Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết liên quan đến Đề tài xê dịch của nhóm tự lực văn đoàn - Lê Việt Đoàn

Tài liệu Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết liên quan đến Đề tài xê dịch của nhóm tự lực văn đoàn - Lê Việt Đoàn: 37 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0067 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 37-44 This paper is available online at KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI XÊ DỊCH CỦA NHÓM TỰ LỰC VĂN ĐOÀN Lê Việt Đoàn Trường Trung học phổ thông Hồ Thị Kỷ, Cà Mau Tóm tắt. Từ lâu, hướng nghiên cứu thi pháp học đã gặt hái được rất nhiều thành quả khoa học to lớn trong nghiên cứu văn học ở nước ta. Trong đó, khía cạnh không gian nghệ thuật là một trong những chìa khóa quan trọng góp phần gợi mở thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chương. Tiếp cận theo hướng không gian nghệ thuật, chúng tôi phát hiện được trong tiểu thuyết và truyện ngắn liên quan đến mảng đề tài xê dịch của nhóm Tự lực văn đoàn có các kiểu không gian nghệ thuật tiêu biểu là: không gian sông biển; không gian văn hóa, tâm linh; không gian mưa gió; không gian làng quê và dạng thức đặc trưng nhất là không gian tâm lí của nhân vật Từ khóa: Đ...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 457 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết liên quan đến Đề tài xê dịch của nhóm tự lực văn đoàn - Lê Việt Đoàn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0067 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 37-44 This paper is available online at KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI XÊ DỊCH CỦA NHÓM TỰ LỰC VĂN ĐOÀN Lê Việt Đoàn Trường Trung học phổ thông Hồ Thị Kỷ, Cà Mau Tóm tắt. Từ lâu, hướng nghiên cứu thi pháp học đã gặt hái được rất nhiều thành quả khoa học to lớn trong nghiên cứu văn học ở nước ta. Trong đó, khía cạnh không gian nghệ thuật là một trong những chìa khóa quan trọng góp phần gợi mở thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chương. Tiếp cận theo hướng không gian nghệ thuật, chúng tôi phát hiện được trong tiểu thuyết và truyện ngắn liên quan đến mảng đề tài xê dịch của nhóm Tự lực văn đoàn có các kiểu không gian nghệ thuật tiêu biểu là: không gian sông biển; không gian văn hóa, tâm linh; không gian mưa gió; không gian làng quê và dạng thức đặc trưng nhất là không gian tâm lí của nhân vật Từ khóa: Đề tài xê dịch, nhóm Tự lực văn đoàn, không gian nghệ thuật, thi pháp học. 1. Mở đầu Truyện ngắn và tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn là một trong những thành công rực rỡ của dòng văn học lãng mạn trong thời kì 1930 – 1945 ở nước ta. Hành trạng nghiên cứu về sự nghiệp văn học của nhóm Tự lực văn đoàn từ lâu đã được tìm hiểu, bóc tách và đạt được nhiều thành tựu khoa học sâu sắc [1-4]. Gắn liền với lịch sử nghiên cứu ấy là cả một số phận lắm nỗi thăng trầm trong sự nhìn nhận, đánh giá về mặt văn học của nhóm tác giả này. Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày một cách bao quát những thành tựu văn học của nhóm Tự lực văn đoàn mà chỉ tập trung sự chú ý vào vấn đề không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn có liên quan đến cảm hứng xê dịch. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Không gian văn hóa, tâm linh Trong truyện ngắn và tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn có liên quan đến đề tài xê dịch, chúng ta nhận thấy một dạng thức không gian gắn liền với văn hóa, tâm linh của người Việt. Đó là không gian Thiền. Điều đặc biệt là không gian này đều gắn liền với tình yêu nam nữ của các nhân vật. Theo cảm nhận của chúng tôi, Thiền chính là khoảng không gian trong đó các nhân vật nữ cố tìm quên một thời quá vãng để hướng đến sự thanh sạch trong tâm hồn (hướng đạo) và các nhân vật nam thì cố dùng sức mạnh của tình yêu nhằm hướng đến hạnh phúc viên mãn của những con người trần tục. Như vậy, nhìn một cách khái quát, không gian Thiền trong sáng tác của Tự lực văn đoàn gắn liền với sự giằng xé nội tâm cao độ của các nhân vật trong cuộc chiến cân não giữa một bên là phần thanh cao (lí trí) và một bên là phần bản năng (tình cảm hồng trần). Do vậy, có thể nói, sự chọn Ngày nhận bài: 19/6/2018. Ngày sửa bài: 19/7/2018. Ngày nhận đăng: 27/9/2018. Tác giả liên hệ: Lê Việt Đoàn. Địa chỉ e-mail: levietdoan20101982@gmail.com Lê Việt Đoàn 38 lựa của các nhân vật là không hề dễ dàng và chính điều này tạo nên sự hấp dẫn vô cùng mới mẻ ở chiều sâu thẩm mĩ của tác phẩm. Trong tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, tác giả Khái Hưng đã xây dựng nên một chuyện tình yêu lí tưởng dưới bóng từ bi. Và do vậy, không gian văn hóa chốn cửa Thiền trở thành một khía cạnh không thể thiếu để hai nhân vật chính là Lan và Ngọc có thể tìm thấy sự hòa hợp, đồng điệu giữa hai tâm hồn đang yêu, giữ được sự tốt đẹp của tình yêu cũng như vẻ đẹp của tôn giáo mà mình đã trót tôn thờ, phụng sự. Ngay phần đầu tiểu thuyết, trong đoạn đối thoại giữa Ngọc và Lan, tác giả đã để cho Lan kể lại Phật tích của ngôi chùa Long Giáng mà Ngọc sắp đến. Câu chuyện đó mang màu sắc Phật thoại mà chúng ta vẫn thường thấy trong kho tàng truyện kể dân gian (chẳng hạn như Từ Đạo Hạnh, Liễu Hạnh công chúa): “Ngọc Hoàng Thượng đế muốn giúp nhà vua tỉnh ngộ, liền cho một nàng tiên nga giáng thế đầu thai, tức là Văn Khôi công chúa. Công chúa nhan sắc diễm lệ một thời, nhưng khi lớn lên, chỉ ngày đêm học đạo tu hành. Sau vì nhà vua cố ý kén phò mã, công chúa liền đương đêm lẻn bước trốn đi, nhờ có các thần tiên đưa đường tới nơi này xin thụ pháp đức Cao Huyền hòa thượng. Về sau có thám tử báo tin, đức vua mấy phen cho quan quân đến chùa đón công chúa về triều. Công chúa nhất định không nghe. Nhà vua nổi giận, truyền quan quân phóng hỏa đốt chùa. Ngọn lửa vừa nhóm, bỗng một con rồng vàng hiện lên phun nước tắt ngay. Vì thế chùa này mới lấy tên Long Giáng từ thuở ấy. Nhà vua nghe tin cả sợ. Từ đó Ngài dốc lòng tin theo phép mầu nhiệm của đức Thích Ca Mâu Ni và lập tức cho sửa sang chùa để công chúa ở lại tu hành” (Hồn bướm mơ tiên). Có thể nói, chính không gian Thiền là điểm tựa không thể thiếu để tình yêu giữa hai nhân vật nảy nở và trưởng thành theo tiến trình của truyện. Rất nhiều lần trong tác phẩm này, tác giả Khái Hưng miêu tả những chi tiết có liên quan đến văn hóa Phật giáo mà nhân vật Ngọc – một người ngoại đạo được trải nghiệm như: tiếng kinh kệ, tiếng chuông chùa, lễ cầu đàn Tất cả những tình tiết ấy đóng vai trò như một môi sinh lí tưởng, giúp cho tình yêu của Lan và Ngọc được đảm bảo trong màu sắc bất hoại của lí tưởng, miễn dịch với những tư tưởng tầm thường, dung tục mà kẻ phàm tục có thể vướng phải trong tâm niệm. Chẳng hạn, một đoạn miêu tả tiếng chuông chùa cùng tâm trạng của nhân vật Ngọc: “Trong làng không khí yên tĩnh, tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọi khói thướt tha, bông lúa sột soạt, như cảm tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch” (Hồn bướm mơ tiên). Đoạn kết của thiên tiểu thuyết này cũng được bao trùm bởi một không khí Thiền cô đọng và lãng mạn như trong một câu chuyện thần tiên, trong đó, con người đã thoát ra được bản ngã ích kỉ để hướng đến những giá trị vĩnh cửu của cả đạo và đời: “Ngọc từ giã Lan, dắt xe đạp xuống đồi. Bây giờ sắc trời dìu dịu, vạn vật như theo tiếng chuông chiều thong thả rời vào quãng êm đềm, tịch mịch. Lan đứng chắp tay tụng niệm, mắt lờ đờ nhìn xuống con đường đất quanh co, lượn khúc dưới chân đồi. Gió chiều hiu hiu... Lá rụng!” (Hồn bướm mơ tiên). Chúng ta cũng có thể bắt gặp không gian Thiền trong truyện ngắn Thế rồi một buổi chiều của Nhất Linh. Trong những ngày tá túc tại gác khánh cũ, nhân vật Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp yên tĩnh, thinh lặng của nhà chùa – nơi tu hành thoát tục của hai sư nữ, chỉ có anh là khách giang hồ, tạm dừng chân để qua cơn nguy khốn vì bị vây bắt: “Sáng hôm sau, khi Dũng thức dậy, ánh nắng đã xiên qua cửa sổ, chiếu vào sân, ngoài gác khánh, tiếng chim buổi sáng ca hót hòa với tiếng lá thông rì rào. Dũng ngồi vào chỗ có ánh nắng để sưởi, vì trong người thấy lạnh buốt. Qua cửa sổ, chàng trông thấy một cái vườn rậm rạp trồng toàn ổi và chuối”. Ở đoạn kết của truyện ngắn, Nhất Linh đã tạo ra sự ngạc nhiên khôn cùng cho bạn đọc. Ông đã để hai nhân vật vượt rào, thực hiện ý định táo bạo của mình là rời bỏ nhà chùa để tìm thấy sự hạnh phúc trong tình yêu hoàn toàn vị kỉ, bỏ lại một sư nữ già với cuộc đời tu hành cô độc: “Thế rồi một buổi chiều... Một buổi chiều yên tĩnh. Sư cô một mình thơ thẩn đợi giờ thỉnh chuông. Gió bắc nhẹ nhàng thổi như đem theo với cái lạnh lẽo của buổi chiều đông những nỗi buồn xa xôi, không duyên cớ. Tiếng rì rào của mấy cây thông già lọt vào chùa nghe phiêu diêu như tiếng than vãn của không trung. Sư cô thấy tâm hồn mình lạnh lẽo với gió hiu hiu, rung động với lá thông Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết liên quan đến đề tài xê dịch của nhóm Tự lực văn đoàn 39 reo rì rào. Hương thơm từ trên Phật tòa theo gió đưa xuống phảng phất, bao bọc lấy người sư cô, chiều hôm ấy, đem lại cho sư cô những cảm giác mới lạ, gợi trí sư cô nghĩ tới những nỗi ái ân, yêu thương của quãng đời mà sư cô tưởng đã xóa mờ trong trí nhớ”. Khác với nhân vật Lan trong Hồn bướm mơ tiên, nhân vật nữ tu hành trong truyện ngắn này đã đi theo tiếng gọi của tình yêu nam nữ. Cô đã có đủ sự dũng cảm để có thể vượt qua được sức mạnh của lí trí – tức là lí tưởng tu hành mà một phần đời của nàng đã tôn thờ, để được sống hoàn toàn cho tình cảm, điều mà nàng đã đánh mất trong cái quá khứ buồn tẻ và bi kịch đã qua. Không chỉ không gian Phật giáo, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn còn xây dựng cả dạng thức không gian gắn liền với mạch nguồn văn hóa, tín ngưỡng dân gian của dân tộc. Đó là tín ngưỡng thờ thần đá (Sơn Tinh hay Tản Viên Sơn Thánh) trong tiểu thuyết Con đường sáng của Hoàng Đạo. Trong tâm thức Việt, Sơn Tinh là vị phúc thần, đem lại sự an lành cho nhân dân trong việc chống lũ lụt, nói khác đi là chống lại sức mạnh của thiên tai. Trong phần đầu của cuốn tiểu thuyết, tác giả Hoàng Đạo đã phóng chiếu tâm thức thần thoại đó qua cái nhìn của nhân vật Duy trong một đêm trăng sáng, lúc nhân vật đi nghỉ trên vùng Tam Đảo: “Ánh đèn trong các thuyền và các nhà bè phía bên kia sông lấm tấm vàng thành một vệt dài. Một làn trắng, không rõ là khói hay cát, bốc lên ở ngoài bãi xa rồi lẫn vào trong ánh trăng. Núi Tản Viên vẫn rõ hình; sau làn sương, quả núi mờ như xa hẳn và vì thế trông tưởng núi cao lớn hơn mọi ngày. Quả núi ấy, ngay từ thuở bé, luôn luôn Duy trông thấy trước mắt, và chàng vẫn coi nó như một sự gì rất hùng tráng, nhìn vạn năm nay yên lặng đứng bao quát cả một vùng, một sự rất lớn lao nhưng xa xôi không bao giờ chàng tới được” (Con đường sáng). 2.2. Không gian mưa gió Trong văn xuôi Tự lực văn đoàn, hình tượng không gian mưa gió cũng là điểm nhấn quan trọng về mặt không gian nghệ thuật. Ta có thể bắt gặp hình tượng này trong các tác phẩm tiêu biểu như: Bướm trắng, Đời mưa gió, Đôi bạn, Đoạn tuyệt, Con đường sáng, Thế rồi một buổi chiều, Trong tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh, tác giả cũng thường xuyên sử dụng dạng thức không gian mưa để làm nổi bật tâm trạng của nhân vật Trương. Không gian mưa gắn liền với nỗi thất vọng của Trương lúc anh tìm đến nhà thổ để giải sầu: “Mưa có một phần nặng hạt hơn trước. Trương ngửng lên gác trọ của Linh. Cửa sổ nhỏ, lộ ra một khoảng tường xanh nhạt có treo bức tranh lụa và mẩu màn trắng đã cũ. Trương đoán Linh còn thức và đương ngồi làm việc. Chiếc cửa sổ có ánh vàng, như mở ra cho Trương thấy qua màn bụi mưa đêm, tất cả các êm đềm nhạt nhẽo của cuộc đời” (Bướm trắng). Nửa đêm thức giấc, Trương bỗng bàng hoàng nghĩ đến Thu và nhìn bên ngoài mưa rơi: “Trương ngồi dậy, lưng dựa vào thành giường và lắng tai nghe. Ở ngoài mưa vẫn rả rích (). Chàng lẩm bẩm: Hai mươi giấc tốt hăm mốt nữa đêm. Hôm nay hăm ba chắc là có trăng. Chàng buồn nghĩ đến những cảnh mưa trong trăng, đến những quãng không rộng rãi mờ mờ và một cái bến đò ở rất xa với con thuyền ngủ im dưới mưa” (Bướm trắng). Nhân vật Trương thường thỏa mãn thú vui hoan lạc trong những đêm mưa gió. Nói khác đi, mưa gió chính là dạng thức không gian bao quanh nhân vật trong sự tội lỗi của nó: “Có lắm đêm, trời đương mưa gió, chàng trở dậy đi bộ ra Khâm Thiên tìm các bạn chơi: chàng muốn đi bộ hơn là đi xe mặc dầu trời lấm tấm mưa vì chàng thấy có một cái thú đầu đọa tấm thân mình. Không phải Trương thích gì một tối vui đùa, nhưng nếu cứ ở nhà để chống lại cái ý muốn đi thì chàng thấy mình khổ ghê gớm” (Bướm trắng). Trong tiểu thuyết Đời mưa gió (Khái Hưng và Nhất Linh), không gian mưa gió cũng là một dạng thức biểu trưng cho cuộc đời chìm nổi, phiêu bạt, phóng đãng của nhân vật Tuyết – một người con gái giang hồ, xem xê dịch, thú vui trần thế là nguồn sống không thể thiếu của bản thân. Và cũng có sự đồng điệu với nhân vật Trương trong Bướm trắng, khung cảnh mưa gió trong Đời mưa gió gắn liền với tội lỗi và sự ăn năn của Tuyết. Những thời khắc Tuyết trở về gặp Chương đều gắn với gió mưa, để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nhân vật Chương đón giao thừa trong một đêm đầy mưa gió, đó cũng là đêm mà Tuyết quay trở về sau hai năm phiêu Lê Việt Đoàn 40 bạt cùng với những đam mê nhục dục của nàng: “Cây đèn điện bên giậu sắt chiếu một luồng sáng nhảy múa trong cái màn mưa phùn tha thướt bay lướt theo chiều gió. Sát cửa sổ, cây động đình lắc lư cái thân mềm yếu, chòm lá cứng rầu rĩ than thở không thôi và tí tách nhỏ giọt mưa xuống lối đi lát sỏi” (Đời mưa gió ). Cũng trong lần tái ngộ cuối cùng của hai tâm hồn lạc lõng ấy, hình ảnh thảm hại của Tuyết chí khiến Chương cảm thấy thương hại nhiều hơn là tha thứ. Cảnh tượng một người phụ nữ, trong đêm mưa gió phải dấn thân bước đi từng bước nặng nề vì bệnh tật, đói rách, nghèo khổ, khiến cho chàng cảm thương nhưng cũng chính sự già nua quá độ của những tháng ngày phóng túng hình hài lại làm cho chàng không thể không cảm thấy ghê tởm, khinh khi con người mà chàng đã từng yêu, từng dành những tình cảm cao khiết nhất: “Thấy Tuyết gầy gò trong bộ quần áo rộng thênh thang và rét run đứng không được vững. Chương thương hại bảo vú già dắt nàng lại ngồi bên lò sưởi. Chương vụt nghĩ đến tình cảnh kẻ khốn nạn, không cửa, không nhà, lặn lội trên con đường đầy mưa gió, giữa lúc mọi người vui vẻ đón chào xuân” (Đời mưa gió). Trong truyện ngắn Thế rồi một buổi chiều (Nhất Linh), nhân vật Dũng giã từ hai sư cô để ra đi cũng vào một đêm mưa gió: “Trời đã sẩm tối. Gió lạnh nổi lên vù vù lọt qua khe giại. Lâm tấm có vài hạt mưa. Dũng biết đã đến lúc từ biệt hai nhà sư: tuy ra ngoài chưa chắc thoát khỏi những nơi canh phòng, nhưng Dũng biết rằng không thể nào đêm hôm lại ở trong chùa, chỉ có một mình mình với hai sư nữ”. Nhưng chính nhờ vào lòng thương người của sư nữ trẻ tuổi mà Dũng đã ở lại nơi khánh chuông bỏ hoang. Cuộc hạnh ngộ, tâm tình của hai nhân vật, một người là khách chinh phu, ra đi để xây đắp lí tưởng sông hồ và một người vì lỡ mối duyên ngày xanh mà phải đi tu, diễn ra trong không gian mưa gió đầy lãng mạn, thi vị. Không đêm mưa cũng là khung cảnh mà Dũng và sư nữ trò chuyện hàn huyên với nhau trong gác khánh, giúp hai người hiểu nhau hơn và đi đến tình yêu chân thành, mãnh liệt: “Trời đã bắt đầu đổ mưa to, gió nổi lên thổi mạnh ào ào, ngọn đèn lập lòe muốn tắt. Sư cô không để ý đến ngoại vật, lẳng lặng ngồi nghe; lời Dũng nói như đưa tâm hồn nàng đến một mảnh đời khác hẳn cảnh đời lạnh lẽo ở nơi am vắng này, một cảnh đời tươi tốt mà tiếng đàn, tiếng sáo thay vào tiếng chuông tiếng mõ mà hương thơm nồng nàn của trăm thức hoa thay vào hương trầm, hương nhang thanh đạm” (Thế rồi một buổi chiều). 2.3. Không gian làng quê Nếu dạng thức không gian biển (mà chúng tôi chưa có điều kiện trình bày trong bài báo này) gắn liền với những cuộc ăn chơi, truy hoan, hưởng lạc của các nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì không gian làng quê chính là khung cảnh mang tính chất gột rửa, sám hối cho những tội lỗi, mặc cảm về quá khứ mà các nhân vật đã gây ra cho bản thân cũng như những người thân của họ. Trong tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh, cảnh đêm tối ở làng quê làm toát lên được vẻ đẹp hiền hòa, trong sáng nơi thôn dã. Tác giả Nhất Linh chỉ chọn lựa, miêu tả vài đối tượng nhưng cũng đã làm nổi bật lên được hồn quê ẩn sâu trong từng hình ảnh của quê hương Việt Nam: “Bóng một cành tre in ngược, ngọn trúng vào giữa một đám sao trông như một cây bông vừa tỏa hoa lấp lánh” (Bướm trắng). Cảnh dạo chơi trên đồi giữa Trương và Thu được Nhất Linh miêu tả bằng vài nét chấm phá đơn giản: “Bóng một đám mây chạy qua người khiến Trương đưa mắt nhìn lên. Từng đám mây trắng và cao yên lặng bay trong ánh sáng rực rỡ. Ở dưới cánh đồng có tiếng đứa bé con gọi trâu” (Bướm trắng). Cảnh gắn với tình, tình ở đây là tâm trạng chán chường của Trương khi biết mình mắc bệnh lao. Do vậy, lúc về quê của Thu để mừng tuổi ông nội người yêu, lúc nào chàng cũng quy chiếu mọi vật, mọi điều vào tâm lí đó: “Trời ấm và trong. Trên một cây bàng nhỏ, những lộc mới đâm, màu xanh non hơi phớt hồng, trông như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yên. Chàng nghĩ cây bàng năm nào cũng nhớ đâm lộc, đã bao lần rồi, vẫn chỉ như thế mà không chán. Chàng thấy cây cỏ cũng như người, khao khát được sống, tuy đời bao giờ cũng giống như bao giờ” (Bướm trắng). Không gian sông nước chốn làng quê là nơi trở về cũng là nơi để có thể gột rửa tội lỗi chất chồng của nhân vật Trương sau những tháng ngày chồn chân mỏi gối chốn Hà thành: “Chàng cầm Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết liên quan đến đề tài xê dịch của nhóm Tự lực văn đoàn 41 bát nước uống thong thả, đương uống chàng ngừng lại để ý tới cái vẻ êm lặng của mặt nước sông. Thu và cuộc đời rối rắm của chàng trước kia chàng thấy xa xôi không có gì liên lạc với chàng nữa. Chàng thấy lòng chàng cũng yên lặng như mặt sông và bao nhiêu những tội lỗi xấu xa của đời cũ như đã gột sạch hết” (Bướm trắng). Không gian làng quê lúc Trương quay về gặp Nhan để bắt đầu cuộc sống mới mang vẻ đẹp tiêu biểu cho làng quê Việt Nam. Hình ảnh của luống rau, giàn mướp và cả việc tưới rau trong thẹn thùng của Nhan gợi mở biết bao cảm xúc trong lòng Trương. Trương nhận thấy đây chính là hạnh phúc mà bấy lâu nay chàng tìm kiếm. Nó quá giản dị, mộc mạc như chính người dân quê mà chàng thì đã lạc lối vì mãi theo đuổi những điều phù phiếm, xa xôi – những con bướm trắng thoáng hiện, thoáng ẩn mà không bao giờ chàng có thể nắm bắt, sở hữu được: “Trương nhìn thẳng vào hai mắt Nhan; chàng lắng tai nghe tiêng nhái kêu ran ở ngoài lũy tre và nhớ đêm hôm về ấp với Thu nửa đêm sực thức dậy nhìn bàn tay Thu qua khe vách. Một nỗi nhớ tiếc xa xôi cùng đến với tiếng nhái kêu trong buổi chiều” (Bướm trắng). Trong tiểu thuyết Đời mưa gió, khung cảnh làng quê cũng là nơi cứu rỗi tâm hồn Tuyết, khơi dậy trong nàng những cảm xúc tưởng như đã vùi chôn cùng năm tháng: “Nay ở giữa một nơi thôn quê lặng lẽ, xa hẳn chốn thành thị huyên náo, Tuyết bỗng thấy như vẽ ra trước mắt một cảnh tượng quen quen. Nàng tưởng đã sống ở nơi đó một thời gian quá khứ mà chỉ nhớ mang máng như trong giấc mộng mơ hồ. Cái ao nước tù trong xanh, cây sung rễ mọc nổi trên mặt đất tựa như con rắn trăn, đã mốc thích, khóm chuối lá to bảng màu xanh vàng như một đám tàn quạt phe phẩy theo ngọn gió và che mát rợp hẳn một góc vườn bên những luống khoai lang, khoai sọ; cảnh đó gợi trong kí ức Tuyết, nhiều câu chuyện ngây thơ thuở xưa ...” (Bướm trắng). Cuộc đời phóng đãng của Tuyết tưởng chừng như không thể biết cảm động là gì thì nay trở nên là một tâm hồn nhạy cảm. Người phụ nữ chỉ biết lấy ái tình xác thịt và những thú ăn chơi hoang đàng làm tôn chỉ sống bỗng nhiên nhận ra là mình vẫn còn có thể rung động trước vẻ đẹp giản dị chốn làng quê. Kí ức tuổi thơ êm đềm hiện về, đánh thức những mặc cảm xa xôi. Khung cảnh làng quê ở ấp Khương Thượng – nơi mà Chương đưa Tuyết về để nghỉ ngơi, lãng quên đi những nỗi buồn đã qua trở thành nơi cứu chuộc tâm hồn lạc lối của nàng, dẫu chỉ là trong một thời khắc ngắn ngủi của cuộc đời đầy mưa gió của Tuyết: “Rồi Tuyết nói huyên thuyên, cười luôn luôn, hỏi tên từng cây, từng con chim, từng con trùng. Có khi nàng rẽ xuống ruộng, xòe bàn tay se sẽ xoa lên những cây lúa mới cấy, màu xanh vàng trông mơn mởn non tươi” (Bướm trắng). Chương cùng Tuyết tìm vào thú vui câu cá bên bờ ao. Có lẽ, trong suy nghĩ của mình, Tuyết cũng không thể hình dung là mình có thể trải qua những phút giây đằm ấm như vậy bên người yêu. Tuyết nhớ lại tuổi thơ, nàng cũng chơi đùa với đám anh em, cũng thả diều, câu cá Trong tiểu thuyết Con đường sáng (Hoàng Đạo), tác giả cũng có những trang miêu tả khung cảnh làng quê vào mùa gặt lúa rất nên thơ, rất Việt Nam mà chúng ta cũng có thể bắt gặp bất cứ nơi đâu ở đất nước mình. Cảnh đồng lúa chín được Hoàng Đạo miêu tả thật tài tình lúc Duy đánh xe từ Tam Đảo về Hà Nội. Đó là cảnh tượng mà lâu nay, với cuộc sống giàu sang, vương giả của mình, Duy chưa hề quan tâm. Nay trong sự ngẫu nhiên hiếm thấy (xe bị hỏng), chàng có dịp chiêm ngưỡng, đắm mình trong cảnh vật hiền hòa, tươi sáng như một bức họa của thiên nhiên: “Trước mặt Duy, giữa đám ruộng lúa xanh còn ngậm mầu, những thửa ruộng lúa yêu, lúa di chín sớm, màu vàng tươi, sáng hẳn lên, trông như những mảnh ánh nắng. Hai bên đường những ngọn lúa nặng hạt nằm ngả rạp vào bờ cỏ may hồng. Tiếng bánh xe chạm vào lúa nghe rào rào và châu chấu bay lên đậu cả vào trong xe, trên mũ, trên áo Duy. Những con châu chấu đều một loạt màu vàng như màu lúa và trông tưởng chừng như chúng nó cũng vừa mới chín theo lúa...” (Con đường sáng). Cảnh đồng lúa ở thôn quê vào một đêm trăng như một bài thơ trữ tình về quê hương, đất nước: “Cả một cánh đồng im lặng dưới bóng trăng; những bông lúa nặng sương ở gần lóng lánh một thứ ánh sáng lạnh; ngoài xa, sương mù màu trắng đục êm tỏa mãi đến tận chân trời; từng chỗ, trên biển sương, nổi lềnh bềnh màu lam nhạt của những dải rừng xa” (Con đường sáng). Lê Việt Đoàn 42 2.4. Không gian tâm lí Để đánh dấu sự thành công của mình, mỗi một nghệ sĩ cần phải đưa ra những đổi mới, sáng tạo trong từng thể loại mà mình theo đuổi. Trong những tác phẩm văn chương có liên quan đến mảng đề tài xê dịch, nhóm Tự lực văn đoàn cũng có những đóng góp rất lớn vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam qua sự cách tân trong các khía cạnh miêu tả tâm lí nhân vật, kết cấu, đề tài Trong hầu hết những truyện ngắn và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, chúng ta có thể thấy rằng yếu tố tâm lí luôn được các nhà văn trong nhóm đặc biệt quan tâm, mổ xẻ, đi sâu vào những chiều kích tế vi nhất của nó. Qua khảo sát các tác phẩm có liên quan đến đề tài xê dịch trong sáng tác Tự lực văn đoàn, chúng tôi tạm khái quát mô thức miêu tả tâm lí của văn xuôi Tự lực văn đoàn như sau: Dùng thiên nhiên (cảnh vật sự vật) để làm nền rồi qua đó tái hiện thời điểm quá khứ (có dấu hiệu tương tự) để nhân vật trôi vào dòng ý thức quá vãng, qua đó xác tín, đi sâu vào phản ứng của nhân vật trong lát cắt của thực tại. Thời điểm quá khứ ấy thường là những kí ức tuổi thơ – những lát cắt rời rạc, những mảnh vỡ còn tồn tại trong tiềm thức, để rồi khi đứng trước một kích thích, nó bật dậy, trở thành những phản ứng mang tính chất giải tỏa ẩn ức tuổi thơ – một khía cạnh mà theo phân tâm học của S. Freud có ảnh hưởng to lớn đến con người, đặc biệt là quá trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Đây gần như là một công thức ổn định mà các thành viên Tự lực văn đoàn rất hay vận dụng trong xuyên suốt các tác phẩm của mình, đặc biệt là mảng tiểu thuyết của họ. Sau đây, chúng ta thử đi vào phân tích một số trường hợp tiêu biểu từ văn bản. Trong tiểu thuyết Con đường sáng, tác giả Hoàng Đạo đã miêu tả tâm lí của nhân vật Duy theo phương thức như thế. Nhân vật Duy khi đi chơi trên Tam Đảo, nhìn cảnh vật mà nghĩ về những tháng ngày thơ bé của mình: “Trên lưng chừng sườn núi, ánh đèn điện ở Tam Đảo trông như một sợi dây kết bằng sao lấp lánh. Chàng lại tưởng như một đám rước đèn Trung Thu, nhất là đêm hôm ấy trời sáng trăng. Duy chợt nghĩ đến những ngày còn thơ đi rước đèn trên những con đường trắng xóa dưới ánh trăng rằm. Sao những ngày ấy chàng dễ vui thế; một cái đèn xếp màu hoa lí cũng đủ khiến chàng sung sướng được đến mấy ngày” (Con đường sáng). Sợi dây kết nối tâm trạng Duy trong thời khắc hiện tại với quá khứ là “ánh đèn điện” như “kết bằng sao lấp lánh”. Chính những ngôi sao lấp lánh ấy có sự tương đồng với “con đường trắng xóa dưới ánh trăng rằm” của tuổi thơ xa xôi, thời gian có người mẹ và đứa em. Tâm trạng chán chường, muốn quyên sinh của Duy cũng được miêu tả theo cách thức ấy: Từ một thời khắc hiện tại (tiếng mối kêu) nhắc nhớ về một thời quá vãng, từ đó quay trở về giây phút hiện tại: “Tiếng một con mối kêu ở sau lưng chàng. Duy nhớ lại nhiều lúc ở nhà quê, nghe tiếng mối kêu về mùa đông đương khi sung sướng nhằm trong chăn, thiu thiu sắp ngủ. Rồi giấc ngủ đến êm đêm, như có một nàng tiên yêu kiều khẽ phủ lên chàng một tấm thảm nhung đen thắm để chàng ấm áp thêm. Duy ngẫm nghĩ: Quyên sống... sao không quên hẳn đi” (Con đường sáng). Hồi ức tuổi thơ của Duy cũng sống lại trong giây phút nghe được tiếng những người gọi nhau trên sông, lúc đang nằm trên giường (sau đêm ân ái với cô đào quê): “Duy thốt nhiên thấy lòng mình lắng xuống; chàng vừa sực nhớ đến những ngày đã lâu lắm, từ khi còn trẻ dại ở nơi quê nhà, những ngày xa như thuộc về kiếp trước của chàng. Cả tuổi thơ đã êm đêm trôi qua bên con sông Luống nhỏ bé và thân yêu. Có một lần cậu bé Duy ra vườn chanh đứng khóc, nhìn qua lũy tre, mải ngắm làn hơi trắng lan trên mặt nước rồi nguôi dần và quên khóc” (Con đường sáng). Trong tiểu thuyết này, còn rất nhiều đoạn trong đó, tác giả Hoàng Đạo cách thức miêu tả tâm lí nhân vật chính như trên. Chẳng hạn, khi Duy chứng kiến cảnh dân quê đập lúa, kí ức tuổi thơ lại ùa về với anh: “Mùi thơm của lúa mới lẫn với mùi rạ ướt, mùi bụi rác bốc lên, Duy tưởng chừng là mùi của hết cả thôn quê và bỗng nhớ đến những ngày mùa hồi còn bé, như đượm cả cái mùi thơm riêng ấy. Chàng nhớ lại những đêm trăng như đêm nay, trời sáng và trong cực độ, cậu bé Duy ngồi bên cạnh cô bé Thơ ăn ngô rang, xem đập lúa” (Con đường sáng). Trong tiểu thuyết Đôi bạn, Nhất Linh có sự cải biến một chút, khi từ phút giây hiện tại, tác giả cho nhân vật Dũng ước lượng trước tương lai giữa mình và Loan. Đây là dạng thức miêu tả Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết liên quan đến đề tài xê dịch của nhóm Tự lực văn đoàn 43 tâm lí bằng cảm giác, thay vì bằng ẩn ức tuổi thơ: “Mùi hoa khế đưa thoảng qua, thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng như không phải là hương thơm của một thứ hoa nữa. Đó là một thứ hương lạ để đánh dấu một quãng thời khắc qua trong đời: Dũng thấy trước rằng độ mười năm sau, thứ hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến phút chàng đương đứng với Loan ở đây” (Đôi bạn). Nhưng có thể nói, phải đến Bướm trắng thì ngòi bút tài hoa của Nhất Linh mới có thể thi triển tài năng phân tích tâm lí nhân vật lên đến mức đỉnh cao, thượng thừa, chẳng khác gì một nhà tâm lí học thực thụ. Nhận xét về thành công của nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiểu thuyết này, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung nhấn mạnh: “Đến Bướm trắng (1939) sau đó, Nhất Linh tiếp tục khuynh hướng hướng nội của Đôi bạn mà ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo của ông có một chiều sâu mới. Nhà văn không chỉ miêu tả những cảm giác nhẹ nhõm thơ mộng mà đi vào những góc khuất, những ẩn ức, những giằng xé trong tâm hồn vừa bệnh hoạn vừa như hướng thiện” [3; tr.535]. Bướm trắng là quyển tiểu thuyết phiêu lưu hiện đại, cả trong không gian và trong ý thức nhân vật. Nhân vật chính của nó – Trương, là một nhân vật sa đọa, gần như là tín đồ của chủ nghĩa vô luân. GS. Đỗ Đức Hiểu trong bài viết Tiểu thuyết Nhất Linh đã có những đánh giá đáng chú ý về thành công của tác phẩm như sau: “ Bướm trắng với cốt truyện đơn giản, là thế giới bên trong của con người vô cùng biến động, cái ý thức và tiềm thức, cái vô lí và cái phi lí, giấc mơ, mê sảng, linh cảm Tình yêu, cái chết, màu trắng, tự tử, máu, vào tù, sám hối, trụy lạc, tình thương, đám ma, giết người, đời sống nơi thôn dã đó là những phiêu lưu trong tâm hồn Trương được tác giả Nhất Linh miêu tả một cách tinh vi” [3, tr.554]. Trên khía cạnh loại hình nhân vật, Nhất Linh đã xây dựng thành công kiểu nhân vật đa tính cách (thiện và ác đan xen vào nhau, biến động, chuyển hóa, thâm nhập vào nhau một cách dữ dội) khác hẳn với kiểu nhân vật đơn tính cách như trong tiểu thuyết truyền thống ở Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đó là sự học hỏi của tác giả với tiểu thuyết phương Tây, cụ thể là các tên tuổi như: Stendhal, Dostojevski, Flaubert. Thật vậy, hình tượng nhân vật Trương có gì đó rất tương đồng với nhân vật chính của Tội ác và trừng phạt của Dostojevski, vừa mang trong mình hình hài của thiên thần, vừa là nô lệ trung thành cho những dục vọng, hành động thấp hèn, xấu xa của ác quỷ. Để xây dựng thành công nhân vật Trương, Nhất Linh đã vận dụng gần như tất cả những gì có thể của khóa hóa học tâm hồn để bóc tách những chiều kích sâu sắc nhất trong tâm lí nhân vật. Đó là linh cảm, bản năng, ý thức, tiềm thức, vô thức, quá khứ, hiện tại, tương lai Trong suốt tác phẩm, sự ám ảnh cái chết của nhân vật Trương trở đi, trở lại như một điệp khúc đầy khắc khoải, mê sảng, thậm chí như là một chứng bệnh thần kinh. Nhất Linh đã dùng cách thức mờ hóa dòng chảy của ý thức nhân vật Trương bằng hàng loạt những từ, cụm từ mang tính chất ước đoán nhiều hơn là khẳng định về mặt cảm giác: chàng nhận thấy, chàng nhớ lại, chàng nghĩ thêm, tự nhủ, chàng bất giác nghĩ rằng, theo đuổi suy nghĩ, Nhưng xét trên bình diện đại thể, công thức để Nhất Linh triển khai thành công sự vận động của cốt truyện là cách thức pha trộn tinh tế hai yếu tố: vô lí và hành động. Đây cũng chính là điều mà GS. Đỗ Đức Hiểu và Đặng Tiến từng nhận xét và phân tích một cách sâu sắc. Tổng kết lại sự thành công trong cách xây dựng hình tượng nhân vật Trương, GS. Đỗ Đức Hiểu khái quát: “Đúng là một hành trình hết sức phức tạp, với những vận động từ tinh vi, vừa dữ dội trong tâm hồn con người, chưa từng có trong tiểu thuyết Việt Nam trước đó. Ở phương Tây thế kỉ XX, có những nhà văn mơ ước một quyển tiểu thuyết “không có những ràng buộc với bên ngoài” và nghĩ đến “từ chương học của cái yên lặng” (yên lặng bên ngoài còn bên trong tâm hồn, những vận động tinh tế, khó nắm bắt và những điên khùng, những vụ nổ dữ dội). Nhân vật tự hình thành qua những biến động ấy. Người đọc khám phá nhân vật qua từng trang của truyện và cùng tham gia xây dựng nhân vật” [3, tr.562]. Lê Việt Đoàn 44 3. Kết luận Qua tìm hiểu vấn đề không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn có liên quan đến đề tài xê dịch, chúng tôi bước đầu khái quát nên các dạng thức không gian tiêu biểu là: không gian văn hóa, tâm linh; không gian mưa gió; không gian làng quê và không gian tâm lí. Trong các dạng thức trên, kiểu không gian tâm lí là dạng thức không gian nghệ thuật đặc trưng hơn cả. Đó là cách thức phân tích những chiều kích sâu thẳm, đối lập, thiên về cảm giác của nhân vật trên nền tảng hiện thực là cảnh vật, thiên nhiên – tức môi trường bao quanh nhân vật. Điều các nhà văn quan tâm hơn cả không phải là tái hiện lại hiện thực khách quan mà chính là sự biểu hiện của thực tại tinh thần – một thế giới đầy ám ảnh, bí hiểm. Trong đó, những ẩn ức tuổi thơ luôn là cánh cửa quan trọng nhất để các nhà văn giải mã tâm lí nhân vật một cách đầy biện chứng và logic theo quy luật khách quan của tâm lí. Đây cũng chính là khía cạnh thành công nhất, có nhiều đóng góp nhất của nhóm Tự lực văn đoàn vào quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc như nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã khẳng định. Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn sẽ có ý nghĩa thiết thực trong việc đối sánh với không gian nghệ thuật của các tác giả khác có liên quan đến mảng đề tài xê dịch trong văn học hiện đại Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, để tìm ra những nét đặc trưng nhất trong cách xây dựng cảm hứng xê dịch của từng tác giả, nhóm tác giả. Tất nhiên, đó là nhiệm vụ nghiên cứu của một công trình khoa học khác với một quy mô lớn và tinh thần khoa học nghiêm túc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phan Cự Đệ (sưu tầm và giới thiệu), 1990. Tự lực văn đoàn: Con người và văn chương. Nxb Văn học, Hà Nội. [2] Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức, 2000. Giáo trình Văn học Việt Nam (1900 – 1945). Nxb Giáo dục, Hà Nội. [3] Hà Minh Đức, 2007. Tự lực văn đoàn: Trào lưu – Tác giả. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [4] Nguyễn Hoành Khung (chủ biên) và nhiều tác giả khác, 1989. Văn xuôi lãng mạn Việt Nam: 1930 – 1945 (5 tập). Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [5] Nhất Linh, 1989. Bướm trắng. Nxb Tổng hợp An Giang. [6] Nhất Linh, 2007. Đoạn tuyệt – Đôi bạn. Nxb Văn học, Hà Nội. [7] Nhất Linh, 2000. Thế rồi một buổi chiều. Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. [8] Nhất Linh và Khái Hưng, 1989. Đời mưa gió. Nxb Tổng hợp Đồng Tháp. [9] Nhất Linh và Khái Hưng, 2015. Anh phải sống. Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. [10] Trần Hữu Tá, Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang (chủ biên), 2013. Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh. ABSTRACT The art space in novels and short stories related to the subject of moving group of the Literary Self-help group Le Viet Doan Ho Thi Ky High School, Ca Mau Long ago, the direction of studying poetry has gained a lot of great scientific achievements in literature study in our country. In that sense, space art is one of the important keys that contribute to the art world of literary works. Artistic space approach, we found in novels and short stories related to the subject of moving group of the Literary Self-help group has the typical art space styles: river space; cultural space, spiritual; windy weather; village space and the most characteristic are the psychological space of the character. Keywords: Moving subjects, Self-reliant group, art space, theology.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5348_5_le_viet_doan_6731_2122850.pdf
Tài liệu liên quan