Luận văn Đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt

Tài liệu Luận văn Đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ HUYỀN TRÂN Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh, 2010 LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực học hỏi, nghiên cứu của bản thân, còn nhờ có sự chỉ bảo, giúp đỡ, động viên tận tình của quý thầy cô, gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến PGS-TS Dư Ngọc Ngân, người đã tận tâm hướng dẫn khoa học, giúp tôi giải quyết các vấn đề trong đề tài, định hướng, gợi mở, truyền đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu. Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Xin cảm ơn Phòng Sau đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm TPHCM; Thư viện Khoa học Tổng hợp; Thư viện trường Đại...

pdf154 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ HUYỀN TRÂN Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh, 2010 LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực học hỏi, nghiên cứu của bản thân, còn nhờ có sự chỉ bảo, giúp đỡ, động viên tận tình của quý thầy cô, gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến PGS-TS Dư Ngọc Ngân, người đã tận tâm hướng dẫn khoa học, giúp tôi giải quyết các vấn đề trong đề tài, định hướng, gợi mở, truyền đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu. Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Xin cảm ơn Phòng Sau đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm TPHCM; Thư viện Khoa học Tổng hợp; Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành và bảo vệ luận văn này. Xin cảm ơn Ban Giám hiệu, tổ Ngữ văn trường THPT Điểu Cải, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai đã tạo mọi thuận lợi trong công tác. Sau cùng xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. BẢNG TỪ NGỮ VIẾT TẮT Chủ thể: S1 Đại học Quốc gia: ĐHQG Động từ biểu thị nội dung mệnh đề: Vp Động từ ngôn hành: Vnh Hành động A: A Hành động tại lời gián tiếp: HĐTLGT Hành động tại lời trực tiếp HĐTLTT Hành động tại lời: HĐTL Nội dung mệnh đề: p Người đáp lời SP2 Người nghe: H Người nói: S Đối thể: S2 Người trao lời: SP1 Nhà xuất bàn : NXB Noun phrases (cụm danh từ): NP Sự vật, hiện tượng hoặc sự kiện: X Tiền giả định: TGĐ Từ chối gián tiếp: TCGT Từ chối trực tiếp: TCTT Verb phrases (cụm động từ): VP MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ca dao Việt Nam được xem là tấm gương phản ánh trung thực hình ảnh thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam. Đó là kho tài liệu phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Lời ca dao cũng chính là tình cảm chân thành, sâu sắc của người bình dân xưa đối với quê hương đất nước, với ông bà cha mẹ, với bạn bè, người yêu… Cũng chính nhờ vào cách thể hiện tình cảm ý nhị tinh tế và sâu sắc mà ca dao có một sức hấp dẫn lạ lùng đối với người đọc qua nhiều thế hệ. Đặc sắc nhất là mảng ca dao về tình yêu với lối hát đối đáp giao duyên thể hiện tình yêu đôi lứa trong lao động, trong hội hè đình đám của các chàng trai, cô gái. Nội dung của các câu ca dao này phản ánh mọi biểu hiện sắc thái cung bậc tình yêu. Đó là những tình cảm thắm thiết, những niềm mơ ước, những nỗi nhớ nhung da diết trong hoàn cảnh may mắn, hạnh phúc hay những cảm xúc, lời than thở, oán trách nảy sinh trước những tình huống rủi ro, ngang trái đau khổ. Do đó, nghiên cứu ca dao cũng là hành trình tìm hiểu tâm hồn, văn hoá dân tộc. Ngôn ngữ là công cụ không thể thiếu trong quá trình giao tiếp của loài người. Con người sử dụng ngôn ngữ để thể hiện nhận thức về sự vật, hiện tượng và trao đổi tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, vì thế bản sắc dân tộc luôn được thể hiện qua ngôn ngữ. Ca dao, thông qua những tín hiệu ngôn ngữ, đã thể hiện phong phú và linh hoạt những hình tượng thẩm mỹ văn học, phản ánh mọi mặt của cuộc sống sinh hoạt, những suy tư và diễn biến tình cảm của con người. Ca dao đối đáp giao duyên được sản sinh ra từ trong môi trường diễn xướng. Qua những buổi lao động sinh hoạt văn hóa cộng đồng trên đồng ruộng, bãi lúa, ven sông, những buổi hội làng, các chàng trai cô gái đã sử dụng các tín hiệu ngôn ngữ thực hiện các cuộc đối thoại bằng những câu thơ, điệu hát như: Chàng trai bày tỏ tình cảm bằng câu hỏi lịch thiệp, tế nhị: Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng? Cô gái chấp nhận tình cảm của chàng trai bằng lời đáp mang hình thức hỏi: Đan sàng thiếp cũng xin vân, Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng? Hoặc, cô gái từ chối tình cảm và trách chàng trai đã quá vội vàng: Chàng hỏi thì thiếp xin thưa, Tre non đủ lá đan chưa được sàng. Ngoài chợ có thiếu gì giang, Mà chàng lại nỡ đan sàng tre non. Nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp hiện nay đang được các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Nghiên cứu ca dao từ góc độ dụng học cũng là một hướng nghiên cứu khá mới mẻ. Hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu ca dao theo hướng này. Việc tìm hiểu ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên cũng là cách thể hiện sự trân trọng với các giá trị văn hoá cổ truyền dân tộc, trân trọng cách tư duy, cách biểu hiện tình cảm ý nhị sâu sắc của người dân lao động, bên cạnh đó là góp một phần đóng góp nhỏ cho khoa học chuyên ngành. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Trước đây, việc tìm hiểu ca dao nói chung và ca dao đối đáp giao duyên nói riêng chỉ tập trung chủ yếu vào việc sưu tầm ca dao và miêu tả những hình thức sinh hoạt ca hát dân gian. Các nhà nho biên soạn ca dao với mục đích cung cấp tài liệu cho việc nghiên cứu lịch sử thơ ca dân gian như Vương Trịnh Duy (1903) soạn Thanh Hoá quan phong; Nguyễn Văn Mại (1914) soạn Việt Nam phong sử; Vũ Công Thành (1925) soạn Nam âm sự loại…Các nhà trí thức Tây học, với ý thức giữ gìn di sản văn hoá dân tộc đã quan tâm đến việc sưu tầm, miêu tả ca dao như Nguyễn Văn Huyên (1934) với công trình có giá trị về mặt phương pháp luận là Hát đối của nam nữ thanh niên Việt Nam; Nguyễn Văn Ngọc (1928) với Tục ngữ phong dao có giá trị cao về mặt sưu tầm tuyển chọn; Nguyễn Can Mộng (1936) với Ngạn ngữ phong dao… Những năm gần đây, việc nghiên cứu ca dao đã có bước phát triển vượt bậc. Các nhà nghiên cứu đã chú ý đến nhiều lĩnh vực của ca dao như thi pháp, thể thơ, kết cấu, lời, thời gian không gian nghệ thuật, hình ảnh biểu tượng, đặc điểm ngôn ngữ…, đặc biệt là các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh với những hình tượng mang tính biểu trưng như cái cầu, con cò, con bống, hoa mai, hoa nhài… Nhiều công trình có giá trị ra đời như Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan; Kho tàng ca dao người Việt của Vũ Xuân Kính, Phan Đang Nhật (chủ biên); Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính; Bình giảng ca dao của Hoàng Tiến Tựu; Tục ngữ ca dao Việt Nam của Mã Giang Lân; Những thế giới nghệ thuật ca dao của Phạm Thu Yến… Nhìn chung, công trình nghiên cứu ca dao có khá nhiều. Tuy nhiên, phần lớn chỉ nghiên cứu ca dao ở góc độ văn học còn về góc độ ngôn ngữ học thì còn rất hạn chế. Tuy các công trình nghiên cứu ca dao nhìn từ góc độ văn học ít nhiều có đề cập đến đặc điểm ngôn ngữ ca dao nhưng chỉ mang tính khái quát, không đi sâu vào nghiên cứu chuyên biệt. Tìm hiểu ca dao dưới góc độ ngôn ngữ học, luận văn chỉ tìm thấy có một số bài viết và công trình nghiên cứu sau: Bài “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam” của Mai Ngọc Chừ, đăng trên tạp chí Văn học số 2,1991. Bài viết đã có cái nhìn khái quát về ngôn ngữ ca dao. Tác giả cho rằng “Ngôn ngữ ca dao đã kết tụ những đặc điểm nghệ thuật tuyệt vời nhất của tiếng Việt: nó có cả những đặc điểm tinh tuý của ngôn ngữ văn học đồng thời nó còn là sự vận dụng linh hoạt, tài tình có hiệu quả của ngôn ngữ chung, ngôn ngữ hội thoại vào một loại ngôn ngữ truyền miệng. Chính sự kết hợp giữa ngôn ngữ nói, ngôn ngữ hội thoại với ngôn ngữ văn học tạo nên những đặc điểm riêng biệt độc đáo của ca dao.”. Cách thức mà ca dao dân ca sử dụng để tạo nên vẻ riêng biệt, độc đáo là sử dụng các biện pháp tu từ. Bài “Ngôn ngữ của người Nam Bộ trong ca dao-dân ca”, tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 6,1999 của Nguyễn Thế Truyền và “Một số đặc điểm ngôn ngữ của ca dao dân ca Nam Bộ”, tạp chí Ngôn ngữ số 1,1984 của Bùi Mạnh Nhị đã cho người đọc cái nhìn tổng quan về ngôn ngữ ca dao- dân ca Nam Bộ. Đây có thể xem là những thành tựu ban đầu về nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ địa phương qua ngôn ngữ ca dao. Trong công trình nghiên cứu Thi pháp ca dao (1993), Nguyễn Xuân Kính dành một phần nghiên cứu sâu về các từ chỉ tên đất, tên người và cách dùng số từ trong ca dao. Tác giả chỉ ra xu hướng dân gian và xu hướng thuần Việt trong cách sử dụng lớp từ đó. Trong bài viết “Bài ca dao Tát nước đầu đình từ góc nhìn ngữ dụng học” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7,2004, Đỗ Thị Kim Liên đã vận dụng lí thuyết hành động ngôn ngữ và lí thuyết chiếu vật và chỉ xuất để xác định các hành động nói và vai giao tiếp, thời gian và không gian trong một bài ca dao từ góc độ tiếp cận văn bản. Lê Đức Luận (2005), trong luận án tiến sĩ ngữ văn với đề tài: Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt, đã vận dụng lí thuyết cấu trúc hệ thống ngôn ngữ, chỉ ra đặc trưng cơ bản về cấu trúc hình thức và nội dung của hệ thống các cấp độ ngôn ngữ ca dao người Việt. Hoàng Kim Ngọc (2009) với công trình nghiên cứu So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình - dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hoá học, đã tiếp cận ca dao từ góc nhìn của lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ và phân tích diễn ngôn; xem lối đối đáp giao duyên là một hình thái đặc biệt của giao tiếp bằng ngôn ngữ, từ đó vận dụng các lí thuyết về so sánh và ẩn dụ của ngôn ngữ học để nghiên cứu ẩn dụ và so sánh trong ca dao. Liên quan đến đề tài còn có một số công trình nghiên cứu về lí thuyết ngữ dụng học và ứng dụng lí thuyết ngữ dụng học vào phân tích hội thoại tiếng Việt: Trước hết phải kể đến các công trình về ngữ dụng học: “How to do things with words” của John Austin (1962) với lí thuyết hành động ngôn ngữ đã đi sâu vào nghiên cứu mặt ngữ dụng của ngôn ngữ một cách có hệ thống. Phát triển lí thuyết hành động nói của Austin, Searle (1969) với Speech acts, xem hành động nói là đơn vị cơ bản của giao tiếp và tập trung xem xét đến ý nghĩa của phát ngôn như là các hành động chứa nội dung giao tiếp. Paul Grice (1975), trong Logic and Conversation, đã đề ra nguyên tắc cộng tác hội thoại và tìm hiểu nghĩa ngôn ngữ trong hội thoại, đặc biệt là nghĩa hàm ẩn. George Yule (1997), Dụng học- Một số dẫn luận nghiên cứu đã xem ngữ dụng học tập trung vào nghiên cứu ý nghĩa thuộc về người nói, ý nghĩa của ngữ cảnh, những cách giúp thông báo được nhiều hơn những gì nói ra bằng lời, thể hiện khoảng cách tương đối. Ở Việt Nam, ngữ dụng học và dụng học Việt ngữ được quan tâm nghiên cứu từ những năm 80 của thế kỉ XX: Hoàng Phê với công trình Logic ngôn ngữ học (1989), đã tiến hành nghiên cứu nghĩa ngôn ngữ trên bình diện ngữ dụng, cụ thể là nghĩa của từ và nghĩa của lời trong quá trình giao tiếp. Tiếp theo là Cao Xuân Hạo với Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng (1991), đã nghiên cứu về cấu trúc câu trong văn bản và phân loại câu theo lực ngôn trung và nghĩa biểu hiện. Với các công trình Đại cương ngôn ngữ học- Ngữ dụng học (1993) của Đỗ Hữu Châu và Ngữ dụng học (2001) của Nguyễn Đức Dân, Dụng học Việt ngữ (2000) của Nguyễn Thiện Giáp, lần đầu tiên các vấn đề cơ bản của ngữ dụng học như: chiếu vật, chỉ xuất, lí thuyết hành động ngôn ngữ, lí thuyết lập luận, lí thuyết hội thoại, nghĩa tường minh, hàm ẩn được trình bày một cách có hệ thống trên ngữ liệu tiếng Việt. Từ đó đến nay, có rất nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ học đã vận dụng các lí thuyết ngữ dụng học vào tìm hiểu nhiều khía cạnh của tiếng Việt, đã có những thành công như: Hoàng Tuệ (1991), với bài viết “Hiển ngôn và hàm ngôn”, Lê Đông, Phạm Hùng Việt (1995), với bài viết “Nhấn mạnh như một hiện tượng ngữ dụng và đặc trưng ngữ nghĩa ngữ dụng của một số trợ từ nhấn mạnh trong tiếng Việt”; Chu Thị Thanh Tâm (1995), với bài “Sự cộng tác hội thoại để hình thành đề tài diễn ngôn và các hành vi dẫn nhập đề tài diễn ngôn”, Nguyễn Văn Hiệp (2007), với công trình Cơ sở phân tích ngữ nghĩa cú pháp … Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt một cách chuyên biệt. Vì vậy, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu vấn đề này. Trong luận văn của chúng tôi, những công trình nghiên cứu nêu trên sẽ là những cơ sở lí thuyết, lí luận quan trọng. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Luận văn tìm hiểu đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên với mong muốn có cái nhìn đầy đủ hơn về ngữ nghĩa của lời ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp; vị trí, chức năng của ca dao trong đời sống văn hoá cộng đồng. Bên cạnh đó, luận văn còn có thể làm rõ thêm về đặc trưng văn hoá Việt Nam biểu hiện qua lời ca dao. Trong quá trình đối đáp, lời trao đáp không chỉ nhằm trao đổi thông tin mà còn tạo lập các mối quan hệ tình cảm giữa người và người, nên luận văn cũng góp phần làm rõ một số khía cạnh của đời sống tâm hồn của người Việt. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Khảo sát vấn đề ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên, luận văn tập trung vào những vấn đề sau: Theo quan niệm dụng học thì ngữ nghĩa của phát ngôn là một thể hợp nhất giữa hiệu lực tại lời và nội dung mệnh đề. Quan niệm truyền thống chỉ quan tâm đến nội dung mệnh đề (nội dung sự tình). Nghiên cứu ca dao theo hướng ngữ dụng, luận văn sẽ tìm hiểu sâu các hành động ngôn từ dựa trên sự thống nhất giữa hiệu lực tại lời và nội dung mệnh đề có trong ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt. Nghĩa của phát ngôn không chỉ được nói ra nhờ các yếu tố ngôn ngữ mà còn được thể hiện thông qua ngữ cảnh, ngôn cảnh, các quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển hội thoại…; do đó, luận văn đi sâu vào tìm hiểu vấn đề hàm ngôn và các phương thức, phương tiện biểu hiện hàm ngôn thuộc bình diện dụng học của ca dao đối đáp. Các ngữ liệu khảo sát là những lời ca dao đối đáp giao duyên nam, nữ người Việt ( lời của cô gái/chàng trai nói với một hoặc vài chàng trai/cô gái nào đó, lời của đôi bạn đang nói với nhau) được rút ra từ các công trình sưu tầm và tuyển chọn ca dao của các nhà nghiên cứu văn học dân gian như: Vũ Ngọc Phan, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào, Vương Trung Hiếu. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU 5.1 Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp phân tích ngữ dụng học: chúng tôi tiến hành phân tích các đơn vị ca dao để làm rõ hiệu lực tại lời của chúng. Để lí giải được đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của các đơn vị ca dao, phương pháp phân tích luôn bám vào các nhân tố ngữ cảnh, văn cảnh như ngữ cảnh tình huống, ngữ cảnh văn hóa, mục đích giao tiếp… - Phương pháp miêu tả - phân loại và hệ thống hoá: phương pháp này dùng để xác định tập hợp các đặc trưng khu biệt của từng hành động ngôn từ và phân chia các hành động ngôn từ thành từng nhóm, từng tiểu loại. - Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: phương pháp này được sử dụng để xử lí khối ngữ liệu như: thu thập ngữ liệu, thống kê ngữ liệu, tính tần số để phân loại, xếp hạng, đánh giá. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: luân văn vận dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác như: văn học, văn hóa học, xã hội học, tâm lí học…để tìm hiểu những vấn đề liên quan đến đề tài. 5.2 Nguồn tư liệu Nguồn tư liệu về ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt được chọn lọc từ: Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1994), Ca dao trữ tình Việt Nam, NXB Giáo dục. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca dao dân ca Nam Bộ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Vương Trung Hiếu (2006), Ca dao Việt Nam, ca dao tình yêu, NXB Tổng hợp Đồng Nai. Vũ Ngọc Phan (2007), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB Văn học. Viện Nghiên cứu văn hóa, Ca dao (quyển 9), NXB KHXH, 2009. Website: www.e-cadao.com Luận văn sẽ khảo sát 1514 câu ca dao đối đáp giao duyên lựa chọn từ nguồn trích dẫn trên và chia thành 2 nhóm: nhóm ca dao có một lượt lời và nhóm có hai lượt lời. 6. GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN - Về lí thuyết Ngữ dụng học là một lĩnh vực quan trọng của ngôn ngữ học. Tìm hiểu ca dao đối đáp giao duyên từ góc độ lí thuyết ngữ dụng học sẽ góp thêm một công trình vận dụng ngữ dụng học vào nghiên cứu ngôn ngữ. Đề tài có thể góp phần làm rõ thêm một số vấn đề về lí thuyết hành động ngôn từ, lí thuyết hội thoại và hàm ngôn... Ngoài ra, đề tài còn chỉ ra có mối liên hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, ngôn ngữ và tâm lí… Thực hiện đề tài người viết mong muốn có sự lí giải xác đáng ngữ nghĩa của lời ca dao đối đáp giao duyên theo hướng ngữ dụng một cách thuyết phục, góp phần làm sáng rõ giá trị to lớn của kho tàng ca dao Việt Nam - Về thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể ứng dụng vào giảng dạy văn học dân gian phần ca dao cho học sinh phổ thông và là tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành ngữ văn. 7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Những cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài Trong chương một, luận văn trình bày khái niệm ca dao đối đáp giao duyên và khái quát các vấn đề cơ bản của ngữ dụng học như: ngữ cảnh, lí thuyết hành động ngôn từ, lí thuyết hội thoại, lí thuyết lập luận, nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Chương 2: Hành động tại lời trong ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt Trong chương hai, luận văn đi vào phân tích những đặc điểm cấu trúc hội thoại ngữ cảnh của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt và phân loại, miêu tả các nhóm hành động tại lời thường gặp trong ca dao đối đáp giao duyên như: hành động hỏi, cầu khiến, trần thuật, biểu cảm… Chương 3: Một số phương thức tạo hàm ngôn trong ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt Trong chương ba, luận văn sẽ tìm hiểu vấn đề hàm ngôn và miêu tả một số cơ chế tạo hàm ngôn thường gặp ở ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt. CHƯƠNG MỘT NHỮNG CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1 Khái niệm ca dao và ca dao đối đáp giao duyên 1.1.1 Ca dao Tên gọi “ca dao” không bắt nguồn từ truyền thống văn học dân gian, mà là do các nhà sưu tầm và soạn sách thơ ca dân gian mượn từ sách Hán thi. Minh Hiệu cho rằng: “ở nước ta ca dao vốn là một từ Hán Việt được dùng rất muộn- có thể muộn đến hàng ngàn năm, so với thời gian đã có những câu ví, câu hát”. [31-7] Về điểm này, trong Văn học dân gian, Đinh Gia Khánh có chú thích như sau: “Trong Kinh Thi, phần Nguỵ phong, bài Viên hữu đào có câu: “Tâm chi ưu hĩ, ngã ca thả dao” (lòng ta buồn, ta ca và dao). Sách Mao truyện viết: “Khúc hợp nhạc viết ca, đồ ca viết dao” (nghĩa là: khúc hát có nhạc đệm theo thì gọi là ca, còn hát trơn thì gọi là dao). Trong sách Cổ dao ngạn, bài Phàm lệ lại có phân biệt thêm: ca và dao khác nhau ở chỗ dao có thể là lời của nhiều bài ca.[40-436] Như vậy, có thể nói, từ việc mượn thuật ngữ ta đã mượn luôn cách hiểu về thuật ngữ như: ca dao là thơ ca dân gian truyền miệng dưới hình thức những câu hát, không theo một điệu nhất định”1. Tuy nhiên, với các nhà nghiên cứu văn học dân gian, việc định nghĩa thế nào là ca dao và phân loại các hình thức ca hát sinh hoạt dân gian là vấn đề khó khăn, phức tạp cần phải nghiên cứu sâu mới có thể làm sáng rõ. Để xác định khái niệm ca dao, các nhà nghiên cứu văn học dân gian đều đặt ca dao trong mối quan hệ với dân ca. Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên cho rằng: “Theo cách hiểu thông thường thì ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy…hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể bè thành những làn điệu dân ca.” Từ cách hiểu đó, ông khẳng định: “Giữa ca dao và dân ca như vậy là không có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt giữa ca dao và dân ca chỉ ở chỗ, khi nói đến ca dao người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian, còn khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định.”; “…Và ca dao trở thành thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian… Ca dao có thể là thơ tự sự nhưng đại bộ phận là thơ trữ tình. [40- 436,437] Vũ Ngọc Phan, trong công trình nổi tiếng Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, còn nói rõ hơn “Theo ý kiến của tôi, ca dao của ta có những câu bốn năm chữ, sáu tám hay hai bẩy sáu tám, đều có thể ngâm được nguyên câu, không cần tiếng đệm như người ta ngâm thơ vậy. Còn dùng bài ca dao để hát thì bài ca dao sẽ biến thành dân ca… Vậy ca dao là một loại thơ dân gian”.[66-24] Thống nhất với những ý kiến trên, Cao Huy Đỉnh viết: “Ngày xưa phần lớn ca dao trữ tình làm ra để hát. Rồi từ những bài hát có những câu tách ra thành ca dao. Ca dao sinh ra, còn lại, truyền đi và biến đổi chủ yếu là thông qua sinh hoạt dân ca.”[22-39] Bên cạnh đó, các tác giả còn đặt ca dao trong 1 Hoàng Phê, Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, 2006 mối quan hệ với tục ngữ, văn vần và thơ nói chung để làm rõ sự khác nhau giữa ca dao và các thể loại này. Chẳng hạn, Minh Hiệu viết: “Có nhiều bài ca dao mới gần đây, tuy hình thức giống ca dao cổ truyền, nhưng đó mới chỉ là những câu văn vần chứ chưa thực sự là ca dao” hoặc “Ca dao là thơ dân gian; thơ để ví von, đối đáp, truyền miệng, khác với thơ của dòng văn học viết.”[31-10-27] Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: ca dao là một loại thơ dân gian truyền miệng dưới hình thức là những câu hát. 1.1.2 Ca dao đối đáp giao duyên Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2006) định nghĩa: giao duyên là động từ chỉ sự trao đổi tình cảm giữa hai bên trai gái trong ngày hội truyền thống. Đây là một hình thức sinh hoạt dân gian. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là ca dao đối đáp giao duyên, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm ca dao trữ tình. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng phần lớn ca dao là thơ trữ tình. Trữ tình được hiểu là biểu hiện nội tâm, cảm xúc của tác giả trước ngoại cảnh. Nguyễn Ngọc Phan viết: “Ca dao xưa có tình và có cảnh, cảnh tình gắn bó với nhau mật thiết, cảnh sinh tình và tác giả mượn cảnh để nói lên nội tâm mình.”[65-38]. Ông còn cho rằng muốn hiểu biết về tình cảm của nhân dân Việt Nam tha thiết, sâu sắc như thế nào thì phải nghiên cứu ca dao Việt Nam. Ca dao Việt Nam là những bài tình tứ. Tình cảm của người lao động Việt Nam biểu hiện trong ca dao ở nhiều mặt: tình yêu nam nữ, tình yêu gia đình, yêu làng xóm, yêu đất nước... , nhưng những bài về tình yêu nam nữ là nhiều hơn cả.[66-32] Và Cao Huy Đỉnh khi nghiên cứu về lối đối đáp trong ca dao trữ tình đã nhận xét: “Ngày xưa phần lớn ca dao trữ tình làm ra là để hát”. Hát ở đây là hát đối đáp, do các kiểu hát tập thể như ghẹo, ví, trống quân, quan họ… mà hình thành. “Đối đáp là nói chuyện bằng thơ giữa đôi trai gái, hai họ, hai phường… Nói chuyện thực sự chứ không chỉ là “thổ lộ tâm tình” theo nghĩa rộng của thơ trữ tình.”.[22-39] Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên cũng cho rằng: “Trong ca dao trữ tình về tình yêu nam nữ, chúng ta thấy đa số các câu hát, các bài ca của “chàng trai” và “cô gái” được kết cấu theo lối đối thoại giữa hai nhân vật ấy…là hình thức trao đổi tình cảm giữa nam và nữ, từ những lời ướm hỏi nhau rồi thề nguyền gắn bó với nhau, tới những lời than thở, nhớ nhung, trách móc nhau…” [40- 485] Đồng quan điểm với các tác giả trên, Mã Giang Lân khi viết về tính trữ tình của ca dao Việt Nam cũng nói : “Phong phú nhất, sâu sắc nhất là mảng ca dao về tình yêu nam nữ. Trai gái gặp gỡ tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong lao động, hội hè đình đám, vui xuân. Họ có thể thổ lộ tình cảm với nhau bằng câu ví, bằng hình thức giao duyên trong những cuộc hát đối đáp nam nữ. Nội dung của những câu ca dao này phản ánh được mọi biểu hiện sắc thái, cung bậc của tình yêu”.[46-19] Đúc kết từ những nghiên cứu trên, chúng tôi có thể đi đến kết luận: ca dao trữ tình là lời thơ trữ tình dân gian diễn tả đời sống tình cảm của người dân lao động. Trong ca dao trữ tình có những bài ca dao diễn tả tình cảm nam nữ, gọi là ca dao giao duyên, và có những bài ca dao diễn tả những tình cảm khác như bạn bè, vợ chồng, mẹ con, quê hương… Và như vậy, ca dao đối đáp giao duyên là ca dao trữ tình, được dùng để đối đáp, để nói chuyện về tình duyên giữa nam nữ với nhau. Biểu hiện của lối đối đáp trong ca dao giao duyên là qua lời ca dao trữ tình thường có bóng dáng của hai nhân vật (chàng trai-cô gái) đang nói chuyện tâm tình với nhau: + Cô gái nói với một hay nhiều chàng trai nào đó: Ai về cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam. + Chàng trai nói với một cô gái nào đó: Áo anh rách lỗ bằng sàng Mẹ anh già yếu, cậy nàng vá may. + Đôi nam nữ đang nói với nhau: Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng? - Đan sàng thiếp cũng xin vâng Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng? Tóm lại, trong ca dao trữ tình có những bài đối đáp giao duyên và những bài diễn tả tình cảm khác. Trong đó, những bài đối đáp giao duyên chiếm số lượng nhiều hơn cả. 1.2 Lí thuyết ngữ dụng học 1.2.1 Ngữ dụng học Miêu tả một ngôn ngữ không thể không tính đến việc con người sử dụng nó trong đời sống như thế nào. Tuy nhiên, để làm được điều tưởng như đơn giản này không biết bao nhiêu thế hệ các nhà ngôn ngữ học phải tìm kiếm và trả lời cho câu hỏi về đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học. Nhìn lại các khuynh hướng nghiên cứu về ngôn ngữ học, từ Ngôn ngữ học đại cương của Leibniz, Harris, Gébelin, Ngôn ngữ học lịch sử của Humbolt, Schleicher, Ngôn ngữ học cấu trúc của Bloomfield, Hjelmslev đến Ngôn ngữ học tạo sinh của Chomsky… đều chưa tìm được câu trả lời. Luận điểm của F.Saussure đã giúp ngôn ngữ học xác lập được đối tượng nghiên cứu của mình và được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm khai thác vận dụng. Tuy phân biệt và chỉ ra được mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và lời nói nhưng F. Saussure lại đi đến một khẳng định chưa thật sự thuyết phục hoàn toàn là chỉ có ngôn ngữ mới là cái đáng quan tâm nghiên cứu và ông chủ trương nghiên cứu ngôn ngữ “cho nó và vì nó”. Phải đến những năm 30 của thế kỉ XX, khi các lí thuyết về kí hiệu học phát triển mạnh mẽ và ngữ dụng học ra đời thì vấn đề sử dụng ngôn ngữ mới được giải quyết thoả đáng. Người ta đánh dấu mốc ra đời ngành ngữ dụng học là năm 1938 với công trình “Những cơ sở lí thuyết kí hiệu” (The Foundation of Semiotics) của Charles. W.Morris. Kí hiệu học bao gồm ba bộ phận: kết học (syntax), nghĩa học (semantics) và dụng học (pragmatics). Kết học nghiên cứu thuộc tính hình thức của các cấu trúc kí hiệu. Nghĩa học nghiên cứu mối quan hệ giữa kí hiệu với thế giới hiện thưc, nghĩa là giữa kí hiệu và cái được biểu đạt. Dụng học nghiên cứu mối quan hệ giữa các kí hiệu và sự giải thích chúng, sự giải thích về ý nghĩa mà kí hiệu đã được dùng. Có thể nói đây là khái niệm đầu tiên về ngữ dụng học. Tuy nhiên, áp dụng mô hình tam phân của Morris vào hoạt động ngôn ngữ không còn ranh giới rõ ràng. Vì vậy, xuất hiện khuynh hướng thống hợp ba lĩnh vực trên, nghĩa là trong kết học, nghĩa học có sự chi phối của các quy tắc ngữ dụng và các quy tắc ngữ dụng phải dựa vào các quy tắc của kết học, nghĩa học mà biểu hiện ra, mà phát huy tác dụng. Cũng chính vì điều này mà đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về ngữ dụng học: “Ngữ dụng học nghiên cứu những quan hệ ngôn ngữ và ngữ cảnh đã được ngữ pháp hoá hoặc mã hoá trong cấu trúc của ngôn ngữ” [Levinson, 1983-9. dẫn theo 11]. Định nghĩa này cho thấy ngữ dụng có mối quan hệ với cú pháp. “Ngữ nghĩa học có đối tượng nghiên cứu là ngữ nghĩa của phát ngôn không thể lí giải được bằng quan hệ trực tiếp với những điều kiện đúng-sai của câu được nói ra. Nói một cách sơ giản thì: ngữ dụng học = ngữ nghĩa trừ đi các điều kiện đúng-sai.” [Gazda,1979-12. dẫn theo 7] Rõ ràng dụng học có quan hệ với nghĩa học. “Ngữ dụng học nghiên cứu việc dùng ngôn ngữ trong diễn từ và các chỉ hiệu đặc thù trong ngôn ngữ, những cái làm nên cách thức nói năng”. [A.M.Diller – F.Récanati, 1979. dẫn theo 11] Định nghĩa này nhấn mạnh sự quan tâm của ngữ dụng là quá trình tạo ra diễn từ và kết quả của chúng chứ không chỉ là ngôn ngữ. Nói cách khác, một kí hiệu nói chung hay một phát ngôn nói riêng có thể được giải thích khác nhau tuỳ theo tình huống (ngữ cảnh) của kí hiệu. “Ngữ dụng học nghiên cứu ý nghĩa của người nói, ý nghĩa của ngữ cảnh, nghiên cứu việc người ta có thể thông báo nhiều hơn điều được nói như thế nào, nghiên cứu những biểu hiện của những khoảng cách tương đối.” [G.Yule, 1996. dẫn theo 7] “Ngữ dụng học nghiên cứu sự giao tiếp bằng ngôn ngữ, nghiên cứu cách dùng ngôn ngữ thực sự trong những ngữ cảnh chuyên biệt” [Nofsinger,1991.dẫn theo 7] “Ngữ dụng học là ngành nghiên cứu ngôn ngữ từ phía người dùng” [Kasper,1997]… Nhìn chung, tất cả các định nghĩa trên cho thấy ngữ dụng nghiên cứu ngữ nghĩa trong mối quan hệ với ngữ cảnh. Do đó, quan niệm ngữ dụng học nghiên cứu cách ngôn ngữ được dùng như thế nào và ý nghĩa của nó trong quan hệ giao tiếp trong phạm vi ngữ cảnh là phổ biến nhất. 1.2.2 Ngữ cảnh Ngữ cảnh là một khái niệm quan trọng trong ngữ dụng học,“là một nhân tố trong việc xác định nội dung mệnh đề cho hiện dạng của những phát ngôn thành phẩm cụ thể, trong những tình huống phát ngôn khác nhau.” [38-277] Nói cách khác, ngữ cảnh được hiểu là bối cảnh ngôn ngữ làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ và tạo lập lời nói, đồng thời làm căn cứ để hiểu thấu đáo lời nói. Tuy là nhân tố có mặt trong cuộc giao tiếp nhưng nằm ngoài diễn ngôn. Chẳng hạn, khi phân tích một phát ngôn rất cần thông tin ngữ cảnh để giải thuyết các từ chỉ xuất như bây giờ, ai, tôi, anh, này, kia… Để giải thuyết các thành tố này ít nhất cần phải biết ai là người nói, người nghe và không gian, thời gian tạo ra phát ngôn. Hay, nếu không có tri thức về văn hoá, phong tục của người Việt thì không thể hiểu được câu ca dao: Anh về cuốc đất trồng cau; Để em trồng ké dây trầu một bên có nghĩa là cô gái đang bày tỏ ý muốn kết duyên vợ chồng với chàng trai. Yếu tố ngữ cảnh giúp người nghe giải mã chính xác hàm ý câu nói là: trong văn hoá người Việt, trầu cau là lễ vật dùng để cưới xin. Hoặc, với câu nói Lúc nãy thằng Nam có đến đây, thông thường thì đây được xem là lời thông báo: người nói thông báo với người nghe về sự việc một người tên Nam đã đến thăm. Nhưng, nếu trường hợp người tên Nam là chủ nợ của người nghe đã đến đòi nợ nhiều lần mà người nghe không có khả năng trả nợ thì đây có thể là lời cảnh báo. Như vậy, tuỳ vào ngữ cảnh mà câu nói được hiểu theo nghĩa nào, hiệu quả tác động đến người nghe ra sao, đồng thời ngữ cảnh sẽ quy định giải mã câu nói. 1.2.3 Các vấn đề cơ bản của ngữ dụng học Ngữ dụng học nghiên cứu nhiều lĩnh vực của việc sử dụng ngôn ngữ trong cuộc sống. F. Armengaud đã nêu ra những vấn đề chủ yếu mà ngữ dụng học nghiên cứu. Sau đây, luận văn sẽ trình bày khái quát các vấn đề này. 1.2.3.1 Chiếu vật và chỉ xuất Chiếu vật (reference) là vấn đề thứ nhất của ngữ dụng học. Chiếu vật là sự tương ứng của các yếu tố ngôn ngữ trong diễn ngôn với sự vật, hiện tượng được nói tới trong một ngữ cảnh nhất định. Tự bản thân mình, từ ngữ không hề chiếu vật. Chỉ có con người mới thực hiện hành vi chiếu vật. Bằng hành vi chiếu vật người nói đưa sự vật mình định nói tới vào diễn ngôn của mình bằng các từ ngữ, bằng câu. Chiếu vật là dấu hiệu đầu tiên thể hiện quan hệ giữa ngữ cảnh với diễn ngôn. Có ba phương thức dùng để chiếu vật là: dùng tên riêng (Hà Nội, Biên Hoà, Trà, My…); dùng miêu tả xác định (cái lò gạch bỏ không, com mèo đen nhà ông Năm…); dùng chỉ xuất. Chỉ xuất (deictic) là phương thức chiếu vật bằng ngôn ngữ dựa trên hành động chỉ trỏ. Tất cả các ngôn ngữ đều có hệ thống từ chuyên chỉ xuất. Đó là các từ chỉ xuất thuộc các từ ngữ như đại từ (này, kia, ấy, nọ, đó, đây, mày, tao, hắn…), danh ngữ (hôm nay, bây giờ, năm ngoái, lần sau…)… Tổ hợp có từ chỉ xuất gọi là một biểu thức chỉ xuất. Ba phạm trù chỉ xuất trong ngôn ngữ là phạm trù chỉ ngôi (nhân xưng), phạm trù chỉ xuất thời gian, phạm trù chỉ xuất không gian. 1.2.3.2 Lí thuyết hành động ngôn từ Người xây dựng nền móng cho lí thuyết hành động ngôn từ là nhà triết học, ngôn ngữ học người Anh J. Austin, với công trình “How to do things with words”. Nội dung chủ yếu của lí thuyết này là: khi con người nói năng, ngôn ngữ mà họ dùng không chỉ là để thông báo hay miêu tả một cái gì đó mà còn có thể làm cái gì đó, tức là thực hiện một hành động nào đó. Chẳng hạn, khi bác sĩ nói với bệnh nhân Anh không được hút thuốc nữa, nghĩa là bác sĩ đang dùng ngôn từ để thực hiện một hành động ngăn cấm. Do đó, có thể dùng lời nói để trần thuật, cầu xin, đề xuất, ra lệnh, doạ nạt, khuyên, xin lỗi, cảm ơn, chúc mừng… J.R.Searle, người phát triển lí thuyết hành động ngôn từ của Austin, cho rằng: Trong bản thân lời nói đã có nghĩa, cho nên khi xét hành động ngôn từ phải xét trên hai bình diện: ý nghĩa và hành động. +Bình diện ý nghĩa: xét lời nói độc lập với ngữ cảnh gọi là ý nghĩa của câu. Ngoài ý nghĩa của câu, lời nói còn có ý nghĩa khác, đó là ý nghĩa tại lời. Ông cho rằng nghĩa của câu có ảnh hưởng đến sự hình thành nghĩa của lời. (không tách rời nghĩa miêu tả và nghĩa ngữ dụng) +Bình diện hành động: khi thực hiện hành động ngôn từ là tuân thủ các quy tắc cấu thành của hành động tại lời. Theo J. Austin, hành động ngôn từ có ba loại lớn: hành động tạo lời (locutionary act), hành động tại lời (illocutionary act) và hành động mượn lời (perlocutionary act). a. Hành động tạo lời là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp tạo ra một phát ngôn hoặc câu miêu tả điều mà người phát ngôn nói. Mỗi hành động tạo lời sẽ tạo ra một mệnh đề có một ý nghĩa xác định. b. Hành động tại lời (HĐTL), còn gọi là hành động ở lời, là hành động mà người nói thực hiện đồng thời với lời nói. Gọi là tại lời vì nó nằm ngay trong hành động tạo lời. HĐTL thực hiện nhờ hiệu lực giao tiếp của phát ngôn. Hiệu lực ấy được gọi là hiệu lực tại lời của phát ngôn. Hiệu lực tại lời thuộc về ngôn ngữ, nghĩa là nó gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với nó ở người nhận. Ví dụ: khi thực hiện hành động tạo lời “Tôi xin lỗi anh” thì đồng thời với việc nói ra câu nói ấy, người thực hiện hành động tạo lời đã thực hiện HĐTL “xin lỗi” và buộc người tiếp nhận phải có phản ứng bằng “hành động đáp lại”. Hay khi người nói hỏi người tiếp nhận một điều gì đó thì người tiếp nhận phải có nhiệm vụ trả lời câu hỏi dù trả lời là biết hay không. Không đáp lại sẽ bị xem là không lịch sự. HĐTL có thể thay đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại. Chúng đặt người nói, người nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng trước khi thực hiện HĐTL. Khi thực hiện hành động “hứa” thì người hứa bị ràng buộc vào trách nhiệm thực hiện lời hứa còn người nghe có quyền chờ đợi và thụ hưởng kết quả của lời hứa. Trong giao tiếp có những hành động thể hiện ngay trong lời nói như hỏi, chào, ra lệnh, yêu cầu, cam kết, hứa… Đỗ Hữu Châu viết: “hành vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay trong khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng ở người nhận”. [7-89] c. Hành động mượn lời là hành động “mượn” phương tiện ngôn ngữ (phát ngôn) để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe. Chẳng hạn, giáo viên có thể dùng một thông báo “Năm ngoái tỉ lệ đậu tốt nghiệp ở trường ta là 50%”, để gây một tâm lí lo sợ và khích lệ sự cố gắng ở học sinh. Tuy nhiên, có thể đối với những học sinh không quan tâm đến việc học thì hiệu quả này không xảy ra. Như vậy, hiệu quả mượn lời rất phân tán, không thể tính toán và không có tính quy ước. Thực tế nghiên cứu cho thấy: hành động tạo lời thuộc về nghiên cứu của các chuyên ngành ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp học; hành động mượn lời không có quy luật nghiên cứu, nên không chuyên biệt ở một ngành khoa học ngôn ngữ nào; HĐTL là hành động có tính quy ước mà quy tắc vận hành chúng được mọi người trong cộng đồng tuân theo nên nó là đối tượng mà Ngữ dụng học quan tâm nghiên cứu. Tác giả Đỗ Hữu Châu chỉ ra rằng “nắm được ngôn ngữ không chỉ có nghĩa là nắm được âm, từ ngữ, câu v.v… của ngôn ngữ đó mà còn là nắm được các quy tắc điều khiển các hành vi ở lời trong ngôn ngữ đó, có nghĩa là biết các quy tắc để “hỏi”, “hứa hẹn”, “yêu cầu”, “mời”v.v… sao cho đúng lúc, đúng chỗ cho thích hợp với ngữ cảnh, với người được hỏi v.v.”.[7- 89] Do vậy, chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề liên quan đến HĐTL. d. Phân loại hành động tại lời: Trước J. Austin, nhà triết học Wittgenstein đã liệt kê hàng loạt các hành động ngôn từ và gọi nó là các trò chơi ngôn ngữ, đã cho rằng không thể phân loại. Austin dựa vào những động từ ngôn hành tiếng Anh như: deny, confess, order, forbid, warn, suggest, promise, vow, apologize, thank… (từ chối, thú tội, ra lệnh, cấm, cảnh báo, đề nghị, hứa, thề, xin lỗi, cám ơn..), thử nghiệm phân loại nhưng không thành công vì kết quả phân loại chồng chéo lên nhau. J.R.Searle, trong quá trình nghiên cứu, đã nhận thấy rằng có mối quan hệ gần gũi giữa một số HĐTL. Chẳng hạn, hành động “hứa” giống với hành động “thề hẹn” hơn hành động “yêu cầu”. Và ông đã xác lập tiêu chí phân loại, phân lập các hành động ngôn ngữ thành những loại có thể tóm tắt thành bảng sau: Tiêu chí phân loại Các kiểu HĐTL Đích ở lời Hướng khớp ghép giữa hiện thực -lời Trạng thái tâm lí được biểu hiện Tái hiện (Representative) Miêu tả X Từ hiện thực tới lời nói S tin X xác tín Điều khiển (Directive) H có trách nhiệm thực hiện X Từ lời nói tới hiện thực S mong muốn X Cam kết (Commissive) S có trách nhiệm thực hiện X Từ lời nói tới hiện thực S có ý định thực hiện X Biểu cảm (Expressive) S biểu thị trạng thái tâm lí phù hợp X Không có tiêu chí thích đáng Thay đổi tuỳ theo X Tuyên bố (Declaration) Gây ra sự thay đổi từ X Vừa từ lời tới thực tại và ngược lại Không có đặc trưng khái quát (Ghi chú: X: sự việc; S: người nói; H: người nghe) Khi nghiên cứu HĐTL, các nhà ngôn ngữ học nhận thấy: một phát ngôn không chỉ có một đích ở lời mà đại đa số phát ngôn đồng thời thực hiện một số hành động. Xét các phát ngôn sau: (1) a. Tiến bộ lắm rồi! b. Bạn có mang bút chì không? Phát ngôn 1.a có hình thức là một lời khen. Tuy nhiên, nếu đặt nó trong ngữ cảnh: có một cô bé là học sinh cấp 2 mà quen bạn trai, bố mẹ cô bé biết được và nói với cô bé như thế, thì phát ngôn trên không phải là lời khen mà là lời trách mắng. Nhưng nếu đặt trong trường hợp một đứa trẻ đang luyện viết chữ đẹp, mang tập vừa viết cho cô giáo xem, cô giáo nói “Tiến bộ lắm rồi”, thì phát ngôn có HĐTL là khen ngợi. Phát ngôn 1.b có hình thức hỏi, song nếu là của cô giáo hỏi học sinh khi chuẩn bị làm bài trắc nghiệm, thì có hiệu lực hỏi trực tiếp, còn nếu cô giáo hỏi khi học sinh đang làm bài trắc nghiệm thì có thể không phải để hỏi mà là yêu cầu học sinh dùng bút chì làm bài. Từ thực tế này, Austin và Searle đã đi đến việc phân loại HĐTL thành hai loại: hành động tại lời trực tiếp (HĐTLTT) và hành động tại lời gián tiếp (HĐTLGT). - HĐTLTT là hành động tại lời được chỉ định một cách trực tiếp bằng sự biểu thị của từ ngữ về ý nghĩa tường minh trên cơ sở một dạng thức ngữ pháp nhất định. Ví dụ: “Mời anh vào nhà”, hành động mời được nhận diện một cách trực tiếp trên bề mặt câu chữ, hoặc ở 1.a, trường hợp cô giáo khen học sinh “Tiến bộ lắm rồi!”. - HĐTLGT được thực hiện khi người giao tiếp sử dụng trên bề mặt HĐTL này nhưng lại nhằm hiệu lực tại lời của một HĐTL khác. J. Searle định nghĩa: Một HĐTL được thực hiện gián tiếp qua một HĐTL khác sẽ được gọi là một HĐTLGT. Ví dụ: (2) a. Anh đồ ơi hỡi anh đồ Có cơm ăn tấm trộn ngô thì vào? b. Anh đã có vợ con rồi Sao anh còn ước hoa hồi cầm tay? HĐTLTT trong hai phát ngôn (2) đều là hành động hỏi. Ở (2a), mục đích chính của người phát ngôn không phải là hỏi mà ngầm thực hiện hành động mời và bày tỏ tình cảm, còn ở phát ngôn (2b) là thực hiện hành động trách cứ. Các hành động “mời”, “bày tỏ”, “trách cứ” đều được xem là HĐTLGT. Qua ví dụ cũng cho thấy, một HĐTLTT có thể thể hiện một số HĐTLGT. Ngược lại một HĐTLGT được thông qua các HĐTLTT khác nhau. Muốn nhận biết được hiệu lực tại lời của HĐTLGT phải nhận biết hiệu lực tại lời của tất cả các HĐTL. Hiệu lực tại lời được xác định thông qua biểu thức ngôn hành được đánh dấu bằng các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời: các kiểu kết cấu, quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc, các nhân tố ngữ cảnh, các từ ngữ chuyên dùng trong biểu thức ngôn hành. Vấn đề xác định HĐTLGT sẽ được tiếp tục bàn luận ở chương II. 1.2.3.3 Lí thuyết hội thoại Các nhà ngữ dụng học đặc biệt quan tâm đến vấn đề hội thoại (conversation) vì hoạt động giao tiếp phổ biến, cơ bản nhất của con người là hội thoại. Hội thoại “là giao tiếp hai chiều, có sự tương tác qua lại giữa người nói và người nghe và sự luân phiên lượt lời.”[25-64] Hội thoại gồm có các dạng cơ bản như: song thoại (dialogue) là một cuộc thoại chỉ gồm có hai nhân vật đối đáp với nhau; tam thoại (trilogue) là hội thoại có ba người và khi có nhiều người tham gia là đa thoại. Trong phân tích hội thoại cần xác định rõ những vấn đề cơ bản sau: a. Cuộc thoại (talk) là một lần trao đổi giữa các cá nhân trong một hoàn cảnh giao tiếp xã hội nào đó. “Để có một cuộc thoại và chỉ có một cuộc thoại, điều kiện cần và đủ là có một nhóm nhân vật có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong một khung thời gian – không gian có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, nói về một vấn đề có thể thay đổi nhưng không đứt quãng.”. [7- 298] Ví dụ: (3) A – Sao bây giờ mới bảo tôi? B - Thì anh có để tôi nói đâu. A - Thạc bị giết bằng gì? B - Bằng một con dao một lưỡi, thứ dao gấp bỏ túi như vẫn bán ở các cửa hàng. A – Đâm ở ngực? B – Không, ở vai… (Thế Lữ - Gói thuốc lá) b. Cấu trúc hội thoại Trong cuộc thoại, mỗi lần nói của một người là một lượt lời. Lượt lời là đơn vị cơ bản của hội thoại. Trong một lượt lời có thể gồm một hoặc nhiều phát ngôn với chức năng và mục đích khác nhau và có liên kết chặt chẽ với nhau. Mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở những lượt lời trước đó. Vậy là có sự luân phiên lượt lời và nghĩa là cấu trúc của một cuộc thoại là a1b1a2b2a3b3…Cơ chế của sự luân phiên lượt lời bị chi phối bởi những quy ước đối với việc trao lời, giành lời, nhường lời, gối lời… Hai lượt lời có liên quan trực tiếp với nhau và đứng kề nhau làm nên một cặp thoại. Trong một cặp thoại, lượt lời thứ nhất có chức năng định hướng cho lượt lời thứ hai. Nói cách khác khi nói một điều, người ta dự đoán, chờ đợi một điều khác sẽ xảy ra; khi thực hiện một hành động ngôn ngữ, người ta chờ đợi một hành động ngôn ngữ đáp ứng. Nghĩa là có sự tác động của hiệu lực tại lời của hành động ngôn ngữ ở lượt lời thứ nhất lên lượt lời thứ hai. Ví dụ: (4) Con: Hôm nay, mẹ có đi chợ không? (hỏi) Me: Có. (đáp) Trường hợp mà lượt trao lời của Sp1 phát ra nhưng không có lượt lời đáp lại của Sp2 thì cuộc thoại đó khó thành. Bởi lẽ, tất cả các hành động ngôn ngữ đều đòi hỏi sự hồi đáp. Sự hồi đáp có thể thực hiện bằng lời hoặc phi lời như những tác động vật lí của nhân vật hội thoại: gật đầu, khoát tay, đi thẳng… Sự hồi đáp bằng các hành động ngôn ngữ tương thích với hành động dẫn nhập (trao lời) tạo thành những cặp hành động ngôn từ như: hỏi - trả lời; chào – chào; đề nghị - đáp ứng; mệnh lệnh – tuân theo…Mối quan hệ giữa lượt lời dẫn nhập và hồi đáp trong cặp thoại là mối quan hệ thống nhất chặt chẽ. Cặp thoại được xem là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu, cơ sở của hội thoại. Mỗi cuộc thoại bao giờ cũng có bắt đầu và kết thúc, chúng làm nên ranh giới của cuộc thoại. Cuộc thoại có thể chứa nhiều chủ đề. Một chủ đề lại có nhiều vấn đề. Tập hợp các lượt lời trao đổi về một vấn đề sẽ làm thành một đoạn thoại. Do vậy, cấu trúc hội thoại bao gồm các đơn vị như cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại . c. Nguyên tắc hội thoại Trong hội thoại có những quy tắc nhất định, tuy không được nói ra thành lời nhưng người tham gia hội thoại cần phải tuân thủ để quá trình giao tiếp đạt hiệu quả. Hầu hết chúng ta khi giao tiếp đều có khả năng nhận biết khi nào, chỗ nào, quy tắc nào bị vi phạm. C.K Orecchioni đã chia quy tắc hội thoại thành ba nhóm: - Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời - Những quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại - Những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại Về nguyên tắc hội thoại, có hai luận điểm rất đáng quan tâm đó là nguyên tắc cộng tác hội thoại (co-operative principle) và nguyên tắc lịch sự (principle of politeness). Trong một cuộc hội thoại, vấn đề là làm sao để người nghe lĩnh hội được ý của người nói. P.Grice tin rằng phải có một cơ chế chi phối việc sáng tạo và lĩnh hội những phát ngôn ấy. Đó là cái được gọi là nguyên tắc hợp tác. Nguyên tắc này được ông phát biểu trong công trình “Logic và sự hội thoại” (1975) như sau: Hãy làm cho phần đóng góp của mình ở giai đoạn mà cuộc hội thoại được xem xét đúng như mục đích hay phương hướng mà cuộc thoại đòi hỏi và mình đã chấp nhận tham gia. [dẫn theo 11 - 130] Nguyên tắc này được cụ thể hoá thành bốn phương châm cơ bản - Phương châm về chất (the maxim of quality) + Đừng nói những điều mà mình tin là sai. + Đừng nói những điều mà mình không có bằng chứng chính xác. - Phương châm về lượng (the maxim of quantity) + Hãy làm cho phần đóng góp của mình có lượng tin đúng như nó được đòi hỏi cho mục đích của cuộc thoại. + Đừng đóng góp lượng tin của mình nhiều hơn điều mà cuộc thoại đòi hỏi. - Phương châm quan hệ (the maxim of relevance) Hãy đóng góp những điều có liên quan, nghĩa là hãy nói vào đề. - Phương châm cách thức (the maxim of manner) Hãy nói cho rõ ràng, đặc biệt là: + Tránh tối nghĩa + Tránh mơ hồ + Nói ngắn gọn + Có trật tự, mạch lạc Những phương châm này, tuy không nói ra lời nhưng được mọi người thừa nhận trong quá trình giao tiếp. Việc tuân thủ các phương châm hội thoại chính là thể hiện tinh thần cộng tác hội thoại. Cuộc thoại nào cũng đòi hỏi phải có sự cộng tác cho dù đó là cuộc cãi lộn, gây sự, chửi bới nhau. Song trong thực tế, người ta luôn có sự vi phạm các phương châm vừa nêu. Người ta có thể không tuân thủ các phương châm do thiếu văn hoá giao tiếp; do giữ phép lịch sự; do cố ý để người nghe hiểu theo hàm ý nào đó… Lịch sự là một nhân tố có ảnh hưởng to lớn đến các phát ngôn trong quá trình giao tiếp và hiệu quả giao tiếp. Do vậy, nhiều nhà ngôn ngữ học đã xem lịch sự là một nguyên tắc hội thoại quan trọng. Lịch sự, theo quan niệm của các nhà văn hoá, là môt chuẩn mực xã hội, tức là, hành vi xã hội có lễ độ hay phép xã giao trong phạm vi văn hoá. Trong giao tiếp, con người phải nói năng sao cho phù hợp với vị thế xã hội, hoàn cảnh giao tiếp. Các nhà nghiên cứu ngữ dụng học nhìn nhận lịch sự dưới góc độ của sự cộng tác hội thoại, như một phương châm hội thoại, một hành động giữ gìn thể diện trong hội thoại. Hiện nay, nói đến nguyên tắc lịch sự là nói tới khái niệm “thể diện” và “giữ thể diện” trong hội thoại. Khái niệm này được Brown và Levinson định nghĩa là: hình ảnh bản thân trước công chúng của một cá nhân mà mỗi cá nhân muốn mình có được. (“Face” the public self- image that every number wants to claim for himself). Theo G.Yule: “Bên trong một cuộc tương tác, lịch sự được định nghĩa như là phương diện dùng để chứng tỏ sự nhận thức được thể diện của người khác.” [101-119] Còn Nguyễn Thiện Giáp viết: “Thể diện là hình ảnh bản thân trước công chúng của một cá nhân, nó liên quan đến ý thức xã hội và tình cảm mà mỗi cá nhân có và mong muốn người khác tri nhận.” [25-104] Theo nghĩa này, lịch sự được hiểu là người nói phải có giải pháp sử dụng ngôn từ để bảo toàn được thể diện của những người tham gia giao tiếp. Thể diện (face) được Brown và Levinson phân biệt thành hai phương diện: thể diện âm tính (negative face) và thể diện dương tính (positive face). Thể diện dương tính là những điều mà mỗi người muốn mình được khẳng định, được người khác ưa thích, tôn trọng, tán thưởng, đánh giá cao. Thể diện âm tính là những điều mà mỗi người muốn mình không bị ai cản trở trong hành động, muốn được tự do hành động theo cách mình lựa chọn. Vậy là, mỗi người có một không gian cá nhân, bao gồm cả thể xác và tâm hồn, không ai được xâm phạm như cơ thể, những vật dụng riêng tư, niềm tin, suy nghĩ, sự yêu thích… Thể diện âm tính tương ứng với thuật ngữ “lãnh địa” của Goffman. Như vậy, lịch sự trong hội thoại có thể được hiểu là những phương thức dùng để tỏ ra rằng thể diện của người đối thoại được mình thừa nhận và tôn trọng. Trong giao tiếp, nếu một người nói ra cái gì đó có dấu hiệu làm tổn hại về mặt thể diện của người đối thoại hoặc chính mình thì đó là hành động đe doạ thể diện. Ngược lại, nếu nói thế nào làm giảm khả năng đe doạ thể diện hoặc đề cao thể diện thì đó là hành động giữ gìn thể diện. Ví dụ: (5) Quan sát cặp thoại sau: Chàng trai: Gánh nặng mà đi đường dài, Để anh gánh đỡ một vai nên chồng. Cô gái: Gánh nặng thì chị trả công, Mặt em chẳng đáng làm chồng chị đâu. Trong câu nói của mình, chàng trai đã đưa ra hai yêu cầu “gánh giúp” và “làm chồng”. Nghĩa là, chàng trai muốn can thiệp vào sự tự do hành động của cô gái, cho rằng cô gái không có khả năng thực hiện hành động và thể hiện sự yêu thương đối với cô gái. Như vậy, chàng trai đã đồng thời vừa thực hiện hành động đe doạ thể diện cô gái vừa giữ gìn thể diện của mình (chàng trai đề cao mình). Tương tự câu nói của chàng trai, câu trả lời của cô gái là sự từ chối việc “làm chồng” và đề nghị trả công việc “gánh giúp”, nghĩa là thực hiện hành động đe doạ thể diện chàng trai và khẳng định thể diện của mình. Tóm lại, lịch sự trong giao tiếp nghĩa là cách ứng xử bằng ngôn ngữ một cách khéo léo, có chiến lược nhằm giữ thể diện và tránh đe doạ thể diện của người tham gia giao tiếp và đảm bảo được tính văn hoá. Quy tắc lịch sự đề cập đến quan hệ liên cá nhân trong hội thoại. 1.2.3.4 Lí thuyết lập luận Trong đời sống, con người luôn cần tới lập luận để chứng minh, giải thích, bác bỏ một vấn đề nào đó hoặc thuyết phục người khác tin một điều gì đó. Do đó, ngay từ thời cổ đại, lập luận đã được các học giả nghiên cứu, xem nó là một lĩnh vực của “thuật hùng biện” - một nghệ thuật nói năng. Trong những công trình nghiên cứu về lập luận từ trước đến nay, đáng chú ý là công trình của hai tác giả người Pháp J.Anscombre và O.Ducrot bàn về lí thuyết lập luận trong ngôn ngữ học. Có thể nói lập luận là một vấn đề quan trọng trong hoạt động giao tiếp. a. Khái niệm Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/một số) kết luận hay chấp nhận một (/một số) kết luận nào đó. [11 -165] Ta có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các phát ngôn trong lập luận là p (lí lẽ)  r (kết luận). Chẳng hạn, Chiếc xe máy này là hàng Trung Quốc đấy (p)  Đừng mua nó (r). Trong hoạt động ngôn từ, có những biểu thức ngôn ngữ định hướng cho một kết luận nào đó. Nghĩa là ngoài nghĩa văn bản ngôn ngữ còn có tiềm năng ngữ nghĩa tạo ra chuỗi liên kết trong phát ngôn. Ví dụ: (6) Vợ anh như ngọc như ngà, Anh còn chẳng chuộng nữa là thân tôi. Từ câu nói ví dụ (6), ta đi đến lập luận: Vợ anh giàu đẹp như vậy mà anh còn không yêu. Tôi không bằng vợ anh thì làm sao anh yêu tôi được. Ta có được lập luận này nhờ vào biểu thức ngôn ngữ “A còn chẳng x nữa là B”. Như vậy, biểu thức trên cho phép ta tạo ra lập luận “A đã chẳng được x thì B cũng chẳng được x”. Lập luận còn có thể được định nghĩa là “một hoạt động - một thao tác – ngôn ngữ, qua đó người nói đưa ra một hay một số phát ngôn làm luận cứ mà cấu trúc ngôn ngữ và nội dung của chúng đưa người nghe tới những chuỗi liên kết dẫn tới một kết luận nào đó”. [11 – 167] b. Một số khái niệm quan trọng trong lập luận b.1) Luận cứ (lí lẽ) là các dữ kiện xuất phát làm căn cứ cho lập luận, từ đó suy ra kết luận. Luận cứ có thể là một thông tin miêu tả, một định luật, một nguyên tắc ứng xử đời thường… Ví dụ: (7) Chiếc xe máy này hàng Trung Quốc đấy (p1) mà hàng Trung Quốc không tốt (p2)  Anh đừng mua nó (r). Ở ví dụ (7), ta có (p1) là thông tin miêu tả, (p2) là nguyên tắc ứng xử đời thường. b.2) Tác tử lập luận là những yếu tố tác động vào phát ngôn sẽ tạo ra một định hướng nghĩa làm thay đổi tiềm năng lập luận của phát ngôn, độc lập với thông tin miêu tả vốn có của phát ngôn. Ví dụ: (8) ta có thông tin miêu tả: Chiếc áo này giá hai trăm ngàn đồng. Nếu ta đưa tác tử những…đấy hoặc chỉ vào thì sẽ có: (8a) Chiếc áo này giá những hai trăm ngàn đồng đấy. (8b) Chiếc áo này giá chỉ hai trăm ngàn đồng. Câu (8a) sẽ định hướng kết luận là “không nên mua”. Do từ “những” thể hiện thái độ đánh giá của người nói là “cao”, “đắt” và có thể làm luận cứ cho lập luận “không ai muốn mua đắt một vật gì”. Ngược lại câu 8.b sẽ dẫn đến kết luận “nên mua”. b.3) Kết tử lập luận là những yếu tố (liên từ, tình thái từ, từ biểu hiện quan hệ mục đích, trạng từ, trạng ngữ…) tác động vào một hoặc nhiều phát ngôn làm thành một lập luận. Nhờ kết tử mà các phát ngôn trở thành luận cứ hay kết luận của lập luận. Ví dụ: (9) (9a) Chiếc áo này giá chỉ hai trăm ngàn nên tôi mua nó. (9b) Anh giơ súng bắn và con gấu ngã gục. (9c) Vì em nhan sắc nên lòng anh thương. Các từ nên, và, vì..nên trong ví dụ 9 là các kết tử lập luận nối liền luận cứ với kết luận. Cần lưu ý là có những lập luận vắng kết tử mà luận cứ và kết luận vẫn có thể liên kết với nhau. Chính quan hệ logic ngữ nghĩa giữa hai câu làm nên liên kết. điều này thể hiện ở cách tổ chức những hành động ngôn ngữ kèm theo lập luận. Chẳng hạn, Mống đông, vồng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật. c. Đặc tính của quan hệ lập luận Trong lập luận có quan hệ giữa luận cứ với luận cứ, giữa luận cứ với lập luận. Quan hệ giữa các luận cứ có thể là đồng hướng hoặc nghịch hướng với nhau. Quan hệ đồng hướng xảy ra khi các luận cứ cùng dẫn đến một kết chung. Ngược lại, khi luận cứ này hướng đến kết luận này mà luận cứ kia lại hướng tới phủ định kết luận trên thì chúng là quan hệ nghịch hướng lập luận. Luận cứ có hiệu lực lập luận khác nhau. Kết luận trong lập luận sẽ do luận cứ có hiệu lực mạnh nhất quyết định. Hiệu lực của luận cứ không chỉ phụ thuộc vào nội dung luận cứ mà còn phụ thuộc vào vị trí của luận cứ trong lập luận. Ví dụ: Chiếc xe này rẻ, anh vừa mới lãnh lương  mua đi. (đồng hướng) Chiếc xe này rẻ nhưng anh không có tiền  đừng mua. (nghịch hướng) Anh không có tiền nhưng chiếc xe này rẻ mua đi. (nghịch hướng) d. Lập luận là một hành động tại lời O.Ducrot đã khẳng định: lập luận là một HĐTL. Hành động lập luận làm thay đổi tư cách pháp nhân của người lập luận và người tiếp nhận lập luận. Khi đưa ra một lập luận, người lập luận phải tin và chịu trách nhiệm về các luận cứ và kết luận mà mình đưa ra. Người tiếp nhận đang ở trạng thái vô can chờ kết luận. Khi nói ra một phát ngôn, người nói ít khi dừng lại ở mức miêu tả chỉ để miêu tả mà bao giờ cũng đi đến một cái gì khác nữa, để đi tới một kết luận. Nói ra một phát ngôn mà không đi tới kết luận sẽ dẫn đến người nói và người tiếp nhận không thoả mãn, có khi không nén được họ lại đặt ra câu hỏi. Việc đặt câu hỏi như thế khiến cho người nói và người nghe có sự thay đổi tư cách pháp nhân. Ví dụ trước câu nói của chàng trai trong ca dao: Hôm qua tát nước đầu đình Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen. Em được thì cho anh xin. Cô gái có thể hỏi chàng trai: Anh muốn gì đây? nếu cô ta khó chịu, hay Anh muốn nói gì với em nè? nếu cô ta có cảm tình. Rõ ràng lập luận có thể gây một phản ứng ngôn ngữ ở người nhận. 1.2.3.5 Nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ẩn a. Định nghĩa Hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng nghĩa hiển ngôn là nghĩa hiện rõ từ hình thức bề mặt của phát ngôn, còn nghĩa hàm ẩn là nghĩa không hiện ra ngay trên bề mặt phát ngôn. P.Grice, nhà nghiên cứu đã xây dựng những cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc nghiên cứu nghĩa hàm ẩn nói: nói một cách hiển ngôn là “nói một điều gì đó”, nói một cách hàm ẩn là “làm cho ai đó nghĩ đến một điều gì đó” hay “những ý định thông báo cho người đối thoại biết mà vì lí do nào đó không nói ra một cách tường minh”. Theo đó, ông còn phân biệt hai loại ý nghĩa hàm ẩn là nghĩa hàm ẩn tự nhiên và nghĩa hàm ẩn không tự nhiên giúp loại bỏ những nghĩa hàm ẩn ngẫu nhiên không nằm trong ý định của người nói. Cao xuân Hạo cũng cho rằng: “Mỗi câu nói đều truyền đạt đến người nghe một thông báo nhất định. Thông báo này gồm hai phần. Phần thứ nhất là những gì người nghe có thể trực tiếp nhận ra nhờ nghĩa nguyên văn (gồm có nghĩa đen và một số nghĩa bóng quen thuộc) của những từ ngữ có mặt trong câu và nhờ những mối quan hệ cú pháp giữa những từ ngữ ấy: đó là nghĩa hiển ngôn của câu nói. Phần thứ hai là những gì không có sẵn trong nghĩa nguyên văn của các từ ngữ và trong những mối quan hệ cú pháp ấy, nhưng vẫn thấu đến người nghe thông qua một sự suy diễn: đó là nghĩa hàm ẩn của câu nói.” [29-468] Đỗ Hữu Châu thì dùng thuật ngữ nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Nghĩa tường minh, còn gọi là hiển ngôn hay nghĩa theo câu chữ của phát ngôn, là ý nghĩa được nói ra trực tiếp nhờ các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, kết cấu cú pháp. Nghĩa hàm ẩn là các ý nghĩa mà chúng ta phải dùng thao tác suy ý dựa vào ngữ cảnh, ngôn cảnh và các quy tắc điều hành hành vi ngôn ngữ, điều khiển lập luận… mới có được. [7-359] Như vậy, có thể nói nghĩa hàm ẩn là đối tượng nghiên cứu của dụng học. Tuy nhiên, chúng ta không thể nghiên cứu hết tất cả những nghĩa có được từ thao tác suy ý nên cần phải có sự phân loại. b. Phân loại ý nghĩa hàm ẩn P.Grice phân chia các ý nghĩa hàm ẩn thành hai loại: hàm ẩn quy ước và hàm ẩn hội thoại. Hàm ẩn quy ước là những nghĩa hàm ẩn được diễn đạt bởi các tín hiệu quy ước - tức các yếu tố thuộc cấu trúc hình thức của ngôn ngữ. Để nắm bắt được, người nghe phải suy ý từ ý nghĩa của các phương tiện ngôn ngữ này đó chính là các từ, các ngữ hoặc do cấu trúc câu. Hàm ẩn hội thoại thì không được gợi ra do các yếu tố quy ước mà do cách vận dụng nguyên tắc cộng tác hội thoại và các phương châm hội thoại. Từ hàm ẩn hội thoại, Grice lại chia thành hai kiểu: hàm ẩn khái quát và hàm ẩn đặc thù. Hàm ẩn khái quát là nghĩa hàm ẩn không bị chi phối bởi ngữ cảnh giao tiếp; người nói vẫn tôn trọng phương châm và các nguyên tắc cộng tác hội thoại. Hàm ẩn đặc thù là nghĩa hàm ẩn mà người nói cố tình vi phạm một hoặc một số phương châm hội thoại để tạo ra chúng; người nói buộc người nghe phải vận dụng các thao tác suy ý để đạt tới một ý nghĩa nào đó. Kế thừa thành tựu của các nhà ngôn ngữ học, đặc biệt là Grice, Đỗ Hữu Châu đã đưa ra tiêu chí phân loại và tiến hành phân loại. Hai tiêu chí phân loại là: (1)- Bản chất của chúng (ngữ nghĩa hay ngữ dụng) (2) - Chức năng của chúng trong diễn ngôn (là đối tượng hay không phải đối tượng của diễn ngôn) Xét theo (1) nghĩa hàm ẩn được chia thành: ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học và ý nghĩa hàm ẩn dụng học. Ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học là ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ với nội dung mệnh đề đó. Ý nghĩa này chỉ có quan hệ với các nhân tố ngôn ngữ biểu thị nội dung mệnh đề. Ý nghĩa hàm ẩn ngữ dụng là những ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ với các quy tắc ngữ dụng học như các quy tắc chiếu vật, quy tắc lập luận, các hành vi ngôn ngữ, các quy tắc hội thoại… Trong số những ý nghĩa hàm ẩn (nghĩa học và dụng học) có thể tách thành hai loại: tiền giả định và hàm ngôn. Xét theo (2), tương tự như Grice, ý nghĩa hàm ẩn được phân biệt thành: ý nghĩa hàm ẩn tự nhiên và ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên. Grice xác định ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên (KTN) là nó phải nằm trong ý định của người nói và cái ý định đó phải được người nghe nhận biết. c. Cơ chế tạo ra các nghĩa hàm ẩn Nghĩa hàm ẩn là các ý nghĩa mà chúng ta phải dùng thao tác suy ý dựa vào các quy tắc ngữ dụng. Nếu ta áp dụng các quy tắc này chuẩn mực thì chỉ tạo ra nghĩa tường minh. Muốn tạo ra được nghĩa hàm ẩn, người nói một mặt phải tôn trọng các quy tắc này và giả định người nghe cũng hiểu chúng. Một mặt lại cố tình vi phạm chúng và giả định rằng người nghe cũng ý thức được chỗ vi phạm đó. Ví dụ: (10) Bao giờ rau diếp làm đình Gỗ lim ăn ghém thì mình lấy ta. Người nói cố tình vi phạm nguyên tắc cộng tác hội thoại, cụ thể vi phạm phương châm về chất, để tạo hàm ý. d. Vấn đề tiền giả định và hàm ngôn (hàm ý) Theo Cao Xuân Hạo, tiền giả định của một câu nói là một điều gì phải được giả định là đã có trước khi nói câu đó, vì nếu không có điều này thì không thể nói câu đó được (câu nói đó sẽ trở thành phi lí hoặc không thể hiểu được). Còn hàm ý là một điều gì đó mà khi nghe câu đó, người nghe phải rút ra như một hệ quả tất nhiên. Tiền giả định và hàm ý có thể toát ra từ nghĩa nguyên văn của cả câu với sự đóng góp của ngữ cảnh. Tuy nhiên, bên trong câu cũng có những từ mà nghĩa của chúng chứa đựng tiền giả định và hàm ý. Đỗ Hữu Châu bước đầu phân biệt tiền giả định và hàm ngôn như sau: tiền giả định là những căn cứ cần thiết để người nói tạo ra ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của mình. Hàm ngôn là tất cả những nội dung có thể suy ra từ một phát ngôn cụ thể nào đó; từ ý nghĩa tường minh cùng với tiền giả định của nó. Theo đó, ta có ví dụ: (11) - Thằng Nam là con của cô Mai đấy. Phát ngôn này có: Ý nghĩa tường minh: Thằng Nam là con cô Mai. Ý nghĩa hàm ẩn, trong đó: Tiền giả định: Có một người tên Mai Có một thằng nhóc. Cô Mai có con. Hàm ngôn: (tuỳ theo ngữ cảnh, tuỳ theo ý định của người nói): - Mẹ nó là hiệu trưởng nhà trường đó, đừng có gây sự với nó. (hai học sinh nói với nhau) - Nam nhiều tiền lắm, để nó trả đi. (trong quán ăn, học sinh tên Nam giành nhau trả tiền với bạn, học sinh thứ ba nói xen vào; cô Mai rất giàu). Các nhà ngôn ngữ khác như P.Grice, G.Yule, Hoàng Phê, Hồ Lê, Nguyễn Đức Dân… đều có chung quan niệm: tiền giả định là một loại nghĩa hàm ẩn nhưng là nghĩa hàm ẩn không có giá trị thông báo. Tiền giả định được phân biệt với một loại ý nghĩa hàm ẩn khác đó là hàm ngôn. Như vậy, chúng ta có thể hiểu tiền giả định là những căn cứ hiểu biết cần thiết được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, dựa vào đó mà người ta tạo ra nghĩa tường minh. Hàm ngôn là tất cả những nội dung suy ra từ nghĩa tường minh và tiền giả định. Hàm ngôn lệ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp. Đồng quan điểm với P.Grice, Đỗ Hữu Châu chia tiền giả định và hàm ngôn thành những loại sau: Tiền giả định nghĩa học là tiền giả định có quan hệ với tổ chức hình thức ngôn ngữ diễn đạt nội dung miêu tả tường minh của phát ngôn. Tiền giả định dụng học là những nhân tố quy tắc dụng học làm tiền đề cho một phát ngôn cụ thể nào đó. Hàm ngôn ngữ nghĩa là hàm ngôn suy ra từ nội dung ngữ nghĩa tường minh của phát ngôn, nghĩa là từ các luận cứ hoặc kết luận không được nói ra một cách tường minh, để cho người nghe dựa vào quan hệ lập luận mà rút ra. Hàm ngôn ngữ dụng là hàm ngôn do sự vi phạm các quy tắc ngữ dụng mà có. Ví dụ: (11) Trên rừng ba mươi sáu thứ chim Thiếu gì loan phượng (mà lại) đi tìm quạ khoang. Tiền giả định nghĩa học: rừng có nhiều loài chim, có loài chim đẹp, quý như loan phượng và loài chim xấu, tầm thường như quạ khoang; có nhiều loài chim quý hơn; có người đã tìm loài chim tầm thường. Tiền giả định dụng học: lẽ thường: người ta chỉ thích tìm loài chim đẹp, quý. Hàm ngôn nghĩa học: nên tìm loại chim đẹp, quý, không nên đi tìm loài chim tầm thường. Hàm ngôn dụng học: chê trách sự kém cỏi của con. (mẹ nói với con khi thấy con chọn người vợ vừa nghèo vừa xấu) Lời từ chối, hồi đáp cho lời tỏ tình. Cô gái chất vấn chàng trai tại sao nhiều người đẹp, giàu anh không chọn lại chọn người nghèo, xấu như em. Chất vấn để bác bỏ. Từ quan điểm trên, chúng ta có thể khẳng định hàm ngôn ngữ nghĩa ít lệ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp. Do đó, có thể gọi là hàm ngôn lập luận hay hàm ngôn mệnh đề được diễn đạt tường minh. Hàm ngôn ngữ dụng hình thành do vi phạm các quy tắc ngữ dụng và phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh giao tiếp. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và đa dạng của hàm ngôn nên còn có rất nhiều xu hướng phân loại khác. 1.3 Một số đặc trưng cơ bản về ngôn ngữ văn hóa tiếng Việt Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng giữa ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ. Văn hoá dân tộc không tồn tại ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một trong những thành tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hoá của dân tộc nào. Chính trong ngôn ngữ đặc điểm của văn hoá dân tộc được lưu giữ rõ ràng nhất. Vì vậy, nghiên cứu ca dao dưới góc độ ngữ dụng không thể không tìm hiểu đặc trưng văn hoá. 1.3.1. Khái niệm văn hóa Văn hoá theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) là: 1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sự; 2.Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn đời sống tin thần (nói tổng quát).; 3. Tri thức kiến thức khoa học (nói khái quát); 4.Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh; 5. Nền văn hoá của thời kì lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau. Từ văn hoá có nhiều nghĩa, cho nên có rất nhiều học giả đưa ra quan niệm riêng của mình. Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu của mình, luận văn chấp nhận định nghĩa sau: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.” [84-105] 1.3.2 Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa Việt Trải qua nhiều biến động nhưng văn hoá Việt Nam vẫn mang một bản sắc riêng. Nhìn chung văn hoá Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau: Văn hoá gắn với văn minh nông nghiệp, gắn với nghề nông trồng lúa nước. Do đó, ngôn ngữ Việt Nam có rất nhiều từ ngữ, thành ngữ, ca dao, những câu nói liên quan đến nông nghiệp như: Ước gì sông rộng một gang/ bắc cầu dãi yếm để chàng sang chơi. Hỡi cô cắt cỏ một mình/ cho anh cắt với chung tình làm đôi. Hỡi cô đang gặt dưới đồng… Văn hoá Việt Nam thể hiện tính dân chủ, tôn ti, đoàn kết, linh hoạt và hài hoà. Do phải thường xuyên đối đầu với thiên tai địch hoạ, với các thế lực ngoại xâm nên người Việt Nam không có khát vọng hướng đến sự sáng tạo lớn mà nhạy cảm, khôn khéo gỡ các thế khó khăn, tìm sự bình ổn. Biểu hiện của đặc trưng này trong giao tiếp là người Việt ưa lối nói hài hoà, cân xứng, lối nói tế nhị, bóng gió xa xôi, ứng xử một cách linh hoạt khéo léo, rất coi trọng tình cảm… Điều này cũng thể hiện rất rõ trong ca dao. tục ngữ , thành ngữ… Những vấn đề về văn hoá đã trình bày trên đây, chúng tôi nghĩ nó rất cần thiết và có ích khi tìm hiểu, lí giải ý nghĩa ngữ dụng trong ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt. 1.4 Tiểu kết Từ cách hiểu ca dao đối đáp giao duyên là ca dao trữ tình dùng để đối đáp, trao đổi tình cảm giữa nam và nữ, chúng ta có thể nói rằng đây chính là một hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Ngữ dụng học nghiên cứu cách ngôn ngữ được dùng như thế nào và ý nghĩa của nó trong giao tiếp, do đó những quan điểm của ngữ dụng học như quan điểm về hành động ngôn từ, về ngữ cảnh, về lập luận, hội thoại, hàm ngôn cùng với những nguyên tắc, điều kiện của nó rất có ích trong nghiên cứu ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt. Bên trên luận văn đã đề cập đến những tiền đề lí thuyết cơ bản liên quan. Tuy đối tượng nghiên cứu của luận văn không phải là bản thân các khái niệm, các quy tắc nêu trên nhưng những điều trình bày đó được vận dụng trong miêu tả, phân tích đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt, nhằm bước đầu có thể miêu tả phân loại các hành động ngôn từ, các phương thức tạo hàm ngôn trong ca dao đối đáp, góp phần vào nghiên cứu văn hoá giao tiếp của người Việt. CHƯƠNG HAI HÀNH ĐỘNG TẠI LỜI TRONG CA DAO ĐỐI ĐÁP GIAO DUYÊN TIẾNG VIỆT 2.1 Lý thuyết chung 2.1.1 Định hướng phân loại và miêu tả Để miêu tả và phân loại các HĐTL, luận văn căn cứ vào hai tiêu chí tạm cho là hình thức: biểu thức ngôn hành và các động từ nói năng. Bắt đầu từ các động từ nói năng (động từ chỉ hành động ngôn từ) kết hợp với việc thống kê, miêu tả các biểu thức ngôn hành thường đi với chúng, ta có thể bước đầu nghiên cứu và phân loại được các HĐTL. Sau đó, dựa vào những tiêu chí khác, phân chia các động từ này thành từng nhóm lớn và những loại nhỏ như đã trình bày ở chương 1. Sau khi tập hợp được những HĐTL được gọi tên từ các động từ nói năng, luận văn sẽ tìm ra những HĐTL mà không có chứa động từ nói năng tương ứng. Biểu thức ngôn hành (biểu thức ngữ vi) là một khái niệm có liên quan đến khái niệm “phát ngôn ngôn hành” (phát ngôn ngữ vi). “Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn - sản phẩm của một hành vi ở lời nào đó khi hành vi này được thực hiện một cách trực tiếp, chân thực”. [7-91] Có nghĩa là phát ngôn ngôn hành là phương tiện, là hình thức thể hiện hành động tại lời còn hành động tại lời là nội dung nằm trong phát ngôn ngôn hành đó. Phát ngôn ngôn hành bao gồm biểu thức ngôn hành và các thành phần mở rộng như lời rào đón, từ tình thái để tạo nên giá trị biểu cảm của câu…Như vậy, có thể nói biểu thức ngôn hành là dấu hiệu ngữ pháp- ngữ nghĩa của các hành động tại lời, là những thể thức nói đặc trưng cho một hành động tại lời. Một biểu thức ngôn hành được đánh dấu bằng các dấu hiệu chỉ dẫn. Searle gọi các dấu hiệu này là các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời (IFIDs). Các IFIDs có thể là: Các kiểu kết cấu Các từ ngữ chuyên dùng trong các kết cấu Ngữ điệu Quan hệ giữa các thành tố trong biểu thức ngôn hành và ngữ cảnh Động từ ngôn hành Ví dụ: (1) Tôi hứa với anh là tôi sẽ xem xét lại chuyện này. Phát ngôn (1) là hành động hứa hẹn; có kiểu kết cấu: S hứa với H, S sẽ + V; từ ngữ chuyên dùng trong kết cấu: “sẽ” và động từ ngôn hành “hứa”. Nhưng, đây cũng có thể là hành động đe doạ nếu nó được xác định trong hoàn cảnh cụ thể và có kèm theo ngữ điệu của người phát ngôn. Một biểu thức ngôn hành có thể chứa đựng nhiều HĐTL và ngược lại một HĐTL có nhiều cách thể hiện. Vì vậy, xác định một biểu thức ngôn hành thuộc HĐTL nào thì người tiếp nhận phải có cảm nhận tinh tế trong từng tình huống cụ thể. HĐTL có được là nhờ lực tại lời (đích ở lời). Tuy nhiên, có những phát ngôn không chỉ một lực tại lời mà là có nhiều lực tại lời: hiệu lực tại lời trực tiếp và hiệu lực tại lời gián tiếp. Theo đó, có HĐTLTT và HĐTLGT. Vậy, muốn nhận biết được tất cả các HĐTL, chúng ta phải biết tất cả các biểu thức ngôn hành (bao gồm các biểu thức ngôn hành tường minh và biểu thức ngôn hành hàm ẩn) và hiệu lực tại lời của các HĐTL. HĐTL không bao giờ tách khỏi ngữ cảnh, tách khỏi hoạt động hội thoại. Do đó, xem xét HĐTL cần xem xét sự tác động qua lại giữa người tham gia giao tiếp và các hành động ngôn từ; giữa các HĐTL được tạo nên trong hội thoại. Phần dưới đây, chúng tôi sẽ tiến hành phân loại và miêu tả cách HĐTL thường gặp trong ca dao đối đáp theo cách hiểu trên. 2.1.2 Đặc điểm cấu trúc hội thoại và ngữ cảnh của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt Ca dao đối đáp giao duyên là thơ dân gian, dùng để hát đối đáp, nói chuyện về tình yêu. Do là thơ dân gian nên ngôn ngữ dùng để tạo ra lời nói không phải chỉ là ngôn ngữ hằng ngày mà còn mang dấu ấn của ngôn ngữ nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu văn học, phong cách học và cả những nhà ngôn ngữ học đều thống nhất xem ngôn ngữ trong ca dao là ngôn ngữ nghệ thuật. Từ góc độ giao tiếp ngôn ngữ, Hữu Đạt đi tìm “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ và ca dao” cho rằng: ca dao là văn bản nghệ thuật có tổ chức theo kiểu lắp ghép liên hành động, có khả năng dự đoán trước, có độ lặp cao về mô hình kiến trúc và dễ tạo thành các dị bản. Ví dụ: (2) Ca dao là văn bản nghệ thuật có kết cấu theo kiểu lắp ghép liên hành động. SP1 - Nghe em phân như dần khúc ruột Gần nhau chưa được lại nói cuộc chia xa. Thế nào cũng ráng chờ qua, Tiền lo không kịp, qua sẽ bán nhà cưới em. SP2 - Hỏi thử anh cho biết đường nhơn ngãi, Em đâu có ngại sự đợi chờ. Một lời hứa đạo tóc tơ Trăm năm cũng chẳng hững hờ dạ riêng. Bài ca dao có hai lượt lời, gồm 8 dòng. Theo trình tự của bài ca dao, chúng tôi thấy có các hành động nói sau: Trong lượt trao lời của SP1: Hành động 1 (dòng 1,2): Nghe em phân như dần khúc ruột … chia xa là hành động bày tỏ. Chàng trai bày tỏ tâm trạng xót xa của mình trước sự chia ly. Hành động 2 (dòng 3): Thế nào cũng ráng chờ qua thuộc hành động thỉnh cầu. Chàng trai mong muốn cô gái chờ mình. Hành động 3 (dòng 4): Tiền lo không kịp, qua sẽ bán nhà cưới em thuộc hành động hứa hẹn. Chàng trai hứa hẹn sẽ kiếm tiền cưới cô gái bằng mọi giá cho dù phải bán nhà. Trong lượt đáp lời của SP2: Hành động 1 (dòng 4): Hỏi thử anh cho biết đường nhơn ngãi thuộc hành động trần thuật. Cô gái giải thích lí do thực hiện hành động hỏi của mình trước đây. Hành động 2 (dòng 5): Em đâu có ngại đợi chờ thuộc hành động chấp nhận gián tiếp. Cô gái chấp nhận lời thỉnh cầu. Hành động 3 (dòng 6,7): Một lời hứa … dạ riêng thuộc hành động hứa hẹn. Cô gái hứa hẹn sẽ đợi chờ. Tất cả các hành động trên đều là HĐTL. Những hành động này gây ra một hiệu lực ở ngay trong lời nói, đưa người nói và người nghe vào những ràng buộc nhất định. Ngôn ngữ của ca dao là ngôn ngữ của quần chúng nhân dân, nhưng được sử dụng theo phương thức trữ tình của thơ ca nên nó vừa giống với ngôn ngữ hàng ngày vừa giống với ngôn ngữ nghệ thuật. Do đó, để xác định hiệu lực tại lời trong lời ca dao đối đáp, chúng ta không chỉ xác định nghĩa của từ ngữ theo nghĩa thông dụng mà còn phải chú ý nghĩa ngôn từ nghệ thuật. Những lời ca dao đối đáp giao duyên được hình thành trong các cuộc hát đối đáp như hát quan họ, hát ghẹo, hát ví, hát phường vải… Các cuộc hát đối đáp này gồm nhiều chặng, thứ tự mỗi chặng là các bước phát triển của một tình duyên ước lệ. Lời ca dao chính là những lời thoại trong cuộc thoại, một cuộc hội thoại có người nói và người nghe trong một hoàn cảnh nhất định. Theo lí thuyết hội thoại, một cuộc thoại ngắn nhất phải có đầy đủ hai vế đối thoại: phần trao lời và phần đáp lời. Cặp thoại được xem là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu. Tuy nhiên, khảo sát các công trình biên soạn ca dao từ xưa đến nay đều thấy số lượng bài ca dao có đầy đủ hai vế đối thoại rất ít, đa số chỉ có một vế trao lời hoặc đáp lời. Số lượng ca dao đối đáp trên một lượt lời là không nhiều. Trong 1514 đơn vị ca dao giao duyên mà chúng tôi khảo sát, chỉ có 313 đơn vị có đầy đủ hai vế đối thoại (hai lượt lời trở lên), còn lại chỉ có một vế (một lượt lời). Tương tự, tác giả Nguyễn Đức Luận, trong bài nghiên cứu “Mảnh vỡ hội thoại trong ca dao dân ca Việt Nam” đã thống kê trong 11.825 đơn vị ca dao từ “Kho tàng ca dao người Việt” chỉ có 539 đơn vị có hai vế đối đáp, 3473 chỉ có một vế. Về nguyên nhân, theo Nguyễn Đức Luận, một mặt do người sưu tầm biên soạn đã tách các lượt lời trong cuộc hội thoại thành hai lượt lời riêng biệt hoặc xé nhỏ các lời thoại dài; mặt khác do đặc trưng sáng tác của ca dao dân ca, trong quá trình đối đáp có khi người nghe không trả lời: lời hỏi quá khó không thể trả lời, lời hỏi thô tục không muốn trả lời hoặc có thể là hỏi vấn đề tế nhị nên chưa trả lời (cũng có thể người nghe đáp lời bằng hành động phi lời)… Do đó, khi phân loại và miêu tả các HĐTL trong ca dao đối đáp giao duyên, chúng ta phải cố gắng hình dung ra cuộc trò chuyện, người đang trò chuyện và nội dung trò chuyện của các câu ca dao có một lượt lời. Có một điểm đáng chú ý là việc xác định đặc điểm người nói của các lượt lời, trong một số trường hợp rất khó khăn. Chẳng hạn, khó xác định hai lượt của bài ca dao sau đây, lượt lời nào của nam, lượt lời nào của nữ, bởi vì có thể người trao lời là chàng trai, xưng anh, và cũng có thể hiểu là cô gái, xưng em: Lượt trao lời: Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím, Em đã có chồng em trả yếm lại anh. Lượt đáp lời: Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh, Yếm em em mặc, yếm anh sao anh đòi. Trong ca dao đối đáp giao duyên, nhân vật giao tiếp là các chàng trai và cô gái (cá nhân hoặc tập thể). Hai nhân vật này có mối quan hệ gần gũi, thân tình với nhau, có thể là bạn, là người yêu. Về thứ bậc, tuổi tác, thường vai nữ sẽ nhỏ hơn vai nam, nhưng cũng có thể là ngang bằng. Vai giao tiếp nữ thường được gọi là “cô”, “cô hai”, “cô ba”, “cô kia”, “cô ấy”, “chị hai”, “thục nữ”, “em”, “nàng”, “bậu”, “mình”, “người”, “ai”, “đó”… và thường tự xưng là “em”, “thiếp”, “tôi (tui)”… Vai giao tiếp nam thường được gọi là “anh”, “mình”, “qua”, “chàng”, “người nghĩa”, “phu quân”, “bạn”, “anh ba”, “anh hai”, “anh kia”, “anh đồ”, “ai”… và tự xưng là “anh”, “ta”, “qua”, “tôi/tui”, “đây”… Các từ xưng hô này phần lớn được phân ra ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai rõ ràng tạo thành cặp đối xứng như: anh – em; chàng - thiếp; qua - bậu; mình – ta… Nhưng có nhiều trường hợp, những người đang trực tiếp nói trò chuyện lại dùng đại từ chỉ ngôi thứ ba như cô ấy, anh ấy, ai kia, đại từ phiếm chỉ ai, tưởng như họ đang nói về một người nào đó không có mặt trong cuộc thoại nhưng kì thực họ đang nói về chính mình và đối tượng tham gia cuộc thoại với mình. Ví dụ: (3) Trong bài ca dao “Tát nước đầu đình” có câu: Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng. Vận dụng lí thuyết chiếu vật và chỉ xuất để xác định: ai thực hiện hành động nói? nói với ai?, bao giờ vai nói cũng đặt mình trong sự tương tác với vai nghe, ta có thể xác định: người nói - người con trai xưng là anh và gọi người nghe - người con gái là em, là cô ấy. Ai đưa em đến chốn này, Bên kia là núi bên này là sông. Từ ai trong câu ca dao trên có sự quy chiếu đến chủ thể của hành động “đưa đến chốn này” gây tổn thất cho người nói nên người nói có hàm ý trách móc, tức là ai chỉ ngôi thứ hai - người nghe. Còn trong ví dụ sau: Ai1 mà nói dối với ai2. Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng. Ai1 chỉ ngôi thứ nhất - người thực hiện hành động thề nguyền. Ai2 chỉ ngôi thứ hai, người nói dùng để gọi người nghe. Có trường hợp, ta không thể phân biệt rạch ròi vai giao tiếp nam và vai giao tiếp nữ, nghĩa là không phân biệt được giới tính. Đó là các trường hợp vai giao tiếp dùng các từ xưng hô như mình – ta; đây – đó; đấy – đây; người – tôi … chẳng hạn: Mình ơi ta hỏi thực mình Còn không hay đã chung tình với ai? Ngoài ra, còn có trường hợp nhân vật giao tiếp, bằng phương thức ẩn dụ, hoán dụ đã mượn các biểu tượng để xưng gọi, để bộc lộ tâm trạng, sắc thái tình cảm của mình. Các biểu tượng này thường tương đẳng với nhau về thuộc tính ngữ pháp - ngữ nghĩa và được biểu trưng hoá đồng hướng. [61-188] Ví dụ: (4) a. Bây giờ mận mới hỏi đào, Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? b. Thuyền về có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. Ở ví dụ 4, qua cách liên tưởng về thuộc tính của các hình ảnh biểu tượng, người Việt dễ dàng nhận thấy “mận, thuyền” chính là cách xưng gọi của vai giao tiếp nam, còn “đào, bến” là vai giao tiếp nữ. Nhìn chung, những đại từ nhân xưng này được sử dụng rất linh hoạt và độc đáo phản ánh được mối quan hệ xã hội cũng như trạng thái tâm hồn của chàng trai, cô gái. Bối cảnh gặp gỡ (thoại trường) của các chàng trai cô gái trong ca dao đối đáp giao duyên là bức tranh sinh hoạt hàng ngày gắn với đời sống nhân dân lao động: lễ hội, sân đình, đường làng, bờ sông, bến sông, bờ ao, chợ, đêm trăng, trên đồng dưới ruộng, cửa ngõ… Bối cảnh giao tiếp này tuy có thực nhưng ở đây nó thường tập trung cho mục đích biểu trưng hoá nghệ thuật. Nó là bối cảnh mang tính ước lệ, biểu trưng gắn liền với cách thức diễn tả tình ý mang tính đặc trưng của thể loại. Ví dụ: núi cao, biển sâu biểu trưng cho những thử thách, gian khổ; đêm trăng, vườn hồng, sân đình biểu trưng cho không gian gặp gỡ… Thời gian (hôm qua, bây giờ, đêm qua) xuất hiện trong lời trần thuật cũng thiếu tính cụ thể, mang tính phiếm chỉ. Những vấn đề nêu trong mục 2.1.2 cũng là những vấn đề cơ bản của ngữ dụng học. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn nói chung và chương 2 nói riêng, thì đây không phải là đối tượng khảo sát chủ yếu. Do đó, chúng tôi chỉ giới thiệu một cách khái quát nhằm tạo ra những tiền đề cần thiết để miêu tả các HĐTL được trình bày ở phần tiếp theo. 2.2 Phân loại và miêu tả các hành động tại lời của ca dao đối đáp giao duyên Đến với lời ca dao giao duyên là đến với một khu vườn tình ái đầy hương sắc, nhiều cung bậc. Bằng chất liệu ngôn từ, những chàng trai cô gái bình dân đã thực hiện những hành động nói chuyện tình yêu. Họ trao – đáp cho nhau những thông tin chân thành nhằm mục đích tìm hiểu, trao gửi tình cảm, hay những lời bày tỏ nỗi lòng thương nhớ, cảm xúc giận hờn tiếc nuối, những lời trách cứ, lời từ chối nhẹ nhàng… Vận dụng lí thuyết ngữ dụng học, chúng tôi thử miêu tả những hành động được thực hiện ngay khi nói năng ở những đơn vị ca dao có cấu trúc đối đáp. 2.2.1 Hành động hỏi (Question) Hỏi là một HĐTL. Theo Searle, mỗi HĐTL đều đòi hỏi phải có những điều kiện để cho việc thực hiện nó đạt hiệu quả đúng với đích của nó. Vậy, để hành động hỏi được thực hiện một cách chân thành và đạt hiệu quả, cần thoả mãn một số điều kiện sau: [7-119] Điều kiện nội dung mệnh đề: tất cả các mệnh đề p hay hàm mệnh đề. Điều kiện chuẩn bị: 1) Người nói (S) không biết lời giải đáp điều mình hỏi. 2) Cả đối với người nói, người nghe (H) không chắc rằng bất cứ lúc nào người nghe cũng cung cấp thông tin ngay lúc trò chuyện nếu người nói không hỏi. Điều kiện chân thành: người nói mong muốn có được thông tin đó. Điều kiện căn bản: người nói nhằm cố gắng nhận được thông tin từ người nghe. Đây là những quy tắc thực hiện hành động hỏi. Nếu người nói cố tình vi phạm điều kiện trên khi đặt câu hỏi tức là người nói đã lạm dụng hành động hỏi, dùng chúng để thực hiện một cách gián tiếp hành động tại lời khác. Cụ thể người nói dùng hành động hỏi khi: Đã biết lời giải đáp cho nội dung câu hỏi Biết chắc người nghe không thể giải đáp được nội dung câu hỏi Việc sử dụng hành động hỏi nhằm mục đích giải đáp điều mình hỏi là hành động hỏi trực tiếp. Nếu nhằm thực hiện hành động khác thì đó là hành động hỏi gián tiếp. Khảo sát 1514 câu ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt, kết quả thu được 481 phát ngôn chứa hành động hỏi. Trong đó, 227 câu là hỏi trực tiếp và 254 câu hỏi gián tiếp. Chúng ta có thể thấy hành động hỏi có tần số xuất hiện khá cao. a) Hành động hỏi trực tiếp a.1) Hành động hỏi tổng quát được cấu tạo theo khuôn hỏi kiểu: có… không?; đã …chưa?; có …chăng? (có) ….phải không?; (có)… chưa?;… Ở kiểu hỏi này, người nói dự đoán hai khả năng xảy ra của hành động hoặc sự kiện A. Tuy nhiên, có hai trường hợp xảy ra: thứ nhất S nghiêng về dự đoán khả năng “có” nhưng không chắc chắn nên đưa ra câu hỏi nhằm xác minh dự đoán của mình là đúng; thứ hai A có thể tồn tại hoặc không tồn tại trong hiện thực và S rơi vào trạng thái dao động giữa hai khả năng đó. Đồng thời, cũng có sự khác nhau giữa cấu trúc hỏi có … không? (1), đã …chưa? (2). (1) S giả định khả năng p có thể xảy ra ở tại điểm mốc thời gian t, không gian mà S xác định cụ thể. S mong muốn H cho biết cụ thể p tồn tại hay không tồn tại. (2) S muốn biết p tồn tại hay không tồn tại ở một thời điểm nào đó trước t. Ví dụ: (5) a. Anh đã có vợ con chưa, Mà anh ăn nói đẩy đưa ngọt ngào? b. Gặp đây anh nắm cổ tay Anh hỏi câu này có lấy anh không? c. Ngủ quên một giấc hừng đông, Hẹn thời lỡ hẹn, mình trông không mình? d. Em đà thuận lấy anh chưa, Để anh đốn gỗ rừng nưa đóng thuyền? e. Gặp nhau đây đâu phải điều trăng gió Xin hỏi một lời đã có chồng chưa? Xin hỏi cô một lời cô cứ thật phân qua. Trong ví dụ 5, giả định ngữ cảnh của phát ngôn 5.a là: chàng trai và cô gái chưa từng biết nhau và họ gặp nhau trong một dịp nào đó; chàng trai tỏ ra là người lịch thiệp trong lối trò chuyện, tán tỉnh cô gái. Cô gái căn cứ vào dấu hiệu “ăn nói ngọt ngào” của chàng trai khi anh ta buông lời tán tỉnh, đoán định có thể chàng trai đã có vợ. Hoặc, cô gái nhận thấy chàng trai nói chuyện rất có duyên, muốn trao gửi tình cảm nhưng trong lòng phân vân không biết chàng trai đã có vợ hay chưa. Cô gái thực hiện hành động hỏi với mong muốn biết trong quá khứ việc chàng trai có vợ có tồn tại hay không. Ở phát ngôn 5.c chàng trai đoán định là cô gái đang nhớ mong mình, muốn xác minh điều mình đoán định là đúng. Bởi lẽ chàng trai cũng nhớ mong cô gái, chuyện ngủ quên chỉ là cái cớ giải thích nguyên nhân lỡ hẹn mà thôi. Trong câu này yếu tố “có” bị tỉnh lược. a.2) Hành động hỏi lựa chọn được cấu tạo với các từ lựa chọn: hay; hay là… Thứ nhất, hỏi lựa chọn có khuôn hỏi “có … hay không?; hay?; đã… hay chưa?”, S đặt H trước một sự lựa chọn giữa hai khả năng trả lời. S giả định một trong hai khả năng ấy là đúng với hiện thực. Xét về thực chất, câu hỏi này không khác câu hỏi có ...không? Điểm khác ở đây là khi dùng cấu trúc hỏi này, S có dụng ý buộc H phải bày tỏ quan điểm một cách dứt khoát, rõ ràng nội dung mà câu hỏi đưa ra. Ví dụ: (6) a. Gặp đây anh hỏi thực nàng, Còn không hay đã đá vàng cùng ai? b. Dao vàng bỏ đãy kim nhung Hỡi người quân tử có dùng hay không? c. Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược, Anh mảng thương nàng biết được hay không? d. Anh chào nàng rồi lại hỏi nàng: Phụ mẫu nhà đã định đức đông sàng hay chưa? e. SP1 - Cô kia má đỏ hồng hồng Dừng tay tôi hỏi có chồng hay chưa? SP2 - Có chồng năm ngoái năm xưa Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng. Khi thiết lập nội dung mệnh đề hỏi, chàng trai hoặc cô gái đưa ra hai lựa chọn và mong muốn người đối thoại định rõ phần lựa chọn. Chẳng hạn, ở ví dụ 6.a, chàng trai đưa ra hai lựa chọn: “còn không” là chưa chồng, chưa bị ràng buộc và đã thề hẹn đá vàng, đã ràng buộc với ai đó. Chàng trai muốn cô gái xác định dứt khoát một trong hai lựa chọn đó: có hay chưa có chồng. Về hình thức, cách nói có vẻ bóng gió xa xôi nhưng nội dung thì rất cụ thể xác thực đã phản ánh được sự chân chất, tế nhị của người lao động. Thứ hai, cũng là hình thức hỏi lựa chọn nhưng S không dùng khuôn hỏi “có…hay không?” mà biểu thức ngôn hành biểu thị hành động hỏi trong trường hợp này là: S- V - bên nào?. (S: chủ thể, V: động từ) Ví dụ: (7) a. SP1 - Một bên đèn sách văn chương, Một bên bị gậy, em thương bên nào? SP2- Bên đèn sách em cũng vì, Bên bị gậy em thì cũng thương. b. SP1- Một bên quần rộng áo dài Một bên cày cấy lấy khoai đổ bồ Hai bên em chuộng bên mô? SP2 –Hai bên em chuộng bên bồ khoai lang. Thứ ba, hỏi lựa chọn có kết cấu “hay là….?”: cũng hỏi lựa chọn nhưng thiên về đoán định. S cho rằng điều đoán định của mình là đúng nhưng còn hoài nghi khả năng hiện thực của nội dung. Tuy mang tính chủ quan nhưng người hỏi không dồn ép, áp đặt mà để người người nghe lựa chọn câu trả lời. Tuy nhiên, do S nghĩ rằng điều mình đoán định là đúng nhưng không chắc chắn và nhận thấy thông tin đưa ra có khả năng đe doạ thể diện người nghe nên sử dụng một số tác tử thông tin ngữ dụng bổ trợ gắn với hành động hỏi. Ví dụ: (8) Gặp nhau ghé nón không chào, Hay là em đã có người nào hơn anh? Thông tin ngữ dụng “gặp…không chào” dẫn đến hành động đoán định “đã có người (khác)”. Ta hình dung ra ngữ cảnh của phát ngôn: chàng trai và cô gái từng có quan hệ yêu thương. Hiện tại cô gái biểu hiện thái độ thờ ơ với mối quan hệ đó bằng hành động “không chào”. Căn cứ biểu hiện của cô gái mà chàng trai đoán cô gái đã có người khác. Chàng trai thực sự mong muốn nhận được thông tin. Với câu hỏi này, câu trả lời của cô gái có thể là: đã có bạn trai khác; đã có chồng; chưa có người khác hoặc nêu lí do kèm theo lời giải thích. a.3) Hành động hỏi chuyên biệt được cấu tạo bằng các đại từ nghi vấn: ai, đâu, sao, nào, bao nhiêu… - Hỏi về nguyên nhân: sao/ thế nào, cớ chi? Hỏi về nguyên nhân thường xuất hiện hai trường hợp. Thứ nhất, S muốn truy tìm nguyên nhân của sự kiện, hiện tượng. Tức là, S muốn tìm lời giải đáp cho một sự kiện, hiện tượng mà bản thân không tự giải thích được. Ví dụ (9) a. SP1 – Anh cầm cổ tay, anh chỉ cổ tay Ngày xưa em trắng sao rày em đen? SP2 – Vì chưng em lấy chồng hèn Mò cua bắt ốc em đen thế này. Hoặc b. Anh thương em chỉ nói bên ngoài Sao anh không nói tận tay mẹ thầy? Có thể hình dung ngữ cảnh của câu ca dao trong ví dụ 9.b: chàng trai và cô gái quen nhau đã lâu, bạn bè xung quanh ai cũng biết. Cô gái muốn có cuộc hôn nhân, muốn chàng trai đến nhà xin phép bố mẹ “nói tận tay mẹ thầy”, nhưng chàng trai ví lí do nào đó nên không thực hiện mong muốn của cô gái. Hành động hỏi của cô gái là muốn làm rõ nguyên nhân đó. Trường hợp này cũng có thể xem là hỏi gián tiếp vì đây có thể là lời thỉnh cầu hay trách cứ. Cô gái trong câu ca dao là người đoan chính, có lễ giáo, trước khi trao gửi tình cảm muốn chàng trai đến xin phép cha mẹ của mình hoặc trách chàng trai không thật lòng: chỉ yêu chơi ngoài đường. Thứ hai, S đứng trước một tình trạng mâu thuẫn: S giả định và chờ đợi như thế này nhưng thực tế xảy ra như thế khác. Ví dụ: (10) Tay em tay bạc tay vàng Sao anh không chuộng, chuộng nàng tay không? Theo lẽ thường, nếu được lựa chọn giữa một nơi có nhiều tiền của và một nơi không có gì thì người ta sẽ lựa chọn nơi lắm bạc nhiều vàng. Chàng trai đã làm điều ngược lại với lẽ thường và như vậy đã nằm ngoài dự đoán của cô gái. Chàng trai đã chọn người con gái không có tiền của khiến cô gái muốn tìm hiểu nguyên nhân đó. - Hỏi về đặc trưng: sao, thế nào, làm sao, là sao? Ví dụ: (11) a. SP1- Nếp ngâm mà đậu chưa chà, Lòng em nói rứa, còn mẹ già nói sao? SP2 - Nếp ngâm thì đậu cũng xay Lòng em nói rứa mẹ thầy cũng ưng. b. Gặp đây anh nắm cổ tay, Hỏi rằng duyên ấy tình này là sao? Câu hỏi kiểu này cho thấy, S hỏi về tình trạng, trạng thái của đối tượng. S muốn H cung cấp thông tin làm sáng rõ điều mà S chưa sáng rõ, chưa chắc chắn. Nội dung câu nói của SP1 trong ví dụ 11.a: hình ảnh nếp - đậu là hình ảnh ẩn dụ biểu thị mối quan hệ giữa cô gái và cha mẹ của cô gái với chuyện tình cảm của cô gái và chàng trai. Đối với chàng trai, cô gái cũng như nếp ngâm, nghĩa là đã chấp nhận tình yêu của chàng, chấp nhận chàng trai làm chồng. Còn cha mẹ cô gái giống như đậu chưa chà, tức là chưa chấp nhận. Câu hỏi của chàng trai là muốn cô gái cho biết thái độ của cha mẹ cô gái đối với mình. Ví dụ 11.b, chàng trai hỏi tường minh tình trạng tình duyên “duyên ấy tình này” giữa mình và cô gái. - Hỏi về sự tồn tại: …đâu? Ví du: (12) Hỏi chồng bậu nói rằng không, Con đâu bậu ẵm, bậu bồng trên tay? Chàng trai hỏi về sự có mặt của đứa bé mà cô gái đang bồng trên tay, mong muốn cô gái cung cấp thông tin về nguồn gốc đứa bé. Chàng trai đã có thông tin cô gái chưa lấy chồng, vậy đứa bé là con ai? Chàng trai không biết nhưng đoán chắc cô gái biết. Do thông tin nói ra là tế nhị, dễ làm mất thể diện nên chàng trai tạo sự cảm thông bằng lời rào đón về nguyên nhân “hỏi chồng bậu nói rằng không”. Nếu theo cách hiểu này thì đây là câu hỏi trực tiếp, hỏi về sự tồn tại của sự việc. Tuy nhiên câu ca dao còn có cách hiểu thứ hai là chàng trai đã xác định đứa bé trên đích thực là con của cô gái. Câu hỏi của chàng trai là gián tiếp trách móc cô gái đã nói dối. - Hỏi về địa điểm, nơi chốn: ở đâu, nơi nào, đâu, nơi đâu? Ví dụ: (13) a. SP1 - Hỏi chàng quê quán nơi đâu, Mà chàng thả lưới buông câu chốn này? SP2 - Quê anh ở phủ Hưng Nguyên Phú long là tổng, Liệu xuyên là làng. b. Tiện đây ăn một miếng trầu, Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là? c. SP1- Bữa ni chàng mới tới nhà Hỏi chàng coi thử ở xa hay gần? SP2 - Trước Lam Thuỷ, sau Hồng Sơn, Nhà nào đọc sách gảy đờn nhà anh. d. SP1 - Gặp nhau anh muốn tỏ tường Xin nàng cho biết quê hương nơi nào? SP2 - Chàng hỏi em phải nói ra Bắc Ninh là tỉnh huyện nhà không sai. Với hành động hỏi trực tiếp nơi chốn, phần lớn các cô gái, chàng trai muốn biết quê quán của nhau, vì cuộc đối đáp thường diễn ra trong ngày hội làng, trai gái nhiều vùng khác nhau kéo đến. Điều này phù hợp với tính cách người Việt: trước khi trao gửi tình yêu, người ta cần xác định nguồn gốc, gia cảnh hai bên. Ở ví dụ 13.c, từ câu trả lời của SP2 là nêu địa điểm nơi ở của mình, cho thấy từ để hỏi “ở gần hay xa” của SP1 là hỏi về nơi chốn. Các câu “bữa ni chàng mời tới nhà, gặp nhau anh muốn tỏ tường xin nàng cho biết” chỉ là những lời rào đón do phép lịch sự quy định nhằm tránh gây tổn hại đến thể diện. - Hỏi về thời gian: mấy, bao giờ? Đường dài ngựa chạy cát bay, Chàng về chốn cũ mấy ngày đến nơi? - Hỏi về thứ tự, số lượng: mấy, bao nhiêu? Ví dụ: (14) a. Chàng là con thứ mấy trong nhà, Mà chàng ăn nói mặn mà có duyên? ...... Để em làm vợ, em trông cậy nhờ. b. Trăng lên khỏi núi trăng tròn, Em bao nhiêu tuổi mà giòn thế em? Trong quan niệm của người Việt, thứ bậc của người con trai trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong lựa chọn người yêu của người con gái. Thông thường người con trai cả phải gánh vác nhiều trách nhiệm đối với gia đình, người con trai út thường được hưởng nhiều ưu đãi. Nhiều cô gái lo ngại trách nhiệm gia đình, không muốn chọn người phải gánh vác gia đình. Người con trai thường không quan tâm đến thứ bậc của cô gái nhưng lại quan tâm nhiều đến tuổi: tuổi được lấy chồng, già hay trẻ... - Hỏi xác định nhân vật thứ ba: ai...? Ví dụ: (15) a. Áo anh ai cắt ai may, Dường tà ai đột, cửa tay ai viền? b. SP1 - Hỏi anh chìa khoá ai cầm Giang sơn ai giữ, việc tảo tần ai lo? SP2 - Chìa khoá đã có mẹ anh cầm Giang sơn anh giữ, việc tảo tần em lo. Trường ví dụ 15, S hỏi về một nhân vật thứ ba nào đó vắng mặt trong cuộc thoại mà S chưa biết, mong muốn H cung cấp thông tin về nhân vật đó. Có khi nhân vật thứ ba đó cũng chính là S và H nhưng S chưa thực sự xác định được. Ví dụ 15.a. cô gái không biết người đã may áo cho chàng trai là ai, có thể là vợ cũng có thể là mẹ. Hỏi về nhân vật thứ ba này, cô gái trong câu ca dao trên muốn xác định “ai” có phải là người yêu của đối tượng không. Ở 15.b, SP1 muốn SP2 xác định danh tính người đảm nhận những công việc nêu ra. a.4) Hành động hỏi đố Xuất hiện khá nhiều trong ca dao đối đáp giao duyên là hình thức hỏi đố. Hỏi đố được xem là chặng thách thức thử tài trước khi quyết định phát triển quan hệ tình cảm nam nữ. Các chàng trai, cô gái có thể nhận biết được sự hiểu biết, tình nghĩa của người đang đối đáp với mình qua nội dung hỏi đố. Trong cấu trúc hỏi đố, ngoài hành động hỏi còn kèm theo các hành động khác như thách thức, hứa hẹn … Thường hỏi đố dùng cấu trúc hỏi chuyên biệt về người, vật: cái gì? con chi? mấy người ?, tên người – V? Ví dụ: (16) Lạ lùng bắt gặp chàng đây, Có mấy câu này em đoán chưa ra. Nếu mà anh giảng cho ra, Thì em kết nghĩa giao hoà cùng anh. Cái gì trong trắng ngoài xanh, Cái gì soi tỏ mặt anh mặt nàng, …. ? Trên đây, được xem là hỏi trực tiếp bởi chúng đảm bảo 4 điều kiện thoả mãn mà Searle đã nêu ra. Trong đối đáp giao duyên, việc sử dụng hành động hỏi trực tiếp về các vấn đề tình cảm phần nào phản ánh được tính cách bộc trực, thẳng thắn của người bình dân. b) Hành động hỏi gián tiếp Trong ca dao đối đáp giao duyên, dưới sự tác động của ngữ cảnh, tình huống hành động hỏi còn được sử dụng với chức năng gián tiếp là: từ chối, bác bỏ, bày tỏ, khuyên, thỉnh cầu, chấp nhận, trách cứ … b.1) Hành động hỏi có hiệu lực là từ chối Ví dụ: (17) a. SP1 - Tiện đây đưa một miếng trầu Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng. SP2 - Miếng trầu đã nặng như chì, Ăn thì đã vậy, lấy gì trả ơn? b. SP1 - Trước đây mỗi đứa mỗi nơi, Bây giờ giáp mặt hỏi người tính sao? SP2 - Mẹ cha anh chẳng phải giàu Thân anh làm mướn, tiền đâu cưới nàng? Từ chối là hành động ngôn từ liên quan đến một số hành động ngôn từ khác. Tuỳ thuộc vào loại hành động trao lời mà ta có chiến lược đáp lời từ chối khác nhau. Trong mối quan hệ với hành động thỉnh cầu, khen, chúc tụng ..., từ chối là phủ định hưởng ứng các hành động diễn ra ở lượt trao lời. Trong mối quan hệ với hành động hỏi, từ chối là phủ định sự đáp lời… [27-2]. Ở ví dụ 17.a, Hành động trao lời của SP1 là hành động cho, tặng dưới hình thức cầu khiến và có hiệu lực như lời bày tỏ. Thoại trường được lí giải như một sự tiện thể, không chủ định trước nên có thể gây cản trở cho việc tiếp nhận vật cho tặng của SP2 nên SP1 đã sử dụng từ ngữ cầu khiến “cầm lấy cho” mang sắc thái ép buộc. Để sử dụng chiến lược cho, tặng cầu khiến, SP1 phải có vị trí cao hơn SP2 và SP2 có vị trí thấp hơn, đồng thời không có quyền từ chối. Như vậy, nếu SP2 từ chối sẽ làm tổn thương thể diện của SP1. Do đó, muốn từ chối phải sử dụng chiến lược từ chối khéo léo. Trường hợp này, có thể hiểu người cho tặng là chàng trai, vật cho tặng là miếng trầu, người hưởng lợi là cô gái. Miếng trầu trong giao duyên, theo văn hoá người Việt, là biểu tượng cho tình yêu và sự gắn kết lứa đôi. Cô gái nhận thấy chưa thể tiếp nhận nó. Câu hỏi của cô gái là lời từ chối tế nhị. Nội dung câu hỏi chính là lí do từ chối: tình cảm chàng trai quá sâu nặng “miếng trầu nặng như chì” mà cô gái chưa có (cái) gì xứng đáng để đáp lại tình cảm đó. b.2) Hành động hỏi có hiệu lực là bác bỏ Ví dụ: (18) SP1 - Khăn lông rút gốc đẹp tợ như rồng, Anh muốn mua cho đội, sợ chồng em ghen. SP2 - Vịt bầu đòi tắm ao sen, Chồng tôi chưa có, mà ghen nổi gì? Câu hỏi của SP2 là hỏi – bác bỏ, hồi đáp cho hành động trần thuật. Nhận diện được hiệu lực bác bỏ trong câu hỏi của SP2, là do hiệu lực bác bỏ được đánh dấu bằng từ ngữ: chưa có, nổi gì. Hành động bác bỏ được thực hiện bằng cách chất vấn về sự tồn tại của sự việc “chồng ghen”, có mặt trong phát ngôn trần thuật của SP1. Nét nghĩa nghi vấn ban đầu của từ gì trong ví dụ trên được thay thế bằng nghĩa bác bỏ. b.3) Hành động hỏi có hiệu lực là bày tỏ Bày tỏ là nói ra cho người khác rõ ý kiến, trạng thái tâm lí của mình đối với một sự kiện nào đó. Trong ca dao đối đáp giao duyên, hành động hỏi có hiệu lực bày tỏ là hỏi nhằm bày tỏ những cảm xúc nhớ thương, những mong ước của những chàng trai cô gái. Ví dụ như: (19) Mặt trăng sánh với mặt trời Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng. Mình ơi! có nhớ ta chăng? Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời. Ở ví dụ 19, biểu tượng mặt trăng - mặt trời, sao hôm – sao mai biểu trưng cho sự tương xứng giữa mình và ta. Mặt trăng, sao hôm biểu trưng của đêm và mặt trời, sao mai biểu trưng của ngày. Ngày gắn với đêm thành cặp. Tuy nhiên, ngày và đêm luôn xa cách cũng như mặt trăng với mặt trời, sao hôm với sao mai. Mình – ta có thể là chàng trai nói với cô gái hoặc cô gái nói với chàng trai. Chàng trai – cô gái cũng giống như ngày và đêm. Như vậy, người nói cảm thấy mình với người tiếp nhận thật đẹp đôi nhưng lại không thành đôi. Tại sao vậy? Có thể là do hoàn cảnh gia đình, hoặc do người nói chỉ yêu đơn phương … Do đó, câu hỏi của người nói là bày tỏ tình cảm của mình với người tiếp nhận và mong ước có được tình yêu song phương. Ví dụ: (20) SP1 - Gặp em giữa chốn vườn đào Kẻ giàu, người khó làm sao nên tình? SP2 - Thế gian chuộng của, chuộng tài Em đây chuộng nghĩa, chẳng nài giàu sang. Câu hỏi của chàng trai trong ví dụ 20 không nhằm muốn biết thông tin về cách thức, mà chủ yếu là để bày tỏ sự lo lắng khi nghĩ đến khoảng cách giàu nghèo, định kiến xã hội, ngăn cách tình yêu giữa chàng và cô gái. Từ ngữ “làm sao” không chỉ dẫn hiệu lực hỏi mà là cảm thán. Lời đáp của cô gái là đáp lại lời bày tỏ tình cảm và cũng chính là lời an ủi với hàm ý: không phải trên thế gian ai cũng coi trọng tiền bạc đâu anh, cũng có người coi trọng tình nghĩa hơn tiền bạc đấy, em chính là người coi trọng tình nghĩa. b.4) Hành động hỏi có hiệu lực là khuyên – bày tỏ Ví dụ: (21) Hỡi cô tát nước bên đàng, Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi? Ta có thể hình dung ra ngữ cảnh: trên cánh đồng đêm ấy, có ánh trăng chiếu xuống, dưới nước có ánh trăng vàng lung linh. Có một chàng trai đang đi ngang qua cánh đồng. Bên đường đi có c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVNNH024.pdf
Tài liệu liên quan