Luận văn Cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam, thực trạng và giải pháp: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG **************** KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM- THỰC TRẠNG  GIẢI PHÁP Sinh viên thực hiện : Trần Thị Thuý Hằng Lớp : A8 - K37 Giáo viên hướng dẫn : ThS. Phạm Thu Hương HÀ NỘI – 2002 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong suốt thời kỳ đổi mới hơn 15 năm qua, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy và không thể thiếu của các thành phần kinh tế, có những đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện với tốc độ khá cao và ổn định. Đặc biệt từ khi tiến hành cải cách lĩnh vực ngân hàng, hoạt động của các ngân hàng đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, thực tiễn cải cách NHTM trong thời gian qua cho thấy các hoạt động cải cách còn nhiều tồn tại, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa các Bộ, Ngành cũng như chưa có được một cơ chế chính sách đồng bộ cho hoạt động cải cách ngân hàng. K...

pdf100 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1164 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG **************** KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM- THỰC TRẠNG  GIẢI PHÁP Sinh viên thực hiện : Trần Thị Thuý Hằng Lớp : A8 - K37 Giáo viên hướng dẫn : ThS. Phạm Thu Hương HÀ NỘI – 2002 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong suốt thời kỳ đổi mới hơn 15 năm qua, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy và không thể thiếu của các thành phần kinh tế, có những đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện với tốc độ khá cao và ổn định. Đặc biệt từ khi tiến hành cải cách lĩnh vực ngân hàng, hoạt động của các ngân hàng đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, thực tiễn cải cách NHTM trong thời gian qua cho thấy các hoạt động cải cách còn nhiều tồn tại, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa các Bộ, Ngành cũng như chưa có được một cơ chế chính sách đồng bộ cho hoạt động cải cách ngân hàng. Kết quả là tuy đã giảm được số lượng các ngân hàng hoạt động không hiệu quả và tăng vốn điều lệ nhưng tỷ lệ nợ quá hạn tại các ngân hàng vẫn còn rất cao, hoạt động của các ngân hàng vẫn chưa thực sự được ổn định. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh một cách có hiệu quả hơn nữa hoạt động cải cách các NHTM đang là một nhiệm vụ cấp thiết của nhiều Bộ, Ban, Ngành... từ Trung ương đến địa phương và các ngân hàng. 2. Mục đích và ý nghĩa của khoá luận a. Mục đích của khoá luận Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng cải cách các NHTM Việt Nam, khoá luận đưa ra một số định hướng phát triển chính cho giai đoạn tới, đồng thời tìm ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động cải cách NHTM ở Việt Nam với mục tiêu xây dựng hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, vững mạnh và có khả năng cạnh tranh trong thời kỳ mới. b. Nhiệm vụ của khoá luận Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của khoá luận là: - Thống nhất chung về mặt lý luận. - Phân tích, đánh giá để từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp và kiến nghị. c. Ý nghĩa của khoá luận Về lý luận, khoá luận có ý nghĩa tổng hợp, thống nhất và phát triển những vấn đề bức xúc đã, đang và sẽ tiếp tục được bàn luận, nghiên cứu. Về mặt thực tiễn, khoá luận góp phần bàn luận các vấn đề nhằm thúc đẩy cải cách NHTM Việt Nam trong những năm tới. 3. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ một bài khóa luận, do những hạn chế nhất định về thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, đề tài chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận có liên quan đến tình hình hoạt động của hệ thống NHTM, cùng với một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh cải cách trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp - đúc kết - phát triển, kết hợp lý luận với thực tiễn, từ phân tích đến đánh giá để đưa ra các định hướng phát triển cùng với các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện. 6. Nội dung bố cục của khoá luận Nội dung chính của khoá luận được chia làm 3 chương: Chương 1: Tính cấp thiết của việc tiến hành cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam. Chương 2: Thực trạng cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua. Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới. CHƯƠNG I TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC TIẾN HÀNH CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM I. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1. Khái niệm chung 1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại 1.1.1. Sự ra đời và phát triển Ngân hàng thương mại Hệ thống ngân hàng thương mại là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân ở mỗi quốc gia. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của hệ thống NHTM gắn liền với quan hệ cho vay nặng lãi đã từng tồn tại trong thời kỳ phân rã của chế độ công xã nguyên thủy. Các hoạt động tương tự như ngân hàng đã xuất hiện khoảng 3000 năm trước Công nguyên tại các ngôi đền xứ Chaldée (thuộc Irak ngày nay). Thực chất, đó là các hoạt động tiếp nhận lễ vật và tài sản do các tín đồ gửi rồi cho nông dân vay với lãi suất cao. Đến thế kỷ IV trước Công nguyên, các ngân hàng thô sơ bắt đầu được thiết lập ở nhiều nơi. Các ngân hàng cho vay nặng lãi đã xuất hiện ở Ý khoảng 500 năm trước Công nguyên, chủ thể đi vay là giai cấp thống trị và những người sản xuất hàng hoá giản đơn, với mức lãi suất cao từ 40%-100%. Tuy nhiên, các ngân hàng hoạt động với quy mô lớn, đúng chức năng thì chỉ xuất hiện từ thế kỷ 16 về sau, bao gồm các ngân hàng của Ý như Banco di Napoli (1591), Istituto Bancario Sanpaolo di Torino (1563)… Khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, các ngân hàng cho vay nặng lãi buộc phải hạ lãi suất cho vay do áp lực của cuộc đấu tranh chống cho vay nặng lãi của các nhà tư bản. Mặt khác, cũng chính trong quá trình này, các nhà tư bản công thương nghiệp đã liên kết lập thành các hội tín dụng cho vay lẫn nhau với lãi suất vừa phải. Dần dần, những hội tín dụng này đã phát triển trở thành những NHTM cổ phần. Ngân hàng quốc gia Việt Nam, ngân hàng đầu tiên của nước ta đã được thành lập ngày 6-5-1951, theo Sắc lệnh số 15/LCT của Chủ tịch nước. Từ năm 1951 đến trước khi có Nghị định 53/HĐBT(26/3/1988), hệ thống ngân hàng ở Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp, gồm có NHNN và các ngân hàng chuyên nghiệp trực thuộc NHNN như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng. Chính hệ thống ngân hàng đơn nhất với cơ chế quản lý bao cấp, quan liêu đã làm cho hoạt động của toàn ngành ngân hàng trở nên đơn phương, cứng nhắc, không đáp ứng được các yêu cầu đổi mới của nền kinh tế thị trường. Vì thế, mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp theo Nghị định 53 là một bước tiến bộ đưa hoạt động tiền tệ, tín dụng thoát khỏi tình trạng cũ, thích hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sau 3 năm hoạt động trong cơ chế mới, ngân hàng đã tỏ ra năng động và linh hoạt hơn trong huy động và sử dụng vốn, nhưng vẫn còn nhược điểm là chưa định hướng rõ ràng, chính sách tiền tệ, tín dụng vẫn còn bao cấp, cho vay vốn lưu động tràn lan, … Trước tình hình đó, Hội đồng Nhà nước đã ban hành 2 Pháp lệnh ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng chuyên doanh được chuyển thành NHTM quốc doanh gồm có: Ngân hàng công thương Việt Nam (NHCTVN); Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNTVN); Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (NHNTVN). Pháp lệnh ngân hàng cũng quy định các NHTM Việt Nam có thể được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và được phép thực hiện đa dạng các nghiệp vụ, tạo điều kiện cho các NHTM có thêm khả năng làm các nghiệp vụ tài chính, từng bước lặp lại trật tự kinh doanh tiền tệ, thu hút đầu tư nước ngoài. Như vậy, hệ thống các NHTM nước ta là một bộ phận trong hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó NHNN làm nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ương, còn các NHTM và các TCTD khác hoạt động như các ngân hàng trung gian thực hiện chức năng kinh doanh. 1.1.2. Định nghĩa Ngân hàng thương mại: Định nghĩa NHTM thường được xây dựng theo tính chất và mục đích hoạt động của ngân hàng. Theo Luật ngân hàng của Pháp năm 1941, NHTM được định nghĩa là: “những xí nghiệp hay cơ sở thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác”. Bên cạnh đó, cũng có một số quốc gia đưa ra định nghĩa về NHTM dựa trên sự kết hợp với đối tượng hoạt động. Ví dụ như Luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: “NHTM là những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm v.v…”. Ở Việt Nam, không có một định nghĩa riêng về NHTM mà NHTM được coi là một loại hình TCTD. Do đó, định nghĩa các TCTD cũng được xem là định nghĩa NHTM. Theo điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng số tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các NHTM đều có chung một tính chất, đó là: việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. 1.2. Các loại hình NHTM ở Việt Nam Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được tổ chức căn cứ vào nguồn vốn hình thành, bao gồm 4 loại: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh và các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 1.2.1. Ngân hàng thương mại quốc doanh Ngân hàng thương mại quốc doanh là NHTM thuộc sở hữu của Nhà nước, được thành lập bằng 100% vốn Ngân sách. Các ngân hàng này được phép hoạt động trong lĩnh vực ngắn hạn, trung hạn, dài hạn tùy theo tính chất nguồn vốn huy động, được hoạt động cả trong nước và nước ngoài và các dịch vụ khác theo luật quy định. Từ năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam được sắp xếp lại thành 6 NHTM quốc doanh trong đó 4 ngân hàng hoạt động như những NHTM (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư &Phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn), 2 ngân hàng hoạt động như những ngân hàng chính sách (Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng Sông Cửu Long). Các NHTM quốc doanh hoạt động rộng khắp trên cả nước với 238 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố và hơn 1000 chi nhánh cấp 3 trực thuộc tại khắp các vùng dân cư. Đặc điểm chính của các NHTM quốc doanh : - Giữ vai trò chủ đạo trong các hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam, chiếm 75% vốn huy động và 80% đầu tư cho vay vốn (Bảng 1). - Tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước hạng đặc biệt và hệ thống mạng lưới theo địa dư hành chính.. - Thực hiện cho vay chính sách như một trong các hoạt động chính và còn mang tính ngân hàng chính sách, rõ nhất là NHNN&PTNTVN. - Đã và đang thực hiện mạnh mẽ việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh doanh thị trường định hướng XHCN. 1.2.2. Ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng thương mại cổ phần là các ngân hàng được hình thành trên cơ sở vốn góp của các cổ đông với nội dung và phạm vi hoạt động như các NHTM quốc doanh. Tính đến nay, trên cả nước có 36 NHTM cổ phần trong đó có 21 NHTM cổ phần đô thị và 15 NHTM cổ phần nông thôn, tiêu biểu là: NHTM cổ phần Á Châu (ACB); NHTM cổ phần Quân đội; NHTM cổ phần Hàng hải; NHTM cổ phần Đông Á; NHTM cổ phần Bắc Á; NHTM cổ phần nhà Hà Nội (Habubank); NHTM cổ phần Châu Á Thái Bình Dương; NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; NHTM cổ phần Sài Gòn thương tín (Sacombank); NHTM Nam Phương; NHTM cổ phần Quế Đô… Theo số liệu tại Bảng 1, các ngân hàng này hiện chiếm 10% vốn huy động và 10% đầu tư cho vay vốn. Đặc điểm chính của các NHTM cổ phần : - Hoạt động gần như thuần túy vì lợi nhuận, có thể mở rộng quy mô bằng việc phát hành cổ phiếu mới hoặc trái phiếu để bổ sung vốn. - Tỷ lệ NHTM cổ phần chất lượng kém cao, một số NHTM cổ phần đang bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt của Nhà nước. - Hội đồng quản trị trong các NHTM cổ phần giữ vai trò chủ sở hữu thật, bộ máy điều hành mang nặng tính làm thuê. Bảng 1: Thị phần của từng loại hình trong toàn hệ thống đến hết 5/2002 NHTM quốc doanh NHTM cổ phần Ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài Loại hình  Vốn huy động 75% 10% 11% 4% Đầu tư cho vay 80% 10% 9% 1% Tỷ trọng vốn 38.9% 20% 39.1% 2% Nguồn: Thị trường tài chính - tiền tệ 7-2002 1.2.3. Ngân hàng liên doanh Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Vốn điều lệ của các ngân hàng liên doanh là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài. Loại hình Chỉ tiêu Theo luật, Ngân hàng liên doanh được hoạt động cả bằng đồng tiền Việt Nam và ngoại tệ theo quy định trong giấy phép. Các ngân hàng này chỉ đủ tư cách pháp nhân khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hiện nay, trên lãnh thổ Việt Nam có 5 ngân hàng liên doanh đang hoạt động chiếm 11% vốn huy động và 9% đầu tư cho vay vốn, đó là: ChohungVina Bank (ngân hàng liên doanh giữa NHNT Việt Nam và Hàn Quốc)….. Đặc điểm chính của các Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam : - Thường là liên doanh giữa một NHTM quốc doanh với một ngân hàng của các nước đang phát triển . - Phía Việt Nam luôn giữ vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị, còn phía nước ngoài là Tổng giám đốc điều hành. - Mạng lưới chi nhánh chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội với doanh số hoạt động còn khiêm tốn. 1.2.4. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một bộ phận của Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ có đủ tư cách pháp nhân khi được cấp giấy đăng ký kinh doanh. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng trên 20 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động như : chi nhánh Citibank (Hoa Kỳ); chi nhánh HongKong Bank; ANZ Bank; Mitsui Bank (Nhật Bản)… Đặc điểm của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam : - Phần lớn thuộc các ngân hàng ở các nước đang phát triển (HongKong, Indonesia…) và các nước phát triển (Hoa Kỳ, Nhật Bản…) - Bộ máy điều hành của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài do người nước ngoài trực tiếp nắm giữ. - Công nghệ ngân hàng tại các chi nhánh này thường là công nghệ tiên tiến. - Có tiềm lực vốn lớn nhờ vào nguồn vốn của ngân hàng mẹ. Comment [NC1]: Thêm tên nước 2. Đánh giá nguồn lực và hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam 2.1. Đánh giá nguồn lực tại các NHTM Việt Nam 2.1.1. Quy mô vốn tự có và tình hình tài chính 2.1.1.1. Quy mô vốn tự có Vốn tự có là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tiềm lực tài chính của các NHTM. Theo thông lệ quốc tế, vốn tự có của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các quỹ đầu tư và một số tài sản nợ khác của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ, dưới 10% tài sản Có nhưng lại được đặt lên hàng đầu do tiềm lực vốn của ngân hàng quy định quy mô hoạt động, năng lực thanh toán, năng lực cạnh tranh và tạo ra uy tín cho ngân hàng. Tuy vậy, lượng vốn tự có của hệ thống NHTM Việt Nam hầu hết không đáp ứng được yêu cầu. Vốn tự có tại các NHTM quốc doanh tính đến cuối năm 1999 như sau:  Ngân hàng Ngoại thương (NHNT): 963 tỷ đồng  Ngân hàng Công thương (NHCT): 537 tỷ đồng  Ngân hàng Đầu tư & Phát triển (NHĐT&PT):792 tỷ đồng  NHNN&PTNTVN: 655 tỷ đồng (1). Thử so sánh với số tài sản của một số ngân hàng trên thế giới vào thời điểm năm 1995: Deutsche Bank (Đức) 502,3 tỷ USD; Sumitomo Bank (Nhật) 498,9 tỷ USD; Credit Lyonnais (Pháp) 337,6 tỷ USD; hay Chase Mahattan Bank (Mỹ) 333,8 tỷ USD… thì mới thấy sự nhỏ bé và khoảng cách rất xa của các NHTM Việt Nam. Ngay cả so sánh với khu vực thì vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam cũng chỉ bằng 10-20% vốn điều lệ của các NHTM trong khu vực; vốn tự có/tổng tài sản chỉ đạt khoảng 3-4%, xếp hạng gần cuối trong số 500 ngân hàng lớn nhất Châu Á năm 2000 (xem Bảng 2). Bảng 2: Xếp hạng các NHTM quốc doanh Việt Nam trong khu vực Châu Á theo quy mô tài sản Có (1) Nghiên cứu kinh tế số 290, tháng 7/2002. Tên ngân hàng Xếp hạng Tài sản Có (triệu USD) NHNN&PTNT 335 2575 NH Ngoại thương 345 2401 NH Công thương 347 2392 NH Đầu tư & Phát triển 364 2054 Nguồn: Tạp chí Asia Week ngày 15/9/2000 Trong khi vốn điều lệ của các NHTM quốc doanh còn nhỏ bé thì vốn điều lệ của các NHTM cổ phần còn thấp hơn rất nhiều lần. Trong tổng số 48 NHTM cổ phần, NHTM đô thị có vốn điều lệ cao nhất là 350 tỷ đồng, có 20 NHTM cổ phần nông thôn có tổng số vốn điều lệ là 45 tỷ đồng (gần 3 triệu USD) còn ngân hàng có số vốn điều lệ nhỏ nhất là 1 tỷ đồng (2). Vốn điều lệ nhỏ thì đương nhiên vốn tự có của các ngân hàng cũng nhỏ, dẫn đến khả năng cạnh tranh kém. 2.1.1.2. Tình hình tài chính Tình hình tài chính của các NHTM hiện nay đang trong tình trạng thiếu lành mạnh nghiêm trọng. Theo tính toán của IMF, tình hình nợ khó đòi phải xử lý theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam hiện đang ở mức báo động, lên tới 13,3% vào thời điểm năm 2001 so với tổng dư nợ toàn quốc (trong khi mức an toàn là dưới 5%) với tổng trị giá lên đến 18.000 tỷ VND, tương đương hơn 1 tỷ USD (trong khi tổng vốn tự có của toàn ngành ngân hàng vào khoảng 20.000 tỷ VND). Theo Hình 1, tỷ lệ nợ khó đòi của riêng 4 NHTM quốc doanh tính đến cuối tháng 8/2001 đã lên đến gần 10 %. Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế thì số nợ khó đòi trong hệ thống NHTM Việt Nam thời kỳ 1996-1998 còn lên tới 3-4 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế (3). (2) Tạp chí Tài chính số tháng 5/2002 (3) Báo cáo tài chính Ngân hàng của WB tháng 7/2001 Hình 1: Tình hình nợ khó đòi của 4 NHTM quốc doanh theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam 4 5 6 7 8 9 10 11 1999Q4 2000Q1 2000Q2 2000Q3 2000Q4 2001Q1 8/2001 Nguồn: Dự báo của Ngân hàng Nhà nước và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), 7/2001. Nguyên nhân gây nợ khó đòi trong hệ thống NHTM Việt Nam: Một là, vốn tín dụng ngân hàng bao cấp chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của doanh nghiệp. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không hiệu quả, NHTM cho vay vốn nhưng không thu hồi được nợ. Hai là, nhiều NHTM, nhất là các NHTM quốc doanh dùng vốn huy động ngắn hạn, kể cả ngoại tệ để cho vay trung dài hạn đối với mọi thành phần kinh tế. Trong khi đó, các doanh nghiệp sử dụng khoản vay này không hiệu quả nên không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ba là, hầu hết các NHTM cho vay nhận tài sản thế chấp là bất động sản, trong khi đó giá bất động sản thường xuyên biến động theo thị trường và bị ảnh hưởng bởi chủ trương, chính sách của Nhà nước. Bốn là, các NHTM cho vay còn lấy giá trị vật tư, tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản đảm bảo tiền vay trong khi giá cả luôn có xu hướng biến động do cạnh tranh về mẫu mã và tính năng của hàng hoá. Năm là, nhiều NHTM cho vay nhận tài sản thế chấp mà pháp luật cấm. Do đó, khi xiết nợ, toà án không cho phép các NHTM được thu hồi tài sản đó. Bảng 3: Nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1995-2001 Đơn vị: % Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Nợ ngoại ệ Tổng ợ Nợ nội tệ Năm % Comment [NC2]: thêm đơn vị Comment [NC3]: Nợ quá hạn/Tổng vốn tự có 61,9 75,7 112,3 - - - - Nợ quá hạn/Tổng dư nợ 7,8 9,3 12,4 12 13,2 13,1 13,3 Tổng vốn tự có/Tổng tài sản 4,8 5,5 7,4 6,8 7,2 7,1 - Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam tháng 2/1998; Thống kê của Ngân hàng Thế giới/2001 Có thể thấy, trong giai đoạn 1995-1996, nợ quá hạn trong các ngân hàng có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, tình hình nợ quá hạn (nợ khó đòi) của hệ thống NHTM Việt Nam càng trầm trọng. Vào thời điểm năm 1997, tỷ lệ nợ quá hạn/tổng vốn tự có đã lên đến 112,3% và nợ quá hạn/tổng dư nợ cũng lên đến 12,4%. Ngoài các khoản nợ khó đòi, khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam cũng còn rất thấp. Mức chênh lệch giữa tổng thu nhập so với tổng chi phí toàn ngành chỉ đạt gần 800 tỷ/năm, tương đương gần 60 triệu USD, thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận của các ngân hàng trong khu vực (OUB Singapore: 100 triệu USD; HSBH Hong Kong: khoảng 1392 triệu USD; Maybank Malaysia: 62.8 triệu USD). Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thu nhập thấp của các NHTM là chi phí hoạt động kinh doanh hiện quá cao khi so sánh với các nước láng giềng. Chẳng hạn, tỷ lệ chi phí hoạt động/tổng tài sản Nợ tại NHNT vào khoảng 5,5%; tại NHCT là 9,3%; tại NHNN&PTNT là 8,5%; tại NHĐT&PT là 7,5% trong khi tỷ lệ ở các nước công nghiệp phát triển OECD là 1-2% (4). 2.1.2. Công nghệ cung ứng dịch vụ Công nghệ cung ứng dịch vụ của các NHTM Việt Nam hiện đang ở mức quá lạc hậu so với các NHTM khác trên thế giới và trong khu vực. Trong khi xu hướng điện tử hoá hoạt động ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới thì cho đến nay, vẫn chưa có một NHTM nào lắp đặt các hệ thống chương trình nhằm chuẩn hoá dịch vụ ngân hàng cũng như thực hiện được việc nối mạng trong toàn hệ thống để có được một cơ sở dữ liệu thông tin thống nhất về khách hàng. Chính vì vậy, các NHTM Việt Nam vẫn chưa thực hiện được các dịch vụ khá đơn giản như gửi tiền một nơi rút tiền mọi nơi hay vay vốn nơi này rút vốn nơi khác… Công nghệ thẻ tín dụng trong hệ thống NHTM Việt Nam còn rất yếu. Mặc dù, hiện nay ở Việt Nam đã có một số NHTM phát hành thẻ tín dụng, thẻ thanh toán như NHNT, NHTM cổ phần Á Châu (ACB), Ngân hàng Eximbank…, song do công nghệ không đồng bộ và không hiện đại nên tỷ lệ giao dịch gặp trục trặc trong thanh toán khá cao. Đồng thời, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các NHTM Việt Nam mất dần thị trường sang các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có công nghệ cao hơn như Hongkong Bank, ANZ… 2.1.3. Cấu trúc tổ chức và nguồn nhân lực 2.1.3.1. Cấu trúc tổ chức Hiện nay, tất cả các NHTM Việt Nam đều hoạt động theo mô hình tổ chức trực tuyến, tức là các quyết định được ban hành từ trên xuống dưới. Các ngân hàng tiến hành phân chia các phòng ban theo từng mảng nhiệm vụ của ngân hàng hoặc theo từng công đoạn của quy trình cung ứng dịch vụ chứ không phải phân chia theo đặc điểm của từng nhóm khách hàng hoặc dịch vụ. Nói cách khác, các NHTM Việt Nam đều không được tổ chức theo định hướng thị trường. Vì vậy, các thông tin về một khách hàng, thậm chí của một nhóm khách hàng không thể tổng hợp được do có quá nhiều đầu mối theo dõi; các nghiệp vụ trong ngân hàng bị đan xen chồng chéo; số liệu báo cáo không chính xác. 2.1.3.2. Nguồn nhân lực Trong toàn hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay có khoảng 60.000 lao động trong đó khu vực quốc doanh đông nhất (70%) và khu vực nước ngoài là (4) Tạp chí Ngân hàng số 3/2001 ít nhất (3%). Về trình độ nhân sự, lực lượng có trình độ đại học và sau đại học chiếm 36%; trình độ trung học chiếm 43%; sơ học và lao động giản đơn chiếm khoảng 21% (5). Trong những năm gần đây, chất lượng nhân lực tại các NHTM đã được chú ý nâng lên một bước. Số cán bộ mới được tuyển chọn công khai với kiến thức tối thiểu là đại học kinh tế, có trình độ tiếng Anh và vi tính thành thạo. Mặt khác, số lượng cán bộ cũ được các ngân hàng chú ý đào tạo lại. Đặc biệt, ngày càng có nhiều cán bộ được đi thực tập khảo sát ở nước ngoài và cử đi học ở các lớp sau đại học. Bên cạnh đó, các NHTM hiện đã chú trọng hơn đến công tác khách hàng nên thái độ, tác phong phục vụ khách hàng của đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng đã được cải thiện rất nhiều. Ngoài những ưu điểm đã nêu ở trên, tình hình nhân lực tại các NHTM hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Công tác tuyển chọn và đào tạo tại các ngân hàng không được chương trình hoá, kế hoạch hoá cùng với việc phân công sử dụng lực lượng cán bộ chưa hợp lý dẫn đến tình trạng những kiến thức được học không được sử dụng và ngược lại. Ngoài ra, thái độ, tác phong phục vụ khách hàng tuy đã được nâng lên một bước song vẫn chưa đáp ứng được mong mỏi của khách hàng. Kỹ năng ứng xử giao tiếp với khách hàng chưa được các NHTM quan tâm đúng mức. Đặc biệt, vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong các NHTM chưa được rèn giũa thường xuyên. Chất lượng nhân lực kém không những ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM mà còn ảnh hưởng đến tốc độ và hiệu quả cải cách hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian tới. 2.1.4. Hệ thống thông tin và kiểm toán, kiểm soát nội bộ tại các NHTM 2.1.4.1.Hệ thống thông tín Hệ thống thông tin tại NHTM Việt Nam hiện nay gồm 2 bộ phận: hệ thống thông tin bên trong và hệ thống thông tin bên ngoài (5) Tạp chí Ngân hàng số tháng 10/2001 - Hệ thống thông tin bên trong: Các NHTM hiện thu thập thông tin bên trong theo hệ thống báo cáo được lập từ dưới lên trên. Như đã đề cập ở trên, do cơ cấu tổ chức của các NHTM hiện chưa theo nhóm khách hàng và dịch vụ chào bán nên các thông tin thu thập được mang tính chất chung chung, không có ý nghĩa trong việc đánh giá mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng cũng như khả năng kinh doanh hiện thực của Ngân hàng đối với từng loại dịch vụ. Hơn nữa, các số liệu thu thập được không có độ chính xác cao do chức năng nhiệm vụ của một số phòng ban còn chồng chéo. - Hệ thống thông tin bên ngoài: Cho đến nay, hầu hết các NHTM Việt Nam đều đã thành một phòng ban chuyên trách công tác Marketing/khách hàng hoặc như là một nhiệm vụ kiêm nhiệm nằm trong phòng kinh doanh. Tuy nhiên, các thông tin bên ngoài vẫn chưa được xử lý một cách có hệ thống. Phần lớn các thông tin đều do các cá nhân tự thu thập, hoặc được truyền đạt tại các cuộc họp chuyên môn. Chính vì vậy, hiệu quả điều hành kinh doanh của ban lãnh đạo ngân hàng phần nào bị ảnh hưởng do không có được nguồn thông tin từ bên ngoài. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do các NHTM chưa nhận thức đầy đủ về sức mạnh nguồn lực thông tin, từ đó dẫn đến việc đầu tư chưa thích đáng cả về mặt tổ chức, nhân sự, quản lý và công nghệ cho công tác đặc biệt quan trọng này. 2.1.4.2. Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ Hoạt động KTNB là một trong những công cụ quan trọng trong công tác tổ chức quản lý của ban lãnh đạo Ngân hàng. Nó thực hiện chức năng chính là kiểm tra, xác nhận và đánh giá các hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính nhằm nâng cao hiệu quả và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý của NHTM. Thông qua hoạt động này, các ngân hàng có thể phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của NHTM, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý điều hành kinh doanh, giữ vững ổn định và phát triển bền vững của NHTM. Tuy nhiên, hệ thống KTNB của các NHTM Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, biểu hiện: - Tính độc lập của bộ phận KTNB bị hạn chế. Trưởng ban kiểm tra, KTNB, Trưởng phòng kiểm tra nội bộ, kiểm tra viên tham gia vào Hội đồng tín dụng hoặc kiểm tra viên kiêm nhiệm một số công việc khác không đúng chức năng nhiệm vụ của KTNB. - Chất lượng kiểm tra viên chưa cao, nhiều cán bộ làm công tác KTNB chưa được đào tạo để có đủ khả năng thực hiện nghiệp vụ cũng như nhận biết rủi ro. Có nơi bố trí cả cán bộ vừa mới ra trường làm công tác hoặc có cán bộ không thể sắp xếp vào các bộ phận nghiệp vụ khác thì mới bố trí vào làm công tác này dẫn đến hiệu quả kiểm toán còn kém. - Về nội dung kiểm toán đối với hoạt động tín dụng: chủ yếu còn thiên về kiểm tra hồ sơ tín dụng và đối chiếu khách hàng để phát hiện ra những sai phạm. Các NHTM chưa chú trọng đến việc đánh giá tách các chức năng trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, chưa chú trọng đến kiểm toán cơ cấu tín dụng. Nói cách khác, hệ thống kiểm toán tại các NHTM chưa định hướng rõ theo những rủi ro tiềm ẩn. - Về phương pháp kiểm toán: chủ yếu thực hiện phương pháp kiểm toán riêng lẻ, chưa chú trọng đến phương pháp kiểm toán hệ thống. Các ngân hàng chưa có tiêu chí chọn mẫu phù hợp, kỹ thuật chọn mẫu chủ yếu được áp dụng là chọn mẫu phi xác suất hay còn gọi là lựa chọn xét đoán. 2.1.5. Danh tiếng và uy tín của các ngân hàng Nhìn chung, danh tiếng và uy tín của các NHTM Việt Nam hiện chưa cao. Hầu hết các ngân hàng còn khá non trẻ (NHTM lâu đời nhất thành lập năm 1963, NHTM trẻ nhất thành lập năm 1997). Hơn nữa, các NHTM Việt Nam lại đang hoạt động kinh doanh trong một nền kinh tế còn nghèo nàn và phát triển chưa ổn định, song đã phải chống chọi với hàng loạt các vấn đề nan giải như tốc độ lạm phát phi mã trong những năm 80, thất bại của đợt đổi tiền 1985 và sự đổ vỡ của một số NHTM cổ phần trong năm 1997-1998 và hàng loạt các vụ án hình sự liên quan đến các cán bộ lãnh đạo ngân hàng… Chính những điều này đã ảnh hưởng không ít đến danh tiếng và uy tín của các NHTM Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực trong thời gian gần đây cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ, các NHTM đã bước đầu khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Uy tín của các ngân hàng ngày càng được nâng cao thể hiện bằng lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân cư tập trung vào nhóm ngân hàng này ngày càng tăng, chiếm đến 80% tổng lượng tiền huy động được trong toàn ngành. Bên cạnh đó, một số NHTM cổ phần cũng đã bước đầu khẳng định được danh tiếng của mình trên thị trường như NHTM cổ phần Á Châu (ACB), NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Phương Đông… 2.2. Đánh giá chung hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam Đánh giá chung về hoạt động của các NHTM Việt Nam, Bộ chính trị đã có kết luận: “… Từ khi chuyển sang kinh doanh, các NHTM đã thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn trong và ngoài nước; thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội…”. Trên thực tế, khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các NHTM còn nhiều bỡ ngỡ nên hiệu quả kinh doanh nhiều mặt bị hạn chế. Nhưng cùng với nố lực của bản thân các NHTM, sự ủng hộ từ nhiều phía tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, các NHTM đã quen dần với cơ chế mới, đã đạt được những thành quả nhất định trong kinh doanh. Đến nay, chỉ xét riêng mảng huy động vốn của hầu hết các NHTM, cả quy mô và chất lượng đều được phát triển. Theo báo cáo của NHNN qua mấy năm gần đây, các TCTD trong nước cũng như chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh đều có tốc độ tăng liên tục. Năm 1995, các NHTM quốc doanh huy động được 31,7 nghìn tỷ VND (kể cả ngoại tệ quy đổi) thì năm 1999 đã huy động được 115,508 nghìn tỷ VND (tăng 3,64 lần). Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, năm 1995 huy động được 2,085 nghìn tỷ VND (quy đổi); đến năm 1999 số vốn huy động đã tăng lên 14,413 nghìn tỷ đồng. Riêng trong năm 2000, quán triệt nhiệm vụ ngay từ đầu năm, toàn hệ thống NHTM đã tích cực nắm bắt thị trường, tình hình biến động trong nước và thế giới, có nhiều giải pháp phù hợp để đẩy mạnh huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế như: áp dụng lãi suất linh hoạt nội và ngoại tệ; phát hành trái phiếu ngân hàng để nâng cao tỷ trọng vốn trung và dài hạn; huy động vốn bằng vàng… Tính đến cuối năm 2000, số dư tiền gửi tại các NHTM tăng 30% so với đầu năm, cao hơn nhiều so với mức tăng năm trước và vượt kế hoạch đề ra (6). Nhìn chung, số vốn các NHTM huy động được từ nền kinh tế tăng đều đặn trong những năm gần đây rất có ý nghĩa đối với sự phát triển trong bối cảnh vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta bị giảm sút. Ngoài ra, các NHTM Việt Nam đã đóng góp rất nhiều vào tốc độ tăng trưởng đầu tư cho vay, đặc biệt là cho vay trung dài hạn. Các NHTM cũng giữ vai trò là trung tâm thanh toán của nền kinh tế, cung cấp các dịch vụ, nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam hiện còn không ít vấn đề bất cập. Về hoạt động huy động vốn, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả khả quan nhưng hiện vẫn chưa có nhiều hình thức huy động vốn và nhận tiền gửi mới, phù hợp với nhu cầu của người dân và các tổ chức kinh tế. Số tài khoản tiền gửi cá nhân, tài khoản vãng lai mở và duy trì hoạt động còn ít, loại tiền huy động còn hạn chế. Bên cạnh đó, lượng vốn huy động vẫn còn thấp so với nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế. Trong những năm qua, theo số liệu của NHNN, số vốn huy động vủa hệ thống NHTM trung bình mới đạt 15% GDP (giai đoạn 1991-1995) và 22% GDP (giai đoạn 1995-2000). Đặc biệt cơ cấu nguồn vốn chưa được hợp lý; chẳng hạn, số vốn huy động được phần lớn là vốn ngắn hạn, chưa phù hợp với kỳ hạn sử dụng (6) Tạp chí Ngân hàng số tháng 8/2001 vốn; vốn tự có và việc bổ sung vốn tự có còn quá nhỏ so với quy mô hoạt động của các ngân hàng. Về hoạt động tín dụng, chất lượng, hiệu quả vốn tín dụng và bảo lãnh còn quá thấp. Nợ quá hạn, nợ có liên quan đến vụ án, nợ chờ xử lý, nợ phải trả thay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Đây là tồn tại lớn nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM trong những năm qua, đặc biệt là ở Ngân hàng Công thương và NHNN&PTNT Việt Nam. Theo số liệu Báo cáo thường niên, tỷ lệ “Nợ có vấn đề” của NHCT Việt Nam là 23,5%/Tổng dư nợ năm 1997; 35% năm 1998; 32% năm 1999 và 26% năm 2000 (7). Hơn nữa, các NHTM Việt Nam hiện nay cũng chưa mở rộng các hình thức cho vay mới như: tín dụng thấu chi, chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá; cho vay trả góp; bao thanh toán; cho vay tiêu dùng; cho vay mua cổ phần… để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đang không ngừng phát triển. Các hình thức tín dụng như: cho thuê tài chính, bảo lãnh còn chậm phát triển nên doanh số hoạt động thấp. Đáng lo ngại hơn là vấn đề thủ tục cho vay. Hiện nay, các thủ tục cho vay, bảo lãnh tại các NHTM còn quá rườm rà, phức tạp, gây tâm lý ngần ngại cho người vay vốn. Mặt khác, đối với hoạt động đầu tư, các NHTM Việt Nam chưa có được những hình thức đầu tư mới, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế như: mua cổ phần trong các công ty có hiệu quả sản xuất cao hay đầu tư chứng khoán. Bởi vậy, doanh số hoạt động còn nhỏ, không đều, tập trung chủ yếu vào mua công trái Nhà nước và tín phiếu kho bạc… Đối với hoạt động trung gian, doanh số hoạt động và tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ và các nghiệp vụ khác trong tổng thu nhập còn quá nhỏ so với tiềm năng và lợi thế của các NHTM như số liệu của một số NHTM tại Bảng 4 cho thấy. Bảng 4: Tỷ trọng thu dịch vụ / Tổng doanh thu của một số NHTM giai đoạn 1996-2001 (%) (7) Tạp chí Ngân hàng số tháng 6/2002 Năm NH Công thương NH Ngoại thương NH cổ phần Á Châu 1996 2,7 9,3 - 1997 3,6 8,5 - 1998 8,6 14,9 12,5 1999 7 10,5 13,2 2000 5,4 12,6 14,1 2001 4,1 13,1 15,3 Trung bình 5,2 11,5 13,7 Nguồn: Ngân hàng Công thương; Ngân hàng Ngoại thương; NHTM cổ phần Á Châu Các sản phẩm dịch vụ của các NHTM Việt Nam còn rất ít ỏi và đơn điệu, chủ yếu vẫn chỉ là các dịch vụ thanh toán - chuyển tiền trong nước và quốc tế (trong khi một NHTM trung bình của Nhật đã có tới 6000 dịch vụ). Ngay trong một loại hình dịch vụ, các hình thức, công cụ thực hiện cũng chưa đầy đủ. Thị trường dịch vụ ngân hàng đối với cá nhân rất lớn nhưng các NHTM chưa khai thác được nhiều: số lượng tài khoản tiền gửi cá nhân và thanh toán của cá nhân qua ngân hàng còn rất thấp; các dịch vụ thanh toán thẻ, máy rút tiền tự động (ATM), bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng tại nhà mới được áp dụng nhưng vẫn đang ở giai đoạn thí điểm… Mặt khác, chất lượng sản phẩm dịch vụ của các NHTM còn nhiều hạn chế nên chưa tạo ra được ưu thế cạnh tranh trên thị trường. Những tồn tại trên là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM, đặc biệt là các NHTM quốc doanh trong thời gian qua không cao. Theo số liệu tại Bảng 5, từ năm 1997 trở lại đây, số lãi của những năm sau giảm nhiều so với năm trước. Năm 2000, lợi nhuận ròng của các NHTM quốc doanh chỉ đạt 417 tỷ đồng, bằng 62% so với năm trước trong khi tài sản Có và số lao động tăng nhanh. Sự giảm sút hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam được thể hiện rõ qua các chỉ tiêu tỷ lệ chi phí hoạt động/tổng tài sản Có (CPHĐ/TTSC) và lợi nhuận ròng/tổng tài sản Có (LNR/TTSC) của các NHTM quốc doanh trong thời gian qua. Bảng 5: Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của các NHTM quốc doanh giai đoạn 1996-2001 Đơn vị: % Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 Chi phí hoạt động/Tổng tài sản Có NH Ngoại thương 6,5 5,5 5,5 4,4 4 NHNN&PTNT 13,8 12,6 9,5 9,3 6,4 NH Công thương 14,4 9,6 9,3 7,6 4,5 NHĐT&PT 9,5 8,3 8,0 7,5 4,6 Lợi nhuận ròng/Tổng tài sản Có (*) 0,85 0,75 0,42 0,31 0,36 Nguồn: Báo cáo thường niên của các NHTM quốc doanh và dự thảo ghi nhớ của nhóm trợ giúp kỹ thuật cho việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam 7/2001 Lưu ý: Chỉ tiêu (*) tính chung cho cả 4 ngân hàng. Tỷ lệ tổng chi phí/tổng tài sản Có của các NHTM giảm dần qua các năm không có nghĩa là hiệu quả hoạt động của ngân hàng được nâng lên vì với tỷ lệ chi phí hoạt động/tài sản Có là 4-6% như hiện nay thì vẫn cao gấp 3 lần chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay (chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay hiện nay chỉ dao động từ 1,2-1,5%/năm). Trong khi đó, nguồn thu chủ yếu của các NHTM nước ta hiện nay là hoạt động tín dụng, nên các ngân hàng không thể có nhiều lợi nhuận. Hiệu quả hoạt động của các NHTM giảm dần còn được thấy rất rõ qua sự giảm sút của hệ số ROA (Rate of Assets) (lợi nhuận ròng/tổng tài sản Có). Năm 1997, hệ số ROA là 0,85%, tức là cứ 100 đồng tài sản Có sẽ đem lại 0,85 đồng lợi nhuận ròng. Có thể thấy, hệ số này giảm dần qua các năm, đến năm 2000 chỉ còn 0,36%, tức là 100 đồng tài sản có lúc này chỉ đem lại 0,36 đồng lợi nhuận ròng, giảm 3 lần so với năm 1997 (8). Việc xem xét tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM trong những năm qua cho thấy, dù đã có rất nhiều đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nhưng hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam còn thấp và đang có xu hướng giảm sút rõ rệt. Điều đó buộc các NHTM phải đổi mới toàn diện để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình II. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC CẢI CÁCH NHTM VIỆT NAM 1. Bối cảnh kinh tế - xã hội của việc cải cách NHTM Việt Nam đã và đang tiến hành đổi mới toàn diện nền kinh tế trong hơn 15 năm qua. Có thể nhận thấy, công cuộc đổi mới kinh tế đã đem lại nhiều thay đổi quan trọng cả về số lượng và chất lượng. Tình trạng siêu lạm phát gây ra bởi chính sách tiền tệ hoá các khoản nợ vào cuối những năm 80 đã được kiềm chế bằng chính sách cân bằng thu chi ngân sách và chính sách tiền tệ chặt chẽ vào đầu những năm 90, góp phần tạo nên sự ổn định giá trị của đồng tiền Việt Nam, kết quả là đã thu hút được một lượng lớn vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, tình hình chính trị xã hội ở Việt Nam đã được ổn định, công ăn việc làm và đời sống nhân dân được nâng cao. Môi trường pháp lý và thể chế hiện đã được cải thiện đáng kể. Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi khủng hoảng, chấm dứt tình trạng bao vây cấm vận từng bước vững chắc phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và dần hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, gây ra bởi sự phá giá bất ngờ của đồng Bạt Thái Lan vào giữa năm 1997, đã gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể, xuất khẩu sang các nước láng giềng giảm, nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước suy yếu đi. Do đó, (8) Tạp chí Ngân hàng số tháng 6/ 2002 nền kinh tế Việt Nam có chững lại từ năm 1998 với tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế giảm xuống tới 4-5% so với cùng kỳ những năm trước là 8-9% (9). Nhưng từ năm 2000, nền kinh tế Việt Nam đã từ từ phục hồi nhờ mở rộng được xuất khẩu. Mặt khác, Việt Nam đã chủ động trong lộ trình hội nhập, tham gia tích cực trong các quan hệ kinh tế tài chính song phương và đa phương. Việt Nam đã gia nhập AFTA, APEC, đã là thành viên thứ 7 của Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFAC), thành viên thứ 130 của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC). Bằng chính sách tài chính linh hoạt, thích hợp, tháo gỡ từng vướng mắc, chúng ta đã mở cửa thu hút khối lượng lớn vốn đầu tư từ nư- ớc ngoài và tăng kim ngạch xuất khẩu. Dù còn khiêm tốn, nhưng kinh tế Việt Nam đã bắt đầu mở cửa đi ra nước ngoài, tham gia và chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước nhưng nền kinh tế Việt Nam những năm đầu thể kỷ XXI đã được đặt trong một môi trường kinh tế quốc tế khác trước. Các quan hệ quốc tế đã thay đổi, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội nước ta. Đặc biệt, xu thế hợp tác quốc tế và khu vực hiện đang là xu thế phổ biến trên thế giới. Giữa các quốc gia đang diễn ra một chiều hướng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh mà cả hai mặt đều sâu sắc. Khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã và sẽ tiếp tục phát triển năng động và đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Nhiều dự báo cho rằng đến năm 2010, trung tâm kinh tế - thương mại của thế giới sẽ chuyển sang Châu Á Thái Bình Dương. Mặt khác, cách mạng khoa học công nghệ mà nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học và vật liệu mới đang phát triển ở trình độ rất cao. Chính điều này đã tạo nên động lực thúc đẩy quá trình tăng tiến của mỗi quốc gia. Bối cảnh quốc tế tuy hết sức thuận lợi cho ta nhưng khi tác động đến các nhân tố bên trong lại tạo ra những thách thức và nguy cơ mới. Một trong (9) Những thành tựu cải cách hệ thống tài chính và vấn đề nợ khó đòi ở Việt Nam - Masahisa Koyama, Toshiyuki Katagiri, 2000 những nguy cơ đó là nguy cơ tụt hậu so với trình độ của thế giới. Để đối phó với nguy cơ này, Việt Nam đã và đang hết sức nỗ lực để đổi mới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội nhằm từng bước tham gia sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới cũng như đáp ứng những nhu cầu phát triển kinh tế đặt ra trong thời kỳ mới. Việc cải cách hệ thống NHTM Việt Nam cũng được tiến hành trong điều kiện không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế nói chung ở Việt Nam. 2. Yêu cầu cấp bách của việc cải cách các NHTM Việt Nam Trong một giai đoạn lịch sử mà môi trường quốc tế và bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước có nhiều đặc thù như trên, việc đổi mới hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam được coi như điều kiện và động lực đảm bảo cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước và nhanh chóng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. 1.1. Yêu cầu chủ quan Yêu cầu tiến hành cải cách các NHTM Việt Nam trước tiên xuất phát từ chính bản thân hệ thống NHTM. Lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng ở nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường và đã đạt được những kết quả bước đầu. Hai luật về ngân hàng được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực ngày 1/10/1998 đã từng bước đáp ứng yêu cầu thiết lập hành lang pháp lý trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng, xây dựng ngày một tốt hơn hệ thống chính sách và quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này. Hệ thống các NHTM Việt Nam với nhiều thành phần tham gia, nhiều loại hình sở hữu đã góp phần phục vụ nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là khu vực các NHTM quốc doanh. Theo tính toán của WB, đến tháng 8/2002, chỉ riêng 4 NHTM quốc doanh lớn của Việt Nam đó là: Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, NHĐT&PT và NHNN&PTNT Việt Nam đã cung cấp 72,1% lượng vốn cần thiết cho nền kinh tế. Các TCTD khác chỉ đóng góp 27,9% (10). Mặt khác, kể từ khi ra đời, hệ thống NHTM Việt Nam đã đóng vai trò là trung gian thanh toán cho nền kinh tế, đảm bảo cho mọi giao dịch trong nước và quốc tế diễn ra thuận lợi, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Tất cả những điều này cho thấy vai trò hết sức quan trọng của các NHTM quốc doanh nói riêng và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, để có thể tiếp tục hoạt động an toàn, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn trong thời kỳ mới của nền kinh tế thì nhất thiết phải có sự cải tổ một cách sâu sắc và đầy đủ hơn hệ thống NHTM Việt Nam. Như đã đề cập ở phần trên, hệ thống các NHTM hiện nay đang gặp phải những khó khăn lớn. Khó khăn dễ nhận thấy nhất đó là quy mô vốn của các NHTM Việt Nam còn nhỏ, đặc biệt là ở các NHTM cổ phần. Một số ngân hàng có mức vốn điều lệ chỉ tương đương 100 triệu USD. Với quy mô vốn nhỏ hẹp, các NHTM Việt Nam không có điều kiện phát triển hoạt động và các sản phẩm của mình. Chính vì vậy, mạng lưới chi nhánh và các sản phẩm dịch vụ của các NHTM Việt Nam còn nhỏ hẹp. Nghiêm trọng hơn là tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ xấu tồn đọng đã lên tới mức báo động, không còn đảm bảo hoạt động an toàn cho toàn bộ hệ thống NHTM. Hoạt động cho vay theo chỉ đạo vẫn còn lẫn lộn với hoạt động cho vay thương mại đã hạn chế rất nhiều tính linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Tất cả những khó khăn trên đã dẫn đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM không cao, không đáp ứng được nhu cầu vốn để phát triển đất nước. Nếu không sớm khắc phục những tồn tại này sẽ gây hậu quả xấu đến hoạt động của nền kinh tế và ổn định xã hội, làm giảm tích luỹ nội bộ của nền kinh tế cũng như làm cho các nguồn vốn đầu tư không đến được nơi có nhu cầu. Do đó, việc cải tổ hệ thống NHTM Việt Nam đang là đòi hỏi cấp thiết của nền (10) Báo cáo tài chính Ngân hàng của WB tháng 7/2001 kinh tế nước ta trước yêu cầu đặt ra từ bản thân các NHTM, từ nền kinh tế thị trường. 1.2. Yêu cầu khách quan Cải cách hệ thống NHTM Việt Nam là yêu cầu cấp thiết để các NHTM có thể chiếm lĩnh thị trường trong nước và vươn tới hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. Hiện nay, hệ thống NHTM Việt Nam đang từng bước chuyển nhanh sang hoạt động theo cơ chế thị trường, nhanh chóng thay đổi phong cách và phương thức phục vụ, từng bước phát triển và thực hiện nhiều dịch vụ ngân hàng, đáp ứng nhu cầu của sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, phục vụ đắc lực cho chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự đổi mới về chính sách kinh tế, hệ thống NHTM đã có rất nhiều loại hình khác nhau với số lượng không nhỏ, trong đó có các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Sau một số năm hoạt động, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh đã từng bước xâm nhập vào thị trường khách hàng Việt Nam, hoạt động kinh doanh dần bù đắp được chi phí và có lãi. Tính đến hết Quý I/2002, đã có 22/25 chi nhánh ngân hàng nước ngoài có số lãi cao lên tới hàng trăm tỷ đồng và cả 4 ngân hàng liên doanh đều có lãi. Thực tế cho thấy, mặc dù thị phần về cho vay tín dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng trong nước vẫn chiếm tới trên 70% trong toàn hệ thống nhưng chất lượng hoạt động tín dụng còn thấp hơn nhiều so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh. Trong khi tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ của khối NHTM trong nước vào khoảng 10% thì ở khối ngân hàng nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chỉ vào khoảng 0,5% (11). Bên cạnh chất lượng hoạt động tín dụng còn kém, vốn của các NHTM Việt Nam so với các ngân hàng nước ngoài còn thấp. Trên thực tế, vốn điều lệ (11) Tạp chí Ngân hàng số tháng 8/2001 của 6 NHTM quốc doanh Việt Nam và 36 NHTM cổ phần chỉ vào khoảng 10.000 tỷ đồng trong khi đó chỉ trên 20 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 4 ngân hàng liên doanh đã gần 7.000 tỷ đồng. Ngoài vốn, chất lượng hoạt động của các ngân hàng nước ngoài còn hơn hẳn các ngân hàng trong nước về công nghệ, kỹ thuật và đặc biệt là khả năng quản lý. Như vậy, có thể nói khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài trong điều kiện nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế và trước mắt là việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (7/2000), gia nhập WTO là hết sức khó khăn. Theo Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, Chính phủ Việt Nam đã đồng ý một nguyên tắc chung và những cam kết cụ thể - một lộ trình cho hoạt động của các ngân hàng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Theo đó, lộ trình này được thực hiện như sau: sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong thời gian 9 năm đó, cho phép các ngân hàng Hoa Kỳ liên doanh với các đối tác Việt Nam trong đó tỷ lệ góp vốn từ 30-49% vốn pháp định của liên doanh, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép huy động VND dần dần đến mức không hạn chế. Sau 3 năm, các ngân hàng Hoa Kỳ còn được thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trong nước về chiết khấu, mua bán ngoại tệ có kỳ hạn như các ngân hàng trong nước; sau 8 năm được phép phát hành thẻ tín dụng, được cài đặt máy rút tiền tự động (ATM)… (Phụ lục G). Với những cam kết trên, chắc chắn hoạt động của các ngân hàng nước ngoài nói chung và các ngân hàng Hoa Kỳ nói riêng sẽ gặp thuận lợi hơn hiện nay rất nhiều và các ngân hàng này sẽ là đối thủ cạnh tranh chủ yếu của các NHTM Việt Nam. Hơn nữa, khách hàng truyền thống và chủ yếu của các NHTM trong nước là các Tổng công ty 90-91, các doanh nghiệp lớn, nguồn vốn huy động, cho vay cũng tập trung chủ yếu vào đối tượng khách hàng này. Tuy nhiên, đối tượng này lại đang là đích ngắm của các ngân hàng nước ngoài. Với lợi thế về vốn, về dịch vụ hoàn hảo và kinh nghiệm nhiều năm hoạt động trong cơ chế thị trường, các ngân hàng nước ngoài chắc chắn sẽ có nhiều lợi thế trong cuộc chiến tranh lôi kéo khách hàng với các NHTM trong nước. Nếu các NHTM trong nước không tiến hành cải cách đổi mới hoạt động thì tất yếu sẽ tụt lại phía sau và thất bại ngay trên “sân nhà”. Như vậy, trước xu thế hội nhập hoạt động ngân hàng nước ta với cộng đồng quốc tế, trực tiếp là thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, chuẩn bị gia nhập WTO, vấn đề cấp bách hiện nay đối với các NHTM Việt Nam là phải tiến hành cơ cấu lại để tiếp tục hoạt động hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài ngay trên lãnh thổ Việt Nam và các ngân hàng trong khu vực. Đó là yêu cầu cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. III. KINH NGHIỆM CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1. Trung Quốc Hệ thống NHTM của Trung Quốc có nhiều nét đặc trưng giống với hệ thống NHTM Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các hoạt động của khu vực Ngân hàng Trung Quốc đều xoay quanh 4 NHTM quốc doanh là Ngân hàng Công thương Trung quốc, Ngân hàng Trung quốc (Bank of China), Ngân hàng Viễn thông (Bank of Communications) và Ngân hàng Nông nghiệp. Bốn ngân hàng này nắm giữ tới 70% tài sản của toàn hệ thống ngân hàng, với gần 150.000 chi nhánh và hơn 1,5 triệu nhân công. Cũng như Việt Nam, vấn đề đáng lo ngại nhất hiện nay của các NHTM quốc doanh là các khoản nợ khó đòi. Theo tính toán của các quan chức ngân hàng Trung Quốc, tỷ lệ nợ khó đòi trong hệ thống NHTM Trung Quốc hiện nay vào khoảng 25-30%. Trước thực tế này, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (Ngân hàng Nhân Dân Trung Hoa) đã có các văn bản buộc các NHTM quốc doanh dừng ngay việc cho các DNNN thiếu vốn nhưng làm ăn thua lỗ vay. Để giải quyết vấn đề nợ khó đòi của hệ thống ngân hàng, các cơ quan quản lý Nhà nước đã thành lập 4 Công ty quản lý tài sản (AMC) nhằm mua lại các khoản nợ khó đòi của các ngân hàng quốc doanh, đồng thời tiến hành cơ cấu lại các ngân hàng để tiến hành tư nhân hoá. Cho đến nay, các công ty này đã mua lại được số nợ trị giá 400 tỷ nhân dân tệ (48 tỷ USD), cho dù con số này vẫn còn quá nhỏ so với số nợ thực tế cần được xử lý. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Chính phủ Trung Quốc sẽ không thể thay đổi được chính sách cho vay trước kia, bởi nếu cắt giảm tín dụng thì rất nhiều doanh nghiệp Trung Quốc sẽ phá sản, nạn thất nghiệp sẽ gia tăng. Chính vì vậy, vào đầu năm 2000, Chính phủ Trung Quốc đã quyết định phát hành thêm trái phiếu Chính phủ và chỉ thị cho các ngân hàng phải đẩy mạnh cho vay nhằm thực hiện chính sách kích cầu. Nhưng việc Chính phủ thành lập các công ty quản lý tài sản không được coi là một giải pháp tối ưu. Theo các chuyên gia ngân hàng Trung Quốc, các ngân hàng là người đã tạo ra nợ khó đòi thì chính họ cũng phải là người giải quyết chúng do họ nắm rõ tại sao một khoản nợ trở thành nợ khó đòi, cũng như nguồn gốc của khoản nợ đó. Hơn nữa, hoạt động của các công ty quản lý tài sản cũng không hoàn toàn độc lập. Trên thực tế, nhân viên của các công ty này được lấy từ chính các ngân hàng có nợ khó đòi nên họ sẽ không thể khách quan giải quyết những khoản nợ mà có thể do chính họ tạo ra. Các nhà phân tích cho rằng những giải pháp của Chính phủ Trung Quốc đối với hệ thống ngân hàng quốc doanh mới chỉ giải quyết những triệu chứng của căn bệnh mà chưa nhằm vào những nguyên nhân gốc rễ. Chừng nào Chính phủ còn coi các ngân hàng như các tổ chức chính sách của mình chứ không phải các thực thể kinh tế thị trường thì công việc cải cách ngân hàng sẽ không thể nào phát huy tác dụng tối đa. 2. Ba Lan Công cuộc cải cách hệ thống NHTM ở Ba Lan đã được tiến hành từ năm 1990. Năm 1991, Chính phủ Ba Lan đã chỉ đạo các ngân hàng không được phép cho các doanh nghiệp chưa thanh toán hết các khoản nợ trước tiếp tục vay. Ngoài ra, Chính phủ đã thông qua Chương trình Cải cách ngân hàng và Doanh nghiệp vào tháng 2/1993. Bộ Tài chính Ba Lan đã yêu cầu tất cả các ngân hàng phải tiến hành kiểm toán định kỳ theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm xác định các khoản nợ quá hạn. Theo chương trình cải tổ, các ngân hàng phải thành lập Ban giải quyết các khoản nợ và tiến hành giải quyết các khoản cho vay không sinh lời tính đến cuối năm 1991. Đáng lưu ý là chính phủ Ba Lan còn áp dụng một loạt các biện pháp gián tiếp để giải quyết các khoản nợ. Năm 1992, nhân viên các ngân hàng được phép mua 20% số cổ phiếu của ngân hàng với một nửa giá khi ngân hàng đư- ợc tư nhân hóa. Hơn nữa, 7 NHTM Ba Lan đã tham gia vào chương trình trợ giúp kỹ thuật cùng với các ngân hàng nước ngoài để thúc đẩy việc xây dựng thể chế. Kinh nghiệm ở Ba Lan và ở các nước khác cho thấy sự trợ giúp kỹ thuật này là rất có lợi cho ngân hàng nhằm thay đổi thể chế tổ chức của hệ thống. Chính phủ Ba Lan đã thực hiện việc tái cấp vốn cho các ngân hàng vào tháng 9/1993 đồng thời với việc cơ cấu lại các DNNN với mục tiêu xác định tổng số vốn tái cấp trên cơ sở các khoản vay không sinh lời từ cuối năm 1991. Nỗ lực này của Chính phủ nhằm hỗ trợ các ngân hàng giải quyết những vấn đề tồn tại và khuyến khích các ngân hàng cho vay đối với các dự án khả thi. Chương trình đã được kèm theo bằng một kế hoạch tư nhân hoá của 9 NHTM do kho bạc sở hữu. Ba Lan đã dùng phương pháp phục hồi dần dần để tái cơ cấu lại hệ thống NHTM của mình. Phương pháp này đã đem lại kết quả tốt đẹp cho công cuộc cải cách ở Ba Lan và là bài học kinh nghiệm quý báu cho quá trình cải cách NHTM Việt Nam . 3. Đài Loan Đài Loan đã tiến hành mở cửa lĩnh vực ngân hàng từ năm 1990, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều ngân hàng mới và cạnh tranh về giá diễn ra khá sôi động. Nhưng hiện nay, lĩnh vực ngân hàng Đài Loan đang trong tình trạng ảm đạm với những vấn đề phức tạp nhất trong khu vực Châu Á do việc mở cửa đã đi quá xa. Đài Loan hiện có tới 52 tổ chức tín dụng trong khi dân số chỉ có 23 triệu người, trong đó 13 ngân hàng quốc doanh chiếm khoảng 55% thị phần, còn các ngân hàng khác chỉ chiếm 1-2% thị phần hoặc thậm chí ít hơn. Tuy tránh được khủng hoảng tài chính Châu Á nhờ nợ nước ngoài thấp nhưng các ngân hàng Đài Loan vẫn tiếp tục gia tăng các khoản vay không hiệu quả và những khoản vay này đã trở thành các khoản nợ xấu dưới tác động của sự suy giảm tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, các tài sản thế chấp trên thị trường bất động sản liên tục rớt giá khiến cho các tài sản thế chấp trong các ngân hàng không còn đủ thế nợ. Theo số liệu thống kê của Chính phủ Đài Loan, nợ khó đòi tại các ngân hàng Đài Loan hiện chiếm khoảng 8% tổng cho vay. Tuy nhiên, các nhà phân tích tư nhân lại cho rằng con số này thực tế cao gấp đôi. Theo ước tính của Ernst&Young, một công ty dịch vụ Châu Á về chuyển nhượng nợ khó đòi, tỷ lệ nợ khó đòi của Đài Loan vào cuối năm 2002 có thể lên tới 15-200%, tương đương 20% GDP. Trước tình hình trên, Đài Loan đang thực hiện một số bước đi đầu tiên trong nỗ lực làm trong sạch hệ thống ngân hàng, trước tiên là nỗ lực nhằm hỗ trợ vốn cho các ngân hàng. Một số tập đoàn dịch vụ tài chính chủ chốt của Đài Loan đã tiến hành huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế thông qua hình thức phát hành trái phiếu quốc tế. Cho đến nay, chỉ tính riêng hai tập đoàn tài chính Cathay Financial Holding Co. và Fubon Financial Holding Co. đã phát hành được lượng trái phiếu quốc tế trị giá 1130 triệu USD. Bên cạnh đó, Chính phủ Đài Loan cũng đã nới rộng các khoản chi từ các quỹ công cộng làm sạch các khoản nợ khó đòi thông qua việc cấp vốn cho Quỹ tái cơ cấu tài chính, được thiết lập dựa theo mô hình của Resolution Trust Corp. của Mỹ. Trong khi đó, một số ngân hàng đã thông báo xoá nợ khó đòi hoặc chấp nhận bán các khoản nợ khó đòi cho các công ty trong nước và nước ngoài nhằm làm trong sạch bảng tổng kết tài sản của mình. Các khoản nợ khó đòi được bán cho các chuyên gia khôi phục nợ thông qua một NHTM quốc doanh lớn thứ 4 Đài Loan là First Commercial Bank. Việc Chính phủ Đài Loan quyết định giải quyết các khoản nợ khó đòi là quyết định tích cực đối với quá trình cải cách hệ thống ngân hàng. Theo Ngân hàng United World Chinese Commercial Bank, tính đến nay, ngân hàng này đã giải quyết được 514 triệu USD nợ có vấn đề thông qua việc bán và xoá nợ. Mặt khác, chính phủ Đài Loan đã ban hành các luật mới tạo để giảm thuế và các ưu đãi khác đối với các hoạt động sáp nhập và mua lại của các NHTM. Một luật mới đã được ban hành trong tháng 2/2002 cho phép các ngân hàng sử dụng chứng khoán thay tiền mặt khi mua lại hoặc sáp nhập. Theo Chính phủ Đài Loan, sáp nhập các ngân hàng là con đường dễ dàng nhất để các ngân hàng có thể bổ sung vốn và xây dựng lại vị thế cạnh tranh của mình. Có thể thấy, hệ thống NHTM Việt Nam mặc dù ngày càng tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng hoạt động vẫn chưa cao. Đặc biệt, năng lực tài chính của hầu hết các NHTM đều chưa đạt tiêu chuẩn an toàn theo thông lệ quốc tế, thể hiện qua tỷ lệ nợ khó đòi chiếm cao trong tổng dư nợ tín dụng. Mặt khác, các NHTM Việt Nam cho đến nay cũng chưa có đủ số vốn điều lệ cần thiết để hoạt động an toàn và mở rộng hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, với vai trò là lực lượng chính cung cấp vốn cho toàn bộ nền kinh tế và là chố dựa không thể thiếu, các NHTM Việt Nam cần phải được tái cơ cấu một cách toàn diện trên cơ sở điều kiện thực tế của mình và tham khảo kinh nghiệm cải cách của một số quốc gia trên thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế mở cửa và nhanh chóng hội nhập tài chính quốc tế trong thời gian tới ./. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA I. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY 1. Đối tượng, mục tiêu cải cách 1.1. Đối tượng cải cách Theo quan điểm của Bộ Chính trị, trong giai đoạn 1998-2002, việc cải cách chủ yếu được thực hiện với các NHTM cổ phần và các NHTM quốc doanh do các ngân hàng này hoạt động kém hiệu quả so với các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể, đối tượng cải cách trong giai đoạn này là 51 NHTM cổ phần và 6 NHTM quốc doanh hiện đang hoạt động trên phạm vi cả nước. 1.2. Mục tiêu cải cách Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á năm 1997, mặc dù bị ảnh hưởng không nhiều nhưng ngay từ năm 1998, Chính phủ Việt Nam đã có những bước đi đầu tiên để cơ cấu lại hệ thống NHTM. Theo báo cáo của Thủ tướng Phan Văn Khải trình bày tại kỳ họp thứ X, Quốc hội khoá X, mục tiêu chung của việc cải cách hệ thống NHTM là “Xây dựng một hệ thống ngân hàng mạnh về tài chính, giỏi về quản trị, điều hành, hiện đại về công nghệ; thực hiện tốt chức năng huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội, đáp ứng tín dụng đầy đủ cho các cơ hội kinh doanh có hiệu quả của mọi doanh nghiệp và dân cư; cung ứng kịp thời các tiện ích ngân hàng”. 2. Nội dung chính của chương trình cải cách từ năm 1998 đến nay 2.1. Xử lý nợ tồn đọng trên cơ sở phân loại và đánh giá chính xác khối lượng nợ của các NHTM quốc doanh 2.1.1. Đối tượng, phạm vi xử lý Là các khoản nợ tồn đọng còn dư nợ đến thời điểm 31/12/1998 tại các NHTM quốc doanh. 2.1.2. Nguyên tắc xử lý Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng phải tuân thủ 3 nguyên tắc sau: - Phải bảo đảm vững chắc để không tái diễn, không gây mất ổn định hoạt động của hệ thống NHTM và nền kinh tế. - Việc bán tài sản nợ tồn đọng trên thị trường phải bảo đảm công khai, minh bạch theo quy định hiện hành của pháp luật, hạn chế tổn thất và ngăn chặn tiêu cực phát sinh. - Gắn việc xử lý nợ tồn đọng của các NHTM với việc lành mạnh hoá tài chính của DNNN. 2.1.3. Hình thức xử lý Các NHTM tiến hành xử lý các khoản nợ tồn đọng theo hình thức đã được phê duyệt trong các Đề án cải cách đối với từng ngân hàng, theo từng nhóm nợ. Theo các đề án này, các NHTM quốc doanh đã xác định được số nợ cần xử lý đến 31/12/2000 theo từng nhóm nợ và dự kiến sẽ hoàn thành việc xử lý nợ vào năm 2003. 2.2. Cấp bổ sung vốn điều lệ cho các NHTM quốc doanh Mục tiêu của việc bổ sung vốn điều lệ cho các NHTM quốc doanh là giúp các ngân hàng từng bước đạt được tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vốn (8%) nhằm tăng cường năng lực tài chính, làm cơ sở cho các NHTM quốc doanh mở rộng hoạt động, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh và chuẩn bị cho tiến trình hội nhập vào thị trường tài chính của khu vực và thế giới. 2.3. Tái cơ cấu các NHTM cổ phần Nhà nước tiến hành tái cơ cấu các NHTM cổ phần nhằm hình thành những ngân hàng hoạt động an toàn, vốn điều lệ cần được tăng cường ở quy mô lớn, chất lượng hoạt động tín dụng tốt, có uy tín và công nghệ đủ sức cạnh tranh lành mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới. 3. Miêu tả các phương án cải cách NHTM Việt Nam giai đoạn 1998- 2002 3.1. Các phương án cải cách NHTM quốc doanh - Cơ cấu lại NHTM quốc doanh, tập trung thu hồi nợ xấu, thanh lý các tài sản thế chấp thông qua Công ty xử lý tài sản, thực hiện trích lập quỹ dự phòng rủi ro để xử lý các khoản nợ xấu. Chú trọng công tác kiểm soát nội bộ về toàn bộ hoạt động của NHTM quốc doanh, tăng huy động nguồn vốn, góp phần đầu tư nền kinh tế. - Tách riêng hoạt động cho vay chính sách với cho vay thương mại bằng cách thành lập ngân hàng chính sách với chức năng chủ yếu là cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo, cấp tín dụng cho sinh viên, cấp tín dụng cho các chương trình tài trợ khác của Chính phủ như: chính sách miền núi hải đảo, khắc phục hậu quả bão lũ… - Mở rộng, tăng cường các nghiệp vụ hoạt động theo xu hướng hội nhập và phát triển của NHTM tiên tiến tại các nước trong khu vực và quốc tế. 3.2. Các phương án cải cách NHTM cổ phần - Kết hợp củng cố, chấn chỉnh và sắp xếp lại các NHTM cổ phần, nâng cao chất lượng hoạt động, củng cố bộ máy điều hành, đặc biệt là HĐQT, kiểm soát và điều hành của TGĐ. - Lành mạnh hóa tình hình tài chính trên cơ sở cơ cấu lại nợ quá hạn, đặc biệt là tại các ngân hàng có tình trạng nợ xấu nghiêm trọng. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát và giám sát từ xa đối với các mặt hoạt động, đặc biệt lưu ý đến sở hữu các cổ phần, bảo toàn vốn của NHTM cổ phần, đưa ra những yêu cầu về tái cơ cấu tổ chức và các chuẩn mực về quản lý đối với các NHTM cổ phần như: quản lý rủi ro; quản lý tài sản nợ, tài sản có; giám sát và kiểm toán nội bộ. - Ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ của các ngân hàng yếu kém, giảm bớt số lượng ngân hàng hoạt động không hiệu quả, không đáp ứng được tài chính theo quy định của pháp luật. II. THỰC TRẠNG CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 1. Những thành tựu cải cách đã đạt được trong thời gian qua 1.1. Những nỗ lực cải cách NHNN và tác động đến quá trình cải cách NHTM 1.1.1. Cải thiện điều hành chính sách tiền tệ Quá trình đổi mới các công cụ CSTT của NHNN từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp đã tác động rõ nét đến hoạt động cải cách các NHTM. a. Về cơ chế điều hành lãi suất đối với các NHTM Trong thời gian qua, NHNN đã không ngừng đổi mới cơ chế điều hành lãi suất. Việc đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất đã có tác động rất lớn đến tiến trình cải cách NHTM. Việc chuyển từ lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương đã tác động rõ nét đến các NHTM đang hoạt động thua lỗ sang hoạt động kinh doanh có lãi, tạo nền móng ban đầu để các NHTM thực hiện các bước cải cách có hiệu quả. Đồng thời, nỗ lực cải cách này của NHNN đã có tác động tích cực đến các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải quan tâm hơn đến hiệu quả đồng vốn vay, để bảo đảm trả nợ gốc và mức lãi cho ngân hàng. Ngoài ra, việc thực hiện tự do hoá lãi suất tiền gửi và thực hiện quy định về trần lãi suất cho vay đã tăng thêm quyền chủ động kinh doanh cho các NHTM, lãi suất tiền gửi được tự do quyết định dựa trên trần lãi suất cho vay do thống đốc NHNN quy định, tạo ra sự linh hoạt cho các NHTM thực hiện vai trò chu chuyển vốn của mình. Bước cải cách gần đây nhất về cơ chế điều hành lãi suất là thực hiện điều hành cơ chế lãi suất cơ bản đối với lãi suất cho vay VND và dựa vào lãi suất SIBOR cộng phí đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ (từ 5/8/2000). Có thể nói đây là bước cải cách rất quan trọng trong tiến trình cải cách hệ thống NHTM. Đặc biệt, ngày 30/5/2002, thống đốc NHNN Việt Nam đã ký Quyết định số 546/2002/QĐ/NHNN về việc thực hiện Cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Đây được xem là một sự kiện đánh dấu bước chuyển căn bản trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN, tạo ra một cơ chế lãi suất thuận lợi cho hoạt động của các NHTM. Cụ thể, các NHTM được chủ động quyết định mức lãi suất cho vay phù hợp với lãi suất huy động trên từng địa bàn cụ thể và tương ứng với những món vay có tỷ lệ rủi ro cao hay thấp, chấm dứt tình trạng khách hàng có nhu cầu vay vốn cới lãi suất cao, nhưng ngân hàng không thể cho vay được vì kịch trần mặc dù hoàn toàn có thể. Bên cạnh đó, khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng cũng được chủ động trong việc lựa chọn lãi suất cho vay của ngân hàng bất kỳ, góp phần giảm thiểu sự độc quyền trong vấn đề lãi suất của các NHTM. Trong môi trường hoạt động theo lãi suất thoả thuận, các NHTM buộc phải giảm thiểu các chi phí đầu vào, nâng cao các chất lượng dịch vụ đầu vào để từ đó làm động lực thúc đẩy thực hiện thành công quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM Việt Nam. b. Về cải cách cơ chế điều hành tỷ giá Ngày 1/7/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN với nội dung chính là cho phép các TCTD kinh doanh ngoại tệ được mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch giữa đồng Việt Nam với đồng Đô la Mỹ từ 0,1% lên 0,25% so với tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Tuy nhiên, khác với trước đây là chỉ quy định tỷ lệ trần, quyết định mới đã quy định cả tỷ lệ tối thiểu (sàn - 0,25%). Việc mở rộng biên độ tỷ giá là một bước mở rộng dần điều hành gián tiếp và giảm bớt tính hành chính trong điều hành tỷ giá, tạo điều kiện cho các NHTM thực sự chủ động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh, góp phần thúc đẩy quá trình cải cách tại các NHTM. c. Các công cụ điều hành CSTT khác Việc cải cách các công cụ CSTT khác như dự trữ bắt buộc (DTBB), tái cấp vốn, hình thành nghiệp vụ thị trường mở… cũng có những tác động đến chi phí hoạt động của các NHTM. Việc thay đổi quy chế DTBB từ quy định phải bảo đảm tỷ lệ DTBB tất cả các ngày trong tháng bằng việc đảm bảo DTBB bình quân trong kỳ đã tạo cho các NHTM linh hoạt nguồn vốn khả dụng của mình, qua đó tạo cơ hội đầu tư vốn hiệu quả, tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM. Ngoài ra, việc hạ thấp tỷ lệ DTBB từ 10% xuống còn 5% đã giảm được chi phí hoạt động của các ngân hàng, tăng lợi nhuận kinh doanh, cải thiện phần nào tình trạng thiếu vốn tại các NHTM Việt Nam hiện nay. 1.1.2. Tăng cường thanh tra giám sát các NHTM Những nỗ lực cải cách hoạt động thanh tra giám sát của NHNN cũng có tác động rõ nét đến quá trình cải cách các NHTM Việt Nam. Các hoạt động cải cách trong lĩnh vực này diễn ra mạnh mẽ từ năm 1998 đến nay, các quy chế giám sát cho hoạt động an toàn của các NHTM đã được ban hành. Sự hoàn thiện các quy định này theo Quyết định số 296, 297/1999 đã tạo ra sự chuyển hướng cho hoạt động của các NHTM theo hướng an toàn hiệu quả. Việc quy định đối với cơ chế ban hành tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các NHTM: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng 8% vốn tự có so với tổng tài sản Có, kể cả các khoản cam kết ngoài bảng buộc các NHTM phải có kế hoạch tăng vốn tự có, giảm bớt các khoản nợ xấu, nợ khó đòi hiện rất cao trong hệ thống NHTM Việt Nam. Bên cạnh đó, để hỗ trợ việc cải cách các NHTM, NHNN cũng đã ban hành quy chế giám sát từ xa nhằm hạn chế những nguy cơ mất an toàn của toàn hệ thống trong khi tiến hành cải cách. 1.1.3. Đổi mới cơ chế chính sách đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM Để cải thiện hoạt động kinh doanh tại các NHTM, thúc đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM Việt Nam, NHNN đã ban hành hàng loạt các cơ chế chính sách mới như: cơ chế tín dụng, lãi suất, bảo đảm tiền vay, thanh toán, an toàn trích lập rủi ro, kinh doanh ngoại hối. Những quy định mới này đã góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của các NHTM, tạo sự chủ động cho các NHTM tiếp cận thị trường, mở rộng đối tượng cho vay, tăng thu nhập và tiến tới tăng năng lực tài chính cho các ngân hàng. Đặc biệt, ngày 31/12/2001, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quy chế cho vay kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN (Quy chế cho vay mới), có hiệu lực thi hành từ 01/02/2002 và thay thế Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2002. Quy chế này ra đời đã tạo được hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động của các TCTD nói chung và các NHTM nói riêng. Nếu như quy chế trước đây chỉ cho phép các TCTD cho vay vốn đối với cá nhân và pháp nhân Việt Nam thì quy chế mới đã bổ sung thêm khách hàng được vay vốn tại TCTD là cá nhân và pháp nhân nước ngoài. 1.2. Những thành tựu cải cách NHTM đã đạt được trong thời gian qua Thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam, đầu năm 2000, NHNN và cơ quan chức năng đã chuẩn bị một chương trình hành động trọn gói áp dụng cho cả khu vực NHTM quốc doanh và NHTM cổ phần bên cạnh kế hoạch xây dựng riêng cho từng khu vực trong hai năm 1998-1999. Cho đến nay, kế hoạch tái thiết hệ thống NHTM Việt Nam đã đi được những bước cơ bản đầu tiên và cũng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. 1.2.1. Khu vực các Ngân hàng thương mại quốc doanh Trong những năm qua, các NHTM quốc doanh Việt Nam đã thực sự lực lượng nòng cốt trong hệ thống NHTM Việt Nam nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Tuy đã góp phần cùng toàn ngành ngân hàng đạt một số thành tựu quan trọng nhưng hoạt động của các NHTM quốc doanh vẫn còn nhiều tồn tại như: vốn điều lệ thấp, tỷ lệ nợ quá hạn cao, tổ chức điều hành còn yếu kém…Trước thực trạng này, tháng 6/1999, Chính phủ đã tiến hành xây dựng chiến lược củng cố và phát triển các NHTM quốc doanh nhằm cải thiện hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam. Dựa trên đánh giá tín nhiệm của các NHTM quốc doanh theo thông lệ quốc tế, NHNN cũng đã xây dựng đề án trình Chính phủ về củng cố NHTM quốc doanh và được Chính phủ phê duyệt vào đầu năm 1999. Các NHTM quốc doanh cũng tiến hành xây dựng đề án cơ cấu của riêng mình và đã được Chính phủ phê duyệt vào tháng 3/2001. Trên thực tế, các hoạt động cải cách khu vực NHTM quốc doanh đã được thực hiện từ năm 1998 nhưng cho đến năm 1999, các kế hoạch cải cách cụ thể mới được xây dựng. Theo kế hoạch của Chính phủ và NHNN, hoạt động cải cách khu vực NHTM quốc doanh sẽ tập trung vào giải quyết hai vấn đề lớn, đó là: bổ sung vốn điều lệ và xử lý nợ tồn đọng. Tuy nhiên, cũng phải đồng thời tiến hành chấn chỉnh lại công tác tổ chức điều hành và quản lý tại các NHTM quốc doanh. 1.2.1.1. Vấn đề bổ sung vốn điều lệ. Như đã tìm hiểu ở Chương I, vốn tự có tại các NHTM quốc doanh hiện vẫn còn rất thấp, không đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn trong kinh doanh tiền tệ. Theo thông lệ quốc tế, để đảm bảo mức độ an toàn vốn thì các chỉ tiêu thể hiện trong Bảng 6 tối thiểu phải đạt 8%. Trong khi đó, nếu các ngân hàng trên có gộp cả quỹ dự phòng rủi ro của vốn vào vốn điều lệ và gọi chung là vốn điều chỉnh thì tỷ lệ vốn/tổng tài sản cũng chưa vượt quá 3,5% và tỷ lệ vốn/tổng dư nợ tín dụng cũng không quá 7%. Vì vậy, Chính phủ đã quyết định sử dụng nguồn tái cấp vốn để tăng vốn điều lệ cho các NHTM quốc doanh nhằm nâng tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản đạt mức an toàn tối thiểu là 8%. Bảng 6: Tỷ lệ an toàn vốn của một số NHTM quốc doanh Việt Nam giai đoạn 1998-2000 Đơn vị:% 1998 1999 2000 Tên ngân hàng Car1 Car2 Car1 Car2 Car1 Car2 NHNN&PTNT 5.92 8.03 5.86 6.93 4.16 5.16 NHĐT&PT 3.82 4.99 2.81 3.87 2.32 3.19 NHCT 3.28 5.53 2.42 3.98 2.36 3.15 Trong đó: Car1 (Capital rate) = (%) Vốn pháp định/Tổng tài sản Car2= (%) Vốn pháp định /Tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế Nguồn: Tạp chí Tài chính tiền tệ, 11/2000 Theo tính toán của NHNN (Bảng 7), các NHTM quốc doanh sẽ cần phải được bổ sung ít nhất là 5203 tỷ đồng để đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả. Kế hoạch cấp vốn của Chính phủ bắt đầu được thực hiện từ tháng 10/1998 và hoàn thành vào cuối năm 1999 với tổng số vốn cấp là 3300 tỷ đồng được lấy trực tiếp từ Ngân sách Nhà nước. Trong đó, NHNT, NHCT, NHĐT&PT mỗi ngân hàng được cấp 1100 tỷ đồng; riêng NHNN&PTNT được cấp vốn lớn nhất 2200 tỷ đồng. Biện pháp này đã góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng của các NHTM quốc doanh và phần nào cải thiện lượng vốn tự có trong các ngân hàng này. Tính đến đầu năm 2000, vốn tự có đã bổ sung của các NHTM quốc doanh đã lên tới: 2063 tỷ đồng ở NHNT; 1637 tỷ đồng ở NHCT; 1892 tỷ đồng ở NHĐT&PT và 2755 tỷ đồng ở NHNN&PTNT (12). Bảng 7 : Số vốn tối thiểu cần thiết phải bổ sung cho các NHTM quốc doanh Đơn vị: tỷ đồng Tên NHTM quốc doanh Vốn và các quỹ Tổng tài sản có Số vốn cần thiết (Cột 2:12,5) Số vốn cần bổ sung (Cột 3 - Cột 1) (0) (1) (2) (3) (4) NH NGOẠITHƯƠNG 2.063 45.269 3.621 1.558 NH CÔNG THƯƠNG 1.637 45.454 3.636 1.999 (12) Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 290, tháng 7/2002 NH ĐẦU TƯ 1.892 39.177 3.134 1.242 NH NÔNG NGHIỆP 2.755 39.489 3.159 404 Tổng cộng 8.347 169.389 13.550 5.203 Nguồn: Báo cáo thường niên của 4 Ngân hàng thương mại. (*) Do không đủ cơ sở để tách chính xác số vốn tự có của NHTM vì vậy việc tính toán dựa trên trị giá Vốn và các quỹ. Tuy nhiên, lượng vốn điều lệ được cấp trong năm 1998-1999 không đủ để đảm bảo hoạt động cho các NHTM quốc doanh. Theo báo cáo thường niên của 4 NHTM quốc doanh, tổng số vốn được cấp chỉ mới đạt 3300 tỷ đồng trong khi số vốn tối thiểu cần được bổ sung là 5203 tỷ đồng.Vì vậy, ngày 14/6/2002, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 453/TTg thực hiện phương án cấp 7840 tỷ đồng để bổ sung vốn điều lệ cho các NHTM quốc doanh giai đoạn 2002-2004. Nhưng do NSNN không còn đủ để cấp trực tiếp bằng tiền nên đợt cấp lần này sẽ được thực hiện thông qua hình thức phát hành trái phiếu đặc biệt của Chính phủ. Trái phiếu có thời hạn 20 năm, lãi suất 3,3%/năm được thanh toán hàng năm, được sử trong quan hệ tín dụng với NHNN và không được chuyển nhượng trong 5 năm đầu. Nỗ lực này của Chính phủ đã giúp cho các NHTM quốc doanh mỗi năm sẽ nhận được gần 300 tỷ đồng vốn thực cấp nhờ được Bộ tài chính thanh toán lãi suất và được thế chấp vay tái cấp vốn tại NHNN. Đặc biệt, việc tăng vốn điều lệ bằng trái phiếu giai đoạn 2002-2004 đã giải quyết được vướng mắc quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng về tỷ lệ giới hạn cho vay đối với một khách hàng. Có thể xem đây là một trong những thành tựu quan trọng nhất trong quá trình cải cách khu vực NHTM quốc doanh vì vốn điều lệ là một trong những chỉ tiêu quy định quy mô và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Với số vốn được cấp bổ sung, chắc chắn các NHTM quốc doanh sẽ hoạt động tốt hơn, giữ vững vai trò chủ đạo trong hệ thống NHTM Việt Nam. 1.2.1.2. Vấn đề xử lý các khoản nợ tồn đọng Nợ khó đòi là vấn đề bức bối nhất hiện nay trong khu vực NHTM quốc doanh. Theo số liệu tại Bảng 8, tính đến cuối 8/2001, tỷ lệ nợ khó đòi tại 4 NHTM quốc doanh đã chiếm tới 10% tổng dư nợ tồn đọng trong khi phải dưới 5% thì mới đạt mức an toàn. Bảng 8: Tỷ lệ nợ quá hạn tại các NHTM quốc doanh giai đoạn 1995-2001 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Nợ quá hạn/Tổng vốn tự có Nợ quá hạn/Tổng dư nợ Nợ quá hạn/Tổng tài sản Tổng vốn tự có/Tổng tài sản 105,5 9,1 5,2 4,9 128,4 11 6,4 5 181,4 12 7,1 7,2 - 11 6,2 - 234 11,1 5,8 - - 11 5,9 - - 10% - - Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam tháng 2/1998; Thống kê của Ngân hàng Thế giới, 2001. Để giải quyết dứt điểm tình trạng này, Chính phủ đã có Nghị quyết số 17/2000/NQ-CP ngày 6/11/2000, trong đó nhấn mạnh cần lành mạnh hóa hoạt động của các NHTM, đặc biệt là tình hình tài chính của các NHTM quốc doanh, góp phần ổn định và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ đã giao cho NHNN chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ tiến hành phân loại các khoản nợ trong các NHTM quốc doanh và đề xuất giải pháp xử lý các khoản nợ đó, đồng thời sắp xếp lại các DNNN và cơ cấu lại tài chính, tổ chức quản lý, phương hướng hoạt động của các doanh nghiệp này, giúp cho các doanh nghiệp có nợ quá hạn với ngân hàng có thể trả nợ được. Các NHTM quốc doanh cũng đã tiến hành xây dựng Đề án xử lý nợ tồn đọng cho mình và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thông qua Quyết định số 149/01/QĐ-TTg ngày 5/10/2001. Cho đến nay, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về công tác xử lý nợ tồn đọng tại các NHTM quốc doanh, các Bộ ngành nói trên đã tiến hành phân loại các khoản nợ tồn đọng và cũng đã đưa ra được đề xuất cụ thể đối với từng nhóm nợ. Có thể coi đây là thành tựu quan trọng nhất đã đạt được trong công tác xử lý nợ tồn đọng tại các NHTM quốc doanh. Theo Bản phân loại nợ do các cơ quan này đưa ra, nợ tồn đọng của các NHTM quốc doanh được chia làm 2 nhóm: a. Nhóm có tài sản bảo đảm: Nhóm nợ này chiếm 1/2 tổng số nợ khó đòi của các ngân hàng và phải được tận thu tối đa để hạn chế tổn thất cho các ngân hàng và cho Nhà nước. - Trường hợp những tài sản bảo đảm nợ vay thuộc những vụ án đã được toà án phán quyết nhưng chưa giao tài sản cho NHTM thì các cơ quan thi hành án cần nhanh chóng giao cho các NHTM để xử lý thu hồi vốn theo các hình thức trên. - Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay chưa đầy đủ thủ tục pháp lý và hiện không có tranh chấp, các cơ quan chức năng Nhà nước có thẩm quyền cần hoàn thiện các thủ tục pháp lý để tạo điều kiện cho các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM bán nhanh tài sản, thu hồi nợ. - Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay chưa bán được, NHTM, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM cần áp dụng các biện pháp như: + Sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn liên doanh bằng tài sản để thu hồi nợ. + Trường hợp các ngân hàng giữ tài sản lại để sử dụng thì phải có nguồn vốn tương ứng theo quy định của pháp luật. Giá bán các tài sản bảo đảm nợ vay có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị nợ tồn đọng (gốc và lãi). Trường hợp bán tài sản với giá thấp hơn giá trị nợ tồn đọng thì phần chênh lệch được xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro của các NHTM. Ngược lại, nếu bán với giá cao hơn thì phần chênh lệch được xử lý theo quy định của pháp luật. b. Nhóm nợ không có tài sản bảo đảm b1. Nợ không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn tồn tại: Trong khi đang hoạt động, các NHTM quốc doanh có thể bán lại nợ để thu hồi vốn hoặc chuyển nợ vào vốn góp của doanh nghiệp. Qua đó có thể chuyển phần giá trị thực còn của khoản nợ thành vốn Nhà nước, cấp bổ sung cho doanh nghiệp cũng như xác định được số nợ còn có thể thu hồi để giúp ngân hàng có thể chủ động trong việc xử lý. Trong nhóm này, nợ của DNNN chiếm chủ yếu, việc xử lý nợ liên quan tới tiến độ cơ cấu và sắp xếp lại DNNN. Do vậy, để đảm bảo tiến độ xử lý nợ của các NHTM quốc doanh, cần đẩy nhanh tốc độ cơ cấu và sắp xếp lại DNNN mà thời gian qua vừa thực hiện chậm hơn so với tiến trình xử lý nợ của các NHTM. b2. Nợ không có tài sản đảm bảo và không còn đối tượng để thu hồi Các NHTM quốc doanh tập hợp các báo cáo đề nghị xử lý thu, các hướng dẫn của NHNN để xử lý trong năm 2002. Trên cơ sở phân loại nợ của các Bộ ngành liên quan và chỉ đạo thực hiện của Chính phủ, trong thời gian qua, các NHTM quốc doanh đã tiến hành xử lý nợ tồn đọng theo đề án đã được phê duyệt. Các ngân hàng đã xác định được số nợ cần xử lý đến ngày 31/12/2000 theo từng nhóm nợ và số nợ dự kiến đến năm 2003; trong đó, các ngân hàng chú trọng giải quyết nhóm (a). Để hỗ trợ cho các NHTM quốc doanh, đầu năm 2000, NHNN đã xây dựng đề án thành lập Công ty mua bán nợ của hệ thống NHTM trình Chính phủ nhưng không được thông qua. Tuy nhiên, đến ngày 27/3/2001, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 43/2001/QĐ-TTg về việc thành lập Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính cho các NHTM trực thuộc Chính phủ. Đồng thời, Chính phủ đã cho phép thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của từng ngân hàng để xử lý các khoản nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo (Quyết định 150/QĐ ngày 5/10/2001) với sự giúp đỡ của Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính. Theo quyết định này, các tài sản đảm bảo nợ vay (tài sản thế chấp, cần cố; tài sản gán nợ; tài sản toà án giao cho ngân hàng), kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng thuộc nhóm này sẽ được chuyển giao cho Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để các công ty này chủ động bán theo các hình thức như: tự bán công khai trên thị trường hoặc bán qua thị trường dịch vụ bán đấu giá tài sản, hoặc bán cho công ty nhóm nợ của Nhà nước. Ngoài ra, Chính phủ bù đắp nguồn tương ứng cho các NHTM xử lý những khoản nợ tồn đọng không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu hồi. Đến nay, đã có NHCT thành lập được Công ty quản lý nợ và tài sản thế chấp, gọi tắt là CMPC. Trên thực tế, nợ tồn đọng của các NHTM có liên quan chặt chẽ với nợ quá hạn và tài sản tồn đọng của các NHTM. Theo ước tính, trong tổng số nợ quá hạn của hệ thống NHTM thì nợ của các DNNN lên đến gần 80% (13). Chính vì vậy, nếu tình trạng nợ quá hạn và tài sản tồn đọng của DNNN được xử lý một cách căn bản sẽ góp phần quan trọng giải quyết, xử lý thành công nợ tồn đọng của hệ thống NHTM. Nhận thức được điều đó, NHNN và các ngành, các cấp đã tích cực chủ động hạn chế và giải quyết nợ tồn đọng thông qua việc ban hành hàng loạt các văn bản, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM quốc doanh thu hồi nợ của các doanh nghiệp; trong đó quan trọng nhất là các văn bản sau: - Thông tư liên bộ số 03/1997/TTLB/TC-NHNN/TCTD ngày 22/11/1997. Đây là một trong những văn bản pháp lý quan trọng về hướng dẫn xử lý nợ quá hạn của các NHTM quốc doanh qua chấn chỉnh hoạt động ngân hàng sau thanh tra. Theo đó, các ngân hàng có thể xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ đối với các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Tính đến 31/12/2000, các NHTM quốc doanh đã tiến hành khoanh nợ trị giá 4900 tỷ đồng cho các DNNN. - Quyết định số 95/1998/QĐ-TTg ngày 18/5/1998 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý thanh toán công nợ giai đoạn II. Theo đó, việc xử lý và thanh toán nợ của doanh nghiệp được tiến hành theo các chủ nợ khác nhau như nợ (13) Tạp chí Tài chính tháng (1+2)/2002 ngân sách, nợ ngân hàng, khi doanh nghiệp là chủ nợ đối với Nhà nước, các khoản nợ có bảo lãnh của ngân hàng… - Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19/4/1999 ban hành quy chế mua bán nợ của các TCTD. - Quyết định số 05/2000/QĐ-TTg ngày 5/1/2000 sửa đổi bổ sung một số vấn đề về công tác xử lý, thanh toán, kế toán, hạch toán công nợ giai đoạn II. - Thông tư 23/200/TT-BTC ngày 27/3/2000 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 05/2000/QĐ-TTg. Thông tư này cũng quy định cụ thể thẩm quyền quyết định xử lý nợ đối với các khoản nợ của DNNN. - Thông tư liên tịch số 03/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 do NHNN, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính ban hành để hướng dẫnviệc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các NHTM. Có thể nói, đây là một văn bản quy định một cách đầy đủ và tương đối cụ thể nhiều vấn đề liên quan đến trình tự thủ tục xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay ngoài biện pháp khởi kiện tại Toà án cũng như xác định rõ trách nhiệm thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chức năng quản lý trên địa bàn trong việc hỗ trợ các NHTM thu hồi nợ nhanh hơn. Các văn bản pháp lý trên đây, đặc biệt là Thông tư liên tịch số 03 ngày 23/4/2001, đã tạo ra khung pháp lý rất quan trọng cho hoạt động xử lý nợ của các NHTM quốc doanh và đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác hỗ trợ xử lý nợ của các cơ quan quản lý Nhà nước. Ngoài ra, trong thời gian qua, Bộ Tài chính đã hoàn thành một đề tài nghiên cứu cấp Bộ, do Cục Tài chính chủ trì nghiên cứu về mô hình hoạt động của công ty mua bán nợ, tài sản và tư vấn chuyển đổi sở hữu DNNN. Trên cơ sở đề tài trên, gần đây, Cục Tài chính doanh nghiệp đã xây dựng Đề án Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN và đang trong quá trình xin ý kiến, hoàn chỉnh đề án trình Chính phủ.Với sự nỗ lực của các ngành các cấp, tính đến 8/2001, nợ tồn đọng tại các NHTM quốc doanh đã giảm được gần 2% so với giai đoạn trước năm 1998 (xem Bảng 8). Kết quả này đã góp phần khuyến khích những nỗ lực cải cách NHTM Việt Nam trong thời gian tới. 1.2.1.3. Vấn đề tổ chức điều hành Về tổ chức bộ máy, các NHTM quốc doanh Việt Nam được tổ chức theo mô hình Tổng công ty đặc biệt trực thuộc Chính phủ nên tính ỳ lớn và thiếu năng động trong cơ chế thị trường hiện đại. Đặc biệt, ngoài nhiệm vụ tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại, các NHTM quốc doanh còn phải thực thi hoạt động cho vay chính sách theo chỉ đạo của Nhà nước. Cụ thể, từ năm 2002 trở về trước, NHNN&PTNT phải kiêm luôn là NHNg còn NHCT Việt Nam phải làm luôn dịch vụ cho sinh viên nghèo vay tiền học tập. Mô hình tổ chức này đã hạn chế hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng. Ngoài ra, cơ chế điều hành của các NHTM quốc doanh hiện cũng còn rất nhiều vướng mắc, đặc biệt là cơ chế giữa Hội đồng Quản trị (HĐQT) và Ban Tổng Giám đốc (TGĐ). Theo Quyết định số 166-QĐ/NH5 ngày10/8/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì Chủ tịch HĐQT có thể kiêm TGĐ (Giám đốc) NHTM. Việc Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ đã gây khó khăn cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc theo dõi và giám sát hoạt động của các ngân hàng. Mặt khác, năng lực quản trị và cách thức quản lý điều hành hoạt động của các NHTM quốc doanh còn rất lạc hậu, chưa có chiến lược tổng thể của NHTM hiện đại. Trình độ cán bộ quản lý tại các NHTM quốc doanh còn chưa cao, chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức và tư duy về kinh tế thị trường hiện đại, còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi cách nghĩ cách làm của cơ chế quan liêu bao cấp. Trước tình hình này, các NHTM quốc doanh đã có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên tại các ngân hàng. Tính đến đầu năm 2002, đã có 25% trong tổng số cán bộ quản lý tại các ngân hàng đã được gửi đi đào tạo tại nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ cũng đã chỉ đạo cho các NHTM quốc doanh phải kiên quyết đối với những cán bộ quản lý yếu kém về trình độ, suy thoái về đạo đức nghề nghiệp. Công tác này đã được NHTM quốc doanh triển khai mạnh mẽ đặc biệt ở NHNT Việt Nam (Vietcombank). Đối với khối Ngân hàng chính sách, Chính phủ đã phê duyệt Đề án cơ cấu lại của Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long và cho phép ngân hàng này được chuyển sang hoạt động đa năng như một NHTM. Bên cạnh đó, NHNg cũng đã được Chính phủ quyết định giữ nguyên tên gọi và tách ra khỏi NHNN&PTNT Việt Nam… Quan trọng hơn, NHNg sẽ tiếp nhận thêm chương trình cho sinh viên nghèo vay vốn học tập từ NHCT Việt Nam. Theo kế hoạch của Chính phủ, Ngân hàng chính sách này sẽ có số vốn điều lệ là 5000 tỷ đồng và dự kiến sẽ hoạt động theo quy chế mới từ đầu năm 2003. Đây là thành tựu lớn nhất trong công cuộc đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của các NHTM quốc doanh, góp phần xây dựng các ngân hàng này thành đầu tàu vững mạnh cho hoạt động của hệ thống NHTM nói chung. Việc thành lập một Ngân hàng chính sách hoạt động độc lập, tách bạch hoạt động cho vay chính sách ra khỏi hoạt động cho vay thương mại sẽ góp phần tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh tiền tệ cho các NHTM quốc doanh. Một trong những nội dung cơ bản của Đề án cơ cấu lại NHTM quốc doanh là việc thành lậo Ban quản lý rủi ro nhằm giúp HĐQT phân tích xây dựng chuẩn mực và quản lý rủi ro của toàn hệ thống. Thực hiện nội dung và tiến độ đề án cơ cấu lại các NHTM quốc doanh cũng như tuân thủ các cam kết trong khuôn khổ Chương trình tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo giữa Chính phủ Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF), các NHTM quốc doanh bước đầu đều đã có các mô hình quản lý rủi ro, đó là: - Uỷ ban quản lý rủi ro NHNT Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 455/QĐ ngày21/9/2001 của Chủ tịch HĐQT NHNT Việt Nam. - Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro NHNN&PTNT Việt Nam được tách ra từ Ban kế hoạch thành một trung tâm hoạt động độc lập. Theo Quyết định số 235/QĐ ngày 1/6/2001 của chủ tịch HĐQT NHNN&PTNT Việt Nam. Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro là đơn vị trực thuộc bộ máy quản lý điều hành tại trụ sở chính NHNN&PTNT Việt Nam, chịu sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của HĐQT và Tổng giám đốc NHNN&PTNT Việt Nam. Ngoài ra, Hội đồng quản lý rủi ro NHNN&PTNT Việt Nam đã được thành lập vào tháng 6/2002. - Phòng thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro NHCT Việt Nam là 1 trong 24 phòng, ban chuyên môn nghiệp vụ thuộc bộ máy điều hành của NHCT Việt Nam. Phòng thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro là phòng nghiệp vụ tham mưu cho TGĐ về thông tin liên quan đến hoạt động ngân hàng và khách hàng nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của NHCT; thực thi các hoạt động nghiệp vụ giúp TGĐ trong việc quản lý sử dụng quỹ rủi ro đúng mục đích. 1.2.2. Khu vực các Ngân hàng thương mại cổ phần Khu vực NHTM cổ phần Việt Nam hiện nay còn yếu kém ở nhiều mặt khác nhau (qui mô vốn, cơ cấu tổ chức, phương thức kinh doanh). Nhận thức được tình hình đó, từ tháng 5/1998, NHNN đã tiến hành xem xét lại 18 NHTM cổ phần tại TP. Hồ Chí Minh. Dựa trên kết quả đánh giá khả năng thanh toán, tính thanh khoản và những tổn thất về vốn, NHNN đã quyết định đặt 8 NHTM cổ phần dưới “Chế độ kiểm soát đặc biệt” và “Chế độ giám sát đặc biệt”. Chế độ kiểm soát đặc biệt là chế độ theo đó NHNN sẽ đảm đương tất cả các nghiệp vụ chính của ngân hàng; còn chế độ giám sát đặc biệt là chế độ theo đó NHNN sẽ tiến hành giám sát chặt chẽ hoạt dộng của ngân hàng nhằm sửa chữa kịp thời mọi thiếu sót của NHTM. Đến đầu năm 1999, Chính phủ đã soạn thảo một kế hoạch cơ cấu lại cả 51 NHTM cổ phần trong cả nước (tham khảo Phụ lục 1). Ngoài ra, kế hoạch tái cơ cấu cho từng NHTM cổ phần cũng đã được đưa ra trong đó nhấn mạnh việc cải cách tổ chức, xử lý các khoản nợ và tái cấp vốn. Theo kế hoạch, việc tái cấp vốn cho các NHTM cổ phần sẽ được thực hiện thông qua các quỹ của Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước cũng đã ra kế hoạch thành lập Công ty quản lý tài sản (AMC) để cơ cấu lại các khoản nợ của các doanh nghiệp và giúp các NHTM giảm bớt các khoản nợ khó đòi. Công ty này sẽ hoạt động với nguồn vốn do Chính phủ cấp và sẽ tiến hành mua, bán các khoản nợ có tài sản thế chấp mà các NHTM không thể phát mại do tính chất của tài sản, không đủ giấy tờ hay không rõ nguồn gốc của khoản nợ. Phải thừa nhận rằng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã sớm ý thức được sự cần thiết phải củng cố và chấn chỉnh các NHTM cổ phần nhưng mãi đến năm 1998, các văn bản pháp quy mới được ban hành tương đối có bài bản. Ngoài ra, để hỗ trợ cho quá trình chấn chỉnh các ngân hàng cổ phần, Chính phủ đã thành lập Uỷ ban tái cơ cấu do Phó thống đốc NHNN đứng đầu và Quỹ hỗ trợ sắp xếp lại các NHTM cổ phần với mức vốn là 1.200 tỷ đồng. 1.2.2.1. Về vốn điều lệ và sắp xếp hoạt động Yếu kém rõ nhất hiện nay đối với các NHTM cổ phần là vốn điều lệ đa số là rất nhỏ so với tỷ trọng vốn vay, không đảm bảo đủ mức vốn để mở rộng phạm vi địa bàn hoạt động và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Mặc dù đã có quy định của Chính phủ về mức vốn điều lệ tối thiểu nhưng sau 3 năm thực hiện, nhiều NHTM cổ phần ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn có tổng số vốn dưới 50 tỷ đồng. Theo đánh giá của NHNN, số vốn điều lệ của các NHTM cổ phần cần được bổ sung tuy thấp hơn các NHTM quốc doanh (do tài sản có thấp) nhưng cũng xấp xỉ 2000 tỷ đồng. Chính vì vậy, ngày 3/10/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/1998/ NĐ-CP quy định về mức vốn pháp định của các TCTD. Đồng thời, NHNN cũng đã chỉ đạo cho các NHTM cổ phần phải tăng vốn điều lệ của mình lên. Mặt khác, để đảm bảo cho các NHTM cổ phần thực hiện việc tăng vốn một cách nghiêm chỉnh, NHNN đã hạn chế và cấm các ngân hàng không đủ vốn được mở rộng phạm vi và địa bàn hoạt động. Theo chủ trương này, nếu đến thời hạn quy định là 10/2001 mà các ngân hàng không tăng đủ vốn điều lệ thì sẽ bị thu hồi giấy phép hoạt động. Ngoài ra, NHNN cũng đã và đang chỉ đạo các NHTM cổ phần phải huy động vốn góp của các DNNN và NHTM quốc doanh theo đúng quy định của “Luật các Tổ chức tín dụng” về loại hình NHTM cổ phần nhằm một mặt tăng nhanh vốn điều lệ, mặt khác nâng cao năng lực điều hành của bộ máy lãnh đạo. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho các NHTM cổ phần tăng nhanh vốn điều lệ, ngày 15/7/1998, Thống đốc NHNN đã ban hành Quy chế sáp nhập hợp nhất, mua lại đối với các TCTD Việt Nam. Việc ban hành quy chế này là một bước tiến mạnh mẽ trong việc tạo khung pháp lý cho hoạt động sáp nhập mua lại của các NHTM cổ phần, giúp các ngân hàng yếu kém, vốn thấp có cơ hội sáp nhập với các ngân hàng lớn hơn để tăng vốn điều lệ duy trì hoạt động. Cho đến nay, với các biện pháp kiên quyết, dứt điểm của NHNN, các NHTM cổ phần đã cơ bản được chấn chỉnh và củng cố. Trong năm 1999, NHNN đã tiến hành các hoạt động sắp xếp như : - Thu hồi giấy phép hoạt động và hoàn thành việc thanh lý đối với NHTM Viễn Đông. - Thu hồi giấy phép hoạt động và tiến hành thanh lý đối với NHTM cổ phần Mai Phương. - Sáp nhập NHTM cổ phần Đại Nam vào NHTM cổ phần Phương Nam. - Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế mua lại tài sản Có của NHTM cổ phần Mê Kông và xúc tiến các thủ tục cần thiết để thu hồi giấy phép hoạt động của NHTM cổ phần Mê Kông. - Giao Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam tham gia xử lý NHTM cổ phần Nam Đô, chuẩn bị tiến tới thu hồi giấy phép hoạt động của NHTM cổ phần Nam Đô. - Chấp thuận cho NHTM cổ phần Tây Đô được chuyển thành NHTM cổ phần nông thôn Tây Đô. - Giao cho NHNT Việt Nam tham gia xử lý NHTM cổ phần Vũng Tàu và làm các thủ tục cần thiết để thu hồi giấy phép hoạt động và thanh lý ngân hàng này. - Đặt các NHTM cổ phần Việt Hoa, Vũng Tàu, Mê kông, Nam Đô, Mai Phương, Quảng Ninh trong tình trạng kiểm soát đặc biệt và các NHTM cổ phần Quế Đô, Đệ Nhất, VP Bank, Xuất nhập khẩu, Gia Định, Tứ giác Long Xuyên trong tình trạng giám sát của NHNN. - Đệ trình Thủ tướng Chính phủ phương án kiểm soát đặc biệt và xử lý đối với một số ngân hàng khác. Trước khi thực hiện Đề án chấn chỉnh và củng cố các NHTM cổ phần, trong cả nước có tới 51 NHTM cổ phần (31 NHTM cổ phần đô thị và 20 NHTM cổ phần nông thôn). Tính đến nay NHNN đã thu hồi giấy phép hoạt động của 6 NHTM cổ phần đô thị trong đó: giải thể 2 ngân hàng, sáp nhập hợp nhất và mua lại 1 ngân hàng, xuống hạng 2 ngân hàng. Bên cạnh đó, có 3 NHTM cổ phần khác không còn hoạt động trên thực tế và NHNN đang làm thủ tục thu hồi giấy phép. Các NHTM cổ phần đô thị phải ngừng hoạt động chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh, chỉ có Ngân hàng Châu Á Thái Bình Dương có trụ sở chính tại Hà Nội. Các NHTM cổ phần đô thị nói trên bị sắp xếp lại do những yếu kém không thể khắc phục được như tỷ lệ nợ quá hạn và khả năng mất vốn cao, kinh doanh thua lỗ kéo dài, dính líu đến nhiều vụ án lớn… Như vậy, đến nay chỉ còn 21 NHTM cổ phần đô thị đang hoạt động, trong đó có 19 ngân hàng đã tăng đủ vốn điều lệ theo quy định của Chính phủ tại Nghị định 82/NĐ-CP (đối với NHTM cổ phần đô thị là 70 triệu USD; NHTM cổ phần nông thôn là 50 triệu USD), còn lại 2 ngân hàng chưa tăng đủ vốn đang được cho phép gia hạn thêm thời gian. Đối với khối NHTM cổ phần nông thôn, trước khi thực hiện đề án, cả nước có 20 ngân hàng. Sau hơn 3 năm thực hiện chấn chỉnh và củng cố, đến nay, NHNN đã thu hồi giấy phép hoạt động của 7 ngân hàng, trong đó giải thể 1 ngân hàng, sáp nhập 4 ngân hàng và bán lại 2 ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu cũng là do những yếu kém kéo dài không thể khắc phục được. Bên cạnh đó, NHNN đã xếp 1 NHTM cổ phần đô thị xuống hạng thành NHTM cổ phần nông thôn (NHTM cổ phần Tây Đô). Do vậy, hiện nay nước ta chỉ có 15 NHTM cổ phần nông thôn đang hoạt động, trong đó có 14 ngân hàng đã tăng đủ vốn điều lệ. Như vậy, chương trình chấn chỉnh hoạt động của các NHTM cổ phần và tăng vốn điều lệ đã đi được những bước cơ bản. Từ chỗ có 51 NHTM cổ phần trong cả nước (31 NHTM cổ phần đô thị và 20 NHTM cổ phần nông thôn), đến nay chỉ còn 36 ngân hàng (21 NHTM cổ phần đô thị và 15 NHTM cổ phần nông thôn) với 33/36 ngân hàng hội đủ vốn điều lệ theo quy định (14). Vấn đề đặt ra bây giờ là phải tiếp tục củng cố tổ chức, nâng cao năng lực điều hành và chuyên môn nghiệp vụ, hiện đại hoá công nghệ, giải toả các khoản nợ khó đòi và tăng đủ vốn điều lệ theo quy định và theo yêu cầu. 1.2.2.2. Về vấn đề tổ chức điều hành Cơ cấu tổ chức và điều hành nhân sự là một trong những yếu kém của các NHTM cổ phần. Thực tế cho thấy, cơ cấu tổ chức tại các NHTM cổ phần còn nhiều hạn chế một phần là do sự quản lý lỏng lẻo về nhân sự với cách làm ăn chụp giật, phần lớn xuất phát từ rủi ro đạo đức cá nhân. Chính vì vậy, bộ máy tổ chức của các NHTM cổ phần thường xộc xệch, yếu kém về năng lực quản trị, điều hành và kiểm soát. Để cải thiện tình hình trên, NHNN đã yêu cầu các ngân hàng này phải chỉnh sửa lại điều lệ theo quy định của pháp luật. Đồng thời, các NHTM cổ phần phải tiến hành hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, ổn định cổ đông góp vốn, chấn chỉnh lại về quản trị, kiểm soát và điều hành. Thông qua chấn chỉnh, NHNN đã tác động đưa ra khỏi HĐQT, Ban kiểm soát, Ban điều hành những cá nhân không đủ tiêu chuẩn đạo đức, thiếu kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm hoạt động tài chính - ngân hàng (NHTM cổ phần Việt Hoa, NHTM cổ phần Nam Đô, NHTM cổ phần Vũng Tàu…). Đồng thời, NHNN cũng đã tạm đình chỉ chức danh một số thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban điều hành vi phạm Điều 36, 37, 38, 39, 40, 77, 78 Luật các Tổ chức tín dụng tại một số (14) Tạp chí Thị trường tài chính-tiền tệ, tháng 9/2002 ngân hàng như: NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần Nam Á, NHTM cổ phần Phương Đông, Ngân hàng cổ phần phát triển nhà TP. Hồ Chí Minh, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần Đà Nẵng. Ngoài ra, cùng với việc giải quyết nhân sự, NHNN cũng đã xử lý nghiêm minh bằng hành chính và pháp luật các vi phạm pháp luật khác tại các NHTM cổ phần Nam Đô, Mê Kông, Quế Đô, Việt Hoa, Vũng Tàu… Nhờ những nỗ lực cải cách của Chính phủ và NHNN, những vụ việc cố ý làm trái và vi phạm pháp luật của HĐQT và Ban điều hành ở các NHTM cổ phần đã giảm hẳn, góp phần đổi mới cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực quản trị điều hành tại các ngân hàng. 1.2.2.3. Về hoạt động kinh doanh và cơ cấu nợ Hiện nay, các NHTM cổ phần có mức độ thanh khoản quá thấp, nhiều ngân hàng chỉ ôm bất động sản (phần lớn là đất đai) không có khả năng chuyển hóa thành tiền, dẫn đến nguy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP.pdf
Tài liệu liên quan