Luận án Tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội

Tài liệu Luận án Tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH -------]^------- Lấ MINH ĐỨC tμi chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thμnh phố hμ nội LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH -------]^------- Lấ MINH ĐỨC tμi chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thμnh phố hμ nội Chuyờn ngành : Tài chớnh - Ngõn hàng Mó số : 62.34.02.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS PHAN DUY MINH 2. TS NGUYỄN DUY PHONG HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tụi xin cam đoan bản luận ỏn là cụng trỡnh nghiờn cứu của riờng tụi. Cỏc số liệu, kết quả nờu trong luận ỏn là trung thực và cú nguồn gốc rừ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Lờ Minh Đức MỤC LỤC Trang Trang phụ bỡa Lời cam đoan Mục lục Danh mục cỏc chữ viết tắt Danh mục cỏc bảng Danh mục cỏc biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIấN CỨU Cể LIấN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 5 1.1. QUAN ĐIỂM ...

pdf171 trang | Chia sẻ: tranhong10 | Lượt xem: 918 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận án Tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH -------]^------- LÊ MINH ĐỨC tμi chÝnh víi ph¸t triÓn c«ng nghiÖp n«ng th«n vïng ven ®« thμnh phè hμ néi LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH -------]^------- LÊ MINH ĐỨC tμi chÝnh víi ph¸t triÓn c«ng nghiÖp n«ng th«n vïng ven ®« thμnh phè hμ néi Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng Mã số : 62.34.02.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS PHAN DUY MINH 2. TS NGUYỄN DUY PHONG HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Lê Minh Đức MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 5 1.1. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5 1.1.1. Các quan điểm nghiên cứu chính 5 1.1.2. Các phương pháp nghiên cứu chính 6 1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 8 1.2.1. Trên thế giới 8 1.2.2. Ở Việt Nam 9 1.3. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 17 1.3.1. Những vấn đề đã được giải quyết cần kế thừa 17 1.3.2. Những vần đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu đối với đề tài 18 Tiểu kết chương 1 19 Chương 2: TÀI CHÍNH VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ THỊ 21 2.1. CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ THỊ 21 2.1.1. Kinh tế vùng ven đô thị 21 2.1.2. Công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị 28 2.2. TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ THỊ 31 2.2.1. Nhận thức về tài chính 31 2.2.2. Vai trò của tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị 35 2.2.3. Các công cụ tài chính chủ yếu tác động đến quá trình phát triển công nghiệp nông thôn 41 2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC SỬ DỤNG TÀI CHÍNH CHO PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN 47 2.3.1. Kinh nghiệm quốc tế và trong nước 47 2.3.2. Những bài học được rút ra 56 Tiểu kết chương 2 58 Chương 3: THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA 60 3.1. KHÁI QUÁT CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI 60 3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng ven đô Hà Nội 60 3.1.2. Tình hình phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội trong thời gian qua 67 3.2. THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI 86 3.2.1. Về vốn đầu tư trực tiếp cho các cơ sở công nghiệp 86 3.2.2. Các chính sách tài chính khuyến khích ưu đãi phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô 89 3.2.3. Tài chính với những vần đề đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, giải quyết lao động việc làm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong các làng nghề vùng ven đô 91 3.2.4. Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng 94 3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI 96 3.3.1. Những kết quả đạt được 96 3.3.2. Những hạn chế tồn tại 99 3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại 100 Tiểu kết chương 3 102 Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG NHỮNG NĂM TỚI 104 4.1. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI 104 4.1.1. Quan điểm chung về phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Hà Nội 104 4.1.2. Mục tiêu phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Hà Nội 107 4.1.3. Định hướng phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Hà Nội 109 4.2. GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI 115 4.2.1. Tăng cường huy động các nguồn lực tài chính để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố nói chung và có đủ nguồn lực tài chính để phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô nói riêng 115 4.2.2. Hoàn thiện chính sách thuế trong đó chú ý khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn nói chung và công nghiệp nông thôn vùng ven đô Thành phố Hà Nội nói riêng 119 4.2.3. Tăng chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven Thành phố Hà Nội 122 4.2.4. Hoàn thiện cơ chế chính sách tín dụng thúc đẩy công nghiệp nông thôn vùng ven đô phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 131 4.2.5. Thành phố cần đổi mới cơ chế, chính sách tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô 135 4.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU KIỆN 138 4.3.1. Khẩn trương hoàn thành công tác quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô 138 4.3.2. Đẩy mạnh phân cấp quản lý kinh tế xã hội trong lĩnh vực phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô 141 4.3.3. Tổ chức các hình thức hoạt động xúc tiến đầu tư vào vùng ven đô; xây dựng, củng cố hệ thống khuyến công từ thành phố đến các huyện và các xã 142 Tiểu kết chương 4 144 KẾT LUẬN 145 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 148 PHỤ LỤC 154 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BCH Ban Chấp hành CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa DN Doanh nghiệp GTGT Giá trị gia tăng GTSX Giá trị sản xuất HĐND Hội đồng nhân dân HTX Hợp tác xã KT-XH Kinh tế - xã hội LNTT Làng nghề truyền thống MTTQ Mặt trận Tổ quốc NCS Nghiên cứu sinh NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn PTCN Phát triển công nghiệp SX Sản xuất SXKD Sản xuất kinh doanh TCDN Tài chính doanh nghiệp TCĐN Tài chính đối ngoại TCHGĐ Tài chính hộ gia đình TCNN Tài chính nhà nước TCTG Tài chính thế giới TCXH Tổ chức xã hội TNHH Trách nhiệm hữu hạn TP Thành phố TT Trung tâm TTCN Tiểu thủ công nghiệp TTKC Trung tâm Khuyến công UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN Số hiệu Nội dung Trang Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng của các ngành 61 Bảng 3.2: Nhu cầu vốn đầu tư 62 Bảng 3.3: Dự báo dân số Thủ đô Hà Nội 63 Bảng 3.4: Một số chỉ tiêu về lao động 64 Bảng 3.5: Tổng số làng nghề UBND thành phố Hà Nội công nhận đến năm 2013 69 Bảng 3.6: Tỷ lệ đóng góp GTSX làng nghề đối với GDP của TP Hà Nội 73 Bảng 3.7: Số lượng một số sản phẩm chủ yếu của các làng nghề 74 Bảng 3.8: Một số sản phẩm xuất khẩu của các làng nghề 75 Bảng 3.9: Giá trị xuất khẩu của thành phố Hà Nội 76 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN Số hiệu Nội dung Trang Biểu đồ 3.1: Hiện trạng làng nghề thành phố Hà Nội 70 Biểu đồ 4.1: GTSX làng nghề trong tổng GTSX công nghiệp thành phố 113 Biểu đồ 4.2: Thu nhập bình quân 114 Biểu đồ 4.3: Giá trị sản xuất làng nghề 114 Biểu đồ 4.4: Quy hoạch phát triển làng nghề thành phố Hà Nội đến năm 2030 115 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Công nghiệp nông thôn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi ngành, mỗi địa phương. Công nghiệp nông thôn có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Là “chìa khoá” của sự tăng trưởng kinh tế, là yếu tố tạo thành môi trường đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức và nó có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Khái niệm “Công nghiệp nông thôn” mới chỉ nêu ra từ những năm 70 của thế kỷ XX, nhưng trong thực tế thì công nghiệp nông thôn đã được hình thành như một thực thể kinh tế độc lập với các trình độ phát triển khác nhau, gắn liền với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn từ rất lâu. Nên vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư, các nhà kinh tế, các nhà hoạch định và thực thi chính sách. Hiện nay ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển, phát triển công nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với Việt Nam, là một nước với đặc điểm có nền nông nghiệp lâu đời, nhưng hiện tại vẫn đang tiếp cận với công nghệ hiện đại, 70% dân số sống ở khu vực nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh, thuần nông, năng suất thấp. Từ đó yêu cầu cấp bách là phải có những chính sách, cơ chế hợp lý để đẩy mạnh phát triển công nghiệp nông thôn, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt, phát triển công nghiệp nông thôn những vùng ven đô thị ngoài những đặc điểm chung của các vùng nông thôn, còn có không ít những đặc thù, nên rất cần những chính sách và cơ chế phù hợp, nhất là chính sách, cơ chế tài chính. Nông thôn nói chung, vùng ven đô Hà Nội nói riêng có vị trí quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. Trong những năm qua, các vùng nông thôn của Hà Nội trong trào lưu chung của cả nước đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đã có những kết quả bước đầu đáng 2 khích lệ. Tuy vậy, nhìn chung đây vẫn là vùng kinh tế chậm phát triển so với tiềm năng và lợi thế vốn có của nó. Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là chưa có được những chính sách, cơ chế hợp lý, đặc biệt là chính sách và cơ chế tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn. Nhận thức được điều đó NCS đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội” cho bản luận án tiến sỹ kinh tế của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là thông qua việc hệ thống hóa và làm rõ thêm những nhận thức lý luận về sử dụng tài chính thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven các đô thị; khái quát thực trạng tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Hà Nội với những kết quả, ưu điểm cũng như những hạn chế, nhược điểm và nguyên nhân của chúng để từ đó đề xuất các giải pháp sử dụng hữu hiệu nhất tài chính thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Hà Nội trong thời gian tới. Để đạt được mục đích nghiên cứu, các nhiệm vụ nghiên cứu cần phải thực hiện là: - Hệ thống hóa và làm rõ thêm những nhận thức lý luận về tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị; - Khái quát hóa thực trạng tài chính đối với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Hà Nội trong thời gian qua; - Phân tích, đánh giá thực trạng để chỉ ra những kết quả, ưu điểm cũng như những hạn chế, nhược điểm và nguyên nhân của chúng trong việc sử dụng tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Hà Nội; - Khảo sát kinh nghiệm của một số địa phương và một số quốc gia trong sử dụng tài chính phát triển công nghiệp nông thôn để từ đó rút ra các bài học cần thiết cho Hà Nội; 3 - Đề xuất các giải pháp sử dụng tài chính một cách hữu hiệu nhất thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội trong những năm tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận án là tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: Do tính đa dạng và phức tạp trong phân bố địa hình nông thôn của thành phố Hà Nội, nên phạm vi nghiên cứu chủ yếu tập trung vào một số huyện điển hình vùng ven đô Hà Nội; Giới hạn với 3 công cụ tài chính cụ thể như: Chi ngân sách nhà nước, thuế, tín dụng đối với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô. + Về thời gian: Thực trạng tập trung khảo sát trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2012. Những định hướng cho đến năm 2020 và những năm tiếp theo. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình nghiên cứu đề tài đã kết hợp và sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây: - Điều tra thống kê một số cụm, khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống tại một số huyện vùng ven đô thành phố Hà Nội (Được tiến hành ở huyện Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì, Thạch Thất, Hoài Đức); - Trao đổi, toạ đàm về tình hình phát triển công nghiệp nông thôn các huyện, tỉnh; - Thống kê, tổng hợp những thông tin có liên quan về kinh tế, xã hội, tài chính từ các cơ quan thống kê và các cơ quan ban ngành khác; - Phân tích, đánh giá tình hình trên cơ sở các nguồn tài liệu điều tra, thu thập được; 4 - So sánh, đối chiếu tình hình của đối tượng nghiên cứu với các đối tượng khác có liên quan. 5. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án kết cấu gồm 4 chương (140 trang). Chương 1: Tổng quan những vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài (16 trang) Chương 2: Tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị (39 trang) Chương 3: Thực trạng tài chính đối với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Hà Nội thời gian qua (44 trang) Chương 4: Định hướng và giải pháp tài chính thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội trong những năm tới (41 trang) 5 Chương 1 TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1.1. Các quan điểm nghiên cứu chính - Quan điểm hệ thống: Các lĩnh vực tự nhiên cũng như kinh tế xã hội vốn là một thể thống nhất không thể tách rời. Công nghiệp nông thôn có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi ngành, mỗi địa phương. Hơn thế nữa, các địa bàn nghiên cứu cũng có mối quan hệ mật thiết với các vùng lãnh thổ chung quanh nó, thậm chí là không liền kề về mặt địa lý nhưng có các mối quan hệ về kinh tế, xã hội. Hay nói cách khác, vùng nghiên cứu vừa là một hệ thống kín nhưng lại là một hệ thống mở, chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau trong quá trình trao đổi vật chất và năng lượng. Bởi vậy, khi nghiên cứu về lĩnh vực tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Thành phố nhất thiết phải đặt đối tượng nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất dựa trên quan điểm hệ thống. - Quan điểm tổng hợp: Để đánh giá được thực trạng tài chính cũng như định hướng các giải pháp nhằm phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thì cần có cái nhìn tổng quát từ nguyên nhân đến thực trạng và xu hướng phát triển của vấn đề. Muốn vậy, người nghiên cứu phải nắm bắt được những thông tin về tất cả các khía cạnh có liên quan đến lĩnh vực tài chính, bao gồm các công cụ tài chính cũng như yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội trong vùng ven đô, bởi lẽ nó có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và cùng ảnh hưởng tới thực trạng cũng như yếu tố phát triển công nghiệp nông thôn. Do đó, việc phân tích, đánh giá tổng hợp đối với vấn đề là hết sức cần thiết. - Quan điểm tiếp cận địa lý: Việc đánh giá thực trạng tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô cần chú ý tới tính chất và mức độ theo các thời kỳ khác nhau. Hơn nữa, lĩnh vực tài chính với phát triển công nghiệp 6 nông thôn cũng có sự khác biệt theo từng thời kỳ do đặc thù của cơ chế, chính sách, thị trường Mặt khác, trong quá trình nghiên cứu cũng cần có những thông tin phải truy hồi quá khứ hay dự báo tương lai. Do vậy, khi nghiên cứu cần chú ý tới tính chất địa lý của đối tượng theo thời gian và theo không gian để có những đánh giá và dự báo đúng đắn. - Quan điểm phát triển bền vững: Quá trình phát triển công nghiệp nông thôn nói riêng và quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế - xã hội nói chung của Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới hiện nay đang đứng trước thách thức lớn về lĩnh vực tài chính, vấn đề môi trường sinh thái, nếu không giải quyết kịp thời vấn đề này thì sẽ không thể hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cần cân đối giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng các nguồn lực tài chính. Cụ thể là việc sử dụng công cụ tài chính, tài nguyên phải nằm trong phạm vi chịu tải của chúng để chúng có thể khôi phục về số lượng và chất lượng theo quy luật của tự nhiên. Nếu vượt quá “ngưỡng” cho phép thì khả năng huy động nguồn lực, tự làm sạch, tự phục hồi sẽ không còn nữa, sẽ dẫn đến sự mất cân đối nguồn lực, mất cân bằng hệ sinh thái, tạo điều kiện thúc đẩy sự huỷ hoại nguồn lực, môi sinh của cộng đồng. Do đó, khi nghiên cứu, đánh giá tác động của công cụ tài chính và môi trường hay quy hoạch bảo vệ môi trường và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội, nhất thiết phải gắn với mục tiêu vì sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tuy nhiên có đặt trong điều kiện cụ thể của mỗi vùng, mỗi ngành, đặc biệt là vấn đề tài chính trong phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô mà có những tiêu chí phù hợp. Đối với các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề Hà Nội hiện nay, vấn đề phát triển bền vững cần có sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế với lợi ích sinh thái; hài hoà giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu văn hoá - xã hội.. 1.1.2. Các phương pháp nghiên cứu chính - Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu: Đây là một trong những phương pháp tiền đề, cơ bản đối với bất cứ nghiên cứu nào. Các tài liệu cần thu thập gồm các đề tài nghiên cứu và các thông tin liên quan tới địa bàn 7 nghiên cứu. Việc thu thập đầy đủ các số liệu không chỉ là cơ sở cho việc tiến hành nghiên cứu được thuận lợi mà còn giúp người nghiên cứu định hướng rõ ràng những nội dung cần làm rõ về đề tài. Công việc này được tiến hành trong giai đoạn đầu tiên của luận án và có thể được bổ sung trong suốt quá trình nghiên cứu. - Phương pháp phân tích hệ thống: Đây là phương pháp chung cho nhiều ngành khoa học. Mỗi hệ thống tự nhiên và kinh tế xã hội đều bao gồm nhiều bộ phận cấu thành, chúng có mối liên hệ ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau. Nghiên cứu sinh đã sử dụng phương pháp này để phân tích các mối quan hệ giữa các hoạt động kinh tế xã hội với tài chính phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội. - Phương pháp thực địa: Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong hầu hết các nghiên cứu khoa học, vì nó giúp thị sát tình hình thực tế, có cái nhìn khách quan khi tiến hành nghiên cứu. Đồng thời bổ sung được những nội dung, những thông tin mà các nghiên cứu trên tài liệu có thể chưa phản ánh được hết. Ngay cả sau khi đưa ra kết quả vẫn cần đến khâu thực địa, khảo sát thực tế để kiểm chứng những kết quả đó. Nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo sát một số Huyện vùng ven đô thành phố nhằm thu thập các thông tin, lấy mẫu phân tích và phỏng vấn các hộ sản xuất kinh doanh về đầu tư cho phát triển công nghiệp nông thôn. - Phương pháp phỏng vấn nhanh: Phương pháp này giúp thu thập, cập nhật thêm những thông tin chưa có tài liệu thống kê, hoặc muốn lấy ý kiến từ cộng đồng hoặc các đối tượng có liên quan. Nghiên cứu sinh đã sử dụng phương pháp này để thu thập các thông tin liên quan đến công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống vùng ven đô thành phố Hà Nội. Sau khi phỏng vấn cần tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin đã thu được. - Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Việc mô hình hoá các dữ liệu bằng các biểu đồ, sơ đồ giúp các nội dung trình bày mang tính trực quan hơn, thể hiện rõ hơn mối liên hệ giữa các yếu tố được trình bày. Phương pháp bản đồ được sử 8 dụng để thể hiện một số nội dung về mặt không gian như sự phân bố quy hoạch, số liệu kinh phí đầu tư phát triển đối với lĩnh vực công nghiệp nông thôn vùng ven đô Thành phố Hà Nội. 1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.2.1. Trên thế giới Trên thế giới, từ những năm đầu của thế kỷ XX có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến Công nghiệp nông thôn như: “Nhà máy làng xã” của Bành Tử (1922); “Mô hình sản xuất làng xã” và “Xã hội hoá làng thủ công” của N.H Noace (1928). Năm 1964, Tổ chức WCCI (World crafts council International - Hội đồng Quốc tế về nghề thủ công thế giới) được thành lập, hoạt động phi lợi nhuận vì lợi ích chung của các quốc gia có nghề thủ công truyền thống, Ngô Trà Mai (2008). Đối với các nước châu Á, sự phát triển công nghiệp nông thôn là giải pháp tích cực cho các vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn. Thực tế nhiều quốc gia trong khu vực có những kinh nghiệm hiệu quả trong phát triển công nghiệp nông thôn, điển hình là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan; hay Nhật Bản với sự thành lập “Hiệp hội khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống” là hạt nhân cho sự nghiệp khôi phục và phát triển ngành nghề có tính truyền thống dựa theo “Luật nghề truyền thống” của Trần Minh Yến (2003). Có thể nói, công nghiệp nông thôn có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, công nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Việc nghiên cứu và phát triển công nghiệp nông thôn đã được đặt ra từ lâu và phát triển mạnh về cả về lý luận và thực tiễn. Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về công nghiệp nông thôn được thực hiện để phổ biến kiến thức, kinh nghiệm và hướng dẫn thực hành cho cộng đồng và những người quan tâm. Dưới đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu đáng được quan tâm: 9 - Perspectives of rural industrialisation in Vietnam, proposal options from East and China experiences (Triển vọng của Công nghiệp hóa nông thôn ở Việt Nam, những gợi ý từ kinh nghiệm của Đông Á và Trung Quốc) của GS. Shigeru Ishikawa. Nội dung của công trình đưa ra 2 mô hình chính là W.A.Lewis và TVEs. Đặc điểm của mô hình Lewis là chuyển dịch lao động và lương thực thừa từ khu vực nông thôn sang khu vực công nghiệp. Đồng thời đưa ra một số kết luận ban đầu từ kinh nghiệm công nghiệp hóa của Nhật Bản và các nước Đông Á như: Phát triển nông nghiệp ở vùng châu Á gió mùa, bắt đầu từ đầu tư cơ bản về thủy lợi, là điều kiện đầu tiên để công nghiệp hóa thành công. Đối với phát triển nông nghiệp, các mối quan hệ cộng đồng nông thôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia. - Potentialities of rural industrialization in Vietnam: Lessons from china’s experience (Tiềm năng công nghiệp hóa nông thôn ở Việt Nam, bài học rút ra từ Trung Quốc) của Michiki Kikuchi - Đại học tổng hợp Hosei. Phát triển công nghiệp nông thôn nhờ phát triển doanh nghiệp hương trấn (TVEs) ở Trung Quốc được tiến hành rất linh động tùy thuộc vào thời gian, không gian và cái nhân tố tác động. Các TVEs cũng hình thành và phát triển trong các lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp Nhà nước chiếm ưu thế. Phong trào mỗi làng một nghề nên được đầy mạnh đặc biệt đối với ngành nghề truyền thống. Luận thuyết về luân chuyển toàn cầu có thể đem lại sự phát triển cho Việt Nam theo kịch bản của chiến lược hướng tới xuất khẩu. 1.2.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề công nghiệp nông thôn được đề cập đến qua nhiều thời kỳ, với những khía cạnh và các mục đích khác nhau. Về sách tham khảo. Có một số công trình như: “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” của Bùi Văn Vượng, 1998. Tác giả đã tập trung trình bày các loại hình làng nghề truyền thống như: Đúc đồng, kim hoàn, rèn, gốm, trạm khắc đá, dệt, thêu, ren, giấy dó, tranh dân gian, dệt chiếu, quạt giấy, mây tre đan, ngọc trai, làm trống. Ở đây chủ yếu giới thiệu lịch sử, kinh tế, văn hoá, nghệ 10 thuật, tư tưởng, kỹ thuật, các bí quyết nghề, thủ pháp nghệ thuật, kỹ thuật của các nghệ nhân và các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam. Trong cuốn “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Dương Bá Phượng (2001). Tác giả đã đề cập khá đầy đủ lý luận đến thực trạng của làng nghề; từ đặc điểm, khái niệm, con đường và điều kiện hình thành làng nghề, tập trung vào một số làng nghề ở mổ số tỉnh với các quan điểm, giải pháp và phường hướng nhằm phát triển các làng nghề trong CNH, HĐH. Cùng với hướng này còn có cuốn “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Mai Thế Hởn (2003) Các công trình nghiên cứu khác của một số tác giả, như “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Trần Minh Yến, (2003); "Làng Đại Bái - Gò Đồng Bắc Ninh; của Đỗ Thị Hào, (1987); “Về hai làng nghề truyền thống Phú Bài và Hiền Lương” của Bùi Thị Tân, (1999). Về các bài viết. Trong lĩnh vực này các bài viết còn hơi ít cả số lượng và nội hàm nghiên cứu. Các bài này chỉ mới nên được khái niệm, cách thức phân loại công nghiệp nông thôn. Dưới đây là một số bài tiêu biểu. - Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công nghiệp nông thôn nước ta của GS. TS Nguyễn Đình Phan, ThS Đặng Thị Lan (Khoa học và tổ quốc số 20, 21 tháng 11/2004) giới thiệu công nghiệp nông thôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Để khu vực này có thể phát triển nhanh chóng và phát huy mạnh mẽ tác động của mình tới sự phát triển kinh tế nói chung, cần triển khai một cách tổng hợp nhiều biện pháp kinh tế - kỹ thuật và tổ chức cả ở tầm vĩ mô và trong từng doanh nghiệp. Trong các giải pháp này, đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ công nghệ và phát huy tối đa tác động của chúng là một trong những giải pháp hết sức cơ bản và then chốt. Theo đánh giá của các chuyên gia thì trong thời kỳ bắt đầu công nghiệp hóa như Việt Nam hiện nay khoa học công nghệ đóng góp 30 - 40% vào tăng trưởng nông nghiệp và 40 - 50% trong tăng trưởng công nghiệp. 11 - Thực trạng và giải pháp phục hồi và phát triển làng nghề trong nông thôn đồng bằng sông Hồng của GS.TS Nguyễn Thế Nhã (Tạp chí Kinh tế và Phát triển) giới thiệu những làng nghề truyền thống ở nước ta, đó là những làng nghề nổi tiếng đã tồn tại hàng trăm năm. Các làng nghề phát triển mạnh sẽ lân sang các ngành bên cạnh và trở thành vùng nghề rộng lớn hơn. Việc khôi phục và phát triển các làng nghề có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Trong những năm gần đây, các làng nghề đã đem lại nhiều hiệu quả kinh tế - xã hội, đáng chú ý là: + Các làng nghề góp phần đáng kể vào sự gia tăng giá trị sản phẩm cho các địa phương. + Các làng nghề đã tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Các làng nghề ở đồng bằng sông Hồng, hàng năm đã thu hút khoảng gần 600 ngàn lao động vào làm các nghề phi nông nghiệp, chẳng những thu hút lao động cho bản thân các hộ nghề, mà còn thu hút thêm lao động tại địa phương và lao động từ các địa phương khác đến. - Vốn với quá trình phát triển công nghiệp nông thôn khu vực đồng bằng Sông Hồng của TS Lê Khắc Trí (Tạp chí Công nghiệp) giới thiệu khu vực đồng bằng sông Hồng là một khu vực có vị trí địa lý, kinh tế, xã hội thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp nông thôn. Các tỉnh ở khu vực này đều tập trung hoặc bao quanh khu vực sông Hồng, sông Thái Bình là những nơi có truyền thống văn hóa lâu đời, có các làng nghề truyền thống rất phát triển, lại gần các trung tâm kinh tế lớn của cả nước là Hà Nội, Hải Phòng, nên dễ giao lưu, tiếp cận được với thông tin đa chiều, công nghệ hiện đại và thị trường rộng lớn. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có một số vốn đáng kể và điều quan trọng hơn là phải sử dụng có hiệu quả số vốn này. Xuất phát từ yêu cầu đó, bài viết của chúng tôi tập trung xem xét vấn đề huy động và sử dụng vốn phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở khu vực Đồng bằng sông Hồng một vùng nông nghiệp, nông thôn. 12 Về đề tài nghiên cứu: Đề tài khoa học về việc “Hoàn thiện các giải pháp kinh tế tài chính nhằm khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng” của Học viện Tài chính, (2004); “Tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ thời kỳ đến năm (2010)” của Bộ Thương mại, (2003) đặc biệt phải kể đến là đề tài “Nghiên cứu về quy hoạch phát triển làng nghề thủ công theo hướng CNH nông thôn ở nước CHXHCN Việt Nam” của Bộ NN&PTNT hợp tác cùng với Tổ chức JICA của Nhật (2002), đã điều tra nghiên cứu tổng thể các vấn đề có liên quan đến làng nghề thủ công nước ta về tình hình phân bố, điều kiện KT-XH của làng nghề, nghiên cứu, đánh giá 12 mặt hàng thủ công làng nghề Việt Nam (về nguyên liệu, thị trường, công nghệ, lao động) của Trần Minh Yến, (2003). Nhìn chung các tác giả đã làm rõ về khái niệm, lịch sử phát triển, đặc điểm, thực trạng sản xuất và xu hướng phát triển của các làng nghề. Gần đây, trong các nghiên cứu về làng nghề, vấn đề môi trường đang được nhiều tác giả quan tâm, thực tế thì vấn đề này đang gây nhiều bức xúc và nan giải đối với kinh tế xã hội nói chung. Cuốn sách “Làng nghề Việt Nam và môi trường” của Đặng Kim Chi và nnk, 2005. Đây là một công trình nghiên cứu tổng quát nhất về vấn đề làng nghề và thực trạng ô nhiễm môi trường các làng nghề hiện nay. Tác giả đã nêu rõ từ lịch sử phát triển, phân loại, các đặc điểm cơ bản làng nghề cũng như hiện trạng kinh tế, xã hội của các làng nghề Việt Nam hiện nay. Cùng với đó là hiện trạng môi trường các làng nghề (có phân loại cụ thể 5 nhóm ngành nghề chính). Qua đó cũng nêu rõ các tồn tại ảnh hưởng tới phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường của làng nghề, nêu dự báo phát triển và mức độ ô nhiễm đến năm 2010, một số định hướng xây dựng chính sách đảm bảo phát triển làng nghề bền vững và đề xuất các giải pháp cải thiện môi trường cho từng loại hình làng nghề của Việt Nam. Qua nghiên cứu của tác giả “100% mẫu nước thải ở các làng nghề được khảo sát có thông số vượt tiêu chuẩn cho phép. Môi trường không khí bị ô nhiễm 13 có tính cục bộ tại nơi trực tiếp sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) và ô nhiễm do sử dụng nhiên liệu than củi. Tỷ lệ người dân làng nghề mắc bệnh cao hơn các làng thuần nông, thường gặp ở các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da. Nhiều dòng sông chảy qua các làng nghề hiện nay đang bị ô nhiễm nặng; nhiều ruộng lúa, cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm không khí từ làng nghề”. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu của các tác giả khác về tình trạng môi trường và sức khoẻ tại các làng nghề. Nghiên cứu về “Những vấn đề về sức khoẻ và an toàn trong các làng nghề Việt Nam” các tác giả Nguyễn Hồng Tú, Nguyễn Thị Liên Hương, Lê Văn Trinh (2005) đã nêu một số nét về lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam. Môi trường và sức khoè người lao động. An toàn sản xuất làng nghề, các biện pháp phòng ngừa. Chăm sóc và nâng cao sức khoẻ cho người lao động làng nghề. Cuốn “Nghiên cứu nguy cơ sức khoẻ ở các làng nghề tại một số tỉnh phía bắc và giải pháp can thiệp” (Nguyễn Thị Liên Hương, 2006) cho thấy tình trạng sức khoẻ các làng nghề phía Bắc đều trong tình trạng báo động. Tỷ lệ người lao động có phương tiện bảo hộ đạt tiêu chuẩn vệ sinh lao động thấp (22,5%); 100% các hộ sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm nước thải không qua xử lý, đổ thẳng ra cống rãnh. Nồng độ các chất khí gây ô nhiễm trong môi trường (H2S, NH3) có đến 3/5; 1/5 mẫu không đạt yêu cầu. Tỷ lệ người mắc bệnh hô hấp chiếm 34,7%, bệnh về da chiếm tới 37,3%... Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu khác về các khu vực làng nghề địa phương như nghiên cứu về môi trường lao động một số làng nghề Nam Định của Trần Văn Quang và các cộng sự (2001); nghiên cứu về môi trường, sức khoẻ làng nghề chế biến thuốc nam Thiết Trụ (Hưng Yên) của Đan Thị Lan Hương (Lê Đức Thọ, 2008) Những đề tài này nhìn chung đã giải quyết được vấn đề lý luận cơ bản về các làng nghề, hiện trạng và xu hướng phát triển, vấn đề ô nhiễm môi trường và 14 một số giải pháp. Nhưng các đề tài đi sâu vào một làng nghề nào đớ thì hầu như chưa nghiên cứu một cách toàn diện nhất. Mỗi khu vực làng nghề có những điều kiện và thực tế khác nhau cho sự phát triển và bảo tồn. Hơn nữa, mỗi khu vực bị ô nhiễm cũng có những nguồn gây ô nhiễm không giống nhau, vì vậy việc nghiên cứu cụ thể, chi tiết để có thể đánh giá toàn diện về tiềm năng, thực trạng cũng như xu hướng của các làng nghề có ý nghĩa quan trọng cả về khoa học và thực tiễn. Có thể nói cho đến tại thời điểm hiện tại ở Việt Nam mới chỉ phân tích một số “Vần đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta” là một phần kết quả của Đề tài nghiên cứu khoa học mang mã số KX-08-07 thuộc Chương trình KX-08 “Phát triển tổng thể kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam” của tập thể tác giả: Đặng Ngọc Dinh (Chủ biên), Lê Thành Ý, Nguyễn Mạnh Quân, Nguyễn Đức Trị. Công trình khoa học này có mục tiêu muốn làm rõ Vai trò của công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam; Thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam; Kết quả khảo sát “nhanh” tại một số địa phương; Công nghiệp nông thôn ở một số nước trên thế giới; Định hướng phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta và một số kiến nghị giải pháp cơ bản, cần thiết. Tuy nhiên, tập thể tác giả chưa làm rõ và nêu được các giải pháp tài chính đối với công nghiệp nông thôn. Chỉ đưa ra những định hướng phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta. Nghiên cứu về các giải pháp. Hiện tại, đối với mỗi công trình nghiên cứu về vấn đề môi trường làng nghề ít nhiều đều có đề cập đến các giải pháp khác nhau nhằm cải thiện và bảo vệ môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững. Tổng quát nhất có lẽ phải đề cập đến cuốn “Làng nghề Việt Nam và môi trường” của Đặng Kim Chi và các cộng sự. Dựa trên cơ sở đã nghiên cứu tổng quan về đặc điểm cũng như thực trạng sản xuất, hiện trạng môi trường các làng nghề, tác giả đã đi đến các giải pháp chung nhất cho từng loại làng nghề. Ở đây 15 cũng đề cập đến việc định hướng xây dựng một số chính sách đảm bảo phát triển làng nghề bền vững (như các chính sách về hỗ trợ tài chính, chính sách về thị trường, về cơ sở hạ tầng, giáo dục môi trường). Qua đó đề xuất các giải pháp, nhìn chung tập trung vào hai nhóm chính là giải pháp kỹ thuật và giải pháp quản lý nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường cho các làng nghề. Các giải pháp này được đề cập cụ thể hơn TNC cơ sở khoa học và thực tiến cho việc xây dựng các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề môi trường ở các làng nghề Việt Nam” (KC.08.08,2005), cụ thể là các “Tài liệu hướng dẫn áp dụng các giải pháp cải thiện môi trường” cho các làng nghề nhựa; chế biến nông sản, thực phẩm; thủ công mỹ nghệ; dệt nhuộm. Các nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên Hương, Trần Minh Yến, Đặng Văn Trình đã nêu trên đều có đề cập đến các giải pháp can thiệp. Ngoài những giải pháp về kỹ thuật (sản xuất sạch hơn và sử dụng công nghệ xử lý chất thải) thì trong công tác quản lý môi trường, các nhà nghiên cứu hiện đang lưu ý đến một số giải pháp có tính khả thi và có hiệu quả trong điều kiện của Việt Nam hiện nay đó là giải pháp có sự tham gia của cộng đồng và phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch. Về khía cạnh này có một số nghiên cứu, bài viết điển hình như: Sổ tay hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển làng nghề sử dụng phương pháp có sự tham gia của cộng đồng” (Bùi Đình Toái, Nguyễn Thị Thu Quế, 2005); “Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững” (Lê Hải, 2006); “ Phát triển bền vững du lịch làng nghề sinh thái - văn hoá” (Nguyễn Thị Anh Thu, 2005); đặc biệt trong đó có nghiên cứu về “Tính cộng đồng và xung đột môi trường tại khu vực làng nghề ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và xu hướng biến đổi (Đặng Đình Long). Nghiên cứu đã đề cập đến tình trạng xung đột môi trường hiện nay tại các làng nghề Việt Nam, nhất là khu vực đồng bằng sông Hồng. Các tác giả đã nêu cơ sở lý luận khá rõ ràng có liên quan như: chất lượng môi trường tại các làng nghề hiện nay là rất xấu; nhận thức đối với việc bảo vệ môi trường của cộng đồng còn hạn 16 chế; Tâm lý phổ biến của chính quyền và cộng đồng trước thực trạng ô nhiễm là sự trông chờ vào các cấp cao hơn, chưa có ý thức tự giác; mô hình ứng xử cơ bản của người dân đối với vấn đề môi trường là không biết làm gì và không có những hành vi cụ thể để bảo vệ môi trường Theo kết quả khảo sát của các tác giả tại 3 làng nghề điển hình thì tỷ lệ những kiến nghị trông chờ sự giải quyết ô nhiễm vào Nhà nước chiếm tới 56,6%; giải pháp nâng cao nhận thức môi trường chiếm 14,8%; thông cảm và cùng người sản xuất xử lý ô nhiễm chỉ có 8,5%, đặc biệt ý kiến nếu không xử lý ô nhiễm thì ngừng sản xuất chỉ có 1,1 (Đặng Đình Long, 2005). Qua đó cho thấy rằng ý thức của cộng đồng trong vấn đề phát triển kinh tế gắn với môi trường còn nhiều hạn chế, vấn đề xung đột môi trường có nguy cơ khá cao và phức tạp. Khu vực nghiên cứu. Hà Nội là một trong những tỉnh có hoạt động làng nghề phát triển điển hình ở khu vực đồng bằng sông Hồng. Sau khi mở rộng, Hà Nội có khoảng 1.275 làng nghề, trong đó có 226 làng nghề được UBND Thành phố công nhận với các tiêu chí của làng nghề. Với vai trò và hiện trạng của các làng nghề như hiện nay, thành phố cũng như nhiều tác giả có những bài viết và các đề tài nghiên cứu về hoạt động làng nghề, về thực trạng sản xuất, những khó khăn hiện tại và xu hướng, kiến nghị Ví dụ như: “Phát triển một số làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô (Mai Thế Hởn, 1998)”, “Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học cho quy hoạch bảo vệ môi trường một số làng nghề tỉnh Hà Tây” (Ngô Trà Mai, 2008). “Một số vấn đề bức xúc về môi trường làng nghề Hà Tây” (Phùng Thanh Vân, 2009); “Bộ ba làng nghề bất lực trước ô nhiễm môi trường” (www. Isge.gov.vn, 8.2007) Đề tài nghiên cứu của Sở NN&PTNT Hà Nội “Đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách phát triển một số làng nghề nông thôn ngoại thành Hà Nội”. Đề cập đến những vấn đề có tính lý luận về ngành nghề và làng nghề ở nông thôn, 17 các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề. Phân tích thực trạng làng nghề và sự tác động của chính sách đến phát triển ngành nghề nông thôn ở ngoại thành Hà Nội giai đoạn 1995 - 2000, trong đó nhấn mạnh các giải pháp chính sách phát triển ngành nghề của Trần Minh Yến, 2003. Các bài viết đã nêu được khái quát quy mô và sản phẩm chủ yếu của các làng nghề Hà Nội. Nhất là đề cập đến nhiều tình trạng ô nhiễm môi trường của các làng nghề. Tuy nhiên đi sâu vào một khu vực nhỏ thì chưa cụ thể, nhất là những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn của khu vực làng nghề. Trong bối cảnh mới Hà Nội mở rộng như hiện nay, Trung tâm thông tin và xúc tiến du lịch Hà Nội vừa đề xuất với UBND thành phố về việc bảo vệ môi trường tại các làng nghề, phố nghề. Theo đó, ngành du lịch Hà Nội sẽ tiến hành khảo sát, lựa chọn các phố nghề, làng nghề có đủ tiêu chuẩn về: Sản phẩm tiêu biểu, hạ tầng cơ sở vật chất, văn minh giao tiếp, môi trường cảnh quan để xây dựng các điểm du lịch. Tiếp đến, các địa phương sẽ áp dụng công nghệ sản xuất sạch, ứng dụng các hệ thống xử lý chất thải và xây dựng quy chế bảo vệ môi trường tại các điểm du lịch phố nghề, làng nghề. Đây là một đề xuất hay và cần thiết để cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường, hạ tầng cơ sở không đảm bảo và giao thông chật chội đang diễn ra phổ biến tại các làng nghề. Bởi hiện nay du lịch làng nghề, phố nghề Hà Nội trở thành một trong 7 tour du lịch đặc sắc, hấp dẫn khách. 1.3. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.3.1. Những vấn đề đã được giải quyết cần kế thừa Có thể nói, công nghiệp nông thôn có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Trên thế giới, khái niệm “công nghiệp nông thôn” mới chỉ được nêu ra từ những năm 70 của thế kỷ XX, nhưng thực tế thì công nghiệp nông thôn đã 18 được hình thành như một thực thể kinh tế độc lập với các trình độ phát triển khác nhau, gắn liền với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn từ rất lâu. Đối với Việt Nam - một nước nông nghiệp còn lâu đời, 70% sống ở khu vực nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc lập, thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức bách, phát triển công nghiệp nông thôn, từ đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt được nghiên cứu từ những năm 80 và 90 của thế kỷ XX. Từ những nghiên cứu trên thế giới và trong nước, những vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn có liên quan đến đề tài cần được kế thừa và phát triển đó là: “nhà máy làng xã”, “mô hình sản xuất làng xã” và “xã hội hóa làm thủ công”, “tiềm năng công nghiệp hóa nông thôn ở Việt Nam, bài học rút ra từ Trung Quốc”, “phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “hoàn thiện các giải pháp kinh tế tài chính nhằm khôi phục và phát triển làng nghề ở nông hôn vùng Đồng bằng sông Hồng”, cụ thể hơn trong quá trình nghiên cứu đề tài một số vấn đề cần được kế thừa đó là: Nắm được vai trò của công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam; đánh giá được thực trạng quá trình công nghiệp nông thôn Việt Nam; kết quả khảo sát “nhanh” tại một số địa phương và kinh nghiệm phát triển công nghiệp nông thôn ở một số nước trên thế giới. Để từ đó đưa ra định hướng phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta và một số kiến nghị giải pháp cơ bản, cần thiết; đặc biệt là nêu được thực trạng tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn và đưa ra được định hướng các giải pháp tài chính thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Thành phố Hà Nội trong những năm tới. 1.3.2. Những vần đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu đối với đề tài Với nội dung nghiên cứu của đề tài liên quan đến lĩnh vực tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven thành phố Hà Nội. Vấn đề đặt ra 19 tiếp tục nghiên cứu đối với đề tài là đề tài có thể nghiên cứu từ một vùng ven của Thành phố rộng hơn là cả Thành phố, vùng đồng bằng sông Hồng hoặc một Quốc gia. Rộng thêm không phải lĩnh vực tài chính mà nghiên cứu về cơ chế, chính sách về tài chính, lao động, thuế, ứng dụng tiến bộ khoa học trong phát triển công nghiệp nông thôn hay kinh nghiệm của một số nước trong phát triển công nghiệp nông thôn hoặc vai trò ngành nghề đối với phát triển công nghiệp nông thôn. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu nhằm bổ trợ cho đề tài về tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn nhằm có nhiều vần đề mới để phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam nói chung và công nghiệp nông thôn vùng ven đô Thành phố Hà Nội nói riêng phát triển. Tiểu kết chương 1 Chương 1 đưa ra được những quan điểm, phương pháp và tổng quan tình hình nghiên cứu; đánh giá được tổng quan những vấn đề đã được nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài “Tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội”. Trong chương này có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây. Một là, đã đưa ra được các quan điểm nghiên cứu chính có liên quan đến đề tài như: Quan điểm hệ thống, quan điểm tổng hợp, quan điểm tiếp cận địa lý, quan điểm phát triển bền vững; để từ đó đưa ra các phương pháp nghiên cứu chính như: Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu; phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp thực địa; phương pháp phỏng vấn nhanh; phương pháp bản đồ, biểu đồ. Hai là, từ những quan điểm và phương pháp nghiên cứu chính, đề tài cũng phân tích được tổng quan tình hình nghiên cứu đối với các công trình nghiên cứu trong nước, các công trình nghiên cứu ở ngoài nước đã công bố cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh và có hệ thống về tài chính 20 đối với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô. Vì vậy, đề tài này tập trung nghiên cứu, giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản, đánh giá và làm rõ những nguyên nhân của thực trạng, từ đó đề xuất định hướng và đưa ra các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thành phố Hà Nội trong những năm tới; Ba là, trên cơ sở những quan điểm, phương pháp và tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước, ngoài nước; đề tài cũng đưa ra được những vấn đề cần kế thừa về lĩnh vực tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô và đặt ra những vấn đề tiếp tục cần nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Có thể nói rằng các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước đã công bố kể trên có giá trị tham khảo và kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu luận án. 21 Chương 2 TÀI CHÍNH VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ THỊ 2.1. CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ THỊ 2.1.1. Kinh tế vùng ven đô thị Vùng ven đô thị được hiểu là vùng tiếp giáp với đô thị, là bước "đệm" giữa khu vực kinh tế đô thị và khu vực kinh tế nông thôn. Vùng này chính là cầu nối giữa các đô thị với vùng nông thôn thuần tuý. Vị trí đặc biệt có tính cầu nối, về mặt địa lý vùng này chính là nhân tố cơ bản và quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ các mặt về kinh tế, xã hội và chính trị, văn hoá của các vùng ven đô. Như vậy, về mặt tự nhiên, vùng ven đô thị về cơ bản có nhiều nét tương đồng với đô thị mà chúng bao quanh. Trên thực tế không có sự khác biệt quá nhiều về điều kiện tự nhiên giữa đô thị và vùng ven đô. Tuy nhiên, về đặc điểm kinh tế - xã hội thì vùng ven đô có nhiều điểm khác biệt cả với đô thị và cả với vùng nông thôn thuần nông. Ở Việt Nam, vùng ven đô tồn tại ở tất cả các đô thị, từ đô thị cấp 1 đến đô thị cấp 5. Vì là cầu nối giữa các đô thị và vùng thuần nông nên đô thị càng lớn, cấp độ càng cao thì vùng ven đô càng rộng lớn và ngược lại. Đặc điểm tự nhiên của vùng ven đô về cơ bản không có gì nổi bật hơn so với khu vực nông thôn, mà thực chất là mang đặc điểm của khu vực nông thôn với những xóm làng, đồng ruộng, ao hồ, sông ngòi, đầm phá... là phổ biến. Điều này rất dễ cắt nghĩa vì trên thực tế, địa giới cho một đô thị thông thường cũng không được quy định rõ ràng bằng các tiêu thức cụ thể, hầu như chỉ căn cứ vào địa giới hành chính (phường, xã...). Cứ sát ven các đô thị là người ta thành lập các đơn vị hành chính cận đô thị. Ví dụ, sát các quận nội thành của một đô thị sẽ là các huyện ngoại thành, sát các phường của thị trấn, thị xã là các xã ven đô. Các đô thị như là một hạt nhân có tính lan toả mạnh. Ban đầu đô thị mới ra đời có thể có quy mô, diện tích lãnh thổ nhỏ hơn, vùng ven đô khi đó cũng là khu vực bao quanh nó cũng nhỏ hơn. Khi đô thị phát triển thì vùng ven đô tự thân nó cũng phải tăng thêm 22 diện tích lãnh thổ vì đô thị lớn lên thì vùng bao quanh nó cũng lớn thêm. Thế là những vùng trước kia là thuần nông ở ngay sát vùng ven đô, giờ đây lại trở thành vùng ven đô. Vì vậy, về mặt tự nhiên rõ ràng vùng ven đô không khác biệt so với vùng nông thôn thuần tuý. Tuy đặc điểm tự nhiên là không có gì nổi bật lắm nhưng vùng ven đô lại khá nổi bật về đặc điểm kinh tế - xã hội. Có thể nói, bản sắc cơ bản thuộc bản chất của vùng ven đô là khu vực kinh tế nông thôn với ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, làm ruộng. Người dân sống ở đây có nguồn gốc cơ bản là nông dân. Vì vậy, so với trung tâm kinh tế - xã hội là các đô thị với tư cách là hạt nhân của vùng ven đô thì cơ cấu kinh tế, ngành nghề của vùng ven đô khác hẳn với cơ cấu kinh tế và ngành nghề chủ yếu của các đô thị. Ngược lại, trong tương quan với những vùng thuần nông thì vùng ven đô có cơ cấu kinh tế và các ngành nghề chủ yếu khá tương đồng. Dân cư cũng chủ yếu là nông dân, ngành nghề cơ bản là nông nghiệp. Tuy thế, nông thôn, nông nghiệp, nông dân của vùng ven đô không còn thuần khiết như các vùng nông thôn thuần tuý nữa. Do vị trí "bản lề"; "giáp ranh" giữa đô thị và nông thôn mà vùng ven đô có những đặc điểm kinh tế - xã hội rất riêng nếu đem so sánh với vùng thuần nông khác. Về cơ bản, vùng ven đô chính là vùng đệm cả về kinh tế và xã hội. Cụ thể, về kinh tế thì vùng ven đô chủ yếu giữ vai trò cung cấp một số yếu tố đầu vào cho khu vực sản xuất và dịch vụ của đô thị. Trên thực tế, lao động nhàn rỗi của vùng ven đô đều phục vụ cho đô thị xét trên nhiều khía cạnh, như họ có thể trực tiếp đi vào đô thị làm việc trong các doanh nghiệp hoặc khu vực dịch vụ, họ cũng có thể làm tại gia đình những công việc phục vụ cho nhu cầu của khu vực đô thị. Do đó, sản phẩm sản xuất ra tại các vùng ven đô dù là hàng nông sản hay tiểu thủ công nghiệp thì đều mang tính hàng hoá, được sản xuất ra nhằm mục tiêu để bán, để trao đổi, không phải nhằm mục tiêu tiêu dùng tự thân như nhiều vùng thuần nông khác. Cơ cấu hàng hoá của vùng ven đô chủ yếu là hàng hoá nông nghiệp hay tiểu thủ công nghiệp và về cơ bản là nhằm mục đích tiêu thụ tại các đô thị, phục vụ trước hết cho nhu cầu 23 của các đô thị. Một điều dễ nhận thấy là bao quanh các đô thị lớn thường là các làng nghề truyền thống. Một vài làng nghề truyền thống điểm xuyến quanh vành đai các vùng đô thị chính là điều dễ nhận thấy của các vùng ven đô. Trước khi đi vào các đô thị, vùng ven đô sẽ hiện ra với nhiều vành đai rau xanh, vành đai nuôi trồng thuỷ sản hoặc chăn nuôi phục vụ nhu cầu lương thực thực phẩm của các đô thị. Vì vậy, so với các vùng thuần nông khác, mặc dù điều kiện tự nhiên của vùng ven đô gần như tương đồng nhưng điều kiện kinh tế gần như khác biệt. Vì là sản xuất hàng hoá để bán trong các đô thị nên quy mô sản xuất của vùng ven đô thường lớn hơn quy mô sản xuất manh mún nhỏ lẻ của các vùng thuần nông. Đồng thời, trình độ tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất một vài mặt hàng có thế mạnh riêng của từng làng, từng xã của các vùng ven đô cũng khá hơn hẳn so với các vùng thuần nông thôn thường. Sự chuyên môn hoá sâu sắc và lâu đời, ngày càng tích luỹ nhiều kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi và sản xuất tiểu thủ công nghiệp khiến vùng ven đô cho ra đời nhiều mặt hàng truyền thống. Đó có thể là một loại rau thơm có hương vị đặc biệt, có thể là một vài loại bánh trứ danh, có thể là một vài món ăn gia truyền, một vài kiểu dáng sản phẩm độc đáo, Chính từ các mặt hàng truyền thống này mà một số vùng ven các đô thị lớn còn trở thành những điểm du lịch thu hút du khách và tại đó du lịch cũng trở thành một ngành kinh tế quan trọng cho vùng ven đô. Về mặt xã hội, do mang trong mình bản chất gốc gác là nông dân, văn minh văn hoá gắn liền với văn minh văn hoá nông nghiệp, nông thôn. Tục lệ, làng xã và truyền thống gia đình họ tộc của người dân ven đô có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, so với các vùng thuần nông thì về văn hoá xã hội, vùng ven đô có nhiều khác biệt. Những điểm khác biệt này xuất phát từ chính vị trí là cầu nối giữa các đô thị và khu vực thuần nông thôn của vùng ven đô. Đô thị không chỉ là trung tâm kinh tế của một vùng lãnh thổ mà bao quanh nó chính là các vùng ven đô mà đô thị còn chính là các trung tâm văn hoá xã hội của một vùng lãnh thổ. Tại các đô thị, việc tiếp nhận các nền văn hoá, các văn minh xã hội đặc thù của các vùng lãnh thổ khác hoặc của các nước khác rất mạnh mẽ. Bản thân từng đô 24 thị cũng sản sinh ra những tác phong sinh hoạt và lối sống khác biệt với các đô thị khác và rất khác biệt so với vùng nông thôn quanh nó. Vùng ven đô chính là vùng giao thoa giữa văn hoá đô thị và văn hoá nông thôn điển hình. Tại đó những đặc điểm văn hoá xã hội của nông thôn vẫn còn tồn tại nhưng cũng xuất hiện những đặc điểm văn hoá xã hội của đô thị. Vùng ven đô tiếp nhận và cải biến những đặc điểm đó của các đô thị trung tâm nó thành một nét văn hoá giao thoa rất đặc trưng. Trên đây là những nét sơ lược về đặc điểm kinh tế - xã hội của vùng ven đô. Để có cái nhìn tổng thể và rõ nét hơn về đặc điểm kinh tế - xã hội của vùng ven đô, việc xem xét vùng ven đô theo một số đặc điểm chính của nó là rất cần thiết. Cụ thể như sau. Thứ nhất, trình độ học vấn, sự am hiểu thời cuộc khá tốt. Thông thường do ở sát ngay các đô thị, các trung tâm văn hóa lớn nên người dân ven đô nhìn chung có trình độ học vấn, am hiểu thời cuộc hơn các vùng nông thôn thuần tuý khác. Người dân ven đô có cơ hội giao lưu với cuộc sống đô thị hơn, nên thường có sự am hiểu nhanh nhạy hơn, từ đó mà trình độ học vấn cũng thường cao hơn. Người dân ven đô sinh hoạt ngay sát và xen kẽ với các đô thị, đôi khi là sống cùng, làm việc cùng với người dân các đô thị nên các luồng thông tin đến với người ven đô rất tự nhiên. Họ cũng phải tìm hiểu bằng cách này hay cách khác nhu cầu của đô thị để đáp ứng nên họ có những am hiểu nhất định về thời cuộc, về nhu cầu của thị trường đô thị. So với các vùng thuần nông nông thôn khác rõ ràng đây là điểm khác biệt rất lớn. Đặc biệt là trước đây khi các vùng nông thôn thuần tuý còn rất bị hạn chế về thông tin thì đặc điểm này của người dân ven đô là khá nổi trội. Đây cũng là một lợi thế lớn của vùng ven đô so với các vùng thuần nông. Trên thực tế, nếu nhìn vào một thực trạng hiện nay của các vùng thuần nông là nông dân rất thiếu thông tin dẫn tới việc sản xuất không đáp ứng nhu cầu thị trường, sản xuất không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng có sức thanh toán (mà chủ yếu là người dân tại các đô thị) thì việc nhanh nhạy, nắm bắt thời cuộc và thông tin của người dân ven đô rõ ràng mà một lợi thế rất lớn đối với việc phát triển kinh tế của vùng ven đô. 25 Mặt khác, trình độ học vấn của người dân ven đô cũng cao hơn người dân ở các vùng thuần nông do họ có điều kiện kinh tế hơn các vùng thuần nông, họ có điều kiện tiếp xúc với các đô thị nhiều hơn và một cách vô thức hoặc chủ ý đều chịu ảnh hưởng về mặt tri thức của nếp sống đô thị. Nếp sống và trình độ của người dân đô thị thường trở thành mục tiêu phấn đấu của người dân ven đô. Từ đó, trình độ nhận thức nói chung, trình độ học vấn nói riêng của người dân ven đô đều được nâng lên hẳn so với người dân các vùng thuần nông khác. Thứ hai, kinh tế ven đô có xu hướng phát triển theo kinh tế hàng hoá. Trư- ớc đây kinh tế hàng hoá hầu như chỉ tồn tại ở khu vực đô thị, còn ở nông thôn là kinh tế tự cung tự cấp, tự sản, tự tiêu. Ngay trong bối cảnh đó thì kinh tế ven đô, mặc dù là kinh tế nông nghiệp, nhưng lại có xu hướng phát triển theo kinh tế hàng hoá. Điều này được cắt nghĩa từ các lý lẽ dưới đây. - Khi người ven đô vào đô thị, cần những vật phẩm hàng hoá gì là phải mua. Muốn vậy phải có tiền, mà muốn có tiền thì lại phải có những sản phẩm có thể bán được. Điều này đòi hỏi sản phẩm của họ phải là các hàng hoá, nghĩa là sản phẩm của họ phải được sản xuất ra nhằm mục tiêu trao đổi là chính, không phải chỉ để tự cấp tự túc. - Người ven đô có điều kiện am hiểu các nhu cầu tiêu dùng của người đô thị. Từ sự am hiểu đó họ tìm mọi cách sản xuất ra các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho người đô thị. - Vùng đô thị là một thị trường rất lớn mà tự nó không thể tự cung tự cấp, tự đáp ứng nhu cầu về hàng hoá cho mình. Các đô thị thường là trung tâm kinh tế theo nghĩa sản xuất hàng hoá tiểu thủ công nghiệp và sản xuất hàng hoá lớn, trung tâm thương mại lớn, trung tâm dịch vụ kinh tế - tài chính và du lịch. Do đó, sự thiếu hụt về các hàng hoá là sản phẩm lương thực thực phẩm và tiểu thủ công nghiệp phục vụ cuộc sống hàng ngày và du lịch là rất lớn. Bù đắp vào thiếu hụt này rõ ràng phải là lượng hàng hoá đến từ những vùng lãnh thổ khác. Với lợi thế về vị trí địa lý, do đó là lợi thế về chi phí vận chuyển, bảo quản thực phẩm, cộng với lợi thế về việc nắm bắt thông tin, nắm bắt nhu cầu đô thị, vùng ven đô 26 là địa bàn lý tưởng để cung cấp hàng hoá phục vụ cho các đô thị. Diện tích lãnh thổ rộng, nguyên liệu dồi dào hơn các đô thị cũng là lợi thế của vùng ven đô về một số mặt hàng tiểu thủ công nghiệp đặc trưng truyền thống so với vùng có thế mạnh về hàng tiểu thủ công nghiệp là các đô thị. Do đó, sản xuất hàng hoá là xu hướng tất yếu của sản xuất tại các vùng ven đô. Thứ ba, sự đa dạng của kinh tế ven đô. Kinh tế vùng ven đô không chỉ bó hẹp trong kinh tế nông nghiệp, mà bên cạnh đó còn phát triển mạnh các làng nghề truyền thống, giao lưu buôn bán được đẩy mạnh hơn. Có thể thấy rằng, sản xuất thủ công nghiệp thường phát triển mạnh ở các đô thị, song do vùng ven đô tiếp giáp với đô thị nên người dân có điều kiện tiếp xúc nhiều với các hoạt động kinh tế đô thị. Từ đó dẫn tới việc người dân vùng ven đô cũng tiến hành sản xuất các ngành nghề thủ công, đặc biệt là các thời điểm nông nhàn. Thậm chí các ngành nghề ở đây còn có nhiều lợi thế hơn như mặt bằng rộng, nguyên liệu sẵn có, nhân công giá rẻ (tận dụng nông dân, lao động già và trẻ em...). Từ đó rất nhiều làng nghề vùng ven đô đã hình thành rất sớm và phát đạt. Chính vì sản xuất theo hướng hàng hoá và có nhiều ngành nghề phát triển tại các làng nghề, lại là địa bàn giáp ranh có điều kiện thuận tiện về giao thông gắn liền với các đô thị nên kinh tế vùng ven đô có sự giao lưu buôn bán mạnh hơn nhiều so với các vùng kinh tế thuần nông khác. Không có gì ngạc nhiên nếu như người dân ven đô có năng khiếu buôn bán, nhạy cảm hơn hẳn về thương mại giao lưu buôn bán so với người dân thuần nông. Tại các vùng ven đô, người dân sống bằng rất nhiều nghề, không chỉ sống bằng nghề nông. Họ có thể làm nghề truyền thống, họ có thể “chạy chợ”, họ có thể làm các dịch vụ về kho bãi, cho thuê nhà trọ, họ cũng có thể làm đầu mối tiêu thụ hàng hoá của các vùng thuần nông. Thứ tư, kinh tế ven đô đuổi theo kinh tế đô thị và dẫn dắt kinh tế nông thôn. Đây là đặc điểm dễ nhận thấy và cũng là tất yếu vì xu hướng đô thị hoá nông thôn diễn ra trước hết tại địa bàn ven đô và từ địa bàn ven đô mới lan toả tới các vùng 27 thuần nông quanh nó. Việc đuổi theo kinh tế đô thị và dẫn dắt kinh tế nông thôn còn được hiểu theo nghĩa kinh tế ven đô có tiềm lực kinh tế kém hơn vùng đô thị trung tâm nhưng lại mạnh hơn kinh tế nông thôn. Kinh tế đô thị định hướng kinh tế ven đô, đòi hỏi kinh tế ven đô đáp ứng theo nhu cầu phát triển của đô thị. Ngược lại, kinh tế ven đô lại yêu cầu kinh tế nông thôn phát triển phù hợp với nó. Kinh tế ven đô có hấp lực rất mạnh đối với kinh tế nông thôn nơi mà người dân nghèo hơn nhiều và việc tiếp cận vào đô thị rất khó khăn là lý do khiến vùng thuần nông nhận thấy việc tiếp cận vùng ven đô là dễ dàng hơn. Cũng trên khía cạnh này mà tại các vùng ven đô, các ngành nghề sản xuất kinh doanh chủ yếu đều nhằm vào cung cấp cho thị trường đô thị là chính. Nhờ có những đặc điểm trên mà người dân ven đô rất nhanh nhạy với nhu cầu thị trường đô thị, họ sẵn sàng tiếp cận và đáp ứng kịp thời các nhu cầu đó. Thông thường các vùng ven đô thường hình thành các vành đai rau xanh và chăn nuôi cung cấp thực phẩm cho đô thị. Hơn nữa, có rất nhiều hộ gia đình ở ven đô trở thành các đơn vị kinh tế nhỏ lẻ phục vụ cho các hạt nhân kinh tế lớn hơn trong các đô thị. Họ có thể gia công ở một vài khâu sản xuất đơn giản theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, họ có thể sản xuất một vài mặt hàng truyền thống hoặc mặt hàng tiểu thủ công nghiệp cho các thương gia trong đô thị,Tóm lại, vùng ven đô thực sự là vùng vệ tinh phụ cận của các đô thị cả theo khoảng cách địa lý cũng như về ý nghĩa kinh tế. Từ những lập luận trên đây, có thể rút ra những đặc điểm chính về kinh tế - xã hội vùng ven đô là: - Người dân năng động hơn, có thể đồng thời trong nhiều vai: Nông dân, thợ thủ công, tiểu thương... - Kinh tế đa dạng hơn, không chỉ bó hẹp trong sản xuất nông nghiệp mà còn có nhiều ngành nghề khác, đặc biệt là các làng nghề và hoạt động buôn bán. - Thu nhập, mức sống thường cao hơn khu vực kinh tế nông thôn thuần tuý. - Mật độ dân cư vùng ven đô cũng thường cao hơn nhiều so với các khu vực nông thôn thuần tuý. 28 Bên cạnh những đặc điểm có tính ưu điểm trên, vùng ven đô cũng dễ bị ảnh hưởng của nhiều thói hư tật xấu từ đô thị, làm ảnh hưởng đến những thuần phong mỹ tục và các giá trị văn hoá của khu vực kinh tế nông thôn. Môi trường của vùng ven đô (đặc biệt là các đô thị lớn) cũng rất dễ bị ô nhiễm nặng nề do chính các chất thải của đô thị gây nên. Điều này không khó bắt gặp ở nhiều vùng ven đô thị của Việt Nam. Chúng rất cần được nhận thức đầy đủ và có các biện pháp ngăn chặn kịp thời. 2.1.2. Công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp với các trình độ phát triển khác nhau, phân bổ ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, bao gồm nhiều ngành nghề, đan kết chặt chẽ với kinh tế nông thôn, nhất là sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp nông thôn không phải là toàn bộ các hoạt động phi nông nghiệp hoặc bó hẹp trong các hoạt động tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và dịch vụ có tính chất công nghiệp ở nông thôn của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp; Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã và các tổ hợp, tổ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh chế biến lương thực, thực phẩm hoặc các xí nghiệp công nghiệp khác, quy mô vừa và nhỏ mà hoạt động của nó trực tiếp gắn với kinh tế địa phương (nông thôn). Công nghiệp nông thôn trước hết gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. Trong cơ cấu kinh tế các vùng nông thôn, công nghiệp có ba vị trí: Đứng trước sản xuất nông nghiệp, song song với sản xuất nông nghiệp và đứng cuối quy trình sản xuất nông nghiệp. Với vị trí đứng trước sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nông thôn tạo ra và cung cấp cho nông nghiệp công cụ và điều kiện để bắt đầu tiến hành quy trình sản xuất nông nghiệp. Trong trường hợp này công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp máy móc, công cụ khai hoang làm đất, thuỷ lợi, phân bón 29 Ở vị trí song song với sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp các máy móc, công cụ chăm sóc cây trồng, vật nuôi, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu... Còn với vị trí đứng cuối quy trình sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cung cấp các máy móc, công cụ phục vụ thu hoạch, phơi sấy, bảo quản, sơ chế, chế biến, vận chuyển nông sản Phát triển công nghiệp nông thôn là một trong những nội dung của công nghiệp hoá, là bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn. Nó tác động tích cực và hiệu quả tới toàn bộ sự phân công lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Về thực chất công nghiệp nông thôn là một khái niệm được dùng để chỉ một bộ phận của ngành công nghiệp được tiến hành ở nông thôn, hoặc chính xác hơn là hoạt động sản xuất mang tính chất công nghiệp diễn ra ở nông thôn. Dưới góc độ sản xuất, công nghiệp nông thôn trước hết là các hoạt động sản xuất mang tính chất công nghiệp diễn ra ở nông thôn do kết quả của quá trình phân công lao động tại chỗ, chính vì thế nhiều nước còn gọi công nghiệp nông thôn là công nghiệp gia đình, công nghiệp làng xóm (ở Ấn Độ) hoặc công nghiệp hương trấn (ở Trung Quốc). Công nghiệp hoá nông thôn là khái niệm để chỉ quá trình biến đổi của công nghiệp nông thôn từ chỗ là các hoạt động kinh tế phụ trong cơ cấu kinh tế thuần nông truyền thống trở thành sản xuất chính trong cơ cấu kinh tế mới ở nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp và gia tăng tỷ trọng của các ngành không phải là nông nghiệp (bao gồm công nghiệp xây dựng, thương nghiệp, dịch vụ) trên địa bàn nông thôn. Từ quan điểm phục vụ phát triển nông thôn, tuy hai khái niệm công nghiệp hoá nông thôn và công nghiệp nông thôn có những điểm khác nhau, nhưng điều quan trọng là cách tiếp cận vấn đề, triển khai vấn đề nhằm thực thi được những mục tiêu cụ thể, đó là: xoá đói, giảm nghèo, tăng thu nhập thông 30 qua con đường phi thuần nông, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng hàm lượng công nghiệp - dịch vụ. Sản xuất nông nghiệp truyền thống được đặc trưng bởi sự phụ thuộc chặt chẽ vào đất canh tác và tính chất khép kín, tự cấp để tiêu dùng tại chỗ. Trong khi đó, các hoạt động phi nông nghiệp (công nghiệp nông thôn) về thực chất là các hoạt động kinh tế phi canh tác (non-farm econmic activities), nghĩa là không trực tiếp lấy hoa lợi từ ruộng đất và điều quan trọng là không phải là kinh tế tự cấp, mà sản xuất để trao đổi hoặc tiến hành trao đổi các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tiêu dùng. Tự thân các hoạt động phi nông nghiệp không thể tồn tại nếu không dựa vào các mối liên kết phía trước, phía sau của nó, cụ thể là sự phụ thuộc vảo sản xuất nông nghiệp và thị trường trao đổi hàng hoá, dịch vụ ở cả nông thôn lẫn các trung tâm công nghiệp lớn ở thành thị. Ngoài ra phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống thông qua quá trình công nghiệp hoá nông thôn sẽ là cơ hội để củng cố, tăng cường và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống dân tộc thể hiện ở các mặt hàng được chế biến bằng bàn tay khéo léo, khối óc tinh tế của những người thợ thủ công Việt Nam, giới thiệu những nét đẹp, độc đáo của văn hoá Việt Nam với thế giới. Có thể nói, công nghiệp nông thôn có vai trò ngày càng to lớn, như ở Việt Nam hiện nay đang thu hút khoảng 60% tổng số lao động và tạo ra khoảng 40% giá trị tổng sản lượng của tiểu thủ công nghiệp trong cả nước. Công nghiệp nông thôn thúc đẩy sự hình thành, hoàn thiện và mở rộng thị trường, góp phần năng cao trình độ kỹ thuật mở rộng quy mô của quá trình sản xuất và tái sản xuất kinh tế nông thôn. Công nghiệp nông thôn gắn chặt với sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, chúng có tác động đến sản xuất nông nghiệp ở cả đầu vào lẫn đầu ra trong sản xuất nông nghiệp. - Tác động đầu vào. Công nghiệp nông thôn cung cấp cho sản xuất nông nghiệp nhiều yếu tố đầu vào. Như điện để duy trì hoạt động của hệ thống tưới tiêu, mở rộng diện tích canh tác, thúc đẩy áp dụng các loại máy động lực phục 31 vụ công tác chế biến nông sản. Phân bón hoá học, các loại thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc công nghiệp là những yếu tố đầu vào khác rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, cả trồng trọt và chăn nuôi. - Tác động ở đầu ra. Công nghiệp nông thôn phục vụ thu hoạch, phơi sấy, bảo quản, sơ chế, chế biến, vận chuyển nông sảntới tay người tiêu dùng. Có thể thấy công nghệ sau thu hoạch bao gồm nhiều công đoạn từ thu hoạch, phân loại, chế biến, bảo quản nông sản phẩm 2.2. TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG VEN ĐÔ THỊ 2.2.1. Nhận thức về tài chính Tài chính là một phạm trù trừu tượng có quan hệ mật thiết với các quá trình đang diễn ra trong đời sống xã hội, được thể hiện trong các hình thức khác nhau và bao giờ cũng gắn liền với sự vận động của tiền tệ. Đồng thời cũng dễ nhận thấy rằng, sự vận động của tiền tệ tự bản thân nó chưa thể hiện được đầy đủ bản chất của tài chính. Để thể hiện được bản chất tài chính cần thiết phải tìm ra cả các thuộc tính đặc trưng cho bản chất bên trong của chúng. Đó là những đặc trưng chính sau đây. - Tài chính được thể hiện là sự vận động của các luồng tiền tệ Sự xuất hiện các quan hệ tài chính luôn luôn được biểu hiện thông qua sự vận động của tiền tệ. Có thể khẳng định, ở đâu không có tiền tệ và sự vận động của chúng thì nơi đó không có những quan hệ tài chính phát sinh. Như vậy, tài chính biểu hiện là sự vận động của các luồng tiền tệ trong đời sống kinh tế - xã hội. Sự xuất hiện của tiền tệ là điều kiện tiên quyết cho sự xuất hiện và tồn tại của tài chính. Cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh, không có tiền tệ thì không có tài chính. Có thể nói, tiền tệ là “cốt vật chất” của tài chính. Điều này ngày nay đã được thừa nhận chính thức rộng rãi trên thế giới. Ở Việt Nam, ngay trong cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” được Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin ấn hành năm 1999, tại trang 1482 cũng đã ghi, tài chính là “Tiền bạc và việc thu chi nói chung”. Tuy nhiên, tài chính và tiền tệ là hai khái niệm khác nhau, 32 nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Sự khác biệt căn bản được thể hiện ở cả nội dung và các chức năng vốn có của chúng. - Tài chính là hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị Phân phối là phân chia của cải, nguồn lực thành các phần và cho các đối tượng được hưởng theo những nguyên tắc nhất định. Như vậy, hoạt động phân phối đã hình thành rất sớm trong xã hội loài người. Ngay từ thời kỳ săn bắn, hái lượm các sản vật sẵn có của tự nhiên để duy trì cuộc sống, con người đã thực hiện việc phân chia những sản phẩm thu được cho nhiều thành viên cùng được hưởng. Xã hội càng phát triển, sản xuất được đẩy mạnh thì hoạt động phân phối cũng được phát triển theo và chúng là một khâu không thể thiếu được trong quá trình tái sản xuất xã hội. Lúc đầu phân phối chủ yếu chỉ là phân phối kết quả, “đầu ra” của sản xuất, khi mà các yếu tố chủ yếu của “đầu vào” được lấy trực tiếp từ tự nhiên. Khi sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, phân công lao động xã hội diễn ra và ngày càng sâu sắc, thì sản xuất được chuyên môn hóa dần và hình thành nên các chuỗi sản xuất. Lúc này, “đầu ra” của quá trình sản xuất này có thể lại là “đầu vào” của quá trình sản xuất khác, nên phân phối không chỉ dừng lại ở phân phối kết quả “đầu ra”, mà còn thực hiện cả việc phân phối các yếu tố “đầu vào” của quá trình sản xuất. Ngay trong hoạt động trao đổi và tiêu dùng, khi sản xuất chưa phát triển thì hầu như chúng được thực hiện tức thời sau khi được phân phối. Song đến khi sản xuất phát triển, thì trong trao đổi, trong tiêu dùng vẫn tiếp tục được phân phối (tái phân phối), để quá trình trao đổi, tiêu dùng đó ngày càng được hợp lý hơn, cho lợi ích trước mắt và cả lợi ích lâu dài Phân phối trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua một quãng thời gian rất dài chủ yếu là thực hiện phân phối dưới hình thức hiện vật, với những nguyên tắc tương ứng phù hợp với phương thức phân chia này. Đến một thời điểm nhất định, do sự phát triển của hoạt động trao đổi, tiền tệ đã xuất hiện. Sau khi xuất hiện, với chức năng cơ bản là thước đo giá trị, tiền được sử dụng là công cụ hữu hiệu để đo lường giá trị của các sản phẩm được sản xuất ra. 33 Trên cơ sở đó, dần dần xã hội mặc nhiên coi tiền là đơn vị biểu hiện giá trị của sản phẩm. Tức là, một sản phẩm có giá trị bằng một lượng tiền nào đó; ngược lại, khi có một lượng tiền thì cũng được coi là có một lượng giá trị tương tự như một khối lượng sản phẩm tương ứng Thực ra, chỉ trừ những loại tiền thực chất có đầy đủ giá trị như tiền vàng, thì quan niệm trên là đúng. Nhưng trên thực tế, đã từ khá lâu tiền mà các quốc gia sử dụng chỉ là tiền dấu hiệu, chúng chỉ thể hiện danh nghĩa một lượng giá trị, hay chính xác hơn là đại diện cho một lượng giá trị, nên một khối lượng tiền được coi là đại diện cho một khối lượng giá trị tương ứng nào đó. Đến đây có thể thấy, việc nhận thức trên là cơ sở cho hoạt động trao đổi ngang giá, một sản phẩm có thể bán để lấy một lượng tiền tương ứng với lượng giá trị mà nó đại diện tương đương với lượng giá trị của vật phẩm đó. Mặt khác, khi một chủ thể chuyển cho một chủ thể khác một vật phẩm có một lượng giá trị “V” nào đó, hoặc chuyển một lượng tiền với lượng giá trị mà nó đại diện cũng là “V”, thì dưới góc độ kinh tế học chúng là như nhau. Đây chính là cơ sở để thực hiện phân phối dưới hình thức giá trị thông qua đồng tiền. Tài chính với đặc trưng cơ bản là sự vận động của tiền tệ như đã được trình bày trên đây. Trên thực tế đó chính là sự vận động của các khối lượng tiền tệ từ chủ thể này sang chủ thể khác trong xã hội. Các khối lượng tiền tệ đó luôn ứng với những lượng giá trị nhất định, chúng có thể biểu hiện bằng một lượng tiền (tiền mặt, tiền ghi sổ), hoặc bằng những khối lượng vật chất khác, nhưng chúng đều có lượng giá trị tương đương với những lượng tiền nhất định. Khái quát lại, chúng được gọi là các nguồn tài chính. Các nguồn tài chính đó được hình thành gắn với các chủ thể thông qua các dạng vận động khác nhau của thu nhập, tích luỹ, thanh toán, trích nộp Chúng luôn được biểu hiện dưới những lượng tiền tệ và sau đó được sử dụng vào những mục đích nhất định để đáp ứng các nhu cầu khác nhau. Từ đó, việc sử dụng các nguồn lực tài chính của chủ thể này lại là cơ hội để tạo lập các nguồn tài chính cho các chủ thể khác. Cứ như vậy, các nguồn tài chính vận động không ngừng, đa dạng, nhiều chiều, thực 34 chất đó chính là các quan hệ phân phối trong quá trình hệ thống tài chính tiến hành phân bổ những nguồn lực tài chính của xã hội, thực hiện những quá trình phân chia, phân bổ các nguồn lực, của cải trong xã hội, tạo thành hoạt động phân phối thường xuyên, liên tục và phức tạp vào loại bậc nhất trong các hoạt động phân phối của xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội, như: chính phủ, doanh nghiệp, các hộ gia đình, - Tài chính luôn gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Các nguồn tài chính là sự biểu hiện vật chất hoá của các quan hệ tài chính. Sự vận động của các nguồn tài chính giữa các chủ thể trong xã hội là không ngừng, nhưng khi đến với từng chủ thể cụ thể thường cũng là điểm dừng tương đối trong quá trình vận động. Từ đây hình thành nên các “tụ điểm”, hội tụ các khối lượng tiền tệ gắn với các chủ thể và chúng được gọi là các quỹ tiền tệ. Mỗi chủ thể có thể có những quĩ tiền tệ với số lượng, qui mô, nguồn hình thành cũng như tính chất và mục đích sử dụng khác nhau. Điều đó là do đặc điểm, vị trí, chức năng của chủ thể trong đời sống kinh tế - xã hội qui định. Bởi vậy, một trong những dấu hiệu chứng tỏ có sự hiện diện của tài chính không chỉ là các quan hệ phân phối, mà các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội. Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể nói trên (Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình) chính là quá trình tham gia phân phối các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu - chi bằng tiền của các chủ thể. Các hoạt động thu - chi bằng tiền đó là sự vận động của tiền tệ, mặt biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn các quỹ tiền tệ do của các chủ thể vừa là tiền đề, vừa là kết quả tất yếu của quá trình hoạt động tài chính, chính là cốt vật chất bên trong của tài chính. Như vậy có thể hiểu, tài chính là một phạm trù khách quan được khái quát lên từ sự vận động của các luồng tiền tệ giữa các chủ thể khác nhau trong 35 xã hội, thực chất là thực hiện phân phối các nguồn lực của xã hội dưới hình thức giá trị và được biểu hiện thông qua quá trình tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể. 2.2.2. Vai trò của tài chính với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị Như phần trên đã trình bày, đặc trưng cơ bản nhất của tài chính là sự vận động của các luồng tiền tệ. Trong điều kiện kinh tế thị trường, tiền tệ tức là của cải vật chất. Bởi vì, tiền tệ tự nó hoặc là một lượng giá trị (tiền thực chất) hoặc là đại diện cho một lượng giá trị (tiền dấu hiệu). Trong trường hợp nào thì tiền cũng dễ dàng chuyển hoá thành của cải vật chất. Từ đây cho thấy, hoạt động phân phối của tài chính là sự di chuyển những khối lượng của cải vật chất từ chủ thể này sang chủ thể khác, từ khu vực, vùng này sang khu vực, vùng khác Suy cho cùng sự di chuyển đó là để phục vụ cho sản xuất hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể, các ngành, lĩnh vực, các nhu cầu khác của xã hội. Vì thế mà chúng đã trực tiếp hay gián tiếp góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn của các vùng miền đó. Phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị cũng như các vùng miền nông thôn khác, về cơ bản đều không nằm ngoài quy luật chung nói trên. Muốn phát triển được công nghiệp nông thôn đòi hỏi phải có các nguồn lực tài chính để tạo ra những điều kiện môi trường thuận lợi về cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, vừa trực tiếp chuyển hóa các nguồn lực khác thành của cải vật chất. Vì thế để vùng ven các đô thị có thể phát triển được công nghiệp nông thôn được thì phải dựa vào rất nhiều các yếu tố, trong đó, một trong những yếu tố có tính tiên quyết là phải có các nguồn lực tài chính. Muốn vậy thì phải thấy được vai trò của tài chính đối với vấn đề này trên các góc độ sau đây: Một là, tài chính huy động các nguồn lực để phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội các vùng nông thôn nói chung, vùng ven các đô thị nói riêng. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn là tổng thể những cơ sở vật chất quan trọng, có tính chất là điều kiện, tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội ở 36 nông thôn, trong đó có phát triển công nghiệp. Cơ sở hạ tầng ở đây bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, nhưng qua trọng bậc nhất đó là các cơ sở sau: - Hệ thống giao thông nông thôn. Đó là đường sá nội bộ và liên thôn, liên xã, liên huyện, liên tỉnh Người Trung Quốc có câu "Đường đi đến đâu giàu đến đấy” để nói lên tầm quan trọng của hệ thống giao thông; - Hệ thống điện phục vụ nông thôn. Có thể nói, trong điều kiện xã hội thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và văn minh, điện là yếu tố tiên quyết không thể thiếu được. Điện không những là nguồn lực đầu vào trực tiếp quan trọng bậc nhất cho nhiều hoạt động kinh tế, mà còn là ánh sáng của văn hóa, văn minh và niềm tin vào tương lai; - Hệ thống thủy lợi tưới tiêu cho nông nghiệp, cấp thoát nước cho sản xuất, cho sinh hoạt. Kinh tế nông nghiệp gắn với các công trình thủy lợi là không thể thiếu được. Không những thế, sản xuất công nghiệp, đời sống sinh hoạt hàng ngày ở nông thôn cũng rất cần các nguồn nước. Bên cạnh đó là việc xử lý nước thải đã qua sử dụng; - Hệ thống các trường học ở nông thôn. Ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, một bộ phận không nhỏ dân cư được sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Từ đó đòi hỏi phải có một hệ thống nhà trường ở nông thôn, từ cấp thấp nhất là nhà trẻ, mẫu giáo, cho đến các trường phổ thông tiểu học, trung học, thậm chí có cả các trường dạy nghề. Có như vậy thì một bộ phận lớn lực lượng lao động của xã hội ở đây mới được đào tạo nhân cách, trí lực, tay nghề phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội; - Hệ thống các cơ sở chăm sóc y tế nông thôn. Sự chăm sóc sức khỏe luôn cần thiết cho mọi vùng miền, miễn là ở đó có cư dân sinh sống. Điều đó ở nông thôn lại càng cần thiết. Công việc này có thể nói là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, nhưng trong đó hệ thống các cơ sở chăm sóc y tế nông thôn như trạm xá, bệnh viện là những hạt nhân nòng cốt. Làm tốt công tác chăm sóc y tế ở nông thôn sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao hiệu suất lao động của lực lượng nhân lực ở nông thôn; 37 - Hệ thống giao thương, buôn bán ở nông thôn. Nông thôn vừa làm ra một khối lượng không nhỏ của cải vật chất cho xã hội, vừa cũng trực tiếp tiêu dùng những của cải vật chất khác tương ứng. Từ đó, nhu cầu về giao thương buôn bán ở đây là không hề nhỏ. Với hệ thống các chợ, trung tâm thương mại nông thôn sẽ giúp cho việc giao lưu sản phẩm hàng hóa được trôi chảy, góp phần đắc lực kinh tế nông thôn phát triển. Ở Việt Nam trước đây có chủ trương lớn thực hiện chương trình phát triển “điện, đuờng, trường, trạm” ở nông thôn. Hiện đang thực hiện phong trào “Xây dựng nông thôn mới” với nhiều tiêu chí thuộc về phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Tất cả những chủ trương đó đã thực sự góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của nhiều vùng miền nông thôn, tạo đà tích cực cho phát triển công nghiệp nông thôn. Để có thể phát triển được hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn không nhỏ trên đây, đòi hỏi phải tiêu tốn những khối lượng nguồn lực đáng kể của xã hội. Các nguồn lực đó vừa có thể được huy động tại chỗ như đất đai, ngày công lao động, những đóng góp bằng tiền trực tiếp của các tổ chức và cá nhân tại nông thôn, vừa được huy động từ nhiều nguồn bên ngoài, kể cả từ nước ngoài Đó là đóng góp của Ngân sách nhà nước, của các tổ chức tài chính tín dụng, của vốn ODA, FDI từ nước ngoài Hai là, tài chính là yếu tố hết sức quan trọng trong việc cung cấp vốn cho việc mở mang các ngành nghề truyền thống, đặc biệt là phát triển làng nghề ở các vùng ven đô thị. Cơ chế thị trường đã thổi một luồng gió mới vào kinh tế nông thôn nói chung, trong đó các vùng ven đô thị có sự ảnh hưởng sâu sắc. Hầu như các vùng ven đô thị giờ đây đã bừng dậy sau một đêm ngủ dài. Giờ đây các ngành nghề truyền thống vốn có từ trước, đặc biệt là các làng nghề, đều được chú trọng khôi phục lại và mở mang để tận dụng các tài năng, năng lực sẵn có, tạo thêm nhiều của cải cho xã hội, tạo ra giá trị gia tăng mới, tăng thêm thu nhập cho dân chúng. 38 Không những thế, hàng loạt các ngành nghề công nghiệp mới cũng được khởi sắc, phát triển tại các vùng này nhằm tận dụng các nguồn nguyên liệu, nhân công, đất đai sẵn có, như chế biến nông thuỷ sản, may mặc, công nghiệp giải trí Để làm được như vậy, một trong những điều kiện có tính tiên quyết là phải có vốn bằng tiền ứng trước. Sự hoạt động của hệ thống tài chính đã góp phần đắc lực cho giải quyết vấn đề này. Đó là các hoạt động tự góp vốn, hùn vốn của các bên tham gia sản xuất kinh doanh; sự tài trợ vốn thông qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng ưu đãi; sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các khoản cho vay ưu đãi, qua các chương trình dự án... Thực tế ở Việt Nam hiện nay đã cho thấy, hầu hết các ngành nghề truyền thống và các làng nghề đều được khôi phục và mở mang; nhiều nghề mới về chế biến nông thuỷ sản, may mặc, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất đồ gỗ, đồ nhôm được chú ý phát triển; hình thành nhiều vùng sinh thái như trồng các loại hoa quí, cao cấp, trồng cây cảnh, nuôi trồng các loại đặc sản..., kết hợp với mở kinh doanh ăn uống, dịch vụ du lịch sinh thái, với sự hỗ trợ hết sức tích cực một khối lượng vốn liếng rất lớn ban đầu về từ nhiều kênh khác nhau của hệ thống tài chính. Sau đó, nhiều chương trình đầu tư tài chính và tín dụng vẫn được tiếp tục triển khai thực hiện tại các vùng ven đô thị để đẩy mạnh phát triển, gìn giữ các ngành nghề truyền thống cũng như các ngành nghề mới hình thành. Ba là, tài chính là công cụ khuyến khích, hỗ trợ tích cực cho phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị. Như phần trên đã trình bày, trong điều kiện kinh tế thị trường, dù muốn, dù không cơ cấu kinh tế vùng ven đô phải chuyển mạnh từ kinh tế thuần nông, tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá, đa ngành nghề lấy hiệu quả trên một đơn vị diện tích canh tác làm trọng. Muốn làm được như vậy, bên cạnh phải có một l- ượng nguồn lực tài chính không nhỏ cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cho các hoạt động sản xuất công nghiệp trực tiếp như đã đề cập ở trên, rất cần phải có những chính sách khuyến khích, ưu đãi về thuế, phí, lệ phí, giá, tiền thuê đất, lãi 39 suất tín dụng... thì mới có thể hỗ trợ cho hoạt động công nghiệp tại đây đứng vững trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Để đáp ứng yêu cầu này ngoài những chính sách thiết thực của tài chính nhà nước, vai trò của cả hệ thống tài chính thông qua hàng loạt các chương trình tài trợ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cho vay ưu đãi, hỗ trợ đào tạo, kỹ thuật, giống vốn... là hết sức quan trọng. Bốn là, tài chính góp phần đắc lực trong việc đào tạo nguồn nhân lực, phát triển văn hoá - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng ven đô thị. Như trên đã phân tích, nguồn nhân lực ở nông thôn có tỷ lệ rất lớn chưa qua đào tạo, hoặc chỉ đào tạo qua truyền nghề, không cơ bản. Việc phát triển công nghiệp nông thôn nói chung chủ yếu phải dựa vào nguồn lực tại chỗ theo phương châm “Ly nông bất ly hương”. Muốn vậy đòi hỏi phải có nhiều chương trình đào tạo kiến thức và tay nghề cho người lao động thông qua các cơ sở đào tạo tập trung cũng như phân tán. Nguồn lực tài chính để thực hiện vấn đề này là theo chủ trương “xã hội hoá”, người lao động có đóng góp một phần, nhưng phần lớn phải từ nhiều nguồn, như từ Nhà nước chi phí cho xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp, đào tạo đội ngũ giáo viên, biên soạn các chương trình đào tạo; từ các doanh nghiệp hỗ trợ về cơ sở vật chất, dụng cụ thí nghiệm, thực hành; Từ các tổ chức tài chính tín dụng với các khoản cho vay ưu đãi với người học, với cơ sở đào tạo Một khi kinh tế được khởi sắc, người dân vùng ven đô thị đã có ý thức rõ rệt trong việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, thông qua các hoạt động về giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội. Giờ đây con em trong độ tuổi căn bản đều được tạo điều kiện đến trường học tập. Trên thực tế tại nhiều vùng ven chất lượng giáo dục không hề thua kém trong các đô thị. Các hoạt động khác về y tế, văn hoá và các phúc lợi xã hội giờ đây cũng được quan tâm đầu tư phát triển. Đằng sau tất cả những kết quả đó là sự đóng góp tích cực của hệ thống tài chính cung cấp tiền vốn, nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm và chi phí duy trì hoạt động. Có thể nói, đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng ven đô đang có cơ hội nâng lên rõ rệt. 40 Năm là, tài chính góp phần đắc lực tạo điều kiện cho công nghiệp nông thôn vùng ven đô thị hội nhập kinh tế với các vùng miền của cả nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Với vị trí là cửa ngõ của các khu đô thị, vùng ven đô có vai trò quan trọng đối với quá trình hội nhập giữa nông thôn và thành thị. Để làm được điều này cần có vai trò rất lớn của tài chính. Nhờ có đầu tư tài chính đủ lớn mà giao thông tại các vùng ven đô mới đáp ứng nhu cầu giao lưu, hội nhập giữa các vùng miền. Đồng thời, thông qua nhiều con đường khác như đầu tư tài chính của các nhà đầu tư từ các đô thị đầu tư lan toả ra ngoại vi là các vùng ven đô mà hội nhập kinh tế của vùng ven đô với đô thị gia tăng đáng kể. Cơ cấu kinh tế của vùng ven đô nhờ sự đầu tư này mà thay đổi nhanh chóng. Mặt khác, vì có vị trí ngay sát đô thị nên nhiều nhu cầu khác về thông tin sản phẩm hàng hoá, về du lịch nghỉ dưỡng của các đô thị đòi hỏi phải đáp ứng. Nhờ có nguồn lực tài chính tổng hợp được huy động mà vùng ven đô đáp ứng được đòi hỏi đó của các đô thị. Thời gian qua, nhiều quần thể du lịch ở các vùng ven đô đã dần được hình thành với nhiều phân khu du lịch tại các khu bảo tồn về sinh thái hoặc bảo tồn văn hoá làng xóm truyền thống, bảo tồn làng nghề truyền thống. Trong tương lai nhiều khu vực ven đô sẽ được quy hoạch để đầu tư xây dựng thành quần thể vui chơi, giải trí hấp dẫn, góp phần chuyển đổi cơ cầu kinh tế ven đô từ nông nghiệp sang du lịch - dịch vụ. Vùng ven đô vừa thu hút khách du lịch, thúc đẩy giao lưu văn hoá giữa các khu vực trong nước và giao lưu văn hoá quốc tế. Đặc biệt, du lịch vào ngày nghỉ cuối tuần cho dân nội thành là tiềm năng lớn cho vùng ven đô phát triển du lịch, dịch vụ.. Hơn nữa, với nguồn lao động dồi dào, đất đai rộng nên càng thuận lợi cho việc đầu tư, phát triển trang trại, du lịch vườn... Chính thông qua du lịch mà hình ảnh về vùng ven đô được quảng bá nhiều hơn, được nhiều người biết đến và nhiều cơ hội đầu tư kinh tế đã ra đời. Bên cạnh đó cũng nhờ có nhiều nguồn lực tài chính khác nhau của cả trong và ngoài nước cho phép tổ chức nhiều triển lãm, hội chợ, xúc tiến đầu tư giới thiệu các hoạt động và các sản phẩm thuộc các làng nghề truyền thống, các 41 sản phẩm mới của công nghiệp nông thôn ra cả nước và bạn bè quốc tế. Những hoạt động này thực sự tạo cơ hội cho công nghiệp nông thôn nói chung, vùng ven đô thị nói riêng, ngày càng sớm từ giã cơ chế “tự cung tự cấp”, trở thành sản xuất hàng hoá để nhanh chóng vươn mình ra cả nước và khắp thế giới. Tựu trung lại, vùng ven đô thị là nơi có nhiều lợi thế trong việc phát triển kinh tế - xã hội nhờ vị trí là “vùng đệm” giữa khu vực đô thị và khu vực thuần nông. Việc phát công nghiệp nông thôn ở đây là yêu cầu cấp thiết của phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tài chính tự nó đã và đang có vai trò hết sức to lớn cho sự phát triển ấy và chúng được thể hiện cụ thể hơn thông qua hệ thống tài chính của mình dưới đây. 2.2.3. Các công cụ tài chính chủ yếu tác động đến quá trình phát triển công nghiệp nông thôn Sự tồn tại của tài chính là cơ sở khách quan để hình thành nên các công cụ tài chính. Công cụ tài chính là phương tiện được Chính phủ và các chủ thể khác sử dụng để tác động vào các hoạt động của nền kinh tế, điều khiển nền kinh tế theo những mục tiêu đã định. Hệ thống các công cụ tài chính thường bao gồm: Chi NSNN, thuế, tín dụng, bảo hiểm, Cơ chế tác động của các công cụ tài chính đối với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô có thể theo phương thức tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực tiếp, là việc sử dụng các công cụ tài chính nhằm làm thay đổi quy mô, các hoạt động sản xuất công nghiệp nông thôn, như: đầu tư phát triển ngành và sản phẩm mới, vùng sản xuất mới, hay đầu tư hiện đại hóa quá trình sản xuất Tác động gián tiếp, là việc sử dụng các công cụ tài chính tác động nhằm tạo môi trường thuận lợi, hoặc các lĩnh vực có liên quan đến sản xuất công nghiệp nông thôn, như: đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển các ngành dịch vụ cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cho phát triển hệ thống thị trường Để các công cụ tài chính huy động tối đa các nguồn lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa nông thôn, cần có sự kết hợp đồng bộ các công cụ đó. Nếu 42 thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các công cụ tài chính, có thể dẫn đến triệt tiêu động lực, gây lãng phí nguồn lực, cản trở quá trình. Một vấn đề trong sử dụng các công cụ tài chính cần chú ý là tính chất hai mặt: tích cực và tiêu cực. Cùng hệ thống các công cụ tài chính như: chi NSNN, thuế, tín dụng, nếu được sử dụng đúng và thích hợp sẽ kích thích và tạo động lực cho phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nông thôn nói riêng. Ngược lại, nếu sử dụng không đúng và không phù hợp thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình này. Để hiểu rõ vai trò của tài chính đối với quá trình phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô cần xem xét sự tác động cụ thể của một số công cụ chủ yếu sau đây. 2.2.3.1. Chi ngân sách nhà nước đối với phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô Chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa định hướng, tạo ra những “cú hích” và đòn bẩy thực sự thúc đẩy quá trình phát triển công nghiệp nông thôn nói chung và công nghiệp nông thôn vùng ven đô nói riêng. Chi NSNN phân phối và sử dụng quỹ NSNN cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã.Trong thực tiễn có nhiều nguồn lực tài trợ cho phát triển công nghiệp nông thôn, song vốn từ NSNN là nguồn chủ yếu có ý nghĩa đặc biệt. Mục tiêu của chi NSNN phục vụ phát triển nông thôn nói chung và công nghiệp nông thôn nói riêng là nhằm tạo những điều kiện tiền đề và nền tảng vật chất - kỹ thuật cho việc thực hiện các mục tiêu trong xây dựng và phát triển nông thôn trong từng giai đoạn phát triển. Cụ thể: - Đầu tư cho việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp nông thôn nói riêng. - Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sản xuất công nghiệp, như: hệ thống giao thông, hệ thống công trình thủy lợi, hệ thống phân phối điện, hệ thống thông tin viễn thông và hệ thống hạ tầng cho phát triển giáo dục, đào tạo, y tế 43 - Đầu tư xây dựng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các khu công nghiệp nhỏ làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nói chung và công nghiệp vùng ven đô nói riêng. - Đầu tư, hỗ trợ vốn và tạo các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. - Đầu tư cho nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại. - Đầu tư xây dựng các trường, trung tâm dạy nghề để đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH. - Đầu tư cho phát triển hệ thống thị trường, tiếp thị, hệ thống phân phối sản phẩm đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp của làng nghề, của các khu công nghiệp vừa và nhỏ. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam và của Thành phố Hà Nội khả năng nguồn vốn NSNN có hạn nên chi đầu tư từ ngân sách phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven phải thực hiện theo nguyên tắc đầu tư tập trung, có trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải. Vì vậy, trong quá trình thực hiện chi tiêu và sử dụng vốn ngân sách phải xác định cụ thể các hoạt động cần ưu tiên đầu tư. Định mức phân bổ ngân sách phải xuất phát từ mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố nói chung và định hướng phát triển công nghiệp vùng ven đô nói riêng cho hợp lý. 2.2.3.2. Thuế đối với phát triển công nghiệp nông thôn Hệ thống thuế của các nước vừa là công cụ để nhà nước động viên tập trung nguồn thu chủ yếu về NSNN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước, đồng thời nó còn là công cụ quan trọng để tác động đến các vấn đề kinh tế vĩ mô khác, như: khuyến khích hay hạn chế một ngành sản xuất, để định hướng một cơ cấu kinh tế hợp lý, khuyến khích hay hạn chế tiêu thụ hàng hóa dịch vụ trong xã hội, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. 44 Thuế vừa có tác động trực tiếp vừa có tác động gián tiếp tới phát triển kinh tế nông thôn nói chung và công nghiệp nông thôn nói riêng. Một chính sách thuế hợp lý sẽ có tác động tích cực, khuyến khích doanh nghiệp, nhà đầu tư đầu tư vào phát triển các ngành, các cơ sở sản xuất, dịch vụ theo đúng chủ trương, định hướng của địa phương. Ngược lại, chính sách thuế không phù hợp sẽ kìm hãm, cản trở, thậm chí làm triệt tiêu động lực đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh (thu hẹp quy mô, chuyển sang phát triển các ngành có ưu đãi về thuế). Tác động tích cực của thuế đến phát triển công nghiệp nông thôn thể hiện ở các chính sách đãi về thuế ưu đánh vào lĩnh vực này. Thông qua các quy định về đối tượng chịu thuế, về phạm vi đánh thuế, các mức thuế suất phân biệt đối với từng đối tượng, các quy định về miễn, giảm và các ưu đãi khác nhằm tạo động lực thúc đẩy và định hướng quá trình đầu tư phát triển kinh tế nông thôn và công nghiệp nông thôn. Những ưu đãi về thuế, đối với những hoạt động liên quan đến quá trình phát triển công nghiệp nông thôn cần phải quy định rõ trong tưng luật thuế cụ thể (chẳng hạn ưu đãi về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với các hoạt động đầu tư vào địa bàn nông thôn, ưu đãi đối với chuyển giao công nghệ cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn để phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn...) sẽ thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư vào khu vực nông thôn, đồng thời giảm bớt mức động viên, nâng đỡ khả năng tích luỹ của các chủ thể tham gia vào quá trình phát triển công nghiệp nông thôn và phát triển nông thôn mới. Mặt khác, thông qua sự phân biệt ưu đãi một cách có chủ định, chính sách thuế, phí cũng sẽ có những tác động rất tích cực đến việc định hướng quá trình phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven. Thuế tác động đến quá trình phát triển công nghiệp nông thôn còn được thể hiện ở việc nghiên cứu ban hành các sắc thuế, xây dựng hệ thống thuế có vai trò với định hướng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn để các sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp luôn đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất 45 chế biến của sản xuất công nghiệp nông thôn. Với chính sách thuế có sự phân biệt theo ngành và theo vùng sẽ có tác động đến sự phát triển các ngành, các vùng theo định hướng ưu tiên trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn. Muốn vậy, Nhà nước có thể sử dụng chính sách thuế ưu đãi, như miễn tiền thuê đất trong một thời gian, miễn giảm thuế thời kỳ mới bắt đầu đi vào kinh doanh, miễn giảm thuế nhập khẩu các loại vật tư thiết bị phục vụ cho sản xuất công nghiệp nông thôn, sản xuất nông nghiệp và nông thôn v.v.. Chính sách thuế có sự phân biệt theo ngành và theo vùng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hóa, do đó, có tác động trực tiếp đến lợi ích của người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc điều tiết sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng, nhất là các hàng hóa sản xuất từ tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong điều kiện nông thôn Việt Nam hiện nay, khả năng đầu tư và tích lũy vốn từ khu vực nông thôn còn rất ít, đầu tư vào khu vực nông thôn gặp nhiều rủi ro, lợi nhuận thấp, vì vậy việc thực hiện chính sách ưu đãi về thuế có ý nghĩa rất quan trọng qua đó thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề Nông nghiệp, Nông thôn và Nông dân mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định. 2.2.3.3. Tín dụng đối với phát triển công nghiệp nông thôn Nhu cầu về vốn cho phát triển công nghiệp nông thôn ngày càng lớn, trong khi vốn đầu tư của NSNN có hạn. Để giải quyết khó khăn về vốn đầu tư thì ngoài việc huy động vốn từ nguồn NSNN, từ vốn chủ sở hữu của các chủ đầu tư việc tăng cường huy động nguồn vốn tín dụng rất quan trọng, đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể kinh tế nông thôn. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ tín dụng rất đa dạng, phong phú, bao gồm: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, các quỹ tín dụng nông thôn, các quỹ tín dụng nhỏ, các hình thức tín dụng của các tổ chức đoàn thể, hiệp hội 46 Đối tượng có nhu cầu vốn đầu tư từ tín dụng là các chủ thể kinh tế ở khu vực nông thôn, như các doanh nghiệp, các hộ gia đình. Tác động của tín dụng đối với quá trình phát triển công nghiệp nông thôn được thực hiện thông qua hệ thống:lãi suất, thời hạn cho vay và mức vay. Tín dụng tác động đến quá trình phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô trên các mặt chủ yếu sau: - Đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của các nhà đầu tư. Các chủ doanh nghiệp, các hộ gia đình trong các làng nghề truyền thống hiện nay đều đi theo hướng sản xuất hàng hóa, dịch vụ hiện đại, họ không chỉ có nhu cầu vốn ngắn hạn, mà nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng lớn, đầu tư hiện đại hóa sản xuất, đầu tư mở rộng quy mô, đầu tư khôi phục và phát triển các ngành nghề ở nông thôn Trong khi nguồn vốn chủ sở hữu có hạn, vì vậy họ phải tìm đến nguồn vốn tín dụng là đương nhiên. - Với những cơ chế ưu đãi về lãi suất, về thời hạn trả nợ, về hạn mức tín dụng, phương thức trả nợ, sẽ khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào phát triển công nghiệp nông thôn, nhất là phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp trong các khu công nghiệp nhỏ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong các làng nghề truyền thống, chế biến nông, lâm, thủy sản, phát triển các ngành dịch vụ ở nông thôn. Việc xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng phù hợp, nhất là tín dụng ngân hàng và tín dụng nhà nước, sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư đầu tư vào phát triển công nghiệp nông thôn, kinh tế nông thôn, từ đó các ngành nghề phi nông nghiệp phát triển, tạo cơ sở cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, từ thuần nông, tự cấp tự túc sang phát triển sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại. - Tín dụng góp phần giải quyết khó khăn về vốn để phát triển các ngành dịch vụ hiện đại, phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn vùng ven đô và kinh tế nông thôn, nhất là các ngành dịch vụ không thể thiếu đối với sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, như: vận tải, tiếp thị, quảng bá thương mại, hệ thống đại lý tiêu thụ sản phẩm, thu mua, sơ chế nông sản phẩm, 47 2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC SỬ DỤNG TÀI CHÍNH CHO PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN 2.3.1. Kinh nghiệm quốc tế và trong nước 2.3.1.1. Kinh nghiệm quốc tế * Nhật Bản Trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa nền kinh tế đất nước, ngành nghề thủ công đã bị phân hóa và phát triển theo hai hướng: một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chiếm ưu thế; một số theo hướng thủ công truyền thống. Bước vào những năm 1970, đất nước này đã phải đương đầu với các cuộc khủng hoảng về nhân lực và một số tài nguyên thiên nhiên khác trên thế giới, v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdffile_goc_780233.pdf
Tài liệu liên quan