Hoạt động kinh tế của người Bru-Vân Kiều tại thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị - Hoàng Phương Mai

Tài liệu Hoạt động kinh tế của người Bru-Vân Kiều tại thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị - Hoàng Phương Mai: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 93Ngày nhận bài: 18/5/2018; Ngày phản biện: 23/5/2018; Ngày duyệt đăng: 4/6/2018(1) Viện Dân tộc học; e-mail: maihp.vass@gmail.com HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI BRU-VÂN KIỀU TẠI THỊ TRẤN LAO BẢO, HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ Hoàng Phương Mai(1) Đồng bào Bru-Vân Kiều sinh sống tập trung ven cạnh khu kinh tế thương mại thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Hoạt động kinh tế của người Bru-Vân Kiều chủ yếu là: Trồng trọt, chăn nuôi, khai thác các nguồn lợi tự nhiên và buôn bán, làm thuê. Trong các hoạt động này có những hoạt động mang đậm màu sắc truyền thống, ít có cải biến về mặt kỹ thuật như trồng trọt trên nương rẫy, chăn nuôi, một số hoạt động khai thác tự nhiên. Tuy nhiên, có những hoạt động kinh tế thể hiện sự nắm bắt nhu cầu thị trường và sự thay đổi cơ cấu cây trồng góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình, đó là mô hình kinh tế đồi rừng, vườn rừng để trồng cây ăn quả xuất khẩu. Đây là bước ...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 710 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động kinh tế của người Bru-Vân Kiều tại thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị - Hoàng Phương Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 93Ngày nhận bài: 18/5/2018; Ngày phản biện: 23/5/2018; Ngày duyệt đăng: 4/6/2018(1) Viện Dân tộc học; e-mail: maihp.vass@gmail.com HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI BRU-VÂN KIỀU TẠI THỊ TRẤN LAO BẢO, HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ Hoàng Phương Mai(1) Đồng bào Bru-Vân Kiều sinh sống tập trung ven cạnh khu kinh tế thương mại thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Hoạt động kinh tế của người Bru-Vân Kiều chủ yếu là: Trồng trọt, chăn nuôi, khai thác các nguồn lợi tự nhiên và buôn bán, làm thuê. Trong các hoạt động này có những hoạt động mang đậm màu sắc truyền thống, ít có cải biến về mặt kỹ thuật như trồng trọt trên nương rẫy, chăn nuôi, một số hoạt động khai thác tự nhiên. Tuy nhiên, có những hoạt động kinh tế thể hiện sự nắm bắt nhu cầu thị trường và sự thay đổi cơ cấu cây trồng góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình, đó là mô hình kinh tế đồi rừng, vườn rừng để trồng cây ăn quả xuất khẩu. Đây là bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức của đồng bào về phát triển kinh tế địa phương nói chung và kinh tế hộ gia đình nói riêng. Từ khóa: Hoạt động kinh tế của người Bru-Vân Kiều; hoạt động kinh tế; người Bru-Vân Kiều. Quảng Trị là địa phương có số lượng người Bru- Vân Kiều cư trú lớn nhất trên cả nước với 55.079 người (chiếm 73,9% tổng số người Bru-Vân Kiều tại Việt Nam và chiếm hơn 13% dân số toàn tỉnh (Tổng cục thống kê, 2010), trong đó tập trung chủ yếu tại khu vực giáp biên giới Việt - Lào, là vùng miền núi phía Tây thuộc thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Đồng bào Bru-Vân Kiều sinh sống ven khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo đang phát triển rất sầm uất và được đầu tư xây dựng hạ tầng mang tầm vóc của một cửa khẩu quốc tế kết nối giao thương và giữ vị thế chính trị - quốc phòng quan trọng của đất nước. Với sự phát triển của khu kinh tế vùng biên đặc biệt này, cư dân vốn canh tác nông nghiệp thuần túy như người Bru- Vân Kiều đã tận dụng được các lợi thế để cải thiện đời sống của tộc người mình. 1. Trồng trọt 1.1. Canh tác rẫy Đồng bào Bru-Vân Kiều từ xa xưa vốn lấy canh tác rẫy làm nguồn sống chủ yếu mỗi năm chỉ có một vụ, hiện nay có sản xuất lúa nước song diện tích không đáng kể. Trải qua quá trình sản xuất trên rẫy lâu dài, người Bru-Vân Kiều đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm sản xuất quý báu từ việc chọn đất, phát, đốt, trỉa, gieo hạt, chăm bón và thu hoạch. Tuy nhiên, so với thời đại ngày nay kỹ thuật canh tác của đồng bào còn khá lạc hậu và rất khó khăn để cải tiến do mặt bằng dân trí còn tương đối thấp. Người Bru-Vân Kiều trong canh tác truyền thống chia rẫy thành 4 loại: rẫy mới; rẫy đang canh tác; rẫy tái phát và rẫy thường niên. Với 4 loại rẫy trên cho thấy, hình thức canh tác rẫy của người Bru-Vân Kiều là hình thức quảng canh. Khi đồng bào khai phá được một mảnh rẫy, họ chỉ canh tác trên đó từ 2 - 3 vụ, sau đó bỏ hoang và khai phá mảnh rẫy khác, cứ như vậy cho đến khi cây cỏ ở rẫy đầu tiên mọc trở lại um tùm, với thời gian khoảng từ 6 đến 8 năm mới quay về canh tác tiếp. Người Bru-Vân Kiều có một quy định bất hành văn là không tranh giành đất đai với các họ tộc khác, mảnh rẫy thuộc họ nào đang được khai phá thì những gia tộc khác không được đụng đến, mặc dù mảnh rẫy đó đã hoang hóa với thời gian khá lâu. Khi phát rẫy xong, sản phẩm được trồng đầu tiên trên rẫy là lúa, sau đó đến ngô, các loại rau mầu, sắn.... Có nhiều giống lúa với các tên gọi như lúa hạt ngắn, lúa đỏ, lúa lức, lúa hạt bồ câu, lúa thơm, lúa hạt tròn, lúa hạt cong, lúa hạt trắng... Ngoài ra, người Bru-Vân Kiều còn trồng các loại nếp, như nếp đen vỏ, nếp đỏ, nếp hạt đen, nếp dẻo. Sau khi đã trồng lúa từ 1 - 2 vụ tùy theo đất tốt hay xấu, người Bru-Vân Kiều chuyển sang trồng ngô, cũng chỉ từ 1 - 2 vụ, rồi bỏ rẫy cho hoang hóa. Khâu chọn đất làm rẫy có vai trò quan trọng quyết định đến năng suất mùa vụ, đồng bào Bru- Vân Kiều thường chọn đất nâu hay xám đen là loại có thể giữ được độ ẩm, phù hợp với các loại cây trồng. Đất đen tơi xốp tuy tốt, nhưng lại dễ bị khô, không giữ được nước, dễ bị xói mòn. Chọn được đất tốt, đồng bào bắt đầu phát rẫy sau đó gieo hạt bằng gậy chọc lỗ. Trong các công đoạn chăm sóc, người Bru-Vân Kiều không có thói quen bón phân cho cây trồng1. Với hình thức canh tác nương rẫy như trên, cho đến ngày nay yếu tố truyền thống vẫn chiếm vị trí không nhỏ trong cách làm của người Bru-Vân 1. Vương Xuân Tình (chủ biên, 2017), Các dân tộc Việt Nam, Tập 3: Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer, NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.509 Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 94 Số 22 - Tháng 6 năm 2018 Kiều. Nhà nước đã hỗ trợ giống mới và gợi ý những cách làm mới cho đồng bào nhưng việc áp dụng không nhiều hiệu quả. Từ chất đất, môi trường và giống lúa nương không cho phép thích ứng nhiều phương cách áp dụng như cây lúa nước nên năng suất cây trồng không cao. Trồng trọt nương rẫy chỉ dừng lại ở mức đáp ứng được nhu cầu lương thực, chăn nuôi hàng ngày của người dân chứ chưa có sự phát triển từ buôn bán cây lương thực. 1.2. Kinh tế đồi rừng, vườn rừng Một trong những yếu tố tạo nên sự biến đổi trong phát triển kinh tế hộ gia đình người Bru-Vân Kiều những năm gần đây là sự thay đổi cơ cấu cây trồng, với sự chú trọng đầu tư vào kinh tế đồi rừng, vườn rừng. Lao Bảo là nơi có địa hình đồi núi được người dân khai thác khá hiệu quả để trồng cây nguyên liệu, cây ăn quả có thể xuất khẩu với khối lượng lớn. Trước đây, người dân ở các huyện vùng cao của huyện Hướng Hóa với tập quán phát rừng làm nương rẫy đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến diện tích rừng nguyên sinh, là nguyên nhân dẫn đến sự xói mòn đất và mưa lũ kéo dài. Ngày nay, đồng thời với phát triển kinh tế, nhận thức được giá trị và vai trò của rừng đối với đời sống, đồng bào ta đã tích cực trồng rừng, góp phần không nhỏ cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo, nhờ đó diện tích rừng kinh tế ngày một lớn. Cơ cấu cây trồng thay đổi. Địa hình và chất đất của thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị thích hợp trồng và phát triển cây ăn quả hàng hóa trên diện tích đất đồi rừng, vườn rừng. Một số cây thế mạnh của Lao Bảo có thể kể đến là cà phê, hồ tiêu, các cây ăn quả hàng hóa là chuối, dứa, xoài, mít Huyện Hướng Hóa là địa bàn có diện tích trồng cây ăn quả lớn nhất của tỉnh Quảng Trị. Từ năm 2006 trở lại đây, nắm bắt được thị trường một số nước lân cận có nhu cầu tiêu thụ chuối lớn, nông dân nhiều tỉnh thành trên cả nước như Lào Cai, Lạng Sơn và Quảng Trị bắt đầu trồng chuối giống mới có sản lượng cao. Thông thường thời điểm trước và sau Tết Nguyên Đán, lượng hoa quả do người Bru-Vân Kiều ở Lao Bảo vùng ven biên giới của huyện Hướng Hoá trồng có thể xuất khẩu được trên 400 tấn chuối quả, với giá bình quân 5 triệu đồng/tấn, giá thành xuất khẩu đến nay khá ổn định. Những năm gần đây, cơ cấu trồng cây ăn quả tại các vườn đồi có sự thay đổi vì diện tích trồng chuối và dứa tăng lên so với các loại cây khác như cam, xoài và mít có xu hướng giảm đi hoặc không tăng. Năm 2016, nông dân Hướng Hóa đã thu hơn 80 tỷ đồng riêng từ bán chuối quả. Hướng Hóa xác định cây chuối là một trong những cây ăn quả mang lại giá trị kinh tế cao, cho thu nhập quanh năm, vốn đầu tư không nhiều nên thu hút được bà con Bru-Vân Kiều tập trung mở rộng diện tích trồng. Đến nay, toàn vùng đã trồng được hơn 1.400 ha cây chuối. Bình quân mỗi ha thu từ 40-50 triệu đồng/năm. Mỗi ngày tư thương mua khoảng 50 - 60 tấn chuối quả để xuất khẩu sang Trung Quốc và tiêu thụ nội địa. Có thể nhận thấy đồng bào Bru-Vân Kiều đang từng bước phát triển tích cực trong thay đổi cơ cấu cây trồng, phát triển kinh tế hộ gia đình. Họ đã nhận thức được canh tác lúa, ngô trên rẫy thuần túy rất khó để xóa đói giảm nghèo trong bối cảnh kinh tế đất nước không ngừng biến đổi. Người Bru-Vân Kiều vốn hiền lành, có ý chí kiên trung, bất khuất. Song trước thời đại công nghiệp hóa hiện nay, nằm gần kề khu kinh tế đặc biệt Lao Bảo, thực sự người Bru-Vân Kiều vẫn còn những bước tiến khá chậm. Do trình độ dân trí còn thấp, kinh tế tự cung tự cấp ăn sâu trong tiềm thức của người dân nên sự phát triển chậm đó là điều dễ hiểu. Hiện nay, mặc dù kinh tế có ổn định hơn do cải thiện cây trồng nhưng đồng bào chưa tự mình đứng ra thu được hết các nguồn lợi từ cây trồng, mà còn phụ thuộc vào các thương lái người Việt môi giới và định giá khi đến thu mua tận gốc. 2. Chăn nuôi Chăn nuôi của người Bru-Vân Kiều trong truyền thống chỉ mang tính bổ trợ cho trồng trọt, quy mô còn nhỏ lẻ. Cho đến này, chăn nuôi tuy có hướng phát triển nhưng chưa đồng bộ và bà con chưa mạnh dạn đầu tư. Tập quán chăn nuôi truyền thống còn ăn sâu như lối thả rông vật nuôi quanh khu vực cư trú hoặc các bãi chăn thả trong rừng, lệ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Vì vậy, hoạt động chăn nuôi của đồng bào Bru-Vân Kiều đến nay chưa thực sự phát triển bởi những khó khăn lớn từ vốn và kỹ thuật còn hạn chế, đồng thời trình độ nhận thức của đồng bào chưa cao, sự biến động giá cả dẫn đến chi phí sản xuất tăng nên việc bao tiêu sản phẩm đầu ra cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của việc chuyển đổi trong chăn nuôi. Hiện nay, công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi đã được chú trọng, trên cơ sở đó nên kinh tế trang trại đã bắt đầu hình thành. Các hộ gia đình nuôi bò, lợn với quy mô số lượng 20 đến 30 con2 Tuy nhiên, đến nay tại Lao Bảo chưa có đơn vị nào có thể đứng ra đảm bảo bao tiêu sản phẩm cho người dân. Chính vì vậy mặc dù nằm gần đặc khu kinh tế, được tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương buôn bán nhưng kinh tế chăn nuôi của đồng bào Bru-Vân Kiều ở đây chưa phát triển. 3. Khai thác các nguồn lợi tự nhiên Tại Lao Bảo, người Bru-Vân Kiều từ lâu đời đã có cuộc sống gắn bó với núi rừng. Trong điều kiện hiện nay khi mà diện tích đất nông nghiệp hạn hẹp, rừng và đất rừng được Nhà nước quản lý chặt chẽ hơn thì cuộc sống của người dân phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn. Đồng bào đã bắt đầu tận dụng diện tích đất trồng từ rừng để phát triển kinh tế, chứ không hoàn toàn thụ động trông chờ vào các nguồn 2. Vương Xuân Tình, sđd Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 95Số 22 - Tháng 6 năm 2018 lợi tự nhiên. Vấn đề cấp bách được đặt ra là làm thế nào để người dân địa phương có thể cải thiện được đời sống đồng thời tài nguyên rừng được bảo vệ và quản lý bền vững dựa trên chính những kiến thức của mình, vốn được coi như một nguồn nội lực phát triển quan trọng. Người Bru-Vân Kiều đều sống gần kề với rừng, đời sống vật chất cũng như tinh thần gắn bó chặt chẽ với rừng núi. Tài nguyên rừng, đặc biệt là lâm sản ngoài gỗ và phi gỗ như mây, giang, tre, nứa, lá nón, các loại rau rừng, cây thuốc, chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của người dân ở đây. Các sản phẩm này thường được khai thác và sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Các loại cây gỗ lớn như đinh, lim, xà gồ... được người dân khai thác để làm nhà và vật dụng gia đình. Lao Bảo là địa phương giáp biên có khá lớn diện tích được che phủ kín bởi rừng, với nhiều loại gỗ tốt, quí hiểm như: Lim xanh, trường, táu đá, trám, kiền kiền, gụ, sồi, gội, ngát, trâm..., cây dược liệu, cây cảnh có giá trị kinh tế cao. Rừng đầu nguồn còn giữ được tính nguyên sinh, rậm, nhiều tầng, có độ che phủ lớn. Ngoài ra, ở vùng gò đồi còn có cây trồng công nghiệp, nông nghiệp và rừng trồng như cây cao su, hồ tiêu, cà phê, chè, bạch đàn, keo tràm, thông nhựa với diện tích tương đối lớn. Tuy đã trải qua bao biến đổi do tác động con người, tác động của chiến tranh tàn phá nhưng với những chủ trương, giải pháp có hiệu quả của tỉnh về trồng và bảo vệ rừng nên rừng Quảng Trị hiện nay đang dần dần hồi phục. Thiên nhiên đã ưu đãi cho Lao Bảo nhiều loại tài nguyên khoáng sản, có nhiều mỏ và điểm quặng thuộc nhóm kim loại (sắt, đồng), vật liệu xây dựng (đá vôi, đất sét, đá bazan,...). Đặc biệt một số mỏ có trữ lượng lớn và là lợi thế là đá vôi và nguyên liệu sản xuất xi măng kéo dài theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, tập trung ven Đường 9, Đường 14, trữ lượng khoảng 3,5 tỷ tấn. Đá vôi với chất lượng khá tốt (CaO gần 50%, MgO chiếm từ 0,4 - 3%)3. Nguyên liệu đất sét và các phụ gia khác để sản xuất xi măng đều sẵn có. Trong những năm gần đây, sản lượng gỗ khai thác ở Hướng Hóa không nhiều so với các địa phương khác trong tỉnh. Riêng ở Thị trấn Lao Bảo, người dân chủ yếu khai thác cả lâm sản ngoài gỗ, do chủ trương bảo vệ rừng của nhà nước. Thu nhập từ việc khai thác này cũng mang lại nguồn sống phụ giúp cho kinh tế gia đình như thu hái rau, măng, cây mây, cây đót, lá nón, cỏ nhộng, lá tró, lồ ô, cây giang, ... Theo điều tra thực tế tại địa phương, có 28,5% số hộ không có khả năng và điều kiện để khai thác lâm sản. Đối với những hộ còn lại, lâm sản ngoài gỗ chiếm 20-30% trong cơ cấu thu nhập của hộ gia 3. Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị (2017), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị, NXB. Thống kê, Hà Nội. đình4. Lý do là thị trường cho những lâm sản này hiện chưa phát triển, hơn nữa vì người dân ở đây cũng chưa có thói quen khai thác để bán nhằm mục đích thương mại. Mặt khác, do các khu rừng lân cận mà họ được phép khai thác để sử dụng là rừng tái sinh nên nguồn lâm sản cũng đã bị cạn kiệt dần khi nhu cầu tăng lên do dân số tăng, muốn khai thác phải đi xa, nên người dân cũng không có đủ điều kiện về nhân lực. Thêm vào đó, theo quy định của Nhà nước, người dân cũng không được phép khai thác lâm sản (gỗ) cho mục đích kinh tế. Ngoài gỗ, các sản phẩm khác được phép khai thác một phần tại các vùng rừng gần nhà, vừa để sử dụng vừa để bán. Tuy nhiên, rừng gần thôn bản nói chung đã cạn kiệt. Nếu muốn khai thác, người dân phải đi sâu vào trong rừng hơn. Hiện nay, đồng bào Bru-Vân Kiều không chỉ khai thác tự nhiên mà còn vừa khai thác vừa bảo vệ và phát triển rừng. Đồng thời có thể thấy rằng, việc áp dụng kiến thức của đồng bào vào quản lý lâm sản ngoài gỗ của địa phương có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Thuận lợi là mọi người dân trong cộng đồng đều cho rằng cơ chế quản lý rừng của cộng đồng hiện có rất hiệu quả và họ đều mong muốn được tham gia quản lý bảo vệ rừng, được trả tiền cho công tác bảo vệ với điều kiện các khu rừng phải ở kề cận thôn bản. Nếu cơ chế quản lý dựa vào cộng đồng này có cơ hội được phát huy thì nó sẽ góp phần không nhỏ đối với công tác bảo tồn và quản lý rừng. Đó là những biến đổi về cơ cấu cây trồng, về phương thức canh tác cây lúa, phương thức trồng trọt các loại cây nông sản mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần xóa đói giảm nghèo cho đồng bào vùng biên. Những biến đổi về cơ cấu vật nuôi, kỹ thuật nuôi, quy mô chăn nuôi, năng suất và thu nhập. Đồng thời là sự thay đổi về kỹ thuật và quy mô sản xuất, tổ chức sản xuất, phương thức tiêu thụ của một số nghề thủ công.... và sự biến đổi về việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên. 4. Hoạt động buôn bán, làm thuê của người Bru-Vân Kiều tại Lao Bảo 4.1. Hoạt động buôn bán Ngoài những hoạt động kinh tế chiếm vị trí chủ chốt trong phát triển kinh tế hộ gia đình là trồng trọt, chăn nuôi và khai thác các nguồn lợi tự nhiên còn mang nhiều yếu tố truyền thống thì người Bru- Vân Kiều cũng đã tham gia các hoạt động buôn bán và đi làm thuê. Có lẽ đây cũng là một đặc điểm chung không khó nhận ra ở các khu vực cửa khẩu. Những người nông dân thường tận dụng những thời điểm vụ mùa rảnh rỗi để buôn bán thêm và đi làm thuê qua biên giới. Người Bru-Vân Kiều trước đây vốn sống tương đối khép kín, ít giao lưu với các 4. Bùi Xuân Đính - Nguyễn Ngọc Thanh, Một số vấn đề cơ bản về kinh tế - xã hội ở các vùng biên giới Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, 2012. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 96 Số 22 - Tháng 6 năm 2018 tộc người khác. Song đứng trước sự biến đổi không ngừng của xã hội, người Bru-Vân Kiều đã biết đem những sản vật do mình trồng trọt được bán lẻ tại các chợ, các mặt đường lớn có nhiều người qua lại, đặc biệt là từ khi cửa khẩu Lao Bảo được mở rộng thành khu kinh tế thương mại đã thu hút số lượng ngày càng lớn khách du lịch. Ngoài buôn bán hoa quả, rau củ tự trồng và thu hái trên rừng, có những hộ còn mở rộng quy mô chế biến rượu của gia đình để bán cho khách du lịch và xuất đi các huyện khác. Men rượu được chế từ một số loại củ, quả, lá cây và bột gạo của người Bru-Vân Kiều khá nổi tiếng được người Kinh mua về để nấu rượu bán. Từ năm 2006, một doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị bắt đầu mua rượu của dân, đem tinh lọc ra loại rượu có tên “Tân Long” rất được ưa thích ở địa phương. 4.2. Hoạt động làm thuê Hoạt động làm thuê ngày càng gia tăng số lượng người Bru-Vân Kiều trong các năm trở lại đây, trong đó nghề phổ biến nhất là bốc vác. Nằm ở khu vực biên giới giao thương sầm uất, việc di chuyển lao động đã diễn ra xuyên biên giới là việc phổ biến tại nơi đây. Theo thống kê của Phòng Lao động, Thương binh và xã hội huyện Hướng Hóa, hiện có hàng nghìn lao động Việt Nam sang Lào (hơn 1.200 người) và sang Thái Lan (hơn 1.100 người); hơn 42.000 người Lào sang Thái Lan. Người Trung Quốc cũng tới vùng Đường 9 làm ăn. Ðây là điều kiện thuận lợi cho những tệ nạn như buôn lậu và gian lận thương mại, ma túy, buôn bán phụ nữ, mại dâm... Chỉ riêng ở cửa khẩu Lao Bảo, số vụ buôn lậu phát hiện được đã tăng từ 108 vụ năm 2012 lên 479 vụ năm 2016. Vấn đề tai nạn giao thông trên Đường 9 cũng ngày càng trở nên đáng quan ngại nhất là trong bối cảnh nhiều thôn bản đổ ra cư trú ven đường. Trong khi nam giới thường đảm trách việc bốc vác cho các xe hàng thì chị em phụ nữ thường kéo xe hàng, công việc chủ yếu diễn ra từ 7 giờ sáng cho đến 19 giờ, có ngày từ 5 giờ sáng tới 21 giờ tối. Tuy nhiên cũng không phải ngày nào cũng có hàng để kéo, nhiều ngày ngồi chờ ngoài đường từ sáng đến chiều mà không có người thuê. Có thời gian nhiều khách thuê thì kiếm được 100 nghìn đồng/ ngày, còn rủi ro như làm mất và đổ vỡ hàng của chủ là phải góp tiền công để mua hàng đền lại. Ngoài sự nặng nhọc thường thấy, người làm thuê còn phải đối mặt với nguy hiểm, cám dỗ, nếu không kiên định có thể trở thành kẻ phạm tội bất cứ lúc nào, bởi nhiều chủ hàng lợi dụng giấu hàng quốc cấm trong những thùng hàng và thuê kéo. Nếu đi lọt hàng cấm thì vô tình tiếp tay cho kẻ xấu, bị phát hiện là trở thành phạm pháp. Chính vì vậy, chị em kéo xe hàng thuê ở đây đã hình thành nên những đội xe kéo có quy định làm việc rõ ràng, nguyên tắc cụ thể để tránh bị ép giá và tự bảo vệ lẫn nhau. Người Bru-Vân Kiều cho biết, họ không đi làm thuê lâu ngày ở bên kia biên giới giống như nhiều dân tộc khác ở các khu vực giáp biên giới Trung Quốc, biên giới Campuchia. Nghề cửu vạn bên trong khu vực biên giới tuy có vất vả, sáng đi tối về đến 20 km, nhưng họ vẫn được về nhà và tranh thủ được những lúc rảnh rỗi khi nông nhàn. 5. Một số nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn trong phát triển kinh tế tộc người Khi tới địa bàn sinh sống của dân tộc Bru-Vân Kiều sẽ dễ dàng nhận thấy tộc người sống tương đối co cụm, định hình thành những làng tương đối biệt lập với các dân tộc, với các làng với nhau thể hiện vùng đất cư trú rõ rệt theo từng cộng đồng. Phải chăng sự khép kín của cách sống truyền thống cũng là một yếu tố làm chậm đi sự giao lưu phát triển kinh tế hộ gia đình, khiến cho mô tuýp truyền thống vì lẽ đó cũng được lưu giữ khá đậm nét từ cách sống, giao tiếp tới cách thức hoạt động kinh tế của tộc người. Trong làng Bru-Vân Kiều, những hộ nghèo thường có quy mô gia đình lớn, đông người ăn theo và trình độ học vấn rất thấp. Bình quân nhân khẩu/hộ đói nghèo lớn trong khi đó bình quân lao động lại rất thấp. Bình quân 1 lao động hộ nghèo phải nuôi 2,97 người. Do vậy, số người phụ thuộc ở các hộ nghèo khá cao. Điều này làm cho đời sống hộ nghèo rất thiếu thốn, khó khăn và bấp bênh khi lao động chính của hộ nghèo trở nên thất nghiệp do đau ốm5 Địa bàn sinh sống của người Bru-Vân Kiều giáp biên giới, địa hình dốc, đất đai để sản xuất nông nghiệp không nhiều, không thuận lợi cho việc canh tác hiện đại và năng suất lao động kém. Nguồn nước cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt còn thiếu, đặc biệt là vào mùa khô. Rủi ro và những phát sinh bất thường của thời tiết làm cho đất đai dễ bị sói mòn, bạc màu, rừng bị tàn phá thu hẹp dần Gần đây có sự phát triển vườn rừng, đồi rừng cũng góp phần đáng kể thay đổi cơ cấu cây trồng, tận dụng nhiều hơn diện tích đất sản xuất. Tuy nhiên chỉ có những hộ có khả năng hơn về vốn mới có thể đầu tư phát triển trồng trọt, các hộ nghèo và cận nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận mô hình mới này để cải thiện đời sống gia đình. Người Bru-Vân Kiều vẫn có tập quán sinh nhiều con, do đó sản xuất chỉ đáp ứng đủ nhu cầu gia đình, thậm chí thiếu ăn, tích lũy không có. Vì vậy, không có khả năng đầu tư cho sản xuất, không có điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục một cách đầy đủ nhất. Qua tiếp xúc với người Bru-Vân Kiều chúng tôi nhận thấy, họ là những con người hiền hành, chất phác có lẽ vì thế mà còn khá rụt rè trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay. Chính vì vậy mà họ chưa mạnh dạn trong buôn bán, đầu tư phát triển chăn nuôi hay trồng trọt với quy mô lớn hơn. Buôn bán 5. Hoàng Xuân Tý, Kiến thức bản địa trong các chương trình phát triển vùng cao: Hiện trạng và tiềm năng, Báo cáo tại hội thảo quốc gia, 21-23/3/2000, Hà Nội Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 97Số 22 - Tháng 6 năm 2018 của họ chỉ dừng lại ở những hình thức nhỏ lẻ, hoặc có sự phát triển hơn phải cần có sự trợ giúp từ những người Kinh nhanh nhạy dễ nắm bắt thị trường. Năng lực và trình độ dân trí nói chung và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số cán bộ còn thấp, đặc biệt là cán bộ thôn, bản, nên việc tổ chức ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện chậm, chưa có hiệu quả. Người dân do vậy cũng thiếu kinh nghiệm làm ăn, không nắm bắt nhu cầu thị trường, thiếu hiểu biết về cách thức, lựa chọn mô hình sản xuất sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh gia đình dẫn đến đầu tư sản xuất không hiệu quả. 6. Một số đề xuất rút ra từ nghiên cứu - Cần phải có sự chia sẻ thông tin: Việc chia sẻ thông tin là rất cần thiết, vì người dân tộc thiểu số ở biên giới tại các điểm nghiên cứu của đề tài hầu như còn lạc hậu và hạn chế trong việc tiếp cận với nguồn thông tin từ bên ngoài, như các chính sách của nhà nước. Chia sẻ về kinh nghiệm, kỹ thuật, cách tạo vốn, tạo đầu ra cho sản phẩmđể những người làm nghề sẽ tự định hướng cho mình, cho không quá phụ thuộc vào kiến thức và những thông tin thu thập được từ các lái buôn hoặc nhà đầu cơ bên kia biên giới. - Cần chia sẻ về mặt lợi ích, đây là yếu tố rất cần thiết, tạo ra sự lành mạnh và công bằng giữa người dân địa phương với các đơn vị, tổ chức, cá nhân được hưởng lợi. Người dân thường rất thiệt thòi hơn so với các đơn vị, cá nhân được hưởng lợi khác như các thương lái, nhà buôn, các tổ chứchọ đang dựa trên vốn văn hoá, sức lao động của người đân để chuộc lời, tạo ra sự phát triển thiếu bền vững. - Tạo được sự đồng thuận với người dân: mọi vấn đề quy hoạch, phát triển, bảo tồn và khai khác các sản phẩm nông nghiệp, thủ công truyền thống phải nhận được sự đồng thuận, hưởng ứng của người dân địa phương mới đạt được những hiệu quả triệt để. Tài liệu tham khảo [1] Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị (2017), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị, NXB. Thống kê, Hà Nội; [2] Khổng Diễn (2003), Các vấn đề sinh thái nhân văn của cộng đồng dân cư liên quan đến phát triển kinh tế-xã hội ở vùng sinh thái đặc thù Quảng Bình - Quảng Trị, Báo cáo đề tài nhánh, đề tài cấp Nhà nước KC.08.07 “Nghiên cứu những vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường vùng sinh thái đặc thù Quảng Bình-Quảng Trị”. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội; [3] Bùi Xuân Đính - Nguyễn Ngọc Thanh (đồng chủ nhiệm, 2012), Một số vấn đề cơ bản về kinh tế - xã hội ở các vùng biên giới Việt Nam, Đề tài cấp Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; [4] Vương Xuân Tình (chủ biên, 2017), Các dân tộc ở Việt Nam, Tập 3: Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer, NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội; [5] Hoàng Xuân Tý, Kiến thức bản địa trong các chương trình phát triển vùng cao: hiện trạng và tiềm năng, Báo cáo trình bày tại Hội thảo Quốc gia “Sử dụng kiến thức bản địa trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên vùng cao”, 21- 22/3/2000, Hà Nội; [6] Phòng Lao động - Thương binh và xã hội huyện Hướng Hóa (2017), Báo cáo về tình hình lao động làm thuê tại khu vực cửa khẩu Lao Bảo năm 2016; [7] Tổng cục thống kê (2010): Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009, NXB. Thống kê, Hà Nội. ECONOMIC ACTIVITIES OF BRU-VAN KIEU PEOPLE IN LAO BAO TOWN, HUONG HOA DISTRICT, QUANG TRI PROVINCE Hoang Phương Mai Abstract: Bru-Van Kieu ethnic group lives concentrated adjacent to the Economic and Commercial Zone of Lao Bao Town, Huong Hoa District, Quang Tri Province. Economic activities of Bru-Van Kieu people are mainly: cultivation, husbandry, exploitation of natural resources and trading, employed. Among these activities, there are activities carrying traditional colors with little technical improvements such as cultivation on upland fields, husbandry and natural exploitation activities. However, there are economic activities that demonstrate the grasp of market demands and the change in crop structure contributing to the household economic development, which is an economic model of forest hill and forest garden to grow fruit trees for export. This is an important change in the awareness of the people about local economic development in general and household economic development in particular. Keywords: Economic activities of Bru-Van Kieu people; economic activities; Bru-Van Kieu people.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf134_594_1_pb_5996_2151957.pdf
Tài liệu liên quan