Hiểu và ngăn chặn di hại của nho giáo trong công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa

Tài liệu Hiểu và ngăn chặn di hại của nho giáo trong công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa: Xã hội học, số 3 - 1986 XÃ HỘI HỌC VÀ LỊCH SỬ HIỂU VÀ NGĂN CHẶN DI HẠI CỦA NHO GIÁO TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA* TRẦN ĐÌNH HƯỢU Nho giáo từ vị tổ sư là Khổng Tử đã nuôi một ảo tưởng là xây đựng một thiên hạ trật tự, ổn định, hòa mục, lễ nhượng, không có kiện tụng, chiến tranh, mọi người sống với nhau êm ấm như trong gia đình, “bốn bể đều là anh em”. Để thực hiện xã hội như vậy, Khổng - Mạnh muốn dựa vào sự nỗ lực tu dưỡng đạo đức của mỗi một người “từ thiên tử cho đến dân thường”, vào một nền chính trị tốt do một vị vua thánh đức, cai trị bằng đức, bằng lễ, treo gương tốt và biết giáo hóa, chứ không cần đến hình lực, thưởng phạt và pháp luật. Tín đồ của Khổng - Mạnh, vì lẽ đó vốn đinh ninh nhớ lời dạy “kẻ quân tử lo Đạo chứ không lo nghèo đói”. Khổng Tử cũng coi “làm cho dân đủ ăn” là một công việc hàng đầu để trị nước. Phải lo cho dân no ấm, nhưng no ấm chưa phải mối lo hàng đầu. Khổng Tử nói “Kẻ có nước, có nhà không lo ít mà lo không ...

pdf5 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 721 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiểu và ngăn chặn di hại của nho giáo trong công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học, số 3 - 1986 XÃ HỘI HỌC VÀ LỊCH SỬ HIỂU VÀ NGĂN CHẶN DI HẠI CỦA NHO GIÁO TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA* TRẦN ĐÌNH HƯỢU Nho giáo từ vị tổ sư là Khổng Tử đã nuôi một ảo tưởng là xây đựng một thiên hạ trật tự, ổn định, hòa mục, lễ nhượng, không có kiện tụng, chiến tranh, mọi người sống với nhau êm ấm như trong gia đình, “bốn bể đều là anh em”. Để thực hiện xã hội như vậy, Khổng - Mạnh muốn dựa vào sự nỗ lực tu dưỡng đạo đức của mỗi một người “từ thiên tử cho đến dân thường”, vào một nền chính trị tốt do một vị vua thánh đức, cai trị bằng đức, bằng lễ, treo gương tốt và biết giáo hóa, chứ không cần đến hình lực, thưởng phạt và pháp luật. Tín đồ của Khổng - Mạnh, vì lẽ đó vốn đinh ninh nhớ lời dạy “kẻ quân tử lo Đạo chứ không lo nghèo đói”. Khổng Tử cũng coi “làm cho dân đủ ăn” là một công việc hàng đầu để trị nước. Phải lo cho dân no ấm, nhưng no ấm chưa phải mối lo hàng đầu. Khổng Tử nói “Kẻ có nước, có nhà không lo ít mà lo không đều, không lo nghèo mà lo không yên. Bởi vì đã đều thì không có nghèo, đã hòa mục thì không có ít, đã yên ổn thì không có nghiêng đổ”. Với quyền vương hữu, vua làm chủ một quốc gia rộng lớn, nhưng lại với một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu và phân tán. Sản xuất nông nghiệp và thủ công đều nhằm tự túc, tiến hành ở từng hộ. Chưa có nhu cầu trao đổi hàng hóa rộng rãi ngoài làng xã. Vua, người có quyền sở hữu, không trực tiếp nắm vật sở hữu - ruộng đất và sức lao động - để quản lý và khai thác kinh doanh như chủ nô và lãnh chúa. Vua để ruộng đất cho làng xã quân cấp cho dân, theo hộ mà cày cấy. Vua chỉ thu vật cống nạp; tô dưới hình thức thuế. Với cách đó, vua chỉ làm chủ việc phân phối vật cống nạp; tác dụng đến sản xuất chỉ là gián tiếp, ảnh hưởng không nhiều. Việc tập trung quyền sở hữu mọi nguồn lợi ruộng đất, núi rừng, sông biển, quyền phân phối hoa lợi, quyền ban cấp tước vị vào chỉ một người, đặt vua chuyên chế vào vị trí đầu mối của những mâu thuẫn: mâu thuẫn với dân, mâu thuẫn với quý tộc (họ hàng, công thần và hào trưởng địa phương), mâu thuẫn giữa Nhà nước và làng xã tức là giữa trung ương và địa phương, giữa tập trung và phân tán. Có làm cho các lực lượng mâu thuẫn về quyền lợi đó, hoặc vui lòng hoặc sợ uy mà chịu yên, không tranh giành thì đất nước mới thái bình, ngôi vua mới yên ổn. Để tránh tranh giành, cần ổn định một tỷ lệ hợp lý giữa các phía. Cách giản tiện nhất là phân phối theo một phương án không Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org * Trích phần III của tham luận Bàn về một điểm đặc thù của thời kỳ quá độ: di hại của Nho giáo trong xây dựng kinh tế. Có chỉnh lý cho hợp khuôn khổ của Tạp chí. Xã hội học, số 3 - 1986 40 TRẦN ĐÌNH HƯỢU thay đổi nguồn cống nạp ổn định và mức chia ổn định. Mạnh Tử chủ trương “dân theo hạng mà được chia ruộng, quan theo tước mà được cấp lộc”, nói cách khác là Nhà nước sắp xếp danh vị và mọi người theo danh vị mà có quyền, có lợi. Xác định danh vị - chính danh - vì lẽ đó được Khổng Tử coi là việc đầu tiên phải làm khi chấp chính. Cái để chia có thể nhiều hay ít, nhưng phải đạt yêu cầu quân bình. Quân bình là đều, nhưng không có nghĩa là bằng nhau, mà có nghĩa là có tương quan hợp lý. Theo Mạnh Tử, vua có 10, quan khanh có 1; quan khanh có 4, đại phu có 1... là quân bình. Tất nhiên người dân được xếp ở bậc cuối cùng, cách quan khanh không phải không nhiều. Một xã hội trật tự nhưng bất bình đẳng! Sự cách biệt để biểu hiện trật tự không chỉ là ở sự khác nhau về tước và lộc, mà còn cả ở quy chế về chất liệu, màu sắc độ dài ngắn của quẩn áo, ở quy mô nhà cửa, mồ mả, ở quy định về cách xưng hô, đi đứng... Cũng khó mà làm cho mọi người vui lòng với cái ít, không chê nghèo, yên phận, yên mệnh, lễ nhượng và hòa mục trong cảnh bất bình đẳng như vậy. Con người không cam chịu nghèo hèn, tự lực làm giàu, không chấp nhận phận, mệnh để cố ngoi lên. Xu hướng chạy theo lợi, “trên dưới tranh nhau cái lợi”, “mọi người giao tiếp với nhau bằng lợi” như vậy là nguy cơ của xã hội. Theo Mạnh Tử, như thế thì “nước ít khi không mất”. Cho nên Nho giáo cực lực chống lợi, đưa nghĩa đối lập với lời khuyên mọi người “thấy lợi thì phải nghĩ đến nghĩa”. “Quân bình thì không có nghèo, hòa mục thì không có ít” như Không Tử dạy, cũng chỉ là nói cái nghèo, cái ít tâm lý, tức là không cảm thấy nghèo, thấy ít mà đâm ra suy bì, thắc mắc, tranh giành mà thôi. Còn cái nghèo, cái ít thực tức là cái đói rét, thiếu thốn thì vẫn còn. Sách Đại học bàn đến “đạo lớn làm ra của cải”, cách “làm cho của cải luôn luôn đủ”; “làm gấp gáp mà dùng thong thả” tức là nỗ lực sản xuất và tiết kiệm. Nền sản xuất của xã hội là nông nghiệp, tô thuế cũng lấy từ nông nghiệp, cho nên nông nghiệp được coi là nghề gốc. Khổng - Mạnh và các nhà nho đời sau đều kêu gọi chăm lo cái gốc đó, đòi hỏi người cầm quyền quan tâm đến nông nghiệp, đến nông dân: vua coi trọng lễ cày tịch điền, treo gương cho dân, ra chiếu khuyến nông, vỗ về, khuyến khích nông dân cày cấy. Khổng - Mạnh chủ trương điều động lực dịch ngoài mùa cày cấy, thu thuế nhẹ, định ngạch và được báo trước... đều là nhằm làm cho nông dân có thì giờ và có hứng thú sản xuất. Nông nghiệp là nghề vất vả, gặp nhiều bất trắc mà lợi suất không cao. Những người muốn có nhiều lợi, muốn làm giàu đều bỏ nghề nông mà buôn bán. Buôn bán không những làm lơ là nghề gốc mà còn là không theo mệnh, không yên phận, cho nên Nho giáo coi thương nghiệp là nghề của “kẻ hèn hạ” (tiện trượng phu). Trong tứ dân, thương nhân bị xếp vào hạng bét, và về sau, nhiều chính sách ức thương khác được ban hành. Mạnh Tử đã bàn về vấn đề phân công, vấn đề trao đổi, vấn đề giá cả, chính sách thu thuế chợ, thuế đi lại..., tức là không phải chủ trương một nền kinh tế chỉ tự túc, nhưng đường lối kinh tế là trọng nông, ức thương, giữ nông dân không cho rời bỏ ruộng đất, làng xã để ổn định việc nộp thuế, đi phu, đi lính cho nhà vua. Làm gấp gáp để làm cho của cải luôn luôn đủ, theo thuyết “thông công dịch sự” - trao đổi trên cơ sở phân công lao động - của Mạnh Tử, cũng không phải là việc của những người lao tâm “lấy của chia cho thiên hạ” (vua quan ), “lấy điều thiện dạy cho thiên hạ” (kẻ sĩ). Biện pháp quan trọng nhất để giải quyết cái nghèo vẫn là tiết kiệm. Người làm ruộng sau khi nộp tô thuế không còn lại bao nhiêu, mà nhà vua thu cống nạp trên toàn quốc, tuy không phải là ít, nhưng cũng không phải là luôn luôn đủ. Nhà nước, theo Nho giáo, vốn quan hệ với dân theo kiểu cha con: cùng giàu, cùng nghèo, tài sản không rành mạch; vua -cha dễ dàng lấy của con - dân để sống Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org Xã hội học, số 3 - 1986 Hiểu và ngăn chặn 41 xa xỉ, nghĩa là bóc lột nặng. Khổng - Mạnh chủ trương thuế suất 1/10 và cách chi tiêu trừ các khoản phụng dưỡng cha mẹ, tang ma, tế lễ và tiếp đãi tân khách, các khoản khác đều nên lựa chọn cách ít tốn kém nhất. Tuy vậy, Nho giáo vốn trọng nghi lễ và chuộng sự đúng mức. Người cầm quyền tiết kiệm là có đức, nhưng nếu đến như An Anh làm Tướng quốc nước Tề hùng cường mà suốt 30 năm chỉ đi một cỗ xe tàng mặc một chiếc áo lông sờn rách thì lại là thiếu thể thống, không xứng với địa vị. Để làm cơ sở lý thuyết cho chủ trương tiết kiệm, tiết kiệm theo đúng phận vị. Nho giáo thuyết minh quan điểm tri túc, thiếu một chút cũng là đủ, tiếpt dục, hạn chế sự đòi hỏi, coi thường của cải và hạnh phúc vật chát, lên án dục vọng, nhấn mạnh theo lễ, yên mệnh. Và để thực hiện sự quân bình theo lễ một cách vĩnh viễn, Mạnh Tử còn muốn tiến thêm một bước quy định tài sản của dân bằng phép “tỉnh điền”. Tỉnh điền là chia ruộng đất thành ô vuông đều nhau. Mỗi khoảnh 9 ô; nông dân chia cày và tự thu hoạch 8 ô xung quanh, còn ô ở giữa thì cùng cày và nộp hoa lợi cho nhà vua. Khi đã chia xong, không ai được lấn thêm bờ cõi, khai hoang thêm diện tích, làm giàu ngoài phận. Những gia đình quan lại, được nhận nhiều hơn, đã được hưởng lộc, không được làm thêm nghề phụ, tranh lợi với dân. Không chỉ Mạnh Tử, mà cả các thế hệ nhà nho đời sau, cho đến tận dưới thời Tự Đức ở ta, vẫn còn tiếc rẻ cái phương án tốt đẹp và quân binh ấy. Lo cho dân no đủ cũng là lo giữ vững trật tự phận vị “kẻ quân tử lo nghĩ về Đạo chứ không lo nghĩ về cái ăn”, “chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết (trái lễ) mới là chuyện lớn”. Những vấn đề kinh tế không được đặt ra theo góc độ kinh tế mà theo góc độ chính trị - xã hội, được giải quyết không theo cách kinh tế mà theo cách đạo đức hành chính. Với sự thống trị lâu dài, Nho giáo đã ổn định một thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, và con người cũng dần dần tìm ra cách sống phù hợp với nó. Thể chế xã hội theo Nho giáo chỉ mở một con đường độc đạo để sống sung sướng: kiếm danh vị bằng cách đi học, thi đỗ và làm quan. Danh vị là phương tiện kiếm sống: có vị thì có lộc, có bổng. Ông quan hưởng bổng khác người công chức ăn lương. Ông quan - kẻ có vị - theo Nho giáo là kẻ có đức, có công giáo hóa, là cha mẹ dân, cần có vinh dự, được dân yêu kính, biết ơn. Ngoài vị là danh, ngoài lộc là bổng. Bổng là quà tặng, vật biếu, của vi thiềng để tỏ lòng kính trọng, biết ơn người làm thầy, làm cha mẹ dân. Với cách sống lễ nghĩa, vật vi thiềng đó là hợp pháp. Bổng lộc - của được vua ban cấp và dân biếu xén - bao giờ cũng quý hơn miếng ăn tự kiếm lấy. Người có vị không những có lợi mà còn có quyền, có uy tín, có tiếng thơm, ngoại phần mình hưởng còn có thể chia phúc cho cả gia đình, họ hàng thậm chí cho cả làng xóm nữa. Thực tế đó tạo ra trong xã hội tâm lý chạy theo danh vị, không chuộng thực nghiệp. Có nghề cầm tay, trong thực tế cũng có thể đảm bản cho bản thân và gia đình sống no ấm, nhưng như vậy vẫn còn là hèn, đáng tủi nhục, chưa có danh dự. Cho nên người làm cha mẹ nào cũng cố gắng cho con đi học; người đi học nào cũng lo thi đỗ; có khi đi học, đi thi cho đến 80 tuổi. Học không phải để có tri thức mà để kiếm danh vị. Việc làm giàu không được coi là chính đáng. Có làm được giàu cũng không được bảo vệ. Hưởng thụ của cải do mình làm ra, nếu không hợp danh vị, thì cũng phải vụng trộm, giấu giếm, không đàng hoàng. Đã phú thì phải chuyển thành quý mới chắc chắn. Có thể kiếm danh bằng con đường thi đỗ. Nhưng cũng có thể kiếm danh còn nhanh chóng hơn và chắc chắn hơn hằng mua bán và tìm nơi dựa dẫm. Nho giáo tạo ra một xã hội coi thường lao động, sản xuất, coi thường kinh doanh, coi thường nghề nhiệp. Quả là một xã hội ham học, nhưng học để làm quan. Di hại của nó Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org Xã hội học, số 3 - 1986 42 TRẦN ĐÌNH HƯỢU là ở cách suy nghĩ, tính toán, là từ con đường mòn nó vạch sẵn, từ tâm lý xã hội mà nó để lại. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà ta xây dựng hoàn toàn khác nền kinh tế theo Nho giáo. Ta tiến hành công cuộc xây dựng nói sau những biến đổi cực lớn trong xã hội: cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến và đến nay đã 30 năm. Một điều rất đáng chú ý là khi thực hiện nhiều chủ trương có nội dung cách mạng, xã hội chủ nghĩa thật sự mà kết quả thì lại giống như trở lại thời xưa. Tình hình như vậy ở nông thôn nhiều khi khá rõ. Trong nông nghiệp, chúng ta thực hiện sở hữu Nhà nước và tập thể xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, từ quy mô thôn nâng lên quy mô xã. Gặp khó khăn trong sản xuất và để thực hiện quyền làm chủ tập thể của quần chúng, nâng cao tính chủ động, sáng tạo, kích thích hứng thủ sản xuất, tạo điều kiện sử dụng hợp lý sức lao động trong gia đình, chúng ta để hợp tác xã khoán sản phẩm cho các hộ nông nghiệp. Ở làng xã mà nhìn việc đó giống như chia cày công điền ngày xưa. Chúng ta đào tạo đội ngũ khoa học - kỹ thuật đông đảo. Nhưng trong điều kiện kinh tế phát triển còn thấp, không có đủ cơ sở để sử dụng thì kỹ sư không phải là người hành nghề, mà thành cán bộ, sống bằng bằng cấp và danh vị. Ta không chủ trương tổ chức Đảng và Nhà nước gồm những người có đức làm “cha - mẹ dân, giáo hóa dân”, nhưng cán bộ không tự coi mình trước hết có trách nhiệm hoàn thành một khâu công việc nào đó, mà chỉ coi mình là người giác ngộ, có đạo đức, gương mẫu, có trách nhiệm giáo dục quần chúng. Ta theo chế độ xã hội chủ nghĩa, trả lương theo lao động, nhưng với chính sách bao cấp thì cũng giống phân phối theo phận vị. Và người có vị, có chức vụ có những quyền lợi được Nhà nước đảm bảo chắc chắn làm nảy nở tâm lý kiếm bằng cấp, vào biên chế giành chức vụ Điều quan trọng không phải là một chỗ nào đó giống xưa, mà là cái nọ gọi cái kia, con đường cũ tái hiện, tâm lý cũ tái sinh, những kinh nghiệm sống trước đây lại được vận dụng, có khi là vận dụng để đối phó với Nhà nước xã hội chủ nghĩa (dựa vào tình họ hàng, quê hương mà nâng đỡ, bao che , phe cánh, coi tài sản nhà nước như của cha chung...). Thanh niên và các bậc phụ huynh lại toan tính con đường chắc chắn: học cho có bằng cấp vào biên chế, sống dựa vào Nhà nước, kiếm lộc và... kiếm bổng. Chuẩn bị vào đời bằng trau dồi “tư cách” (nhận xét tốt và đạo đức, vốn hoạt động chính trị...) và bằng bằng cấp chứ không phải bằng nghề nghiệp tự lập. Ngoài cách đó, cũng lại có chuyện làm giàu trái pháp luật, cũng hưởng thụ lén lút, cũng tìm chỗ dựa dẫm để che giấu: những cái tiêu cực theo đường mòn mà đến xã hội mới hoặc nguyên hình hoặc biến dạng. Phát sinh vấn đề là từ chỗ khi ta bắt đầu xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải tiếp nhận một tổ chức kinh tế - xã hội của những hộ tiểu nông, những làng xã với một ít đô thị chưa có công nghiệp phát triển với tâm lý xã hội tương ứng với tình hình phổ biến là nông thôn - và là nông thôn chịu ảnh hưởng Nho giáo - như vậy. Khi tiến hành tổ chức lại, ta chưa chú ý cái nguồn gốc Nho giáo và không có ý thức tránh hội tụ những điều kiện làm cái cũ tái sinh. Nếu như trước đây, trong cuộc sống phổ biến có tính nông thôn Nho giáo ảnh hưởng không chỉ đến các tầng lớp thống trị mà đến cả trí thức, nông dân, thì ngày nay trong cuộc sống căn bản vẫn còn là nông thôn, cũng không chỉ là nông dân mà cả trí thức Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org Xã hội học, số 3 - 1986 Hiểu và ngăn chặn 43 cán bộ, đảng viên chưa thấy sự đối lập giữa lối sống cũ theo Nho giáo và lối sống công nghiệp hiện đại của xã hội xã hội chủ nghĩa: thành phố chứ không phải nông thôn (hay thành thị hóa nông thôn chứ không phải nông thôn hóa thành thị), công nghiệp chứ không phải nông nghiệp, khoa học-kỹ thuật chứ không phải đạo lý, cá nhân - công dân trong xã hội chứ không phải con em trong làng nước, luật pháp chứ không phải tình nghĩa. Những con người - ông già và thanh niên - giống như những nhà nho xưa tự hào về đạo đức, ưa sống nhàn nhã, trà lá, lề mề và hay nói suông những chuyện “khoa học”, “hiện đại”, thiếu nghề nghiệp và thiếu cả quyết tâm hành động thực tế, đầy thiện chí thương dân, yêu nước mà cũng đầy ảo tưởng; theo ảo tưởng nên tính toán sai, đầy thiện chí nên tự tin, cố chấp. Những quan điểm coi nghĩa trọng hơn lợi, đức trọng hơn tài, giáo hóa hơn hình chính, tình nghĩa hơn lẽ phải, dẫn đến chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa gia đình. Tất cả gây ra lùng nhùng, giây giưa trong sự lùng nhùng. Đó là chỗ tai hại khó khắc phục nhất của ảnh hưởng Nho giáo đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Nho giáo không phải là học thuyết kinh tế, không ra mặt đối lập với chủ nghĩa xã hội, không tác động trực tiếp vào những đường lối, chủ trương về kinh tế. Nhưng bằng những quan điểm về cách sống, bằng cách suy nghĩ, tính toán, bằng động cơ, tâm lý do nó để chống lại công việc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa bị nó làm sa lầy, bị làm mục ruỗng, bị phá hoại. Quyết định vấn đề xây dựng kinh tế là tài nguyên, là vốn, là kỹ thuật, tổ chức quản lý kinh doanh chứ không phải là ý thức và tâm lýTuy vậy nếu không giải quyết những vấn đề liên quan đến xã hội, đến con người như vậy thì xây dựng cũng dễ bị lạc hướng về nẻo xưa. Sự định hướng của những cái cũ, vô ý mà để trỗi dậy như vậy, dầu chắc chắn không thể làm hỏng con đường theo quy luật tất yếu là xây dựng thành chủ nghĩa xã hội, nhưng cũng gây ra nhiều bước quanh co, mất nhiều thời gian và sức lực. Nhận thức về vai trò Nho giáo và nhận diện ảnh hưởng của nó trong thực tế là điều hết sức quan trọng trong thời gian ban đầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Có hiểu nó mới tìm ra cách cô lập, vô hiệu hóa ảnh hưởng, mới biết tránh hội tụ những điều kiện để nó thông qua thói quen suy nghĩ, tâm lý xã hội cũ làm bánh xe rơi xuống rãnh cũ. Nói cách khác, đó cũng là giữ vững tính đô thị, tính công nghiệp, tính khoa học trong các cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta không nên bằng lòng với những nhận định sách vở. Nho giáo có những điều kiện tồn tại nhất định; ảnh hưởng của nó cũng rất khác nhau ở những vùng đất, những địa hạt những đối tượng khác nhau. Cho nên chúng ta rất cần có những kết luận xã hội học về thực tế ảnh hưởng do ở nông thôn và thành thị. Ở xí nghiệp, cơ quan, trường học, ở người già và người trẻ, ở dân thường và cán bộ, đảng viên, ở miền Nam và miền Bắc, ở một số tỉnh có ý nghĩa vùng văn hóa... thì mới có biện pháp giải quyết có hiệu quả. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso3_1986_trandinhhuou_5805.pdf
Tài liệu liên quan