Khóa luận Triển vọng xuất khẩu sang thị trường Anh quốc của các doanh nghiệp Việt Nam

Tài liệu Khóa luận Triển vọng xuất khẩu sang thị trường Anh quốc của các doanh nghiệp Việt Nam: Bộ Giáo dục và đào tạo Trường Đại học Ngoại thương Khoa Kinh tế Ngoại thương ====é&ẹ==== Khoá luận tốt nghiệp Đề tài Triển vọng xuất khẩu sang thị trường Anh Quốc của các doanh nghiệp Việt Nam Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Hồng Sinh viên thực hiện : Đào Thị Mai Hương Lớp : Trung 2 - K38F - ĐHNT Hà Nội năm 2003 Lời cám ơn -----=o0o=----- Em xin cám ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Ngoại thương - những người đã trực tiếp truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt bốn năm học qua. Em cũng xin cám ơn Khoa Kinh tế ngoại thương - trường Đại học Ngoại thương đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp. Và đặc biệt, em chân thành cám ơn thầy giáo - tiến sĩ Nguyễn Văn Hồng vì sự hướng dẫn tận tình của thầy từ lúc hình thành ý tưởng cho đến lúc em hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp này. Mục lục Lời nói đầu Chương 1: Thị trường Anh 1 I. Một số nét về đất nước Anh 1 1. Điều kiện tự nhiên - Lịch sử - Con người 1 1.1: Điều kiện tự nhiên 1 1....

doc97 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 965 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Triển vọng xuất khẩu sang thị trường Anh quốc của các doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ Giáo dục và đào tạo Trường Đại học Ngoại thương Khoa Kinh tế Ngoại thương ====é&ẹ==== Khoá luận tốt nghiệp Đề tài Triển vọng xuất khẩu sang thị trường Anh Quốc của các doanh nghiệp Việt Nam Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Hồng Sinh viên thực hiện : Đào Thị Mai Hương Lớp : Trung 2 - K38F - ĐHNT Hà Nội năm 2003 Lời cám ơn -----=o0o=----- Em xin cám ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Ngoại thương - những người đã trực tiếp truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt bốn năm học qua. Em cũng xin cám ơn Khoa Kinh tế ngoại thương - trường Đại học Ngoại thương đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp. Và đặc biệt, em chân thành cám ơn thầy giáo - tiến sĩ Nguyễn Văn Hồng vì sự hướng dẫn tận tình của thầy từ lúc hình thành ý tưởng cho đến lúc em hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp này. Mục lục Lời nói đầu Chương 1: Thị trường Anh 1 I. Một số nét về đất nước Anh 1 1. Điều kiện tự nhiên - Lịch sử - Con người 1 1.1: Điều kiện tự nhiên 1 1.2: Sơ lược lịch sử 1 1.3: Con người 2 2. Chính trị và xã hội 2 2.1: Chính trị 2 2.1.1: Bộ máy chính quyền 2 2.1.2: Hệ thống luật pháp 3 2.2. Xã hội 4 2.2.1. Gia đình 4 2.2.2. Tầng lớp xã hội 4 2.2.3: Giới tính 5 2.2.4. Chủng tộc 5 2.2.5. Tôn giáo 6 3. Văn hóa và lối sống 6 II. Khái quát kinh tế Vương quốc Anh 6 1. Khái quát chung về trình độ phát triển kinh tế 6 1.1: Sơ lược lịch sử phát triển kinh tế 6 1.2. Đánh giá tình hình kinh tế Anh trong những năm gần đây 8 2. Cơ cấu các ngành kinh tế chủ yếu 12 2.1: Ngành công nghiệp 13 2.2: Ngành nông nghiệp 14 2.3: Ngành dịch vụ 14 III. Đặc điểm thị trường Anh 15 1. Hệ thống phân phối 15 1.1. Hệ thống bán buôn 15 1.2. Hệ thống bán lẻ 17 2. Hệ thống dịch vụ 18 3. Đặc điểm thị trường Anh 20 3.1: Mức thu nhập và sức mua 20 3.2. Tập quán và thị hiều tiêu dùng 21 3.3. Những thay đổi về mặt xã hội có ảnh hưởng tới tiêu dùng cá nhân 22 3.3.1. Tuổi thọ 22 3.3.2. Cơ cấu gia đình 23 3.3.3: Trách nhiệm xã hội 23 4. Tập quán kinh doanh 24 4.1. Thiết lập quan hệ trực tiếp 24 4.2. Thông tin liên lạc 25 IV. Ngoại thương nước Anh 26 1. Chính sách phát triển thương mại quốc tế của Anh 26 2. Những đối tác thương mại chiến lược của Anh 27 3. Tình hình xuất nhập khẩu của Anh trong những năm gần đây 28 3.1. Tình hình xuất khẩu 28 3.1.1. Cơ cấu hàng xuất khẩu 29 3.1.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu 29 3.2. Tình hình nhập khẩu 29 3.2.1. Cơ cấu hàng nhập khẩu 30 3.2.2. Cơ cấu thị trường nhập khẩu 30 Chương 2: Triển vọng xuất khẩu vào thị trường Anh của các doanh nghiệp Việt Nam 31 I. Thị trường Anh đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam 31 1. Vai trò của thị trường Anh trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam 31 2. Những chế định và đòi hỏi của thị trường Anh Quốc 33 2.1: Tiêu chuẩn hóa 34 2.2. Sức khoẻ 35 2.2.1. Ký hiệu CE đối với sản phẩm công nghiệp 35 2.2.2. Hệ thống HACCP đối với thực phẩm chế biến 35 2.2.3. Tiêu chuẩn hàng nông sản - GAP 36 2.3. Môi trường 37 3. Chế độ ưu đãi phổ cập - GSP 37 II. Tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh của hàng hoá Việt Nam 39 1. Tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh của hàng hoá Việt Nam theo một số lý thuyết về lợi ích ngoại thương 39 1.1. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo 39 1.2. Lý thuyết về tỷ lệ yếu tố của Heckscher - Ohlin 41 2. Vài nét về cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Anh trong những năm gần đây 43 3. Tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh của hàng hoá Việt Nam 46 3.1. Nhóm hàng chế biến chính 47 3.1.1. Sản phẩm giày dép 47 3.1.2. Sản phẩm dệt may 49 3.1.3. Sản phẩm gỗ 52 3.1.4. Sản phẩm gốm sứ 53 3.2. Nhóm nông lâm thuỷ sản chính 54 III. Quan hệ thương mại song phương Việt Nam - Anh Quốc 59 1. Tiến trình hợp tác thương mại Việt Nam - Anh Quốc 59 2. Tình hình ngoại thương Việt Nam - Anh Quốc trong những năm gần đây 61 2.1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Anh 62 2.2. Tình hình xuất khẩu của Anh vào Việt Nam 64 2.2.1. Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng 64 2.2.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu 65 3. Những tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam - Anh Quốc 66 Chương 3: Giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Anh 71 I. Triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Anh Quốc 69 II. Dự báo xuất khẩu của Việt Nam sang Anh trong thời gian tới 71 III. Giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Anh 75 1. Giải pháp về phía nhà nước 76 1.1. Những chính sách chung 76 1.2. Về quan hệ song phương 76 1.3. Về hỗ trợ xúc tiến thương mại 77 1.4.Về hỗ trợ tài chính 79 2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp 80 2.1. Tìm hiểu thị trường 80 2.2. Tạo nguồn hàng 81 2.3. Lựa chọn kênh phân phối 81 2.4. Tiến hành giao dịch 83 3. Giải pháp đối với ngành hàng 84 Kết luận Phụ lục Tài liệu tham khảo Lời nói đầu Vương quốc Anh có diện tích 244.046 km2, dân số 60,2 triệu người (năm 2002), GDP năm 2002 là 1.491 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hàng năm là 24.500 USD/người/năm (năm 2002). Anh Quốc là một trong bảy quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới (nhóm G7) và là một trong 15 nước thành viên của Liên minh châu Âu (EU). Trong EU, Anh là một trong ba nền kinh tế chủ đạo, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của toàn khối. Vương quốc Anh lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ 1/9/1973. Tuy nhiên quan hệ thương mại giữa hai nước mới chỉ thực sự khởi sắc từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Anh Quốc tăng liên tục từ con số khiêm tốn là 13,5 triệu GBP năm 1991 đến 612,93 triệu GPB (năm 2002). Cán cân thương mại giữa hai nước thường nghiêng về phía Việt Nam. Từ năm 1991 Việt Nam liên tục xuất siêu sang Anh. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Anh đạt 532 triệu GBP. Anh có nhu cầu lớn về những mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế bao gồm nông lâm thuỷ sản, dệt may, da giày, các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp. Bên cạnh đó, Anh còn là một thành viên của EU - một đối tác thương mại đã dành cho Việt Nam nhiều ưu đãi. Bản thân mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Anh Quốc đã có những tiến triển rất tốt đẹp. Đây là những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Anh. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp Việt Nam chưa khai thác được hết những điều kiện này. Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ những nhu cầu trên của thị trường Anh. Cơ cấu hàng xuất khẩu nhìn chung ít có sự thay đổi trong nhiều năm. Chủ yếu chỉ tập trung vào hai mặt hàng chính là giày dép và may mặc. Bên cạnh đó, hình thức xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Anh chủ yếu là gia công và xuất khẩu gián tiếp nên giá trị thu về là không đáng kể. Có thể nói, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Anh sẽ còn tăng lên rất nhiều. Anh còn là một thị trường đầy tiềm năng mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa khai thác hết. Với lý do trên, đề tài "Triển vọng xuất khẩu vào thị trường Anh Quốc của các doanh nghiệp Việt Nam" sẽ nghiên cứu những nét cơ bản về nền kinh tế Anh, nghiên cứu thị trường Anh, thực trạng quan hệ thương mại giữa hai nước trong thời gian qua. Từ đó đánh giá những triển vọng xuất khẩu sang thị trường Anh và giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của bài viết này bao gồm ba chương như sau: *Chương 1: Thị trường Anh. *Chương 2: Triển vọng xuất khẩu sang thị trường Anh của các doanh nghiệp Việt Nam. *Chương 3: Giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Anh Bài viết được nghiên cứu dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, có kết hợp với phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê. Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu và tài liệu thu thập, bài viết này khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Người viết kính mong nhận được sự thông cảm và chỉ dẫn của các thầy cô giáo ở trường cũng như những ý kiến đóng góp của độc giả. Chương 1 Thị trường Anh I. Một số nét về đất nước Anh 1. Điều kiện tự nhiên - Lịch sử - Con người: 1.1. Điều kiện tự nhiên: Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ailen (gọi tắt là Vương quốc Anh hay nước Anh) là một quốc đảo thuộc quần đảo Britain và bán đảo Ailen. Vương quốc Anh nằm ở phía tây bắc Châu Âu, giáp với Cộng hoà Ailen, biển Bắc, biển Manche, eo Saint George và Đại Tây Dương. Với diện tích tự nhiên là 244.046 km2, phần lớn lãnh thổ Anh quốc có địa hình khá bằng phẳng. Chỉ có một số vùng, đặc biệt là Scotland và xứ Wales, có nhiều đồi núi. Nước Anh có đường bờ biển không đồng đều, tạo ra nhiều hải cảng có giá trị kinh tế. Nước Anh nằm trong vành đai ôn đới, được hưởng khí hậu hải dương, ấm do có dòng hải lưu nóng Gulf bao quanh toàn bộ quần đảo; nhiệt độ trung bình tháng giêng là 4,5 0C, tháng bảy là 18 0C; lượng mưa trung bình hàng năm là 600mm, đất đai rất màu mỡ, phì nhiêu. 1.2: Sơ lược lịch sử Vương quốc Anh Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ailen là một nhà nước nhất thể và tập trung. Anh là khu vực lãnh thổ lớn nhất của Vương quốc. Anh đã ra đời cách đây hơn 1000 năm, lâu hơn nhiều so với bất kỳ một quốc gia nào ở châu Âu. Đến thế kỷ thứ 16, xứ Wales sáp nhập vào hệ thống chính quyền và luật pháp của Anh. Vào thế kỷ thứ 17, khi vương quốc cổ Scotland và Anh hợp nhất dưới triều vua James đệ nhất thì Vương quốc Anh mới chính thức ra đời với tư cách là một thực thể chính trị. Năm 1801, sau hai thế kỷ nằm dưới sự thống trị của Anh, Ailen đã giải tán quốc hội của mình và chính thức trở thành một phần của Vương quốc Anh. Năm 1921, Ailen chỉ giành được độc lập ở miền Nam còn miền Bắc vẫn thuộc Vương quốc Anh. Vì vậy, Vương quốc Anh ngày nay bao gồm bốn khu vực lãnh thổ là Anh, Scotland, xứ Wales và Bắc Ailen. 1.3: Con người: Dân số Vương quốc Anh năm 2002 là 60,2 triệu người với mật độ dân số là 247 người/km2, là một trong những quốc gia có mật độ dân số cao ở châu Âu. Mức độ tăng dân số ở Anh ổn định ở khoảng 0,4%/ năm. Khoảng 85% dân số sống ở thành thị. Một số thành phố lớn của Anh có số dân đông như: thủ đô London có khoảng 7 triệu dân, tiếp đến là thành phố Birmingham với số dân khoảng 1,1 triệu người, thành phố Liverpool khoảng 600 ngàn người, Manchester khoảng 500 ngàn người. Tuy nhiên, những người dân thành phố ở Anh đều có xu hướng muốn sống ở những vùng ngoại ô. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính của người Anh, ngoài ra nhiều người Celtic ở xứ Wales, Bắc Ailen và Scotland còn nói tiếng Galic với nhau. Vương quốc Anh là một quốc gia đa dạng với nhiều dân tộc bao gồm dân nhập cư từ nhiều vùng trên thế giới. Vì vậy, ngoài tiếng Anh và tiếng Galic, nước Anh còn có nhiều ngôn ngữ của những dân tộc khác nhau. 2. Chính trị và xã hội 2.1: Chính trị: 2.1.1: Bộ máy chính quyền: Vương quốc Anh là một quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến. Đứng đầu Nhà nước là vua, nhưng vua chỉ có vai trò tượng trưng. Vua hiện nay của Vương quốc Anh là Nữ hoàng Elizabeth II, lên ngôi năm 1953. Quyền lập pháp thuộc về vua và Quốc hội gồm hai viện: Viện Nguyên lão (Thượng nghị viện) gồm các nhà quý tộc tham gia theo chế độ cha truyền con nối và theo chức tước do vua phong; Viện dân biểu (Hạ nghị viện) gồm 650 nghị sĩ do dân bầu, nhiệm kỳ 5 năm. Quyền hành pháp trên danh nghĩa thuộc về nhà vua nhưng thực tế nằm trong tay Chính phủ. Người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Thủ tướng là thủ lĩnh của đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện. Thủ tướng đương nhiệm của Vương quốc Anh là ông Tony Blair, thủ lĩnh của Công đảng, lên cầm quyền từ năm 1997. 2.1.2: Hệ thống luật pháp: a) Hệ thống luật pháp của Anh và xứ Wales: Hệ thống luật pháp của Anh và xứ Wales là một hệ thống riêng biệt với Scotland và Bắc Ailen. Hệ thống này bao gồm hai bộ phận cấu thành cơ bản là hệ thống luật của Quốc hội hay còn gọi là hệ thống luật thành văn (Statute Law) và hệ thống luật án lệ hay còn gọi là Thông luật (Common Law). Thông luật được hình thành từ thời Anglo - Saxon cách đây khoảng 1000 năm. Đây là hệ thống luật dựa trên những phán quyết và án lệ đã có trong quá khứ mà không có văn bản luật cụ thể. Còn hệ thống luật Quốc hội được ban hành thành văn bản từ thế kỷ thứ 13, theo đó những phán quyết phải được thi hành theo đúng như văn bản luật đã quy định. Ngày nay, ở Anh và xứ Wales, luật hình sự nằm trong hệ thống luật của Quốc hội trong khi phần lớn luật dân sự vẫn phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống luật án lệ. Luật Cộng đồng châu Âu cũng được áp dụng bởi Anh là một quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu và luật này được áp dụng ưu tiên so với luật quốc gia. b) Hệ thống luật của Scotland và Bắc Ailen: Hệ thống luật của Scotland chịu nhiều ảnh hưởng của luật La mã giống như nhiều hệ thống luật ở châu Âu lục địa. Hệ thống toà án bao gồm Toà Hình sự địa phương và Toà Đại hình. Toà Đại hình gồm Tòa sơ thẩm và Toà phúc thẩm. Những vụ án dân sự và hình sự nhỏ sẽ được xét xử ở Toà án hình sự địa phương, những vụ án nghiêm trọng hơn được xét xử ở Toà đại hình. 2.2: Xã hội: Từ những năm 50 của thế kỷ XX, cơ cấu dân cư của Anh bắt đầu có sự thay đổi nhanh chóng về độ tuổi và kết cấu, điều này có ảnh hưởng lớn tới y tế, giáo dục và việc làm của người dân nước này. Anh Quốc hiện là một trong những quốc gia có dân số già nhất trên thế giới với tuổi thọ bình quân là 77,7 năm (2000). Nước Anh cũng là quốc gia có thứ hạng cao trên thế giới về chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người). Hiện Anh đang xếp vị trí 18 trên tổng số 173 quốc gia về HDI. Ngày nay xã hội Anh có mức độ bình đẳng cao giữa nam và nữ. Anh đứng vị trí thứ 10 trên tổng số 146 quốc gia về chỉ số GDI (chỉ số phát triển giới). Bên cạnh đó xã hội Anh còn rất đa dạng với nhiều chủng tộc và tôn giáo khác nhau. 2.2.1: Gia đình: Khác với cơ cấu gia đình ở những nước thuộc vùng Địa Trung Hải, cơ cấu gia đình ở Anh thường là những hộ gia đình ít người còn gọi là cơ cấu gia đình hạt nhân bao gồm một cặp vợ chồng với một hoặc hai con. Có khoảng 40% dân số Anh sống trong các gia đình hạt nhân. Anh là quốc gia có tỷ lệ ly hôn cao nhất ở châu Âu. 38% các cuộc hôn nhân ở Anh kết thúc bằng thủ tục ly hôn. Hiện tượng này chủ yếu xảy ra ở những cặp vợ chồng có thu nhập thấp hoặc kết hôn khi còn quá trẻ. Đây là một vấn đề đáng quan tâm trong xã hội Anh hiện nay. 2.2.2: Tầng lớp xã hội: ở Anh, người dân có nhận thức rất sâu sắc về địa vị xã hội. Xã hội Anh được phân hoá làm ba tầng lớp chủ yếu là thượng lưu, trung lưu và tầng lớp lao động. Tầng lớp thượng lưu có hai đặc trưng nổi bật là của cải và quyền lực. Tầng lớp trung lưu bao gồm những người trí thức, lao động trí óc như: luật sư, bác sĩ, những công chức cao cấp cho tới nhân viên văn phòng. Số còn lại là tầng lớp lao động nghèo, làm việc vất vả và thu nhập thấp. 2.2.3: Giới tính: Mặc dù quan niệm của xã hội về bình đẳng giới đã có nhiều thay đổi sau những cuộc cách mạng đòi quyền bình đẳng của phụ nữ khởi đầu từ những năm 60, phụ nữ vẫn bị yếu thế hơn: họ giành được ít quyền lực và của cải hơn so với nam giới. Tuy nhiên, tình hình ngày càng được cải thiện theo chiều hướng tích cực trong xã hội Anh hiện đại. Năm 1971, có khoảng 52% phụ nữ trong độ tuổi từ 25 đến 44 tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Năm 1995, con số này đã tăng lên 75%. Địa vị xã hội của phụ nữ so với nam giới cũng được cải thiện, họ ngày càng nắm giữ những chức vụ quan trong trong các cơ quan nhà nước. Năm 1979, chỉ có 19 nữ nghị sĩ trong Quốc hội, đến năm 1997 đã tăng lên 120. Tỷ lệ phụ nữ giữ các chức vụ cao cấp trong các cơ quan của chính phủ tăng từ 5% năm 1984 lên 13% năm 2000. Hiện nay Anh đứng thứ 10 trong 146 quốc gia về chỉ số phát triển giới. 2.2.4: Chủng tộc: Vương quốc Anh là một quốc gia đa dạng với nhiều dân tộc khác nhau. Ngoài người Anh chiếm đa số còn có nhiều nhóm dân tộc thiểu số. Người Anh hầu hết là người Anglo – Saxon và một số nhỏ những người di cư sang Anh từ lục địa châu Âu trong nửa đầu thế kỷ XX. Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Anh rất đa dạng, chiếm khoảng 7% tổng số dân, bao gồm người ấn Độ, người Pakistan, Bangladesh, dân nhập cư từ các nước vùng Caribe, châu Phi, Trung Quốc....Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Anh thường sống tập trung lại ở những khu vực khác nhau trên khắp đất nước: người Caribe sống tập trung nhiều ở London, ngưòi gốc ấn tập trung nhiều ở Leicester trong khi người gốc Pakistan lại tập trung ở miền trung đất nước...Tuy nhiên, thủ đô London vẫn là thành phố tập trung nhiều nhất dân tộc thiểu số với tỷ lệ 20% tổng số người thuộc cộng đồng dân tộc thiểu số vào năm 1997 và sẽ tăng lên 28% vào năm 2011. 2.2.5: Tôn giáo: Hiện nay Anh có mặt hầu hết tất cả các cộng đồng tôn giáo.Trong đó Thiên chúa giáo chiếm phần đông, tới 50% dân số Anh. Tiếp đến là cộng đồng Hồi giáo với khoảng 1,5 triệu người, phần lớn là người gốc Pakistan và Bangladesh, tập trung nhiều ở London, Liverpool, Manchester, Leicester, Bradford. Các cộng đồng nhỏ hơn bao gồm khoảng 450.000 tín đồ đạo Sikhs (một nhánh của ấn Độ giáo) chủ yếu là người gốc ấn, tập trung ở London, Manchester và Birmingham; 320.000 tín đồ Hindu sống chủ yếu ở Leicester, London, Manchester. Ngoài ra còn có đạo Phật, đạo Jana, đạo Baha.... 3. Văn hoá và lối sống: Anh có một nền văn hoá hoàn toàn khác với các nước châu Âu lục địa. Bất cứ ai cũng có thể nhận ra người Anh chính gốc qua dáng vẻ lãnh đạm và ý thức đẳng cấp sâu sắc. Một nhà xã hội học ở Anh đã từng nói "Sự kiêu ngạo khắc sâu trong từng giọng nói của từng đứa trẻ Anh". Cách ăn mặc của người Anh cũng rất giản dị. Họ không quá cầu kỳ về thời trang, họ mặc những gì họ muốn. Ví dụ như tầng lớp thượng lưu và tầng lớp trung lưu có xu hướng ăn mặc theo phong thái cổ điển. Anh là một trong những nước có di sản văn hoá và nghệ thuật lớn nhất trên thế giới. Nguồn gốc văn hoá Anh có thể tìm thấy từ thời trung cổ. Anh còn là nước tập trung nhiều di sản văn hoá và tác phẩm nghệ thuật của nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, có thể nói Anh là một quốc gia có nền văn hoá rất đa dạng và phong phú. II. Khái quát kinh tế vương quốc Anh 1.Khái quát chung về trình độ phát triển kinh tế: 1.1: Sơ lược lịch sử phát triển kinh tế: Nước Anh chính là cái nôi của chủ nghĩa tư bản. Vào thế kỷ XIX, nhờ vào cuộc Cách mạng công nghiệp mà Anh trở thành "công xưởng của thế giới". Đến năm 1848, sản lượng công nghiệp của cả nước bằng 45% tổng giá trị sản lượng công nghiệp của toàn thế giới. Nước Anh còn là "Người thương nghiệp quốc tế". Năm 1870, mức chu chuyển hàng hoá của toàn thế giới tư bản là 37,5 tỷ Mác thì riêng nước Anh và thuộc địa của Anh chiếm 14 tỷ Mác. Với những khoản dự trữ khổng lồ, Anh còn là “chủ nợ, trung tâm cho vay của thế giới tư bản”. Cho nên thế kỷ XIX được xem là thế kỷ của nước Anh. Đến cuối thế kỷ XIX, xã hội loài người bước vào thời đại điện khí hoá, nước Mỹ và nhiều nước khác đã bứt lên và nước Anh không còn giữ được vị trí trước kia của mình. Vào thế kỷ XX, nền kinh tế Anh trải qua nhiều biến động. Đầu tiên là những tổn hại nặng nề do hai cuộc chiến tranh thế giới và những cuộc khủng hoảng kinh tế với quy mô toàn cầu vào các năm 1913-1914, 1929-1933...dẫn đến ưu thế kinh tế của Anh bị suy giảm trong những thập niên đầu sau chiến tranh và mức phát triển kinh tế thua hẳn Đức, Mỹ và Pháp. Vào những năm 70, 80, trước tình trạng lạm phát và thất nghiệp gia tăng, nước Anh đã đưa ra chính sách tự do cực đoan trong cạnh tranh kinh tế để chống lạm phát và thất nghiệp. Nhưng trên thực tế, việc đầu tư ra nước ngoài của người Anh tăng vọt đã làm cho chính sách trên không phát huy hiệu quả, ngược lại làm cho tỷ lệ lạm phát và tình trạng thất nghiệp trở nên trầm trọng hơn. Kết quả là Anh vẫn không đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế như phần lớn các nước khác của Cộng đồng châu Âu. Sau đợt suy thoái cuối những năm 70 và đầu 80, nền kinh tế Anh bắt đầu bước sang giai đoạn phục hồi khá chậm chạp. Tốc độ tăng trưởng bình quân từ 1981 đến 1989 đạt xấp xỉ 3%. Sang đầu thập kỷ 90, cũng như nhiều nước khác ở châu Âu, nước Anh lại lâm vào đợt suy thoái mới. Mức tăng trưởng kinh tế năm 1990 chỉ đạt 0,6%, hai năm 1991-1992 giảm xuống còn 0,3%. Bắt đầu năm 1993, kinh tế Anh có dấu hiệu phục hồi với tỷ lệ tăng trưởng 1,9%, năm 1994 đạt 3,3%. Sau khi phục hồi, nền kinh tế Anh vẫn phát triển chậm chạp. Tốc độ tăng trưởng chậm cùng với những biến động phức tạp trong quá trình phát triển kinh tế đã đặt nước Anh trước nhiều vấn đề nan giải như: sức mua trong nước giảm, thị trường có xu hướng thu hẹp, sức đầu tư trong nước yếu, đầu tư cố định giảm, khả năng cạnh tranh kinh tế yếu, bội chi ngân sách lớn, đồng Bảng Anh trượt giá...Tuy nhiên, đến năm 1997, chính phủ Đảng Lao động Anh lên cầm quyền và chỉ một năm ở ghế thủ tướng, ông Tony Blair đã đưa nền kinh tế Anh ngẩng đầu dậy: đồng Bảng Anh tăng giá và tỷ lệ thất nghiệp giảm đi rõ rệt. Trong khi đó các nước khác trong Liên minh châu Âu như Pháp, Đức đang phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp ngày càng tăng. Trải qua một thế kỷ với nhiều thăng trầm, nền kinh tế Anh đã có nhiều lúc lâm vào các cuộc suy thoái trầm trọng, tuy nhiên cho đến nay nó đã đạt được sự phát triển tốt và được đánh giá là thời kỳ phát triển nhất trong thế kỷ XX, tạo đà cho nền kinh tế Anh bước sang thế kỷ XXI 1.2: Đánh giá tình hình kinh tế Anh trong những năm gần đây: Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều biến động dẫn tới những biến động sâu sắc trong nền kinh tế toàn cầu. Nếu như trong năm 2000, nền kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh và đạt mức tăng trưởng cao nhất trong hơn một thập kỷ thì đến năm 2001, kinh tế thế giới rơi vào đợt suy giảm mạnh sau vụ tấn công khủng bố nước Mỹ vào ngày 11/9 và cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ ở Apganistan. Tiếp sau đó là hai năm kinh tế phục hồi một cách chậm chạp. Những biến động đó trong nền kinh tế thế giới đã có ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc EU. Là một quốc gia phát triển trong EU, tuy có chịu ảnh hưởng ít nhiều, nhưng nền kinh tế Anh quốc vẫn tỏ ra khá vững vàng trước những biến động khôn lường từ bên ngoài. Ta có thể thấy rõ điều này qua một số chỉ tiêu kinh tế của Anh trong những năm qua. Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế của Anh quốc giai đoạn 1999-2003 Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 2002 2003* GDP tỷ USD 1387,3 1430,3 1462,48 1491 1527 Tăng trưởng GDP % 1,1 3,1 2,25 2,0 2,4 GDPBQ đầu người USD 24228,5 24379,6 24483,5 24500 24885,8 *Dự báo Nguồn: Vụ Âu Mỹ - Bộ Thương mại Năm 2001- năm sụt giảm mạnh nhất của nền kinh tế thế giới - kinh tế Anh có mức độ tăng trưởng là 2,25% giảm 0,85% so với năm 2000 nhưng vẫn cao hơn mức chung của toàn thế giới (1,3%) và của EU (1,8%). Đây cũng là năm mà lần đầu tiên kể từ năm 1986 Anh là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong nhóm G7 và trong nhóm các nước lớn ở khu vực EU. Sang năm 2002, mức tăng trưởng của Anh có giảm nhẹ nhưng vẫn cao hơn mức tăng trưởng chung của toàn EU. So sánh mức tăng trưởng GDP của Anh với một số nước lớn trong EU và với mức chung của toàn EU theo biểu đồ sau, ta thấy tốc độ tăng trưởng của Anh tương đối ổn định và thường ở mức cao hơn. Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2002 Trong khi tăng trưởng kinh tế chậm gây khó khăn cho thị trường việc làm ở EU thì thị trường lao động ở Anh lại khá ổn định với tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn so với mức trung bình của EU. Ta có thể thấy rõ điều này ở bảng 2. Bảng 2: Tỷ lệ thất nghiệp của Anh và EU Đơn vị: % Tỷ lệ thất nghiệp 1999 2000 2001 2002 Anh 5 3.6 5.8 5.1 EU 9.6 8.8 9.2 7.7 Nguồn: Vụ Âu Mỹ- Bộ Thương mại Tỷ lệ lạm phát ở Anh cũng tương đối ổn định và ở mức vừa phải, trung bình trên dưới 3% kể từ năm 1995 đến nay (bảng 3). Mức độ lạm phát luôn nằm trong tầm kiểm soát trong nhiều năm như vậy là do chính phủ Anh đã có những chính sách lãi suất hợp lý cùng với sự ổn định của đồng Bảng Anh trên thị trường tiền tệ quốc tế. Thêm vào đó, Anh chưa gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu (EMU) nên ít phải chịu những ảnh hưởng từ khu vực này. Bảng 3: Tỷ lệ lạm phát của Anh giai đoạn 1995-2002 Đơn vị: % Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Lạm phát 3,2 2,6 3,1 3 2,6 1,4 2,5 2,3 Nguồn: Vụ Âu Mỹ - Bộ Thương mại Anh còn là một thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài vì Anh có nhiều lợi thế như: là trung tâm tài chính tiền tệ của thế giới, cơ sở hạ tầng phát triển, thuế thấp hơn so với các nước EU khác, đội ngũ lao động lành nghề với giá nhân công tương đối thấp so với các nước phát triển. Hiện nay, Anh là nước thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) nhiều nhất trong khu vực EU. Năm 2001, Anh chiếm 30% FDI vào EU và chiếm 9,3% FDI của toàn thế giới. Theo dự báo, trong 10 địa chỉ thu hút vốn FDI hàng đầu trên thế giới giai đoạn 2001-2005, Anh đứng ở vị trí thứ 2 sau Mỹ với lượng FDI tiếp nhận trung bình mỗi năm ước khoảng 82,5 tỷ USD. Anh cũng là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất khối EU. Thời kỳ 1995-2000, trung bình mỗi năm vốn đầu tư của Anh ra nước ngoài lên tới 119,4 tỷ USD, riêng năm 2000 vốn đầu tư này lên tới gần 250 tỷ USD. Trong lĩnh vực tài chính, Anh cũng mạnh hơn nhiều so với nhiều nước châu Âu lục địa. London vẫn là một trung tâm dịch vụ tài chính, bảo hiểm quốc tế lâu đời, có tầm cỡ hơn hẳn Pari và Frankfurt, chỉ đứng sau Mỹ. Theo thống kê gần đây, London đang có một đội ngũ tài chính - tiền tệ lên đến hơn 60 vạn người, chiếm tỷ lệ rất lớn trong nền kinh tế Anh và có tác dụng quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm trong nước. Về GDP bình quân đầu người hàng năm, Anh đứng ở vị trí khá cao. Tính theo ngang giá sức mua, Anh đứng vào hàng thứ năm trong nhóm G7 sau Mỹ, Canada, Nhật, Đức, đứng thứ 17 trên 29 thành viên của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), và đứng thứ 20 tên toàn thế giới. Tính GDP bình quân đầu người theo giá thực tế thì Anh đứng thứ 12 trên toàn thế giới năm 2002. Trong năm 2002, Anh đã vượt Pháp vươn lên đứng thứ hai trong EU về tổng sản phẩm trong nước. Nguồn: Báo cáo phát triển thế giới 2002 của World Bank Qua những chỉ tiêu kinh tế trên, ta có thể thấy nền kinh tế Anh phát triển một cách khá vững chắc và Anh vẫn là một nền kinh tế chủ đạo, đóng vai trò quyết định trong Liên minh châu Âu - một trong ba cực kinh tế phát triển của thế giới. 2. Cơ cấu các ngành kinh tế chủ yếu: Nền kinh tế Anh là sự kết hợp rất nhuần nhuyễn giữa nền công nghiệp, dịch vụ phát triển cao và nền nông nghiệp thâm canh. Cơ cấu kinh tế của Anh do công nghiệp và dịch vụ quyết định. Từ năm 1950 đến nay, cơ cấu các ngành kinh tế chủ yếu của nước Anh đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu trong những năm 1950 tỷ trọng ngành dịch vụ chỉ chiếm 50% GDP thì trong những năm gần đây, lĩnh vực dịch vụ có tăng trưởng cao nhất và chiếm tới khoảng 2/3 GDP, trong khi nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ trong GDP còn tỷ trọng công nghiệp thì ngày càng giảm. Bảng 4: Tỷ trọng của 3 khu vực kinh tế trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) tính theo giá thực tế của nước Anh giai đoạn 1985 - 2002 Đơn vị:% Năm 1985 1991 1995 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nông nghiệp 1,7 1,6 1,8 1,5 1,3 1,2 1,0 1,0 1,0 Công nghiệp 35,6 29,6 30,4 30,7 29,3 28,6 28,8 25,6 25 Dịch vụ 62,7 68,8 67,7 67,8 69,4 70,2 70,2 73,4 74 Nguồn: Tổng cục thống kê 2.1: Ngành công nghiệp: Anh quốc là một nước có nền công nghiệp phát triển lâu đời. Sức mạnh của nền công nghiệp Anh được thiết lập từ những ngành công nghiệp truyền thống xuất hiện ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng công nghiệp vào thế kỷ XIX như ngành dệt, khai thác than, luyện thép, chế tạo máy, đóng tàu, chế biến thực phẩm. Ngày nay, với trình độ công nghệ cao, nước Anh mở rộng phát triển nhiều ngành công nghiệp hiện đại như phương tiện vận tải, sản xuất máy bay, năng lượng hạt nhân, thiết bị viễn thông, điện tử, chế tạo các dụng cụ dùng trong các ngành khoa học khác nhau, hoá chất, khai thác dầu khí… Hiện nay công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng nhỏ trong nền kinh tế Anh và thu hút khoảng 26,2% lực lượng lao động. Nhiều ngành công nghiệp ở Anh hiện nay đang trong tình trạng phát triển chậm chạp, sản lượng giảm. Trong năm 2002, công nghiệp chế tạo đã giảm 122.000 việc làm. Công nghiệp nhẹ cũng đang trong tình trạng trì trệ và ít có dấu hiệu phục hồi nhanh trong thời gian tới do đồng Bảng Anh quá mạnh trong những năm qua dẫn tới nhập khẩu tăng vọt. Bù lại sự suy giảm của các ngành công nghiệp này là thành công của ngành điện tử và máy tính. Tốc độ tăng trưởng của ngành này trong những năm gần đây tăng nhanh do nhu cầu ngày càng mở rộng về công nghệ thông tin và dự báo trong thời gian tới ngành này sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Ngành công nghiệp khai thác dầu khí cũng phát triển trên cơ sở tài nguyên sẵn có ở khu vực biển Bắc và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Anh. 2.2: Ngành nông nghiệp Nền nông nghiệp nước Anh chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong GDP, trong những năm gần đây thường chiếm ở mức 1% GDP. Ngành nông nghiệp của nước Anh chỉ thu hút khoảng 2,2% lực lượng lao động nhưng cung cấp được khoảng 2/3 nhu cầu về lương thực thực phẩm cho người dân. Sản phẩm trồng trọt chủ yếu là ngũ cốc như lúa mì, lúa mạch, yến mạch; rau các loại và củ cải đường. Ngành chăn nuôi gồm nuôi gia cầm, gia súc, đặc biệt là chăn nuôi cừu. Trong những năm gần đây sản lượng lương thực đạt 18 - 20 triệu tấn/năm. Sản lượng gỗ khai thác là 7 triệu m3/năm, sản lượng cá đánh bắt được là 920.000 tấn/năm. Do tác động đồng bộ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nên năng suất cây trồng, vật nuôi của Anh vào loại cao nhất thế giới. Về trồng trọt, mặc dù diện tích các cây trồng hiện nay đều giảm so với những năm 70 nhưng do tăng năng suất nên sản lượng trồng trọt đều tăng lên. Ví dụ như năm 1970, sản lượng ngũ cốc là 18.840 nghìn tấn thì năm 2001 tăng lên 22.160 tấn với năng suất là 7.165 kg/ha (đứng thứ 3 thế giới). Về chăn nuôi, từ thế kỷ 18, nước Anh đã đạt trình độ cao so với các nước khác ở châu Âu. Nông dân Anh đã chọn được nhiều giống bò, ngựa, lợn, cừu tốt làm cho chất lượng gia súc ngày càng được nâng cao 2.3: Ngành dịch vụ: Từ lâu Anh quốc đã nổi tiếng về các lĩnh vực dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân như dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ viễn thông. Ngành dịch vụ là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP của nước Anh và có xu hướng ngày càng tăng. Tăng trưởng GDP của Anh quốc trong giai đoạn gần đây được sự hỗ trợ bởi tăng trưởng mạnh trong khu vực dịch vụ. Số người làm trong lĩnh vực dịch vụ tăng lên 13% và chiếm 75% số người trong độ tuổi lao động (17,6 triệu người) vào năm 2002 so với 55% (13 triệu người) so với 10 năm trước đó. Trong khoảng 1985 đến 2002, tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP tăng từ 62,7% lên 74%. Vốn đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ tăng cho thấy có sự phân phối lại tổng vốn đầu tư trong nền kinh tế quốc dân theo xu hướng có lợi cho ngành dịch vụ. Rõ ràng là Anh đang đẩy mạnh quá trình phân phối lại lao động xã hội, giảm tỷ trọng ngành sản xuất vật chất, nâng tỷ trọng của ngành dịch vụ và thay đổi vai trò của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế. III. Đặc điểm thị trường Anh 1. Hệ thống phân phối: Cũng như nhiều quốc gia khác, hệ thống phân phối của Anh quốc bao gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ, tham gia vào hệ thống là các công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập. 1.1: Hệ thống bán buôn: Trong lĩnh vực thương nghiệp bán buôn năm 2002 có khoảng 106 hãng với lực lượng lao động khoảng 750.000 người và doanh thu là 351.558 triệu Bảng Anh. Sau đây là số liệu về doanh thu bán buôn của một số ngành ở Anh năm 2002 (bảng 5) Bảng 5: Tình hình bán buôn tại Anh năm 2002 Chỉ tiêu Số doanh nghiệp Doanh thu (triệu GBP) Nguyên vật liệu nông nghiệp và động vật sống 2.659 9.215 Thực phẩm - Đồ uống và thuốc lá 13.914 60.493 Đồ gia dụng 26.124 54.915 Sản phẩm phi nông nghiệp 20.813 140.153 Thiết bị máy móc 13.681 50.795 Những sản phẩm khác 29.589 35.987 Tổng 106.780 351.558 Nguồn: Britain 2002 - Official Yearbook Ta có thể thấy số doanh nghiệp bán buôn trong lĩnh vực đồ gia dụng là lớn nhất, tiếp đó là trong lĩnh vực sản phẩm phi nông nghiệp và thiết bị máy móc. Đây đều là những sản phẩm đòi hỏi phải có một hệ thống phân phối đầy đủ. Trong những năm qua số lượng doanh nghiệp bán buôn trên thị trường Anh giảm. Xu hướng này còn tiếp tục do một loạt các nguyên nhân. Thứ nhất, các nhà bán lẻ lớn, đặc biệt trong ngành lương thực đã bỏ qua khâu bán buôn. Họ đã tạo ra cơ sở bán buôn riêng và ký hợp đồng trực tiếp với nhà sản xuất. Thứ hai, khách hàng chính của các nhà bán buôn thường là các thương nhân nhỏ và trung bình đóng vai trò là các hiệp hội thu mua "tự nguyện" hoặc "hình thức" để nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện nay ở Anh có hơn 200 hiệp hội thu mua "tự nguyện" và số lượng hiệp hội này ngày càng giảm. Thứ ba là xu hướng sáp nhập và tổ chức lại của các công ty xuyên quốc gia với hệ thống phân phối riêng của mình. Với tư cách là một chủ thể quan trọng trong hệ thống thương mại, số lượng các công ty xuyên quốc gia tham gia vào mạng lưới bán buôn trên thị trường Anh ngày càng lớn. Những công ty này tổ chức mạng lưới tiêu thụ của mình rất chặt chẽ. Họ chú trọng từ khâu đầu tư sản xuất hoặc mua hàng đến khâu phân phối hàng cho mạng lưới bán lẻ. Họ có quan hệ rất chặt chẽ với các nhà xuất khẩu nước ngoài, các nhà sản xuất ở trong nước để bảo đảm nguồn cung cấp hàng ổn định và giữ uy tín với mạng lưới bán lẻ. Các công ty xuyên quốc gia tổ chức mạng lưới phân phối của mình theo hai hình thức: Kênh phân phối theo tập đoàn và kênh phân phối không theo tập đoàn. * Kênh phân phối theo tập đoàn: Là kênh phân phối mà các nhà sản xuất và các nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hoá cho hệ thống các cửa hàng và siêu thị của tập đoàn mình mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác Tiêu biểu cho hình thức phân phối này là các tập đoàn thương mại và siêu thị. Anh quốc là nước có rất nhiều tập đoàn thương mại và siêu thị hàng đầu thế giới. Các tập đoàn này đều có các hệ thống bán lẻ của mình trên khắp nước Anh và thế giới. Trong số đó có thể kể đến các tập đoàn kinh doanh siêu thị khổng lồ của Anh như Sainbury với hàng loạt các siêu thị ở Anh và Mỹ, có ngân hàng riêng là Sainbury's Bank, 90% doanh thu đạt được chủ yếu ở trong nước; tập đoàn Tesco với gần 600 cửa hàng bán lẻ ở Anh quốc, 76 ở Cộng hoà Ailen, 41 ở Hungary, 32 ở Ba Lan, 6 ở Cộng hoà Séc, 7 ở Xlovakia; Tập đoàn kinh doanh cửa hàng bách hoá Mark & Spencer với gần 690 vị trí bán hàng ở khắp châu Âu, Hồng Kông, Canada, Mỹ, Nhật, 85% doanh thu đạt được từ trong nước. Ngược lại với kênh phân phối theo tập đoàn là kênh phân phối không theo tập đoàn. * Kênh phân phối không theo tập đoàn: Là kênh phân phối mà các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của tập đoàn này ngoài việc cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình còn cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác và các công ty bán lẻ độc lập. Các công ty xuyên quốc gia tham gia ngày càng nhiều vào mạng lưới bán buôn. Đây là xu hướng phát triển chủ yếu của hệ thống phân phối trên thị trường Anh hiện nay. 1.2: Hệ thống bán lẻ: Trong thương nghiệp bán lẻ năm 2002 có trên 300.000 công ty (năm 1994 có 206.964 công ty, năm 1999 có 290.000 công ty) với lực lượng lao động là 2,4 triệu người. Doanh số bán lẻ trong những năm qua tăng nhanh hơn do năng suất lao động trong ngành tăng khi cơ giới hoá và tự động hóa các giao dịch thương mại, ứng dụng thương mại điện tử, thành lập các cửa hàng, siêu thị lớn; mở rộng mạng lưới cửa hàng, các phương thức phục vụ khách hàng đa dạng. Trong những năm qua, tốc độ tăng sản lượng sản xuất thường tăng chậm hơn so với tốc độ tăng khối lượng hàng bán lẻ. Điều này cho thấy nhu cầu nhập khẩu hàng hoá cung cấp cho hệ thống bán lẻ tăng nhanh. Trong đó phải kể đến mạng lưới nhập khẩu và phân phối bán lẻ rộng lớn của các tập đoàn siêu thị khổng lồ. Mạng lưới phân phối bán buôn và bán lẻ ở Anh phát triển theo xu hướng ngày càng đa dạng, chặt chẽ và chuyên nghiệp hơn với sự tham gia ngày càng nhiều của các tập đoàn xuyên quốc gia. Đây là những nhân tố thúc đẩy sự lưu thông của hệ thống lưu chuyển hàng hoá trên thị trường Anh. 2. Hệ thống dịch vụ: Hệ thống dịch vụ phục vụ thương mại của Anh bao gồm: dịch vụ viễn thông, dịch vụ thương mại, dịch vụ tài chính (ngân hàng, bảo hiểm,...) và vận tải. Theo thống kê trong năm 2002 thì trong năm ngành phát triển nhanh nhất ở Anh hiện nay thì có mặt cả bốn ngành dịch vụ trên. Trong đó, ngành dịch vụ viễn thông là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất, lượng người sử dụng Internet và thị trường truyền số liệu tăng với tốc độ nhanh chóng. Hệ thống dịch vụ thương mại ngành dịch vụ lớn nhất. Đây là ngành rất quan trọng trong nền kinh tế bởi chức năng của ngành này là giúp cho các sản phẩm công nghiệp và hàng hoá đến với người tiêu dùng cuối cùng, kèm theo đó là các hoạt động như hướng dẫn tiêu dùng, chăm sóc khách hàng,...Dịch vụ thương mại còn bao gồm cả các ngành như du lịch, khách sạn...Anh là thị trường tràn ngập các tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, vì vậy đòi hỏi phải có các hình thức và biện pháp dịch vụ thương mại mới. Hiện nay Anh có khoảng 18% dân số trong độ tuổi lao động làm việc trong ngành thương mại, thu hút hơn 10% vốn đầu tư cho nền kinh tế và chiếm tỷ trọng 10 đến 16% GDP. Tài chính là hệ thống huyết mạch của bất cứ nền kinh tế nào. Nó xác định tình hình và vị trí của mỗi nước trong nền kinh tế thế giới. Anh quốc có hệ thống dịch vụ tài chính đặc biệt phát triển. Nguồn cung cấp tài chính là các ngân hàng, hiệp hội xây dựng, các công ty bảo hiểm và thương mại bách hoá tổng hợp, quỹ tiết kiệm, công ty tín dụng, công ty cho thuê tài chính và các dạng môi giới trung gian. Tăng trưởng của lĩnh vực tài chính trong mấy thập kỷ qua song hành với những thay đổi về cơ cấu, trong đó có sự huỷ bỏ về chế độ kiểm soát tiền tệ vào năm 1979 theo đó các hiệp hội xây dựng, các hiệp hội tín dụng tương hỗ được đa dạng hoá những hoạt động của mình trong lĩnh vực tài chính. Trong những năm qua, những khác biệt giữa các thể chế tài chính đã trở nên mờ nhạt. Số hãng phi tài chính tham gia cung ứng dịch vụ tài chính đã tăng lên (như các công ty công nghiệp, các cửa hàng lớn, trung tâm giải trí, công ty du lịch). Ngành vận tải của Anh cũng rất phát triển và có đóng góp đáng kể giúp cho thương mại trong và ngoài nước phát triển mạnh mẽ. Tuy là một quốc đảo, nằm tách biệt với lục địa châu Âu nhưng Anh có một mạng lưới giao thông thuận tiện và dễ tiếp cận. Giao thông đường biển nước Anh rất phát triển với hàng loạt cảng biển hiện đại và đội tàu buôn lớn mạnh. Theo ước tính khoảng 95% khối lượng hàng hoá giao dịch buôn bán ngoại thương của Anh được chuyên chở bằng đường biển. Hàng hoá sau khi cập cảng có thể được chuyển tải bằng các phương tiện giao thông khác một cách nhanh chóng. Hệ thống giao thông chất lượng cao được kết nối bởi đường không, đường sắt và đường bộ. Các hãng hàng không ở Anh hoàn toàn do tư nhân sở hữu. Sân bay ở thủ đô London là một trong những sân bay chính phục vụ việc đưa hàng vào Liên minh châu Âu. Hàng hoá chuyên chở bằng đường hàng không thường có giá trị lớn, hiện nay tổng giá trị thường vào khoảng 75.300 triệu Bảng Anh. Mạng lưới giao thông đường bộ cũng rất thuận tiện cho việc chuyên chở hàng hoá không chỉ trong nước Anh mà còn với cả châu Âu lục địa. Đường hầm English Channel qua eo biển Manche nối liền Anh với Pháp đã giúp cho thời gian vận chuyển giữa quốc đảo này với lục địa châu Âu được rút ngắn. Khối lượng hàng hoá chuyên chở bằng đường bộ cũng tăng mạnh: trong khoảng từ 1990 - 2000 tăng tới 45%. Hệ thống dịch vụ phát triển mạnh mẽ, đồng bộ như trên là một nhân tố cơ bản giúp cho thị trường Anh trở thành một trong những thị trường năng động nhất thế giới. 3. Đặc điểm thị trường Anh: Trong số các nước thành viên của Liên minh châu Âu, Anh luôn là một thị trường đầy tiềm năng đối với các nhà xuất khẩu nước ngoài. Với số dân thuộc loại đông nhất EU, Anh là một thị trường có lượng cầu lớn và đa dạng. 3.1: Mức thu nhập và sức mua: Là một quốc gia phát triển, mức thu nhập bình quân đầu người của Anh thuộc vào hàng cao nhất thế giới. Năm 2002, Anh đứng thứ 12 trên thế giới về GDP bình quân đầu người theo giá thực tế. Thu nhập bình quân đầu người của Anh tăng đều qua các năm. Điều này thể hiện rõ qua bảng 6. Bảng 6: Thu nhập bình quân đầu người của Anh giai đoạn 1999 – 2003 Đơn vị: USD Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003* GDPBQ đầu người 23.828 24.179 24.283 24.500 24.756 * Dự báo Nguồn: Vụ Âu Mỹ – Bộ Thương mại Anh là một thị trường tiêu thụ lớn. Tiêu dùng cá nhân luôn chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng sản phẩm trong nước và là nhân tố chính hỗ trợ cho tăng trưởng GDP của Anh trong những năm gần đây. Trong Liên minh châu Âu, Anh là nước có tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng và chi tiêu hộ gia đình lớn nhất EU. (xem bảng 7 và so sánh với EU ở phụ lục 1) Bảng 7: Tỷ lệ tiêu dùng cá nhân trong GDP của Anh giai đoạn 1990-2002 Đơn vị: % 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 62.5 63.3 64.6 64.5 64.9 65.6 65.8 65.9 66 Nguồn: Tổng cục thống kê Tỷ lệ tiêu dùng lớn là đặc trưng của thị trường Anh Quốc. Tuy nhiên, thị trường Anh còn có một đặc điểm nổi bật là mức chênh lệch trong thu nhập ngày càng có xu hướng tăng cao so với các quốc gia công nghiệp phát triển khác. Theo báo cáo của Uỷ ban Quỹ tiền tệ Anh, vào đầu thập niên 70 có khoảng 6% dân Anh có mức thu nhập chỉ bằng một nửa thu nhập bình quân của cả nước. Tỷ lệ này trong những năm đầu thế kỷ XXI là 20% cao gấp hai lần các nước công nghiệp phát triển. Hiện nay, Anh là quốc gia có hệ số Gini (hệ số đo lượng mức độ bất bình đẳng trong thu nhập) cao nhất EU (Xem bảng phụ lục 1). Nhóm dân cư có thu nhập trung bình và thấp thường rất nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế. Vì vậy sức mua của nhóm này thường không ổn định. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho sức mua ở thị trường Anh gia tăng chậm và chưa ổn định. Ta có thể theo dõi tốc độ gia tăng sức mua của Anh từ năm 1990 đến nay qua bảng 8: Bảng 8: Tốc độ gia tăng sức mua ở Anh giai đoạn 1990-2002 Đơn vị: % 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 0.6 3.1 0.2 2.1 3.3 1.9 2.1 2.2 2.7 1.5 2.0 1.9 2.2 Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu châu Âu Mức chênh lệch trong thu nhập một mặt làm cho sức mua trên thị trường Anh không ổn định nhưng mặt khác cũng tạo cho thị trường Anh đặc tính đa dạng và phong phú, thích hợp cho việc tiêu thụ các chủng loại hàng hoá khác nhau từ hàng xa xỉ cao cấp cho người có thu nhập cao đến những hàng hoá bình dân cho người có thu nhập thấp. Tỷ lệ tiêu dùng lớn, nhu cầu thị trường đa dạng là những nhân tố hấp dẫn thu hút các nhà xuất khẩu nước ngoài đến với thị trường Anh. 3.2: Tập quán và thị hiếu tiêu dùng: ở Anh, người dân rất chăm lo đến những vẫn đề mang tính chất riêng tư như gia đình và cuộc sống cá nhân. Vì vậy họ sẵn sàng chi một phần lớn thu nhập vào nhà cửa, trang thiết bị nội thất, đồ gia dụng, du lịch, giải trí và y tế. Bên cạnh đó, người Anh ngày càng tăng cường áp dụng lối sống thể hiện sự quan tâm đến sức khoẻ và môi trường nên họ rất ưa chuộng hàng hoá có nguồn gốc tự nhiên và lành mạnh. Tiêu chuẩn thân thiện với môi trường của sản phẩm phải được thể hiện từ khâu sản xuất như giảm sử dụng hoá chất, tránh gây ô nhiễm đến khâu đóng gói, lưu thông và phân phối. Thị hiếu này được thể hiện rõ nhất đối với sản phẩm lương thực thực phẩm. Người tiêu dùng Anh ngày nay ưa dùng các loại thức ăn “nhẹ” là những thức ăn ít calo, ít đường, ít chất béo; các sản phẩm tươi sống; rau quả tươi; các loại gia vị có nguồn gốc thực vật. Các loại thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ được coi là sản phẩm an toàn và lành mạnh. Nếu như trước đây những thực phẩm được sản xuất bằng phương pháp hữu cơ chỉ có thể tìm thấy tại các cửa hàng nhỏ chuyên bán các mặt hàng này thì ngày nay, các sản phẩm này đã được bày bán rộng rãi tại các siêu thị với những nhãn mác hấp dẫn. Trong khâu đóng gói, việc thay thế bao bì sử dụng một lần bằng loại có thể tái sử dụng ngày càng trở nên quan trọng. Trong tiêu dùng hàng hoá nói chung, chất lượng hàng hoá luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong quyết định mua hàng của người dân Anh. Tiếp theo đó mới là vẫn đề mẫu mã, chủng loại và giá cả. Người tiêu dùng Anh sẵn sàng chấp nhận giá cao miễn là hàng đạt yêu cầu thị hiếu và chất lượng theo ý họ. 3.3: Những thay đổi về mặt xã hội ảnh hưởng tới xu hướng tiêu dùng cá nhân: Xã hội Anh hiện đại ngày càng có nhiều thay đổi và những thay đổi này đã có những tác động tới xu hướng tiêu dùng của người dân Anh và tạo ra những mảng thị trường khác nhau. 3.3.1: Tuổi thọ: Dân số Anh có xu hướng ngày càng bị lão hoá nhanh. Vào cuối thập kỷ 90, số người về hưu bắt đầu tăng nhanh, lực lượng lao động giảm đi. Dự báo năm 2020, số người 85 tuổi sẽ tăng gấp đôi so với năm 1990. Những người ở độ tuổi già tạo thành một mảng thị trường hấp dẫn không phải chỉ bởi sự gia tăng về mặt số lượng mà còn vì khả năng chi tiêu khá lớn của họ cho nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, thực phẩm bổ dưỡng, quần áo và các vật dụng cá nhân, sản phẩm tiện dụng. Điều chú ý là nhu cầu đặc biệt của những người cao tuổi về những mặt hàng này là có tính đặc thù. 3.3.2: Cơ cấu gia đình: Những động thái của xã hội thay đổi nhanh chóng đã ảnh hưởng tới quan niệm của người dân về cuộc sống gia đình. Người dân có xu hướng cá nhân và sống độc thân. Những người trẻ tuổi sớm rời bỏ tổ ấm gia đình của họ để sống một cuộc sống riêng khi họ tham gia vào bậc đào tạo cao hơn, còn những người già thì không dễ dàng chấp nhận cuộc sống chung với con cháu họ. Do đó trong nhiều trường hợp họ sống độc thân ngay cả khi đã già. Con số những người sống độc thân đã tăng lên một cách đáng kể từ 10% dân số vào năm 1951 đến trên 25% vào năm 1991 và 33% vào những năm đầu của thế kỷ XXI. Rõ ràng nước Anh đã trở thành một quốc gia "độc thân" do chính quan niệm sống của người dân nước này. Hiện tượng này đã dẫn đến kết quả là gia tăng các hộ gia đình nhỏ và hệ quả của nó là sự gia tăng nhu cầu về các sản phẩm dùng trong gia đình như nội thất, các đồ gia dụng, các sản phẩm tiện dụng như thực phẩm đã chế biến, các sản phẩm để nấu bằng lò vi sóng, các sản phẩm được đóng gói với số lượng nhỏ cho một hoặc hai người. Bên cạnh đó, tỷ lệ ly hôn cao trong xã hội Anh cũng sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm tiện dụng hơn trong cuộc sống gia đình. 3.3.3: Trách nhiệm xã hội: Trong xã hội Anh hiện đại, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động và các hoạt động xã hội ngày càng nhiều dẫn đến sự thay đổi xu hướng tiêu dùng. Nếu như trước đây, những người phụ nữ chỉ làm việc nội trợ có thói quen mua thực phẩm tươi hàng ngày tại các chợ trời thì ngày nay họ có thói quen mua các sản phẩm tiện lợi tại các siêu thị và thường mua dùng cho cả tháng. Vì vậy các loại thực phẩm nấu sẵn, đã sơ chế, sử dụng cho lò vi sóng được tiêu thụ mạnh. ý thức về trách nhiệm xã hội của người tiêu dùng Anh rất cao. Những thương hiệu khẳng định hàng hoá được sản xuất với đầu vào sạch, điều kiện lao động thích hợp và không sử dụng lao động trẻ em cũng ngày càng trở nên quan trọng với người tiêu dùng Anh. Với cường độ công việc ngày càng tăng nên việc sử dụng thời gian ngoài giờ làm việc để thư giãn và thoả mãn sở thích cá nhân ngày càng được coi trọng ở Anh. Từ ý muốn thư giãn thông qua làm công việc chân tay trong một nền kinh tế mà khu vực dịch vụ đã phát triển mạnh, xu hướng tự phục vụ trong thời gian rỗi rãi như làm vườn và các công việc nhỏ xung quanh ngôi nhà đã xuất hiện. Vì vậy các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu này ngày càng được tiêu thụ mạnh như vật liệu xây dựng, dụng cụ làm vườn, các vật dụng trang trí... Tóm lại, các yếu tố xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới xu hướng tiêu dùng của người dân Anh, vì vậy ngoài tìm hiểu tập quán và thị hiếu tiêu dùng thì việc nghiên cứu những thay đổi của xã hội sẽ giúp cho các nhà sản xuất xác định được kỳ vọng của người tiêu dùng trong tương lai. 4. Tập quán kinh doanh của người Anh: Anh là một thị trường tiêu thụ lớn, mức độ tự do cạnh tranh cao do đó thu hút được rất nhiều nhà xuất khẩu. Với tư cách là người xuất khẩu, để có thể tiếp cận thành công với các nhà nhập khẩu Anh, các doanh nghiệp cần phải chú ý tới những tập quán trong kinh doanh của người Anh. Sau đây là một số tập quán kinh doanh điển hình của người Anh. 4.1: Thiết lập quan hệ trực tiếp: Các doanh nhân Anh là những người chú trọng đến lợi ích của thương vụ. Họ có thể hợp tác với những đối tác hoàn toàn xa lạ, miễn là thu được lợi nhuận. Do đó, sau khi tiến hành các bước lên kế hoạch xuất khẩu, lựa chọn được các đối tác thương mại có triển vọng, các doanh nghiệp xuất khẩu nên tiến hành liên hệ trực tiếp. Điều này có nghĩa là gửi thư và đơn chào hàng trực tiếp cho các đại lý, các nhà nhập khẩu bán buôn hoặc cho các khách hàng cùng lĩnh vực. Anh là một trung tâm thương mại của thế giới, nhiều giao dịch lớn được thực hiện tại đây. Do đó, các nhà nhập khẩu Anh rất nhạy cảm với những thay đổi của giá cả trên thị trường. Vì vậy, khi cung cấp các thông tin về giá cả trong thư chào hàng, không nên ấn định một mức giá cho một khoảng thời gian nào đó mà phải gắn mức giá với một thời điểm và một tỷ giá hối đoái cụ thể. Bên cạnh đó, khi chào hàng, các doanh nghiệp nên chào hàng bằng đồng Bảng Anh. 4.2: Thông tin liên lạc: Thông tin liên lạc đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Mặc dù thương mại điện tử rất phát triển, cách thức liên lạc thông qua mạng ngày càng trở nên phổ biến nhưng khi thiết lập mối quan hệ với các nhà xuất khẩu nước ngoài, các nhà nhập khẩu Anh vẫn ưa dùng cách thức liên lạc thông qua thư tín, điện thoại hay fax. Là những người trọng nghi thức nên việc liên lạc bằng các phương tiện trên, đặc biệt là bằng thư tín luôn được các thương nhân Anh coi trọng. Họ coi thư tín là thể diện của doanh nghiệp, thư tín càng đúng đắn, chính xác và rõ ràng càng tốt. Tư liệu về doanh nghiệp, về các sản phẩm của doanh nghiệp, sự phân tích kỹ thuật về chất lượng sản phẩm nên được giới thiệu chi tiết bằng tiếng Anh. Sau một đợt gửi thư, các doanh nghiệp nên gọi điện thoại hoặc fax để xác nhận. Thư điện tử cũng được các doanh nhân Anh sử dụng nhưng chỉ sau khi đã có những mối quan hệ chắc chắn. Có thể nói các doanh nhân Anh có nhiều điểm không giống với những doanh nhân ở những nước châu Âu khác. Nghiên cứu tập quán kinh doanh của người Anh để có những chuẩn bị thích hợp cho hoạt động thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thâm nhập thị trường Anh Quốc. IV. Ngoại thương nước Anh Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn và đa dạng, ngoài việc kích thích sản xuất trong nước thì ngoại thương luôn đóng vai trò thiết yếu đối với nền kinh tế của Vương quốc Anh. Mặc dù dân số chỉ chiếm gần 1% dân số thế giới, song Anh đứng thứ năm trên thế giới về ngoại thương, chiếm khoảng 5% buôn bán hàng hoá và dịch vụ của cả thế giới. 1. Chính sách phát triển thương mại quốc tế của Anh: Dưới tác động của xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu, chính sách thương mại quốc tế của Anh trong những năm gần đây đã có những điều chỉnh theo xu hướng tích cực tham gia vào thương mại quốc tế thông qua các chương trình hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật dưới sự bảo hộ của EU, WTO, OECD với phương hướng là bằng mọi cách kích thích phát triển thương mại quốc tế, tận dụng tối đa những thuận lợi về kinh tế để tăng cường vị trí của Anh trong nền thương mại thế giới. Chiến lược chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại đến năm 2010 do chính phủ Bảo thủ Anh đưa ra. Và những chính sách này về cơ bản cũng đã trở thành những chính sách được Anh thực thi theo, cho dù đảng phái nào lên nắm quyền. Chính sách đã nhấn mạnh những nhiệm vụ của Anh trong lĩnh vực thương mại quốc tế là đến năm 2010 thành lập hệ thống thương mại tự do quốc tế, thủ tiêu mọi hạn chế trong quá trình chuyển dịch vốn đầu tư. Để giải quyết được những nhiệm vụ quan trọng này, Chính phủ Anh đã đưa ra những phương hướng hoạt động như: tích cực tham gia vào các hoạt động của EU; mở rộng hợp tác xuyên Đại Tây Dương mà nhiệm vụ trước hết là thành lập Khu vực mậu dịch tự do EU - Mỹ (Trans Atlantic Free Trade Agreement - TAFTA); phát triển hợp tác kinh tế khu vực; hỗ trợ củng cố kinh tế các nước đang phát triển; tích cực tham gia vào các cơ cấu quốc tế, trước tiên là trong nhóm G8, Liên hợp quốc, NATO, WTO, IMF và WB. Đáng chú ý là trong việc thực hiện chiến lược phát triển thương mại quốc tế, Chính phủ Anh đã có sáng kiến thu hút các nhà lãnh đạo các công ty, tập đoàn lớn của Anh tham gia vào các hoạt động kinh tế đối ngoại. Các thủ lĩnh Công đảng Anh nhấn mạnh rằng đây sẽ là lực lượng hướng đạo xứng đáng cho ý tưởng mở rộng hoạt động thương mại quốc tế của Anh. Trong việc buôn bán với một nước ngoài EU, chính sách ngoại thương của Anh thống nhất với chính sách ngoại thương chung của EU. Đó là thực hiện chính sách tự do thương mại, không phân biệt đối xử, minh bạch, cạnh tranh công bằng, áp dụng các biện pháp thuế quan, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá. Tự do thương mại thực hiện bằng việc giảm thuế, chống hàng giả, áp dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Chiến lược phát triển thương mại quốc tế ngày càng rộng mở sẽ là liệu pháp hữu hiệu trong việc kích thích sự tăng trưởng chung của nền kinh tế Anh. Thực tế cho thấy, việc thực thi chiến lược đã phần nào góp phần ngăn chặn sự suy giảm kinh tế của Anh trong bối cảnh suy thoái chung của nền kinh tế thế giới hiện nay. 2. Những đối tác thương mại chiến lược của Anh: Các đối tác thương mại hàng đầu của Anh từ trước đến nay vẫn là các nước thành viên trong EU với tỷ trọng chiếm 55% toàn bộ xuất khẩu. Các bạn hàng thương mại chính của Anh trong khối nước này vẫn là Đức, Pháp và Hà Lan. ở khu vực châu Mỹ, kim ngạch mậu dịch của Anh với Mỹ năm 2002 tăng 7,9%, đạt 46 tỷ GBP, trong đó xuất khẩu của Anh tăng 5,7%, nhập khẩu tăng 9,7%. Tổng quan trong giai đoạn 1995-2002 thì tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Anh sang Mỹ đạt 13,4% và tăng trưởng nhập khẩu trung bình đạt 16,3%. Mức nhập khẩu tăng đáng kể trước hết là do nhu cầu tăng mua máy móc, phương tiện vận tải và cả bán thành phẩm đã làm tăng thâm hụt cán cân thương mại của Anh với Mỹ trong giai đoạn này. Trong số các bạn hàng thương mại của Anh có mức tổng kim ngạch mậu dịch hai chiều tăng trưởng khá là Brazil, Achentina và Mexico. Khối lượng mậu dịch của Anh với các nước xuất khẩu dầu mỏ cũng thường xuyên đạt mức tăng trưởng khá cao và ổn định, chủ yếu do xuất khẩu của Anh tăng, giai đoạn 1995 - 2002 tăng bình quân đạt hơn 20%. Các bạn hàng thương mại chính trong nhóm nước này là Saudi arabia, Indonesia, Tiểu vương quốc arập, Brunei. Tuy có cuộc khủng hoảng châu á năm 1997, song chính phủ Anh vẫn coi các nước trong khu vực châu á là một đối tác thương mại chính của mình. Trong đó chính phủ Công đảng và các nhà lãnh đạo giới kinh doanh Anh cũng đã chú ý nhiều đến việc tăng cường quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, úc và các nước trong khối ASEAN 3. Tình hình xuất nhập khẩu của Anh trong những năm gần đây: Trong hơn một thập kỷ qua, cán cân thương mại của Anh luôn ở mức âm. Đây là những ảnh hưởng mang tính cơ cấu, không tác động xấu tới tình hình ngoại thương của Anh. Sau đây là những số liệu cụ thể về tình hình xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Anh trong hơn một thập kỷ qua (Bảng 9) Bảng 9: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Anh giai đoạn 1990-2002 Đơn vị:Tỷ USD Năm 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 XK 185,27 242,01 262,2 281,06 271,84 268,21 281,44 267,35 280,06 NK 224,41 265,29 287,43 306,59 314,03 317,98 334,34 320,98 331,67 CCTM -39,14 -23,29 -25,33 -25,52 -42,18 -49,75 -52,90 -53,62 -51,61 Nguồn: Tổng cục thống kê 3.1: Tình hình xuất khẩu: Qua bảng 9 ta thấy, từ sau đợt suy thoái vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình xuất khẩu của Anh đã có sự tăng trưởng khá mạnh tuy nhiên đến năm 1999, kim ngạch xuất khẩu có giảm nhẹ do cuộc khủng hoảng tài chính châu á làm ảnh hưởng đến khả năng nhập khẩu của một số bạn hàng của Anh tại châu á. Sang năm 2000, cùng với sự khởi sắc của thương mại thế giới, kim ngạch xuất khẩu của Anh cũng có sự tăng vọt. Tuy nhiên đến năm 2001, do tình trạng suy giảm toàn cầu, tăng trưởng xuất khẩu của Anh quốc có sự sụt giảm với doanh thu giảm ở tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là tại Nga và các nước ở Trung và Đông Âu. Sang năm 2002, tình hình xuất khẩu dần được khôi phục do hàng loạt những nỗ lực của chính phủ nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Chính phủ Anh đã thiết lập một hệ thống các ban xúc tiến xuất khẩu như Uỷ ban thương mại hải ngoại (OTS), Văn phòng thương mại và Công nghiệp (DTI). Các ban này sẽ giúp cho các doanh nghiệp của Anh thu thập được một cách chính xác các thông tin về sự biến động thị trường, giá cả, thiết lập được mạng lưới buôn bán xuyên quốc gia. 3.1.1. Cơ cấu hàng xuất khẩu: Các mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của Anh vẫn là máy móc và phương tiện vận tải (chiếm 41,8%), các sản phẩm hoá chất (12,4%), bán thành phẩm, thép, gang, kim loại màu và các chế phẩm từ kim loại. Một mặt hàng quan trọng trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Anh là sản phẩm dầu mỏ, chiếm hơn 20%, với thị trường tiêu thụ chính là Mỹ, Ba Lan và Canada. 3.1.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu: Vương quốc Anh chủ yếu xuất khẩu sang các nước phát triển khác. Năm 2002, những nước trong tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) chiếm 80% tổng xuất khẩu của Anh. Riêng các nước thành viên trong EU đã chiếm tới 55% toàn bộ xuất khẩu. Trong những năm gần đây, xuất khẩu của Anh sang một số nước châu á tăng đáng kể trong đó có Nhật Bản tăng 13%, Thái Lan tăng 17%, Hàn Quốc tăng 13%, Hồng Kông tăng 10% 3.2: Tình hình nhập khẩu: Qua bảng 9 ta thấy, tình hình nhập khẩu của Anh tăng đều qua các năm, chỉ có sự giảm nhẹ vào năm 2001 do ảnh hưởng từ nền kinh tế thế giới. Kim ngạch nhập khẩu của Anh luôn lớn hơn kim ngạch xuất khẩu gây ra tình trạng Anh luôn là nước nhập siêu. Mức độ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng tăng cho thấy nhu cầu nhập khẩu của Anh là rất lớn 3.2.1. Cơ cấu hàng nhập khẩu: Trong mấy thập kỷ vừa qua, hàng chế tạo ngày càng chiếm thị phần cao hơn trên thị trường Anh. Trong giai đoạn từ 1970 đến 2002, tỷ lệ hàng hoá chế tạo trong tổng số nhập khẩu tăng từ 25% lên đến 60%, trong khi nhập khẩu nguyên liệu cơ bản giảm từ 15% xuống còn 6%. Tỷ lệ lương thực, đồ uống và thuốc lá trong tổng số nhập khẩu liên tục giảm từ 20% từ những năm 1950 xuống còn 10% năm 2002. Tỷ trọng hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Anh trong những năm gần đây cũng có sự tăng trưởng do chi phí sản xuất trong nước tăng cao. 3.2.2. Cơ cấu thị trường nhập khẩu: Hiện nay, trung bình khoảng 55% hàng nhập khẩu vào Anh là từ các nước thành viên EU, khoảng 17% là từ các nước châu á và châu Đại Dương, 16% từ Bắc Mỹ, tiếp đến là từ khối Thịnh vương chung và từ các nước Nics châu á. Trong 10 thị trường cung cấp hàng hoá nhiều nhất vào Anh năm 2002 thì các nước trong khối EU chiếm tới 7 nước. Trong những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu từ châu á ngày càng tăng. Tình hình xuất nhập khẩu của Anh tuy có những biến động nhưng luôn có sự phục hồi một cách nhanh chóng. Đó là kết quả của chính sách thương mại quốc tế ngày càng rộng mở, sự phát triển ngày càng đa dạng những đối tác thương mại chiến lược, nền kinh tế ổn định và những nỗ lực của chính phủ trong việc kích thích phát triển thương mại quốc tế. Đây sẽ là một môi trường tốt cho các hoạt động thương mại. Với môi trường như vậy, Anh sẽ là một thị trường đầy triển vọng đối với hoạt động xuất khẩu của một nước đang phát triển như Việt Nam. Chương 2 Triển vọng xuất khẩu vào thị trường Anh của các doanh nghiệp việt nam I. Thị trường Anh đối với các doanh nghiệp xuất khẩu việt nam 1. Vai trò của thị trường Anh trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam Một trong những định hướng lớn cho hoạt động ngoại thương của Việt Nam cho thời kỳ 2001- 2010 đã được Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra là “Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới”. Như vậy có thể nói thị trường các trung tâm kinh tế thế giới đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam. Liên minh châu Âu, trong đó có Anh Quốc, là một trong ba trung tâm kinh tế lớn mà ngoại thương Việt Nam cần phải chú trọng. Liên minh châu Âu gồm 15 nước là một trung tâm kinh tế hùng mạnh, có vai trò to lớn trong nền kinh tế thế giới. Hiện nay, quy mô của nền kinh tế EU đứng thứ hai thế giới. Với số dân khoảng 370 triệu dân, EU chiếm tới 20% GDP của toàn thế giới và 20% giá trị thương mại thế giới. Kinh tế EU không chỉ lớn về quy mô mà còn vững mạnh về cơ cấu (cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ). Kể từ khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Cộng đồng Châu Âu (EC) vào ngày 22-10-1990 và ký Hiệp định hợp tác với EU vào 17-7-1995, quan hệ thương mại Việt Nam – EU ngày càng được củng cố và phát triển. Với vị thế là một liên minh kinh tế và tiền tệ lớn, một trong ba trung tâm kinh tế thế giới, EU đã, đang và sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế thương mại của Việt Nam. Hiện nay, EU là một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Việc quan hệ thương mại với EU trên danh nghĩa tuy là quan hệ với một khối thị trường thống nhất nhưng trên thực tế là chúng ta phải tiến hành hoạt động thương mại với từng nước thành viên của EU. Trong 15 nước thành viên của EU, Anh Quốc là một trong ba nền kinh tế chủ đạo, có ảnh hưởng nhất định đến toàn khối. Trong quan hệ thương mại song phương Việt Nam – Anh Quốc, Anh không phải là một bạn hàng truyền thống của Việt Nam bởi quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước được thiết lập trong khoảng thời gian chưa phải là dài. Tuy nhiên, với tiềm năng to lớn về kinh tế cũng như vị thế của nước Anh như hiện nay thì đây là thị trường mà chúng ta không thể lơ là. Hiện nay, Anh là bạn hàng thương mại lớn thứ ba của Việt Nam trong khối EU. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước trung bình chiếm khoảng 12,7% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU, sau Đức (28,5%) và Pháp (20,7%). Tỷ trọng này tuy đã tăng lên nhiều so với những năm trước đây nhưng vẫn chưa phản ánh đúng tiềm năng của Việt Nam và Anh. Trong thời gian tới chúng ta cần dành cho thị trường Anh sự quan tâm thích đáng hơn nữa và cần phải xác định rằng Anh là một trong những đối tác quan trọng của Việt Nam trong mối quan hệ kinh tế thương mại chung với khu vực EU. Xét về phương diện xuất khẩu, với định hướng “chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế” và mục tiêu “đẩy mạnh xuất khẩu” mà Đảng ta đã đề ra, thì Việt Nam cần coi Anh là một thị trường xuất khẩu trọng điểm trong khối EU vì: Thứ nhất, Anh là quốc gia có số dân và tổng thu nhập quốc dân lớn thứ hai EU (sau Đức), thu nhập bình quân đầu người của Anh tuy chỉ đứng thứ tám trong EU nhưng lại là quốc gia có tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng và chi tiêu hộ gia đình lớn nhất EU (xem bảng phụ lục 1). Nhu cầu nhập khẩu hàng năm khoảng 170-180 tỷ GBP, Anh có nhu cầu lớn về những sản phẩm mà Việt Nam có thể cung cấp được như các sản phẩm công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, hàng tiêu dùng, các sản phẩm nông lâm thuỷ sản. Có thể nói Anh Quốc là một thị trường đầy tiềm năng đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam. Thứ hai, Anh Quốc là một trong những thị trường trung tâm của EU và thế giới. Các giao dịch buôn bán lớn thường được tiến hành trên thị trường này. Giá cả trên thị trường London thường được lấy làm thước đo giá quốc tế. Ngoài ra, Anh còn là thị trường có mức độ cạnh tranh cao. Thâm nhập và đứng vững trên thị trường Anh sẽ khẳng định được uy tín và phẩm cấp của hàng hoá, từ đó sẽ tạo được những điều kiện thuận lợi để thâm nhập được các thị trường khác trong EU. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần phải nỗ lực rất lớn trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Như vậy, dù không phải là thị trường truyền thống nhưng Anh là một đối tác rất quan trọng của Việt Nam trong hoạt động ngoại thương. Với tư cách là một quốc gia thành viên của EU, Anh cần được coi là thị trường trọng điểm của Việt Nam. Trong thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước sao cho đúng với tiềm năng sẵn có của cả hai bên. 2. Những chế định và đòi hỏi của thị trường Anh Quốc: Tự do hoá thương mại trên quy mô toàn cầu được xúc tiến bởi những cam kết xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và cắt giảm hàng rào thuế quan. Tại các hội nghị của Tổ chức thương mại thế giới, các nước phát triển luôn cam kết mở rộng thị trường hơn nữa cho các nước đang phát triển xuất khẩu hàng hoá vào thị trường mình theo tinh thần tự do hoá thương mại. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là việc thâm nhập thị trường các nước phát triển của các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển sẽ trở nên dễ dàng hơn. Trong thực tế, việc tiếp cận thị trường có thể trở nên khó khăn hơn bởi sự gia tăng các chế định và đòi hỏi của thị trường liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau. Anh Quốc là quốc gia công nghiệp phát triển. Với nền kinh tế phát triển, người tiêu dùng có thu nhập và mức sống cao, thị trường Anh ngày càng gia tăng các chế định và đòi hỏi có liên quan đến các vấn đề an toàn, sức khoẻ, chất lượng, môi trường và các vấn đề xã hội khác. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập thị trường Anh phải đảm bảo ít nhất ba vấn đề sau: Tiêu chuẩn hóa, sức khoẻ và môi trường. Là một nước thành viên Liên minh châu Âu, khi nhập khẩu hàng hoá từ một nước ngoài EU, Anh sẽ áp dụng quy định của Liên minh châu Âu về các vấn đề trên. 2.1: Tiêu chuẩn hoá: Tiêu chuẩn là các thoả thuận bằng văn bản nêu lên những đặc trưng kỹ thuật hoặc thông số chính xác khác, được sử dụng một cách cố định như các quy tắc, hướng dẫn hay định nghĩa để đảm bảo rằng nguyên vật liệu, sản phẩm, quá trình sản xuất hay dịch vụ được sử dụng để triển khai theo đúng mục đích. Bản thân việc tiêu chuẩn hoá các sản phẩm hàng hoá không phải là một hiện tượng mới lạ. Tiêu chuẩn đã được sử dụng để mô tả chất lượng, đặc tính của hàng hoá và dịch vụ và đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, cũng như xuất khẩu sang các thị trường khác của EU, việc xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Anh phải tuân theo yêu cầu tiêu chuẩn hoá của các tổ chức được Uỷ ban châu Âu công nhận. Uỷ ban châu Âu có thể yêu cầu các cơ quan ban hành tiêu chuẩn xây dựng những tiêu chuẩn để thi hành luật pháp của Liên minh. Uỷ ban châu Âu về tiêu chuẩn hoá (Cen), Uỷ ban châu Âu về kỹ thuật điện (Cenelec) và Viện Tiêu chuẩn viễn thông châu Âu (etsi) là ba tổ chức tiêu chuẩn hoá của châu Âu được công nhận là có đủ năng lực trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá kỹ thuật. Ba tổ chức này phối hợp xây dựng các bộ tiêu chuẩn châu Âu cho các lĩnh vực riêng biệt và tạo thành "Hệ thống tiêu chuẩn châu Âu". Để thâm nhập thành công thị trường Anh nói riêng và thị trường EU nói chung thì việc đáp ứng các tiêu chuẩn do các tổ chức trên đưa ra đã trở thành điều kiện quan trọng. Tiêu chuẩn hoá dẫn đến sự thúc bách phải có ký hiệu, nhãn hiệu và giấy chứng nhận. Các ký hiệu, nhãn hiệu và giấy chứng nhận này chứng tỏ sản phẩm đã tuân thủ các tiêu chuẩn. Do đó, để sản phẩm được chấp nhận trên thị trường Anh - một thành viên của EU - các ký hiệu, nhãn hiệu và giấy chứng nhận tiêu chuẩn phải tuân theo quy định của "Hệ thống tiêu chuẩn châu Âu". 2.2: Sức khoẻ: Vấn đề sức khoẻ và an toàn ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với từng cá nhân ở Anh. Các vấn đề này ngày càng ảnh hưởng mạnh hơn đến việc xây dựng chính sách của cả chính phủ và giới kinh doanh. Nhiều biện pháp đã và đang được thi hành nhằm bảo vệ sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng chủng loại hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Anh các doanh nghiệp Việt Nam cần biết phải biết những quy định của EU về vấn đề này. Dưới đây là một số quy định về sức khoẻ và an toàn mà EU đặt ra đối với các nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển như Việt Nam. 2.2.1: Ký hiệu CE đối với sản phẩm công nghiệp: Mục đích của ký hiệu CE (european Conformity) là yêu cầu các nhà sản xuất chỉ giới thiệu những sản phẩm an toàn với thị trường EU. Ký hiệu CE có thể được xem như một dạng giấy thông hành cho phép các nhà sản xuất lưu thông các sản phẩm công nghiệp một cách tự do trong thị trường EU. Ký hiệu CE không phải áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp. Ký hiệu CE không được sử dụng với các sản phẩm như đồ nội thất,hàng may mặc và các sản phẩm da, mặc dù bắt buộc đối với sản phẩm đồ chơi, quần áo bảo hộ, ghế văn phòng có sử dụng hệ thống thuỷ lực, thiết bị điện, sản phẩm xây dựng, thiết bị và hệ thống phòng chống cháy nổ, thiết bị dùng cho giải trí. Ký hiệu CE cho biết sản phẩm đã tuân theo những yêu cầu pháp lý của châu Âu về an toàn, sức khoẻ, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng. 2.2.2: Hệ thống haccp đối với thực phẩm chế biến: Hệ thống phân tích rủi ro bằng điểm kiểm soát tới hạn (haccp) được áp dụng cho công nghiệp chế biến thực phẩm. Hệ thống haccp được áp dụng đối với các công ty tham gia chế biến, xử lý, đóng gói, vận chuyển, phân phối hoặc kinh doanh thực phẩm. Các công ty này buộc phải hiểu và hành động sao cho tránh được những rủi ro có thể xảy ra đối với thực phẩm trong tất cả các công đoạn sản xuất thực phẩm, từ nuôi trồng, chế biến, sản xuất và phân phối, cho đến khẩu tiêu thụ. Công việc này bao gồm phải tính đến những vấn đề như sâu bọ, vi sinh (vi rút, vi khuẩn, nấm mốc), chất độc (nhiếm thuốc trừ sâu) hoặc các rủi ro có thể nhìn bằng mắt thường mang tính vật chất như lẫn gỗ, sắt, thuỷ tinh, nhựa hoặc sợi). Nguyên tắc haccp là rất cần thiết đối với các nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển như Việt Nam, bởi vì các nhà nhập khẩu thực phẩm của Anh Quốc cũng như của EU sẽ bị những ràng buộc về mặt pháp lý. Đối với hàng thủy sản - mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam - các nhà xuất khẩu bắt buộc phải tuân theo Hướng dẫn 91/493/EEC và Hướng dẫn 91/482/EEC mới được xuất khẩu vào thị trường EU. Những hướng dẫn này cũng đều khuyên các nhà cung cấp thuỷ sản phải áp dụng hệ thống haccp. Một đoàn thanh tra của Uỷ ban châu Âu sẽ thanh tra quá trình sản xuất của các công ty. Chỉ khi công ty nào vượt qua được đợt thanh tra này họ mới được công nhận thuộc danh sách các công ty được xuất khẩu vào thị trường EU. 2.2.3: Tiêu chuẩn hàng nông sản - GAP: Người tiêu dùng Anh và các nước châu Âu rất quan tâm tới ảnh hưởng của nông nghiệp đối với an toàn thực phẩm và môi trường. Để đảm bảo những vấn đề mà người tiêu dùng quan tâm, EU đã xây dựng hệ thống những chỉ dẫn canh tác (GAP) trong sản xuất nông nghiệp. GAP bao gồm các tiêu chuẩn về chăm sóc đất trồng, sử dụng phân bón, theo dõi sâu bệnh, bảo vệ mùa màng, thu hoạch, sau thu hoạch, sức khoẻ và sự an toàn đối với người sản xuất. Trong những năm tới, các nhà sản xuất rau quả tươi muốn cung cấp hàng cho các siêu thị ở EU sẽ phải chứng minh được rằng các sản phẩm của họ được sản xuất theo tiêu chuẩn của GAP. Các nhà xuất khẩu nông sản của Việt Nam cần có sự chuẩn bị nghiêm túc để có thể kịp thời áp dụng những tiêu chuẩn của GAP. 2.3: Môi trường: Người tiêu dùng ở các nước phát triển như Anh và châu Âu ngày càng quan tâm tới sản phẩm và dịch vụ ở góc độ môi trường. Do đó, những sản phẩm được sản xuất trong điều kiện không đảm bảo môi trường đã và đang mất dần cơ hội trên thị trường. Sự gia tăng mối quan tâm đối với việc bảo tồn và bảo vệ môi trường đã thúc ép EU phải thiết lập những tiêu chuẩn mới trong lính vực này. Riêng ở Anh, bảo vệ môi trường đã được quy định trong luật pháp và những thoả thuận tự nguyện giữa các nhà sản xuất và chính phủ. Những thoả thuận này không chỉ áp dụng đối với sản phẩm mà còn áp dụng đối với cả bao bì. Các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển như Việt Nam cần phải tuân thủ những quy định về môi trường mới có thể xuất khẩu sản phẩm vào Anh quốc nói riêng và EU nói chung. Các nhà nhập khẩu ở đây đang ngày càng chịu nhiều đòi hỏi hơn liên quan đến môi trường và họ sẽ chuyển những đòi hỏi này sang các nhà xuất khẩu. Hiện nay, tiêu chuẩn quản lý môi trường quan trọng nhất cho các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển là ISO 14001. Trên đây là những chế định của thị trường mà các doanh nghiệp xuất khẩu từ các nước đang phát triển thường gặp phải khi xuất khẩu sang thị trường Anh quốc nói riêng và EU nói chung. Có thể nói đây là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay đã có nhiều doanh nghiệp Việt Nam ý thức được điều này. Các nguyên tắc về quản lý chất lượng và môi trường theo tiêu chuẩn của EU như haccp và ISO 14001...đã trở nên phổ biến ở Việt Nam. Đây là một tín hiệu tốt đánh dấu những triển vọng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU nói chung và thị trường Anh Quốc nói riêng. 3. Chế độ ưu đãi phổ cập (GSP) Chế độ ưu đãi phổ cập mà EU dành cho Việt Nam là một thuận lợi lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Anh. GSP (Generalized System of Preferences) - Hệ thống ưu đãi phổ cập của Liên minh châu Âu (EU) thực chất là một công cụ truyền thống của các chính sách thương mại, chính sách thuế quan nhằm tạo ra một sự ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển so với các nước công nghiệp, giúp hàng hoá của các nước này thâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường EU. Vấn đề cốt lõi của GSP là giảm bớt biểu thuế và xoá bỏ biểu thuế cho một số mặt hàng của các nước đang phát triển khi xuất khẩu vào thị trường này. Chế độ GSP ra đời từ 1/7/1971 và cứ 10 năm thì xem xét lại một lần. Chế độ GSP được sửa đổi lần đầu tiên vào 1/1/1981 và lần sửa đổi thứ hai vào ngày 1/1/1986 (xem xét giữa kỳ). Chế độ GSP mới lần này được đưa ra với hai loại sản phẩm: công nghiệp và nông nghiệp. Việt Nam hiện là một trong những quốc gia đang phát triển được hưởng chế độ GSP của EU. Ngoại trừ hàng dệt may, tất cả các hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào EU đều được hưởng GSP. Chế độ GSP hiện hành sẽ giúp Việt Nam cải thiện tình hình xuất khẩu vào EU bởi một cải cách cơ bản của nó là rút bỏ chế độ GSP với các nước phát triển, có khả năng cạnh tranh cao, từ đó tăng ưu đãi cho các nước đang phát triển như Việt Nam. Một điểm đáng lưu ý là chế độ GSP mới được áp dụng trong toàn bộ thời gian có hiệu lực và không hạn chế về số lượng. Như vậy, vấn đề hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào EU lâu nay bị hạn chế bởi hạn ngạch cũng sẽ được xem xét lại. Có thể nói, chế độ GSP mới được xem xét lại sẽ mở ra một con đường sáng sủa, dễ đi hơn cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam khi xâm nhập thị trường EU. Đây là thời cơ hết sức thuận lợi cho các doanh nghiệp đã, đang và sẽ xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Anh Quốc. Chế độ GSP mới chia ra làm bốn loại sản phẩm với bốn mức thuế ưu đãi khác nhau: Thứ nhất là loại sản phẩm có độ nhạy cảm cao thì mức thuế ưu đãi bằng 85% so với mức thuế quan chung. Tiếp theo là loại sản phẩm nhạy cảm có mức thuế ưu đãi bằng 70% mức thuế quan chung. Thứ ba là loại sản phẩm bán nhạy cảm chịu thuế bằng 30% mức thuế quan chung và cuối cùng là loại không nhạy cảm được miễn thuế hoàn toàn (0%). Khi xem xét danh mục những mặt hàng ưu đãi về nông nghiệp và công nghiệp xuất khẩu vào EU thì Việt Nam có lợi thế về một số mặt hàng nông sản và công nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải chú ý rằng quy chế GSP được xây dựng theo ý tưởng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển chứ không phải là việc xuất khẩu các sản phẩm sơ khai. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đầu tư hơn nữa cho quá trình chế biến các sản phẩm là nguyên liệu và nông sản thô, nhanh chóng chuyển sang xuất hàng tinh chế. Như vậy, chế độ GSP của EU dành cho Việt Nam không chỉ đơn thuần là tạo ra những ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU, mà còn có tác dụng đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Anh là một thị trường có mức độ cạnh tranh gay gắt nhất EU. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này, chế độ GSP của EU còn tác dụng lớn hơn rất nhiều. Nó không chỉ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp từ một nước đang phát triển như Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường một cách dễ dàng hơn mà còn tạo điều kiện cho hàng hóa có thể cạnh tranh được với hàng hoá đến từ các nước phát triển khác trong môi trường đầy cạnh tranh. II. Tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh của hàng hoá Việt Nam 1. Tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh của hàng hoá Việt Nam theo một số lý thuyết về lợi ích ngoại thương. 1.1: Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo: David Ricardo (1772 – 1823), kinh tế gia cổ điển người Anh trong tác phẩm nổi tiếng “Các nguyên tắc kinh tế chính trị và việc đánh thuế” xuất bản 1817 đã đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh hay còn gọi là lợi thế tương đối. Trong lý thuyết này, D. Ricardo đã đưa ra khái niệm về chi phí tương đối hay so sánh như là nền tảng cho mậu dịch quốc tế và nhằm vào chi phí lao động hơn là các yếu tố khác trong sản xuất như đất đai, vốn. Lý thuyết “Lợi thế tương đối” xác định rằng “Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng”. Nói cách khác, các nước nên tập trung nguồn lực để sản xuất những sản phẩm có hiệu quả hơn nếu so với các nước khác và xuất khẩu những sản phẩm này. Sau đó, họ sẽ nhập khẩu những sản phẩm mà họ đã từ bỏ không sản xuất, từ các nước mà việc sản xuất ra chúng ít tốn kém hơn. Theo lý thuyết trên thì mặc dù Anh Quốc là một quốc gia phát triển, có lợi thế tuyệt đối hơn so với Việt Nam trong các lĩnh vực nhưng việc tiến hành hoạt động trao đổi hàng hoá giữa hai nước vẫn có lợi cho cả hai bên. Bên cạnh nền công nghiệp, dịch vụ phát triển, nền nông nghiệp Anh tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé nhưng cũng là ngành kinh tế rất phát triển. Tuy nhiên, với tiềm lực về khoa học công nghệ, việc Anh tập trung vào sản xuất nông nghiệp để xuất khẩu sẽ không có hiệu quả bằng tập trung vào sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Việt Nam là nước nông nghiệp đang trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa. Việc sản xuất sản phẩm nông nghiệp để xuất khẩu ở Việt Nam sẽ có hiệu quả hơn là tập trung vào sản xuất công nghiệp để xuất khẩu. Như vậy, Anh Quốc có lợi thế so sánh về các sản phẩm công nghiệp, Việt Nam có lợi thế so sánh về các sản phẩm nông nghiệp. So với Anh, ngành nông nghiệp và công nghiệp của Việt Nam đều kém hơn. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn có thể xuất khẩu sang thị trường Anh các sản phẩm nông nghiệp. Anh sẽ xuất khẩu sang Việt Nam những thiết bị máy móc, công nghệ. Việc trao đổi buôn bán này sẽ giúp Anh mở rộng tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp thông qua nhập khẩu các sản phẩm này với giá rẻ hơn từ Việt Nam. Còn Việt Nam sẽ có những máy móc, thiết bị, công nghệ phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá mà không phải đầu tư quá mức vào việc sản xuất những sản phẩm này ở trong nước. Lý thuyết của David Ricardo đã chứng minh được lợi ích của mậu dịch quốc tế là lợi thế tương đối của mỗi quốc gia, cho thấy những nước có nền sản xuất còn kém phát triển như Việt Nam vẫn có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế, vẫn có thể tiến hành các hoạt động thương mại song phương với những cường quốc phát triển như Anh Quốc. Tuy nhiên, lý thuyết của David Ricardo mới chỉ phân tích lợi thế tương đối dựa trên một nhân tố biến thiên là chi phí lao động chứ chưa tính đến các yếu tố khác trong sản xuất như đất đai, vốn. Ngoài ra, lý thuyết trên không giúp cho thấy một loại sản phẩm mà một nước có lợi thế nhất nếu sản xuất nó. Hơn một thế kỷ sau, một lý thuyết mới ra đời đã bổ sung đầy đủ hơn cho lý thuyết của David Ricardo. Đó là lý thuyết về tỷ lệ yếu tố của Heckscher và Ohlin. 1.2: Lý thuyết về tỷ lệ yếu tố của Heckscher - Ohlin: Trong tác phẩm "Thương mại liên khu vực và quốc tế" xuất bản năm 1933, hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Eli Heckscher (1879 - 1952) và Bertil Ohlin (1899 - 1979) đã phát triển học thuyết "Tỷ lệ yếu tố" (Factor Proportions). Lý thuyết Heckscher - Ohlin cho rằng "Trong tiến trình sản xuất người ta phải phối hợp nhiều yếu tố theo nhiều tỷ lệ khác nhau. Sự khác nhau ở các nước về mối tương quan giữa lao động với đất đai hay vốn có thể giải thích sự khác biệt về chi phí các yếu tố. Nếu lao động dồi dào (dư thừa) so với đất đai và vốn thì chi phí lao động sẽ thấp, còn chi phí đất đai, tiền vốn sẽ cao. Nếu lao động khan hiếm thì giá lao động sẽ cao so với giá đất và tiền vốn. Những chi phí này sẽ giúp các nước có sở trường sản xuất và xuất khẩu sản phẩm dùng yếu tố sản xuất dư thừa nên sẽ có giá rẻ hơn." Bằng những dẫn chứng cụ thể về mối quan hệ giữa đất đai và lao động, giữa vốn và lao động, lý thuyết Heckscher - Ohlin đã đi đến kết luận "Các nước nên xuất khẩu những sản phẩm có số lượng lớn các nhân tố sản xuất phong phú sẵn có của bản thân và nhập khẩu những sản phẩm bao hàm phần lớn các nhân tố sản xuất trong nước khan hiếm." Trong trường hợp Việt Nam là nước xuất khẩu, Anh là nước nhập khẩu, căn cứ vào lý thuyết Heckscher - Ohlin ta có thể xác định được loại sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế nhất khi sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Anh. Việt Nam và Anh Quốc là hai quốc gia có cơ cấu kinh tế rất khác biệt. Anh là quốc gia công nghiệp phát triển, có cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trong GDP tương ứng là 1 - 25 - 74. Còn Việt Nam là nước nông nghiệp đang tiến hành công nghiệp hóa, có cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ là 23,3 - 37,75 - 38,95. Số người làm trong lĩnh vực nông nghiệp của Anh chiếm khoảng 2% lực lượng lao động còn số người làm trong nông nghiệp của Việt Nam chiếm tới gần 80% lực lượng lao động. Rõ ràng là ngành nông nghiệp của nước Anh không những chiếm một tỷ trọng nhỏ bé trong GDP mà còn có lực lượng lao động rất ít ỏi. Trong khi đó, diện tích đất dùng cho nông nghiệp của Anh chiếm tới 29% diện tích đất tự nhiên. Điều này sẽ dẫn tới chi phí cho lao động trong ngành nông nghiệp của Anh cao hơn so với giá đất và tiền vốn. Ngược lại với Anh, ngành nông nghiệp của Việt Nam không chỉ có một lực lượng lao động dồi dào mà còn có đóng góp đáng kể vào GDP. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có diện tích đất canh tác màu mỡ, rộng lớn. Với những lợi thế sẵn có về đất đai, lao động và lượng vốn ít ỏi, Việt Nam nên sản xuất hàng nông lâm sản chế biến và xuất khẩu sang Anh - nơi có yếu tố lao động khan hiếm trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp, là một quốc gia công nghiệp phát triển, với lợi thế về công nghệ, bí quyết kỹ thuật, vốn, Anh tập trung vào ngành công nghiệp chế tạo và năng lượng và phần nào giảm bớt nguồn lực vào công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp vốn là những ngành cần nhiều lao động. Còn ở Việt Nam, do yếu tố lao động dư thừa so với vốn dẫn đến giá lao động rẻ. Vì vậy Việt Nam nên tận dụng yếu tố lao động rẻ, có tay nghề để tập trung vào sản xuất các sản phẩm công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp và xuất khẩu các sản phẩm này. Như vậy, xét ở góc độ các lý thuyết về lợi ích ngoại thương ta có thể thấy tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh của hàng hoá Việt Nam là rất lớn, đặc biệt là mặt hàng nông lâm thuỷ sản, công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp. Trên thực tế, để phát huy được hết những tiềm năng đó, hàng hoá Việt Nam còn phải trải qua rất nhiều thử thách trên thị trường rất khó tính như thị trường Anh. Để xác định rõ hơn triển vọng xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang thị trường Anh - một thị trường quan trọng của EU - người viết sẽ phân tích cơ cấu hàng xuất khẩu, khả năng cạnh tranh và tiềm năng xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam sang thị trường Anh. 2. Vài nét về cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Anh trong những năm gần đây: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Anh nhìn chung ít thay đổi, trong đó hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn là giày dép và may mặc. Sau đây là danh sách các mặt hàng có kim ngạch lớn, ổn định và mặt hàng có tiềm năng phát triển thương mại (Phân tích theo nhóm hàng, giá trị các năm 1999 đến 2002). Bảng 10 : Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Anh Quốc giai đoạn 1999 - 2002 Đơn vị: Nghìn GBP Nhóm hàng Tên hàng 1999 2000 2001 2002 A. Nhóm hàng nguyên liệu thô sơ chế I. Khoáng sản 9.594 7.831 8.511 9.462 1. Thiếc 4.621 5.225 5.574 6.187 2. Than đá 5.973 2.606 2.937 3.275 II. Nông lâm thuỷ sản chính 47.180 52.535 45.923 50.967 1. Cà phê hạt 24.908 26.685 20.944 23.352 2. Gạo 7.565 8.602 6.979 7.781 3. Thuỷ sản các loại 6.331 7.299 8.445 9.394 4. Hạt điều nhân 5.443 6.190 5.689 6343 5. Mây, tre, cói, lá 1.532 1.860 1984 2012 6. Cao su 843 1.057 996 1110 7. Hạt tiêu 249 328 349 386 8. Chè 159 327 342 381 9. Rau hoa quả 150 187 195 208 Tổng 56.774 60.366 54.434 60.429 B. Nhóm hàng chế biến chính 1. Giày dép các loại 112.713 158.379 244.673 296.600 2. Dệt may 37.934 51.253 49.396 53.212 3. Sản phẩm gỗ 14.069 19.700 25.015 34.000 4. Gốm sứ 6.798 8.614 9.189 13.523 5. Đồ chơi trẻ em 8.374 8.540 9.110 10.157 6. Sản phẩm chế biến từ ngũ cốc, bột, tinh bột, sữa 197 223 245 268 Tổng 180.085 246.709 337.628 407.760 C. Nhóm hàng chế biến cao 1. Linh kiện điện tử và tivi, máy tính và linh kiện máy tính 3.066 4.708 3.085 3.439 Nguồn: Vụ Âu Mỹ - Bộ Thương mại Qua 18 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong 3 nhóm hàng xuất khẩu ở bảng 10, ta có thể rút ra một số nhận xét như sau: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của ta sang thị trường Anh khá hợp lý, bao gồm các sản phẩm nông lâm thủy sản chế biến, các sản phẩm công nghiệp nhẹ, thủ công nghiệp và bước đầu đã xuất khẩu các sản phẩm chế biến cao. Nhóm hàng chế biến chính là nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất và có tốc độ tăng trường đều đặn. Trong khi đó, kim ngạch của nhóm hàng nguyên liệu thô và sơ chế thường lên xuống không ổn định. Về nhóm hàng chế biến cao, ta mới chỉ xuất khẩu mặt hàng linh kiện điện tử, tivi, máy tính và linh kiện máy tính với kim ngạch còn rất thấp và chưa ổn định. Đối với nhóm hàng nguyên liệu thô và sơ chế, đây là nhóm hàng có hàm lượng chế biến rất ít, thường phải chịu nhiều ảnh hưởng từ các nhân tố khách quan như tự nhiên, giá cả quốc tế...Do đó, mặc dù lượng xuất khẩu tăng đều nhưng giá trị xuất khẩu lại lúc tăng lúc giảm. Trong nhóm khoáng sản, ta thường xuất khẩu sang Anh hai mặt hàng chủ yếu là thiếc và than đá. Tuy nhiên chỉ có mặt hàng thiếc có kim ngạch tăng. Do là một nước cũng có nguồn tài nguyên than đá khá lớn nên lượng than đá mà Anh nhập khẩu từ Việt Nam thường phụ thuộc vào lượng khai thác trong nước, dẫn đến kim ngạch không ổn định. Trong tương lai, những mặt hàng thuộc loại khoáng sản sẽ giảm lượng nhập khẩu sang Anh. Nguyên nhân là do chủ trương giảm dần tỷ trọng hàng nguyên liệu thô trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Mặt khác Anh không chỉ là nước có nhiều tài nguyên mà còn có một thị trường nhập khẩu khoáng sản lớn, đó là thị trường các nước nằm trong khối Thịnh vượng chung. Chín mặt hàng trong nhóm nông lâm thuỷ sản đều là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đây đều là những mặt hàng rất có tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh. Là một nước nằm ở Tây Bắc của châu Âu với khí hậu ôn đới nên những mặt hàng nông lâm thuỷ sản nhiệt đới rất được người tiêu dùng Anh ưa chuộng. Tuy nhiên, những mặt hàng này của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Anh không chỉ thấp mà còn rất bấp bênh. Điển hình như mặt hàng cà phê. Mặc dù lượng xuất khẩu của năm 2001, 2002 tăng so với năm 2000 nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu của năm 2001, 2002 lại thấp hơn so với năm 2000 rất nhiều. Mặt hàng gạo, hạt điều, cao su cũng ở tình trạng tương tự. Những mặt hàng này tuy không phải chịu nhiều rào cản khắt khe của thị trường Anh như các mặt hàng nông sản khác nhưng lại chịu nhiều ảnh hưởng của những nhân tố khách quan khác như giá cả quốc tế, điều kiện tự nhiên...Các mặt hàng mây tre cói, hạt tiêu, chè, rau quả tuy tăng đều qua các năm nhưng tốc độ tăng chậm và lượng kim ngạch còn thấp. Chỉ có mặt hàng thuỷ sản là tăng khá qua các năm nhưng kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường Anh còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ bé trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam (trung bình chỉ chiếm khoảng 0,68%). Nhóm hàng chế biến chính bao gồm các sản phẩm công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp là nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất và tăng trưởng khá nhất. Đây là nhóm hàng được hưởng chế độ Ưu đãi phổ cập GSP của EU với mức ưu đãi hơn so với các mặt hàng nông sản. Trong số các mặt hàng thuộc nhóm này, mặt hàng giày dép có kim ngạch lớn nhất, thường chiếm tới hơn 1/2 tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng chế biến chính. Thị trường Anh cũng là một trong những thị trường xuất khẩu giày dép lớn của Việt Nam (chiếm khoảng 14% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam). Tuy nhiên phần lớn sản phẩm giày dép xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Anh phải xuất qua trung gian là các nước châu á khác như Đài Loan, Malaisia...Các sản phẩm gỗ và gốm sứ là hai mặt hàng mới có sức tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây. Đặc biệt là sản phẩm gỗ, đây là mặt hàng rất có tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh vì Anh là một trong những thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới. Sản phẩm chế biến từ ngũ cốc, đồ chơi là những mặt hàng hoàn toàn có khả năng đẩy nhanh xuất khẩu vào thị trường Anh. Tuy nhiên, do là hàng thực phẩm và hàng mang tính chất giáo dục nên những mặt hàng này đều phải trải qua quá trình kiểm nghiệm rất khắt khe của các cơ quan chức năng Anh. Trong nhóm hàng chế biến cao, ta mới chỉ xuất khẩu mặt hàng linh kiện điện tử, tivi, máy tính và linh kiện máy tính. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu vẫn chưa ổn định và còn ở mức thấp do khả năng cạnh tranh của Việt Nam về mặt hàng này còn kém. Qua một số nhận xét trên ta có thể thấy sản phẩm có triển vọng xuất khẩu vào thị trường Anh lớn nhất vẫn là các sản phẩm thuộc nhóm hàng chế biến chính. Kế tiếp là nhóm sản phẩm nguyên liệu thô và nông lâm thuỷ sản. So với nhóm chế biến chính nhóm này sẽ gặp một số khó khăn hơn khi xuất khẩu sang thị trường Anh. Sau cùng là nhóm chế biến cao. Đây là nhóm hàng mới thâm nhập thị trường Anh nên còn gặp rất nhiều trở ngại khi thâm nhập thị trường này. Sau đây là những phân tích rõ hơn về tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Anh Quốc. 3. Tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh của hàng hoá Việt Nam: Có thể nói thị trường Anh là thị trường rất thích hợp đối với xuất khẩu của Việt Nam. Điều này không còn chỉ thể hiện ở lý thuyết mà còn thể hiện ở tình hình cơ cấu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Anh trong những năm qua. Trong tương lai, triển vọng xuất khẩu sang thị trường Anh của hàng hoá Việt Nam là rất lớn. Sau đây là những phân tích rõ hơn về tiềm năng xuất khẩu của một số nhóm hàng chính căn cứ theo dự kiến cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 (xem bảng phụ lục 4). 3.1: Nhóm hàng chế biến chính: Trong bản tóm tắt chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2010 của Bộ Thương mại, những mặt hàng chủ yếu trong nhóm hàng chế biến chính bao gồm: Thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, vật liệu xây dựng. Căn cứ vào các tiêu chí: tăng trưởng xuất khẩu, nhu cầu thị trường, nguồn cung và khả năng cạnh tranh, các ưu tiên thì nhóm sản phẩm của Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Anh nhất là giày dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ. 3.1.1. Sản phẩm giày dép: Về nhu cầu thị trường, Anh là một thị trường có sức tiêu thụ lớn các sản phẩm giày dép. Nhu cầu tiêu thụ giày dép tại thị trường Anh hàng năm rất lớn so với nhiều nước khác thuộc EU. Theo dự báo của các chuyên gia thị trường, tổng chi cho các mặt hàng giày dép của Anh từ nay đến năm 2006 sẽ tăng từ 2% đến 3% mỗi năm trong khi chi tiêu cho sản phẩm này ở các thị trường lớn trong EU hầu như không tăng. Xu hướng tiêu dùng giày dép ở Anh chuyển biến mạnh từ hình thức sang sự tiện lợi. Giày dép vải bạt và giày thể thao, giày không thấm nước đang trở nên phổ biến đối với mọi lứa tuổi. Đáng chú ý là nhu cầu tiêu dùng sẽ tập trung vào các loại giày dép thông thường, nhẹ và đề cao tính tiện ích. Ngoài ra, thời trang giày không còn do nhà thiết kế đề xuất nữa mà do nhu cầu tiện dụng và đặc tính cá nhân quyết định. Thời trang giày ngoài việc dựa trên mẫu cơ bản còn phải đáp ứng những nhu cầu về màu sắc, chất liệu, kiểu dáng, độ cao, trang trí...Thêm một đặc điểm rất quan trọng của thị trường Anh là số người tiêu dùng cao tuổi gia tăng. Do đó nhu cầu về giày chất lượng cao, vừa chân hơn cũng tăng đáng kể. Về tăng trưởng xuất khẩu, trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường Anh có mức tăng trưởng rất cao. Trung bình mỗi năm tăng trưởng khoảng 25%. Giày dép cũng là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Anh. Trong năm 2002, chỉ riêng nhóm hàng giày và giày vải thể thao đã chiếm tới 48% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Anh và tăng 22,3% so với năm 2001. Về nguồn cung và khả năng cạnh tranh: Ngành giày dép của Việt Nam là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh trong thời gian qua. Năm 2000 sản xuất được 245 triệu đôi giày (tăng 30% so với năm 1999). Năm 2001, ngành da giày đạt kim ngạch xuất khẩu là 1.520 tỷ USD, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của ngành tăng 20%, đạt 1.828 tỷ USD và sơ bộ 10 tháng đầu năm 2003, kim ngạch đã đạt 2.100 tỷ USD. Giày dép Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang châu Âu với tỷ trọng tăng từ 19% năm 1997 lên tới trên 70% năm 2002. Tỷ lệ xuất khẩu sang châu á giảm dần trong khi tỷ lệ xuất khẩu sang các thị trường khó tính hơn đang tăng lên. Hiện nay Việt Nam đứng thứ ba châu á về xuất khẩu giày dép (sau Trung Quốc và Indonesia). Ngành da giày Việt Nam là ngành có khả năng cạnh tranh. Những điểm mạnh của ngành này là: Thứ nhất, giá lao động rẻ, tay nghề công nhân khá. Theo thống kê, giá nhân công trong ngành da giày của Việt Nam vào khoảng 42 - 47 USD/tháng, trong khi đó ở Malaisia là 50 USD, Thái Lan - 135 USD, Philippin - 130 USD, Hồng Kông - 750 USD, Đài Loan - 870 USD, Trung Quốc - 80 USD. Thứ hai, chất lượng giày dép, đồ da đã được khách hàng quốc tế chấp nhận. Theo đánh giá của các nhà nhập khẩu Anh Quốc, sản phẩm giày dép của Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu của thị trường này. Thứ ba, ngành giày da của Việt Nam đã thu hút được các nhà đầu tư thuộc các nước NIC, tạo điều kiện cho hàng da giày Việt Nam thay thế sản phẩm trước đây của họ xuất khẩu sang các thị trường EU, Bắc Mỹ, Đông á. Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của các nhà nhập khẩu Anh, sản phẩm giày dép của Việt Nam chưa tạo được ấn tượng về thương hiệu cho người tiêu dùng Anh do sản phẩm chưa được quảng bá mạnh mẽ. Sản phẩm giày da của Việt Nam còn gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt từ phía Trung Quốc. Đây là những vấn đề mà nhà xuất khẩu giày dép của Việt Nam cần phải chú ý khi xuất khẩu sang thị trường Anh. Về các ưu đãi: Hiện nay, sản phẩm giày dép của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Anh được hưởng chế độ Ưu đãi phổ cập (GSP) của EU. Với mức thuế ưu đãi bằng 70% mức thuế thông thường, tức bằng 11,9% giá nhập khẩu, nên xuất khẩu cũng bớt khó khăn hơn. Ngày 11/10/2000, Hiệp định hàng Dệt may và giày dép giữa Việt Nam và EU được ký kết đã hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho xuất khẩu giày dép của ta sang thị trường Anh, đặc biệt là giúp cho cả hai phía ngăn ngừa được các gian lận thương mại trong mậu dịch giày dép. Tuy nhiên, chúng ta còn gặp nhiều hạn chế trong khâu thiết kế mẫu mã và phát triển sản phẩm. Xuất khẩu giày dép của ta sang thị trường Anh phần nhiều lại xuất khẩu qua trung gian, mạng lưới tiêu thụ lại phụ thuộc nặng nề vào các đối tác liên doanh. Tại thời điểm này, ngành giày dép nên chú trọng sản xuất sản phẩm có giá trị cao, mẫu mã đẹp thay vì nâng số lượng xuất khẩu vào Anh. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam biết khai thác và xúc tiến có hiệu quả thì Anh sẽ trở thành thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành giày dép Việt Nam trong tương lai gần. 3.1.2: Sản phẩm dệt may: Về nhu cầu thị trường: Như người dân EU nói chung, mức tiêu dùng hàng dệt may của người dân Anh vào loại cao hàng đầu thế giới với khoảng 17 kg/người/năm. Tuy nhiên, khác với phần lớn các nước khác trong EU, thị trường dệt may của Anh có sự phân biệt khác rõ ràng. Do Anh là đất nước có sự phân hoá tầng lớp xã hội rõ rệt nên khi thâm nhập thị trường này, các doanh nghiệp cần chú ý tới nhu cầu ăn mặc của mỗi tầng lớp. Việt Nam là một nước đang phát triển, trong tình hình hiện tại hàng dệt may của Việt Nam phù hợp với người dân có mức sống trung bình. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên chú ý nhiều tới nhóm tiêu dùng này trên thị trường Anh. Nhóm này chiếm tỷ lệ khá đông trong xã hội Anh hiện nay (khoảng 65% - 70% dân số) bao gồm những người trung lưu cấp trung cho đến tầng lớp lao động. Nhu cầu của nhóm này tuy không quá khắt khe nhưng cũng có những đòi hỏi nhất định về mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Xu hướng tiêu dùng hiện nay đang có sự thay đổi từ hàng bền trước đây sang hàng sử dụng ngắn ngày, rẻ hơn chút ít với chất liệu tự nhiên như dùng bông sợi tự nhiên thay cho sợi tổng hợp...Nhìn chung, người tiêu dùng Anh tỏ ra khó tính hơn nhiều so với người tiêu dùng ở thị trường EU nói chung trong việc ăn mặc. Do đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải tìm hiểu kỹ nhu cầu thị trường Anh trước khi xuất khẩu. Về tăng trưởng xuất khẩu: Nhóm hàng dệt may là một trong những nhóm hàng có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sang thị trường Anh, trung bình tăng khoảng 15%/năm. Hiện nay, nhóm hàng dệt may chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Anh. Trong số các nước EU, Anh là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ tư của Việt Nam với tỷ lệ 9% trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, sau Đức (40%), Pháp (13%) và Hà Lan (10%). Các sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Anh chủ yếu là quần áo thể thao, áo jacket, áo sơ mi. Ngoài những mặt hàng này, các mặt hàng khác như áo len và áo dệt kim, quần áo bảo hộ lao động, quần dệt kim, áo khoác nam cũng có tiềm năng lớn xuất khẩu sang Anh. Về nguồn cung và khả năng cạnh tranh: Dệt may là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ hai của Việt Nam sau dầu thô. Hiện nay, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trung bình mỗi năm sản xuất được khoảng 85.000 tấn sợi, 304 triệu m2 vải và lụa, 400 triệu sản phẩm may với doanh thu xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD. Việt Nam có khả năng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang một thị trường cạnh tranh dữ dội và khó tính nhưng có khả năng tiêu thụ lớn như thị trường Anh Quốc. So với các nước ASEAN, ngành dệt may nước ta có lợi thế về nguồn nhân công rẻ, khéo léo và có khả năng tiếp thu nhanh công nghệ tiên tiến. Giá nhân công lao động trong ngành dệt may Việt Nam chỉ khoảng 0,24 USD/giờ, trong khi của Indonesia là 0,32 USD; Trung Quốc là 0,34 USD; Thái Lan là 0,87 USD; Malaisia là 1,13 USD; Singapore là 3,16 USD và Đài Loan là 5 USD/giờ. Tuy nhiên, trên thị trường Anh hiện nay, dệt may Việt Nam vấn vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía Trung Quốc. Đây là đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam do chủng loại hàng may mặc của Việt Nam và Trung Quốc khá giống nhau. Trung Quốc chiếm khoảng 18,5% thị phần hàng dệt may trên thị trường EU, trên thị trường Anh tỷ lệ này cao hơn với mức 20%. Đây là một thách thức lớn đối với dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Anh. Về các ưu đãi: Việc xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Anh phải tuân thủ những biện pháp quản lý dệt may của EU. Dệt may hiện là mặt hàng được EU quản lý bằng hạn ngạch. Đây là một hạn chế đáng kể đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Anh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam có thuận lợi là Việt Nam và EU đã ký kết Hiệp định song phương về buôn bán hàng dệt may. Trên cơ sở đó, cứ sau một khoảng thời gian từ 2 đến 3 năm, bản Hiệp định được EU bổ sung với việc tăng một mức hạn ngạch nhất định cho Việt Nam. Cho đến nay, EU đã ba lần bổ sung tăng hạn ngạch dệt may cho Việt Nam vào các năm 1998, 2001 và thỏa thuận mới vào 15/2/2003. Về phía Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010, chiến lược hành động "tận dụng thời cơ, tăng tốc phát triển" với nhiều biện pháp và ưu đãi nhằm thú

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrien vong XK sang thi truong Anh quoc cua VN.doc
Tài liệu liên quan