số liệu trên ta thấy năm 2003 dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp Nhà nướcrất lớn chiếm đến 82,1% tổng dư nợ trung và dài hạn, trong khi đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm 17,9%. Đến năm 2004, Sở bắt đầu chú trọng đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với loại hình doanh nghiệp này tăng lên 41 tỷ so với năm 2003, chiếm 20,44% tổng dư nợ. Tuy nhiên Sở vẫn chưa mở rộng cho vay với doanh nghiệp ngoài quốc doanh được vì các doanh nghiệp này thường có vốn chủ sở hữu nhỏ, tài sản đảm bảo không đủ điều kiện thế chấp, cầm cố dẫn đến không đủ điều kiện tín dụng theo quy định. 2.2.3. Hiệu suất sử dụng vốn * Nguồn vốn trung và dài hạn của Sở giao dịch Để đảm bảo an toàn, ngân hàng thông thường cho vay ở kỳ hạn nào phải dùng nguồn vốn có kỳ hạn tương ứng. Trong những năm qua, nguồn vốn huy động trung và dài hạn đã không ngừng tăng lên qua các năm, đáp ứng được nhu cầu đầu tư và cho vay trung và dài hạn của Sở. 49 Bảng 8: Nguồn vốn trung và dài hạn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So 03/02 So 04/03 Tổng vốn huy động 9.142 9.210 9.214 +0,74% +1,04% Nguồn vốn trung và dài hạn 4.973 5.086 5.275 +2,27% +3,71% Tỷ trọng 54,39% 55,22% 57,24% - - (Nguồn: hội nghị báo cáo kết quả kinh doanh của Sở năm 2004) Từ bảng số liệu trên có thể thấy, nguồn vốn huy động trung và dài hạn ngày càng tăng trưởng vững chắc qua các năm và chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn. Năm 2003 vốn huy động trung và dài hạn là 5.086 tỷ đồng, chiếm 55,22% trong tổng nguồn và tăng 2,27% so với năm 2002. Đến năm 2004 con số này đã tăng thêm 189 tỷ, chiếm 57,24% tổng nguồn và tăng 3,71%. Để đạt được kết quả này, một phần là do các phòng tín dụng đã phối kết hợp với các phòng có liên quan, vận động, đàm phán với các doanh nghiệp nhằm tăng khoản tiền gửi kỳ hạn của khách hàng tại Sở giao dịch, như đến cuối năm 2004 dư tiền gửi của Tổng công ty Điện lực tại Sở là 464 tỷ đồng, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là 110 tỷ, Công ty tái bảo hiểm quốc gia là 53 tỷ và 6 triệu USD. * Hiệu suất sử dụng vốn Bảng 9: Hiệu suất sử dụng vốn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Dư nợ tín dụng trung dài hạn 3.556 4.269 3.938 Nguồn vốn huy động trung dài hạn 4.876 5.086 5.275 Hiệu suất sử dụng vốn trung dài hạn 72,92% 83,93% 74,65% 50 (Nguồn: Phòng tín dụng Sở giao dịch NHĐT&PT VN) Hiệu suất sử dụng vốn trung và dài hạn của Sở giao dịch NH ĐT&PT VN chiếm rất cao nhưng hiệu suất có sự biến động tăng giảm qua các năm. Cụ thể năm 2002, hiệu suất sử dụng vốn trung và dài hạn là 72,92%. Sang năm 2003, tỷ lệ này tăng lên và đạt 83,93% (hơn năm 2002 là11,01%) sau đó lại giảm đi, còn 74,65% vào năm 2004. Nguyên nhân của biến động này là do dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2003 tăng cao (tăng 713 tỷ) và tăng nhanh hơn tốc độ tăng của nguồn vốn trung và dài hạn (dư nợ trung và dài hạn tăng 20,05%, còn nguồn vốn trung và dài hạn tăng 2,27%). Đến năm 2004, với việc hạn chế cho vay trung và dài hạn làm dư nợ tín dụng giảm, nên hiệu suất sử dụng vốn trung và dài hạn cũng giảm theo. Tuy nhiên nguồn vốn trung và dài hạn còn phải trích dự trữ bắt buộc, Sở đầu tư tiền gửi có kỳ hạn dài tại NHĐT&PT Việt Nam nên tỷ lệ này vẫn phản ánh được nguồn vốn trung và dài hạn của Sở là dồi dào và ổn định, đáp ứng được nhu cầu cho vay đầu tư phát triển, đồng thời cũng sẽ thể hiện việc quản lý các khoản tín dụng của Ngân hàng là tốt. 2.2.4. Tình hình nợ quá hạn trung và dài hạn Tình hình nợ quá hạn trung và dài hạn của Sở giao dịch NHĐT&PT VN được xem xét qua bảng số liệu sau: Bảng 10: Tình hình nợ quá hạn trung và dài hạn Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu NQH 2003 NQH 2004 Tuyệtđối Tỷ lệ % Tuyệtđối Tỷ lệ % Tổng NQH không bao gồm ODA 77.571 100 46.718 100 n -NQH ngắn hạn -NQH trung dài hạn +TDH TM +TDH KHNN&CĐ 37.632 39.939 21.919 18.020 48,51 51,49 28,26 23,23 22.430 24.288 18.759 5.529 48,01 51,99 40,15 11,84 Tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng số dư nợ - 1,49 - 0,92 51 Tỷ lệ NQH TDH/ dư nợ TDH - 0.77 - 0,62 (Nguồn: Phòng tín dụng Sở giao dịch NHĐT&PT VN) Sở giao dịch đã thực hiện nghiêm túc quy định về chuyển nợ quá hạn theo Quyết định 1627 của Ngân hàng nhà nước, tất cả các khoản vay chậm trả nợ gốc hoặc lãi mà không được Sở điều chình kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ thì đều bị chuyển thành nợ quá hạn. Nợ quá hạn của Sở có sự tăng giảm qua các năm. Năm 2003, nợ quá hạn là 77.571 triệu, tăng cao gấp 3,7 lần năm 2002, trong đó nợ quá hạn thương mại (cả ngắn hạn và trung dài hạn) tăng đột biến, từ 2.000 triệu lên 59.551 triệu(gấp 30 lần). Nguyên nhân là do nền kinh tế có nhiều biến động làm hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn thanh toán các công trình chậm, dẫn đến các khoản vay không được trả nợ đúng hạn. Nợ quá hạn trung và dài hạn thương mại là 21.919 triệu, chiếm gần 30% tổng nợ quá hạn. Nợ quá hạn trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nướcvà chỉ định có giảm nhưng không đáng kể. Đến năm 2004, nợ quá hạn có giảm đi, còn 46.718 triệu, bằng 60,22% năm 2003. Trong năm này, nợ quá hạn trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nướcgiảm đi rõ rệt, từ 18.020 triệu xuống còn 5.529 triệu đồng, và nợ quá hạn trung và dài hạn thương mại giảm 3.160 triệu (năm 2003: 21.919 triệu; năm 2004: 18.759 triệu). Nợ quá hạn trung và dài hạn thương mại chủ yếu do phát sinh mới của Công ty cơ khí và xây lắp số 7, tổng số chuyển nợ quá hạn là 13.500 triệu, trong đó nợ chưa đến hạn phải chuyển nợ quá hạn theo QĐ 1627 là 12.500 triệu đồng. Do nợ quá hạn trung và dài hạn có sự giảm về số tuyệt đối nên nợ quá hạn trung và dài hạn thương mại tăng nhiều từ 28,26% so với tổng nợ quá hạn lên 40,15%. Tuy có sự tăng giảm về nợ quá hạn qua các năm nhưng tỷ lệ nợ quá hạn của Sở vẫn đạt chỉ tiêu đề ra là <2%(năm 2003: 1,49%; năm 2004: 0,92%). Nợ quá hạn trung 52 và dài hạn/dư nợ trung và dài hạn cũng ở mức thấp và có giảm (năm 2003 là 0,77%; năm 2004 là 0,62%). Để đạt được tỷ lệ nợ quá hạn thấp như vậy là do các phòng tín dụng đã tích cực đôn đốc thu nợ đối với các doanh nghiệp có nợ tồn đọng, bao gồm cả làm việc trực tiếp với các chủ đầu tư và thực hiện các biện pháp tận thu đối với các khoản nợ của các doanh nghiệp này. Các phòng tín dụng còn có nhiều cố gắng trong công tác thu hồi nợ khó đòi. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nướcnhững khoản nợ quá hạn nào quá 360 ngày thì bị coi là nợ khó đòi. Tại Sở không có khoản nợ trung và dài hạn thương mại và khoản nợ theo kế hoạch Nhà nướclà khó đòi, mà nợ khó đòi tập trung vào các khoản nợ chỉ định như khoản vay tín dụng chỉ định của Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng. Mặc dù Sở đã dừng cho vay theo chỉ định nhưng những khoản vay cũ vẫn còn và phát sinh nợ quá hạn. Nợ quá hạn chỉ định đã từng là một trong những đặc trưng trong hoạt động tín dụng của Sở nhưng những năm gần đây con số này đã giảm đáng kể. Ngay từ đầu năm 2004 Sở giao dịch đã tích cực hoàn thiện hồ sơ những khoản nợ xấu, nợ tồn đọng và đề nghị NHĐT&PT VN, Liên Bộ xử lý các khoản nợ vay nên nợ khó đòi chỉ định đã giảm từ 16.221 triệu năm 2003 xuống 3.749 triệu năm 2004. Bên cạnh đó, Sở giao dịch đã áp dụng chiến lược rút lui, tận thu đối với một số doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và tích cực hành động bảo vệ lợi ích cũng như uy tín của mình trên thị trường. 2.2.5. Nợ có tài sản đảm bảo Nếu như trước đây, việc cho vay chủ yếu dựa vào tín chấp thì đến nay, đứng trước những thay đổi của các quy định về tài sản đảm bảo, theo Nghị định 178 và Nghị định 85 của Chính phủ cũng như những chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo Sở giao dịch về tuân thủ tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo theo QĐ 5645, việc tăng tỷ lệ nợ vay có tài sản đảm bảo là một trong những yêu cầu tất yếu đối với Sở trong quá trình hội nhập và an toàn tín 53 dụng. Đối tượng khách hàng chủ yếu của NHĐT&PT VN nói chung và Sở giao dịch nói riêng là các doanh nghiệp Nhà nước. Những khách hàng này có chung một đặc điểm là vốn tự có thấp (chỉ từ 10-15% tổng nguồn vốn) nên càng đòi hỏi Sở phải chú trọng đến tài sản đảm bảo trong cho vay, nhất là cho vay trung và dài hạn (vì trong cho vay trung và dài hạn có đến hơn 80% là doanh nghiệp Nhà nước). Năm 2000 dư nợ có tài sản đảm bảo là 234 tỷ đồng, chỉ chiếm vẻn vẹn 5% tổng dư nợ, nhưng đến năm 2003 dư nợ vay có tài sản đảm bảo đạt 1.101 tỷ đồng, chiếm 21% tổng dư nợ của Sở. Và đến năm 2004 con số này đã lên đến 2.742 tỷ, tăng gấp 2,5 lần năm 2003 và chiếm 54,22% tổng dư nợ. Cùng với việc gia tăng tài sản đảm bảo trong hoạt động tín dụng nói chung thì nợ vay trung và dài hạn có tài sản đảm bảo cũng tăng lên. Sở đã đạt được thành công như vậy xuất phát từ việc nhận thức được "yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản bảo đảm là một trong những điều kiện bắt buộc". Sở đã mở rộng các loại hình đảm bảo cũng như áp dụng tổng hợp các biện pháp, trong đó có biện pháp mới như: tiến hành việc cầm cố khối lượng xây lắp hình thành, cầm cố quyền đòi nợ phát sinh từ các khoản phải thu, tiến hành thí điểm việc cầm cố vốn góp của các doanh nghiệp Nhà nướctrong các liên doanh, rà soát tính pháp lý toàn bộ hồ sơ bảo đảm, ký loại các hợp đồng cũ nếu chưa hoàn thiện về mặt pháp lý và thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo đối với các tài sản đủ đảm bảo. 2.2.6. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi * Vòng quay vốn trung và dài hạn Vòng quay vốn trung và dài hạn được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây: Bảng 11: Vòng quay vốn trung và dài hạn Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 54 Doanh số thu nợ TDH (1) 2.691,978 1.971,235 2.656,987 Dư nợ TDH bình quân (2) 3.323,429 4.106,739 3.888,940 Vòng quay vốn TDH (1)/(2) (vòng) 0,81 0,48 0,68 (Nguồn: Phòng tín dụng Sở giao dịch NHĐT&PT VN) Vòng quay vốn thể hiện vòng quay của vốn huy động được hay nói cách khác là số lần một đồng vốn huy động được đem cho vay. Như vậy chỉ với một đồng vốn nhưng nếu cho vay càng quay vòng nhiều lần càng tốt. Tại Sở giao dịch NHĐT&PT VN, vòng quay vốn trung và dài hạn còn thấp, đều nhỏ hơn 1. Năm 2002, chỉ tiêu này đạt 0,8 vòng nhưng năm 2003 giảm đáng kể, chỉ còn 0,48 vòng do doanh số thu nợ trong năm giảm nhiều. Đến năm 2004, số vòng quay đã tăng lên là 0,68 vòng. Các chỉ số này thấp hơn 1 cho thấy tuy dư nợ tín dụng trung và dài hạn tại Sở cao so với tổng dư nợ nhưng nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn chưa được quay vòng nhiều. Điều này có thể giải thích là do đa phần các dự án tín dụng trung và dài hạn mới đi vào hoạt động, chưa đến hạn trả nợ nên doanh số thu nợ trung và dài hạn tại Sở còn thấp. * Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận mà Sở thu được từ hoạt động cho vay trung và dài hạn chiếm chủ yếu trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng. Trong năm 2004 có sự giảm sút về doanh số cho vay nói chung và cho vay trung và dài hạn nói riêng nhưng lợi nhuận mà Sở thu được từ hoạt động tín dụng vẫn đạt cao là 112 tỷ, chiếm 87,25% lợi nhuận chung của Sở (lợi nhuận chung là 128,36 tỷ). Trong đó lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn là 83 tỷ, chiếm 74% so với lợi nhuận từ hoạt động tín dụng và 64,66% so với tổng lợi nhuận. Với tỷ trọng lợi nhuận của hoạt động tín dụng trung và dài hạn chiếm cao như vậy trong tổng lợi nhuận cũng như trong lợi nhuận của hoạt 55 động tín dụng có thể thấy hoạt động tín dụng trung và dài hạn là hoạt động chính của Sở giao dịch NHĐT&PT Việt Nam, nó có một vai trò, vị trí quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận đối với toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Lợi nhuận của hoạt động này cao chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được mà còn thu được lãi, đồng vốn cho vay được đảm bảo và cũng góp phần khẳng định chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở là tốt. 2.3. Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch NHĐT&PT VN 2.3.1. Những kết quả đạt được Hệ thống NHĐT&PT VN hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, hoạt động của Sở giao dịch NHĐT&PT VN cũng không ngoài lĩnh vực ấy. Nhìn nhận được vai trò của hoạt động chủ yếu - tín dụng trung và dài hạn đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội nên Sở đã không ngừng nâng cao chất lượng của hoạt động này. Qua những phân tích ở trên đã cho chúng ta thấy được chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở trong mấy năm qua là rất tốt và đạt được nhiều kết quả nổi bật. - Hệ thống ngân hàng đầu tư rất quan tâm đến nhu cầu của khách hàng nên đã đưa nguyên tắc "tìm hiểu nhu cầu để đảm bảo việc cho vay trung và dài hạn, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng" lên hàng đầu. Trên cơ sở định hướng đó, Sở giao dịch luôn chú trọng đến công tác khách hàng, cán bộ thường xuyên nắm bắt nhu cầu, định hướng phát triển của doanh nghiệp, mở rộng dịch vụ tiện ích đến những khách hàng tốt, chủ động tiếp cận khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn một cách thuận lợi nhanh chóng nhất, phát huy được thế mạnh về phong cách, thái độ đón tiếp nhiệt tình, lịch sự, phục vụ khách hàng một cách ân cần. Hằng năm tiến hành lấy ý kiến khách hàng về chất lượng sản phẩm dịch vụ qua đó có những điều chỉnh nhất định theo yêu cầu của khách hàng. 56 - Sở luôn coi trọng công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng, để tìm ra những rủi ro tiềm ẩn, loại trừ những dự án kém hiệu quả, đặc biệt trong tín dụng trung và dài hạn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng. Cán bộ tín dụng thực sự tập trung trong nghiên cứu, báo cáo, phân tích đánh giá khách hàng, dự án, đã xây dựng hạn mức tín dụng cho doanh nghiệp một cách hợp lý, phù hợp với từng khách hàng. Thực hiện tốt công tác kiểm tra trước và thường xuyên tiến hành kiểm tra tình hình hoạt động doanh nghiệp cũng như việc sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Thực hiện đánh giá toàn diện tình hình các doanh nghiệp vay vốn, triển khai các phương thức quản lý tín dụng mới theo ngành nghề, loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là đơn vị xây lắp. Vì vậy chất lượng tín dụng trung và dài hạn trong những năm qua không ngừng được nâng cao. - Trong những năm gần đây doanh số cho vay trung và dài hạn có xu hướng giảm nhưng điều này đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lại cho vay để đạt được sự cân đối giữa nguồn vốn và cho vay trung và dài hạn. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2004 chiếm 77,87% tổng dư nợ, đạt được kế hoạch đề ra là tối đa 79%. Việc mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng đã được chú trọng, thể hiện qua việc dư nợ tín dụng trung và dài hạn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng đáng kể (năm 2004 tăng 11% so với năm 2003). Dư nợ tín dụng trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nướcvà chỉ định giảm đi rõ rệt, điều này chứng tỏ Sở có sự độc lập tự chủ hơn trong cho vay trung và dài hạn. - Năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn của Sở giao dịch đã giảm xuống, trong đó nợ quá hạn trung và dài hạn giảm từ 0,77% năm 2003 xuống 0,62%. Tỷ lệ quá hạn này là thấp và vẫn trong giới hạn cho phép, hơn nữa nợ khó đòi chỉ tập trung ở khoản cho vay chỉ định còn nợ quá hạn của khoản cho vay thương mại và kế hoạch Nhà nướclà nợ quá hạn thông thường. Quỹ dự 57 phòng rủi ro của Sở được trích lập hàng năm đủ để Sở đứng vững trước những rủi ro xảy ra do nợ quá hạn hoặc khó đòi. Sở giao dịch NHĐT&PT VN cũng đã chú trọng đến an toàn tín dụng, thể hiện qua việc dư nợ có tài sản đảm bảo liên tục tăng qua các năm. - Việc huy động vốn trung và dài hạn cũng được coi là một chính sách quan trọng trong chiến lược phát triển của Ngân hàng. Quy mô vốn trung và dài hạn đạt tỷ lệ tăng trưởng khá và chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn huy động tại Sở. Với nguồn vốn trung và dài hạn này đã giúp cho Sở cho vay trung và dài hạn với độ an toàn cao và đáp ứng thoả mãn nhu cầu khách hàng, phục vụ tốt hơn nhu cầu tín dụng trung và dài hạn ngày càng cao trong nền kinh tế, đáp ứng kịp thời nhu cầu đổi mới phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay. - Trong những năm qua, Sở không chỉ đáp ứng được nhu cầu tín dụng trung và dài hạn ngày càng đa dạng mà còn cho vay có hiệu quả. Có nhiều dự án được cho vay đã và đang hoạt động tốt, hiệu quả, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tham gia phần lớn vào công cuộc thay đổi hình ảnh thủ đô và đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta hội nhập quốc tế và khu vực. Bên cạnh đó, cho vay trung và dài hạn đối với các dự án, phương án hiệu quả còn góp phần tạo công ăn việc làm lâu dài cho người lao động, từ đó xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp, các tệ nạn xã hội... giúp nâng cao đời sống của nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được trên thì chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Sở giao dịch vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục. 2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn Đối tượng khách hàng vay vốn trung và dài hạn chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước. Mặc dù Sở giao dịch đã tiến hành mở rộng cho vay đối với thành phần ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy nhiên 58 dư nợ ngoài quốc doanh còn hạn chế so với tiềm năng thực tế của thành phần này trên thị trường hiện nay. Điều này gây khó khăn cho Sở, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Nhà nướcđang đẩy mạnh việc tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực, sau này Việt nam gia nhập WTO, gần hơn là gia nhập AFTA, các doanh nghiệp Nhà nướcsẽ gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh với hàng hoá của nước ngoài, điều này cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng gặp khó khăn. Tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn chiếm cao, tỷ lệ này không tương ứng với nguồn vốn huy động trung và dài hạn. Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo tuy đã có nhiều cải thiện nhưng còn chiếm tỷ trọng thấp, ảnh hưởng an toàn trong hoạt động tín dụng cũng như lộ trình cơ cấu chung của toàn ngành. Nợ quá hạn trung và dài hạn tuy có giảm nhưng vẫn chưa giải quyết được dứt điểm, chưa hạn chế được nợ phát sinh. Những khoản nợ quá hạn từ giai đoạn trước để lại còn rất lớn. Nợ quá hạn phần lớn thuộc về doanh nghiệp Nhà nước, việc xử lý nợ quá hạn còn gặp nhiều khó khăn... 2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế Trên đây là những hạn chế của hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch, có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó, có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. 2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng - Hoạt động tín dụng trung và dài hạn chưa rộng, còn tập trung vào một số ngành, lĩnh vực, một số khách hàng lớn như khối xây lắp (26% tổng dư nợ), khối điện lực(23%), khối xăng dầu(23%) do đó chỉ cần có những biến động trên thị trường trong nước hay quốc tế, dù nhỏ hay lớn cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng dẫn đến việc thu nợ của Sở gặp khó khăn (như tình trạng thất thoát trong xây dựng cơ bản ảnh 59 hưởng đến hoạt động của khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp xây lắp). Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp xúc với vốn tín dụng của Sở gặp khó khăn do Sở yêu cầu các điều kiện chặt chẽ, trong khi các tổ chức tín dụng khác có sự thông thoáng hơn. - Mặc dù thủ tục cho vay trung và dài hạn đã được giản lược đi nhiều nhưng đối với các khoản vay trung và dài hạn có đặc điểm là thời gian dài và quy mô vốn vay lớn nên càng đòi hỏi thủ tục vay phải chặt chẽ hơn, cẩn thận hơn nên đôi khi thủ tục còn rườm rà, khách hàng phải xuất trình nhiều giấy tờ. Cán bộ tín dụng của Sở giao dịch đa số là cán bộ trẻ, chiếm tỷ trọng cao (45%) nên chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế, trong khi đó cơ chế chính sách luôn luôn thay đổi cùng với sự biến động của nền kinh tế thị trường càng làm tăng thêm khó khăn cho các cán bộ tín dụng, nhất là trong công tác thẩm định tín dụng. - Cán bộ tín dụng luôn thiếu thông tin tín dụng vì thông tin chủ yếu mà Ngân hàng có được thường từ phía khách hàng nhưng thông tin thật sự từ nguồn này thường bị che dấu dưới nhiều hình thức khác nhau nên người cán bộ phải mất nhiều thời gian để kiểm tra cũng như tìm kiếm thêm các thông tin khác đáng tin cậy hơn. - Sở giao dịch chưa quan tâm đúng mực đến hoạt động Marketing ngân hàng, nên mặc dù đã chủ động tìm đến khách hàng nhưng hiệu quả chưa cao như mong đợi. - Tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ chưa cao do một số tài sản thuộc nhóm tài sản các công trình trên đất chưa được đăng ký giao dịch đảm bảo do chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể nên chưa được các cơ quan chức năng thực hiện. 2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan 60 - Khả năng của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc đáp ứng các yêu cầu tín dụng trung và dài hạn của Sở giao dịch là rất thấp. Những vướng mắc chủ yếu là các doanh nghiệp không có đủ vốn tự có theo yêu cầu, không đủ tài sản thế chấp, không có dự án khả thi... Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay của doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Điều này cũng một phần là do sự hạn chế về trình độ quản lý, hạn chế về vốn và khả năng lập dự án. Vốn nhỏ kéo theo trình độ trang thiết bị, công nghệ lạc hậu do không có khả năng thay đổi mới thường xuyên làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và khả năng tiếp cận vốn của Ngân hàng. - Khả năng hạch toán kế toán của các doanh nghiệp còn hạn chế. Bên cạnh đó, vì muốn vay được vốn nên các số liệu khi trình trước Ngân hàng thường không sát thực, do vậy khả năng đem lại rủi ro cho Ngân hàng tăng. Vì vậy mà Sở giao dịch thường e ngại khi cho vay đối với các doanh nghiệp và khi cho vay thường phải đưa ra các điều kiện đối với doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro cho khoản tín dụng trung và dài hạn của mình. - Tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động lớn về chỉ số giá, giá cả các mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu tăng cao, đặc biệt là tình trạng tăng giá thép đột biến. Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.pdf