Khóa luận Điều tra thành phần côn trùng trên cây vải thiều và nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. tại Sóc Sơn Hà Nội và các vùng phụ cận năm 20052006

Tài liệu Khóa luận Điều tra thành phần côn trùng trên cây vải thiều và nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. tại Sóc Sơn Hà Nội và các vùng phụ cận năm 20052006: CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ. Cây vải có tên khoa học là Litchi chinensis Sonn. Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae) có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc. Ngày nay, cây vải được trồng ở nhiều nước trên thế giới. Vải là cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Thịt quả chứa rất nhiều vitamin B, C, E và các chất vi lượng có lợi cho sức khoẻ con người. Quả vải được ăn tươi, sấy khô hoặc làm đồ hộp, nước giải khát. Vỏ quả, thân cây và rễ có nhiều tanan có thể dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp. Hoa vải còn là nguồn mật có chất lượng cao. Ngoài ra gỗ vải là loại gỗ quý, không mối mọt, bền nên có thể dùng để xây nhà, đóng đồ. Tán cây vải cao lớn, sum suê, rễ bám chắc có thể làm cây bóng mát, cây chắn gió, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống xói mòn,giữ cho đất luôn tươi xốp,...mang nhiều ý nghĩa về mặt môi trường. Cây vải có tính thích ứng mạnh, dễ trồng, chịu được đất chua, đất dốc nên phát triển tốt trên các vùng đồi hoang hoá. Ở Việt Nam vải thường được trồng phổ biến ở...

docx64 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Điều tra thành phần côn trùng trên cây vải thiều và nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. tại Sóc Sơn Hà Nội và các vùng phụ cận năm 20052006, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ. Cây vải có tên khoa học là Litchi chinensis Sonn. Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae) có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc. Ngày nay, cây vải được trồng ở nhiều nước trên thế giới. Vải là cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Thịt quả chứa rất nhiều vitamin B, C, E và các chất vi lượng có lợi cho sức khoẻ con người. Quả vải được ăn tươi, sấy khô hoặc làm đồ hộp, nước giải khát. Vỏ quả, thân cây và rễ có nhiều tanan có thể dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp. Hoa vải còn là nguồn mật có chất lượng cao. Ngoài ra gỗ vải là loại gỗ quý, không mối mọt, bền nên có thể dùng để xây nhà, đóng đồ. Tán cây vải cao lớn, sum suê, rễ bám chắc có thể làm cây bóng mát, cây chắn gió, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống xói mòn,giữ cho đất luôn tươi xốp,...mang nhiều ý nghĩa về mặt môi trường. Cây vải có tính thích ứng mạnh, dễ trồng, chịu được đất chua, đất dốc nên phát triển tốt trên các vùng đồi hoang hoá. Ở Việt Nam vải thường được trồng phổ biến ở vùng núi phía Bắc và miền trung du. Chủ trương của Đảng và chính phủ là chuyển dịch cơ cấu cây trồng, phát triển kinh tế trang trại nhằm xoá đói giảm nghèo. Vì vậy trong những năm gần đây diện tích trồng vải trên đất đồi tăng lên nhanh chóng, đời sống của bà con nông dân không ngừng được cải thiện, kinh tế ngày càng phát triển, đồng thời giúp ổn định được trật tự an ninh xã hội. Diện tích trồng vải tăng nhanh đồng nghĩa với việc mật độ và chủng quần sâu hại gia tăng. Có rất nhiều loại côn trùng hại cho vải như bọ xít hại nhãn vải, sâu cuốn lá, sâu đo, sâu xanh bướm vàng xám, rệp muội, rệp sáp,...Để phòng trừ sâu hại nông dân đã dựa chủ yếu vào thuốc hoá học mà không biết đến tác hại của nó gây ra như : làm phá vỡ mối cân bằng sinh thái tiêu diệt các loài kẻ thù tự nhiên, làm ô nhiễm môi trường, làm tăng tính kháng thuốc của những loài sâu hại. Việc sử dụng thuốc hoá học bừa bãi đã để lại lượng tồn dư hoá chất trong nông sản, thực phẩm làm ảnh hưởng đáng kể tới sức khoẻ cộng đồng. Để ổn định và phát triển nông nghiệp một cách bền vững nói chung cũng như cây vải Thiều nói riêng cần nâng cao sự hiểu biết cho cộng đồng về sâu hại và thiên địch của chúng để có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn dịch hại cũng như bảo vệ khai thác hợp lý những loài côn trùng có ích, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật độc hại cho con người và môi trường sống. Được phép của khoa Công nghệ sinh học - Viện Đại học Mở Hà Nội, dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Xuân Thành - Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Điều tra thành phần côn trùng trên cây vải thiều và nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. tại Sóc Sơn Hà Nội và các vùng phụ cận năm 2005-2006. 1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI. Xác định được thành phần côn trùng có lợi và có hại theo mùa vụ và theo vùng địa lý. Vẽ được đồ thị quy luật biến động số lượng của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. Nắm được đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái cơ bản của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. Vai trò của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. trong việc tiêu diệt côn trùng hại. 1.3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI. A.Điều tra nghiên cứu tại thực địa. 1. Xác định sự đa dạng về thành phần loài côn trùng hại và thiên địch của chúng. 2. Xác định quy luật phát sinh cũng như sự phân bố loài theo cây hoặc nhóm cây trồng theo mùa vụ hoặc vùng lãnh thổ địa lý. B. Nghiên cứu trong phòng. 1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái cơ bản của bọ rùa 18 chấm. 2. Nghiên cứu khả năng tiêu diệt rệp của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata nhằm đề xuất hướng bảo vệ, sử dụng một cách có hiệu quả. CHƯƠNG 2 : TỔNG QUAN 2.1.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÔN TRÙNG HẠI VÀ THIÊN ĐỊCH CỦA CHÚNG. Cây vải là cây á nhiệt đới, nóng quá thì không ra hoa chỉ ra lá, rét quá thì chết. Vải được trồng ở những nơi có độ ẩm cao thường trồng ở vùng đồi núi, do đó thuận lợi cho các loại côn trùng phát triển. Ở các vùng địa lí khác nhau, những giai đoạn sinh trưởng và phát triển khác nhau có nhiều loại côn trùng khác nhau tấn công gây hại làm tổn thất về chất lượng và năng suất của sản phẩm. 2.1.1. Những nghiên cứu về côn trùng vải thiều của các tác giả nước ngoài Ở Ấn Độ, L.B Singh đã tìm ra 11 loài ong, ruồi , ong bắp cày và những loài côn trùng khác thấy ở hoa vải. Ong mật, phần lớn là Apis cerana indica, A. dorsata và A. florea, 78% thụ phấn vải và chúng làm việc cả ngày và đêm. ( ) Năm 1932, Liên Xô đã nhập nội một loài bọ rùa từ Ai Cập có sức tiêu thụ rất mạnh các loài rệp Pseudococcus gabani, Pseudococcus cirti và rệp Pulvinaria phá hoại trên cây ăn quả và cây chè, kết quả là đã diệt được phần lớn các loài rệp này. Ở Ba Lan đã thả 1500 ong mắt đỏ cho 1 cây ăn quả lâu năm cho mỗi đợt để diệt trứng của các loài sâu hại quả, kết quả thu được rất khả quan. (Hồ Khắc Tín(1982). Giáo trình côn trùng nông nghiệp, NXB Nông nghiệp). Năm 1941 ở Trung Quốc bọ xít hại nhãn vải Tessaratoma pappillosa và một loài côn trùng nhãn là Cornegenapsylla sinica gây ra đã làm cho lá cây vải bị nhỏ , quăn, hoa phát triển kém và bị biến dạng. Tỷ lệ cây nhãn vải ra chồi bất thường từ 20 –100%. Càng ở cây trưởng thành thì tỷ lệ càng cao. Loại bệnh này thường khiến cho năng suất giảm trung bình khoảng 10 – 20% thậm chí ở tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây thì sự thất thu là 50%. Năm 1993 D.F Waterhouse đã công bố 4 loài sâu hại chính và quan trọng ở phía nam Châu Á là Aceria litchi (Keifer), Cnopomorpha sinensis, Cossus sp., Tessaratoma papillosa Drury. (The Maior Arthropod Pest and Weed of Agriculture in Southeast Asia: Distribution Impotance and Origin. Canberra, Australia – 1993.) Năm 1997 nhóm tác giả LiLi_ Ying Wang Ren và D.F Water house đã xác định được 10 loài sâu hại phổ biến và quan trọng trên cây nhãn và vải ở phía nam Trung Quốc. (The distribution and impotance of arthropod pest and weed of Agriculture and Forestry plantationsin Southern China. Canberra 1997) Năm 1998 Rajpal Singh và cộng tác viên phát hiện ra 16 loài sâu hại phổ biến tại một số huyện của Trung Quốc. (K.Flower visitor of litchi and their role in pollinnation and fruit production. Pest Management and Economic Zoology, 1998. Vol. 6, No. 1, pp. 1 – 5.7 ref.). Năm 1998, Liu Xi Die và cộng tác viên đã tiến hành nhân nuôi ong Anastatus Japonicus Ashmaed để trừ bọ xít nhãn vải, hiệu lực phòng trừ đạt 94%. (Experiment of control of litchi stink bug by using Anastatus japonius Ashmead. South China Fruit, 1998) Năm 1998 Randahawa H.S và Gill R.S đã nghiên cứu về loài sâu đục hạt vải Blastobasis sp. (Lepidoptera Blastobasidae). Năm 1998 Liu Yu Fang và cộng sự nghiên cứu và so sánh mức độ ký sinh của 2 loài ong Anastatus sp. và Ooencyrtus sp. trên 2 vườn vải, 1 có sử dụng thuốc trừ sâu hoá học, 1 vườn áp dụng biện pháp điều khiển dịch hại tổng hợp IPM , kết quả tỷ lệ ký sinh của của vườn sử dụng thuốc hoá học chỉ thấy ong Anastatus sp. xuất hiện với tỷ lệ rất thấp, không thấy ong ký sinh Ooencyrtus sp. trong khi vườn áp dụng IPM, tỷ lệ ký sinh của ong Anastatus sp. là 17,7 – 18,4%, ong Ooencyrtus sp. là 23,5 – 30,4%. Năm 1998, Luo Qi Hao và cộng sự đi sâu nghiên cứu loài bướm đêm chích hút quả vải Comocritis albicapilla Morinti, đây là một trong các loài sâu hại quan trọng. (Study on Comocritis albicapilla of litchi tree. Journal of South China Agricaltural University, 1998) Năm 1999, Tan Shi Dong và cộng tác viên đã điều tra phát hiện được 83 loài sâu hại trên cây vải thuộc 76 giống, 30 họ, 7bộ, trong đó có 14 loài quan trọng nhất. (Study on the structure and dynamic of pest community in lychee orchard. Actaphytoppylacica Sinica, 1999) Năm 1999, Yang Chi Kun và cộng sự đã nghiên cứu về loài ruồi hại vải thuộc giống Oligotrophini ở Quảng Đông, Trung Quốc. (A new genus ang species of gall midge (Dipera Cecidomyiidao) infesting litchi from China. Entomotaxonomia, 1999) 2.1.2.Những nghiên cứu về côn trùng vải thiều của các tác giả trong nước. Điều kiện khí hậu nhiệt đới của nước ta rất thuận lợi cho sự phát triển của côn trùng.Trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học Việt Nam đi sâu nghiên cứu về hệ côn trùng phong phú và đa dạng đó. Năm 1967–1968, Viện BVTV đã điều tra thu thập được 18 loài sâu hại nhãn vải là: bọ dừa nâu, bọ dừa nâu nhỏ, sâu tiện vỏ, xén tóc mai rùa, rệp sáp cạnh, rệp sáp đỏ, rệp sáp nâu mềm, bọ xít vằn, sâu cuốn lá, rệp sáp Ai Cập, rệp sáp lớn giả cam , rệp sáp hình bán cầu , ve sầu bướm , bọ đa lớn hai chấm và bọ xít nhãn. (Kết quả điều tra côn trùng 1967–1968. NXB nông thôn.) Năm 1982, sau một quá trình nghiên cứu có hệ thống, Hoàng Đức Nhuận đã phát hiện được ở Việt Nam trên 220 loài thuộc 65 giống, 15 tộc và 6 phân họ. (Bọ rùa – Coccinellidae ở Việt Nam. NXB Khoa học và kỹ thuật Hà Nội - 1982) Năm 1990, theo tác giả Vũ Công Hậu thì sâu hại vải thì có rất nhiều loài khác nhau, trong đó có các loài gây hại chủ yếu như: bọ xít nhãn vải (Tessaratoma papillosa), bọ xít dài hôi (Leptocorisa acuta), sâu đục vỏ (Indarbela sp), sâu cuốn lá (Olethreutes leucaspis), sâu đo xanh hai sừng (Thalassodes guadraria), rệp sáp (Ceroplastes rubens),...(Trồng cây ăn quả ở Việt Nam – NXB Nông nghiệp TP Hồ Chí Minh, 1990). Bọ xít Tessaratoma papillosa là loài nghiêm trọng với các vườn vải và nhãn, chúng chích hút mầm non, quả non gây hiện tượng rụng quả, nếu chích hút quả già thi gây kém chất lượng. Năm 1995, Vũ Quang Côn và cộng sự nghiên cứu một số đặc điểm phát sinh , phát triển của bọ xít nhãn vải Tessaratoma papillosa Drury (Hemiptera : Pentatomidae ), đi sâu nghiên cứu sự phát triển của cá thể, của các cơ quan sinh sản, sự phát sinh lứa và biến động số lượng loài. Kết quả cho thấy thời gian cùng tồn tại gối lứa của bọ xít trưởng thành thế hệ cũ và mới kéo dài khoảng 30 ngày, trong đó bọ xít trưởng thành của thế hệ mới chiếm tới 61,4% còn bọ xít trưởng thành thế hệ cũ chỉ 38,6% Bằng thực nghiệm cho thấy mỗi con cái thế hệ mới ghép đôi giao phôí với con đực thế hệ cũ đẻ được 2 – 3 ổ trứng. Hiện tượng tiêu sinh trứng của trưởng thành cái xảy ra khi cách ly chúng với cây nhãn vải. Mật độ bọ xít cao nhất vào trung tuần tháng 4 (48 – 56 con/cây). (Một số đặc điểm phát sinh, phát triển của bọ xít nhãn vải Tessaratoma papillosa Drury (Hemiptera : Pentatomidae). Những công trình nghiên cứu cơ bản , 1995 ) [225–231]. Năm 1995, Trần Huy Thọ và cộng sự đã phát hiện dược 19 loài sâu hại và 4 loài nhện hại tại Hà Nội, Hải Hưng, Hà Nam, Yên Bái. Những loài sâu hại chính đó là: bọ xít hại nhãn vải , rệp sáp , ve sầu bướm , sâu tiện vỏ , sâu đục cành, sâu đục thân, nhện lông nhung và ruồi đục quả. (Một số kết quả nghiên cứu về sâu hại chủ yếu trên một số cây ăn quả ở miền Bắc nước ta. Tuyển tập công trình nghiên cứu. Viện BVTV 1990 – 1995). Năm 1998 – 2000, Nguyễn Xuân Hồng đã xác định được 15 loài sâu hại vải ở Lục Ngạn (Bắc Giang), và Chương Mỹ (Hà Tây). Trong đó có 14 loài thuộc 5 bộ của côn trùng và 1 loài nhện hại, phổ biến là nhện lông nhung, bọ xít hại nhãn vải, rệp muội, sâu đục quả và ngài chích hút. Ngoài ra còn ghi nhận được một số đối tượng khác là dơi và chuột. Năm 2001, chi cục BVTV tỉnh Bắc Giang đã ghi nhận được 17 loài sâu hại tại Bắc Giang chủ yếu là ve sầu nhảy, bọ xít nhãn vải và nhện lông nhung. Năm 2003, đã có nhiều công trình nghiên cứu về côn trùng trên cây nhãn vải. Phạm Văn Lầm và Nguyễn Thành Vĩnh dẫn liệu bước đầu về đặc điểm sinh học cơ bản của ong đen Ooencyrtus phongi Trjap ký sinh trứng bọ xít nhãn vải cho thấy: ở nhiệt độ 28,4 – 31,1°C và độ ẩm 74,2 – 79,6%, Ooencyrtus phongi ký sinh trứng bọ xít nhãn vải lhoàn thành vòng đời trong thời gian trung bình từ 12,8 – 13,5 ngày. Tuổi thọ của ong trưởng thành kéo dài 2,3 – 2,6 ngày (không được ăn thêm lá hoặc chỉ uống nước lã) đến 6,9 – 11,3 ngày (được ăn thêm nước đường hoặc dung dịch mật ong 50%). Một con ong trưởng thành cái ký sinh trung bình được 12,2 trứng bọ xít T.papillosa và sản sinh trung bình 136 ong trưởng thành cho đơì sau. (Dẫn liệu bước đầu về đặc điểm sinh học cơ bản của ong đen Ooencyrtus phongi Trjap, Myart. et Kost (Hymenoptera, Encyrtidae) ký sinh trứng bọ xít nhãn vải _ Tạp chí BVTV số 3/2003). Cũng trong năm 2003, Phạm Đình Sắc nghiên cứu cấu trúc loài nhện bắt mồi và biến động số lượng của một số loài phổ biến trên cây vải vùng Sóc Sơn Hà Nội đã xác định được 33 loài nhện bắt mồi thuộc 10 họ, trong đó họ nhện nhảy Salticidae có số loài cao nhất (9 loài), tiếp đến là họ bụng tròn chăng lưới Araneidae (7 loai), họ nhện hàm dài Tetragnathidae (6 loài), họ nhện càng cua Thomicidae (3 loài), các họ còn lại 1 – 2 loài. Những loài bắt gặp nhiều và chiếm ưu thế trên vườn vải tại Sóc Sơn là nhện nhảy sọc đỏ Epocilla canlcarata, nhện nhảy vằn xanh Phintella sp., nhện càng cua lớn Heteropoda sp..Số loài nhện đã xác định dược trên cây vải tại Sóc Sơn Hà Nội phong phú hơn số loài nhện trên cây vải tại vùng Mê Linh Vĩnh Phúc. (Cấu trúc loài nhện bắt mồi và biến động số lượng của một số loài phổ biến trên cây vải vùng Sóc Sơn Hà Nội. Tuyển tập công trình nghiên cứu BVTV - Viện Bảo vệ thực vật - NXB Nông nghiệp)[125_129]. Năm 2003, Đào Đăng Tựu, Lê Văn Trịnh và Trần Huy Thọ đã điều tra thu thập được 51 loài sâu và nhện hại trong đó có 46 loài tập trung ở 6 bộ côn trùng và 5 loài ở lớp nhện. Bộ cánh vẩy Lepidoptera có nhiều nhất là 8 loài chiếm 35,3%, bộ cánh đều Homoptera có 15 loài chiếm 29,4%, bộ cánh cứng Coleoptera 8 loài chiếm 15,7%, cánh nửa Hemiptera 3 loài chiếm 5,8%, hai cánh Diptera, cánh tơ Thysanoptera chiếm 1,9%. Lớp nhện có 5 loài chiếm 10%. Trong số 51 loài gây hại đã phát hiện có 11 loài sâu hại rất phổ biến trong đó có 9 loài là đối tượng tập trung gây hại từ thời kỳ ra hoa cho tới lúc thu hoạch bao gồm : bọ xít vải , rệp muội , rệp sáp , sâu đục cuống quả, ruồi hại quả, nhện lông nhung, nhện chổi rồng, bướm chích quả,ve sầu bướm hai chấm trắng. Các kết quả khảo sát nhện trên cây vải tại Mê Linh - Vĩnh Phúc và Sóc Sơn- Hà Nội cho thấy số loài và mật độ nhện ở mức cao trong quần xã các loài có ích. Năm 2003, Phạm Đình Sắc và Vũ Quang Côn đã nghiên cứu thành phần, số lượng và sự trú đông của nhện Araneae trên cây vải vùng Mê Linh – Vĩnh Phúc. Kết quả cho thấy nhện ẩn nấp ở bên trong giữa tấm các tông và vỏ thân hoặc cành cây. Trong tổng số 30 tấm các tông được đặt cố định trên cây vải thu được 179 cá thể nhện của 19loài thuộc 9 họ. Loài nhện thu được nhiều nhất là nhện nhảy vằn lưng Bianor hotingchiehi, sau đó là loài nhện nhảy sọc đỏ Epocilla calcarata. Số lượng nhện trú ẩn qua đông đạt cao nhất trong thời gian từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 11, đây cũng là thời kỳ rụng lá của vườn cây ăn quả. (Thành phần, số lượng và sự trú đông của nhện Araneae trên cây vải tại vùng Mê Linh- Vĩnh Phúc. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống-báo cáo khoa học hội nghị toàn quốc lần thứ 2, nghiên cứu cơ bản trong sinh học, nông nghiệp, y học - Huế 25 - 26/7/2003) [713 – 716]. Theo Bùi Lan Anh và Ngô Xuân Bình, đã nghiên cứu điều tra một số sâu bệnh hại nhãn vải tại Thái Nguyên năm 2002 – 2003. Kết quả cho thấy sâu hại nhãn vải có 19 loài, trong đó hại lá 12 loài, hại thân cành 1 loài và 6 loài hại hoa và quả. Trong số những loài sâu hại đáng chú ý là sâu đục gân lá tỷ lệ hại trung bình 5 - 10% , nơi bị hại nhiều nhất có khi lên tới 19 - 26%. Sâu đục quả tỷ lệ hại trung bình 0,5%, nơi bị hại nặng tỷ lệ hại trên 10%. Các loài bọ xít, sâu ăn lá, sâu đục thân cành cây gây hại có tính chất cục bộ. (Một số kết quả điều tra sâu bệnh hại nhãn vải tại Thái Nguyên năm 2002 – 2003. Tạp chí Bảo vệ thực vật số 6/2003). TS.Nguyễn Xuân Thành - Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật, đã đóng góp cho nghành nghiên cứu côn trùng học nói chung và côn trùng trên cây vải nói riêng nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Năm 1998 – 1999, Nguyễn Xuân Thành nghiên cứu ở nông trường Bình Khê , xã Tràng Lương , huyện Đông Triều, Quảng Ninh và nông trường Hà Trung, Thanh Hoá. Số lượng loài thu được là 77 loài sâu hại và 1 loài nhện hại, trong đó : Bộ cánh phấn có 39 loài, bộ cánh đều 13 loài, bộ hai cánh có 1 loài, bộ cánh nửa 4 loài, bộ cánh cứng 19 loài. Côn trùng có ích gồm 14 loài côn trùng ăn thịt (thuộc 6 bộ và 8 họ ) và 13 loài côn trùng ký sinh (11 loài thuộc bộ cánh màng , 2 loài thuộc bộ hai cánh). Nhện hại mới phân loại được một loài là Eriophies litchi Keifer thuộc họ Eriophydae, số lượng loài nhện ăn thịt thu được là 10 loài. Ông đã nghiên cứu sinh học sinh thái về loài sâu cuốn lá đầu đen và sâu cuốn lá đầu nâu, nhóm sâu nhớt, nhóm sâu đo xanh, sâu đo hình que đầu hai sừng, sâu đo nâu xám , nhóm bướm chích quả , sâu đục cuống quả , sâu đục gân lá, bọ cánh cứng , bọ cánh gân nâu, bọ hung , bọ xít nhãn vải , bọ mắt vàng , nhện lông nhung, câu cấu, bọ dừa, ong ký sinh trứng bọ xít nhãn vải và ong ký sinh sâu non bộ cánh vẩy. (Côn trùng và VSV trên cây vải thiều tại Quảng Ninh và Thanh Hoá - Biện pháp lợi dụng và điều khiển chúng. Kỷ yếu hội nghị khoa học, công nghệ và môi trường các tỉnh miền núi phía Bắc lần thứ 7). Năm 2000, Nguyễn Xuân Thành nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của hai loài bọ mắt vàng Chrysopa sp. và Ankylopteryx sp. (Chrysopidae) trên cây vải thiều Đông Triều, Quảng Ninh. Kết quả cho thấy hai loài bọ mắt vàng đều thuộc phân họ Chrysopinae Esben-Petesen 1918, họ Chrysopidae, bộ Neuroptera. Cả hai loài tồn tại và phát triển quanh năm trên cây vải, mật độ cao nhất vào tháng cuối xuân , đầu hè, khi mật độ thức ăn và các yếu tố sinh thái khác thuận lợi cho chúng. Mật độ cao nhất vào cuối tháng 4 đầu tháng 5, cuối tháng 5và từ 15 đến 20 tháng 6. Đây là 2 loài côn trùng ăn thịt sau hại quan trọng trong việc điều hoà mật độ chủng quần sâu hại vải, góp phần đáng kể hạn chế tác hại của sâu gây ra. (Một số đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của hai loài bọ mắt vàng Chrysopa sp. và Ankylopteryx sp. (Chrysopidae) trên cây vải thiều tại Đông Triều Quảng Ninh_ Tạp chí Sinh học số 3/2000) [44_47]. Năm 2002, Nguyễn Xuân Thành bước đầu nghiên cứu về thành phần các loài côn trùng và nhện trên vải tại Hà Nội và vùng phụ cận. Qua điều tra cho thấy thành phần côn trùng và nhện tương đối phong phú. Tổng số loài hiện đã thu được 109 loài, trong đó côn trùng và nhện thu được là 54 loài. Những loài nguy hiểm nhất có 12 loài. Côn trùng có ích (Ky sinh và bắt mồi) thu được là 21 loài, có ý nghĩa nhất là bọ mắt vàng, bọ rùa 18 chấm, ong ký sinh kén trắng. Nhện bắt mồi thu được 34 loài. Từ kết quả thu được nhận thấy sự tương quan giữa các loài có hại và có lợi gần như nhau và cho gợi cho chúng ta có ý thức hơn trong việc sử dụng các biện pháp phòng trừ các loài sâu hại sao cho vừa đạt hiệu quả phòng trừ tốt mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái, bảo vệ được sức khoẻ cộng đồng. ( Kết quả nghiên cứu bước đầu về thành phần các loài côn trùng và nhện trên vải tại Hà Nội và vùng Phụ cận_ Kỷ yếu hội thảo quốc gia về khoa học và công nghệ bảo vệ thực vật_NXB Nông nghiệp 2002 ) [274_278]. Với chủ trương của Đảng xoá đói giảm nghèo, phát triển và mở rộng kinh tế trang trại ổn định trật tự an ninh xã hội vì thế mà diện tích trồng vải ngày càng tăng dẫn đến mật độ côn trùng hại nhãn vải cũng gia tăng. Mục đích nghiên cứu phòng trừ thành phần côn trùng hại vải, năm 2003, Nguyễn Xuân Thành đã nghiên cứu thành phần côn trùng hại nhãn vải và thành phần thiên địch của chúng ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả sau nhiều năm nghiên cứu cho thấy thành phần côn trùng hại và thiên địch của chúng trên nhãn vải rất phong phú và đa dạng. Tổng số loài gây hại hiện đã biết là 99 loài trong đó có 98 loài côn trùng và 1 loài nhện. Các loài này thuộc 5 bộ sau: Coleoptera, Lepidoptera, Hemiptera, Homoptera và bộ nhện nhỏ Acarina. Bộ cánh cứng có 30 loài thuộc 9 họ , chiếm tới 33,33% trong tổng số loài bắt gặp. Bộ Lepidoptera có 42 loài chiếm 42,42% tổng số loài bắt được. Bộ cánh đều Homoptera có 6 họ , 11 loài chiếm 11,11%. Bộ cánh nửa Hemiptera có số lượng ít nhất chỉ có 6 loài trong 4 họ , chiếm tỷ lệ thấp , chỉ có 6,66%. Bộ nhện nhỏ Acarina thuộc lớp nhện chỉ mới thu được 1 loài, chiếm số lượng họ ít nhất trong các loài gây hại . Bọ xít nhãn vải Tessarotoma papillosa Drury và nhện lông nhung Eriophies litchi Keifer là những đối tượng gây hại nguy hiểm nhất. Các loài thiên địch của các loài sâu hại vải thuộc lớp côn trùng thu được 29 loài thuộc 6 bộ Neuroptera, Diptera, Coleoptera, Mantodae, Hemiptera và Hymenoptera. Bộ nhện lớn bắt mồi trong lớp nhện Arachnida có 33 loài thuộc 10 họ: Salticidae, Arancidae, Tetragnathidae, Tromicidae, Oxypidae, Clubionidae, Lycosidae, Heteropodidae, Linyphiidae, Theridiidae. (Thành phần côn trùng hại nhãn vải và thiên địch của chúng ở miền Bắc Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia bảo vệ thực vật –Phục vụ chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung_ NXB Nông nghiệp 2003) [53_56]. Trong năm 2003, Nguyễn Xuân Thành và Phạm Quỳnh Mai dã nghiên cứu ong ký sinh trứng bọ xít nhãn vải và ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến chúng. Kết quả nghiên cứu sau nhiều năm cho thấy có hai loài ong ký sinh trứng bọ xít nhãn Tessaratoma papillosa Drury, đó là ong đen nhảy Ooencyrtus fongi Tryapizin thuộc họ Encyrtidae và ong xanh Anastatus aff Japonicus thuộc họ Eupelmidae. Cả hai loài ong này song song tồn tại trong suốt thời gian Bọ xít đẻ trứng. Ong Ooencyrtus fongi xuất hiện sớm hơn và có tỷ lệ cao hơn nhiều so với ong xanh Anastatus aff. Ong xanh Anastatus aff không những có khả năng tiêu diệt trứng bọ xít nhãn mà còn có thể tiêu diệt trứng bọ xít xanh vòi dài hại cây có múi Rhynchocoris humeralis Thunberg. Các yếu tố môi trường tác động trực tiếp đến thời gian xuất hiện và tỷ lệ ký sinh của cả hai loài ong này đó là thời tiết cuối đông đầu xuân và việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Vì vậy cả hai loài ong này có vai trò quan trọng trong việc điều hoà mật độ chủng quần trứng bọ xít nhãn vải. (Viện Sinh thái vầ Tài nguyên Sinh vật , Trung tâm KHTN&CNQG. Ong ký sinh trứng bọ xít nhãn vải và các yếu tố ảnh hưởng đến chúng.Những vấn đề nghiên cứu trong khoa học sự sống - NXB khoa học và kỹ thuật Huế 25-26/7/2003)[742_745]. Năm 2004, Nguyễn Xuân Thành cho biết trên cây nhãn vải đã thu được 17 loài bướm thuộc phân họ Ophiderinae, họ bướm đêm Noctuidae , bộ cánh phấn Lepidoptera. Dựa vào cấu trúc của vòi châm , vòi hoá sừng hoặc không ta có thể chia ra làm hai nhóm: Nhóm đầu vòi hút hoá sừng có khả năng xuyên thủng vỏ quả để hút dịch. Nhóm thứ hai gồm những loài có vòi không kitin hoá. Chúng chuyên hút dịch ở các quả bị thương do loài khác hoặc do thiên tai gây ra. Nhóm thứ hai đại diện là hai loài chuyên sinh sản, phát triển và phá hoại trên cây nhãn vải. Sâu xanh bướm vàng xám Oxyodes scrobiculata Fabr. là đối tượng sâu hại nguy hiểm cho các vùng trồng vải thiều. Chúng gây hại cho vải nhất là lộc non làm ảnh hưởng đến năng xuất và chất lượng vải. Thiên địch của sâu xanh bướm vàng xám gồm các loài thuộc bọ xít cổ ngỗng Raduviidae (Sycanus bifidus, S. croceovitatus và S. faleni). Họ bọ xít 5 cạnh Pentatomidae(C. furcellata) và ong ký sinh kén trắng chùm Cotestia sp. Tỷ lệ ký sinh của hai loài ong này trung bình là 32%, vì vậy nó có vai trò quan trọng đáng kể trong việc điều chỉnh mật độ chủng quần của loài này. (Những đặc điểm quan trọng của loài bướm đêm hại cây ăn quả thuộc phân họ Ophiderinae, Noctuidae, Lepidoptera trên miền Bắc Việt Nam_ Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống Thái Nguyên 23/9/2004 - NXB Khoa học kỹ thuật )[630_632]. Năm 2005, Nguyễn Xuân Thành và Hồ Thị Thu Giang đã thu thập và phân loại được 6 loài sâu cuốn lá vải thuộc họ Tortricidae bao gồm: 1. Adoxophyes fasciata Wals, 2. Adoxophyes syrtosema Meyris, 3. Archips eucroca Diakonoff, 4. Argyroplose apropola Meyrick, 5. Homona coffearia Meyrick, 6. Olethreutes leucaspis Meyrick. Trong đó Archip eucroca Diakonoff và Olethreutes leucaspis Meyrick là hai loài có mật độ lớn nhất, xuất hiện gần như quanh năm, phá hoại nặng lá non, ảnh hưởng đến sự quang hợp của cây. Qua nghiên cứu cho thấy Archips eucroca có trứng màu vàng nhạt được đẻ thành từng ổ, xếp trên lá, tỷ lệ trứng nở trên 80%, thời gian phát triển trên 7 ngày, tỷ lệ sống của ấu trùng trên 70%, thời gian phát triển trung bình 19 ngày. Thời gian của nhộng kéo dài trung bình 6,5 ngày, tỷ lệ vũ hoá 67%. Bướm sống trung bình từ 3-7 ngày . Sau khi vũ hoá 1-2 ngày bứơm bắt đầu đẻ trứng, số lượng trứng đẻ cao nhất được 359 quả, thấp nhất 52 quả, trung bình 146 quả . Trong 4 ngày đầu trứng được đẻ nhiều, cao nhất vào ngày thứ 2. Trong mùa xuân mật độ sâu cao nhất vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 4. (Thành phần sâu cuốn lá vải (Tortricidae, Lepidoptera) ở miền Bắc Việt Nam và đặc điểm sinh học sinh thái của Archip eucroca Diakonoff. Báo cáo khoa học hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 5 Hà Nội, 11_12/4/2005. NXB Nông nghiệp 2005 )[219_224]. Cũng trong năm 2005, Nguyễn Xuân Thành và Kiều Thu Thuỷ nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ xít bắt mồi Sycanus bifidus Fabr. (Reduviidae- Hemiptera) ở một số vùng trồng điều của miền Trung (Bình Định, Quảng Ngãi) và trung du, miền núi của miền Bắc nơi trồng vải thiều. Kết quả nghiên cứu cho thấy bọ xít bắt mồi Sycanus bifidus tiêu diệt các loài sâu thuộc bộ cánh vảy Lepidoptera như ấu trùng sâu xanh nhả tơ quấn tổ hại điều, ấu trùng sâu xanh bướm vàng xám Oxyodes scrobiculata...Khả năng tiêu thụ mồi của loài bướm này khá lớn 24-25 ấu trùng Oxyodes scrobiculata. Nhiệt độ và ẩm độ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của loài bọ xít bắt mồi Sycanus bifidus. Điều kiện thời tiết tốt nhất cho bọ xít bắt mồi này phát triển là : nhiệt độ 25-30°C và ẩm độ 70-80%. Khả năng tiêu diệt côn trùng của bọ xít bắt mồi Sycanus bifitus đã mở ra hướng phát triển mới của nền nông nghiệp Việt Nam, nếu chúng ta biết khai thác và bảo vệ loài côn trùng thiên địch nói chung và loài bọ xít bắt mồi nói riêng sẽ mang lại rất nhiều lơi ích cho con người như bảo vệ cây trồng, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và bảo vệ được sự cân bằng sinh thái một cách bền vững...(Đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ xít bắt mồi Sycanus bifitus Fabr.(Reduviidae-Hemiptera).Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống/ Báo cáo hội nghị khoa học toàn quốc 2005. NXB khoa học và kỹ thuật)[1067 – 1070]. 2.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHÒNG TRỪ. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho sự phát triển của cây vải. Hiện nay, ở nhiều địa phương, cây vải đang được phát triển theo lối hàng hoá cả về diện tích và đầu tư chăm sóc. Qua các nghiên cứu mức độ gây hại của các loài côn trùng là rất lớn, vì vậy công tác bảo vệ và năng cao chất lượng nông sản là rất cần thiết. Ngày nay, để phòng trừ sâu bệnh có rất nhiều biện pháp như: biện pháp canh tác, biện pháp hoá học, biện pháp sinh học... Việc lựa chọn phương pháp phòng trừ cho từng vùng địa phương là rất khác nhau, tuỳ vào điều kiện kinh tế và trình độ hiểu biết của mỗi vùng. 2.2.1.Vai trò và ý nghĩa của từng biện pháp Bảo vệ thực vật. 2.2.1.1. Biện pháp canh tác. Là biện pháp thủ công, nó đã được lưu truyền từ rất lâu như xới, xáo, làm cỏ, và chăm sóc thường xuyên sẽ hạn chế được 1 phần dịch hại. Biện pháp canh tác chỉ là biện pháp trước mắt tạm thời và mang tính chất tình thế trong cả vụ. 2.2.1.2.Biện pháp hoá học. Thuốc trừ sâu hoá học là những chất độc có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp được dùng để phòng trừ các loài sâu hại, dịch hại, bệnh hại, cỏ dại, nhện ,chuột và những sinh vật hại khác gây ra đối với cây trồng và nông sản. Chất độc khi xâm nhập vào cơ thể sinh vật hại với một lượng rất nhỏ là có thể gây độc với sinh vật hại đó , nó làm phá huỷ chức năng cơ bản của sinh vật hại và làm cho sinh vật hại chết. Sau chiến tranh thế giới thứ II, các thuốc trừ sâu hoá học tổng hợp hữu cơ đã lần lượt được đưa ra thị trường mở ra kỷ nguyên của thuốc trừ dịch hại tổng hợp theo lối sản xuất công nghiệp. Đầu tiên là các hợp chất Chlo hữu cơ như DDT, 666, Aldrin,...đã được ứng dụng trong nông nghiệp. Trong những năm 60_70 của thế kỷ XX là sự ra đời của các hợp chất lân hữu cơ như: Malathion. Wofatox, Etyl parathion...Ngoài ra còn có các loại thuốc hoá học chứa dẫn xuất các axít Cacbanic, Thiocacbanic, Dithiocacbanic thuộc phân nhóm Cacbanat và nhóm thuốc chứa Pirethroid. Ưu điểm của loại thuốc này là có hiệu quả nhanh, kịp thời vì thuốc hoá học có hiệu quả nhanh về thời gian, làm cho năng suất cây trồng ổn định. Thuốc hoá học có hiệu quả trong phạm vi rộng, hiệu quả với nhiều loại dịch hại trên cây trồng và có thể áp dụng ở khắp mọi nơi. Nhược điểm của thuốc trừ sâu hoá học: + Gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của người sản xuất, đến vật nuôi và cây trồng. + Sử dụng nhiều lần với nồng độ cao sẽ làm cho sâu hại quen dần với thuốc hoá học và từ đó tạo ra tính kháng thuốc của sâu có thể duy trì cho thế hệ sau mặc dù chúng không tiếp xúc với thuốc, làm giảm sút rõ rệt về tính đa dạng của quần thể sinh vật có ích, làm xuất hiện các loại dịch hại mới và chúng phá hoại mạnh hơn gây hại dữ dội hơn. + Nếu sử dụng thuốc trừ sâu với nồng độ thấp thi sẽ kích thích cá thể dịch hại sóng sót khi đã tái phát chúng có khả năng phục hồi và khả năng phát triển mạnh hơn trước rất nhiều và chúng có khả năng thay đổi đặc tính của loài. 2.2.1.3. Biện pháp sinh học. Là biện pháp lợi dụng những kẻ thù tự nhiên ngoài đồng ruộng như các loại côn trùng , nhện và vi sinh vật có ích để phòng trừ các loại dịch hại theo hướng bảo vệ môi trường, làm sao ổn định cân bằng sinh thái. Trong nhiều năm qua việc sử dụng thuốc trừ sâu hoá học đã để gây ra nhiều hậu quả xấu đối với con người và môi trường sinh thái. Thêm vào đó là nền kinh tế các nước phát triển, cuộc sống của con người ngày càng được cải thiện và biện pháp sinh học ngày càng được hoàn thiện và phát triển trên cơ sở phát triển của các ngành Công nghệ sinh học trong đó Công nghệ sinh học trong Bảo vệ thực vật càng được chú ý để nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm phục vụ trở lại cho con người. Ngày nay biện pháp sinh học được sử dụng như một biện pháp quan trọng của phòng trừ dịch hại tổng hợp IPM. IPM là chiến lược bảo vệ thực vật mới trên cơ sở áp dụng tổng hợp các biện pháp phòng trừ dịch hại một cách đồng bộ, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu hoá học có độc tố cao đồng thời sử dụng các biện pháp sinh học một cách có hiệu quả trên cơ sở điều tra để nắm bắt được quy luật phát sinh và gây bệnh của dịch hại cây trồng. Để phòng trừ dịch bệnh và sâu hại một cách có hiệu quả người ta đã áp dụng một số biện pháp triển vọng như: + Hạn chế sử dụng hoặc sử dụng một cách có chọn lọc các loại thuốc hoá học có độ phân huỷ nhanh và ít có độc hại để phòng trừ. + Dùng các chế phẩm sinh học có nguồn gốc từ vi khuẩn, virus, nấm,...như thuốc trừ sâu Bt được sản xuất từ chủng vi khuẩn Bt (Baccillus thuringensis), thuốc trừ sâu vi nấm Bb được sản xuất từ chủng nấm Bb (Beauveria bassiana)... + Sử dụng và bảo vệ các loài thiên địch của sâu hại. Ưu điểm của biện pháp sinh học là hạn chế sự ô nhiễm môi trường , không làm mất đi nguồn tài nguyên sinh vật có ích tạo sự cân bằng sinh thái, làm giảm mức kháng thuốc của sâu hại, đảm bảo chất lượng nông sản, đất trồng và bảo vệ sức khoẻ cho con người. Nhược điểm của biện pháp này là tác dụng chậm, việc sản xuất các chế phẩm sinh học còn làm ở quy mô nhỏ, còn ở mức phòng thí nghiệm , giá thành cao, nên chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của bà con và việc sử dụng các loại thuốc hoá học còn tuỳ tiện và lạm dụng do nhận thức của dân còn thấp vì chỉ thấy lợi trước mắt là thuốc hoá học tác dụng nhanh mà không thấy được nó đã để lại một dư lượng chất độc lớn trong nông sản thực phẩm gây ảnh hưởng tới sức khoẻ con người. Do đó cần khuyến cáo cho mọi người dân hiểu được điều này. 2.2.2. Những nghiên cứu về biện pháp phòng trừ các loài sâu hại trên cây vải thiều của các tác giả trong và ngoài nước. Theo Hồ Khắc Tín, năm 1979, thì bọ xít nhãn vải không những bị hai loài ong Anastatus sp. và Ooencytus sp. Ký sinh trên trứng mà còn bị loài nấm tím hồng xám Penicillium lilacimum ký sinh gây bệnh trên trưởng thành làm chết 6,9-12,9%. (Côn trùng nông nghiệp .NXB Nông nghiệp Hà Nội) Trần Huy Thọ, Đào Đăng Tựu và Trương Văn Hàm, trong năm 1995, cũng đã điều tra và phát hiện tại Hà Nội, Hải Hưng, Nam Hà, Yên Bái được 19 loài côn trùng hại và 4 loài nhện hại như: bọ xít nhãn vải; rệp gây hại vào thời kỳ cây ra hoa; sâu tiện vỏ làm cho cây bị khô héo và chết rất nhanh ; sâu đục cành phá hoại cành quả; sâu đục thân làm cho cây phát triển còi cọc có thể làm chết cây; ruồi đục quả làm quả bị thối nhũn và chảy nước; rệp sáp vải làm lá bị còi cọc nhỏ lại dẫn đến cây bị rụng lá; rệp sáp đỏ hại trên mầm non , cuống hoa, mặt trên quả làm cho quả bị chậm phát triển, teo dần, và dễ rụng; rệp sáp đen mềm hại búp, cành, quả non, cuống lá, cuống hoa quả gây nên sự biến dạng cho lá, mầm hoa; nhện vải (Eriophyes litchi) tấn công lá non, quả, mầm, cuống hoa, chồi nụ hoa làm lá uốn cong, khô và rụng, cây bị còi cọc không phát triển; ve sầu bướm gây hại vào thời kỳ ra hoa, chúng chích hút làm rụng hoa và không có khả năng kết quả hoặc làm rụng quả. (Một số kết quả điều tra nghiên cứu về sâu hại chủ yếu trên một số cây ăn quả ở miền Bắc nước ta)[64 – 66]. Năm 1998, Nguyễn Xuân Hồng đã xác định được 15 loài sâu hại vải, trong đó có 14 loài thuộc 5 bộ của lớp côn trùng và một loài nhện, ngoái ra còn có một số đối tượng hại như dơi, chuột ,chim..Xác định dược 17 loại bện hại vải, trong đó bệnh chết héo cây và bệnh lông nhung ở cành lộc non, chùm hoa, cành quả non, là những loại bệnh nặng và cần quan tâm để phòng bệnh kịp thời , hiệu quả. (Kết quả điều tra bước đầu thành phần sâu bệnh hại vải ở Lục Ngạn, Bắc Giang và Chương Mỹ, Hà Tây).[103 – 105]. Theo Nguyễn Xuân Thành, năm 1999, thuốc trừ sâu vi sinh Bt có hiệu quả phun trừ tốt đối với sâu thuộc bộ cánh vảy (Sâu nhớt, sâu đo, sâu cuốn lá,…). Tuy so với thuốc hoá học có hiệu quả thấp hơn đôi chút nhưng nó rất tốt cho môi trường và sức khoẻ con người, bảo vệ được các loài côn trùng có ích và tái tạo lại sự cân bằng sinh thái trên sinh quần.(Thử nghiệm một số chế phẩm thiên nông trên cây vải thiều. Kỷ yếu hội nghị khoa học công nghệ và môi trường các tỉnh miền núi phía Bắc lần thứ 7 – Hà Giang tháng 11/1999 ). Việc nghiên cứu sử dụng các nguồn vi sinh vật có ích là một vấn đề quan trọng và cần thiết trong chiến lược phòng trừ tổng hợp sâu hại cây trồng hiện nay. Năm 2000, Hoàng Thị Việt, Nguyễn Văn Cảm, Trần Quang Tấn và ctv đã nghiên cứu sản xuất chế phẩm NPV (Nuclear polyhedrosis virus) và khả năng sử dụng trong phòng trừ sâu hại cây trồng. NPV có ảnh hưởng tới sự phát triển của sâu ở cả giai đoạn sâu non, nhộng và bướm. Hạn chế được khả năng vũ hoá và đẻ trứng của bướm. Chế phẩm NPVcó khả năng bảo quản được 12 tháng trong điều kiện tự nhiên của phòng thí nghiệm. Đây là biện pháp cần thiết trong hệ thống phòng trừ tổng hợp cây trồng đặc biệt đối với những vùng sâu đang chống thuốc hoá học. (Một số kết quả nghiên cứu về NPV(Nuclear Polyhedrosis Virus) và khả năng sử dụng trong phòng trừ sâu hại cây trồng)[113 – 130]. Qua thời gian điều tra các tháng trong năm 1999-2000, Dương Tiến Viện đã thu thập thành phần sâu hại vải ở Mê Linh- Vĩnh Phúc và xác định được 19 loài côn trùng và 2 loài nhện hại, trong đó có 6 loài sâu và nhện gây hại phổ biến và có ý nghĩa về mặt kinh tế. Việc sử dụng thuốc trừ sâu của các hộ nông dân vẫn còn dùng các loại thuốc nằm trong danh mục thuốc hạn chế và cấm sử dụng như Monitor và Bi58. Dưong Tiến Viện đã thí nghiệm với 3 loại thuốc Dipterex 90WP, Ofatox 400EC, Supracid 40EC đều có hiệu lực trừ bọ xít hại vải cao. (Kết quả nghiên cứu thành phần sâu hại vải và biện pháp phòng trừ tại Mê Linh -Vĩnh Phúc.Một số loài sâu bệnh gây hại cây trồng đáng chú ý trong những năm gần đây) [54_57]. Từ kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy mức độ gây hại của các loài côn trùng là rất lớn cần có biện pháp phòng trừ sâu bệnh để mang lại hiệu quả kinh tế. Phòng trừ sâu hại phải được thực hiện theo một quy trình tổng hợp để bảo vệ cây trồng, bảo vệ mối cân bằng sinh học và bảo vệ môi trường sống. Năm 2003, theo Trần Thế Tục thì phải áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp, vừa sử dụng biện pháp hoá học, vừa sử dụng biện pháp canh tác, cơ giới, vật lý, sinh học thì mới có hiệu quả. Muốn áp dụng biện pháp hoá học có hiệu quả thì phải sử dụng đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng kỹ thuật và đúng thời điểm. Lịch dùng thuốc trong năm được tác giả đưa ra là tháng 2 – 3 trừ nhện, tháng 3-4 trừ bọ xít , tháng 5-7 trừ sâu đục thân. Đối với bọ xít nhãn vải phải kết hợp cả biện pháp cơ giới , hoá học, sinh học. Tháng 1 – 2 bọ xít trú đông nên rung cây, rung cành làm cho bọ xít rơi xuống bắt diệt . Tháng 4 – 5 trở đi hoa vải nơ xong phun thuốc Sherpa nồng độ 0,1 - 0,2% có thể tiêu diệt được bọ xít trưởng thành và bọ xít non. (100 câu hỏi về cây vải. NXB Nông nghiệp 2003) Theo Đường Hồng Dật, năm 2003, thì nên kiểm tra bắt giết bọ xít từ tháng 1 – 2. Theo tác giả thì thời gian này bọ xít ít hoạt động, lợi dụng tính giả chết của bọ xít , trải nilon trên mặt đất ở gốc cây rồi rung cây cho bọ xít rơi xuống để bắt. Phun thuốc phòng trừ bọ xít non vào đầu tháng 4, bọ xít trưởng thành vào tháng 8 – 9. Dùng Basudin pha với nồng độ 0,2% để phun phòng trừ, thuốc có thể làm cho trứng ung không nở được, nên phun trước khi thu hoạch quả từ 15 – 20 ngày.(Hỏi đáp về nhãn, vải. NXB Nông nghiệp). Nhóm tác giả Trung Quốc đã sử dụng loài ong nhỏ bằng bụng Anastatus hoặc các loài ong cánh nhỏ khác cho ký sinh trứng bọ xít vải do đó làm giảm được số lượng sâu non bọ xít xuống thấp. Những loài ong này được nuôi trong phòng, khi có những ổ trứng bọ xít xuất hiện trên cây thì mới mang ong thả trên cây. Thông thường mỗi cây thả 600 – 800 con ong cái, chia làm 3 đợt mỗi đợt cách nhau 6 – 10 ngày, lượng ong các đợt tỷ lệ 2:1:1.(Chu Nghiêu(1960). Côn trùng học đại cương. Diệp Chấn Khánh dịch. NXB Giáo dục cao đẳng Thượng Hải.). Sử dụng các loài thiên địch trong phòng trừ sâu hại đang được các nhà khoa học nghiên cứu trong khoảng vài chục năm gần đây. Qua những kết quả điều tra, nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước và nước ngoài về đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái, đưa các loài thiên địch (ký sinh, ăn thịt hay gây bệnh ) vào các quần thể sâu hại làm giảm số lượng của những loài sâu hại đến mức không còn gây hại hoặc thiệt hại do nó gây ra không có ý nghĩa về mặt kinh tế. Hiện nay có hai nhóm được dùng phổ biến là nhóm côn trùng ký sinh và nhóm bắt mồi ăn thịt. + Nhóm côn trùng ký sinh sâu hại phổ biến thuộc bộ cánh màng và bộ hai cánh như ruồi ký sinh, ong mắt đỏ...Nhóm côn trùng này sống ký sinh trong trong ký chủ, pha trưởng thành sống tự do, chúng sử dụng hết hoàn toàn các mô của vật chủ sau khi chúng hoàn toàn phát dục. + Nhóm bắt mồi ăn thịt sâu hại: Đây là quy luật của tự nhiên côn trùng có ích ăn thịt côn trùng gây hại. Điều này có tầm quan trọng trong việc kìm chế sự sinh sản phát triển của sâu hại. Theo những kết quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thành cho thấy cần nghiên cứu: Mối tương quan giữa các loài côn trùng “ký chủký sinh”, “vật mồi vật bắt mồi”. Thành phần loài và sự phân bố của chúng dưới tác dộng của các yếu tố sinh thái đến vùng địa lý , những đặc điểm sinh học sinh thái của những loài sâu hại và thiên địch chính. Từ những kết quả nghiên cứu mới có những kháng cáo thích đáng và hữu ích giúp cho nghành nông nghiệp phát triển bền vững. CHƯƠNG 3: ĐỊA ĐIỂM, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 3.1.1. Địa điểm nghiên cứu . + Địa diểm thu mẫu bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata tại xã Hiền Ninh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. + Địa điểm điều tra thành phần sâu hại: các vườn trồng vải của xã Hiền Ninh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và các vùng lân cận. 3.1.2. Thời gian nghiên cứu. Từ 20/10/2005 đến ngày 30/4/2006. 3.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU. 3.2.1. Đối tượng nghiên cứu. + Điều tra các loài côn trùng hại và bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata. 3.2.2. Dụng cụ nghiên cứu. + Panh (cứng và mềm), kéo, dao, bút, máy tính, cặp, sổ điều tra, sổ nhật kí nuôi sâu, vợt côn trùng, lọ nuôi sâu các loại có kích cỡ từ 0,2 – 10 lít phù hợp cho bướm giao phối được để xác định thành phần loài côn trùng trên vải, ống tuyb, kính lúp, bút lông, mật ong 10%, bông thấm nước cồn 70°, hộp và lọ đựng mẫu. + Lọ nhựa nuôi bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata có kích thước từ 0,2 – 10 lít tuỳ theo tuổi của bọ rùa. 3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 3.3.1. Điều tra thành phần các loài côn trùng trên cây vải. Điều tra định kỳ. + Điều tra 7 ngày 1 lần, mỗi lần có phiếu điều tra ghi thành phần các loài sâu hại và côn trùng trên cây vải. + Ghi chép số liệu về hiện tượng thời tiết ( nhiệt độ, độ ẩm, nắng, mưa,...) vào phiếu điều tra, nhật ký điều tra. + Chọn địa điểm điều tra: chọn ngẫu nhiên 20 cây theo 5 điểm chéo góc, mỗi điểm điều tra 4 cây theo 4 hướng ( Đông, Tây, Nam, Bắc). Điều tra thu mẫu từ trên cây xuống bằng tay hoặc bằng vợt côn trùng nhằm xác định thành phần, sự phân bố và quy luật biến động. + Thu các loài côn trùng (thiên địch và sâu hại ) có mặt trên cây vải, đưa về nuôi lấy trưởng thành để xác định tên khoa học của loài. Đối với các loài đã biết ngâm trong cồn 70° hoặc phơi khô để giữ mẫu. Điều tra bổ xung. Điều tra ngoài khu vực điều tra định kỳ nhằm thu thập bổ xung thành phần loài và sự phân bố theo vùng địa lý hoặc sinh cảnh. 3.3.2. Nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của loài bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata. Thu mẫu bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata trưởng thành ở các vườn vải Sóc Sơn, Hà Nội về nuôi trong lồng để chúng giao phối với nhau (bên trong lồng có trồng cây vải). Hoặc nuôi trong các lọ lớn hàng ngày phải thay lá vải. Thức ăn của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata là rệp và trứng ngày gạo. Hàng ngày theo dõi, quan sát thấy chúng giao phối với nhau tach riêng ra cho vào một lọ riêng có ghi ký hiệu và thứ tự trên lọ nuôi. Theo dõi khả năng đẻ trứng, nhịp điệu đẻ trứng đo kích thước của mỗi tuổi và trưởng thành của bọ rùa và thời gian sống của bọ rùa trưởng thành. + Pha trứng: Theo dõi thời gian phát triển của trứng và tỷ lệ nở của trứng. + Pha ấu trùng: Theo dõi số tuổi của ấu trùng (mỗi lần lột xác là một tuổi), thời gian phát triển từng tuổi của ấu trùng, tỷ lệ sống sót của từng tuổi. Trong quá trình nghiên cứu mô tả hình thái từng pha phát triển của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata ( mô tả hình dáng, màu sắc, đo kích thước, đặc điểm của trứng, ấu trùng và trưởng thành). Theo dõi khả năng tiêu thụ mồi trong từng ngày của mỗi con , mỗi pha phát triển bằng cách cho số lượng các con rệp vào trong lọ nuôi, sau một ngày đếm số rệp còn lại. 3.3.3. Phương pháp tính toán. 3.3.3.1. Các công thức tính toán về sinh học. Tổng số con thu được Tính mật độ (con/ cây) = ---------------------------- Tổng số cây điều tra Tổng số lần bắt gặp Tần xuất bắt gặp (%) = --------------------------- x 100 Tổng số lần điều tra - Từ 0 à 5 % rất ít phổ biến; Từ 6 à 25% ít phổ biến; - Từ 26 à 50% phổ biến; Từ > 50% rất phổ biến * Tính toán các chỉ số sinh học + Kích thước từng pha phát triển (mm): Trong đó: - = Kích thước trung bình - Xi = giá trị kích thước của cá thể thứ i. - N = tổng số cá thể thí nghiệm. Tổng số lcá thể cái (đực) Tỷ lệ cái (đực) (%) = ---------------------------------- x 100 Tổng số cá thể theo dõi Tổng số trứng nở Tỷ lệ trứng nở (%) = ---------------------------- - x 100 Tổng số trứng theo dõi + Thời gian phát dục của từng pha (ngày) Trong đó: = Thời gian phát triển trung bình của pha đang theo dõi (ngày) Xi = Thời gian phát dục của n cá thể trong ngày thứ i. = Số cá thể chuyển trạng thái (nở hoặc lột xác) trong ngày thứ i. N = Tổng số cá thể nghiên cứu. Sx = độ lệch chuẩn được tính theo công thức: Sx = *Toàn bộ số liệu được sử lý theo thống kê thông thường Trong đó: t tra trong bảng Student với đọ tin cậy 95% ở bậc tự do V = N -1 Sx = là độ lệch chuẩn . 3.3.3.2. Tính toán sác xuất: - Độ lệch chuẩn: - Độ tin cậy 95%: CHƯƠNG 4 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN SÂU HẠI VÀ THIÊN ĐỊCH TRÊN CÂY VẢI THIỀU TẠI XÃ HIỀN NINH, SÓC SƠN, HÀ NỘI. Sóc Sơn là một huyện miền núi thuộc ngoại thành Hà Nội, điều kiện đất đai cũng như khí hậu ở đây rất thuận lợi cho cây vải phát triển. Cùng với các xã Minh Trí, Minh Phú,…Hiền Ninh cũng là một xã có diện tích trồng vải lớn của Sóc Sơn. Diện tích trồng vải trung bình khoảng 1,1 ha/hộ. Khi đến thời vụ thu hoạch, các chủ buôn đến tận vườn thu mua rồi chở đi tiêu thụ, ngoài ra còn bán cho khách du lịch vì đây là nơi lý tưởng để nghỉ cuối tuần của người thành phố. Hàng năm sản lượng vải của xã Hiền Ninh khoảng 30% số cây vải cho năng suất 10 – 30 kg/cây, 40% cho năng suất 30 – 50 kg/cây, còn lại là > 50kg/cây. Thu nhập bình quân khoảng 5 – 7 triệu đồng/năm. Mỗi năm các hộ nông dân phải bỏ ra khá nhiều tiền chi phí về phân bón, thuốc trừ sâu, bơm tưới nước,…Tuy nhiên trong mấy năm gần đây giá vải xuống rất nhiều, nguyên nhân là do diện tích trồng vải tăng nhanh. Bên cạnh đó chúng ta còn kém về kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc và chế biến khiến chất lượng và mẫu mã quả vải thấp không đủ cạnh tranh với các nước trong khu vực. Người dân nơi đây vẫn quen sử dụng thuốc hoá học bừa bãi như Regent, Sherpa, Fastac, …các thuốc vi sinh ít được sử dụng. Do đó cần khuyến cáo cho người dân hiểu rõ tác hại của thuốc trừ sâu hoá học và kỹ thuật trồng trọt để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm quả vải. Hình 1: Điều tra côn trùng tại vườn vải vùng Sóc Sơn, Hà Nội. Trong khoảng thời gian từ 27/10/2005 - 25/4/2006, chúng tôi đã tiến hành điều tra, xác định thành phần sâu hại trên cây vải tại các vườn vải của các hộ dân ở xã Hiền Ninh, Sóc Sơn, Hà Nội. Số lượng loài thu được khá đa dạng và phong phú. Tuỳ thuộc vào từng thời gian phát triển của cây vải mà có các loài sâu hại cũng như thiên địch khác nhau. Bảng 1 : Thành phần sâu hại trên cây vải STT Tên Việt Nam Tên khoa học Họ Bộ phận gây hại Mức độ Bộ cánh vẩy(Lepidoptera) 1 Sâu cuốn lá đầu đen Olethreutes leucaspis Meyrick Tortricidae Lộc non, chồi, lá +++ 2 Sâu đo xanh Geometridae Chồi, lộc non ++ 3 Sâu đo xanh hai sừng Thalassodes guadraria Guenee Geometridae Chồi, lộc non +++ 4 Sâu đo khoang rắn cạp nia Scopula sp. Geometridae Hoa, lộc non - 5 Sâu đo hoa 6 Sâu đục gân lá Conopomorpha sinensis Bradley Lá non, hoa vải + 7 Sâu kèn xám trắng Chalioides kondonis Matsumura Psychidae Lá, lộc non - 8 Sâu kèn to Dappula tertia Templeton Psychidae Lá, lộc non ++ 9 Sâu róm 4 gù vàng vệt đen Dasychira sp1 Limantridae Chồi, hoa, lộc non + 10 Sâu róm bốn gù vàng đốm trắng Dasychira sp2 Limantridae Chồi, hoa, lộc non + 11 Sâu róm chỉ đỏ sọc vàng lưng Porthesia scintillans Limantridae Hoa, lộc non + 12 Bọ nẹt Parasa pseudorapanda Heirns Eucleidae Lá + 13 Sâu xanh bướm vàng xám Oxyodes acrobi Culata Noctuidae Lá, chồi + Bộ cánh cứng(Coleoptera) 14 Bọ đầu dài to vàng ánh kim Hypomeces spuamosus Fabr. Curculionidae Chồi, lá, lộc non +++ 15 Bọ đầu dài bé màu xanh da trời Platymycteropcis sieversi Reitter Curculionidae Chồi, lá, lộc non +++ Bộ cánh nửa(Hemiptera) 16 Bọ xít nhãn vải Tessaratoma papillosa Drury Pentatomidae Lá, chồi non +++ 17 Bọ xít dài hôi Leptocosisa acuta Thunberg Coreidae Lá, chồi non ++ 18 Bọ xít xanh Nezara viridula Linnaeus Pentatomidae Chồi non + Bộ cánh đều (Homoptera) 19 Rệp sáp Ceroplastes ruben Maskell Diaspididae Lộc, lá, chồi non +++ 20 Rệp sáp trắng mai rùa Ceroplastes floridensis Comstock Diaspididae Lá, chồi non ++ 21 Rệp sáp lưng chia ô Nipaecoccus viridis Newstead Diaspididae Chồi non - 22 Rệp sáp đen Ddensaissetia nigra Niether Diaspididae Lộc, lá, chồi non ++ 23 Rệp sáp xám Coccus longulus Diaspididae Lộc , lá, chồi non ++ Lớp ve bét (Acarina) 24 Nhện lông nhung Eriophis litchi Keifer Eriophyidae Chồi, lá non, hoa +++ Ghi chú: (+) ít phổ biến (++) phổ biến (+++) rất phổ biến (–) rất ít phổ biến Các loài gây hại phổ biến cho vải như : sâu cuốn lá, bọ xít hại nhãn vải, nhện lông nhung, câu cấu xanh, rệp sáp,… + Bọ xít hại nhãn vải: loài này gây hại rất nghiêm trọng cho cây vải vào thời kỳ cây vải ra lộc non, hoa trổ bông. Bọ xít trưởng thành mặt lưng nâu vàng, bụng màu trắng. Bọ xít trưởng thành cái thường đẻ trứng vào đầu tháng 3, mật độ bọ xít cao nhất vào tháng 4. Trứng bọ xít được đẻ ở mặt dưới của lá, trứng hình tròn, có màu xanh lục khi mới đẻ và có màu hồng trắng mốc hoặc màu hồng tối khi sắp nở. Bọ xít non và trưởng thành đều dùng vòi cắm vào chích hút dịch những đọt non, cuống hoa và những chùm quả non chưa chín làm cho bộ phận này bị héo, cháy khô, dẫn đến rụng lá, rụng quả. Vì vậy làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm. Khi gặp kẻ thù thì chúng tiết ra chất có mùi hôi, màu vàng làm cho kẻ thù tránh xa chúng. + Sâu cuốn lá: qúa trình điều tra, nghiên cứu tại Sóc Sơn, Hà Nội thu được 2 loài (Sâu cuốn lá hình mái chùa và sâu cuốn lá nâu). Chúng xuất hiện nhiều vào khoảng tháng 10, tháng 11 khi thời tiết vào đông và vào cuối tháng 1, đầu tháng 2 khi mùa xuân, thời tiết có mưa phùn. Vào thời điểm này, cây vải thường có lộc non, sâu non thường nhả tơ cuốn 1 hoặc vài lá non thành một ống dài, nằm trong đó ăn lá và khi lá già chúng chui ra ngoài và lại cuốn lá non khác. + Rệp sáp: có nhiều loại rệp sáp khác nhau, chúng gây hại quanh năm cho vải. Chúng thường bám trên lá, bám vào quanh cành, chồi non, cuống quả. Rệp sáp với số lượng lớn sẽ gây cho các bộ phận này bị biến dạng, còi cọc, nếu nặng sẽ bị rụng lá, quả gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng và năng suất của vải. + Nhện lông nhung: đây là loài gây hại có kích thước rất nhỏ, mắt thường không nhìn thấy được. Nhện lông nhung phát triển quanh năm và mạnh nhất vào mùa xuân vì thời gian này nhiệt độ thấp, mưa phùn, ít nắng nhiều mây. Nhện trưởng thành xâm nhập vào các chồi non, sinh sống và đẻ trứng ở trong đó. Ban đầu vết lông nhung có màu xanh sau chuyển sang màu trắng bạc, trắng hơi vàng, trắng nâu, sau đó là màu nâu sẫm. Lá bị nhện lông nhung có hình co quắp, phồng rộp dẫn tới lá phát triển không bình thường, quang hợp kém và rụng lá. + Câu cấu xanh: chúng ăn hại lá non trong các đợt lộc của cây. Lá non bị gặm rỗ nát, ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng của cây. Câu cấu xanh phá hoại cây vải cả ban ngày lẫn ban đêm. Khi bị động chúng giả chết rơi xuống lẩn vào những cành lá cây hoặc rơi xuống đất trú ẩn sau đó lại leo lên lộc non phá hoại. + Sâu đo xanh: xuất hiện nhiều nhất vào mùa xuân, lúc đó cây vải ra những lộc non. Khi bị động chúng có phản ứng dựng đứng thân như cành cây nên rất khó phát hiện. Chúng bám ở trên những lá non và ăn lá non gây ảnh hưởng tới sự phát triển của cây. Tại khu vực điều tra nghiên cứu, ngoài những loài sâu hại đã được nêu trên, chúng tôi còn thu được các loài thiên địch. Chúng có vai trò quan trọng trong việc điều hoà mật độ sâu hại. Bảng 2: Thành phần thiên địch trên cây vải STT Tên Việt Nam Tên Khoa Học Họ Mức độ Bộ cánh nửa(Hemiptera) 1 Bọ xít hoa Eocanthecona furcellata (Wolff) Pentatomidae + Bộ cánh cứng(Coleoptera) 2 Bọ rùa đỏ 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. Coccinellidae ++ 3 Bọ rùa đỏ Micrapis discolor Fabr Coccinellidae ++ 4 Bọ rùa 2 mảng đỏ Lemnia biplagiata Swartz Coccinellidae + 5 Bọ rùa 6 vệt đen Menochinus sexmaculatus Fabr. Coccinellidae + Bộ bọ ngựa(Mantodae) 5 Bọ ngựa xanh Mantidae +++ Bộ cánh mạch(Neuroptera) 6 Bọ mắt vàng Chrysopa sp. Chrysopidae ++ 7 Bọ cánh gân nâu ++ Bộ cánh màng(Hymenoptera) 8 Ong ký sinh Anastatus aff japonicus Ashmead Eupelmidae + 9 Ong ký sinh Ooencyrtus fongi Tryapizin Eupelmidae ++ Bộ hai cánh(Diptera) 10 Ruồi ký sinh Tachinidae + 11 Ruồi ăn thịt Syrphidae + Bộ nhện lớn(Arachnida) 12 Nhện càng cua Epocilla canearta Salticidae + 13 Nhện linh miêu Oxyopes javanus Thorell oxyopidae + Ghi chú: (+)ítphổ biến (++) Phổ biến (+++) Rất phổ biến Các loài thiên địch chúng tôi đã điều tra và thu thập được có mức độ phổ biến cao như nhện càng cua, bọ ngựa, bọ rùa 18 chấm, bọ rùa đỏ,… + Bọ rùa 18 chấm: loài này xuất hiện nhiều nhất vào tháng 3 đến tháng 4 vì vào thời gian này thời tiết mưa phùn nhiều, cây vải ra hoa và lộc non thích hợp cho rệp phát triển. Như vậy, sự tăng cao về mật độ bọ rùa có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế số lượng rệp trên cây vải. Bọ rùa 18 chấm trưởng thành cơ thể hình trứng ngắn, lưng gồ đều, nhẵn bóng. Chúng di chuyển chậm chạp nhưng khi phát hiện thấy con mồi, chúng di chuyển tới dùng chân trước ghì chặt lấy con mồi và ăn dần cho tới khi hết con mồi. + Bọ xít hoa: Con trưởng thành có màu nâu, trên vai có hai đôi gai nhọn, trên lưng có hai chấm vàng chia đều sang hai bên, bụng dưới có màu nâu nhạt hơn phần lưng. Bọ xít hoa có ba đôi chân bò, đầu nhỏ, có hai râu, trên râu có chấm vàng ở đốt thứ 3. Thức ăn của bọ xít xám hoa là các loài sâu hại. + Bọ mắt vàng: thường xuất hiện vào giữa tháng 3 đến tháng 4. Con trưởng thành có màu xanh nõn chuối, hai cánh mỏng, cơ thể mềm mại, ấu trùng hình thoi, có hai đôi hàm chắc khoẻ, cong, nhọn như gọn kìm để giữ con mồi, trên lưng ấu trùng còn có nhiều lông dài, cứng nhọn. Ấu trùng bọ mắt vàng kẻ thù thường sử dụng rác , bụi bẩn đặt trên lưng để ngụy trang lẩn trốn. Thức ăn của bọ mắt vàng là rệp muội, rệp sáp và trứng của các loài sâu hại thuộc bộ cánh vảy. + Bọ ngựa: đây là loài rất phổ biến không chỉ có trên cây vải mà hầu như chúng xuất hiện ở nhiều cây trồng. Với đôi chân trước to khoẻ có gai như lưỡi liềm của mình tiêu diệt con mồi. Đây là loài đa thực, chúng bắt cả ấu trùng và trưởng thành của nhiều loại sâu hại. + Nhện: là loài xuất hiện tương đối nhiều trong quá trình điều tra và có rất nhiều loài nhện khác nhau. Nhện hầu như xuất hiện quanh năm. Thức ăn của nhện là các loại sâu non. Khi phát hiện thấy con mồi chúng di chuyển nhanh tới sử dụng đôi hàm chắc khoẻ của mình để ăn con mồi. Trong khi điều tra chúng tôi cũng phát hiện thấy bọ xít nhãn vải bị nấm ký sinh. Nấm bao phủ trên bề mặt bọ xít có màu trắng, chúng phủ kín cơ thể bọ xít, hút hết chất dinh dưỡng làm cho bọ xít chết khô, co quắp ở trên cây. Đã có nhiều ý kiến về loại nấm này nhưng chưa nuôi cấy định loại nên chưa biết được loài nấm này. 4.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, SINH THÁI, SINH HỌC CỦA BỌ RÙA 18 CHẤM HARMONIA SEDECIMNOTATA FABR. 4.2.1 Biến động số lượng của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. Điều kiện sinh thái môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, nắng, mưa, …là những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng và phát triển của nhiều loài côn trùng. Qua điều tra định kỳ, chúng tôi thấy bọ rùa 18 chấm xuất hiện nhiều nhất vào mùa xuân lúc cây vải đang ra hoa tức là vào tháng 2, đến khoảng đầu tháng 4. Biến động số lượng bọ rùa 18 chấm được chúng tôi tiến hành điều tra tại xã Hiền Ninh, Sóc Sơn, Hà Nội. Bảng 3: Mật độ bọ rùa 18 chấm điều tra trên cây vải. Ngày điều tra Mật độ bọ rùa(con/cây) Thời kỳ sinh trưởng cây Nhiệt độ (t°C) Độ ẩm (%) 2/2/2006 0 Cây có lộc đông 18 - 22 80 8/2/2006 0,5 Cây đang ra hoa 16-19 90 14/2/2006 1,0 Cây đang ra hoa 18 - 21 70 20/2/2006 3,5 Cây đang ra hoa 16 - 20 78 26/2/2006 5,2 Cây đang ra hoa 14 - 19 81 4/3/2006 6,3 Cây đang ra hoa 16 - 23 75 10/3/2006 7,6 Cây đang ra hoa 21 - 26 85 16/3/2006 5,0 Cây đang ra hoa 16 - 24 75 22/3/2006 3,1 Cây đang ra hoa 19 - 22 88 28/3/2006 0,7 Cây ra hoa rộ bắt đầu có quả non 22 - 26 90 2/4/2006 0,2 Cây ra hoa rộ, có quả non 24 - 32 85 8/4/2006 0,05 Cây có quả non 27 - 32 82 14/4/2006 0,01 Cây có quả non 25 – 30 85 20/4/2006 0 Cây có quả nhỏ 21 - 28 83 25/4/2006 0 Cây có quả nhỏ 27 - 32 81 Cũng giống như các loài thiên địch khác, bọ rùa 18 chấm phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện thức ăn và ngoại cảnh. Nắm được quy luật biến động của chúng có ý nghĩa rất lớn trong việc chủ động phòng trừ các loài rệp gây hại. Số lượngTB Ngày, tháng, năm Hình 2: Biến động bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. Trên cây vải tại Sóc Sơn _ Hà Nội. Qua bảng 3, và biểu đồ ta thấy vào thời kỳ cây vải ra hoa rộ nhất cũng là tời kỳ bọ rùa 18 chấm xuất hiện nhiều nhất. Mật độ bọ rùa nhiều nhất vào cuối tháng 2, đầu tháng 3, đạt cao nhất vào ngày 10/3/2006 thu được trung bình là 7,6 con/cây. Điều này cũng phù hợp với mật độ rệp xuất hiện dồi dào nhất. Như vậy sự tăng cao về mật độ bọ rùa có ý nghĩa quan trọng được khả năng tiêu thụ rệp của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. 4.2.2. Đặc điểm hình thái của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. Bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr thuộc họ Coccinellidae là nhóm côn trùng ăn thịt, có vai trò tiêu diệt rệp trên cây vải. Vì vậy việc nghiên cứu hình thái loài bọ rùa 18 chấm có ý nghĩa quan trọng, từ đó đề ra biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ loài thiên địch này. Chu kỳ phát triển của bọ rùa 18 chấm trải qua 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng nhộng và trưởng thành. + Trứng của bọ rùa 18 chấm: Trưởng thành đực cái sau khi giao phối với nhau khoảng 1- 3 ngày thì đẻ trứng. Trứng của bọ rùa 18 chấm đẻ ở ngoài tự nhiên cũng như trong phòng thí nghiệm đều dính ở mặt dưới của lá vải. Trứng có hình oval, màu vàng sáng, một đầu của trứng dính vuông góc với mặt lá, một đầu hướng lên trên. Chiều dài của trứng trung bình 0,8 – 1,3 mm. Khi trứng nở, phần nắp trứng ở phía trên nứt ra, ấu trùng tuổi 1 chui ra. + Ấu trùng: Bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata có 4 tuổi, mỗi lần lột xác là 1 tuổi. - Ấu trùng tuổi 1: Khi mới nở ấu trùng tuổi 1 ở xung quanh ổ trứng, sau một thời gian chúng bò ra xa để kiếm thức ăn. Ấu trùng tuổi 1 có màu đen, bụng có màu nhạt hơn lưng, trên lưng có nhiều gai dài nhô lên, có ba đôi chân bò. Kích thước của ấu trùng tuổi 1 là 1,7 - 1,9 mm. - Ấu trùng tuổi 2: Sau lột xác ở tuổi 1 ấu trùng bọ rùa 18 chấm bước sang tuổi 2. Tuổi 2 của ấu trùng không khác xa với tuổi 1, kích thước là 2,5 - 3,5mm, gai nhọn trên lưng nhìn rõ hơn. Nếu quan sát bằng kính lúp ta có thể thấy có một chấm vàng nhỏ bằng đầu kim nằm ở phần cuối lưng. - Ấu trùng tuổi 3: Kích thứơc của ấu trùng tuổi 3 được đo sau lần lột xác từ tuổi 2 là 2,7 - 4mm. Ở tuổi này kích thước của bọ rùa tăng rõ rệt, chúng lớn hơn rất nhiều so với tuổi 2. Các gai nhọn trên lưng rõ, có 4 gai nhọn nằm trên đốt lưng thứ 7 có màu da cam, màu sắc trên lưng bọ rùa đen hơn ở tuổi 1 và tuổi 2. - Ấu trùng tuổi 4: Sau khi lột xác bước sang tuổi 4, kích thước ấu trùng bọ rùa tăng lên đáng kể 4,1 - 5,5 mm. Màu sắc trên lưng đậm hơn, gai trên lưng trông rõ và cứng hơn so với tuổi 3. Sau khoảng từ 6 - 8 ngày thì ấu trùng bọ rùa 18 chấm bước vào giai đoạn nhộng. Ấu trùng bọ rùa hầu như không cử động trước khi bước vào giai đoạn nhộng. Vỏ cơ thể dần cứng lại. Màu sắc trên cơ thể cũng thay đổi khác so với ấu trùng bọ rùa từ tuổi 1 đến tuổi 4. + Nhộng có màu vàng cam, trên mỗi đốt lưng hình thành những chấm màu đen. Phần đuôi của nhộng bám vào mặt dưới của lá, cành cây hoặc thân cây khi ở ngoài tự nhiên , còn ở trong phòng thí nghiệm thì phần đuôi bám dính vào mặt dưới của lá vải hoặc bám vào thành hộp, phần đầu của nhộng vẫn có thể cử động được. Trong giai đoạn nhộng hầu như chúng không ăn mồi. + Trưởng thành: Sau thời gian từ 6 - 10 ngày nhộng vũ hoá ra bọ rùa trưởng thành có kích thước 5,5 – 7 mm. Cơ thể bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata hình trứng ngắn, lưng gồ đều, nhẵn bóng. Đầu nâu nhạt có điểm vàng dọc hai bên trán. Trán rộng hơn nửa đầu. Hai bờ trong của mắt choãi rõ. Tấm lưng ngực trước nâu nhạt với 2 chấm đen đối xứng với nhau ở hai bên, gần bờ dưới hơn bờ trên. Cánh có màu vàng nâu, cứng, trên mỗi cánh có 8 chấm đen nhỏ được xếp đối xứng với cánh bên, sắp xếp theo công thức 2 – 3 – 2 – 1. Rìa cánh có gờ nhỏ hơi bè và chúc xuống. Mặt dưới cơ thể màu nâu nhạt, ngực sẫm hơn hai bên rìa ngực và ống chân. Bàn chân có màu nhạt hơn. Bờ chân môi thẳng. Bờ trước của ngực giữa có gờ rõ và lõm giữa. Lồi ngực trước có hai gờ dọc nối nhau ở mõm làm thành gờ hình chữ U. Bờ sau của tấm bụng thứ 1, thứ 2 và thứ 3 bằng nhau, còn tấm bụng thứ 4 và thứ 5 ở con đực thì cong lõm, đây là đặc điểm khác nhau ở con đực và con cái. Bảng 4: Kích thước của pha trứng, ấu trùng và trưởng thành của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. Pha phát dục Số lượng mẫu đo Chỉ tiêu theo dõi Kích thước (mm) Ngắn nhất Dài nhất Trung bình Trứng 20 Chiều dài 0,8 1,3 0,97 ± 0,17 Ấu trùng Tuổi 1 20 Chiều dài 1,7 1,9 0,79 ± 0.07 Chiều rộng 0,7 0,8 0,74 ± 0,04 Tuổi 2 20 Chiều dài 2,5 3,5 2,93 ± 0,35 Chiều rộng 0,8 1,0 0,89 ± 0,06 Tuổi 3 20 Chiều dài 2,7 4,0 3,54 ± 0.41 Chiều rộng 0,9 1,1 0,95 ± 0.06 Tuổi 4 20 Chiều dài 4,1 5,5 4,79 ± 0,29 Chiều rộng 1,2 2,1 1,71 ± 0.28 Trưởng thành Con đực 20 Chiều dài 6,2 6,7 6,40 ± 0,15 Chiều rộng 5,2 5,6 5,34 ± 0.12 Con cái 20 Chiều dài 6,5 7,0 6,77 ± 0.15 Chiều rộng 5,4 6,0 5,74 ± 0.24 Hình 2: Ấu trùng tuổi 4 bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata. Hình 3: Bọ rùa trưởng thành 18 chấm Harmonia sedecimnotata. 4.2.3. Đặc điểm sinh học, sinh thái của trứng. Để tìm hiểu thời gian phát dục và tỷ lệ nở trứng của trứng bọ rùa 18 chấm, chúng tôi tiến hành thí nghiệm 2 đợt khác nhau.Kết quả được trình bày ở bảng 5 . Bảng 5: Thời gian phát dục và tỷ lệ nở của trứng Số lần thí nghiệm Số lượng trứng thí nghiệm Thời gian phát dục của trứng (ngày) Tỉ lệ nở trung bình của trứng (%) Ổ Quả Ngắn nhất Dài nhất Trung bình Nhiệt độ: 16 – 20,5°C Độ ẩm: 82% Lần 1 10 222 4 6 4,80 ± 0,63 80,27 ±4,72 12 248 3 6 4,42 ± 0,79 84,64 ±2,85 10 217 4 5 4,30 ± 0,48 90,19 ± 2,64 Trung bình 4,51 ± 0,63 85,03 ± 3,07 Nhiệt độ: 13 – 17,5°C độ ẩm: 88,5% Lần 2 12 257 6 7 6,33 ± 0,49 68,17 ± 4,26 13 281 5 7 6,08 ± 0,64 70,07 ± 5,27 12 253 5 7 6,17 ± 0,58 75,73 ± 9,12 Trung bình 6,19 ± 0,57 71,73± 6,22 Qua bảng 5 ta thấy: Thời gian phát dục của trứng loài bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata là khác nhau khi nhiệt độ và độ ẩm khác nhau. Ở nhiệt độ là 16 – 20,5°C , độ ẩm là 82% thì thời gian phát dục trung bình của trứng là 4,51 ± 0,63 (ngày), tỷ lệ nở trung bình là 85,03 ± 3,07(%). Còn với nhiệt độ thấp hơn 13 – 17,5°C, nhưng độ ẩm cao hơn là 88,5% thì thời gian phát dục trung bình của trứng là 6,19 ± 0,57 (ngày), tỷ lệ nở trung bình của trứng là 71,73 ± 6,22 (%). Do vậy, thời gian phát triển của trứng bị ảnh hưởng của yếu tố thời tiết (nhiệt độ và độ ẩm). Số lượng trứng nở ngày đầu tiên bao giờ cũng cao hơn những ngày tiếp theo, thậm chí có những ổ trứng chỉ nở trong vòng 1 ngày. 4.3.3.Đặc điểm sinh học, sinh thái của ấu trùng bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata. Ấu trùng bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata có 4 tuổi, từ tuổi 1 đến tuổi 4 trải qua 3 lần lột xác. Khi trứng mới nở, ấu trùng tuổi 1 thường tập trung quanh ổ trứng, chúng sống bằng những chất dịch còn lại ở trong trứng. Sau một thời gian chúng bắt đầu rời khỏi ổ và đi kiếm thức ăn. Ấu trùng tuổi 1 sau khi được nở ra từ trứng được tách ra các lọ riêng, có đánh số để dễ theo dõi. Trong các lọ để bông có thấm nước tạo độ ẩm, hàng ngày thay lá vải và cung cấp thức ăn vào một giờ cố định. Bảng 6: Thời gian phát dục và tỉ lệ sống sót của ấu trùng bọ rùa. Số lần thí nghiệm Thời gian phát dục trung bình của ấu trùng (ngày) Tỷ lệ sống sót trung bình (%) Nhiệt độ TB (°C) Độ ẩm TB %) Tuổi 1 Tuổi 2 Tuổi 3 Tuổi 4 Lần 1 n = 20 3,1 ± 0,31 3,4 ± 0,75 4,35 ± 0,51 6,85 ± 0,75 62,4 18,5 83,5 Lần 2 n= 20 4,7 ± 0,47 5,45 ± 0,51 5,75 ± 0,85 7,35 ± 1,21 58,72 15,3 87,5 Lần 3 n=20 3,05 ± 0,22 3,2 ± 0,41 4,45 ± 0,51 7,05 ± 0,51 71,16 23,7 81 Ghi chú: - TB: trung bình - n : số cá thể theo dõi Kết quả thí nghiệm cho thấy thời gian phát dục của ấu trùng bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata khác nhau giữa các tuổi. Ở mỗi tuổi của ấu trùng bọ rùa cũng có thời gian phát dục khác nhau ở các điều kiện thời tiết khác nhau. Điều này được thể hiện rõ ở bảng 6. Với nhiệt độ trung bình là 15,3°C, độ ẩm trung bình là 87,5%: Tỷ lệ sống sót trung bình của ấu trùng qua các tuổi là 58,72%; Thời gian phát dục của ấu trùng ở tuổi 1 là 4,7 ± 0,47(ngày), tuổi 2 là 5,45 ± 0,51(ngày), tuổi 3 là 5,75 ± 0,85(ngày), tuổi 4 là 7,35 ± 1,21(ngày). Với nhiệt độ trung bình 18,5°C, độ ẩm trung bình là 83,5%: Tỷ lệ sống sót trung bình của ấu trùng qua các tuổi là 62,4%; Thời gian phát dục của tuổi 1 là 3,1 ± 0,31(ngày), tuổi 2 là 3,4 ± 0,75(ngày), tuổi 3 là 4,35 ± 0,51(ngày), tuổi 4 là 6,85 ± 0,75(ngày). Với nhiệt độ trung bình là 23,7°C, độ ẩm trung bình 81%: Tỷ lệ sống sót trung bình của ấu trùng qua các tuổi là 71,16%; Thời gian phát dục trung bình ấu trùng tuổi 1 là 3,05 ± 0,22(ngày), tuổi 2 là 3,2 ± 0,41(ngày), tuổi 3 là 4,45 ± 0,51(ngày), tuổi 4 là 7,05 ± 0,51(ngày). Ở nhiệt độ thấp hơn thì thời gian phát dục của ấu trùng bọ rùa 18 chấm kéo dài hơn và tỷ lệ sống sót không cao. Qua đó, ta thấy điều kiện ngoại cảnh có ảnh hưởng tới thời gian phát dục và tỷ lệ nở của pha ấu trùng. 4.3.4. Đặc điểm sinh học, sinh thái của nhộng bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata. Sau khoảng 6 – 9 ngày, tuổi 4 của ấu trùng bọ rùa sẽ vào nhộng. Thời gian phát dục và tỷ lệ sống sót của nhộng bọ rùa 18 chấm được thể hiện ở bảng 7. Bảng 7: Thời gian phát dục và tỷ lệ sống sót của nhộng Số lần thí nghiệm Thời gian phát dục trung bình của nhộng (ngày) Tỉ lệ sống sót (%) Nhiệt độ trung bình (°C) Độ ẩm trung bình (%) Thấp nhất Dài nhất Trung bình Lần 1 n= 20 6 9 7,55 ± 0,89 87,5 18,5 85 Lần 2 n = 20 11 12 11,7 ± 0,47 78,12 15,5 88,5 Lần 3 n = 20 7 8 7,15 ± 0,37 87,68 23,5 80,5 Tổng 8,8 ± 0,57 84,43 ± 3,1 19,2 84,67 Ghi chú: - TB: trung bình - n : số cá thể theo dõi Qua kết quả nghiên cứu ở bảng 7 ta thấy tỷ lệ sống sót của nhộng nhiều hơn ở các tuổi của bọ rùa. Với nhiệt độ trung bình 18,5°C và độ ẩm trung bình 85%, tỷ lệ sống sót cua nhộng là 87,5%, thờigian phát dục là 7,55 ± 0,89(ngày). Với nhiệt độ trung bình là 15,5°C và độ ẩm là 88,5%, thời gian phát dục của nhộng dài hơn 11,7 ± 0,47(ngày), tỷ lệ sống sót là 78,12%. Với nhiệt độ là 23,5 °C và độ ẩm trung bình là 80,5%, thời gian phát dục của nhộng bọ rùa 7,15 ± 0,37(ngày), tỷ lệ sống sót là 87,68%. 4.3.5. Đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ rùa trưởng thành 18 chấm Harmonia sedecimnotata. Thời gian sống của bọ rùa trưởng thành khác nhau giữa con đực và con cái. Thời tiết là yếu tố ảnh hưởng tới thời gian sống của bọ rùa. Nhiệt độ cao, thì thời gian phát dục của các pha sẽ rút ngắn lại, ngược lại nhiệt độ thấp thì thời gian phát dục sẽ kéo dài hơn. Thông thường trưởng thành đực có thời gian sống ngắn hơn trưởng thành cái.Thời gian sống của bọ rùa trưởng thành được thể hiện qua bảng 8. Bảng 8: Thời gian sống của bọ rùa trưởng thành. Trưởng thành Số cá thể theo dõi Thời gian sống (ngày) Ngắn nhất Dài nhất Trung bình Nhiệt độ: 16 – 20,5°C Độ ẩm: 87,5% Con đực 20 10 30 27,35 ± 5,63 Con cái 20 18 40 32,5 ± 5,83 Nhiệt độ: 24,5 – 30°C Độ ẩm: 80% Con đực 20 7 30 22,45 ± 8,16 Con cái 20 10 32 25,65 ± 4,78 Bảng 8 cho ta thấy thời gian sống của bọ rùa trưởng thành khác nhau ở điều kiện nhiệt độ khác nhau. Ở nhiệt độ 16 – 20,5°C, độ ẩm 87,5%, thời gian sống của bọ rùa trưởng thành con đực là 27,35 ± 5,63(ngày), con cái 32,5 ± 5,83(ngày). Ở nhiệt độ 24,5 - 30°C, độ ẩm 80%, thời gian sống sót của bọ rùa trưởng thành con đực là 22,45 ± 8,16(ngày), con cái là 25,65 ± 4,78(ngày). Sau khi vũ hoá từ nhộng từ 7 – 10 ngày, bọ rùa đực, cái tìm đến nhau ghép đôi, giao phối. Ngoài thức ăn là rệp chúng tôi còn bổ xung thêm dung dịch (mật ong + nước lã) để tăng khả năng đẻ trứng. Thời gian từ nhộng vũ hoá đến khi đẻ trứng và số lượng trứng đẻ của 1 con cái được thể hiện qua bảng 9. Bảng 9: Thời gian từ nhộng vũ hoá đến khi đẻ trứng và số lượng trứng đẻ của một con cái. Số lần thí nghiệm Từ vũ hoá đến khi giao phối của 1 con cái (ngày) Từ giao phối đến khi đẻ của 1 con cái (ngày) Số lượng ổ trứng đẻ trung bình của 1 con cái (ổ) Số lượng trứng đẻ của một con cái (quả) Nhiệt độ trung bình (°C) Độ ẩm trung bình (%) Lần 1 n = 20 14,35 ± 0,67 1,83 ± 0,94 2,35 ± 0,49 40,75 ± 16,73 18,5 85 Lần 2 n= 20 19,50 ± 0,37 2,08 ± 0,67 2,20 ± 0,70 35,17 ± 14,56 16,5 89,5 Lần 3 n = 20 15,05 ± 1,23 1,92 ± 0,85 1,95 ± 0,70 29,76 ± 14,70 26,5 80 Ghi chú: n :số lượng cá thể thí nghiệm Bảng 9 cho ta thấy, thí nghiệm 3 lần ở điều kiện nhiệt độ khác nhau thì sẽ cho kết quả khác nhau. Mỗi con cái đẻ từ 1 – 3 ổ trứng, trứng được đẻ thành từng ổ tập trung. Tuỳ vào từng điều kiện mà có ổ trứng có 6 – 7 quả, ổ cao nhất lên tới 40 quả trứng. 4.3.6. Khả năng tiêu diệt mồi của ấu trùng và trưởng thành của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata . Trong điều kiện thiên nhiên nhiệt đới Việt Nam, các loài bọ rùa có ích hầu như phát triển quanh năm. Bọ rùa ăn thịt có vai trò quan trọng trong việc tiêu diệt côn trùng hại. Khi rệp bắt đầu phát triển thì bọ rùa cũng xuất hiện. Bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata là côn trùng tiêu diệt rệp hại tích cực nhất trên cây vải. ấu trùng tuổi 1 được chúng tôi nuôi trong các lọ có kích thước 50 ml, được đánh số, trong mỗi lọ có để bông tẩm nước để tạo độ ẩm. Hàng ngày, thay lá vải cho các lọ đồng thời đếm số lượng rệp cho vào trong lọ để xác địng khả năng tiêu thụ mồi của chúng. Rệp vải bọ rùa tiêu thụ có màu xanh trong, chúng thường sống tập trung ở những lộc non hoặc hoa vải Bọ rùa 18 chấm là loài ít hoạt động. Nhưng khi gặp con mồi chúng di chuyển nhanh , dùng hai chân trước ghì chặt lấy con mồi, sau đó bắt đầu ăn cho đến khi tiêu diệt hết con mồi. Bảng 10: Khả năng tiêu thụ rệp của ấu trùng bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata. Số lần thí nghiệm Số lượng rệp bị tiêu diệt trung bình ở các giai đoạn phát dục (con/ngày) Nhiệt độ TB (°C) Độ ẩm (%) Tuổi của ấu trùng Tuổi 1 Tuổi 2 Tuổi 3 Tuổi 4 Lần 1 9,0±1,33 12,7±0,67 15,5±1,65 21,7±1,42 17 85 N 15 15 20 25 Lần 2 8,8±0,63 11,5±1,51 15,2±0,92 21,7±1,16 23 86 N 15 15 20 25 Lần 3 8,5±0,85 12,1±1,20 16,0±1,56 20,0±1,05 20 80 N 15 15 20 25 Ghi chú: - TB: trung bình - N : số cá thể rệp thí nghiệm(con). Qua bảng 10 ta thấy: Trong một ngày ấu trùng bọ rùa ở nhiệt độ và độ ẩm khác nhau thì mức độ tiêu thụ mồi của ấu trùng bọ rùa không khác nhau là mấy. Mức độ rệp ở tuổi cao hơn thì tiêu thụ rệp nhiều hơn. Tuổi 1, số lượng rệp tiêu thụ trung bình lớn nhất là 9,0 ± 1,33 (rệp/ngày), ở điều kiện nhiệt độ là 17°C, độ ẩm trung bình 85%, ít nhất là 8,5 ± 0,85 (rệp/ngày), ở điều kiện nhiệt độ là 20°C, độ ẩm trung bình 80%. Tuổi 2, số lượng rệp tiêu thụ trung bình lớn nhất là 12,7 ± 0,67 (rệp/ngày), ở điều kiện nhiệt độ là 17°C, độ ẩm trung bình 85%, ít nhất là 11,5 ± 1,51(rệp/ngày), ở điều kiện nhiệt độ là 23°C, độ ẩm trung bình 86%. Tuổi 3, số lượng rệp tiêu thụ trung bình lớn nhất là 16,0 ± 1,56 (rệp/ngày), ở điều kiện nhiệt độ là 20°C, độ ẩm trung bình 80%, ít nhất là 15,2 ± 0,92 (rệp/ngày), ở điều kiện nhiệt độ là 23°C, độ ẩm trung bình 86%. Tuổi 4, số lượng rệp tiêu thụ trung bình lớn nhất là 21,7±1,16 (rệp/ngày), ở điều kiện nhiệt độ là 23°C, độ ẩm trung bình 86%, ít nhất là 20,0 ± 1,05 (rệp/ngày), ở điều kiện nhiệt độ là 20°C, độ ẩm trung bình 80%. Trưởng thành bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata, chúng tôi nghiên cứu khả năng tiêu thụ vật mồi là rệp và trứng ngày gạo. Bảng 11: Khả năng tiêu thụ mồi của trưởng thành bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata. Số lần thí nghiệm Số lượng vật mồi bị tiêu diệt (con/ngày) Điều kiện Trứng ngài gạo (quả) Rệp (con) Nhiệt độ TB(°C) Độ ẩm TB (%) Thấp nhất Cao nhất Trung bình Thấp nhất Cao nhất Trung bình Lần 1 15 21 18,8 ± 1,93 22 24 22 ± 0,90 23,5 88 Lần 2 15 20 16,9 ± 1,81 22 24 23 ± 0,82 23,7 85 Lần 3 15 18 16,83 ± 1,17 22 24 23,14 ± 0,69 25,6 80,5 Ghi chú: - TB: trung bình. Với vật mồi là trứng rệp, trưởng thành bọ rùa tiêu diệt lớn nhất là 23,14 ± 0,69 (rệp /ngày), ít nhất là 22 ± 0,90 (rệp/ngày). Với vật mồi là trứng ngày gạo, trưởng thành bọ rùa tiêu diệt lớn nhất là 18,8 ± 1,93(trứng/ngày), ít nhất là 16,83 ± 1,17(trứng /ngày). Như vậy, khả năng tiêu thụ rệp của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata mở ra hướng bảo vệ thực vật cho nghành nông nghiệp nước ta. CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 5.1. KẾT LUẬN. + Thành phần côn trùng hại thu được trên cây vải từ 10/2005 đến tháng 4/2006 thu được 24 loài, thuộc 5 bộ. + Thành phần thiên địch thu được trên cây vải từ 10/2005 đến tháng 4/2006 thu được 13 loài, thuộc 7 bộ. + Điều tra ngoài tự nhiên chúng tôi thu được bọ rùa 18 chấm trên cây vải đang ra hoa. Chúng xuất hiện nhiều vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 và giảm dần đến cuối tháng 4 thì hết. + Chu kỳ phát triển của bọ rùa 18 chấm trải qua 3 giai đoạn: trứng, ấu trùng và trưởng thành. + Ngoài tự nhiên cũng như trong phòng thí nghiệm bọ rùa đẻ trứng theo ổ. Trứng được đẻ ở mặt dưới của lá vải, có màu vàng sáng, hình ôval mỗi ổ có từ 6 – 40 quả. Trứng nở ra trong khoảng thời gian từ 3 – 7 ngày. Tỷ lệ nở của trứng cao đạt hơn 71%. + Ấu trùng bọ rùa 18 chấm có 4 tuổi. Từ tuổi 1 đến tuổi 4 trải qua 3 lần lột xác, đều có màu đen, từ tuổi 3 ta có thể nhìn rõ được màu vàng ở cuối lưng. Thời gian phát dục của tuổi 1 từ 3 – 8 ngày lột xác sang tuổi 2, ấu trùng tuổi 2 sau từ 3 – 6 ngày lột xác sang tuổi 3, ấu trùng tuổi 3 sau 3 – 7 ngày lột xác sang tuổi 4. Ấu trùng tuổi 4 phát triển trong khoảng 6 – 10 ngày chuyển sang giai đoạn nhộng. + Nhộng bọ rùa 18 chấm có màu vàng cam, trên lưng có 18 chấm đen. Nhộng bọ rùa 18 chấm phát triển trong khoảng từ 6 – 12 ngày thì nhộng vũ hoá. + Trưởng thành bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata có màu vàng nâu, trên lưng ngực trước có 2 chấm, còn 16 chấm được xếp đều đối xứng ở 2 cánh theo công thức 2 – 3 – 2 – 1 . Trưởng thành vũ hoá từ 7 – 10 ngày thì giao phối. Trưởng thành đực và cái khác nhau ở tấm bụng thứ 4 và thứ 5 ở con đực cong lõm. + Mỗi con cái đẻ từ 1 – 3 ổ trứng, số lượng trứng trong một ổ từ 6 – 40 quả. + Thời gian từ lần lột xác cuối cùng đến khi đẻ là 14,35 ± 0,67(ngày), nhiệt độ trung bình 18,5°C và độ ẩm là 85%, 19,5 ± 0,37(ngày), nhiệt độ trung bình 16,5°C và độ ẩm là 89,5%, 15,05 ± 1,23(ngày), nhiệt độ trung bình 26,5°C và độ ẩm là 80%. +Thơì gian sống trưởng thành bọ rùa đực và cái là khác nhau, phụ thuộc vào yếu tố nhiệt độ và độ ẩm. Tuổi thọ trung bình của con đực 27,35 ± 5,63(ngày), con cái 32,5 ± 5,83(ngày), nhiệt độ trung bình 16 – 20,5°C, độ ẩm trung bình 87,5%. Tuổi thọ của con đực là 22,45 ± 8,16(ngày) , con cái là 25,65 ± 4,78(ngày), nhiệt độ trung bình 24,5 – 30°C, độ ẩm trung bình 80%. + Khả năng tiêu thụ rệp của trưởng thành bọ rùa 18 chấm khoảng từ 21 – 24 (rệp/ngày), trứng ngày gạo khoảng 17 – 20 (trứng/ngày). 5.2. KIẾN NGHỊ. + Tuyên truyền cho người dân hiểu về tác hại của thuốc trừ sâu hoá học nhằm bảo vệ môi trường sống, giảm bớt mối nguy hại do thuốc trừ sâu hoá học gây ra. + Muốn phòng trừ có hiệu quả các loài sâu hại cần áp dụng chương trình quản lý dịch hại tổng hợp IBM, bảo vệ những loài thiên địch, tạo cân bằng sinh học trong tự nhiên. + Ứng dụng công nghệ sinh học vào việc nhân nhanh loài bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. Sau đó thả chúng vào đồng ruộng để tiêu diệt loài rệp gây hại. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu trong nước. Nguyễn Xuân Thành (1994). Bọ xít ăn thịt Cantheconidea furcellata Walker vai trò của chúng trong việc điều hoà chủng quần sâu hại. Tạp chí Bảo vệ thực vật Số 2/1994,3 trang (4 – 7 ). Nguyễn Xuân Thành ( 1999). Côn trùng và vi sinh vật trên cây vải thiều tại Quảng Ninh và Thanh Hoá. Biện pháp lợi dụng và điều khiển chúng . Kỷ yếu hội nghị khoa học, công nghệ và môi trường các tỉnh miền núi phía Bắc lần thứ 7.Tr ( 207 – 209 ). Nguyễn Xuân Thành (1999).Thử nghiệm một số chế phẩm thiên nông trên cây vải thiều. Kỷ yếu hội nghị khoa học Côn nghệ và Môi trường các tỉnh miền núi phía Bắc lần thứ 7 – Hà Giang tháng 11/1999. Nguyễn Xuân Thành (2000). Những đặc điểm sinh học, sinh thái của 2 loài bọ mắt vàng Chrysopa sp. Và Ankylopteryx sp. Thuộc họ Chrysopidae trên cây vải thiều Đông Triều Quảng Ninh. Tạp chí sinh học,1 (22) Tr (44 – 47 ). Nguyễn Xuân Thành (2002). Kịch bản phim Bướm đêm ăn lá và chích hút quả. Nguyễn Xuân Thành (2003). Kết quả bước đầu nghiên cứu thành phần các loài côn trùng và nhện trên cây vải tại Hà Nội và vùng phụ cận. Hội thảo quốc gia về khoa học và Bảo vệ thực vật. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 2003, Tr (274 – 278 ). Nguyễn Xuân Thành , Phạm Quỳnh Mai, (2003) .Ong ký sinh trứng bọ xít nhãn vải và ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến chúng. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống. Hội nghị toàn quốc lần thứ hai nghiên cứu cơ bản trong sinh học , nông nghiệp, y học . Huế 25_26/7 2003 Nxb khoa học kỹ thuật Hà Nội 2003, Tr (742 – 745 ). Phạm Quỳnh Mai, Nguyễn Xuân Thành, (2003) . Thành phần biến động số lượng loài bọ rùa phổ biến Harmonia sedecimnotata Fabr. Trên cây vải tại vùng Sóc Sơn Hà Nội. Hội nghị toàn quốc lần hai nghiên cứu cơ bản trong sinh học, nông nghiệp , y học Huế 25 - 26/7/2003. Nxb khoa học và kỹ thuật Hà Nội 2003, Tr (681 - 684 ). Nguyễn Xuân Thành, (2003) . Thành phần côn trùng hại nhãn vải và thiên địch của chúng ở miền Bắc Việt Nam. Hội thảo khoa học quốc gia Bảo vệ thực vật Nxb Nông nghiệp Hà nội 2003,Tr (274 – 278 ). Phạm Quỳnh Mai, Nguyễn Xuân Thành, (2004) .Những đặc điểm phát triển của bọ rùa 18 chấm ( Harmonia sedecimnotata Fabr.). Hội nghị toàn quốc 2004 nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống. Định hướng nông lâm nghiệp miền núi. Thái Nguyên 23/9/2004. Nxb Khoc học và kỹ thuật Hà Nội 2004, Tr (508 – 512 ). Nguyễn Xuân Thành, (2004). Những đặc điểm quan trọng của các loài bướm đêm hại cây trồng ăn quả thuộc phân họ (Ophiderinae, Noctuidae, Lepidoptera) trên miền Bắc Việt Nam. Hội nghị toàn Quốc 2004 nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống. Định hướng nông lâm nghiệp miền núi . Thái Nguyên 23/9/2004 . Nxb Khoa học và kỹ thuật Hà Nội ,2003, Tr (630 – 635 ). Nguyễn Xuân Thành ,Phạm Quỳnh Mai (2004) . Đặc điểm sinh học sinh thái cuả Oxyodes scrobiculata Fabr. (Noctuidae, Lepidotera). Tạp chí bảo vệ thực vật số 5/2004, Tr (9 – 15 ). Nguyễn Xuân Thành ,Hồ Thu Giang (2005) Thành phần sâu cuốn lá vải (Tortricidae, Lepidoptera) ở miền Bắc Việt Nam và đặc điểm sinh học, sinh thái của Archips eucroca Diakonoff. Hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 5 Hà Nội 3/2005 ,Tr (219 – 224 ). Nguyễn Xuân Thành , Kiều Thu Thuỷ (2005). Đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ xít bắt mồi Sycanus bifidus Fabr. (Reduviidae - Hemiptera). Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống. Báo cáo khoa học hội nghị khoa học toàn quốc 2005. Nxb Khoa học và kỹ thuật 2005 , Tr (1067 – 1070 ). Nguyễn Xuân Thành (2006). Kịch bản phim Sâu xanh hại cây trồng và biện pháp phòng trừ. Bùi Lan Anh , Ngô Xuân Bình (2003). Một số kết quả điều tra sâu bệnh hại nhãn vải tại Thái Nguyên năm 2002 – 2003. Tạp chí Bảo vệ thực vật số 6/2003. Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Bắc Giang (2004). Phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại trên vải thiều. Tạp chí Bảo vệ thực vật, số 4/2004. Dương Tiến Viện - ĐHSP Hà Nội (2000). Một số kết quả nghiên cứu thành phần sâu hại vải và biện pháp phòng trừ tại Mê Linh – Vĩnh Phúc. Một số loài sâu bệnh hại cây trồng đáng chú ý trong những năm gần đây. Tr (54 – 57 ). Hoàng đức Nhuận (1982). Bọ rùa – Coccinellidae ở Việt Nam. NXB Khoa học và kỹ thuật Hà Nội – 1982. Hoàng Thị Việt và ctv (2000). Một số kết quả nghiên cứu về NPV (Nuclear Polyhedrosis Virus) và khả năng sử dụng trong phòng trừ sâu hại cây trồng. Tr (113 – 130 ). Hồ Khắc Tín (1978). Côn trùng học đại cương. NXB Nông nghiệp Hà Nội. Hồ Khắc Tín (1982).Côn trùng học nông nghiệp. NXB Nông nghiệp. Nguyễn Xuân Hồng (1998). Kết quả điều tra bước đầu thành phần sâu bệnh hại vải ở Lục Ngạn – Bắc Giang và Chương Mỹ – Hà Tây. Tr (103 – 105 ). Phạm Đình Sắc (2003). Cấu trúc loài nhện bắt mồi và biến động số lượng của một số loài phổ biến trên cây vải vùng Sóc Sơn, Hà Nội. Tuyển tập công trình nghiên cứu BVTV – Viện Bảo vệ thực vật – NXB Nông nghiệp. Tr (125 – 129 ). Phạm Đình Sắc, Vũ Quang Côn (2003) – Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, Trung tâm KHTN& CNQG. Thành phần, số lượng và sự trú đông của nhện Araneae trên cây vải tại vùng Mê Linh – Vĩnh Phúc. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong sinh học, nông nghiệp, y học – Huế 25 – 26/7/2003. Tr (713 – 716 ). Phạm Văn Lầm, Nguyễn Thành Vĩnh (2003). Dẫn liệu bước đầu về đặc điểm sinh học cơ bản của ong đen Ooencytus phongi Trjap, Myart. et Kost (Hymenoptera, Encyrtidae) ký sinh trứng bọ xít nhãn vải – Tạp chí BVTV số 3/2003. Trần Huy Thọ, và ctv (1995). Một số kết quả nghiên cứu về sâu hại chủ yếu trên một số cây ăn quả ở miền Bắc nước ta. Tuyển tập các công trình nghiên cứu. Viện Bảo vệ thực vật 1990 – 1995. NXB Nông nghiệp. Trần Thế Tục (2003). 100 câu hỏi về nhãn vải. NXB Nông nghiệp. Tài nguyên thực vật Đông Nam Á, tập 1 số 3, tháng 7/1996. Viện Bảo vệ thực vật (1976). Kết quả điều tra côn trùng 1967 – 1968. Vũ Công Hậu (1990). Trồng cây ăn quả ở Việt Nam – NXB Nông nghiệp Tp Hồ Chí Minh. Vũ Quang Côn, Khuất Đăng Long, Trương Xuân Lam(1995) – Phòng sinh thái côn trùng – Những công trình nghiên cứu cơ bản. Tr (225 – 231 ). Tài liệu nước ngoài. D.F Waterhouse (1993).The Maior Arthropod Pest and Weed of Agriculture in Southeast Asia: Distribution Impotance and Origin. Canberra, Australia – 1993.) LiLi_ Ying Wang Ren and D.F Water house (1997). The distribution and impotance of arthropod pest and weed of Agriculture and Forestry plantationsin Southern China. Canberra 1997) Liu Xi Die (1998). Experiment of control of litchi stink bug by using Anastatus japonius Ashmead. South China Fruit, 1998) Luo Qi Hao (1998).Study on Comocritis albicapilla of litchi tree. Journal of South China Agricaltural University, 1998 Rajpal Singh(1998). K.Flower visitor of litchi and their role in pollinnation and fruit production. Pest Management and Economic Zoology, 1998. Vol. 6, No. 1, pp. 1 – 5.7 ref.). Tan Shi Dong (1999). Study on the structure and dynamic of pest community in lychee orchard. Actaphytoppylacica Sinica, 1999) Yang Chi Kun(1999). A new genus ang species of gall midge (Dipera Cecidomyiidao) infesting litchi from China. Entomotaxonomia, 1999. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNNo02.docx
Tài liệu liên quan