Đề tài Việc bảo vệ môi trường và Rachel Carson, một nhà sinh vật biển

Tài liệu Đề tài Việc bảo vệ môi trường và Rachel Carson, một nhà sinh vật biển: việc bảo vệ môi trường và Rachel Carson, một nhà sinh vật biển I. Sự cần thiết của việc áp dụng ISO 14000: 1. Giới thiệu về ISO - Tổ chức quốc tế tiêu chuẩn hoá 1.1. ISO là gì? ISO là tên viết tắt của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (International Organization For Standardization), được thành lập vào năm 1946 và chính thức hoạt động vào ngày 23/2/1947, nhằm mục đích xây dựng các tiêu chuẩn về sản xuất, thương mại và thông tin. ISO có trụ sở ở Genera (Thuỵ Sĩ) và là Tổ chức Quốc tế chuyên ngành có các thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn Quốc gia của 111 nước. Tuỳ theo từng nước, mức độ tham gia xây dựng các tiêu chuẩn ISO có khác nhau, ở một số nước, Tổ chức tiêu chuẩn hoá là các cơ quan chính thức hay bán chính thức của Chính phủ. Tại Việt Nam, Tổ chức tiêu chuẩn hoá là Tổng cục tiêu chuẩn đo lường Chất lượng, thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường. Mục đích của các tiêu chuẩn ISO là tạo điều kiện cho các hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên toàn cầu trở nên dễ dàng,...

doc63 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 949 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Việc bảo vệ môi trường và Rachel Carson, một nhà sinh vật biển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc bảo vệ môi trường và Rachel Carson, một nhà sinh vật biển I. Sự cần thiết của việc áp dụng ISO 14000: 1. Giới thiệu về ISO - Tổ chức quốc tế tiêu chuẩn hoá 1.1. ISO là gì? ISO là tên viết tắt của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (International Organization For Standardization), được thành lập vào năm 1946 và chính thức hoạt động vào ngày 23/2/1947, nhằm mục đích xây dựng các tiêu chuẩn về sản xuất, thương mại và thông tin. ISO có trụ sở ở Genera (Thuỵ Sĩ) và là Tổ chức Quốc tế chuyên ngành có các thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn Quốc gia của 111 nước. Tuỳ theo từng nước, mức độ tham gia xây dựng các tiêu chuẩn ISO có khác nhau, ở một số nước, Tổ chức tiêu chuẩn hoá là các cơ quan chính thức hay bán chính thức của Chính phủ. Tại Việt Nam, Tổ chức tiêu chuẩn hoá là Tổng cục tiêu chuẩn đo lường Chất lượng, thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường. Mục đích của các tiêu chuẩn ISO là tạo điều kiện cho các hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên toàn cầu trở nên dễ dàng, tiện dụng hơn và đạt được hiệu quả. Tất cả các tiêu chuẩn do ISO đặt ra đều có tính chất tự nguyện. Tuy nhiên, thường các nước chấp nhận tiêu chuẩn ISO và coi nó có tính chất bắt buộc. Hiện nay, ISO có khoảng trên 180 Uỷ ban kỹ thuật chuyên dự thảo các tiêu chuẩn trong từng lĩnh vực. Các nước thành viên của ISO lập ra các nhóm tư vấn kỹ thuật nhằm cung cấp tư liệu đầu vào cho các Uỷ ban kỹ thuật và đó là một phần của quá trình xây dựng tiêu chuẩn. ISO tiếp nhận tư liệu của đầu vào từ các Chính phủ các ngành và các bên liên quan trước khi ban hành một tiêu chuẩn. Sau khi tiêu chuẩn dự thảo được các thành viên chấp thuận, nó được công bố và tiêu chuẩn Quốc tế. Sau đó mỗi nước lại có thể chấp nhận một phiên bản của tiêu chuẩn đó làm tiêu chuẩn quốc gia của mình. 1.2. Tính chất của ISO: 1.2.1. Tính thống nhất: Tổ chức ISO đưa ra những thủ tục về xây dựng tiêu chuẩn, những thủ tục này được đưa ra công khai và rõ ràng cho tất cả các bên tham gia vào tổ chức ISO ở khắp nơi trên thế giới. Hệ thống ISO có khả năng giải quyết những vấn đề khác nhau. Tiêu chuẩn ISO là nơi thể hiện một sự nhất trí cao nhất có thể có được giữa các bên tham gia vào tổ chức đối với những vấn đề liên quan đến kỹ thuật cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và những ý kiến của mọi người. 1.2.2. Uy tín: ISO được khắp nơi trên thế giới biết đến. Sở dĩ có được uy tín như vậy, một phần là do tính trung lập của tổ chức. ISO có được vị trí cao trong các tổ chức quốc tế (các tổ chức đại diện của liên hợp quốc, Tổ chức thương mại quốc tế, phòng thương mại quốc tế...). Trong nhiều ngành, ví dụ như cơ khí, dệt, công nghệ thông tin... tiêu chuẩn ISO được áp dụng một cách rộng rãi và được đánh giá rất cao. 1.2.3. Phạm vi tiêu chuẩn hoá rộng: ISO xử lý một loạt các hoạt động của con người cũng như bí quyết trong sản xuất kinh doanh, từ cái nhỏ nhất như những đặc điểm tính năng và kích thước đến các vấn đề lớn như hệ quản lý môi trường trong công ty - ISO cũng hợp tác với những tổ chức quốc tế như đại diện của Liên Hiệp Quốc, thông qua những thoả thuận làm việc với IEC (Uỷ ban Điện tử - kỹ thuật thế giới) và ITU (Hiệp hội viễn thông thế giới). 1.2.4. Quản lý phân quyền: ISO là một tổ chức có qui mô lớn. Trong đó có sự tham gia của khoảng 130 nước, hơn 800 ủy ban và tiểu ban kỹ thuật, ngoài ra, các tiểu ban và uỷ ban này còn được sự trợ giúp của nhóm làm việc. Tất cả các tiểu ban và uỷ ban này đều chịu sự điều hành chung của Ban Quản lý công nghệ. Chủ tịch uỷ ban chịu trách nhiệm chỉ đạo để dẫn đến việc thống nhất về mặt kỹ thuật cần thiết. Bộ phận thư ký của các uỷ ban, nơi làm các công tác về hành chính và các giấy tờ thủ tục sao cho phù hợp với qui định của tổ chức ISO, do các thành viên của ISO lập ra. Cơ cấu quản lý phân quyền hỗ trợ để đảm bảo rằng các quyết định đưa ra, trước đó, đã được thực hiện rất chu đáo và đáng tin cậy. Những quyết định đó được đưa ra với các thủ tục đơn giản và mức chi phí tối thiểu. 1.2.5 Cơ cấu hạ tầng quốc gia: Hệ thống ISO không thể thực hiện chức năng của mình mà không có một cơ sở hạ tầng quốc gia vững chắc của thành viên ISO. Hạ tầng cơ sở quốc tế tạo ra hàng nghìn tiêu chuẩn quốc tế thống nhất trong đề xuất tham gia vào ISO hàng năm, lựa chọn và hướng dẫn hàng chục nghìn cá nhân đang phục vụ trong các tổ chức mang tính quốc gia để bảo vệ quan điểm của quốc gia mình trước các uỷ ban của ISO. Các quốc gia thành viên của ISO là tổ chức đại diện cao nhất về tiêu chuẩn của mỗi nước đó và họ có đủ khả năng để xử lý những ý kiến đóng góp từ các quốc gia yêu cầu hệ thống ISO làm việc hiệu quả hơn. 1.2.6. Sự hỗ trợ mang tính khu vực: Rất nhiều thành viên của ISO cùng lúc cũng là thành viên của các tổ chức khu vực có chương trình hợp tác với ISO trong việc tiêu chuẩn hoá và những liên quan đến tiêu chuẩn. Những thành viên này đảm bảo mối quan hệ hợp tác với ISO với tư cách là thành viên đầy đủ đống thời họ cũng tham gia vào việc hoạch định và thống nhất những tiêu chuẩn quốc gia và khu vực sao cho phù hợp với những tiêu chuẩn quốc tế. 2. Hệ thống quản lý môi trường: 2.1. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000: 2.1.1. Quá trình ra đời và phát triển: Hét trong những nhà hoạt động xã hội đã đề cập đến việc bảo vệ môi trường và Rachel Carson, một nhà sinh vật biển. Cuốn sách "Mùa xuân yên tĩnh" năm 1962 của bà đã rất nổi tiếng trong việc khuyến khích mọi người quan tâm đến sinh thái. Trong những năm 60 và 70, con người đã nhận thấy vấn đề môi trường thế giới đang nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh -môi trường tự nhiên đang ở mức báo động- vì vậy vào năm 1969, Quốc hội Mỹ đã thông qua luật bảo vệ môi trường. Năm 1971, hội nghị môi trường thế giới đã được triệu tập tại Stockhom. Tại đây, hai kết quả quan trọng dã được thông báo: Thứ nhất là chương trình môi trường (UNEP) của Mỹ đã được thiếp lập; Thứ hai là hội đồng thế giới môi trường và phát triển (WCED) đã được thiết lập. Năm 1987, WCED đã xuất bản 1 báo cáo kêu gọi các ngành công nghiệp xây dựng hệ thống quản lý môi trường. Năm 1992, hội nghị về môi trường và phát triển của Mỹ (hay còn gọi là hội nghị thượng đỉnh Trái đất) ở Rio de Janeiro, đó là kết quả của báo cáo của WCED. Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế. ISO được đề nghị tham gia. Trong suốt năm 1991, ISO cùng với hội đồng quốc tế về kỹ thuật mạng thiết lập nên nhóm tư vấn chiến lược về môi trường (SAGE) với sự tham dự của 25 nước SAGE cho rằng việc nhóm ISO xây dựng tiêu chuẩn quản lý môi trường quốc tế và các công cụ thực hiện và đánh giá là rất thích hợp. ISO cam kết thiết lập tiêu chuẩn quản lý môi trường quốc tế tại hội nghị thượng đỉnh tại Rio de Janiero năm 1992. Ngay trong năm này, ISO thành lập Uỷ ban kỹ thuật 207 (TC 207) là cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng hệ thống quản lý môi trường quốc tế và các công cụ cần thiết để thực hiện hệ thống này. Công việc của TC 207 được chia trong 6 tiểu ban và 1 nhóm làm việc đặt biệt. Canada là ban thư ký của uỷ ban kỹ thuật TC 207 và 6 quốc gia khác đứng đầu 6 tiểu bang. 2.1.2. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000: Ban kỹ thuật 207 (TC207) do tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế - ISO thành lập để xây dựng các tiêu chuẩn ISO 14000. Cũng giống như tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, tiêu chuẩn về hệ thống quản lý môi trường tập trung vào hệ thống quản lý hơn là các hoạt động kỹ thuật. ISO muốn tìm kiếm tiêu chuẩn mới tương tự về cơ cấu và triết lý để những nơi áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 có thể xây dựng hệ thống quản lý chất lượng song song với tiêu chuẩn ISO 14000. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 bao gồm các tiêu chuẩn liên quan với hệ thống quản lý môi trường (như ISO 14001, 14024...) và những tiêu chuẩn liên quan với các công cụ quản lý môi trường. Sơ đồ: Hệ thống tiêu chuẩn ISO 14000 ISO 14000. Bé tiªu chuÈn vÒ qu¶n lý m«i tr­êng HÖ thèng qu¶n lý m«i tr­êng KiÓm tra ®¸nh gi¸ m«i tr­êng §¸nh gi¸ kÕt qu¶ ho¹t ®éng m«i tr­êng KhÝa c¹nh m«i tr­êng trong tiªu chuÈn vÒ s¶n phÈm Ghi nh·n sinh th¸i §¸nh gi¸ chu tr×nh sèng cña s¶n phÈm 2.1.3. Các bước áp dụng ISO 14000: Bước 1: Chuẩn bị và lập kế hoạch tiến hành dự án + Thành lập ban chỉ đạo dự án. Bổ nhiệm đại diện lãnh đạo về môi trường. + Trang bị cho Ban chỉ đạo các kiến thức cơ bản về môi trường và quản lý môi trường. + Thực hiện đánh giá ban đầu về môi trường. + Lập kế hoạch hành động. + Xây dựng chính sách môi trường và cam kết của lãnh đạo này với toàn thể cán bộ, nhân viên trong công ty. + Phân tích và xem xét những khía cạnh môi trường và những ảnh hưởng của chúng, so sánh với các điều khoản luật hiện hành và những yêu cầu khác có liên quan. + Đặt ra những mục tiêu, chỉ tiêu và các chương trình quản lý môi trường. Bước 2: Xây dựng và lập văn bản hệ thống quản lý môi trường: + Trang bị kiến thức chi tiết về các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14000 cho nhóm thực hiện dự án và các cán bộ lãnh đạo. + Xây dựng chương trình quản lý môi trường. + Lập kế hoạch cụ thể và phân công cán bộ chuyên trách từng phần công việc cụ thể cho xây dựng hệ thống. + Tổ chức đào tạo về hệ thống tài liệu và kỹ năng viết văn bản. + Xem xét và cung cấp đầu vào cho những qui trình văn bản nhằm bao quát các khía cạnh môi trường, các ảnh hưởng và các nhân tố của hệ thống quản lý môi trường. + Xây dựng sổ tay quản lý môi trường. Bước 3: Thực hiện và theo dõi hệ thống quản lý môi trường. + Đảm bảo về nhận thức và thông tin liên lạc cho mọi thành viên trong tổ chức để thực hiện hệ thống quản lý môi trường một cách hiệu quả. + Sử dụng các kỹ thuật năng suất xanh như các công cụ hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động môi trường. + Theo dõi và kiểm tra việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường, thực hiện các hành động cần thiết nhằm đảo bảo sự phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn, các chương trình về môi trường, các qui trình và sở tay quản lý môi trường. Bước 4: Đánh giá và xem xét. + Trang bị kiến thức về đánh giá nội bộ hệ thống quản lý môi trường cho lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt của công ty. + Thiết lập hệ thống đánh giá nội bộ và hệ thống xem xét của lãnh đạo. + Thực hiện chương trình đánh giá hệ thống quản lý môi trường nội bộ theo các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14000. + Báo cáo kết quả của đợt đánh giá trên lên lãnh đạo để xem xét, thực hiện các hành động khắc phục. Bước 5: Đánh giá - xem xét và chứng nhận hệ thống. + Tổ chức tiến hành đánh giá trước chứng nhận để đảm bảo chất lượng của hệ thống. + Lựa chọn cơ quan chứng nhận phù hợp và xin đăng ký chứng nhận. + Chuẩn bị cho cơ quan chứng nhận tiến hành đánh giá hệ thống văn bản và đánh giá thực trạng của tổ chức. + Xem xét kết quả đánh giá ban đầu của cơ quan chứng nhận và thi hành các biện pháp khắc phục đối với những điểm không phù hợp. + Nhận chứng chỉ từ cơ quan chứng nhận. Bước 6: Duy trì chứng chỉ + Thực hiện các hành động khắc phục + Thực hiện đánh giá giám sát + Tổ chức các kỳ hợp xem xét của lãnh đạo. + Không ngừng cải tiến. 2.1.4. Phạm vi của ISO 14000: Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế - ISO đã qui định phạm vi của ISO 14000 " Tiêu chuẩn này qui định các yêu cầu đối với hệ thống quản lý môi trường, tạo thuận lợi cho một tổ chức đề ra chính sách và mục tiêu, có tính đến các yêu cầu pháp luật và thông tin về các tác động môi trường đáng kể. Tiêu chuẩn này không nêu lên các chuẩn cứ về kết quả hoạt động môi trường cụ thể". Tiêu chuẩn ISO 14000 không có tính chất bắt buộc, mà được xây dựng dựa trên sự tự nguyện của mỗi công ty. Điều này cũng đã được khẳng định trong chiến lược phát triển của ISO. Vì vậy, ISO 14000 có thể áp dụng cho bất kỳ tổ chức nào mong muốn: + Thực hiện, duy trì và cải tiến hệ thống quản lý môi trường. + Tự đảm bảo sự phù hợp của mình với chính sách môi trường đã công bố. + Chứng minh sự phù hợp đó cho các tổ chức khác. + Được chứng nhận phù hợp cho hệ thống quản lý môi trường của mình do một tổ chức bên ngoài cấp. + Tự xác định và tuyên bố phù hợp với Tiêu chuẩn. 2.1.5. Mục đích của ISO 14000: Mục đích tổng thể của tiêu chuẩn quốc tế này là hỗ trợ trong việc bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm đáp ứng với yêu cầu của kinh tế - xã hội. Mục đích cơ bản của ISO 14000 là hỗ trợ các tổ chức trong việc phòng tránh các ảnh hưởng của môi trường phát triển từ hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ của tổ chức. Hơn nữa, tổ chức thực hiện ISO 14000 có thể đảm bảo rằng các hoạt động môi trường của mình đáp ứng và sẽ tiếp tục đáp ứng với các yêu cầu luật pháp. ISO 14000 cố gắng đạt được mục đích này bằng cách cung cấp cho tổ chức "các yếu tố của một hệ thống quản lý môi trường có hiệu quả". 2.2. Hệ thống quản lý môi trường - ISO 14001: 2.2.1. Khái niệm: ISO đã đưa ra định nghĩa về hệ thống quản lý môi trường (HTQLMT) như sau: "là một phần của hệ thống quản lý chung bao gồm cơ cấu tổ chức, các hoạt động lập kế hoạch, trách nhiệm, qui tắc, thủ tục, quá trình và nguồn lực để xây dựng và thực hiện, xem xét và duy trì chính sách môi trường". Theo định nghĩa này, việc thiết lập và áp dụng theo chính sách môi trường là yếu tố tiên quyết của hệ thống quản lý môi trường. Vì vậy HTQLMT là một phần của hệ thống quản lý chung của tổ chức có đề cập đến các khía cạnh môi trường của các hoạt động của tổ chức đó. 2.2.2. Các yêu cầu của HTQLMT: Để đảm bảo việc áp dụng HTQLMT đạt hiệu quả cao. Thì việc tuân thủ đúng các yêu cầu đóng vai trò quan trọng, quyết định sự thành công. Các yêu cầu bao gồm: 2.2.2.1. Cam kết của lãnh đạo: Cam kết của lãnh đạo phải được thể hiện từ giai đoạn bắt đầu thực hiện và trong suốt quá trình duy trì thực hiện HTQLMT. Nếu thiếu sự cam kết của lãnh đạo trong việc thiết lập các mục tiêu của ISO 14001 thì sẽ không có cơ hội để hoà hợp và thực hiện thành công HTQLMT. 2.2.2. 2. Tuân thủ chính sách môi trường: Chính sách môi trường do lãnh đạo lập ra hoặc lập ra dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo, đây là tài liệu hiệu dẫn để lập ra các đường lối chung, các khuynh hướng môi trường, các nguyên tắc hành động đối với tổ chức. Chính vì vậy, các tổ chức, doanh nghiệp áp dụng bộ tiêu chuẩn này cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các chính sách này. 2.2.2.3. Lập kế hoạch môi trường: Công tác lập kế hoạch môi trường bao gồm việc xác định các hoạt động có thể tác động đến môi trường, đồng thời tổ chức cũng phải xác định các yêu cầu pháp luật và các yêu cầu khác mà tổ chức phải tuân thủ. Cuối cùng các doanh nghiệp cần tổ chức lập kế hoạch để thực hiện các mục đó. 2.2.2.4. Cơ cấu tổ chức và trách nhiệm: Trong HTQLMT cần thực hiện việc phân công vai trò trách nhiệm đối với từng cấp liên quan. Theo đó, tÊt cả mọi nhân viên trong doanh nghiệp đều phải hiểu rõ cơ cấu và trách nhiệm của bản thân. 2.2.2.5. Đào tạo nhận thức và năng lực: Lãnh đạo phải có trách nhiệm đảm bảo cho tất cả mọi nhân viên đều có kiến thức về khía cạnh môi trường, chính sách môi trường và cam kết của lãnh đạo. Thực hiện các khoá đào tạo và kết quả đánh giá được thiết lập trong HTQLMT. 2.2.2.6. Thông tin liên lạc nội bộ và bên ngoài: Tổ chức phải thiết lập các kênh thông tin liên lạc một bộ và bên ngoài đúng lúc và có hiệu quả. 2.2.2.7. Kiểm soát các tài liệu và hoạt động môi trường liên quan: Để thực hiện được, tổ chức phải có hệ thống kiểm soát tài liệu nhằm đảm bảo các thủ tục được ban hành và áp dụng đúng; và các thay đổi đều phải tuân theo thủ tục được phê duyệt. 2.2.2.8. Sự chuẩn bị sẵn sàng và đáp ứng với tình trạng khẩn cấp: Được thực hiện và được chứng minh qua các khoá đào tạo tập huấn và thực hành cụ thể trong HTQLMT. 2.2.2.9. Kiểm tra - đánh giá - hành động khắc phục phòng ngừa: HTQLMT phải chuyển đổi các ý kiến phản hồi từ lần kiểm tra, giám sát và đo lường các kết quả hoạt động môi trường thành các hành động khắc phục và phòng ngừa. Đây là bước quan trọng trong chu trình lập kế hoạch - thực hiện - kiểm tra - khắc phục (PDCA) của HTQLMT. 2.2.2.10. Xem xét của lãnh đạo: HTQLMT phải được lãnh đạo xem xét định kỳ về tính phù hợp, đầy đủ, hiệu quả nhằm tạo cơ hội cải tiến liên tục. 2.2.2.11. Cải tiến liên tục: Cần xây dựng hệ thống để xác định các cơ hội cải tiến HTQLMT. Cải tiến liên tục xuất hiện khi loại bỏ được nguyên nhân gốc rễ của sự không phù hợp, tuy nhiên cải tiến liên tục cũng có thể là kết quả của việc thiết lập các quá trình mới thay thế quá trình cũ, thay đổi công nghệ hoặc chiến lược mới. 2.2.3. Lợi Ých của việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001: Khảo sát các tổ chức ISO về lợi Ých của việc áp dụng ISO 14001 tại các doanh nghiệp ở Châu Âu và Châu Á đều đưa ra kết luận rằng, việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001 đã mang lại cho các doanh nghiệp những lợi Ých to lớn, không chỉ trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường, mà còn đem lại những khoản lợi nhuận lớn. Đồng thời cũng là công cụ hiệu quả giúp doanh nghiệp quảng bá thương hiệu của mình trên thị trường. Điều đó được thể hiện ở các mặt: + Về mặt thị trường: - Nâng cao uy tín và hình ảnh của Doanh nghiệp với khách hàng. - Nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động môi trường. - Phát triển bền vững nhờ đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý môi trường và cộng đồng xung quanh. + Về mặt kinh tế: - Giảm thiểu mức sử dụng tài nguyên và nguyên liệu đầu vào, - Giảm thiểu mức sử dụng năng lượng. - Nâng cao hiệu suất các quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ. - Giảm thiểu lượng rác thải tạo ra và chi phí xử lý. - Tái sử dụng các nguồn lực/tài nguyên. - Tránh các khoản tiền phạt về vi phạm yêu cầu pháp luật về môi trường. - Giảm thiểu chi phí đóng thuế môi trường. - Hiệu quả sử dụng nhân lực cao hơn nhờ sức khỏe được đảm bảo trong môi trường làm việc an toàn. - Giảm thiểu các chi phí về phúc lợi nhân viên liên quan đến các bệnh nghề nghiệp. - Giảm thiểu tổn thất kinh tế khi có rủi ro và hoặc tai nạn xảy ra. + Về mặt quản lý rủi ro: - Thực hiện tốt việc đề phòng các rủi ro và hạn chế thiệt hại do rủi ro gây ra, - Điều kiện để giảm chi phí bảo hiểm, - Dễ dàng hơn trong làm việc với bảo hiểm về tổn thất và bồi thường. - Tạo cơ sở cho hoạt động chứng nhận, công nhận và thừa nhận: - Được sự đảm bảo của bên thứ ba, - Vượt quá rào cản kỹ thuật trong thương mại, -Cơ hội cho quảng cáo, quảng bá. 2.3. ISO 14024 - Nhãn sinh thái: 2.3.1. Khái niệm: Theo tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đưa ra định nghĩa: "Nhãn sinh thái là sự khẳng định, biểu thị thuộc tính môi trường của sản phẩm hoặc dịch vụ có thể dưới dạng một bản công bố, biểu tượng và biểu đồ trên sản phẩm hoặc nhãn bao gãi, trong tài liệu về sản phẩm, tạp chí kỹ thuật, quảng cáo hoặc các hình thức khác". Nhãn sinh thái cho thấy mức độ giảm thiểu tác động xấu của sản phẩm đến môi trường trong tất cả giai đoạn hoặc trong mét giai đoạn vòng đời của sản phẩm về bản chất, Nhãn sinh thái là một thông điệp truyền tải tính ưu việt đối với môi trường của sản phẩm. Về hình thức, nhãn sinh thái có thể dưới dạng một bản công bố, biểu tượng hoặc biểu đồ gắn trên sản phẩm hoặc bao gãi. Mục đích chung của nhãn sinh thái nhằm khuyến khích nhu cầu tiêu thụ và cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ Ýt gây tác động xấu đến môi trường, do đó có vai trò quan trọng trong thúc đẩy cải thiện môi trường. 2.3.2. Các yêu cầu cơ bản về nhãn sinh thái: Để đảm bảo vai trò truyền tải thông tin đến không chỉ người tiêu dùng hiện đại, người tiêu dùng tiềm Èn mà cả người sử dụng nhãn về vấn đề bảo vệ môi trường. Nhãn sinh thái cần bảo đảm các yêu cầu sau: 2.3.2.1. Nhãn sinh thái phải được phản ánh chinh xác, trung thực và có thể xác minh được. Nhãn sinh thái cần phải bảo đảm phản ánh chính xác, trung thực khía cạnh lợi Ých môi trường của sản phẩm, không áp đặt những khía cạnh môi trường không tồn tại hoặc quá cường điệu lợi Ých môi trường nhằm tao sự tín nhiệm, tin tưởng của người tiêu dùng. Đồng thời nhãn sinh thái phải có thể xác minh được bằng những phương pháp khoa học, phương tiện hiện đại về những khía cạnh, lợi Ých môi trường của sản phẩm đã được công bố. 2.3.2.2. Nhãn sinh thái không được gây ra sự hiểu nhầm hoặc khó hiểu. Nhãn sinh thái phải đơn giản, dễ hiểu, những điểm về nội dung khi được công bố phải rõ ràng, biểu tượng, biểu đồ không được quá phức tạp. 2.3.2.3. Nhãn sinh thái có thê so sánh. Ngoài mét số nhãn sinh thái được xây dựng dựa trên những tiêu chí có thể so sánh, VD: hàm lượng tái chế nhiều hơn 10%... Những có những nhãn sinh thái không được xây dựng theo kiểu vây. Tuy nhiên, những nhãn sinh thái này vẫn có khả năng so sánh được để đảm bảo tính nổi trội về môi trường so với các sản phẩm có cùng chức năng. 2.3.2.4. Nhãn sinh thái không được tạo ra những rào cản không cần thiết cho hoạt động thương mại. Nhãn sinh thái được thiết kế cho loại sản phẩm cụ thể, trong điều kiện về phạm vi, thời gian, và không gian khác nhau nên sẽ dẫn đến những sự khác biệt về tiêu chuẩn, trong việc chứng nhận và cấp nhãn. Vì vậy, sự thừa nhận lẫn nhau của nhãn sinh thái ở một khía cạnh hoặc toàn bộ qui trình được khuyến khích nhằm giảm bớt sự khác biệt này. 2.3.2.5. Nhãn sinh thái phải tạo ra được sự cải thiện môi trường liên tục dưa trên những định hướng thị trường. Tính năng môi trường của nhãn sinh thái là một ưu thế cạnh tranh giữa những người cung cấp vì vậy cần không ngừng cải thiện liên tục, tăng sự linh hoạt trong việc đánh giá và nâng cao hơn lợi Ých môi trường sẽ ngày càng củng cố và nâng cao ưu thế đó. Để làm được điều này, người cung cấp phải thường xuyên cải tiến công nghệ, kỹ thuật, thay thế bằng những sản phẩm Ýt gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. 2.3.3. Lợi Ých của việc áp dụng nhãn sinh thái ISO 14024: 2.3.3.1. Đối với môi trường: Việc áp dụng nhãn sinh thái đã đem lại nhiều lợi Ých đối với môi trường gắn với quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng và loại bỏ sản phẩm. Quá trình phân phối, tiêu dùng sẽ tự loại bỏ những sản phẩm chưa dán nhãn, góp phần làm môi trường được cải thiện. Cũng có thể coi nhãn sinh thái là một thông điệp đồng thời là hàng rào phi thuế quan, cản trở việc thâm nhập thị trường của những sản phẩm chưa dán nhãn. 2.3.3.2. Đối với chính phủ: Việc áp nhãn sinh thái đối với sản phẩm sẽ giúp chính phủ quản lý tốt hơn vấn đề môi trường quốc gia, quản lý tình hình lưu thông phân phối hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, theo dõi tốt việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân, và thực hiện tốt các mục tiêu mà nhà nước đề ra. 2.3.3.3. Đối với doanh nghiệp: Áp dụng nhãn sinh thái sẽ đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi Ých. Đó là: - Giúp bảo vệ môi trường. - Đáp ứng các kỳ vọng của khách hàng về sản phẩm - Cải thiện được các cơ hội thị trường. - Nâng cao được chất lượng sản phẩm - Tiết kiệm được chi phí do giảm thời gian chế biến, giảm nguyên liệu đầu vào, giảm tỷ trọng sai sót và hỏng hóc. - Khai thác được những lợi thế cạnh tranh, nâng cao hình ảnh, uy tín của công ty. - Thoả mãn được các yêu cầu của đối tác và giúp doanh nghiệp cạnh tranh hiệu quả. 2.3.3.4. Đối với người tiêu dùng: Nhãn sinh thái chính là nguồn cung cấp các thông tin tin cậy, đầy đủ cho khách hàng giúp họ có những hiểu biết hơn về môi trường, về những lợi Ých do việc sử dụng sản phẩm có nhãn sinh thái mang lại. Đồng thời cũng giúp cho người tiêu dùng có được những chỉ dẫn, hướng dẫn lựa chọn đúng đắn và phù hợp khi mua một sản phẩm bất kỳ. 2.4. Sự cần thiết phải áp dụng bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000: Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000 là các tiêu chuẩn mang tính chất tự nguyện với các tổ chức và doanh nghiệp. Để xây dựng một hệ thống quản lý môi trường phù hợp với tiêu chuẩn đòi hỏi những nỗ lực và chi phí không hề nhỏ. Vậy tại sao các tổ chức, doanh nghiệp lại mong muốn được chứng nhận ISO 14000? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ phân tích từng khía cạnh, nguyên nhân của sự cần thiết phải áp dụng ISO 14000. 2.4.1. Xuất phát từ thực trạng ô nhiễm môi trường và tính cấp thiết của vấn đề bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường không phải là vấn đề mới. Từ những thập niên 60 và 70, con người đã bàn nhiều đến tình trạng này. Tuy nhiên, có thể thấy sự liên hệ giữa ô nhiễm rộng rãi trên toàn thế giới và cuộc cách mạng vÒ công nghiệp. Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, cách mạng công nghiệp đã bùng nổ mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, từ các nước phát triển đến những nước đang phát triển. Kéo theo đó, trong những năm gần đây, cùng với vấn đề bùng nổ dân số, việc nhân lên của các nhà máy tại các thành phố đã gây ra những tác động nghiêm trọng đến môi trường. Việc tăng nhanh số lượng chủng loại các chất thải độc hại từ các ngành nông nghiệp đã tạo ra các tác động rất nguy hại đến môi trường. Biểu hiện rõ rệt của những tác động trên: nguồn nước bị ô nhiễm nặng, không chỉ những mạch nước ngầm, sông, suối, hồ mà thậm chí nước mưa, nguồn nước thường được coi là trong sạch nhất cũng đã trở thành nguồn gây độc cả đối với thực vật, động vật và con người. Tầng OZON bảo vệ môi trường đang giảm dần, tầng khí quyển bị ảnh hưởng hiệu ứng nhà kính và đang nóng dần lên. Theo các nhà khoa học, những chất thải Chloroflourocarbons hay CFC của ngành công nghiệp dung môi gây ra hiện tượng đó. Các hiện tượng trên là dấu hiệu cảnh tỉnh con người hãy bảo vệ cải thiện môi trường. Muốn làm được như vậy, không chỉ dừng lại ở việc thay đổi trang thiết bị công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ sản xuất của công nhân, mà ngay từ các cáp lãnh đạo phải thiết lập hệ thống các kế hoạch, mục tiêu về quản lý môi trường trong tổ chức, doanh nghiệp mình. ISO 14000. Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường sẽ giúp các doanh nghiệp trong việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đồng thời giảm thiểu tác hại đến môi trường. 2.4.2. Xu hướng quốc tế hoá: Ngày nay xu thế quốc tế thương mại diễn ra mạnh mẽ. Các nước trên thế giới đang không ngừng mở rộng trao đổi thương mại. Sự tồn tại tình trạng thiếu cân bằng những tiêu chuẩn hoá của mỗi quốc gia, vô hình chung sẽ trở thành hàng rào cản trở thương mại quốc tế. Hiện nay trên thế giới, tiêu biểu là các nước thuộc EU, Nhật Bản, Mỹ đã đặt ra những tiêu chuẩn môi trường rất khắt khe đối với những sản phẩm - dịch vụ xuất - nhập khẩu. Đó là rào cản, đồng thời cũng là ưu thế cạnh tranh đối với các doanh nghiệp đã áp dụng ISO 14000 - Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường. Dự kiến trong năm nay, Việt Nam sẽ gia nhâp WTO, bên cạnh những cơ hội sẽ có được là những thách thức và áp lực cạnh tranh khá lớn thị trường quốc tế. Do vậy, muốn hướng vào các thị trường xuất khẩu lớn trên thế giới thì ngoài việc tập trung vào mục tiêu kinh tế các doanh nghiệp phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề môi trường và phúc lợi xã hội. 2.4.3. ISO 14000 bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Người tiêu dùng trên toàn thế giới nói chung có 8 quyền được cộng đồng quốc tế thừa nhận - 8 quyền này đã được thể hiện trong Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: - Được thảo mãn những nhu cầu cơ bản - Đựơc an toàn - Được thông tin - Được lựa chọn - Được lắng nghe - Được bồi thường - Được giáo dục - Được có môi trường vững bền, lành mạnh. Ngày nay người tiêu dùng không chỉ dừng lại ở những đòi hỏi được mua - sử dụng những sản xuất - dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mà họ còn mong muốn và yêu cầu những sản phẩm đó không gây nguy hại cho bản thân người tiêu dùng và môi trường. Điều đó đã được Pháp luật Việt Nam và quốc tế qui định. ISO 14000 là các tiêu chuẩn về quản lý môi trường được áp dụng cho các tổ chức và doanh nghiệp dựa trên chiến lược phát triển bền vững. Việc áp dông ISO 14000 là phù hợp với xu thế thời đại và yêu cầu của thị trường. Đây là lợi thế to lớn, công cụ cạnh tranh hiệu quả cho các doanh nghiệp, tổ chức này trong việc chiếm lĩnh thị trường, phát triển thương hiệu. 2.5. Bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc áp dung ISO14000: Ngày này, bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường - ISO 14000 không còn mới mẻ lạ lẫm, mà ngày càng được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Theo thống kê năm 2004: Có danh sách 10 nước có số lượng tổ chức, doanh nghiệp áp dung ISO 14000 hàng đầu trên thế giới.(bảng 1 - phụ lục) Các nước đi đầu trong việc áp dụng ISO 14000 đã để lại những bài học kinh nghiệm: 2.5.1. Vai trò của Nhà nước: Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện Bộ tiêu chuẩn ISo 14000. Trước tiên, Nhà nước đưa ra định hướng, chiến lược, thực hiện công tác đối ngoại như tham gia vào các tổ chức, công ước, hiệp định quốc tế có liên quan đến các tiêu chuẩn về quản lý môi trường và một số công việc khác mà tư nhân không thể đảm nhiệm được. Đồng thời khi các tổ chức tư nhân độc lập thực hiện việc cấp và quản lý các chứng nhận về ISO14000 thi phải có trách nhiệm báo cáo với cơ quan quản lý Nhà nước, Nhà nước chỉ tài trợ một phần cho hoạt động. 2.5.2. Xây dựng một cơ cấu chuyên ngành: Các chương trình đều có một cơ quan đứng ra chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ hoạt động đối với từng công việc cụ thể, cơ quan này sẽ thành lập và giao trách nhiệm cho từng bộ phận thực hiện. Các chương trình khác nhau sẽ có cơ cấu tổ chức khác nhau, nhưng đều phải đảm bảo thực hiện việc đÒ ra mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể từng giai đoạn. 2.5.3. Lựa chọn sản phẩm là giai đoạn quyết định sự thành công - thất bại của chương trình: Việc lựa chọn sản phẩm được thực hiện theo các đề xuất từ phía công chúng, các bên liên quan hoặc trong quá trình chứng nhận và khảo sát nhu cầu của người tiêu dùng. Việc lựa chọn sản phẩm được tuân thủ theo một thủ tục chặt chẽ để đảm bảo sản phẩm được lựa chọn sẽ mang lại hiệu quả là đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, tạo ra tính định hướng thị trường cho sản phẩm. 2.5.4. Xây dựng tiêu chí phù hợp, quá trình cấp chứng nhận phải công khai và định ra mức phí hợp lý: Phải xây dựng được tiêu chí phù hợp với tiêu chí quốc tế và khả năng của doanh nghiệp. Để làm được như vậy, đầu tiên phải có một nhóm khởi thảo tiêu chí, sau đó lấy ý kiến rộng rãi từ công chúng để đảm bảo sự tin cậy và minh bạch của tiêu chí. Đồng thời phải xoá bỏ sự phân biệt đối xử với các nhà sản xuất nước ngoài. Khi các tiêu chí được công bố thì các doanh nghiệp, tổ chức đều có thể đệ trình đơn xin cấp chứng nhận ISO 14000. Tuy nhiên việc tiến hành đánh giá, kiểm tra phải diễn ra công khai, việc cấp chứng nhận phải nhanh chóng, kịp thời dựa trên kết quả đánh giá chính xác. Nếu các doanh nghiệp nào chưa đáp ứng đủ yêu cầu và qui định, phải nhanh chóng trả lời người nộp đơn và giải thích cụ thể. Đồng thời trong thời gian doanh nghiệp đã được chứng nhận, phải định kỳ kiểm tra việc tuân thủ các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn, từ cấp lãnh đạo đến từng phân xưởng sản xuất, để đề ra những hành động vừa thúc đẩy hoạt động sản xuất của doanh nghiệp vừa cải thiện môi trường. Việc xây dựng, cấp và quản lý chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường phải được các cơ quan chức năng đặt ra những mức phí hợp lý. Một số nước đã có quy định về việc giảm mức phí này cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiêu biểu là tại các nước đang phát triển. Nhằm giảm bớt gánh nặng về tài chính cho các doanh nghiệp này trong quá trình tham gia vào chương trình xây dựng bộ tiêu chuẩn môi trường tại các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm bảo theo nguyên tắc là không gây ra rào cản. 2.5.4. Giải đáp kịp thời, nhanh chóng những vướng mắc của các doanh nghiệp về ISO 14000: Ngày nay, áp dụng ISO 14000 tại các doanh nghiệp đang trở thành xu thế tất yếu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại chưa hiếu đúng, hiểu sâu về bộ tiêu chuẩn quản lý môi trường vì vậy việc giải đáp kịp thời, nhanh chóng những vướng mắc đó của các doanh nghiệp là điều kiện cho sự thành công, hiệu quả trong việc áp dông ISO 14000. Các thắc mắc thường gặp: - Không biết tổ chức chúng tôi có cần ISo 14000 không? - Lợi Ých từ ISO 14000? - Để triển khải một dự án ISO14000, cần bao nhiều thời gian? - Dự kiến chi phí một dự án ISO14000 là bao nhiêu? - Để chứng nhận ISO14000, Tổ chức chúng tôi có nhất thiết phải thỏa mãn hết các yêu cầu pháp luật về môi trường?... II. tổng quan về ngành dệt may , Thực trạng quản lý môi trường và tình hình áp dụng ISO14000: 1. Ngành dệt may và tổng công ty dệt may Việt Nam: 1.1. Vài nét về ngành dệt may: 1.1.1. Đặc điểm: Việt Nam, nước có khí hậu cận nhiệt đới gió mùa với trên 80 triệu dân cư và tỷ lệ tăng trưởng GDP vào loại cao trên thế giới (7%-8%/ năm), là nơi rất thuận lợi cho việc phát triển ngành công nghiệp dệt may. Trên thực tế, dệt may đã trở thành một trong những ngành kinh tế trọng điểm và có đóng góp to lớn trong nền kinh tế quốc dân của nước ta, đặc biệt là đóng góp trong kim ngạch xuất khẩu. Bằng chứng là năm 2005, dệt may là một trong sáu ngành xuất khẩu lớn của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai cả nước. Đây là một ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động và sản xuất ra mặt hàng phục vụ cho việc may mặc là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người. Ở nước ta, dệt may đã có mặt từ rất lâu và đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nhân dân. Trước hết, yêu cầu nguyên liệu của ngành dệt may hoàn toàn có thể đáp ứng được ở nước ta do sự tồn tại và phát triển của các vùng nguyên liệu rộng lớn. Ngành dệt may phát triển sẽ thúc đẩy nghề trồng dâu nuôi tằm vốn phù hợp với điều kiện khí hậu và kinh nghiệm nuôi trồng của nhân dân. Yêu cầu của dệt may về nguồn nhân lực cũng không quá khắt khe, chủ yếu là về số lượng chứ không đòi hỏi cao về trình độ. Dân cư Việt Nam đông đảo và có trình độ tương hợp nên ngành dệt may sẽ gải quyết được việc làm cho đại đa số lao động trong nước. Trình độ công nghệ cho ngành dệt may không cao, Việt Nam có khả năng đáp ứng được. Với hệ thống máy móc thiết bị cũ, các doanh nghiệp dệt may đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể song họ vẫn rất quan tâm đầu tư mua sắm các thiết bị hiện đại của ngành dệt may thế giới như: dây chuyền chải thô CX-4000 của Ý, máy ghép của Thuỵ Sỹ, máy lạnh CIAT của Pháp, YORT của Mỹ, máy nhuộm cao áp Đài Loan, máy dệt kim của Bỉ, … Các thị thường xuất khẩu chủ yếu của dệt may nước ta là EU, Mỹ, Nhật Bản, trong đó Mỹ,EU là thị trường chủ lực. Mỗi thị thường này có các đặc điểm khác nhau và tại đây chúng ta gặp phải sự cạnh tranh lớn của các cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ên Độ, … Về tác động đến môi trường, dệt may gây ra một số ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường bởi bụi, tiếng ồn, nước thải và các hoá chất độc hại. Cùng với sự phát triển của ngành, lượng chất thải này sẽ càng lớn mà công nghệ xử lí hiện nay khó có thể đảm nhận được. Bên cạnh đó ngành dệt may còn có một số sản phẩm gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người tiêu dùng. Điều này cần được khắc phục để ngành sẽ ngày càng phát triển cao và khẳng định hơn nữa vai trò của mình trong nền kinh tế trong những năm sắp tới,. 1.1.2. Thuận lợi: Nước ta có điều kiện phù hợp với việc phát triển ngành dệt may không chỉ về khí hậu, nguồn nhân lực, nguyên liệu mà còn về hình hình phát triển kinh tế, xã hội . Các yêu cầu về nguồn lực các yếu tố đầu vào đều có thể được đáp ứng đầy đủ: có rất nhiều nơi, nhiều cơ sở đào tạo nghề dệt may; các vùng nguyên liệu, các nơi sản xuất truyền thống đang được khôi phục và đầu tư phát triển . Đầu ra cho sản phẩm ngành dệt may dễ dàng vì Việt Nam có thị trường tiêu thụ trong nước rộng lớn và các thị thường xuất khẩu tiềm năng tại Mỹ, EU, Nhật Bản,.... Nhu cầu về sản phẩm dệt may cũng tăng nhanh trong những năm gần đây do sù quan tâm của người dân tới vấn đề ăn mặc và việc họ chịu chi trả nhiều hơn cho các sản phẩm mang tính thời trang. Nước ta có truyền thống lâu đời trong lĩnh vực dệt may và đã xây dựng được một vị thế tương đối ổn định trên thị trường trong nước và trên thế giới: năm 2005, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam đứng thứ 2 trong nước, thứ 16 trên thế giới và là nhà xuất khẩu lớn thứ 7 tại Mỹ. Ngành dệt may nước ta được đánh giá cao trong mắt bạn bè quốc tế và dần có sức cạnh tranh với hàng dệt may Trung Quốc. Theo số liệu của Quỹ hỗ trợ phát triển, hiện tổ chức tài chính này đã cho vay vốn ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu cho trên 2.200 doanh nghiệp với doanh sè cho vay khoảng 30.000 tỷ đồng, để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đối với những hàng hoá là thế mạnh của Việt Nam trong đó có ngành dệt may. Những đơn vị được hỗ trợ đều mở rộng được thị thường, gia tăng xuất khẩu. Nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của ngành nên đã chú trọng phát triển dệt may thành ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn. Thủ tướng Chính phủ, ngoài các chính sách khuyến khích đầu tư , đã phê duyệt các chiến lược phát triển và với nhiều cơ chế hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 một cách rất chi tiết. Như vậy có thể khẳng định dệt may nước ta có rất nhiều điều kiện thuận lợi và trên thực tế đã được quan tâm phát triển. Tuy nhiên, ngành còn có rất nhiều khó khăn cần khắc phục. 1.1.3. Khó khăn: Tiềm năng phát triển của nước ta cao song lại chưa tận dụng và khai thác được triệt để. Vẫn xảy ra tình trạng khan hiếm lao động ở các khu công nghiệp . Quan hệ lao động trong ngành dệt may - lĩnh vực cần nhiều lao động nhất - đang rất căng thẳng. Tình hình đình công liên miên và cuối năm 2005 và đầu năm 2006 tác động đến hầu hết doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các vụ đình công gần đây là chế độ chính sách ở một số doanh nghiệp chưa thoả đáng đồng thời cách thức gải quyết cũng chưa hợp lí. Ngành dệt may nước ta chưa khai thác được tiềm năng phát triển vùng nguyên liệu trong nước và chất lượng nguyên liệu trong nước chưa cao nên vẫn phải nhập 80% từ nước ngoài. Chính vì thế, mỗi biến động giá cả nhập khẩu bông, hoá chất, tơ sợi trên thị thường ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các doanh nghiệp dệt may. Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp dệt may trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về số lượng, chất lượng của sản phẩm vải, may mặc của người tiêu dùng. Cụ thể, tổng số 200 doanh nghiệp nội địa sản xuất ở mức hạn chế (500 triệu mét vải/năm), trong chỉ có 30% là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu ,.. Khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp bị hạn chế từ chất lượng sản phẩm, chủng loại sản phẩm, kinh doanh theo giá FOB ( mua đứt bán đoạn), trình độ công nghệ cho đến việc đầu tư các loại thiết bị chuyên dụng phục vụ may sản phẩm chất lượng cao. Mặc dù Trung Quốc hiện tại bị áp hạn ngạch dệt may với 34 chủng loại mặt hàng từ năm 2006 đến 2008 nhưng nhiều mặt hàng của Việt Nam vẫn phải cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc. Đối với các đối thủ "vừa tầm" hơn như Ên Độ, Pakistan, công suất của Việt Nam cũng chỉ bằng 50-70% đối thủ. Dệt may Việt Nam chưa sản xuất được những mặt hàng có giá trị cao và chủ yếu vẫn là làm gia công, luôn lo lắng về vấn đề nguyên phụ liệu. Các nhà hoạch định chiến lược chưa đánh giá được hết mình và không đánh giá đúng thực lực của các đối thủ cạnh tranh. Điều này đã làm hạn chế khả năng tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may. Môi trường đầu tư kinh doanh ngành chưa ổn định, khó thu hút đầu tư nước ngoài trong khi nguồn vốn trong nước còn hạn chế. Do môi trường đầu tư và kinh doanh rất bất ổn, một số nhà đầu tư Đài Loan vào lĩnh vực dệt may đã có động thái dừng lại, thậm chí đối với cả dự án nhà máy dệt đã xây xong 80%. Các chính sách với ngành chưa nhất quán, cơ chế quản lí hạn ngạch cho năm sau chưa rõ ràng. Nhiều thủ tục vẫn gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Sự phân bố các doanh nghiệp chưa hợp lí, chưa có các khu công nghiệp riêng để chuyên môn hoá sản xuất và chưa di dời, chuyển địa điểm sản xuất về những địa phương có nguồn lao động lớn. Dự báo trong năm nay, Vinatex phải đối mặt với 4 khó khăn lớn: Thứ nhất, đó là vấn đề hạn ngạch, do Việt Nam vẫn chưa là thành viên WTO nên vẫn phải chịu hạn ngạch đối với thị trường lớn nhất là Mỹ, lên tới 60% kim ngạch xuất khẩu; Thứ hai, chi phí đầu vào tiếp tục tăng, trong khi nhiều doanh nghiệp phải giảm giá để cạnh tranh cả trong nước và thế giới; Thứ ba, sức Ðp cạnh tranh tại thị trường nội địa rất lớn, do Việt Nam phải thực hiện giảm thuế nhập khẩu còn 0% - 5% để hội nhập hoàn toàn vào AFTA; Thứ tư, là những tác động trái ngược khi Mỹ và EU tái áp đặt hạn ngạch đối với Trung Quốc, các doanh nghiệp trong nước phải đối phó với nguy cơ bị các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển tải bất hợp pháp qua Việt Nam hoặc tiêu thụ đồ tại thị trường Việt Nam qua buôn lậu. 1.2. Tổng công ty dệt may Việt Nam: 1.2.1. Tình hình phát triển: 1.2.1.1. Trước khi thành lập tập đoàn ( tháng 12/ 2005): Tổng công ty dệt may Việt Nam thành lập từ năm 1995 theo mô hình công ty 91 với hơn 60 đơn vị thành viên, có nhiều đơn vị có quy mô lớn, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Tổng công ty có 3 trường đào tạo, 3 viện nghiên cứu chuyên ngành đã cung ứng dịch vụ cho nhiều đơn vị ngoài tổng công ty. Tổng công ty là hạt nhân cho mọi hoạt động. Quan hệ giữa tổng công ty với các đơn vị thành viên chủ yếu là quan hệ hành chính. Khi thành lập, công ty bao gồm các đơn vị do nhà nước cấp vốn 100%, không khuyến khích được các nguồn vốn xã hội. Sự gắn bó với nhau về lợi Ých kinh tế, công nghệ, thị trường,… không rõ ràng. Từ đó dẫn đến mục tiêu tích tụ, tập trung tài sản, tài chính ở tổng công ty và các công cụ chi phối như thương hiệu, thị thường chưa mạnh. Trong quá trình hoạt động, do cơ chế thị thường, đã có nhiều công ty tự phát hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con là công ty dệt may Hà Nội, công ty dệt Phong Phú, công ty dệt miền Trung Hoà Thọ, công ty dệt Nam Định, công ty may Việt Tiến, công ty may Nhà Bè, … Sau 10 năm hoạt động, tổng công ty đã có sự đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của ngành dệt may Việt Nam. Mặc dù với số lao động 105000 người, chỉ chiếm 10% so với lao động công nghiệp của toàn ngành nhưng năm 2004 đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp gần 9.500 tỷ đồng, chiếm 32% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành. Tổng công ty và các đơn vị nòng cốt đã hỗ trợ tích cực cho việc phát triển công nghiệp dệt may địa phương. Đến cuối năm 2005, ngành dệt may đã trải qua 1 năm thực hiện bãi bỏ hạn ngạch (từ ngày 1/1/2005) giữa các nước WTO. Điều này tạo lợi thế cho các cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ên Độ, … tăng nhanh lượng hàng xuất khẩu và khả năng cạnh tranh về giá vì không phải chịu phí quota. Trong khi đó, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ vẫn bị áp đặt hạn ngạch. Các chi phí đầu vào như xơ, sợi tổng hợp, xăng dầu, phí vận chuyển, kho bãi… tăng do biến động của giá dầu thế giới, làm giảm sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp thuộc tổng công ty đang trong giai đoạn đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp, nên có biến động về lao động và đội ngũ cán bộ quản lý … Toàn ngành dệt may cuối năm ngoái đã dừng lại, tụt hậu so với yêu cầu. Các nguyên nhân khách quan là do sức Ðp của quá trình hội nhập, sự bất lợi của Việt Nam so với các thành viên WTO…Các nguyên nhân chủ quan là do các doanh nghiệp thiếu nhạy bén, phản ứng chậm khi thị trường và các điều kiện kinh doanh thay đổi, chưa chủ động tiếp cận thị trường, khách hàng. Một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá, có xu hướng muốn đảm bảo an toàn, tránh rủi ro đã chuyển sang sản xuất hàng gia công xuất khẩu làm cho tổng doanh thu giảm sút. Có những doanh nghiệp chưa tập trung đẩy mạnh công tác xuất khẩu nên tổng doanh thu còn thấp. Tuy trong điều kiện khó khăn, các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty dù có nhiều yếu kém nhưng cũng có một số doanh nghiệp đã nỗ lực nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho 98285 lao động với mức thu nhập khá cho công nhân (bình quân 1,370 triệu đồng/người/tháng). Năm 2005, Vinatex đạt 16.265 tỷ đồng doanh thu, tăng 10,9% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu (tính đủ nguyên phụ liệu) đạt gần 900 triệu USD, tăng 9,7%. Mặc dù mức tăng trưởng sản xuất không cao bằng những năm gần đây nhưng lợi nhuận phát sinh đã đạt trên 151 tỷ đồng, tăng gần 61% so với năm 2004. Riêng 6 tháng đầu năm 2005, tổng công ty đã đạt được 4.445,9 tỉ đồng giá trị sản xuất công nghiệp, 7.793,4 tỉ đồng doanh thu; Kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty đạt 224,4 triệu USD, tăng 11,8% so với cùng kì năm 2004, trong đó thị thường chủ lực là Mỹ tăng 14,7%, EU tăng 9,7%, Nhật Bản tăng 19%. Các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu cao là công ty dệt may Hà Nội ( Hanoisimex), dệt kim Đông xuân, dệt may Hoà Thọ, dệt Phong Phó, May 10, May Việt Tiến, May Nhà bè… Nhiều sản phẩm của các công ty này được người tiêu dùng ưa thích. Nổi bật trong đó là sự bứt phá ngoạn mục của Hanosimex (Trong cơ chế thị thường, với sự năng động và nhạy bén, từ chỗ chỉ có mặt hàng sợi chủ yếu bán trong nước, Hanosimex đã bứt phá, đầu tư mạnh để có thêm các sản phẩm dệt kim, khăn bông và Denim (vải bò)…Sau gần 10 năm giá trị tổng sản lượng tăng 8 lần, doanh thu tăng 2,95 lần, xuất khẩu tăng 3,55 lần, thu nhập bình quân của người lao động tăng 2,4 lần… Với việc đầu tư xây dựng nhà máy dệt vải Denim, công ty đã đi tắt, đón đầu Hiệp định thương mại Việt Mỹ , mở ra thị thường xuất khẩu đầy tiềm năng. Chỉ sau 3 năm đi vào sản xuất, doanh thu từ mặt hàng này tăng gấp 3 lần, gải quyết việc làm cho hơn 200 lao động. Hanosimex hứa hẹn bước phát triển bền vững trong thời hội nhập) và sự nổi lên của May 10 thành một thương hiệu mạnh (Từ năm 1992 đến nay, công ty đạt tốc độ tăng trưởng 20-30%/năm. Doanh thu qua các năm liên tục tăng: năm 2002 là 254 tỉ đồng, năm 2003 là 350 tỉ đồng, năm 2004 là 457 tỉ đồng… doanh thu nội địa thường chiếm 20-25% tổng doanh thu toàn Công ty). Đặc biệt, công ty cổ phần May 10 đã xây dựng và được cấp chứng chỉ ISO 9001: 2000 và ISO 14000, tăng thêm niềm tin cho khách hàng ở các nước phát triển. Cuối năm 2005, tổng công ty đã đệ trình đề án phát triển thành tập đoàn dệt may Việt Nam để trình Thủ tướng chính phủ với mục tiêu đề án tập đoàn sẽ tập trung vào khắc phục những hạn chế cơ bản của mô hình tổng công ty 91 vốn có nhiều bất cập sau 10 năm hoạt động. 1.2.1.2. Tình hình phát triển từ khi chuyển sang mô hình tập đoàn: Ngày 1/12/2005, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt đề án thành lập tập đoàn dệt may Việt Nam trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại tổng công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) và các đơn vị thành viên. Đến ngày 8/12/2005, tổng công ty tuyên bố chuyển đổi thành Tập đoàn dệt may Việt Nam. Tập đoàn dệt may Việt Nam có số lượng lớn các đơn vị thành viên, sử dụng nhiều lao động, đa sở hữu, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước, trong đó sử hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Mô hình tập đoàn dệt may Việt Nam gồm công ty mẹ, các công ty con và công ty liên kết, trong đó, công ty mẹ giữ vai trò chi phối các công ty khác về vốn, thị thường, thương hiệu … Công ty mẹ được hình thành trên cơ sở kế thừa từ tổng công ty dệt may và giữ vai trò lãnh đạo tập đoàn. Công ty mẹ có tư cách pháp nhân đầy đủ, được gọi là tập đoàn dệt may Việt Nam., thực hiện các chức năng vừa là một công ty đầu tư vốn, vừa thực hiện kinh doanh và cung cấp các dịch vụ cho các công ty thành viên … Tập đoàn hoạt động kinh doanh đa ngành nghề, trong đó công nghiệp dệt may là chính. Cơ cấu tổ chức của tập đoàn dự kiến ban đầu sẽ gồm 6 công ty đang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con, 6 công ty TNHH một thành viên, 19 công ty cổ phần liên doanh Vinatex giữ trên 50% vốn, 13 các công ty liên kết. Vinatex hiện có 3 công ty mẹ - công ty con , 7 công ty TNHH Nhà nước một thành viên và 40 công ty cổ phần. Các công ty thành viên trang bị thiết bị đồng bộ, công nghệ hiện đại, tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu với kim ngạch ngày càng cao. Tập đoàn thống nhất lấy tên VINATEX là thương hiệu của tập đoàn và sẽ tập trung thiết kế một số loại sản phẩm có đẳng cấp cao với nhãn mác mang tên Vinatex. Ngoài ra, các công ty cũng xây dựng thương hiệu sản phẩm chủ lực của mình. Mô hình tập đoàn dệt may sẽ khắc phục những hạn chế cơ bản về tổ chức, lao động, tiền lương, tài chính, kế hoạch thị thường, đầu tư, quản lý tiêu chuẩn, định mức và quản lý môi trường. Quan hệ sở hữu giữa tập đoàn và các công ty con là quan hệ chủ sở hữu đầu tư. Các công ty con là các đơn vị hoạt động theo Luật doanh nghiệp do tập đoàn đầu tư vốn ở nhiều mức độ khác nhau. Đặc biệt, về tổ chức sản xuất kinh doanh, tập đoàn thực hiện quản trị các công ty thành viên trên cơ sở phân nhóm sản phẩm, mỗi nhóm có thể có đến 1-2 công ty nòng cốt và một số các công ty vệ tinh cùng nhóm hình thành những nhóm sản phẩm. Trong từng nhóm, tập đoàn cử lãnh đạo tập đoàn vào vị trí chủ chốt các công ty này để trực tiếp quản trị và chỉ đạo có hiệu quả thực hiện chuyên môn hoá và hợp tác theo nhóm và giữa nội bộ tập đoàn. Để khắc phục sự không rõ ràng, minh bạch về quan hệ sở hữu, tập đoàn đưa ra kiến nghị phân định rõ chức Chính phủ là đại diện chủ sở hữu, Bộ công nghiệp là cơ quan được Đại diện chủ sở hữu uỷ quyền trên một số lĩnh vực và là cơ quan quản lý nhà nước về phát triển và an toàn công nghiệp. Các bộ khác là cơ quan quản lý nhà nước về một số lĩnh vực liên quan.Hội đồng quản trị cuả công ty mẹ đề ra các quy chế và một hệ thống các định mức kinh tế kỹ thuật . Khác với tổng công ty 91 là Nhà nước vừa giao vốn cho tổng công ty vừa có thể bổ sung vốn trực tiếp cho đơn vị thành viên khiến tổng công ty không thể làm đại diện chủ sở hữu thực sự. Mô hình tập đoàn sẽ được khắc phục bằng cách Nhà nước chỉ đầu tư vốn cho tập đoàn chứ không đầu tư trực tiếp cho các công ty con. Tập đoàn sẽ đầu tư vốn vào các công ty con, và việc tăng, giảm vốn, đầu tư vốn sẽ do tập đoàn quyết định theo nguyên tắc thương mại. Mối quan hệ tài chính giữa công ty mẹ tập đoàn với các công ty con là mối quan hệ đầu tư tài chính. Công ty mẹ tập trung được lợi nhuận từ chia cổ tức và có thể dùng nguồn vốn này để tập trung đầu tư vào các mũi nhọn theo chiến lược của tập đoàn. Về quan hệ thị thường, trước đây nhà nước giao kế hoạch cho tổng công ty, tổng công ty giao kế hoạch cho các đơn vị thành viên sẽ được thay bằng việc giao kế hoạch sản xuất kinh doanh theo khả năng. Năm 2006, tập đoàn đầu tư đồng bộ hoá sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tập đoàn đang thành lập các trung tâm, công ty giao dịch nguyên phụ liệu dệt may, thiết kế, kinh doanh mẫu thời trang. Tập đoàn đang tập trung xây dựng từ 10-20 thương hiệu sản phẩm quốc gia và mua bản quyền, liên kết sản xuất 2-4 thương hiệu nổi tiếng thế giới. Theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hai tháng đầu năm 2006 đạt 867 triệu USD, tăng gần 45% so với cùng kỳ. Riêng kim ngạch xuất khẩu hàng có hạn ngạch đạt trên 320 triệu USD. Cho đến nay, tổng công ty mới chuyển sang mô hình tập đoàn được hơn 2 tháng. Cho nên đây mới chỉ là giai đoạn đầu để kiểm nghiệm những thay đổi khi chuyển đổi mô hình. 1.2.2. Tập đoàn dệt may Việt Nam trong thời kì tới: Trong thời kỳ tới, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ phải tiếp tục đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt hơn nữa, nhất là sau khi thoả thuận thương mại dệt may giữa Trung Quốc và Mỹ được kí kết, có phần nào có lợi cho Trung Quốc, cơ cấu xuất khẩu của các doanh nghiệp chắc chắn sẽ có thay đổi. Xu hướng trong nước những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp có xu hướng giảm tỷ lệ gia công hàng dệt may, tăng tỷ lệ hàng FOB (mua đứt, bán đoạn). Trên thị trường Mỹ, Bộ Thương mại đàm phán nhằm tăng lượng hạn ngạch cho ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt là đối với các mã hàng nóng. Trên thị trường EU, Nhật, liên bộ khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tìm kiếm khách hàng với những mã hàng giá trị cao nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Ngành dệt may Việt Nam tiếp tục kêu gọi đầu tư từ nước ngoài vì tiềm năng phát triển của ngành là rất lớn. Các chuyên gia cho rằng thị phần hàng dệt may tại Mỹ có đẳng cấp cao hơn so với hàng Trung Quốc bắt đầu có sức cạnh tranh. Đáng chó ý, điểm mới trong cơ chế điều hành hạn ngạch năm 2006 là việc áp dụng song song hai hình thức cấp hạn ngạch: cấp theo đăng ký quỹ/bảo lãnh và cấp visa tự động. Doanh nghiệp có thành tích xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2005 được quyền đăng kí quỹ/ bảo lãnh tối đa 60% thành tích của mình và đồng thời được tham gia sử dụng visa tự động. Doanh nghiệp không có thành tích được tham gia cấp visa tự động tối thiểu 40% tổng nguồn hạn ngạch. Về phía tổng công ty, mục tiêu thành lập tập doàn dệt may theo mô hình công ty mẹ - công ty con của tổng công ty dệt may Việt Nam sẽ trở thành tập đoàn đa sở hữu hàng đầu về vả quy mô hoạt động lẫn sức cạnh tranh sản phẩm trong khu vực Đông Nam Á hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dệt may. Theo đó, Vinatex đang hoàn chỉnh chiến lược phát triển đến năm 2015, có tính đến 2010, Tập đoàn nêu rõ nhiệm vụ thực hiện chiến lược đầu tư phát triển ngành dệt may như tập trung đầu tư nâng cấp doanh nghiệp, loại bỏ dần các thiết bị cũ, lạc hậu, đầu tư các thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại, đẩy mạnh xúc tiến thị thường, thành lập một số văn phòng đại diện tại Hoa Kỳ, Hồng Kông, Nhật Bản, EU, đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu của một số doanh nghiệp nổi tiếng nhằm đưa ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam từ vị trí thứ 16 lên vị trí thứ 10 vào năm 2010 và đạt được kim ngạch xuất khẩu là 15 tỷ USD năm 2015. Riêng năm 2006 mục tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may dự kiến tăng 12,4% đạt 5,44 tỷ USD. Theo lộ trình, đến năm 2008 tập đoàn vinatex sẽ gồm các đơn vị sự nghiệp, 18 công ty cổ phần chi phối và 30 đơn vị Vinatex giữ cổ phần dưới 50%. Đến năm 2010, con số này là 10 đơn vị và 37 đơn vị. Trước mắt, Vinatex sẽ thành lập các trung tâm thiết kế, kinh doanh mẫu thời trang công nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội; mở rộng hệ thống bán lẻ trong nước và trực tiếp nước ngoài với thương hiệu Vinatex; Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các trung tâm phụ liệu. Cuối cùng, về vấn đề cổ phẩn hoá, theo chủ trương của Bộ Công nghiệp, năm nay, các doanh nghiệp dệt may đã cổ phẩn hoá cũng sẽ bán tiếp cổ phần Nhà nước, nhất là các đơn vị làm ăn thua lỗ. Tập đoàn sẽ cổ phần hoá toàn bộ các đơn vị trực thuộc, những đơn vị thuộc diện di dời ra khỏi thành phố lớn cũng được cổ phần hoá trong năm 2007. 2. Thực trạng áp dụng ISO 14000: 2.1. Tình hình áp dụng ISO 14000: Theo thống kê trung tâm năng suất Việt Nam năm 2002, Việt Nam có 321 tổ chức/doanh nghiệp được nhận chứng chỉ ISO, trong đó, 309 doanh nghiệp nhận chứng chỉ ISO 9000 và 12 doanh nghiệp nhận chứng chỉ ISO 14000, tăng 23,94% so với năm 2001. Đến nay, theo số liệu không chính thức, có gần 50 tổ chức, doanh nghiệp được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001: 1998. Tính đến tháng 12/2002, Việt Nam có 1.046 tổ chức/ doanh nghiệp được cấp chứng chỉ có hệ thống quản lý phù hợp với tiêu chuẩn, trong đó, chứng chỉ về ISO vẫn chiếm hàng đầu với 1019 chứng chỉ. (bảng 2 - phụ lục) Từ danh sách có thể thấy: các doanh nghiệp này hoạt động trong các lĩnh vực rất gần với những nhóm sản phẩm đã được các chương trình nhãn sinh thái trên thế giới lựa chọn. Từ năm 1999, các nhà sản xuất Việt Nam mới bắt đầu được nhận phù hợp với tiêu chuẩn ISO 14000 và chỉ có 2 tổ chức. Trong các năm sau, số lượng các tổ chức áp dụng ISO 14000 tăng nhanh hơn và chuyển dần từ phía các công ty, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam sang phía các công ty, tổ chức liên doanh hoặc trong nước. Đây là dấu hiệu đáng mừng đối với Việt Nam. Việc áp dụng ISO 14001, bên cạnh lợi Ých là giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, còn trở thành một công cụ kinh doanh nhạy cảm và cần thiết đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Vì trong một chừng mực nào đó, ISO 14001 vẫn đang được xem là một rào cản phi thuế quan thương mại. Những quy định của WTO làm cho việc chứng nhận phù hợp với ISO 14001 trở thành một điều kiện của kinh doanh như một chứng minh tin cậy của bên cung cấp về khả năng quản lý môi trường tốt của mình. Trong thời gian qua, để mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện cho hàng hoá từ nước ngoài vào trong nước đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, khái niệm về nhãn sinh thái dường như vẫn chưa tiếp cận được đến chiến lược kinh doanh của các nhà sản xuất hàng tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Điều này có thể được chứng minh bằng tình hình thực tế. Từ sau 2010, chương trình nhãn sinh thái của Việt Nam sẽ chính thức đi vào hoạt động một cách toàn diện. Cần tiếp tục duy trì và không ngừng hoàn thiện nội dung chương trình hoạt động. Ngoài ra, các doanh nghiệp đã quan tâm hơn đến các hệ thống quản lý khác như hệ thống phân tích nguy hiểm và kiểm soát điểm tới hạn, hệ thống thực hành sản xuất tốt, hệ thống an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp, hệ thống an toàn chất lượng sản phẩm, hệ thống trách nhiệm xã hội. Việc áp dụng các hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn đã thể hiện sự cam kết của doanh nghiệp Việt Nam đối với vấn đề xã hội nói chung và đối với chất lượng môi trường nói riêng. Đây là một trong những điều kiện tạo sức mạnh giúp các doanh nghiệp Việt Nam tăng năng lực xuất khẩu và phát triển bền vững trong thời kì hội nhập. Trong việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường, các doanh nghiệp gặp khó khăn khi áp dụng các tiêu chuẩn do giới hạn về chất lượng, thiết bị, phương tiện, chi phí, phương pháp sản xuất,… Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị yếu thế trong việc lấy chất lượng hàng hoá làm phương tiện cạnh tranh, chưa có nhận thức đúng đắn và gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng. Hơn nữa, mối quan tâm của các doanh nghiệp mang tính thời vụ, năng lực tài chính yếu. 2.2. Nhận thức người tiêu dùng: Các chương trình nhãn sinh thái, các tổ chức khi tìm hiểu hiệu quả của nhãn sinh thái trên thế giới đã tổ chức các cuộc điều tra, nghiên cứu dựa trên sự hiểu biết và những kiến thức về môi trường, về sản phẩm thân thiện với môi trường và thái độ thừa nhận của người tiêu dùng trong quá trình mua sắm, sử dụng, loại bỏ sản phẩm và sự sẵn lòng chi trả cho những sản phẩm thân thiện với môi trường của người tiêu dùng để gải quyết các vấn đề môi trường. Qua thu thập và nghiên cứu tài liệu cho thấy, người tiêu dùng Việt Nam có rất Ýt hiểu biết hoặc hiểu biết rất mơ hồ về sản phẩm hay gắn việc tiêu dùng sản phẩm trong hoạt động bảo vệ môi trường. Mặc dù trong thời gian gần đây, trên thị thường đã xuất hiện một số sản phẩm đã quảng cáo hoặc có biểu tượng về nhãn sinh thái trên sản phẩm của mình. Ví dụ, bột giặt bảo vệ môi trường, bếp điện tìm kiếm năng lượng, giấy có thể tái chế, sử dụng Ýt tài nguyên, giảm tác động tới môi trường,… Những lời quảng cáo đó mới chỉ do nhà sản xuất tự công bố mà chưa có một cơ quan, tổ chức nào công nhận nó thật sự có những tính năng đó hay không. Lời quảng cáo còn chung chung, chưa cụ thể nên chưa thật sự gây được sự chú ý, tin tưởng của người tiêu dùng. Mức độ ảnh hưởng đến việc lựa chọn trong các quyết định mua sắm các sản phẩm thân thiện với môi trường của người tiêu dùng còn thấp. Sự sẵn lòng chi trả không cao, đối với họ, những sản phẩm đó dường như đắt hơn và họ có thiên hướng mua rẻ hơn là mua "xanh". Qua thực tế điều tra 1440 người tiêu dùng, tổng hợp ý kiến với 9 câu hỏi cho thấy, người Việt Nam bắt đầu có nhận thức về nhãn sinh thái nhưng tỉ lệ chưa cao, mới đạt 34%, trong đó chỉ có 4% là ưa chuộng. Họ đều hiểu mục đích của việc sử dụng nhãn sinh thái chủ yếu để bảo vệ sức khoẻ con người (72%) và cho rằng mua sản phẩm xanh đắt hơn (64%). (bảng 3 - phụ lục) Tỉ trọng những người có nhận thức đúng đắn và hiểu biết về nhãn sinh thái là cao, song vẫn còn tồn tại không Ýt người không hoặc Ýt quan tâm đến nhãn sinh thái. Việc phổ biến thông tin về nhãn sinh thái và tác dụng của nhãn sinh thái đến người tiêu dùng chưa hiệu quả, có tới 45% số người tiêu dùng được hỏi chưa từng nghe nói về nhãn sinh thái. Đây là một thiếu sót lớn cần được khắc phục. 2.3. Thuận lợi và khó khăn: 2.3.1. Những thuận lợi cơ bản: Để xây dựng, thực hiện chương trình cấp nhãn sinh thái cho một số mặt hàng xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, Việt Nam có những thuận lợi hết sức cơ bản về mặt chủ quan lẫn khách quan. 2.3.1.1. Chủ quan: Nhìn trên góc độ vĩ mô, mặc dù vấn đề môi trường nói chung và nhãn sinh thái nói riêng ở Việt Nam còn mới mẻ nhưng môi trường pháp lý đã dần được hình thành. Việc Đảng và nhà nước ta quan tâm đến vấn đề này được thể hiện thông qua Luật Môi trường (ra đời tháng 12/1993) và các chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường đến năm 2010 (ra đời tháng 12/2003). Các văn bản này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhãn sinh thái ở Việt Nam. Tốc độ và quy mô xuất khẩu những năm qua tăng khá nhanh, hàng hoá của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới. Đặc biệt, tại các thị thường lớn đã áp dụng nhãn sinh thái có sức mua cao, đòi hỏi chất lượng hàng hoá ngày càng tăng và ổn định như thị thường Mỹ, EU, Nhật Bản…, sự xuất hiện những sản phẩm Việt Nam đã minh chứng cho việc hàng hóa Việt Nam đã đáp ứng phần nào các tiêu chí về nhãn sinh thái. Mặt khác, cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu có nhận thức tốt về nhãn sinh thái. Điều này tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các chương trình nhãn sinh thái ở Việt Nam. Tại VN, theo số liệu không chính thức, tới nay dã có gần 50 tổ chức doanh nghiệp được chứng nhận sự phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001:1998. Đây là dấu hiệu chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã quan tâm tới vấn đề môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ý thức của cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp cũng được nâng cao. Bộ tiêu chuẩn ISO 14001 là một bước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể làm quen với các tiêu chuẩn liên quan đến môi trường và chứng tỏ Việt Nam có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường và các tiêu chuẩn mang tính quốc tế. Các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ISO14001 hoạt động trong lĩnh vực gần với những nhóm sản phẩm đã được các chương trình nhãn sinh thái trên thế giới lựa chọn như giày, dệt, may mặc, thuốc trừ sâu, thiết bị và linh kiện điện tử, bột giặt, chất tẩy,…. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành lựa chọn các nhóm sản phẩm , xây dựng tiêu chí cấp nhãn, thí điểm, tổ chức chương trình cấp nhãn sinh thái tại Việt Nam. Gần đây, ý thức bảo vệ môi trường của người dân được nâng lên rõ rệt. Trước hết là do xuất phát từ tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta tương đối ổn định ở mức cao, dẫn đến mức thu nhập, đời sống của người dân đã tăng lên đáng kể, góp phần cải thiện nhận thức của người tiêu dùng cũng như khơi dậy sự sẵn lòng chi trả và những nhu cầu về sản phẩm thân thiện với môi trường. Thứ hai, một số vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm liên tiếp xảy ra trong thời gian qua gây ảnh hưỏng đến sức khoẻ người tiêu dùng như: sử dụng hàn the, phoomon chế biến, bảo quản thực phẩm,.. khiến người ta đặc biệt chú ý đến chất lượng sản phẩm trong các quyết định mua sắm. Bằng chứng là ngày càng có nhiều người quan tâm và mua hàng hoá, thực phẩm tại các cửa hàng rau sạch và trong siêu thị, mặc dù hàng hoá ở đây chưa được các tổ chức chứng nhận. Tiêu dùng của người dân đang dần tiến tới những sản phẩm thân thiện với môi trường. 2.3.1.2. Khách quan: Trước tiên, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị gia nhập WTO, các doanh nghiệp VN phải hết sức năng động thì mới có thể đứng vững trên thị thường trong và ngoài nước. Nhãn sinh thái là một công cụ hữu hiệu để giải quyết vấn đề kinh doanh trong một môi trường có áp lực chiến tranh cao đến vậy. Đây vừa là một đòi hỏi, vừa là động lực cho việc xây dựng chương trình nhãn sinh thái ở Việt Nam. Môi trường không chỉ còn là mối quan tâm của riêng một quốc gia mà đã trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu. Đã có nhiều chương trình nhãn sinh thái ở các quốc gia khác nhau và họ đã đạt được những thành công nhất định trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Với tư cách là nước đi sau có thể có được nhiều bài học kinh nghiệm, Việt Nam sẽ tiết kiệm được nhiều công sức tiền của, thời gian để làm sáng tỏ. Chẳng hạn, Việt Nam có khả năng lựa chon công nghệ phù hợp mà không nhất thiết phải tự mình nghiên cứu, như các công nghệ sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các vật liệu thay thế,… Thị trường xuất khẩu của Việt Nam ở những quốc gia đã có chương trình nhãn sinh thái như Mỹ, EU, Nhật Bản, Australia, Canada, Trung Quốc, Thái Lan, Đức, Hà Lan, Singapore, Italia, Anh, Pháp, Bỉ,… đạt 94% kim ngạch xuất khẩu, chiếm tỷ lệ 54% trong tổng số thị thường các nước xuất khẩu. Ở các thị thường này, người tiêu dùng rất ưa chuộng những sản phẩm được cấp nhãn sinh thái, giá bán những sản phẩm đó có thể cao hơn, có khi cao hơn tới 20% so với các sản phẩm khác cùng loại. Qua đó cho thấy, thị thường hàng xuất khẩu của Việt Nam là những thị thường mà người tiêu dùng không chỉ yêu cầu cao về chất lượng mà còn về các yếu tố môi trường, đó là thách thức nhưng cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu sản phẩm Việt Nam có được nhãn sinh thái thì nó sẽ có một thị thường vô cùng rộng lớn, ví dụ như châu Âu là thị thường của 450 triệu người tiêu dùng ưa thích hàng hoá có nhãn sinh thái. Những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã nằm trong danh mục hàng hoá được cấp nhãn sinh thái như giầy dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ, điện tử, máy tính… Theo số liệu thống kê năm 2003, các mặt hàng này chiếm 32 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. 2.3.2. Thách thức: 2.3.2.1. Về phía quản lý nhà nước: Để xây dựng được một mô hình cấp và quản lý chương trình nhãn sinh thái hoạt động một cách có hiệu quả, đòi hỏi các quốc gia phải có thái độ nghiêm túc, đầu tư thích đáng về nhân tài, vật lực. Do vậy, nhà nứơc đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình khởi xướng chương trình. Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao nhiệm vụ trực tiếp xây dựng chương trình song còn thiếu và đang phải gải quyết nhiều công việc khác nhau. Bộ phận được giao nhiệm vụ trực tiếp triển khai chương trình còn lúng túng. Hệ thống các quyết định về tiêu chuẩn môi trường và thương mại Việt Nam còn chưa cập nhật, thiếu đồng bộ, nhiều tiêu chuẩn quốc tế vượt quá khả năng của doanh nghiệp Việt Nam. Theo quy định của ISO, việc đánh giá và chứng nhận phải được thực hiện bởi một tổ chức có đủ năng lực về chuyên môn và phương tiện, chứng nhận phải hoàn toàn độc lập, khách quan, nghiêm túc, không chạy theo thị hiếu thị thường và thị hiếu khách hàng. Câc tổ chức chứng nhận không được phép cung cấp hoặc chào hàng các dịch vụ tư vấn nhằm đạt và duy trì chứng chỉ, dịch vụ thiết kế, triển khai và duy trì hệ thống ,… Tại nhiều nước, bên cạnh tổ chức chứng nhận vẫn có tổ chức tư vấn, mặc dù cùng một cơ quan quản lý, nhưng tư vấn và chứng nhận phải do hai tổ chức độc lập với nhau đảm nhiệm. Giám đốc, nhân sự, tài chính, hạch toán kinh doanh độc lập và sự độc lập đó được ISO thừa nhân. Ở Việt Nam do hoạt động tư vấn và chứng nhận chưa có quản lý, kiểm soát chặt chẽ, nên các tổ chức tư vấn và chứng nhận đã có những hoạt động chưa đúng qui định quốc tế và pháp luật Việt Nam. Theo thống kê của tổng cục đo lường chất lượng, năm 2003, Việt Nam có 15 tổ chức hoạt động chứng nhận và gần 40 tổ chức hoạt động tư vấn về hệ thống quản lý chất lượng. Trong phần lớn các tổ chức này chỉ có duy nhất một tổ chức của Nauy đã chính thức đăng kí hoạt động và có văn phòng đại diện ở Việt Nam, hầu hết các tổ chức còn lại chưa đăng kí hoạt động và chưa có văn phòng chính thức tại Việt Nam. Thậm chí, có tổ chức tư vấn và chứng nhận cùng chung một ông chủ, văn phòng và tài chính. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã ký hợp đồng thực hiện cả tư vấn và chứng nhận. Trong tương lai, khi chương trình cấp và quản lí nhãn sinh thái ở Việt Nam được thực hiện, cần phải có sự đầu tư của nhà nước một cách phù hợp để hỗ trợ thành lập tổ chức chứng nhận được thừa nhận trên phạm vi quốc tế tại Việt Nam. Công tác xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế, các cơ quan quản lý trong nước và các cơ quan đại diện nước ngoài chưa phối hợp tốt với doanh nghiệp trong nước trong việc đáp ứng thông tin thị thường ngoài nước; nhiều doanh nghiệp còn ỷ lại, trông chờ nhà nước và không chủ động tìm kiếm thị trường, 2.3.2.2. Người tiêu dùng: Nhận thức người tiêu dùng về sản phẩm xanh còn đơn lẻ, chưa mang tính cộng đồng. Trong khi đó, vai trò của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng chưa phát huy hết sức mạnh để thực sự trở thành đại diện của đông đảo người tiêu dùng. Sù tham gia của công chúng trong sự nghiệp bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc hoạch định chính sách và quyết định đầu tư. Đó là do trình độ nhận thức và kiến thức của nhân dân vẫn còn ở dưới mức cần thiết, người dân không được tiếp cận thông tin một cách dễ dàng và đầy đủ,... Một khó khăn khác vô cùng quan trọng là người dân có thu nhập ở mức thấp và trung bình chiếm tỉ lệ lớn, nên họ hướng tới việc mua những sản phẩm rẻ hơn là mua các sản phẩm thân thiện với môi trường. 2.3.2.3. Doanh nghiệp: Hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm nhãn sinh thái vẫn còn xa lạ đối với người sản xuất và người tiêu dùng dù cho đã có gần 50 tổ chức doanh nghiệp được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001: 1998. Các doanh nghiệp vẫn chưa có đầu tư thích đáng đối với hoạt động nghe thông tin, nghiên cứu thị thường, nghiên cứu các qui định, rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm. Đối với những mặt hàng nằm trong danh mục đã có tiêu chí cấp nhãn tại các nước xuất khẩu như giày dép, hàng dệt may, linh kiện máy tính…là những mặt hàng gia công xuất khẩu hưởng tiền công là chủ yếu, việc mở rộng qui mô và đầu tư công nghệ gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài. Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước chưa tạo được thị phần riêng cho mình, lại còn gặp phải sự cạnh tranh gay gắt, nhất là sự cạnh tranh của những mặt hàng Trung Quốc. Do các doanh nghiệp chậm đầu tư công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cho hàng xuất khẩu nên hàng hoá của Việt Nam qua chế biến chưa nhiều, xuất khẩu hàng thô vẫn chiếm tỉ trọng lớn. Những sản phẩm được các nhà nhập khẩu dùng làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất tiếp theo, nếu nhà sản xuất mong muốn được cấp nhãn thì những sản phẩm đó cũng phải đáp ứng yêu cầu về môi trường. Như vậy, Việt Nam có thể sẽ gặp phải khó khăn đối với cả những mặt hàng xuất khẩu là nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất tiếp theo. Hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn phải qua thị trường trung gian, nhất là thị thường Singapore, Hồng Kông. Ví dụ, 80% hàng dệt may, giày dép xuất khẩu sang EU phải qua trung gian, điều này khiến các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất không nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu, tập quán tiêu dùng của thị trường. Hàng tiêu dùng nội địa bị cạnh tranh gay gắt từ nhiều phía. Đầu năm 2006, hàng rào phi việc bãi bỏ hàng rào phi thuế quan và ,mức thuế của hầu hết các mặt hàng sẽ giảm xuống còn 0-5%. Trong giai đoạn từ năm 2003-2005, phần lớn các cam kết mở cửa thị trường trong Hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ đều phải thực hiện. Bên cạnh đó, theo khảo sát gần đây của UNCTAD đối với các doanh nghiệp Việt Nam, chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để đáp ứng các loại tiêu chuẩn môi trường áp dụng trong thương mại như quy định đối với quy trình sản xuất sản phẩm xuất khẩu, dán nhãn sinh thái, đóng gói sản phẩm ,… có thể lên tới 20% tổng chi phí. Trong khi đó, 90% doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ với số lượng khoảng 40.000. Trên 2 triệu hộ gia đình tham gia sản xuất công nghiệp, 11 triệu hộ gia đình tham gia vào sản xuất nông nghiệp và nguồn tài chính không đủ để đáp ứng những yêu cầu về môi trường. Đây là khó khăn lớn kho phải đáp ứng các tiêu chí, mức phí của chương trình nhãn sinh thái. Việt Nam có dân số đông, nhưng lại thiếu nguồn lao động chất lượng cao, không nhiều nhân công có kỹ thuật tay nghề cao, cách làm ăn còn mang tính chất nền sản xuất nhỏ, ý thức về môi trường còn thấp. Đây là một chương trình quản lý và cấp nhãn. Yêu cầu các tiêu chí sẽ đảm bảo thường xuyên cải tiến công nghệ, đối với các tiêu chuẩn nước ngoài, thời gian hiệu lực của tiêu chí trong khoảng 3-5 năm, nhưng đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đây lại là khoảng thời gian quá ngắn để đổi mới công nghệ của mình. Như vậy có thể nói hiện nay còn nhiều thách thức cần được quan tâm gải quyết để Việt Nam mới có thể nhanh chóng tiến hành đáp ứng tiêu chuẩn về dán nhãn để tận dụng được những lợi thế trong cạnh tranh. 3. Tình hình quản lý môi trường: 3.1. Thực trạng môi trường thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng: Theo báo cáo của chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), thế giới đang phải đối mặt với những vấn đề môi trường sau: Thứ nhất là sự khan hiếm về nguồn tài nguyên nước. Trên trái đất chỉ có 35 triệu km3 nước ngọt trên 1,4 tỷ km3 nước các loại. Phần nước ngọt mà con người có thể tiếp cận được gồm lượng dòng chảy trên các lục địa và nước ngầm có thể khai thác chỉ có 47 nghìn km3, chiếm một phần rất nhỏ trong tổng lượng nước trên trái đất. Hiện nay, 80 quốc gia chiếm 40% dân số thế giới đang chịu đựng sự thiếu nước nghiêm trọng; 1,1 tỷ người vẫn thiếu nước uống an toàn; 2,4 triệu người thiếu điều kiện vệ sinh thích hợp, phần lớn ở các quốc gia khu vực châu Phi và châu Á. Hàng năm có hơn 5 triệu người chết vì các bệnh tật có liên quan đến thiếu nước và thiếu các điều kiện vệ sinh. Ở Việt Nam, lượng nước sinh hoạt cấp cho mỗi người/ ngày chỉ khoảng 100 -150 lít, lượng nước phân bố không đều gây ra hạn hán và lũ lụt ở nhiều vùng. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp ngày càng cao. Nguyên nhân của việc thiếu nước sạch và nhu cầu về nước tăng là do sự tăng trưởng dân số, phát triển công nghiệp, mở rộng tưới tiêu trong nông nghiệp, chính sáh yếu kém trong quản lý nguồn nước. Thứ hai là nạn phá huỷ tài nguyên rừng. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, rừng là một hệ sinh thái tự duy trì, rộng lớn và phức tạp nhất trong tất cả các hệ sinh thái trên trái đất. Rừng đang bị phá huỷ nghiêm trọng, đặc biệt là trong vòng 30 năm qua, có những khu rừng bị phá huỷ hoàn toàn. Theo ước tính của UNEP, hàng năm có 14,6 triệu ha bị phá huỷ nhưng chỉ có 5,2 triệu ha tái sinh. Trong đó, tỷ lệ phá rừng nhiệt đới khoảng 1%/ năm. 70% diện tích bị phá huỷ vĩnh viễn trở thành đất nông nghiệp. Trong những năm 90 của thế kỷ XX, khoảng 94 triệu ha rừng nguyên sinh, chiếm 2,4% tổng diện tích rừng trên thế giới bị biến mất. Phạm vi rừng tự nhiên của thế giới năm 1995 còn lại khoảng 2,780 triệu ha, chiếm 21,4% diện tích thế giới. Ngoài những nguyên nhân thuộc nhân tố tự nhiên như côn trùng, dịch bệnh, cháy rừng và các thảm họa thiên nhiên còn có những nhân tố do con người gây ra là sự mở rộng đất nông nghiệp, khai thác quá mức gỗ công nghiệp, gỗ làm chất đốt và các sản phẩm khác từ rừng. Con người phá rừng là do sức Ðp dân số, nhu cầu thị thường, thương mại đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ rừng và các chính sách kinh tế vĩ mô chưa phù hợp. Thứ ba là sự ô nhiễm không khí. Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, sự tập trung lượng khí thải CO2, CO, SO2,.. trong bầu khí quyển, những khí gây nên hiệu ứng nhà kính. Hoạt động sản xuất dịch vụ của con người đã thải vào không khí nhiều chất ô nhiễm, hậu quả không chỉ xảy ra ở một quốc gia, mét khu vực mà trên phạm vi rộng lớn. Có thể kể ra những hậu quả này như mưa axit, mét trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng trong vài thập kỉ qua, đặc biệt là ở khu vực châu Âu, Bắc Phi và Trung Quốc, hàng trăm hồ đã suy giảm cá do sù axit hoá, thiệt hại rừng ở châu Âu,… trở thành những vấn đề môi trường nóng bỏng và được ưu tiên quan tâm gải quyết hiện nay. Tại Việt Nam, ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng. Các loại khí độc hại trong các khu công nghiệp và ô nhiễm bụi tăng đến mức báo động, nhất là ở các thành phó lớn, các nút giao thông, nồng độ bụi có khi lớn gấp 2-5 lần nồng độ cho phép. Vấn đề tiếp theo là sự suy giảm đa dạng sinh học. Đa dạng sinh học là một nhân tố quan trọng đối với sự sống, sự tồn tại của con người trên hành tinh, nhưng nguồn tài nguyên này đang bị khai thác quá mức, tốc độ và tỷ lệ biến mất cao hơn nhiều so với sự tuyệt chủng trong thiên nhiên. Đó là do sự chuyển đổi sử dụng đất, thay đổi khí hậu toàn cầu, ô nhiễm, khai thác không bền vững tài nguyên thiên nhiên và sự xuất hiện của nhiều loài sinh vật lạ,… Sự tăng trưởng dân số cùng với tiêu dùng không bền vững, sự tăng lên của lượng chất thải và ô nhiễm, sự phát triển đô thị và xung đột quốc tế là những nhân tố mạnh mẽ góp phần vào sự biến mất đa dạng sinh học. Vấn đề ô nhiễm khu vực bờ biển và bờ biển, nguồn tài nguyên biển và bờ biển có sự suy giảm do nhu cầu sử dụng tài nguyên của con người tăng lên. Sự tăng dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa và du lịch tại các khu vực ven biển và bờ biển, con người đang biến biển thành nơi chứa đựng rác thải. Hiện nay, rác thải là nguồn lớn nhất gây ô nhiễm biển và môi trường ven biển. Cuối cùng là vấn đề ở những khu đô thị. Dân số tại các khu đô thị tăng nhanh làm tăng nan thất nghiệp, đói nghèo, các vấn đề về dịch vụ, sự quá tải của hệ thống cơ sở hạ tầng, thiếu đất, vốn, chỗ ở và suy thoái môi trường. Việc thu gom rác thải và hệ thống quản lý chất thải kém hiệu quả đã gây ra ô nhiễm đô thị nghiêm trọng và nguy hại tới sức khoẻ con người. Các thành phố công nghiệp cũng đang phải đối mặt với hàng loạt các kỹ thuật sản xuất gây hại đến môi trường và việc loại bỏ rác thải không hợp lý. Vấn đề môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết, nếu con người không có những hành động cụ thể để cải thiện tình hình thì chính con người đang tự tước bỏ cuộc sống của mình và xoá bỏ sự sống của thế hệ tương lai. 3.2. Tình hình quản lý môi trường ở nước ta: Để quản lý và bảo vệ môi trường, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật bắt buộc, khuyến khích các doanh nghiệp có trách nhiệm, nghĩa vụ khi tham gia vào công tác bảo vệ môi trường. Trong kế họach hành động bảo vệ môi trường nói chung và trên con đường xây dựng một chương trình cấp và quản lý nhãn sinh thái ở Việt Nam nói riêng, có một số yêu cầu cụ thể liên quan tới các mặt hàng xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Nhà nước đã ban hành các tiêu chuẩn Việt Nam có liên quan đến môi trường. Hiện nay, ở Việt Nam có 502 tiêu chuẩn Việt Nam, trong đó ban hành trước năm 2002 có 412 tiêu chuẩn, năm 2002 ban hành 49 tiêu chuẩn, năm 2003 ban hành 51 tiêu chuẩn. Trong thời gian qua, hầu hết các doanh nghiệp đều vi phạm các quy định pháp luật về môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường. Hầu hết các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ ở nông thôn đều đang gây ra ô nhiễm và không Ýt trường hợp rất nghiêm trọng mà vẫn chưa có giải pháp xử lý. Trên thực tế, đa số các doanh nghiệp gặp vấn đề về công nghệ dẫn đến nhiều khó khăn trong việc gải quyết các vấn đề môi trường cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường. Hiện nay, đa số doanh nghiệp rất khó hoặc không có khả năng đầu tư đầy đủ cho việc xử lý ô nhiễm. Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của những người đứng đầu các xí nghiệp chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp biết rất Ýt về các tiêu chuẩn môi trường. Nước ta cũng đã xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, 100% sản phẩm hàng hoá xuất khẩu và 50% hàng hoá tiêu dùng nội địa được ghi nhãn theo tiêu chuẩn ISO 14021. Bộ Tài nguyên và Môi trường, cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc khởi xướng chương trình, đã tiến hành giao nhiệm vụ cho các bộ phận chức năng. Bộ dự định sẽ dán nhãn sinh thái thử nghiệm trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là hoạt động nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường và khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn Việt Nam. III Giải pháp 1. Sự cần thiết 1.1. Nhận thức từ doanh nghiệp Hiện nay, Vinatex đã hoạt động dưới mô hình công ty mẹ, công ty con. Với vai trò là nòng cốt của ngành dệt may trong quan hệ đối tác nhất là các đối tác lớn nước ngoài và là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn. Tập đoàn Doanh nghiệp Việt nam đã định ra mét hướng đi nhằm đạt đến sự phát triển toàn diện. Chính vì vậy, một trong những khía cạnh mà tập đoàn luôn luôn quan tâm một cách thích đáng là vấn đề bảo vệ môi trường. Ngoài các mục tiêu kinh tế đề ra trong chiến lược phát triển đến năm 2015, doanh nghiệp đã tập trung đầu tư những thiết bị, nguyên liệu và xử lý chất thải nhằm hạn chế nhất đến môi trường và coi đây là nội dung của chiến lược phát triển lâu dài. Mặt khác, triển vọng gia nhập WTO đã mở ra cho doanh nghiệp Việt nam nãi chung và tập đoàn dệt may nói riêng nhiều cơ hội và cách thức. Đó là những cơ hội để tăng lượng hàng xuất khẩu, mở rộng thị phần, quảng bá sản phẩm của Việt nam đến các nước trên thế giới. Nhưng bên cạnh những cơ hội là thách thức.Sử dụng mô hình năm lực lượng cạnh tranh của M.Porter, ta nhận thấy doanh nghiệp Việt nam đang phải chịu sự tác động của ba đối tượng: Thứ nhất nguồn cung ứng: Mặc dù là một nước có điều kiện phát triển trồng dâu nuôi tằm, bông đay và các nguyên liệu cho Doanh nghiệp, nhưng do chưa có sự quy hoạch cụ thể, đầu tư thích đáng, nên hầu hết 70% - 80% nguyên liệu là hàng nhập khẩu. Để vững mạnh Doanh nghiệp này cần tập trung giải quyết vấn đề trên. Tuy nhiên đây vẫn chưa phải là vấn đề mang tính chất sống còn, quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp. Mà vấn đề chính là những đối thủ cạnh tranh hiện tại như là Trung Quốc, Ên Độ, Indonexia, về khâu thiết kế, giá thành sản phẩm, đặc biệt là yêu cầu của khách hàng về mức độ thân thiện của sản phẩm đối với môi trường. Chính vì vậy việc áp dụng ISO 14001 và ISO 14024 sẽ đem lại niềm tin cho khách hàng vào doanh nghiệp và giúp Doanh nghiệp dễ dàng đón nhận những cơ hội từ phía thị trường. Hiện nay, mặc dù nhửng nhà kinh doanh, nhập khẩu ở EU đã có niềm tin rất lớn và rất ưa chuộng các sản phẩm dệt may Việt nam, nhưng dù hạn ngạch đã được dỡ bỏ, khối lượng sản phẩm xuất khẩu vào EU củng không tăng lên đáng kể. Đó chính là sự xuất hiện rào cản thương mại phi thuế quan ở các nước này. Đoán nhận được sức mạnh của những sản phẩm thân thiện với môi trường và sự khó khăn của các nước đang phát triển. Họ đã tạo ra được rào cản nhằm bảo vệ thị trường trong nước, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy áp dụng ISO 14001 và ISO 14024 chính là một bước đi mang tính chiến lược đảm bảo sự vững mạnh chống lại công cụ bảo hộ phi thuế quan này này Cuối cùng, việc áp dụng Hệ Thống Quản Lý Chất Lượng khẳng định sự vững mạnh về mặt năng lực tài tính, trình độ quản lý, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ và chất lượng sản phẩm, tạo ra niềm tin cho khách hàng và chính phủ các nước. Có thể nói việc áp dụng Hệ Thống Quản Lý Chất Lượng vào tập đoàn Doanh nghiệp Việt nam phải được tiến hành ở từng đơn vị thành viên. Và thực tế cho thấy các Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thường không có khả năng hoặc vững mạnh về tài chính đến mức mà có thể sản sàng chi trả một khoản tiền khoảng 100 triệu để làm ISO. Điều đó củng có nghĩa khi doanh nghiệp đã có sự vững mạnh nhất định về tài chính, vị thế nhất định trên thương trường thì mới áp dụng. Vi dô như May 10, ngày nay đã trở thành một thương hiệu mạnh, ngày nay đã áp dụng hệ thống này và điều kiện để thâm nhập các thị thi trường trên thế giới kể cả Mỹ và EU, do vậy củng không phải là khó khăn với công ty. Áp dông ISO 14001 và ISO 14024 còng chính là đã khẳng định sự vững mạnh của công ty, đánh dấu một bước chuyển lớn trong việc thực hiện chiến lược dài hạn, hướng tới sự phát triển bền vững. Nói chung, tập đoàn đã xác định được vai trò cũng như tầm quan trọng của việc áp dụng ISO với doanh nghiệp mình, do vậy các doanh nghiệp không ngừng chủ động tích cực tìm kiếm hỗ trợ từ nước ngoài, tìm hiểu thông tin, thủ tục. nhanh chóng tiến hành áp dụng hệ thống này vào doanh nghiệp mình. Xác định được tính chất chiến lược của việc áp dụng ISO trong sự phát triển lâu dài. 1.2. Áp lực từ phía người tiêu dùng: Với thị trường trong nước Hiện nay với mức sống ngày càng tăng, vốn hiểu biết ngày càng rộng, người dân Việt nam quan tâm hơn đến vến đề môi trường gắn với sản phẩm. Mặc dù còn mới nhận thức được nhưng còng đã chi phối người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản phẩm cho mình. Tuy nhiên, nhìn chung thì Việt nam vẫn là một nước đang phát triển, nên mức độ thân thiện với môi trường của sản phẩm chưa phải là một trong những yếu tố mang tính chất quyết định đến việc mua hàng. Do vậy, hiện nay áp lực từ người tiêu dùng trong nước về việc áp dụng ISO là chưa lớn. Tuy nhiên, trong mét tương lai gần nó sẽ trở thành một vấn đề quan trọng. Do vậy doanh nghiệp phải chuẩn bị cho mình để sẵn sàng đón nhận những khách hàng tiềm năng đã. Với thị trường nước ngoài: Thứ nhất: Sự vận động hướng tới mở cửa thị trường còng có nghĩa là tập đoàn sẽ làm ăn với doanh nghiệp nước ngoài nhiều hơn nữa. Do vậy, các đơn vị thành viên của tập đoàn buộc phải có hệ thống quản lý chất lượng được cấp chứng chỉ phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001 như là điều kiện tiên quyết cho việc ký kết hợp đồng hoặc thỏa thuận. Thứ hai: Với những khách hàng trực tiếp tiêu dùng sản phẩm cũng có tác dụng lớn đến vấn đề này. Những sản phẩm được cấp nhãn sinh thái là những sản phẩm rất được ưa chuộng tại các nước phát triển, mức độ thân thiện với môi trường là yếu tố làm cho doanh nghiệp có thể lựa chọn sản phẩm doanh nghiệp này mà không chọn sản phẩm doanh nghiệp khác. Và chính yêu cầu đó của người tiêu dùng lại tác động đến các đối tác doanh nghiệp nước ngoài và những đòi hỏi của họ về chứng chỉ này. 1.3. Áp lực từ phía xã hội: Hiện nay, môi trường đang trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu: ô nhiểm không khí, nồng độ bôi cao, rừng bị phá huỷ, thủng tầng ôzôn, mưa axit, hiệu ứng nhà kính là những biểu hiện xác thực và đáng lo ngại nhất nhất của việc ô nhiểm mổi trường. Chính vì vậy, bảo vệ môi trường không còn là vấn đề của các nước phát triển, không phải là vấn đề của một quốc gia mà đã trở thành vấn đề toàn cầu. Không những nhà nước phải tích cực hỗ trợ tài chính, nhân lực, đào tạo cho quản lý môi trường mà bản thân các doanh nghiệp cũng phải nhận thức được vai trò này, việc áp dông ISO cần phải xuất phát từ mong muốn bảo vệ môi trường và được khẳng định trong việc đầu tư công nghệ mới, tiêu dùng năng lượng sạch, giảm thiểu chất thải vào môi trường. Mặt khác, tập đoàn còng chịu áp lực từ chính vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân đặc biệt là lĩnh vực xã hội. Là đơn vị đầu tàu của dệt may, tập đoàn phải là một tấm gương sáng, đi đầu trong các hoạt động Bảo vệ môi trường, là một điểm tựa vững mạnh để giúp đỡ các đơn vị thành viên mở rộng thị phần và khả năng cạnh tranh.Xuất phát từ những nguyên nhân đó,cần phải thực hiện một số giải pháp nhằm đẩy nhanh việc áp dụng ISO ở tập đoàn dệt may Việt Nam. 2. Giải pháp: 2.1. Chính sách và giải pháp ở cấp vĩ mô 2.1.1. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý Cho đến nay , hệ thống các quy định, đối với vấn đề môi trường và thương mại của Việt nam còn chưa đầy đủ, không cập nhật và không đồng bộ. Có rất nhiều những tiếu chuẩn môi trường được xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn quốc tế nên vượt quá khả năng của các doanh nghiệp trong nước. Sự nỗ lực của các bộ nghành, sự cố gắng của nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với áp dụng ISO ở Việt nam nói chung và tập đoàn dệt may nói riêng. Để góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý, cần quan tâm một số nội dung sau: + Xây dựng hoàn thiện luật về quyền sở hữu trí tuệ: Hiện tại , Việt nam chưa có riêng một bộ luật về quyền sở hữu trí tuệ. Các quy định về quyền sở hữu trí tuệ mới chỉ để cập trong luật dân sự nên còn sơ sài, thiếu cơ sở cho việc xác định và giải quyết các tranh chấp, xung đột pháp lý liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Để đáp ứng yêu cầu thực tế, cần nhanh chóng xây dựng một bộ luật riêng về quyền sở hữu trí tuệ, trong đó nên có những quy định liên quan đến bảo hộ bản quyền đối với các bí quyết công nghệ, giải pháp kỹ thuật thân thiện với môi trường, các phát minh sáng chế góp phần giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay. + Hoàn thiện luật bảo vệ môi trường Năm 1993, luật bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua. Đến nay, chóng ta đang trong quá trình thảo luận để hoàn thiện luật bảo vệ môi trường sửa đổi. Theo thông tư của luật sửa đổi, nhiều chương, nhiều khoản sẽ quy định và về các vấn đề như tính chất của môi trường, phòng ngừa hạn chế tác động xấu đối với môi trường, quản lý và nâng cao chất lượng môi trường sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, hội nhập hợp tác quốc tế để bảo vệ môi trường có liên quan đến ISO 14000. Nhanh chóng hoàn thiện luật môi trường sửa đổi sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho xây dựng và hoàn thiện chương trình nhãn sinh thái ở Việt Nam. Ban hành quy chế xây dựng và thực hiện chương trình cấp nhãn sinh thái. Quốc hội cần phải sớm soạn thảo và ban hành quy chế xây dựng và thực hiện chương trình cấp nhãn sinh thái quốc gia để thống nhất tổ chức và tạo thuận lợi cho các bên liên quan, cụ thể cần quy định rõ các nội dung sau: - Cơ cấu tổ chức và hoạt động của chương trình nhãn sinh thái quốc gia, phân công, phân cấp cho các bị nghành liên quan. - Thủ tục lựa chọn sản phẩm trên nhóm sản phẩm cấp nhãn sinh thái. - Thủ tục thiết kế tiêu chí môi trường của sản phẩm. - Quy trình và thủ tục đăng ký cấp ISO 14000. - Nội dung và yêu cầu quản lý, giám sát sao việc cấp chứng chỉ. 2.1.2. Nhóm giải quyết nhằm tăng cường công tác giáo dục và quảng bá về nhãn sinh thái: Chú trọng công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn, hiểu biết ISO 14000. Nguồn nhân lực có chuyên môn sâu rộng về các vấn đề môi trường nói chung, nhãn sinh thái nói riêng có vai trò rất quan trọng việc tư vấn cho chương trình nhãn sinh thái và phổ biến, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện chương trình có hệ thống, khoa học và hiệu quả. ISO 14000 là một vấn đề khá mới mẻ ở Việt nam, chóng ta hầu như chưa có nguồn nhân lực đáng kể có khả năng đáp ứng được yêu cầu thực tế khi triển khai chương trình. Vì vậy công tác GD&ĐT nguồn nhân lực có chuyên môn, hiểu biết và có năng lực hoạt động cho lĩnh vực này cần được chú trọng Để được đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực cần phải: + Đưa nội dung giảng dạy về môi trường, và về ISO vào chương trình giảng dạy của tất cả các trường đại học, cao đẳng trên toàn quốc. + Hình thành môn học chuyên ngành về quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000 và môn học về nhãn sinh thái đối với tất cả các khao chuyên ngành môi trường của các trường đại học (Đại học Bách Khoa, Đại học Kinh Tế, Đại học Khoa Học Tự Nhiên,..). + Đào tạo, bổ sung kiến thức về nhãn sinh thái cho các đối tượng hiện là cán bộ kinh tế, kỹ thuật và các lĩnh vực liên quan. + Thành lập trung tâm tư vấn và hệ thống cơ sở dữ liệu ISO 14001 và ISO 14024. Theo các chuyên gia tư vấn môi trường và nhãn sinh thái các ngành công nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc phổ biến, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện công tác bảo vệ môt trường và chương trình ISO 14000 một cách theo phương pháp luận khoa học và đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Các chuyên gia tư vấn còng là nhân tố đưa các tiếp cận môi trường hiệu quả vào thực tiÔn sản xuất kinh doanh. Mặt khác theo kinh nghiệm của một số nước, để phát huy sức mạnh của đội ngũ chuyên gia và hỗ trợ các doanh nghiệp một cách thiết thực, hiệu quả, cần hoàn thành các trung tâm tư vấn về môi trường và nhãn sinh thái. Các trung tâm này, ngoài chức năng trực tiếp tư vấn cho các doanh nghiệp, còn đóng vai trò trung gian “môi giới” giữa doanh nghiệp với các tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ ISO 14001 và 14024Nếu thực hiện môi giới thành công, doanh nghiệp có thể vay được tiền ngân hàng để đầu tư thực hiện chương trình, đồng thời được cấp nhãn sinh thái, lúc đó các thông tin tư vấn mới được trả tiền tư vấn. Mặt khác, để hỗ trợ một cách thiết thực và hiệu quả cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả cơ quan tư vấn, cần thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu về các thông tin liên quan đến sản phẩm đã và sẽ được xem xét cấp ISO. Hệ thống cơ sở dữ liệu này củng có thể bao gồm cả những thông tin mới nhất, cập nhật nhất về các chương trình nhãn sinh thái khác. Cần đảm bảo khả năng dễ dàng tiếp cận với hệ thống này. Quảng bá về nhãn sinh thái trên các phương tiện thông tin đại chóng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước biết. Cần xây dựng một chương trìng quảng bá về ISO thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm thúc đẩy việc tuyên truyền, ủng hộ của doanh nghiệp và người tiêu dùng đối với sản phẩm, dịch vô thân thiện với môi trường, thêm vào đó cần đặc biệt giới thiệu các mô hình điển hình thành công về ISO 14000 trong và ngoài nước (May 10) để học tập kinh nghiệm. Có thể sử dụng các phương tiện quản cáo như: báo, đài phát thanh, các chương trình truyền hình địa phương và trang website về nhãn sinh thái. Cuối cùng chương trình cũng nên thành lập một hệ thống thông tin quốc tế có vai trò như mét trung gian giữu chương trình với các nhà sản xuất nước ngoài, tạo điều kiện cho các đối tượng này tham gia tích cực hơn vào quá trình hoạt động của chương trình, đồng thời phổ biến tên tuổi của chương trình trên thông tin quốc tế. 2.1.3. Nhóm giải phápvề tài chính nhằm hỗ trợ công tác xây dựng chương trình quản lý nhãn sinh thái: + Giải pháp về đầu tư liên doanh liên kết: Các doanh nghiệp dệt may cần chủ động khai thác các nguồn lực, nhất là nguồn nội lực, đồng thời tạo điều kiện thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng nhằm phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập, phù hợp với các bước đi của chương trình xây dựng và thực hiện ISO 14000. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư bình đẳng giữu các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, khuyến khích đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các hoạt động sản xuất phù hợp với định hướng của chương trình nhãn sinh thái Việt nam, có chính sách hỗ trợ liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt nam với những doanh nghiệp nước ngoài đã được cấp nhãn sinh thái nhằm tranh thủ nguồn vốn, kinh nghiệm và công nghệ. Thu hút vốn đầu tư từ các tổ chức chính phủ, các cá nhân trong nước và nước ngoài trong giai đoạn đầu tư xây dựng chương trình và sau khi chương trình đã đi vào hoạt động + Giải pháp về tín dụng: Có cơ chế đặc biệt phù hợp để phát triển các loại hình tín dụng, đủ nhu cầu cao và đa dạng về nguồn vốn của các doanh nghiệp để đầu tư và phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường. Cho phép các địa phương được phát hành trái phiếu đầu tư vay vốn nhà nước dưới sự bảo lãnh có điều kiện để đầu tư cho các chương trình môi trường Thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện sản xuất sạch hơn và cÊp chứng chỉ ISO 14000. + Giải pháp về trợ cấp và bảo hộ doanh nghiệp: Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào chương trình cũng gặp Ýt nhiều khó khăn về thông tin, quy trình, tài chính, vì vậy trợ cấp và hỗ trợ doanh nghiệp là việc làm cần thiết nhằm tạo ra động lực giúp doanh nghiệp vượt qua những khó khăn trước mắt để nhanh chóng đạt được mục tiêu của chương trình đặt ra. Chóng bao gồm: + Trợ cấp phí: Kinh phí cho việc trển khai nhãn sinh thái bao gồm các chi phí về hệ thống quản lý môi trường lẫn chi phí cho việc chứng nhận đăng ký ISO 14000 là rất tốn kém trong khi khả năng tài chính của doanh nghiệp lại có hạn. Nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tham gia chương trình, cần có chính sách trợ cấp phí phù hợp; giảm phí đăng ký và các phí khác liên quan đến kinh tế và chứng nhận sản phẩm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ở các vùng kinh tế xã hội phát triển chậm hơn, doanh nghiệp đã có chứng chỉ đạt tiêu chuẩn môi trường và quản lý môi trường. + Thực hiện miễn giảm thuế thu nhập đối với doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác nhau có sử dụng lợi nhuận để đầu tư cho môi trường, thực hiện chương trình ISO 14001 -14024. + Trợ cấp cho các doanh nghiệp dưới các hình thức ưu đãi về vay vốn (lãi suất thấp, bảo lãnh lãi suất, kéo dài thời hạn trả nợ). + Trợ cấp doanh nghiệp đầu tư thực hiện sản xuất sạch hơn, đặc biệt là hỗ trợ các trang thiết bị đo lường các thông số môi trường có liên quan đến quy trình sản xuất và sản phẩm. + Hỗ trợ tư vấn kỹ thuật, môi trường và nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp. + Tăng cường thiết bị và chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn kiểm tra sản phẩm đã được cấp nhãn. Để đáp ứng yêu cầu chứng nhận và kiểm tra sản phẩm ngày càng tăng khi chương trình đi vào hoạt động cần có kế hoạch đầu tư nhằm tăng cường về thiết bị kỹ thuật cho công việc này. Kết hợp với các cơ quan, tổ chức đánh thực hiện công tác đánh giá tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và môi trường để xây dựng hệ thống thiết bị và kỹ thuật hiện có. + Triển khai xây dựng thêm các phòng thí nghiệm, kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn theo các tiêu chí nội dung đã được xác định ở nhiều nơi, trước mắt là ác địa bàn có sự tập trung công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu để đáp ứng kịp thời nhu cầu. + Áp dụng các kỹ thuật kiểm định, kiểm nghiệm tiên tiến ngay tầm khu vực và quốc tế. 2.2. Chính sách và biện pháp với tập đoàn dệt may Việt nam: 2.1.1. Nâng cao nhận thức và ý thức của tất các thành viên trong doanh nghiệp. 2.2.2. Xây dựng chiến lược. 2.2.3. Tham gia thương mại điện tử. 2.2.4. Chú trọng đào tạo về nghiệp vụ. 3. Kiến nghị: 3.1. Tăng cường vai trò của nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chương trình. Từ các chương trình nhãn sinh thái của Mỹ, EU, Thái Lan nhà nước có một vai trò rất quan trọng. ở Việt nam nhà nước cần phát huy trên cả hai góc độ.Trên góc độ gián tiếp, Nhà nước đưa ra định hướng, chiến lược, thực hiện công tác đối ngoại như: tham gia vào các tổ chức, công ước, hiệp định quốc tế có liên quan đến ISO 14001 và ISO 14024 và một số công việc khác mà tư nhân không thể đảm nhiệm được.Trên góc độ trực tiếp, Nhà nước khởi xướng chương trình, tiến hành tổ chức và quản lý chương trình, chỉ đạo các bộ nghành, các viện nghiên cứu phối hợp xây dựng, quản lý và thực hiện chương trình. Trong điều kiện Việt nam, khi tiềm lực tài chính còn yếu, Nhà nước còn có vai trò là nhà tài trợ, tạo điều kiện về cở sở vật chất cho chương trình được hoạt động mội cách hiệu quả nhất. 3.2. Cần xây dựng một cơ cấu tổ chức hoạt động hiệu quả. Để xây dựng được chương trình cần tập hợp rất nhiều chuyên gia, nhà khoa học, đại diện của ngành công nghiệp, hiệp hội thương mại, nhà sản xuất, tổ chức người tiêu dùng, tổ chức môi trường và các bên khác có liên quan. Bộ phận này sẽ thảo luận, đóng góp ý kiến trong quá trình lựa chọn sản phẩm và xây dựng tiêu chí. 3.3. Tổ chức cấp nhã môi trương nhanh chóng, xây dựng tiêu chí phù hợp Việc tổ chức cấp nhã phải nhanh chóng, muốn vậy cần có một cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, thủ tục hành chính thông thoáng và chỉ nên thông qua một cửa Các tiêu chí đánh giá về môi trường của sản phẩm, dịch vụ có những điểm chung và thống nhất ở tất cả các nước trên thế giới, nhưng cần được thiết lập và điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt nam. Yếu tố quyết định chất lượng của các tiêu chí là cơ sở khoa học của việc xác lập các tiêu chí đã Đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng và dễ áp dụng của các tiêu chí. 3.4. Cần phải có quá trình công khai và tư vấn thích hợp. Yêu cần về tính công khai và tư vấn thích hợp nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần quan trọng cho các hoạt động của chương trình đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của thực tế. Để ra quyết định cuối cùng về lựa chọn sản phẩm, chương trình cần dựa vào ý kiến của ban tư vấn, tổ chức đối thoại với các chuyên gia, cán bộ quản lý, trước hết là bộ tài nguyên và môi trường, bé thương mại, bộ công nghiệp, bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng. 3.5. Tổ chức đăng ký và cấp giấp chứng nhận. Đây là bước mang tính chất hành chính nhưng có có ý nghĩa rất quan trọng góp phần làm cho chương trình thực hiện một cách nhanh chóng có hiệu quả. Chính vì vậy nên cần quy định cụ thể sau bao nhiêu ngày khi đã nhận đơn của doanh nghiệp xin cấp nhãn thì sẽ đăng ký và cấp nhãn nhằm tránh tình trạng xin cho, điều này sẽ rất dễ dẫn tới tiêu cực. 3.6. Định ra mức phí hợp lý. Phí áp nhãn góp một phần bù đắp vào chi phí quản lý của chương trình nhưng trong điều kiện của Việt nam, cần định ra một mức phí phù hợp, nếu không sẽ làm cho chí phí của sản phẩm tăng lên mà người cuối cùng gánh chịu sẽ là người tiêu dùng. Khi giá tăng sẽ làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu giảm, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Điều này sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp dán nhãn môi trường. IV. KếT LUậN: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, sức mạnh cạnh tranh không chỉ còn là vấn đề nội hàm trong sản phẩm như chất lượng kiểu dáng, hay phạm vi của phòng Marketing, mà nó còn liên quan đến vấn đề trách nhiệm của nhà sản xuất, của sản phẩm đến môi trường-xã hội. Nhất là ở các nước phát triển, yêu cầu về mức độ thân thiết của sản phẩm với môi trường càng cao và trở thành một tiêu chí lựa chọn sản phẩm của người tiêu dùng. Mặt khác nó là một công cụ đắc lực giúp cho tập đoàn VINATEXT dễ dàng vượt qua rào cản thương mại phi thuế quan của các thị trường khó tính, thu được sù tin tưởng của đối tác, khách hàng và đạt được sự phát triển bền vững của mình. PHỤ LỤC Bảng 1: Danh sách 10 nước có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc810 moi truong.doc
Tài liệu liên quan