Đề tài Vấn đề vai trò của làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa huyện Sóc Sơn

Tài liệu Đề tài Vấn đề vai trò của làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa huyện Sóc Sơn: Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng, biểu, sơ đồ, hình vẽ Mở đầu Chương 1:Vai trò của làng nghề trong quá trình CNH-HĐH huyện Sóc Sơn. Tổng quan về làng nghề. Khái niệm và đặc điểm của làng nghề. Khái niệm. Đặc điểm. Phân loại làng nghề. Làng nghề truyền thống (LNTT) Làng nghề mới. Một số tiêu chí xác định làng nghề. Vai trò của LNTT trong quá trình CNH-HĐH nông thôn. Khôi phục và phát triển LNTT đã thu hút nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn. Khôi phục và phát triển LNTT đã thực sự tăng thu nhập cho lao động, cải thiện đời sống dân cư nông thôn. Sự phát triển của các LNTT đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, góp phần tăng trưởng , tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng, phong phú, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Phát triển nghề truyền thống đã góp phần bảo tồn truyền thống văn hoá dân tộc. Kinh nghiệm phát triển LNTT ở một số nước. Tình hình phát triển LNTT ở một số nư...

doc91 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề vai trò của làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa huyện Sóc Sơn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng, biểu, sơ đồ, hình vẽ Mở đầu Chương 1:Vai trò của làng nghề trong quá trình CNH-HĐH huyện Sóc Sơn. Tổng quan về làng nghề. Khái niệm và đặc điểm của làng nghề. Khái niệm. Đặc điểm. Phân loại làng nghề. Làng nghề truyền thống (LNTT) Làng nghề mới. Một số tiêu chí xác định làng nghề. Vai trò của LNTT trong quá trình CNH-HĐH nông thôn. Khôi phục và phát triển LNTT đã thu hút nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn. Khôi phục và phát triển LNTT đã thực sự tăng thu nhập cho lao động, cải thiện đời sống dân cư nông thôn. Sự phát triển của các LNTT đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, góp phần tăng trưởng , tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng, phong phú, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Phát triển nghề truyền thống đã góp phần bảo tồn truyền thống văn hoá dân tộc. Kinh nghiệm phát triển LNTT ở một số nước. Tình hình phát triển LNTT ở một số nước. Kinh nghiệm rút ra từ tình hình phát triển LNTT ở một số nước. Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề huyện Sóc Sơn. 2.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Sóc Sơn. 2.1.1. Điều kiện tự nhiên huyện Sóc Sơn. 2.1.2. TÌnh hình kinh tế xã hội huyện Sóc Sơn. 2.1.2.1. hững thành tựu đạt được. 2.1.2.2. Những tồn tại hạn chế. 2.2. Thực trạng phát triển các làng nghề huyện Sóc Sơn. 2.2.1. Thực trạng phát triển làng nghề huyện Sóc Sơn trước năm 2000. 2.2.2 Thực trạng phát triển làng nghề huyện Sóc Sơn sau năm 2000. 2.2.2.1. Số lượng làng nghề và quy mô của các làng nghề. 2.2.2.2. Hình thức tổ chức sản xuất và chúng Chương 1: Vai trò của công làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá huyện Sóc Sơn. 1.1.Tổng quan về làng nghề. 1.1.1.Khái niệm và đặc điểm làng nghề. 1.1.1.1. Khái niệm. Làng nghề là một cụm những hộ dân cư đang sinh sống trong một thôn (làng) cùng làm một nghề sản xuất ra một loại một sản phẩm, dịch vụ nào đó nhằm mục đích bán ra thị trường để thu lời. Trong làng nghề, công nông nghiệp kết hợp với nhau, vừa làm nông nghiệp, vừa làm nghề hoặc làm nghề nhưng “ly nông bất ly hương”. Nói đến làng nghề ta thường nghĩ ngay đến những làng làm nghề thủ công truyền thống như làng nghề lụa Vạn Phúc, làng gốm Bát Tràng, làng tranh Đông Hồ. Nghề thủ công là nghề sản xuất chủ yếu bằng tay và công cụ giản đơn với con mắt và bộ óc của nghệ nhân và thợ kỹ thuật. Đối với mỗi nghề được xếp vào các nghề thủ công truyền thống, nhất thiết phải có các yếu tố sau: Một là, đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta hoặc là một nghề mới từ địa phương khác mang đến song được các nghệ nhân ở nơi cũ truyền đạt lại kinh nghiệm và kỹ sảo kinh nghiệm. Hai là, sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề. Ba là, có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề. Bốn là, kỹ thuật sản xuất tinh vi, chứa nhiều yếu tố kinh nghiệm từ đời sang đời khác và công nghệ khá ổn định. Năm là, sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ yếu nhất. Nhìn chung nghề truyền thống được hình thành gắn liền với điều kiện tự nhiên của vùng (đất đai, khí hậu, môi trường…) và như vậy nó gắn bó với vùng nguyên liệu có tình đặc thù cho sản xuất. Sáu là, sản phẩm sản xuất ra mang tính chất độc đáo vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá văn nghệ kỹ thuật mỹ thuật mang bản sắc văn hoá dân tộc, có giá trị chất lượng cao và có vị trí cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Bảy là, là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng, có đóng góp đáng kể về kinh tế và ngân sách nhà nước, dồng thời nó còn sử dụng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp nông thôn và lao dộng thành thị. Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ công, ở đây không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công cũng đồng thời là người làm nghề nông. Làng nghề là trung tâm sản xuất ra hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính chất truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ nhau trong sản xuất, kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ và bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn có ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Làng nghề thủ công được công nghiệp hoá, có những nét khác biệt so với doanh nghiệp nghề nghiệp. Trước hết, doanh nghiệp nghề nghiệp là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, sản xuất tập trung theo một kế hoạch chung, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, còn làng nghề không có tư cách pháp nhân, các hộ gia đình trong làng không được tổ chức phối hợp chặt chẽ, sản xuất phân tán, mạnh ai lấy làm, tuy nhiên lại tận dụng được nhân lực rỗi rãi, thời gian rỗi rãi và địa điểm sản xuất. 1.1.1.2. Đặc điểm. Thứ nhất, rất nhiều nghề thủ công truyền thống đã ra đời và phát triển rực rỡ trên các miền quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ, làng nghề thường gắn liền với nông thôn, các làng nghề thủ công tách dần khỏi nông nghiệp nhưng không tách khỏi nông thôn. Thứ hai, kỹ thuật công nghệ sản xuất được truyền từ đời này sang đời khác có tính chất gia truyền. Công cụ lao động trong làng nghề đa số là công cụ thủ công truyền thống, thô sơ. Thứ ba, hình thức tổ chức sản xuất hộ gia đình, người chủ gia đình thường đồng thời là thợ cả mà trong số họ không ít nghệ nhân, còn những thành viên trong hộ được huy động vào làm những việc khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào khả năng kỹ thuật của từng người, vào giới tính hay lứa tuổi. Gia đình có thể thuê mướn lao động trong và ngoài làng. Cá biệt có những lao động ở ngoại tỉnh thường xuyên hoặc theo thời vụ, tạo thành một số làng nghề ở vùng lân cận. Thứ tư, làng nghề thường ở các làng quê gắn liền với sản xuất nông nghiệp nông thôn nên nguồn vốn trong dân không nhiều. Hơn nữa, hệ thống tín dụng ở các vùng này hầu như chưa phát triển nên vốn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, hiện đại hoá trong thiết bị sản xuất, tìm và nghiên cứu thị trường, tiêu thụ sản phẩm ở các làng nghề còn hạn chế. Thứ năm, các loại sản phẩm thường có một số sản phẩm mang tính nghệ thuật cao. Mặt khác, sản phẩm thường không phải do sản xuất hàng loạt mà có tính đơn chiếc nên có tính độc đáo và khác biệt cao. Các sản phẩm của làng nghề truyền thống là sự kết tinh, sự bảo lưu và phát triển của các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Phân loại làng nghề. Có rất nhiều tiêu chí có thể được sử dụng để phân loại làng nghề. Căn cứ vào thời gian tồn tại và phát triển có thể chia làng nghề thành hai loại. Làng nghề truyền thống (cổ truyền). Làng nghề truyền thống (LNTT) hình thành do các nghệ nhân truyền nghề. Những nghệ nhân này thường được suy tôn là tổ nghề. Các làng nghề nổi tiếng nhất ở đồng bằng Bắc Bộ đều được hình thành như vậy và có tuổi nghề rất cao, từ một vài trăm năm đến hàng nghìn năm. Lụa Hà Đông, với làng dệt lụa Vạn Phúc lừng danh đã từng xuất hiện từ thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, do bà Lã Thị Nga - tổ nghề - truyền dạy cho dân làng. Tính đến nay đã tồn tại và phát triển khoảng 1700 năm. Làng Gốm Bát Tràng có lịch sử hình thành, phát triển đã 500 năm nay. LNTT ra đời và phát triển nhằm đáp ứng một nhu cầu của xã hội. Ví dụ như ở Thăng Long có làng nghề Nghĩa Đô chuyên làm giấy sắc rồng vì các triều vua có nhu cầu viết giấy chiếu sắc, hay La Khê có nghề dệt the phục vụ cho nhu cầu may mặc. Ngày nay, sự biến động của thị trường có tác động mạnh mẽ tới các làng nghề, các LNTT phát triển theo các xu thế: Ø Nhóm các làng nghề dần bị mai một do sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của thị trường hoặc nhu cầu thị trường về sản phẩm làng nghề bị hạn chế như làng Chuông, làm nón lá, làng nghề đan quạt nan, mành cọ, đan rổ rá, làng pháo Bình Đa. Nhóm này có hai xu thế có thể phát triển. Thứ nhất, nếu không thể khôi phục và phát triển nghề cũ thì làng nghề có thể chuyển sang làm các nghề mới, có đặc điểm sản xuất phù hợp với người thợ thủ công. Thứ hai, có thể tìm thị trường tiêu thụ mới, hoặc giá trị sử dụng mới cho sản phẩm làng nghề. Ø Nhóm các LNTT cần được bảo tồn như làng nghề đúc đồng, nghề nặn Tò He, làng vẽ tranh dân gian…Sản phẩm không có tính hàng hoá, thị trường nhưng mang yếu tố truyền thống văn hóa dân tộc cần phải có chính sách bảo tồn để không bị thất truyền. Ø Nhóm các LNTT phát triển tốt do sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường như các làng dệt, làng nghề chế biến nông sản, làm đồ gỗ nội thất gia đình, hàng mây tre đan… Tuy nhiên, không phải cứ ngành nghề nào kém phát triển thì mọi làng nghề làm nghề đó đều bị mai một, tan rã đi, mà có thể có làng nghề sản xuất mặt hàng đó vẫn tồn tại và có khi còn phát triển được. Ví dụ như trong khi làng gốm Thổ Hà (Bắc Ninh) bị sa sút mạnh mẽ thì làng nghề Gốm Bát Tràng (Hà Nội) lại phát triển lan toả ra cả một vùng lân cận tạo nên xã nghề. Mặt khác, những làng nghề có xu hướng phát triển tốt cũng luôn phải đối diện với những khó khăn như sự cạnh tranh khốc liệt của lụa tơ tằm Vạn Phúc với lụa tơ tằm công nghiệp của Trung Quốc về mẫu mã cũng như chất lượng vải và các đặc tính nổi trội như độ bóng, độ nhàu, độ dai… Chính vì vậy, đòi hỏi các làng nghề cần phải luôn luôn cố gắng đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã để đáp ứng nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai, đều do thị trường quyết định. Hay nói cách khác, là sản xuất và bán cái mà người ta cần chứ không phải sản xuất và bán cái mà mình có.Vậy cái chính ở đây là sản phẩm của làng nghề phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường về kiểu dáng, chất lượng, giá cả thì mới có cơ hội phát triển được. Làng nghê mới. Làng nghề mới được hình thành bằng nhiều con đường, nhưng chủ yếu do sức ép về kinh tế, đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy sự hình thành làng nghề mới ra đời. Các làng nghề mới thường có vị trí địa lý, nằm ở nơi có đất chật, người đông, chất đất hoặc khí hậu không phù hợp nên nghề nông khó có điều kiện phát triển, không đảm bảo thu nhập cho người nông dân. Với tốc độ đô thị hoá như hiện nay, các làng nghề ven đô, làng ven thị trường bị mất đất sản xuất để xây dựng các khu đô thị, nhà máy, xí nghiệp, đường giao thông và các công trình khác. Cần phải tạo ra công ăn việc làm cho những người nông dân bị thất nghiệp này để họ ổn định cuộc sống và không trở thành gánh nặng cho xã hội. Nghề thủ công truyền thống (TCTT) là một trong những lựa chọn phù hợp nhất vì nghề này có nhiều công đoạn cần sử dụng nhiều lao động, thời gian đào tạo để biết làm nghề về cơ bản là ngắn và thích hợp với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi lao động. Mặt khác, đặc điểm của nghề nông là sau khi trồng trọt, chăm bón cần một khoảng thời gian cho cây hấp thụ tăng trưởng, đó chính là những lúc người nông dân rỗi rãi, nông nhàn. Tận dụng thời gian này để làm nghề thủ công tăng thu nhập thì thật là thích hợp. Các con đường hình thành nghề mới: Ø Một số làng nghề hình thành trên cơ sở sự lan toả dần từ một số LNTT, tạo thành một số làng nghề ở vùng lân cận LNTT. Ø Một số làng nghề gần dây mới hình thành một cách có chủ ý do chủ trương phát triển nghề phụ hay còn nói là cấy nghề mới. Các nghệ nhân, thợ thủ công lành nghề ở địa phương khác về dạy nghề và phổ biến kinh nghiệm sản xuất cho dân địa phương. Ø Một số làng nghề cổ truyền cũ bị mai một chuyển sang làm nghề mới nhằm tận dụng các điều kiện sẵn có và kỹ thuật tay nghề khéo léo của đội ngũ thợ thủ công trong làng để bù đắp khoản thu nhập đã bị mất do nghề cũ. Ø Một số làng nghề hình thành từ một số cá nhân hay gia đình có những kỹ năng và có sự sáng tạo nhất định. Từ sự sáng tạo đó, quy trình sản xuất và sản phẩm của họ không ngừng được hoàn thiện, Tiêu biểu cho hình thức này là sự phát triển của tranh thêu Đà Lạt. Những làng nghề mới được hình thành chủ yếu là những nghề có tiềm năng phát triển nên sản phẩm ít nhiều đã có chỗ đứng trên thị trường. Tuy nhiên, như ta đã biết chất lượng của sản phẩm nghề truyền thống chịu ảnh hưởng rất lớn vào tay nghề kỹ thuật của các nghệ nhân. Làng nghề mới thì đội ngũ nghệ nhân lành nghề được đào tạo bài bản không nhiều, trong khi đó các bí quyết công nghệ kỹ thuật ở các LNTT thường được truyền từ đời này sang đời khác có tính chất gia truyền. Do đó, sản phẩm của các làng nghề mới sản xuất ra thường không tinh tế bằng sản phẩm của làng nghề gốc làm ra, dẫn đến giá trị sản phẩm trên thị trường cũng thấp hơn hẳn. Các tiêu chí xác định làng nghề. Khái niệm về tiêu chí: Tiêu chí là một thuật ngữ khoa học xuất hiện và được sử dụng nhiều trong khoảng 30 năm nay. Tiêu chí là đặt ra những điều kiện cần và đủ làm cơ sở xem xét sự vật. Xây dựng tiêu chí làng nghề là tìm ra những điều kiện cần, những cơ sở chuẩn mực để từ đó xem xét đánh giá một làng nghề. Cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định tiêu chí làng nghề là dựa trên những thành tố cơ bản để liên kết bên trong ở các làng nghề, đồng thời dựa vào đặc điểm các làng nghề CN-TTCN, cho phép chúng ta nhận thấy rằng trong các làng nghề gồm sáu thành tố gắn kết chặt chẽ với nhau để tạo thành những tiềm năng vững chắc cho sự phát triển mỗi làng nghề. Một là, biên độ dao động số hộ làm nghề TTCN các làng nghề trên chiếm 60%-80% số hộ trong làng. Hai là, biên độ dao động số hộ làm một nghề chính ở làng chiếm từ 65%-90% so với tổng số hộ làm nghề TTCN. Tên của làng nghề được gọi bằng chính tên của nghề chính đó. Ba là, có ý kiến cho rằng cần xem xét tỷ trọng giá trị doanh thu của TTCN trong tổng doanh thu của làng trong năm, coi đó là một tiêu chuẩn xem xét công nhận một làng nghề. Thực tiễn cho thấy, xác định tỷ trọng TTCN ở làng trong tổng giá trị kinhh tế trong một năm là rất khó, bởi lẽ sản phẩm của làng nghề luôn luôn biến động theo mùa vụ, những con số đưa ra chỉ là ước tính. Bốn là, ở những LNTT, những người cùng làm nghề có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau trong tình cảm cộng đồng, làng xóm. Một số làng xã đã tổ chức ra hội ngành nghề giữ vai trò liên kết những người làm nghề dịch vụ liên quan đến nghề, làng nghề. Đồng thời quy tụ những người cùng nghề, tổ chức sinh hoạt văn hoá nghề ở nhà thờ tổ, hoặc đình làng, đền. Năm là, thực tiễn cho thấy ở các làng nghề, quá trình lao động, làm ra sản phẩm, lực lượng lao động đã tự phân công thành các lớp thợ với trình độ tay nghề khác nhau. Lớp thợ giỏi được người thợ tôn vinh là thợ cả, có nơi tôn vinh là nghệ nhân. Dưới thời bao cấp, nhà nước đã phong tặng một số các nghệ nhân danh hiệu “bàn tay vàng”. Số thợ giỏi của các làng nghề chiếm từ 5%-20% lao động chính. Số thợ cả, nghệ nhân ở các làng nghề đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo lưu yếu tố truyền thống cũng như cách thức đẩy nghề phát triển, họ cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ thực tiễn lao động, tự họ gây được uy tín đối với người làng, góp phần truyền nghề cho lớp trẻ, giữ gìn sự đoàn kết, tham gia điều hành các vấn đề KT-XH ở làng, uy tín của một làng nghề gắn với vai trò, trách nhiệm của lớp thợ và các nghệ nhân dày dặn kinh nghiệm, tinh thông nghề nghiệp. Từ việc phân tích các thành tố gắn kết trong làng nghề đã giúp chúng ta tìm ra một mẫu số chung định hình khá rõ ở các làng nghề điển hình. Từ đó, chúng ta có thể có được những tiêu chí xác định về một làng nghề như sau: Số hộ và số lao động làm nghề TTCN ở làng đạt từ 50% trở lên so với số hộ và lao động của làng. Số hộ làm nghề chính ở làng chiếm tỷ lệ trên 50% tổng thu nhập của làng trở lên so với hộ làm nghề TTCN và nghề chính ấy là tên gọi của làng nghề. Có tỷ trọng giá trị thu nhập TTCN ở làng đạt trên 50% trong một năm lao dộng. Có tổ chức điều phối các hoạt động KT –XH ở làng nghề, phường hội, HTX, câu lạc bộ, ban quản lý mang tính tự quản do người trong làng bầu ra. Có địa điểm là trung râm sinh hoạt KT-XH của làng nghề liên quan đến hoạt động của làng nghề. Sản phẩm làm ra có tính mỹ thuật cao, mang đậm nét yếu tố văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam. Sản phẩm có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các tiêu chí trên được xây dựng xuất phát từ cơ sở khoa học và thực tiễn để các cấp chính quyền căn cứ vào đó lập hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền công nhận danh hiệu làng nghề. Về tiêu chí nghề truyền thống, LNTT thì cho đến nay chưa có những tiêu chí được quy định một cách chính thức để xác định thế nào là nghề truyền thống, LNTT, song cách hiểu phổ biến hiện nay là: Ø Nghề truyền thống: bao gồm những nghề tiểu thủ công có từ trước thời Pháp thuộc, còn đến nay, kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng máy móc hiện đại trong sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống. Ø LNTT: là những làng có 50 hộ hoặc có từ 1/3 số hộ hoặc lao động cùng làm một nghề truyền thống. Ø Xã nghề truyền thống: là một xã mà ở đó không chỉ có một làng mà có nhiều làng cùng làm một nghề truyền thống. Ø Phố nghề truyền thống: là những LNTT được đô thị hoá hoặc do nhiều lao động từ LNTT ra đô thị lập nghiệp tập trung lại thành phố nghề. Xã nghề truyền thống, phố nghề truyền thống thường được gọi chung là LNTT. LNTT là một vấn đề lớn, cần nghiên cứu để có các chủ trương, chính sách thích hợp, thúc đẩy hình thành các làng nghề phù hợp với tính chất của ngành nghề thủ công và tập quán của nhân dân ta. Từ những phân tích ở trên có thể hiểu rằng, ngành nghề truyền thống là những ngành nghề TTCN đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế của nước ta còn tồn tại đến ngày nay. Bao gồm cả ngành nghề mà phương pháp sản xuất được cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống. Do sự phát triển của khoa học công nghệ nên nhiều sản phẩm mới ra đời ưu thế hơn những sản phẩm truyền thống. Vì thế mà ngành nghề truyền thống dần dần bị mất đi, và một số ngành nghề mới xuất hiện để phù hợp với sự đòi hỏi khách quan của thị trường về cơ cấu, chất lượng, chủng loại sản phẩm. Đối với những nghề được xếp vào ngành nghề TCTT cần phải có những yếu tố sau: Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta. Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề. Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề. Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định của dân tộc Việt Nam. Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, chủ yếu là trong nước. Sản phẩm làm ra mang tính chất truyền thống độc đáo, bản sắc của Việt Nam. Là nghề nuôi sống bộ phận dân cư, cộng đồng, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Có thể phân chia ngành nghề truyền thống ở nông thôn thành ba nhóm chính: Nhóm một: Chế biến nông lâm, thủy sản Nhóm hai: CN-TTCN & XD. Nhóm ba: Dịch vụ. Vai trò của LNTT trong quá trình CNH, HĐH nông thôn. Vai trò của LNTT là một trong những vấn đề có tính thời sự cấp bách đang đặt ra hiện nay ở nông thôn nước ta. Nông thôn Việt Nam với dân số chiếm 73.2% dân số cả nước, nơi đây chiếm 56.8% lao động của cả nước. Và nông thôn cũng chính là nơi có tỷ lệ nghèo đói chiếm phần lớn số người nghèo của cả nước. Một số vai trò của LNTT như sau: Khôi phục và phát triển LNTT đã thu hút nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn. Giải quyết việc làm cho lao động là vấn đề bức xúc số một hiện nay, bởi dân số và lao động gia tăng nhanh, diện tích đất canh tác trên đầu người thấp và ngày càng thu hẹp, khả năng thu hút lao động hiện rất thấp, tỷ lệ thất nghiệp và bán thất nghiệp cao. Bảng 1: Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn. Đơn vị : % Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị 6.4 6.3 6 5.8 5.6 5.3 Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn 74.2 74.3 75.3 77.7 79.4 80.6 Nguồn: TCTK. Trong thời gian qua, ngoài kết quả tích cực nổi bật về mặt sử dụng số lượng lao động ở thành thị: tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị đã liên tục giảm xuống thì chúng ta đã đạt được một số kết quả tích cực khác về mặt sử dụng số lượng lao động và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong tuổi lao động ở nông thôn đã liên tục tăng lên. Kết quả này càng có ý nghĩa khi đạt được trong điều kiện dân số và số người đến tuổi lao động thời gian qua vẫn còn rất lớn. Mặc dù tốc độ tăng dân số giảm từ 1.86% năm 1991 xuống còn 1.65% năm 1995, còn 1.36% (2000), 1.33% (2005), nhưng quy mô dân số năm 2005 đã lên tới 83.127 nghìn người, tăng 15.879,3 nghìn người so với năm 1991. Bình quân một năm tăng 1.058,6 nghìn người. Số người đến tuổi lao động hàng năm vẫn còn rất lớn, lên đến trên 1 triệu người, tạo ra sức ép lớn về giải quyết việc làm, lao động. Như vậy, giải quyết việc làm cho số lao động đang thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động đến tuổi lao động… là vấn đề bức xúc đang được đặt ra. Đặc biệt, khu vực nông thôn với gần 75% dân số và với tỷ lệ thất nghiệp xấp xỉ 20%, thì vai trò của các làng nghề đống góp vào việc giải quyết việc làm cho người lao động là rất quan trọng. Bởi trong các ngành nghề TCTT, lao động sống thường chiếm tỷ lệ tới 60%-65% giá thành sản phẩm, nên việc phát triển các làng nghề sẽ phù hợp với yêu cầu giải quyết việc làm cho người lao động đang ngày càng dư thừa một cách nhanh chóng ở nông thôn. Sự phát triển làng nghề không những chỉ thu hút lao động dư thừa ở gia đình mình, làng xã mình, mà còn có thể thu hút được nhiều lao động từ các địa phương khác đến làm thuê. Không những thế, sự phát triển các làng nghề còn kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề dịch vụ khác, tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Phát triển ngành nghề truyền thống ở nông thôn trong những năm qua không những đã góp phần tăng trưởng, tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng, phong phú phục vụ người tiêu dùng và xuất khẩu, mà còn thu hút nhân lực, giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy phân công lao động. Giảm tỷ trọng dân cư và lao động nông nghiệp đến năm 2010 còn 50% như Nghị quyết đại hội IX của đảng đề ra. Sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của các hộ gia đình, các làng nghề, hội nghề, các hộ ngành nghề, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn đã có tác dụng tích cực về nhiều mặt đến quá trình phát triển KT-XH và ngày càng trở thành động lực mang tính nội sinh thúc đẩy quá trình phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Như vậy, với sự phát triển ngành nghề truyền thống ở nông thôn, thu nhập của người dân ngày càng được nâng cao từ sản xuất hàng hoá phi nông nghiệp thu hút một bộ phận lớn nông dân chuyển hẳn sang hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp theo phương châm “ly nông bất ly hương”. Và cũng có tác động lớn trong việc tạo việc làm cho nông dân vào các tháng nông nhàn. Điều này có tác động lớn hạn chế dòng người ồ ạt tự phát kéo ra các thành phố, thị xã gây ra hậu quả khó lường. Khôi phục và phát triển LNTT đã thực sự tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống dân cư nông thôn. Ở những địa phương, ngành nghê truyền thống được mở mang cùng với sự chuyển dịch rõ rệt về cơ cấu lao động, và từ kinh tế hộ thu nhập của các hộ nông dân cũng đang có những chuyển biến tích cực theo hướng: thu nhập từ hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và tiền công làm thuê ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập trong tổng thu nhập từ hoạt động kinh tế nói chung củ hộ nông đân. Đặc biệt là những nơi biết khai thác các tiềm năng và thế mạnh về ngành nghề truyền thống về đội ngũ nghệ nhân, thợ lành nghề; nắm bắt được nhu cầu thị trường , có khả năng tiếp thị và liên doanh, liên kết để mở rộng thị trường thì sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH rõ nét. Các hoạt động ngành nghề thực sự đã được xem như động lực của sự tăng trưởng, tạo việc làm mới, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho bản thân người lao động cũng như mỗi gia đìnhvà cả cộng đồng. Mặc dù ngành nghề nông thôn còn đang gặp nhiều khó khăn trên con đường phát triển nhưng qua kết quả và bước đầu đã đạt được ở không ít những địa phương, người nông dân nông thôn đã hiểu rằng: nếu chỉ làm thuần nông, độc canh cây lúa thì giỏi nhất cũng chỉ đủ ăn, còn muốn làm giàu lên thì phải kết hợp hoặc chuyển hẳn sang các hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành nghề có khả năng tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước hoặc phụ vụ cho xuất khẩu. Ở hầu hết các làng nghề, đặc biệt là các LNTT đã được khôi phục và phát triển đều giàu có hơn các làng thuần nông khác trong vùng. Ở các làng nghề, tỷ lệ hộ khá giàu lên thường cao, không có hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo rất thấp, thu nhập từ ngành nghề chiếm đại bộ phận tổng thu nhập của dân cư trong làng, hệ thống công trình công cộng, kết cấu hạ tầng phát triển, nhà cửa cao tầng của các hộ dân mọc lên san sát và ngày một gia tăng, tỷ lệ số hộ có các loại đồ dùng tiện nghi đắt tiền chiếm tỷ trọng khá. Ngoài ra, sự phát triển mạnh mẽ các hộ ngành nghề, các doanh nghiệp nhỏ, các cơ sở chuyên ngành nghề, các hộ nghề, làng nghề ở nông thôn một mặt tạo ra cơ hội giải quyết việc làm, tăng thu nhập và sức mua cho nông dân; mặt khác, đóng vai trò tích cực trong việc thay đổi tập quán từ sản xuất nhỏ, phân tán, độc canh, tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá nông nghiệp đa canh, kết hợp sản xuất nông nghiệp với phát triển ngành nghề, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Sự phát triển của các LNTT đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, góp phần tăng trưởng (GDP), tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng phong phú, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Phát triển LNTT nông thôn góp phần tăng trưởng, tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng và phong phú phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, là một trong những nội dung quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước. Bảng 2: Cơ cấu kinh tế Việt Nam qua các năm. Đơn vị: % Năm Tỷ trọng 1993 1997 1998 2000 2003 2005 NN 29.69 25.77 25.98 24.3 22.5 20.9 CN-XD 28.63 32.07 32.7 36.6 39.5 41 DV 42.28 42.15 41.32 39.1 38 38.1 Nguồn: TCTK. Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam năm 2005 chỉ tương đương với cơ cấu ngành kinh tế của những nước trong khu vực Đông Nam Á vào những năm 80 của thế kỷ trước và hiện vẫn lạc hậu hơn cơ cấu kinh tế của những nước này. Bảng 3: Số lao động và cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế. 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. Tổng số lao động (nghìn người) 37609.6 38562.7 39507.7 40573.8 41590 42710 NN-LN-TS 24481 24468.4 24455.8 24443.4 24730.7 24259.3 CN-XD 4929.7 5551.9 6084.7 6670.5 7216.5 7645.1 DV 8198.9 8542.4 8967.2 9459.9 9639.1 10805.6 2. Tỷ trọng (%) 100 100 100 100 100 100 NN-LN-TS 65.09 63.45 61.90 60.24 59.46 56.80 CN-XD 13.11 14.40 15.40 16.44 17.35 17.90 DV 21.80 22.15 22.70 23.32 23.18 25.30 Nguồn: TCTK. Cơ cấu lao động nông thôn thay đổi, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm từ 65.09% năm 2000 xuống còn 56.80% năm 2005, tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp tăng, CN-XD tăng từ 13.11% năm 2000 lên 17.90% năm 2005, DV tăng từ 21.80% năm 2000 lên 25.30% năm 2005. Góp phần phân bố lao động hợp lý theo hướng “ly nông bất ly hương”. Sự phát triển LNTT đã phá vỡ thế thuần nông và tạo đà cho công nghiệp phát triển, thúc đẩy CNH-HĐH nông nghiệp, kinh tế nông thôn. Việc khôi phục các nghề và các LNTT, phát triển các làng nghề mới, sản phẩm mới, các doanh nghiệp nhỏ, các ngành nghề ở nông thôn một mặt tạo ra việc làm, tăng thu nhập và sức mua cho người dân nông thôn, mặt khác đóng vai trò tích cực trong việc thay đổi tập quán sản xuất từ sản xuất nhỏ, phân tán, độc canh tự cung tự cấp sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá, đa canh, kết hợp sản xuất nông nghiệp với công nghiệp dịch vụ, thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường hàng hoá, thị trường vốn, thị trường lao động trong nông thôn. Các làng nghề sẽ là cầu nối giữa công nghiệp lớn hiện đại với nông nghiệp phi tập trung, làm tiền đề để xây dựng công nghiệp lớn, hiện đại, là bước trung gian chuyển từ nông thôn thuần nông, nhỏ lẻ, phân tán lên công nghiệp lớn, hiện đại, đô thị hoá. Làng nghề sẽ là điểm thực hiện tốt phân công lao động tại chỗ, là nơi tạo ra sự kết hợp nông-công nghiệp có hiệu quả. Sự phát triển của các làng nghề là một trong những hướng rất quan trọng để thực hiện việc chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới theo hướng CNH-HĐH. Tỷ trọng GDP của CN-TTCN, DV tăng lên trong tổng GDP được tạo ra ở nông thôn. Tỷ trọng nông nghiệp giảm trong khi sản lượng lương thực vẫn tăng lên. Thu nhập của các hoạt động phi nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập từ hoạt động kinh tế của người dân nông thôn. Trên cơ sở tạo thêm được việc làm, tăng thu nhập các hoạt động ngành nghề được coi như là một động lực trực tiếp làm chuyển dịch cơ cấu KT-XH nông thôn theo hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, xoá hộ đói, nâng cao phúc lợi và ổn định xã hội. Hiện nay, sản phẩm của ngành nghề nông thôn đang có triển vọng phát triển rất rộng lớn: Thị trường trong nước với 83.1217 triệu dân (2005) tiếp tục là thị trường quan trọng nhất của công nghiệp nông thôn. Nhiều sản phẩm tiêu thụ tại chỗ (vật liệu xây dựng, công cụ cầm tay phục vụ sản xuất nông nghiệp, một số sản phẩm chế biến lương thực, thực phẩm, hàng gia dụng). Nhiều sản phẩm có nhu cầu ngày càng tăng trong sự tăng trưởng kinh tế va đời sống nhân dân được nâng cao. Thị trường du lịch có tiềm năng lớn đối với ngành nghề thủ công nghiệp. Số khách nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng, số người Việt Nam đi du lịch trong nước và nước ngoài cũng tăng nhanh, do đó sản phẩm quà lưu niệm của công nghiệp nông thôn hàng năm có thể bán cho khách du lịch ngày một tăng nhanh. Bảng 4: Số lượng và tốc độ tăng khách du lịch vào Việt Nam qua các năm. Năm Tổng số Nghìn lượt người Tốc độ tăng (%) 1997 1715.6 6.7 1998 1520.0 -11.4 1999 1781.8 17.2 2000 2140.1 20.1 2001 2330.8 8.9 2002 2628.2 12.8 2003 2429.7 -7.6 2004 2927.9 20.5 2005 3467.8 18.4 Nguồn: TCTK. Thị trường xuất khẩu của công nghiệp nông thôn cũng có tiềm năng lớn. Về lâu dài, thị trường xuất khẩu là thị trường quan trọng vì các nước phát triển giá nhân công đắt, sản phẩm công nghiệp chủ yếu là bằng máy móc, vì vậy các sản phẩm mang tính chất thủ công với kỹ xảo điêu luyện là rất có giá. Phát triển nghề truyền thống đã góp phần bảo tồn truyền thống văn hoá dân tộc. Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử phát triển nền văn hoá Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử phát triển các làng nghề. Văn hoá làng với các thể chế cộng đồng chứa đựng những quan hệ huyết thống, láng giềng, hôn nhân, nghề nghiệp, với các phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội mang đậm những sắc thái riêng đã tạo nên bản sắc truyền thống văn hoá phong phú, sâu đậm của dân tộc Việt Nam. Lịch sử nông thôn Việt Nam đã ghi nhận, sự hình thành và phát triển của các LNTT là một trong những thành tố quan trọng tạo nên những nét đặc sắc của văn hoá làng. Mỗi làng nghề đều thờ cúng một thành hoàng làng, hoặc một ông tổ nghề riêng, với những lễ hội, phong tục, tập quán và những luật lệ riêng. Có nhiều nghề, LNTT ở nước ta đã nổi bật lên trong lịch sử văn hoá, văn minh Việt Nam. Nhiều sản phẩm của các làng nghề sản xuất ra mang tính nghệ thuật cao, mang tính riêng có của làng nghề, và những sản phẩm đó đã vượt qua giá trị hàng hoá đơn thuần, trở thành sản phẩm văn hoá, là những bảo vật được coi là biểu tượng đẹp đẽ của truyền thống dân tộc Việt Nam. Ngành nghề truyền thống, đặc biệt là các nghề thủ công mỹ nghệ, chính là di sản quý giá mà ông cha ta đã tạo lập và để lại cho các thế hệ sau. Làng nghề là cả một môi trường kinh tế, xã hội, văn hoá. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, hun đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài ba và những sản phẩm độc đáo mang bản sắc riêng. Nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam thông qua những mặt hàng TCTT đặc sắc. Bởi vậy, bảo tồn và phát triển các làng nghề góp phần đắc lực vào việc giữ gìn các giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH. LNTT là một cụm dân cư sinh sống tạo thành làng quê hay phường hội. Đó chính là cộng đồng nhỏ về văn hoá. Những phong tục, tập quán, đền thờ, miếu mạo,., của mỗi làng, xã vừa có nét chung của văn hoá dân tộc Việt Nam, vừa có nét riêng của mỗi làng quê, làng nghề. Các sản phẩm của LNTT làm ra là sự kết tinh, sự giao lưu giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm nét văn hoá dân tộc thể hiện khá đậm nét qua các bức hoạ điêu khắc trạm trổ. Những sản phẩm đó làm cho sản phẩm làng nghề vừa mang nét đặc sắc riêng biệt, vừa mang những nét tương đồng với các dân tộc khác trên thế giới. Rõ ràng những sản phẩm của LNTT là dấu ấn di sản văn hoá quý báu mà ông cha ta đã để lại cho thế hệ sau. Vì vậy, trong quá trình CNH nếu không có ý thức bảo tồn nghề TCTT thì những nét văn hoá độc đáo đó sẽ bị mai một. Cho nên, việc duy trì ngành nghề truyền thống là rất cần thiết vì các sản phẩm TCTT có giá trị đặc biệt, nó mang trong mình bản sắc văn hoá dân tộc mà các dân tộc khác không có được. Mặt khác, các sản phẩm TCTT là bức thông điệp bền vững của một dân tộc được lưu truyền lại cho các thế hệ sau. Kinh nghiệm phát triển LN TCTT ở một số nước. 1.3.1. Tình hình phát triển LNTT ở một số nước. Trung quốc: nghề thủ công ở Trung Quốc có từ lâu đời và nổi tiếng như đồ gốm, dệt vải, dệt lụa tơ tằm, luyện kim, nghề làm giấy. Đầu thế kỷ XX cả nước có khoảng 10 triệu thợ thủ công làm việc trong các làng nghề, trong các hộ gia đình. Đến năm 1953, số người làm TTCN được tổ chức vào HTX (sau phát triển thành xí nghiệp Hương Trấn). Xí nghiệp Hương Trấn là tên gọi chung của các xí nghiệp công, nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải..hoạt động ở khu vực nông thôn, bắt đầu xuất hiện vào đầu năm 1978 khi Trung Quốc thực hiện chính sách mở cửa. Tiền thân của xí nghiệp Hương Trấn được bắt nguồn từ những cơ sở TTCN có truyền thống lâu đời trong lịch sử Trung Quốc. Đó là những phường hội, cơ sở thủ công nghiệp và làm nghề phụ như thêu ren, cán bóng, xay xát.. đã có từ lâu đời và bước đầu thoát ly khỏi nông nghiệp. Xí nghiệp Hương Trấn phát triển mạnh mẽ, thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo của Trung Quốc trong quá trìh thực hiện chiến lược CNH, lựa chọn con đường đi lên CNXH. Thái Lan: là một nước có nghề TCTT, hàng hoá xuất khẩu vào loại khá của khu vực. Các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như chế tác vàng bạc, đá quý, đồ trang sức được duy trì và phát triển. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ, vàng bạc, đá quý năm 1990 đạt gần 2 tỷ USD. Nghề gốm cổ truyền những năm gần đây phát triển, sản phẩm có chất lượng cao, cạnh tranh trên thị trường thế giới và trở thành mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ lớn. Vùng gốm Chiềng Mai được xây dựng thành trung tâm quốc gia với ba mặt hàng truyền thống: gốm công nghiệp, gốm mới được sản xuất trong 2 xí nghiệp chính và 72 xí nghiệp lân cận. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, chính phủ Thái Lan đã tích cực xúc tiến các chương trình nâng cao tay nghề cho công nhân của 93 xí nghiệp, Gốm Chiềng Mai và Lam Dang. Bên cạnh đó, nghề kim hoàn, chế tác ngọc,, chế tác đồ gỗ tiếp tục được phát triển, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn. Từ kế hoạch 5 năm lần thứ IV (1977-1981), chính phủ Thái Lan đã chuyển chính sách CNH tập trung sang thực hiện chính sách phân tán hoá không gian công nghiệp, chú trọng phát triển công nghiệp nông thôn. Vì vậy, ở Thái Lan có rất nhiều xí nghiệp gia công sản xuất đã được xây dựng ở nông thôn. Ngoài ra, chính phủ còn khuyến khích các doanh nghiệp ở thành phố và nông thôn xây dựng xí nghiệp, nhất là xí nghiệp gia công nông sản phẩm và thủ công nghiệp. Nhờ vậy, sản phẩm xuất khẩu của Thái Lan được mở rộng (ngoài các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, ngô, cao su, đường, ở nông thôn còn có thêm mặt hàng xuất khẩu mới như hải sản đông lạnh, gia cầm, hoa quả tươi, chế biến rau xanh…). Bên cạnh đó, Thái Lan còn có phong trào “one Tambon, one product” hay còn gọi là “Thai Tambon project” (tiếng Thái “Tambon” nghĩa là làng). Đây được gọi là mỗi làng một sản phẩm, được phát động sau khi thủ tướng Thái Lan đi thăm cửa hàng “one village, one product” tại Nhật Bản. Chương trình này được giới thiệu tại Thái Lan vào năm 1999, chính thức đi vào hoạt động vào 10/2001. Trong chương trình này, chính Phủ Thái Lan đã hỗ trợ mỗi làng làm ra một sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng và có chất lượng cao, chủ yếu hỗ trợ ở khâu tiếp thị, xúc tiến bàn hàng, huấn luyện và chuyển giao công nghệ cho nông dân. Chính phủ Thái Lan cho biết chỉ trong 4 tháng đầu năm 2002 chương trình này đã đem lại 3.66 tỷ baht (84.2 triệu USD) lợi nhuận cho nông dân. Năm 2003 danh số bán hàng của các làng tham gia chương trình “mỗi làng một sản phẩm” đã đạt mức 30.8 tỷ baht, tăng 13% so với 2002. Dự kiến đạt 40 tỷ baht năm 2004 và nhờ vào phong trào này mà người nước ngoài đã biết nhiều về sản phẩm thủ công của Thái Lan. Phong trào ở Nhật Bản: Nhằm mục đích thúc đẩy phát triển các sản phẩm thủ công đặc trưng của mỗi vùng. Trong quá trình tiến hành CNH nền kinh tế đất nước, ngành nghề thủ công Nhật Bản bị phân hoá và phát triển theo hai hướng: một số ngành nghề TTCN đi lên CNH (chiếm ưu thế); một số khác tiếp tục theo hướng thủ công truyền thống. Bước vào những năm 1970, nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng từ chỗ coi trọng tính hợp lý cơ năng, chuyển sang xu hướng đa dạng hoá và đề cao cá tính, coi trọng chất lượng, tính độc đáo hơn là số lượng theo kiểu tiêu chuẩn hoá đồng loạt. Các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu và một số tài nguyên thiên nhiên khác trên thế giới vào những năm đó khiến Chính phủ Nhật Bản phải suy nghĩ lại về giá trị của các làng nghề thủ công truyền thống đã tồn tại lâu đời, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả. Trong khi đó hàng TCTT Nhật Bản mất dần khả năng cạnh tranh so với hàng tiêu dùng sản xuất bằng công nghiệp, lại vấp phải hàng loạt khó khăn về thông tin thị trường, tiêu thụ, nguồn nguyên vật liệu tự nhiên, vấn đề ô nhiễm môi trường, nguồn nhân lực bị hút ra thành thị, vào các ngành sản xuất hiện đại hoá…Vì thế, các ngành nghề thủ công Nhật Bản đã bị suy thoái. Trong bối cảnh đó, Nghị viện Nhật Bản năm 1974 đã ban hành Luật phát triển nghề TCTT. Được sự hỗ trợ của chính phủ, phong trào “mỗi làng một sản phẩm” được khai sinh tại quận Oita vào năm 1979 với ý tưởng làm sống lại các ngành nghề TCTT. Có hai khẩu hiệu nổi tiếng là “Nghĩ về tổng thể, hành động ở địa phương”, và “Độc lập sáng tạo”. Nhờ phong trào, một số sản phẩm truyền thống của Oita trở thành nổi tiếng không chỉ ở Nhật Bản, mà còn trên thị trường nhiều nước. Từ thành công của quận Oita, sau 5 năm phát động cả nước Nhật đã có 20 quận hưởng ứng các dự án tương tự như “sản phẩm của làng”, “chương trình phát triển thành phố quê hương”, “chương trình làm sống lại địa phương”…Tinh thần của phong trào này đã hấp dẫn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. 1.3.2. Kinh nghiệm rút ra từ tình hình phát triển ngành nghề, LNTT ở một số nước. Từ thực tiễn phát triển ngành nghề, LNTT ở một số nước trên, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: Một là, phát triển làng nghề, ngành nghề truyền thống gắn với quá trình CNH nông thôn. Trong quá trình CNH, đô thị hoá, thương mại hoá ở các nước đã có lúc làm cho nét độc đáo, tinh xảo của các làng nghề bị phai nhạt, lu mờ. Nhưng với cách nhìn nhận mới, các nước đã chú trọng và coi làng làng nghề là một bộ phận của quá trình CNH nông thôn. Do vậy, khi tiến hành CNH họ thường kết hợp thủ công với kỹ thuật cơ khí hiện đại tuỳ điều kiận cơ sở vật chất của mỗi nước mà áp dụng công nghệ cổ truyền hay công nghệ hiện đại. Đồng thời tổ chức các cơ sở sản xuất gần vùng nguyên liệu và đặt tại làng xã có truyền thống để tiện cho việc phát triển sản xuất, giao lưu hàng hoá. Hai là, chú trọng đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn. Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển của LNTT. Vì thế các nước đều chú ý đầu tư cho giáo dục và đào tạo tay nghề cho người lao động để họ tiếp thu được kỹ thuật tiên tiến. Bởi vì, việc hình thành một đội ngũ lao động có tay nghề cao là rất quan trọng. Nếu thiếu yếu tố này thì việc tiếp thu khoa học công nghệ sẽ không thành công như mong đợi. Nhìn chung các nước đều triệt để sử dụng những phương pháp huấn luyện tay nghề cho người lao động như: bồi dưỡng tại chỗ, bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng ngắn hạn theo phương châm thiếu gì huấn luyện nấy. Xúc tiến thành lập các trung tâm, các viện nghiên cứu để đào tạo một cách có hệ thống mà các cơ sở sản xuất hoặc các địa phương có nhu cầu. Để đào tạo và bồi dưỡng tay nghề cho người lao động, các nước cũng rất chú ý đến kinh nghiệm thực tiễn, tức là mời những nhà kinh doanh, những nhà quản lý có kinh nghiệm trong việc CNH nông thôn để báo cáo một số chuyên đề tập huấn hoặc mang sản phẩm đi triển lãm, trao đổi. Ba là, để nâng cao vai trò của nhà nước trong việc giúp đỡ, hỗ trợ về tài chính cho LNTT phát triển sản xuất kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của LNTT, từ vài thập kỷ gần đây các Nhà nước rất quan tâm, có nhiều chủ trương, chính sách đề cập đến vấn đề phát triển ngành nghề TCTT. Trong đó, chủ trương hỗ trợ về tài chính, tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của LNTT. Sự hỗ trợ tài chính, vốn của Nhà nước được thông qua các dự án cấp vốn, bù lãi suất ngân hàng, hoặc bù giá đầu ra cho người sản xuất. Thông qua sự hỗ trợ giúp đỡ này mà các làng nghề lựa chọn kỹ thuật gắn với lựa chọn hướng sản xuất. Nhà nước tạo điều kiện cho ngành nghề TCTT đổi mới công nghệ mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và sức cạnh tranh trên thị trường. Bốn là, Nhà nước có chính sách thuế và thị trường phù hợp để thúc đẩy LNTT phát triển. Đi đôi với việc hỗ trợ tài chính, tín dụng là chính sách thuế và thị trường của Nhà nước để khuyến khích LNTT, ngành nghề truyền thống phát triển. Bởi vì, chính sách thuế được coi như phương tiện để kích thích sự phát triển của LNTT và đóng vai trò thúc đẩy tiến bộ xã hội; còn thị trường là điều kiện tốt nhất cho sự tồn tại của mỗi đơn vị sản xuất trong làng nghề. Thị trường không chỉ là nơi mua bán vật tư, nguyên liệu và sản phẩm của LNTT mà còn có những ý kiến cố vấn kỹ thuật, các dịch vụ và nhiều thông tin quý giá. Năm là, khuyến khích sự kết hợp giữa công nghiệp và TTCN và trung tâm công nghiệp với LNTT. Sự kết hợp giữa công nghệp với TTCN và trung tâm công nghiệp với LNTT là thể hiện sự phân công hợp tác lao động thông qua sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau, nhất là các vấn đề lựa chọn kỹ thuật và lựa chọn hướng sản xuất. Để tạo dựng cho mối quan hệ này, ở hầu hết các nước đều thiết lập chương trình kết hợp giữa các trung tâm công nghiệp với LNTT. Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề huyện Sóc Sơn. 2.1. Đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Sóc Sơn. 2.1.1. Điều kiện tự nhiên huyện Sóc Sơn. Huyện Sóc Sơn là một huyện ngoại thành của Hà Nội, có danh giới tiếp giáp với: Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên. Phía Nam giáp với huyện Đông Anh-Hà Nội. Phía Đông giáp với huyện Yên Phong và Hiệp Hoà tỉnh Bắc Ninh. Phía Tây giáp với huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc. Huyện Sóc Sơn nằm ở phía Bắc và cách trung tâm thủ đô khoảng 35 km, với diện tích 314 km2 chiếm 1/3 tổng diện tích toàn thành phố và chiếm khoảng 1/10 tổng dân số toàn thành phố. Sóc Sơn nằm ở phía Tây cực Nam của dãy núi Tam Đảo, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Huyện thuộc bán đảo sơn địa có đặc trưng của vùng đồi gò, phù sa cổ kết hợp. Bởi vậy, địa hình Sóc Sơn chia làm ba cùng kinh tế tự nhiên: Vùng đồi gò, vùng giữa, vùng trũng. Mỗi vùng có những lợi thế riêng tạo nên sự đa dạng, phong phú cho phát triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội chung của toàn huyện. Khí hậu Sóc Sơn mang đầy đủ những nét đặc trưng của khí hậu vùng Đồng Bằn Sông Hồng nóng ẩm hoà trộn và chịu ảnh hưởng của khí hậu vùng trung du Bắc Bộ. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 28o-29oc, chế độ mưa gắn liền với sự thay đổi theo mùa và đạt mức bình quân hàng năm khoảng 1676mm. Mùa mưa tập trung từ tháng 4 đến tháng 10. Do sự khác biệt về chế độ mưa và địa hình phức tạp nên thuỷ lợi là yếu tố hết sức quan trọng và thực sự là biện pháp hàng đầu tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp của huyện. Sóc Sơn là địa phương duy nhất của Thủ đô có rừng với 6630 ha, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển du lịch sinh thái, phát triển các loại hình kinh tế trang trại. Sóc Sơn có nhiều đập trữ nước tưới cho cây trồng nhưng đây cũng là một tiềm năng du lịch của Sóc Sơn. Ở đây còn có trữ lượng sét cao lanh lớn tại các xã Quang Tiến, Tiên Dược, Minh Phú, Phù Linh, và có trữ lượng lớn cát vàng, sỏi tạo thuận lợi và tiềm năng phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và phát triển nghề gốm sứ. Ngoài ra, Sóc Sơn còn có các di tích lịch sử văn hoá đã được xếp hạng như: đền Gióng, Chùa non nước, chùa Thanh Nhàn, Núi đôi, di tích lịch sử hội nghị Trung Giã, tạo tiền đề cho phát triển du lịch. Đặc biệt, trên địa bàn huyện còn có cảng hàng không quốc tế Nội Bài và nhiều khu công nghiệp đã và đang được thành lập tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế Sóc Sơn ngày càng phát triển. Trong tương lai, Sóc Sơn là một hướng quan trọng để mở rộng thủ đô Hà Nội lên phía bắc. Với các nét tự nhiên như trên thì chúng ta có thể kỳ vọng ở một Sóc Sơn phát triển giàu mạnh trong thời gian tới trên các lĩnh vực NN, CN-TTCN và DV, du lịch. Và sẽ là một điểm sáng của thủ đô Hà nội. 2.1.2. Đánh giá chung về tình hình kinh tế xã hội huyện Sóc Sơn. 2.1.2.1. Thành tựu đạt được. Ø Kinh tế: Kinh tế huyện trong thời gian qua luôn phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 10.43% /năm. Cơ cấu kinh tế huyện chuyển dịch đúng hướng, đến hết năm 2005 cơ cấu kinh tế huyện là CN-DV-NN (41.43%-33.35%-24.1%). Bảng 5: kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chính. STT chỉ tiêu kế hoạch thực hiện ghi chú. A KINH TẾ 1 Tổng giá trị sản xuất 662.700 tr 1.019.746 Vượt 2 Tốc độ tăng BQ do huyện quản lý 9-10% 10.43% Vượt 3 Tốc độ tăng BQ/năm GTSX ngành NLN_TS 4.6-5% 2.90% K đạt 4 Tốc độ tăng BQ/năm GTSX ngành CN 23-25% 20.53% K đạt 5 Tốc độ tăng BQ/năm GTSX ngành dịch vụ 12-14% 5.60% K đạt 6 Thu nhập BQ/người cuối kỳ 3.8-4 tr 5.1 tr Vượt 7 Thu nhập/ha canh tác 38-40 tr 36.5 tr K đạt 8 Cơ cấu kinh tế 100% 100% đạt Nông nghiệp 48.7 25.1 Công nghiệp 38 41.4 Dịch vụ 13.3 33.5 9 Cơ cấu nội bộ ngành Nông Nghiệp 100% 100% K đạt Trồng trọt 50 56.5 Chăn nuôi 50 43.2 10 Thu ngân sách 17.000 tr 33.000 tr Vượt B XÃ HỘI 1 Dân số 260 263 K đạt Tỷ lệ tăng dân số 14.62% 2 Tỷ lệ sinh 1.40% 1.83% K đạt Tỷ lệ sinh con thứ 3 8% 14.90% K đạt 3 Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng 17-18% 22.60% K đạt 4 Tỷ lệ hộ nghèo 2-3% 0.60% đạt 5 Số lao động được giải quyết việc làm/năm 5.200-5500 6410.00% đạt Nguồn: Thống kê Sóc Sơn. Bảng 6: Cơ cấu kinh tế trên địa bàn STT Chỉ tiêu đơn vị tính 2001 2004 ước 2005 Tổng số % 100 100 100 Trong đó Huyện quản lý % 31.3 22.5 19.6 1 Ngành Công nghiệp_XDCB % 66.54 69.34 70.25 công nghiệp % 60.5 64.12 67.1 xây dựng cơ bản % 6.04 5.22 3.15 2 Ngành dịch vụ % 17.04 23.33 23.4 3 Ngành nông_lâm_thuỷ sản % 16.42 7.33 6.35 Bảng 7: Cơ cấu kinh tế huyện quản lý. STT Chỉ tiêu đơn vị tính 2001 2004 ước 2005 Tổng số % 100 100 100 1 Ngành Công nghiệp_XDCB % 36.2 39.1 41.4 _Công nghiệp % 25.4 25.5 28.7 _Xây dựng cơ bản % 10.8 13.6 12.7 2 Ngành dịch vụ % 29.5 30.5 33.5 3 Ngành Nông_lâm_thuỷ sản % 34.3 30.4 25.1 Riêng ngành nông_lâm_thuỷ sản % Tổng số % 100 100 100 4 Nông nghiệp % 96.68 97.41 97.48 Trồng trọt % 58.6 57.2 56.5 Chăn nuôi % 40.8 42.7 43.3 5 Lâm nghiệp % 1.78 1.12 1.09 6 Thuỷ sản % 1.54 1.47 1.43 Nguồn: Thống kê Sóc Sơn. Bảng 8: kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001_2005. STT Chỉ tiêu ĐV kế hoạch thực hiện 2001 2005 2000 2001 2002 2003 2004 2005 I. Chỉ tiêu kinh tế A Tổng giá trị sản xuất Tr.đ 447.66 620.7 620.965 686.185 748.21 850.676 935.992 1019.746 1 Thu từ Nông_lâm nghiệp Tr.đ 272.4 322.7 275.213 275.382 286.639 297.995 308.388 317.148 Thu từ nông nghiệp Tr.đ 268.4 316.2 271.884 270.414 282.013 294.018 304.882 313.648 Thu từ trồng trọt Tr.đ 152 160.1 169.346 164.664 169.313 177.932 183.398 188.52 Thu từ chăn nuôi Tr.đ 116.4 156.1 102.538 105.75 112.7 116.086 121.484 125.128 Thu từ Lâm nghiệp Tr.đ 4 6.5 3.329 4.968 6.626 3.977 3.506 3.5 2 Thu từ Công nghiệp_TTCN Tr.đ 122.14 250 203.082 261.328 305.752 386.708 453.235 516.502 3 Thu từ dịch vụ Tr.đ 53.12 90 138.507 145.181 151.446 161.54 169.779 181.479 4 Tổng ngân sách Nhà nước Tr.đ 12 17 12.83 12.11 12.769 19.831 27.28 33 Tổng chi XDCB Tr.đ 55 65 81.139 78.065 103.489 52.794 92.998 100.755 B BQ giá trị/ha canh tác Tr.đ 32 38-40 22.7 23.3 25.9 29.2 35.4 36.5 C Thu nhập bình quân/người/năm Tr.đ 2.55 3.8-4 2.7 3.3 3.7 4.7 5.1 II. Chỉ tiêu xã hội 1 Tổng dân số BQ/năm 246.2 260 246.523 249.715 252.892 256.296 260.943 263 Dân số nông nghiệp 221.1 233.1 212.228 214.929 217.609 220.508 224.643 226.18 2 Tỷ lệ sinh 1.54 1.4 1.661 1.63 1.58 1.89 1.84 1.83 3 Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng 36 17-18 32.8 29.3 26.3 23.3 25.6 23.4 4 Tỷ lệ hộ nghèo (tiêu chuẩn 2000) 5 2-3 18.8 16.5 13 4.3 0.97 0.6 5 Giải quyết việc làm hàng năm 5.3 5500-5700 5.6 6.3 6.3 7.015 7.135 7.5 6 Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp THPT và tương đương % 86.65 93.86 92.43 98.02 97.79 96.2 Tiểu học % 100 100 100 100 100 100 THCS % 80.82 83.14 94.43 98.49 92.23 94.43 7 Số trường cấp 3 trường 4 4 4 4 6 7 7 7 III. Xây dựng cơ sở hạ tầng 1 Thuỷ lợi Tưới chủ động cho DT canh tác % 69 75 67 70 Tiêu chủ động theo thiết kế % 70 70 24 57.6 2 Giao thông Giải nhựa đường trục chính liên xã % 55 80 28 30.5 35.6 37 38.5 40.5 Đường thôn, xóm (gạch, bê tông cấp phối) % 14 30 20 40.5 54.7 70.8 8103 85 3 Giá điện sinh hoạt (năm 2000) đ 720 600 750 720 700 700 670 4 Trường học Kiên cố hoá trường cấp 1,2. % 78 85-90 77.5 88.7 98.4 99.2 Nhà học mầm non ở nông thôn % 42.5 46.6 55 57 5 y tế Số giường tại bệnh viện huyện giường 125 150 130 140 140 140 140 160 Tỷ lệ trạm y tế được nâng cấp 25 32 Số xã đạt chuẩn QG về y tế % 40 100 2 10 18 Bình quân máy điện thoại cố định/100 dân 2.9 3.2 4.3 5.2 8.5 12 Nguồn: Thống kê Sóc Sơn. Ø Văn hoá-xã hội. Trong 5 năm qua, cùng với các thành tựu về kinh tế thì trên lĩnh vực văn hoá, xã hội huyện Sóc Sơn cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Các chỉ tiêu cơ bản về y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo hoàn thành đạt và vượt kế hoạch, công tác chính sách xã hội được đảm bảo tốt. Hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao có nhiều chuyển biến, đạt nhiều kết quả đáng phấn khởi. Đời sống văn hoá nhân dân được cải thiện và nâng cao. Cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Ø Công tác đất đai-đô thị-môi trường. Huyện đã cơ bản hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định 64CP, quyền sở hữu nhà và sử dụng đất đô thị, 90% giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở khu nông thôn. Công tác quản lý xây dựng, vệ sinh môi trường đã có nhiều chuyển biến. Ở các tuyến đường, các khu dân cư tập trung, công tác thu gom và xử lý rác thải bước đầu được thực hiện có hiệu quả. Cở sở hạ tầng đô thị, hệ thống chiếu sáng được cải thiện và tăng cường. Ø An ninh, quốc phòng. An ninh chính trị trên địa bàn huyện vững chắc, an ninh nội bộ được tăng cường, an ninh nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực. Trật tự an toàn xã hội được đảm bảo hơn, các loại tội phạm kinh tế, ma tuý, hình sự, tệ mại dâm, cờ bạc, và tai nạn giao thông nghiêm trọng được kiềm chế và đẩy lùi một bước. Đặc biệt, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh phát triển sâu rộng, đã có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa các ngành, địa phương và các đơn vị kinh tế để chống lại các tệ nạn xã hội, bảo vệ trật tự xã hội chung trên địa bàn. Công tác quốc phòng thì được tăng cường, khả năng sẵn sàng chiến đấu trong tình hình mới được nâng cao. Cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân được phổ biến quán triệt sâu rộng tạo sự chuyển biến tích cực về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới. Tổ chức, lực lượng nhân dân tự vệ, dự bị động viên trên địa bàn huyện được củng cố và kiện toàn theo hướng hợp lý về số lượng, nâng cao về chất lượng. Chế độ luyện tập kỹ thuật kỹ thuật, chiến thuật và phương án tác chiến được duy trì thường xuyên, các công trình quốc phòng, vũ khí được trang bị và bảo quản tốt đáp ứng nhu cầu cơ động và xử lý kịp thời mọi tình huống. Như vậy, Sóc Sơn xứng đáng được coi là địa bàn có vị trí chất lượng trong công tác đảm bảo an ninh quốc phòng cho thủ đô Hà Nội. Ø Công tác công quyền. Chương trình cải cách hành chính của huyện đã được triển khai, thực hiện tốt, mở rộng và phát huy dân chủ cơ sở, công tác dân vận được tăng cường. Công tác phòng chống tham nhũng được nhân dân đồng tình hưởng ứng tích cực. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được duy trì hiệu quả, thường xuyên từ huyện xuống cơ sở. Bên cạnh đó thì công tác tuyên truyền giáo dục phổ biến pháp luật được tăng cường, công tác hoà giải và trợ giúp pháp lý được củng cố. 2.1.2.2. Những tồn tại hạn chế của kinh tế, xã hội Sóc Sơn. Bên cạnh những thành tựu trên, trong kinh tế vẫn còn một số những khó khăn tồn tại: Trong nông nghiệp: Cây lúa chiếm chủ yếu xấp xỉ 58% diện tích gieo trồng; chưa hình thành được các vùng sản xuất chuyên canh có giá trị cao; năng suất một số cây trồng còn thấp; việc sản xuất chuyên canh có giá trị cao; năng suất một số cây trồng còn thấp; việc ứng dụng và triển khai các tiến bộ kỹ thuật còn hạn chế; mặc dù tổng đàn các loại gia súc, gia cầm đều tăng nhưng không có ổn định; tỷ lệ sinh hoá đàn bò mới đạt 60%, tỷ lệ lợn hướng nạc dưới 70%, kinh tế trang trại còn nhỏ bé về cả qui mô, thu nhập, thu hút lao động; Trong công nghiệp: Tốc độ tăng trưởng khá nhưng quy mô còn nhỏ bé, chưa hình thành khu vực sản xuất tập trung; số doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp còn ít (58 doanh nghiệp); Mặt bằng sản xuất của đại bộ phận doanh nghiệp còn nhỏ chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất; chất lượng sản phẩm thấp; giá cả kém khả năng cạnh tranh. Một số doanh nghiệp vẫn sử dụng dây truyền công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, việc thu hút lao động chưa nhiều. Trong lĩnh vực dịch vụ: Các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại còn ít, quy mô nhỏ; hoạt động thương mại chủ yếu thực hiện theo mô hình kinh tế hộ, các chợ nông thôn chưa được đầu tư, hệ thống các sản phẩm dịch vụ chưa được khai thác: rừng, điểm du lịch văn hoá. Kết cấu hạ tầng tuy đã đầu tư nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển: Hệ thống giao thông, nước phục vụ sản xuất công nghiệp, du lịch còn thiếu; kết quả cứng hoá kênh mương chưa đạt kế hoạch. Các chỉ tiêu như dân số, kế hoạch hoá gia đình, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn chưa hoàn thành. Chương trình giảm nghèo tuy đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra nhưng chưa bền vững thể hiện ở tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới xấp sỉ 17%, chiếm 33% số hộ nghèo toàn thành phố; tỷ lệ thu hút trẻ trong độ tuổi nhà trẻ còn thấp đạt 14.2%; Tỷ lệ thu hút học sinh vào các trườngTHPT mới đáp ứng 38%; tỷ lệ lao động được qua đào tạo thấp, bình quân 25%/năm/tổng số lao động được giải quyết việc làm; Chất lượng đào tạo lao động chưa cao. Như vậy để khắc phục những tồn tại trên thì một giải pháp nhằm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động Sóc Sơn là cần thiết. Và phát triển các làng nghề truyền thống là một cách để đáp ứng điều đó. 2.2. Thực trạng phát triển các làng nghề huyện Sóc Sơn. 2.2.1. Thực trạng làng nghề truyền thống ở Sóc Sơn trước năm 2000. Nhiều làng nghề Sóc Sơn đã được hình thành và phát triển từ nhiều năm trước, người dân trong làng nghề còn không biết nghề của mình có từ bao giờ. Ví dụ như làng nghề tre trúc Thu Thuỷ, làng mây tre đan Xuân Dương và Điệu Tân, làng mộc và xây dựng Lai Cách. Nhưng sau thời gian do sự phát triển của của các hàng nhựa, sắt thép nên đồ thủ công mỹ nghệ mây tre, thủ công mỹ nghệ bị mai một và chậm phát triển, nhiều nghệ nhân của làng nghề đã chuyển sang các nghề khác để kiếm sống. Bởi vậy các làng nghề Sóc Sơn trong thời gian trước năm 2000 đã bị mai một và kém phát triển. 2.2.2. Thực trạng làng nghề truyền thống ở Sóc Sơn sau năm 2000. Từ năm 2000 do chính sách khuyến khích khôi phục và phát triển các làng nghề của thành phố và huyện cùng với sự khôi phục và phát triển thị trường của các làng nghề nên các LNTT Sóc Sơn đã dần được phục hồi và phát triển. 2.2.2.1. Số lượng làng và quy mô của các làng nghề. Trong thời gian qua, LNTT ở Sóc Sơn đã và đang được khôi phục và phát triển. Các sản phẩm của các LNTT ngày càng được thị trường ưa chuộng. Do vậy số lượng các làng nghề cũng ngày càng ổn định và tăng lên. Bảng 9: số lượng làng nghề ở Sóc Sơn. Năm Địa điểm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Toàn huyện 4 4 4 5 5 5 Xã Xuân Thu 1 1 1 1 1 1 Xã Kim Lũ 1 1 1 1 1 1 Xã Xuân Giang 1 1 1 1 1 1 Xã Tân Hưng 1 1 1 1 1 1 Xã Phú Cường 0 0 0 1 1 1 Nguồn: Phòng KH-KT&PTNT huyện Sóc Sơn. Qua bảng số liệu trên ta thấy các làng nghề Sóc Sơn đã được phục hồi một cách ổn định như: làng nghề tre trúc Thu Thuỷ - xã Xuân Thu, làng nghề thủ công mỹ nghệ mây tre đan Xuân Dương-xã Kim Lũ và làng Điệu Tân-xã Tân Hưng; làng nghề thủ công mỹ nghệ mộc và xây dựng Lai Cách- xã Xuân Giang. Từ năm 2004 thì chúng ta đã cấy được thêm nghề chiếu trúc ở HTX Đại Dương- xã Phú Cường. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho việc khôi phục và phát triển làng nghề huyện Sóc Sơn trong thời gian qua. Điều này minh chứng cho khả năng phục hồi và phát triển các làng nghề Sóc Sơn. Chúng ta có thể giải thích cho sự phát triển ổn định và phục hồi nhanh chóng của các làng nghề Sóc Sơn như vậy một phần là do chính sách khuyến khích phát triển các LNTT của các cấp chính quyền địa phương nhưng quan trọng hơn là do sức ép vê kinh tế mà những người nông dân Sóc Sơn đang phải chịu. Bảng 10: Dân số nông thôn và doanh thu ở nông thôn Sóc Sơn. Năm Tiêu chí 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Thu từ NN (Tr đ) 271884 270414 282013 294018 304882 313648 323500 Dân số NN (người) 212228 214929 217609 220508 224643 226180 229573 Doanh thu /người ở NT /năm (Trđ/người/năm) 1.281 1.258 1.296 1.333 1.357 1.387 1.409 Doanh thu/người ở NT/người/tháng (trăm nghìn đồng/người/thán) 106.7 104.8 107.9 111.1 113.1 115.6 117.42 Nguồn: Thống kê Sóc Sơn. Ta thấy trong ngành nông nghiệp nông thôn thì doanh thu trung bình của người nông dân Sóc Sơn mỗi tháng chỉ có 106.700 đồng/người/tháng trong năm 2000 và chỉ tăng lên đến 117.420 đồng/người/tháng năm 2006. Như vậy, sau 6 năm thì doanh thu/người/tháng chỉ tăng được 11.000 đồng, và so với chuẩn nghèo mới ở nông thôn là 200.000 đồng/người/tháng thì nói chung tất cả người dân nông thôn Sóc Sơn đều là người nghèo. Vậy nên nói sức ép kinh tế chính là động lực cho người dân nông thôn Sóc Sơn khôi phục và phát triển nghề truyền thống nhanh hơn chính là một nguyên nhân rất quan trọng. Các LNTT đã giải quyết được một lượng lao động nông thôn rất lớn, vừa giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân Sóc Sơn. Đây là một động lực quan trọng cho công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Bảng 11: Số lượng lao động làng nghề. Đơn vị: người. Năm Làng nghề 2002 2003 2004 2005 2006 Thu Thuỷ 520 573 650 785 910 Xuân Dương 630 695 753 820 970 Lai Cách 1077 1317 1420 1666 1875 Điệu Tân 635 600 556 750 950 Đại Dương 0 0 200 210 250 Tổng số lao động 2862 3185 3579 4231 4955 Nguồn: Thống kê Sóc Sơn. Sự gia tăng lao động trong TTCN nói chung và làng nghề nói riêng là do một số nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, do nông nghiệp là ngành lao động theo thời vụ, nên số lao động làm việc hơn 200 ngày/năm là rất ít. Vì thế những nơi thuần nông lao động ở đây không được coi là nguồn lực nữa mà trái lại, nó lại trở thành gánh nặng, tạo ra sức ép lớn do dư thừa lao động. Như vậy, một phần đáng kể lao động nông thôn phải tìm việc làm khác, trong đó làm việc ở làng nghề là một hướng đi tích cực. Thứ hai, do tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp thấp hơn tốc độ tăng dân số nên doanh thu/người ở nông nghiệp giảm xuống, kéo theo thu nhập từ nông nghiệp giảm xuống. Như vậy, lao động nông nghiệp phải chuyển sang các lĩnh vực khác, trong đó có làng nghề. 2.2.2.2. Hình thức tổ chức sản xuất và chủng loại sản phẩm của các làng nghề. Vì các LNTT ở Sóc Sơn hiện nay đều xuất phát từ sự khôi phục và phát triển các LNTT đã tồn tại lâu đời. Do vậy, hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu ở các làng nghề là sản xuất hộ gia đình, các năm gần đây thì mới xuất hiện các hình thức HTX kinh doanh sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và các tổ hợp tác. Ở hình thức tổ chức sản xuất hộ gia đình thì thị trường đầu ra và đầu vào đều do hộ gia đình đảm nhiệm. Còn khi các HTX kinh doanh ra đời thì họ không chỉ là nơi sản xuất tập trung mà còn là nơi thu gom các sản phẩm làng nghề và tìm thị trường tiêu thụ, HTX còn có vai trò lớn trong việc tiếp nhận các đơn đặt hàng để giao cho các hộ gia đình sản xuất. Còn tổ hợp tác thì là tập hợp những người làm nghề thủ công như mộc, xây dựng, họ cùng nhau đi thực hiện các đơn đặt hàng tại nơi khác. Bảng 12: Các hình thức tổ chức sản xuất ở các làng nghề. Hộ gia đình HTX Tổ hợp tác Thu Thuỷ 230/430 hộ 2 38 Xuân Dương 356/463 hộ 0 0 Lai Cách 450/850 hộ 1 150 Điệu Tân 310/450 hộ 0 0 Phú cường 0 1 0 Nguồn: Phòng KT-KH&PTNT huyện Sóc Sơn. Các làng nghề Sóc Sơn tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm từ tre, trúc, mây, gỗ. Bảng 13: Chủng loại sản phẩm của các làng nghề. STT Loại sản phẩm Địa điểm làng nghề 1. 2. 3. 4. 5. - Nhà tre truyền thống đồng bằng bắc bộ. - Các kiểu nhà tre hiện đại: nhà ăn, nhà hàng, nhà du lịch,nhà nghỉ, nhà vườn các kiểu dáng đa dạng. - Các loại đồ dùng nội thất: trường kỷ, giường nằm kiểu truyền thống, bàn, ghế, giường gấp gọn.. - Các sản phẩm ngoại thất: chuồng chim, chuồng gà, cổng tre. - Hàng thủ công mỹ nghệ từ tre: khay tre, khay trúc, đèn mành, khung tranh… - Các sản phẩm mây tre, giang đan: rổ, rá, thúng, các công cụ đánh bắt thuỷ hải sản; các sản phẩm mây như lãng hoa, khay mây,… - Các sản phẩm mộc và mộc cao cấp, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, điêu khắc: giường, tủ, bàn ghế, những bức đại tự sơn son thếp vàng, mâm hoa quả, các sản phẩm tượng điêu khắc… - Các công trình xây dựng, nhà ở, cầu đường… - Sản phẩm chiếu trúc, đũa ăn một lần. - Làng nghề Thu Thuỷ-xã Xuân Thu-Sóc Sơn-Hà Nội. - Làng nghề Xuân Dương-xã Kim Lũ-Sóc Sơn-Hà Nội - Làng nghề Điệu Tân-xã Tân Hưng. - Làng nghề thủ công mỹ nghệ, mộc xây dựng Lai Cách-xã Xuân Giang-Sóc Sơn-Hà Nội. - Làng nghề Lai Cách-xã Xuân Giang-Sóc Sơn-Hà Nội. - HTX Đại Dương-xã Phú Cường-Sóc Sơn-Hà Nội. Nguồn: phòng KT-KH&PTNN huyện Sóc Sơn. Nhìn vào bảng trên ta thấy, các sản phẩm mà các làng nghề tạo ra hầu hết là các sản phẩm từ tre, trúc, mây, giang. Các sản phẩm của các làng nghề mây tre đan thì không khác nhiều so với các làng nghề mây tre đan ở Bắc Ninh hay ở Hà Tây. Tuy nhiên về chủng loại và mẫu mã thì vẫn rất hạn chế, các sản phẩm mây tre đan cao cấp vẫn chưa nhiều và mới chỉ là đang triển khai đào tạo và dạy nghề. Riêng các sản phẩm về nhà tre, cổng tre, các sản phẩm nội ngoại thất mà làng nghề Thu Thuỷ làm ra là độc đáo, khác hẳn với các làng nghề khác, và có thể nói là độc đáo và duy nhất ở các làng nghề Việt Nam. Đây chính là một thế mạnh của làng nghề Sóc Sơn. Ngoài các sản phẩm về tre trúc như trên thì riêng làng nghề Lai Cách có sản phẩm là từ gỗ, là một làng làm nghề mộc và chuyên xây dựng. Như vậy, nói chung tình hình phát triển của các làng nghề Sóc Sơn vẫn rất hạn chế ở ngành nghề thủ công truyền thống, chủng loại sản phẩm. Chúng ta muốn phát triển các LNTT hơn nữa thì cần chú ý nhiều về chủng loại, mẫu mã sản phẩm hơn nữa và phải cấy thêm các nghề mới dựa trên điều kiện cụ thể của từng vùng cho phù hợp với khả năng của từng vùng. 2.2.2.3. Thị trường tiêu thụ sản phẩm. Với các sản phẩm đa dạng, độc đáo của mình thì các LNTT ở Sóc Sơn đang dần tìm lại được chỗ đứng của mình trên thị trường trong nước và ngày càng phù hợp, đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Thị trường tiêu thụ cụ thể của các làng nghề như sau: Làng nghề Thu Thuỷ với các sản phẩm tre trúc độc đáo như các loại nhà tre theo kiểu truyền thống, và hiện đại, các loại cổng tre mà không một làng nghề nào của Việt Nam có thể làm, nó đã đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của các công ty du lịch, các nhà hàng, nhà ăn, nhà nghỉ và các khu du lịch sinh thái trong nước và hiện nay LNTT Thu Thuỷ đang đáp ứng nhiều đơn đặt hàng của các công ty du lịch nước ngoài như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc. Ngoài ra, các sản phẩm từ tre khác như đồ dùng nội ngoại thất, các sản phẩm mây tre đan của Làng nghề Thu Thuỷ cũng đang được ưa chuộng trên thị trường nội địa như: Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, các tỉnh phía Bắc như: Lào Cai, Yên Bái, Thái nguyên, Hà Tây… Làng nghề Xuân Dương và Điệu Tân với các sản phẩm mây tre đan phục vụ đời sống sinh hoạt như: rổ, rá, thúng mủng, dần sàng, các dụng cụ đánh bắt thuỷ sản như rọ, lơm, ..cũng đang có thị trường tiêu thụ rộng lớn khi mà làng nghề mây tre đan Vân Trì Bắc Ninh không còn tồn tại. Bởi vì nông thôn Việt Nam vẫn chiếm 73.25% dân số cả nước năm 2005, và NN-LN-TS vẫn chiếm tỷ trọng 20.89% trong cơ cấu GDP cả nước. Nhưng trong xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ thì thì hai làng nghề trên đã nhận ra hướng đi mới là mở các lớp đào tạo sản xuất các sản phẩm mây tre đan cao cấp, có tính thẩm mỹ, kỹ thuật cao, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu ngày càng lớn của người tiêu dùng, khách du lịch trong nước và nước ngoài. Các sản phẩm chiếu trúc, đũa ăn một lần của HTX chiếu trúc Đại Dương-Phú Cường thì thị trường chủ yếu của nó vẫn là thị trường nội địa như: Các đại lý bán buôn, bán lẻ trong các vùng, các tỉnh lân cận và Thành phố Hồ Chí Minh; Và sản phẩm của HTX cũng được bán cho các công ty trung gian để xuất khẩu đi nước ngoài. Và hiện nay, HTX cũng đang bắt đầu có những đơn hàng trực tiếp từ nước ngoài như: Đài Loan, Singapo. Các sản phẩm của HTX cũng đã có in LOGO, địa chỉ HTX sản xuất. Đối với các làng nghề mây tre này thì đều có sản phẩm là bột giấy thì thị cũng được tận dụng để bán cho các công ty sản xuất giấy trong nước. Với mặt hàng đó thì thị trường rất rộng lớn bởi hiện tại Việt Nam vẫn đang phải nhập bột giấy ở nước ngoài. Và nước ngâm tre của các HTX thì cũng có thể bán cho các công ty sản xuất bê tông dẻo hoặc các công ty sản xuất tấm cót ép. Bởi vậy, có thể nói với quy trình sản xuất tiết kiệm như vậy thì các LNTT này đã phát huy hết nguồn nguyên liệu đầu vào và sản xuất ra các sản phẩm có giá trị. Làng nghề thủ công mỹ nghệ mộc, xây dựng Lai Cách, với các công trình xây dựng thì thị trường của nó chính là các tỉnh thành trên cả nước. Thị trường này dược coi là rất rộng lớn. Bởi vì, với xu hướng đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ không những ở thành thị mà cả nông thôn nên nhu cầu về nhà ở, nhà nghỉ, nhà hàng, khách sạn, cầu đường, trường học, bệnh viện là rất lớn. Đặc biệt với một nước như Việt Nam với dân số hơn 83 triệu người, với tốc độ tăng dân số năm 2005 là 1.33% thì nhu cầu nhà ở lại càng trở nên bức xúc. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mộc, đồ gỗ nội ngoại thất với mẫu mã và chủng loại phong phú không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu sang thị trường một số nước như: Đức, Ấn Độ…Xu hướng tương lai về phát triển các sản phẩm trạm khắc tinh xảo, các sản phẩm mộc cao cấp đang được làng nghề chú trọng và phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của thị trường. Như vậy có thể thấy, cũng như những nơi khác, các ngành nghề và sản phẩm của Sóc Sơn đã và đang đi theo hướng cố gắng đáp ứng nhu cầu của thị trường, khai thác tốt thị trường và nguồn lực địa phương. Trong những năm vừa qua, sản phẩm của làng nghề đã đa dạng hơn để đáp ứng được nhiều nhóm nhu cầu của nhiều nhóm khách hàng hơn, nhưng nó cũng nổi lên một vấn đề là các sản phẩm chạy theo nhu cầu của thị trường chứ chưa có sự chuẩn bị trước và định hướng cho thị trường. 2.2.2.4. Thị trường lao động và công nghệ của sản xuất. Khi nói đến đầu vào thì trước tiên chúng ta phải nói đến đầu vào nguyên vật liệu của các LNTT Sóc Sơn. Thị trường nguyên vật liệu của các làng nghề Sóc Sơn chủ yếu là cây tre, cây trúc, mây giang, riêng có làng nghề Lai Cách là có đầu vào là cây gỗ. Tất cả các đầu vào đó hầu hết đều được nhập từ các tỉnh lân cận như: Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Bình. Cây tre không thể nói là vô tận nhưng nó được coi là một nguồn nguyên liệu rất dồi dào, bởi sau khi khai thác một cây tre thì sau 3 năm ta có thể trồng được một cây tre mới. Nhưng với đầu vào là gỗ thì sau khi khai thác thì phải 30-50 năm sau chúng ta mới có thể trồng được một cây gỗ như vậy. Bởi thế đầu vào của các sản phâm tre trúc thì không có gì đáng ngại nhưng đầu vào gỗ của LNTT Mộc Lai Cách thì đang là vấn đề lớn. Một đầu vào được coi là rất quan trọng đó là lao động. Lao động của các LNTT Sóc Sơn chủ yếu là lao động tại địa phương, làng xã. Chỉ riêng HTX tre trúc Phú Cường là không chỉ sử dụng lao động tại xã mà còn sử dụng thêm lao động ở trại cai nghiện Sóc Sơn. Đây là một điều rất có ý nghĩa về mặt kinh tế và xã hội. Bởi vì, khi sử dụng những lao động ở trại cai nghiện, không những rẻ hơn tạo điều kiện để giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường mà điều này còn tạo ra một ngoại ứng xã hội tích cực. Ngoại ứng đó chính là tạo cho những người nghiện có thể tạo ra thu nhập cho mình, cho gia đình và giảm đi sự tự ti của họ đối với xã hội. Và giảm bớt sự tái nghiện của những người này bởi vì việc tạo ra cho họ một việc làm nó làm giảm tình trạng “nhàn cư vi bất thiện”. Và như vậy sau khi cai nghiện xong thì trở lại đời sống họ sẽ tự tin hơn, dễ hoà nhập hơn. Điều này làm giảm đi sức ép đối với xã hội rất lớn. Và một đầu vào quan trọng mà chúng ta phải kể đến đó là công nghệ, trang thiết bị sản xuất. Chúng ta có thể có nhận xét chung về công nghệ của các LNTT như sau: Công nghệ của các LNTT Sóc Sơn chủ yếu vẫn là phương pháp thủ công truyền thống, kết hợp với kinh nghiệm sản xuất mà ông cha đã để lại. Công cụ thô sơ do người lao động tự sản xuất ra và có sự kết hợp với cơ giới hoá từng bộ phận. Hiện nay, trong các làng nghề Sóc Sơn, người lao động đã nhận thấy được cái lợi thực sự của áp dụng khoa học kỹ thuật, thiết bị cơ khí vào sản xuất nhưng ở các hộ gia đình sản xuất thì họ vẫn chưa thể đầu tư mua sắm công cụ sản xuất mới mà chủ yếu vẫn dùng những dụng cụ đã từ lâu đời. Và sự đổi mới, đầu tư mua sắm trang thiết bị sản xuất chủ yếu diễn ra tại các HTX. Có thể ví dụ như HTX chiếu trúc Đại Dương đã đầu tư hai dàn máy mới hiện đại nhập từ Trung Quốc. HTX tre trúc Thu Hồng làng Thu Thuỷ đã áp dụng khoa học công nghệ mới về chống mối mọt tre của viện khoa học và công nghệ Việt Nam để giúp bảo quản các sản phẩm bằng tre khỏi mọt, mối một cách hiệu quả và lâu dài. Còn ở làng mộc Lai Cách thì đã có đầu tư trang bị máy cưa, xẻ, bào tiện, nên năng suất tăng rõ rệt. 2.2.2.5. Kết quả sản xuất kinh doanh và thu nhập cua người lao động. Sau 5 năm khôi phục và phát triển thì các LNTT Sóc Sơn đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Điều này thể hiện rõ nhất ở kết quả sản xuất kinh doanh và doanh thu của người lao dộng. Bảng 14: kết quả sản xuất kinh doanh của các LNTT từ năm 2002-2006. Đơn vị: Triệu đồng. 2002 2003 2004 2005 2006 DT CP Lãi(lỗ) DT CP Lãi (lỗ) DT CP Lãi (lỗ) DT CP Lãi (lỗ) DT CP Lãi (lỗ) 1. Thu Thuỷ 3520 1024 2496 5157 1030 4127 7559 1319 6240 11597.5 3119.5 8478 13659 2739 10920 2. Xuân Dương 2852 739 2113 3695 776 2919 5180 1085 4095 7380 1476 5904 10185 2037 8148 3. Lai Cách 11075 3323 7752 15800 4740 11060 18258 5478 12780 29988 11996 17992 37895 10473 27422 4. Điệu Tân 2395 590 1805 3072 768 2304 3921 1363 2558 6507 2277 4230 7698 1998 5700 5. Đại Dương 0 0 0 0 0 0 3314 1274 2040 3420 1026 2394 4225 925 3300 Tổng 19842 5676 14166 27724 7314 20410 38232 10519 27713 58892.5 19894.5 38998 73662 18172 55490 Nguồn: phòng KT-KH&PTNNNT huyện Sóc Sơn. Bảng 15: Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của LNTT. Đơn vị: Triệu đồng. Năm Tổng doanh thu Tổng chi phí Lãi (lỗ) 2002 19842 5676 14166 2003 27724 7314 20410 2004 38232 10519 27713 2005 58892.5 19894.5 38998 2006 73662 18172 55490 Nhìn vào đồ thị ta thấy doanh thu của các LNTT Sóc Sơn tăng lên liên tục qua các năm, và còn tăng với tốc độ cao: Bảng 16: Tốc độ gia tăng các kết quả kinh doanh của LNTT Sóc Sơn. Năm Tốc độ tăng doanh thu Tốc độ tăng chi phí Tốc độ tăng thu nhập 2003 39.72 28.86 44.08 2004 37.90 43.82 35.78 2005 54.04 89.13 40.72 2006 25.08 -8.66 42.29 Vì là các LNTT đang được phục hồi nên tốc dộ tăng trưởng của nó khá cao: 39.72% (2003), 37.90% (2004), 54.04% (2005), và 25.08% (2006). Nhưng nhìn vào tỷ lệ này ta thấy, năm 2005 có sự tăng trưởng cao đột biến 54.04% so với năm 2004. Điều này có thể giải thích là do Nghị định số 134 của chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, căn cứ vào đề án số 34 ngày 25/01/2005 của thành uỷ Hà Nội về “khôi phục phát triển nghề và làng nghề Hà Nội đến năm 2010”, quyết định số 9849/QĐ-UB ngày 31/12/2004 của UBND Thành phố Hà Nội về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nghề và làng nghề Thành Phố Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015”. Bởi có các chính sách khuyến khích khôi phục và phát triển LNTT của các chính quyền địa phương nên từ năm 2005 số lượng lao động trở lại nghề nhanh và nhiều hơn. Bởi vậy doanh thu của năm 2005 mới có sự tăng đột biến như vậy. Và đến năm 2006 thì tôc độ tăng này vẫn cao 25.08%, không cao bằng năm 2005 so với 2004. Doanh Thu của các LNTT Sóc Sơn tăng liên tục và với tốc độ cao thì chi phí cho phát triển các làng nghề Sóc Sơn cũng tăng liên tục. Riêng có năm 2005 chi phí tăng với tốc độ cao (gấp đôi năm 2004) là do chi phí đào tạo và trang bị máy móc mới của các làng nghề tăng lên nhiều, đặc biệt là chi phí đào tạo lao động làng nghề bởi vì hiện nay các làng nghề mây tre đan Sóc Sơn đang phải đứng trước một thách thức phải đổi mới sản phẩm của mình về chủng loại và mẫu mã rất nhiều. Nhưng một nguyên nhân quan trọng hơn đó là sự tăng lên của chi phí thuê mặt bằng sản xuất của một số làng nghề như của mộc Lai Cách, HTX Đại Dương Phú cường. Còn năm 2006 thì chi phí đã giảm 8.66% so với năm 2005. Như vậy tính chung cho các LNTT Sóc Sơn trong các năm qua đều có lãi. Điều này rất phù hợp với bản chất của nghề thủ công “lấy công làm lãi”. Chúng ta có công thức tính: Lãi = Doanh thu-chi phí. Doanh thu = Doanh thu bán sản phẩm. Chi phí = chi phí nguyên vật liệu + Chi phí máy móc, công nghệ + Chi phí thuê mặt bằng sản xuất + chi phí đào tạo lao động. Lãi chính là thu nhập của người lao động và thu nhập của bộ phận quản lý (HTX), và lợi nhuận của chủ (HTX). Từ đây ta có thể tính được thu nhập bình quân của người lao động của các LNTT Sóc Sơn như sau: Bảng 15: Thu nhập bình quân/người/năm của lao động LNTT ở Sóc Sơn. (Đơn Vị: Triệu đồng/người/năm.) 2002 2003 2004 2005 2006 Thu nhập bình quân 2002-2006 1. Thu Thuỷ 4.80 7.20 9.60 10.80 12.00 8.88 2. Xuân Dương 3.35 4.20 5.44 7.20 8.40 5.718 3. Lai Cách 7.20 8.40 9.00 10.80 14.63 10.006 4. Điệu Tân 2.84 3.84 4.60 5.64 6.00 4.584 5. Đại Dương 10.20 11.40 13.20 11.6 Tổng 4.95 6.41 7.74 9.22 11.20 7.904 Nguồn: phòng KT-KH&PTNNNT huyện Sóc Sơn. Từ biểu đồ trên ta thấy giai đoạn 2002-2006 thì thu nhập trung bình/người/năm của người lao động làng nghề Đại Dương là cao nhất với 11.6 triệu đồng/người/năm, và thấp nhất đó là làng nghề Điệu Tân với 4.584 triệu đồng/người/năm. Xét năm 2006 thì thu nhập cao nhất lại là làng nghề Lai Cách với 14.63 triệu đồng/người/năm và thấp nhất vẫn là làng nghề Điệu Tân với 6 triệu đồng/người/năm. Nhưng so sánh với doanh thu/người/năm ở khu vực nông thôn Sóc Sơn thì vẫn cao hơn rất nhiều, gấp gần 4.3 lần (6/1.409=4.26 lần). Thu nhập của lao động làng nghề bình quân mỗi năm giai đoạn 2002-2006 là 7.904 triệu đồng/người/năm cao hơn mức thu nhập 5.1 triệu đồng/người/năm của huyện vào năm 2005. Nếu so sánh thu nhập/người/năm năm 2005 của làng nghề so với trung bình chung của huyện thì cao gấp 1.81 lần (9.22 gấp 1.81 lần 5.1). Và so với thu nhập từ nông nghiệp thì: Bảng 16: Thu nhập của lao động làng nghề và doanh thu ở nông thôn. Đơn vị: Triệu đồng/người/năm 2002 2003 2004 2005 2006 Trung bình 2002-2006 Doanh thu /người ở NT /năm 1.296 1.333 1.357 1.387 1.409 1.3564 Thu nhập/người/năm ở LN 4.95 6.41 7.74 9.22 11.20 7.904 Nguồn: phòng KT-KH&PHNNTT huyện Sóc Sơn. Từ biểu đồ trên ta thấy, thu nhập của người lao động làng nghề cao hơn thu nhập bình quân ở nông thôn rất nhiều. Tính bình quân các năm thì Thu nhập làng nghề cao gấp 5.82 lần doanh thu/người/năm ở nông thôn nói chung. 2.3. Những tồn tại hạn chế của phát triển làng nghề huyện Sóc Sơn. 2.3.1. Thị trường đầu vào. Mô hình của các nhà kinh tế tân cổ điển về hàm sản xuất đã chỉ ra đầu vào của sản xuất chính là vốn sản xuất, lao động, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và khoa học công nghệ. Y= f(K, L, R, T) Trong đó: Y: là đầu ra (GDP) K: là vốn sản xuất L: là số lượng lao động. R: là nguồn tài nguyên thiên nhiên T: là khoa học công nghệ. Đầu vào lao động. Trước tiên ta nói đến đầu vào lao động của sản xuất thủ công ở các làng nghề huyện Sóc Sơn. Theo số liệu thống kê điều tra cho thấy, đến hết năm 2006 toàn huyện có 5 làng nghề, thu hút được 4955 lao động. So với tổng dân số nông thôn huyện năm 2006 là 232970 người thì chỉ chiếm 2.13% đây vẫn là con số rất nhỏ. Không những vậy, chất lượng lao động làng nghề Sóc Sơn cũng không cao, chỉ có 0.2% lao động có trình độ đại học, cao đẳng; 2.67% lao động có trình độ trung cấp và lao động phổ thông chiếm 97.13% lao động làng nghề. Công tác đào tạo nghề cho lao động trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp hiện nay của huyện còn rất hạn chế. Điều này thể hiện rõ trên những mặt như: đào tạo thiếu quy hoạch, tự phát, quy mô đào tạo nhỏ, phân tán, vốn đầu tư ít. Phương thức tự đào tạo nghề trong các làng nghề, HTX tiểu thủ công nghiệp vẫn chiếm đa số. Phương thức này có ưu điểm là đào tạo được những lao động có tay nghề cao, tài hoa và tiết kiệm được chi phí của nhà nước, nhưng cũng bộc lộ nhiều hạn chế, vì chủ yếu phương thức này là truyền nghề theo kinh nghiệm, thiếu cơ bản, không toàn diện, không kết hợp được với tiến bộ khoa học công nghệ mới, nên chất lượng không cao. Đào tạo chỉ bó hẹp ở một số LNTT nên số lượng rất hạn chế. Vì vậy, cho đến nay, theo đánh giá của bộ phận CN-TTCN thuộc phòng KH-KT&PTNT huyện thì trình độ lao động trong các ngành nghê, làng nghề còn thấp, chưa phù hợp với yêu cầu của sản xuất hàng hoá, và đáp ứng cho nhu cầu phát triển của các ngành TTCN, các làng nghề TCTT trong thời gian tới. Những hạn chế trên của số lượng và chất lượng lao động làng nghề là xuất phát từ các nguyên nhân sau: trước hết là do thiếu cơ sở đào tạo, thiếu máy móc, thiết bị hiện đại để thực hành, lao động trong các làng nghề có trình độ văn hoá thấp nên khó tiếp thu được những kỹ thuật tiên tiến, sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại; chưa có trường lớp đào tạo lao động chính quy cho các làng nghề, cho các ngành nghề TTCN ở địa bàn huyện. Chất lượng lao động làng nghề Sóc Sơn thấp còn biểu hiện ở tác phong, tinh thần, thái độ, ý thức kỷ luật còn rất thấp của người lao động. Mà nguyên nhân của tình trạng này chính là do lao động làng nghề chủ yếu xuất thân từ lao động nông nghiệp nông thôn, lao động mùa vụ chuyển sang. Trong các hoạt động kinh tế, sự phối hợp trong công việc giữa các tác nhân trong cùng một tổ chức và giữa các tổ chức với nhau có xu hướng gia tăng, và đặt ra yêu cầu cao (tính nhịp nhàng, tính hiệu quả…). Điều này đòi hỏi người lao động phải có tác phong công nghiệp, tinh thần tự chủ sáng tạo, thái độ hợp tác và kỷ luật chặt chẽ. Do vậy yêu cầu đặt ra đối với các ngành nghề, LNTT huyện Sóc Sơn chính là làm sao thu hút được nhiều lao động vào các ngành nghề TTCN và các làng nghề hơn nữa. Đồng thời cũng phải nâng cao đào tạo, bồi dưỡng chất lượng lao động để đáp ứng cho đòi hỏi ngày càng cao của sản xuất CNH-HĐH Sóc Sơn trong thời gian tới. 2.3.1.2. Đầu vào vốn sản xuất. Vốn hiện nay là vấn đền khó khăn rất lớn của các LNTT nói chung và các làng nghề huyện Sóc Sơn nói riêng. Các hộ sản xuất, các HTX trong làng nghề Sóc Sơn chủ yếu đều dựa vào nguồn vốn tự có, vốn vay bạn bè, người thân và hầu như không có hoặc rất ít là vay từ các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Mà nguyên nhân chính của tình trạng này là do họ không có đủ tài sản thế chấp theo yêu cầu của các tổ chức tín dụng, do lãi suất coa so với lợi nhuận họ thu được, do thủ tục cho vay phiền hà, thời gian cho vay ngắn, mức cho vay ít không đáp ứng được yêu cầu về thời điểm cần vay. Bởi thế hầu hết các cơ sở làng nghề Sóc Sơn đều “tự thân vận động” về nguồn vốn kinh doanh cho mình. Hiện nay, yêu cầu về mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, dây truyền máy móc thiết bị của làng nghề là rất lớn để đáp ứng cầu ngày càng tăng của thị trường về các sản phẩm truyền thống. Ngoài ra nhu cầu đổi mới mẫu mã, phát triển sản phẩm, đào tạo lao động làng nghề cũng cần một lượng vốn dầu tư không phải nhỏ. Do đó, vấn đề vốn đối với các làng nghề Sóc Sơn đang rất bức xúc và là vấn đề cần giải quyết khi muốn nâng cao vai trò, vị trí và tỷ trọng của CN-TTCN trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện như hiện nay. 2.3.1.3. Đầu vào khoa học công nghệ. Ở các làng nghề hiện nay thì công nghệ chủ yếu vẫn là kinh nghiệm truyền lại từ xưa, máy móc, thiết bị hầu như cũ kỹ, lạc hậu và chỉ có một số HTX kinh doanh các sản phẩm truyền thống Ví dụ như: HTX chiếu trúc Đại Dương-Phú Cường, HTX mộc Lai Cách là mới bắt đầu có sự đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị và dây truyền sản xuất phục vụ sản xuất còn đa số các hộ gia đình làm nghề truyền thống thì vẫn sản xuất dựa trên những gì mình đã và đang có, và những công cụ họ tự nghĩ ra cho phù hợp với sản xuất của mình. Như vậy trong xu hướng phát triển của sản xuất hàng hoá, cạnh tranh gay gắt về sản phẩm, mẫu mã, chủng loại và chất lượng của sản phẩm như hiện nay thì các làng nghề Sóc Sơn khó có thể cạnh tranh được với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ phong phú về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng của các nước như Trung Quốc, Inđônêxia, và ngay cả đối với các sản phẩm của các làng nghề trong nước như của Hà Tây, Bắc Ninh cũng khó có thể cạnh tranh được. Bởi vậy, công nghệ sản xuất, công nghệ bảo quản, về thiết kế mẫu mã sản phẩm đối với làng nghề Sóc Sơn đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. 2.3.1.4. Nguyên liệu đầu vào. Các làng nghề Sóc Sơn nguyên liệu đầu vào chủ yếu là cây tre. Và cây tre đối với Việt Nam thì được coi là một nguồn nguyên liệu rất dồi dào, nhất là ở các làng quê Việt Nam. Nhưng trong xu thế đô thị hoá, hiện đại hoá nông thôn hiện nay thì hình ảnh các luỹ tre làng cũng dần dần được thay bởi các tường gạch, xi măng rất nhiều. Bởi thế đầu vào cũng là một vấn đề đáng quan tâm phát triển trong tương lai nếu muốn phát triển làng nghề một cách lâu dài và bền vững. Trong làng nghề Sóc Sơn thì có làng nghề mộc và thủ công mỹ nghệ Lai Cách là sử dụng đầu vào là gỗ, không phải là tre. Bởi vậy nguồn nguyên liệu lại càng trở nên quan trọng trong thực tế ngày càng khan hiếm các loại gỗ quý, tình trạng khai thác, buôn lậu gỗ ra biên giới đã và đang diễn biến phức tạp. Do vậy, quy hoạch và phát triển các vùng nguyên liệu là vấn đề bức xúc hiện nay và trong tương lai không xa của các làng nghề thủ công truyền thống của cả nước nói chung mà trong đó có huyện Sóc Sơn. 2.3.2 Cơ sở hạ tầng. Nói đến hạ tầng Sóc Sơn thì có thể nói là không đồng bộ, còn thiếu và yếu rất nhiều. Thứ nhất là về giao thông Sóc Sơn: Vẫn rất nhỏ bé, chỉ có: Đường sắt có 17 km từ Phù Lỗ-Trung Giã. Đường cao tốc có 14 km. Quốc lộ 2 có 17 km từ Phù Lỗ đi cầu xây –Vĩnh Phúc. Quốc lộ 3 có 17 km từ Phù Lỗ đi Trung Giã. Hệ thống giao thông đê trên địa bàn có 38 km Sông Cầu-sông Cà Lồ. Có 129 km đường trục liên xã chiếm tỷ lệ 40.5% tổng số. 256 km đường trục của 192 thôn cơ bản đã được bê tông hoá. Hệ thống đường Sóc Sơn đã có nhiều cải thiện tuy nhiên chất lượng đường trong địa bàn huyện còn rất kém, đường chật hẹp, ổ gà và đường đất còn nhiều đặc biệt là ở các xã như: Bắc Phú, Bắc Sơn… Với hệ thống giao thông như vậy thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển trong tương lai của CN-TTCN ngày càng phát triển Sóc Sơn. Thứ hai là về hệ thống điện, toàn huyện chỉ có 7 trạm biến áp trung gian: Phù Lỗ, Đa Phúc. Trung Giã, Bắc Sơn, Phú Cường, Nội Bài và khu công nghiệp. Các trạm biến áp trung gian chỉ đủ cung cấp điện cho việc phát triển CN-TTCN trên địa bàn đến 2010. Và các trạm biến áp này với công suất thấp, sản lượng nhỏ ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất CN-TTCN trong đó có phát triên các LNTT. Hệ thống cấp thoát nước ở Sóc Sơn chưa phát triển. Các hộ gia đình sản xuất chủ yếu vẫn sử dụng nước giếng cho sinh hoạt và sản xuất và thải ra các ao hồ. Khi nước thải chưa được xử lý thì việc sử dụng nước tự nhiên, nước giếng bị nhiễm bẩn sẽ có ảnh hưởng xấu đến đời sống và sản xuất của người dân Sóc Sơn nói chung và các làng nghề Sóc Sơn nói riêng. Một vấn đề có tác động trực tiếp đến sản xuất ở các làng nghề Sóc Sơn chính là mặt bằng sản xuất. Các hộ gia đình làng nghề Sóc Sơn thì chủ yếu sản xuất tại nhà, nơi ở cũng chính là nơi sản xuất. Còn các HTX làng nghề thì đều sản xuất tập trung trên một diện tích đất rất chật hẹp chỉ khoảng từ 1000-3000 m2. Nói chung mặt bằng sản xuất của các làng nghề Sóc Sơn là rất nhỏ bé và chật hẹp. Đặc biệt với đặc điểm của đa số các làng nghề Sóc Sơn là sản phẩm dễ bị mốc, mọt khi có dù chỉ một chút nước mưa vào. Bởi vậy, điều kiện mặt bằng chật hẹp nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo quản chất lượng sản phẩm. Một vấn đề nữa phát sinh khi mặt bằng sản xuất chật hẹp là hạn chế việc mở rộng phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ và khách hàng bởi không thể mở rộng sản xuất do mặt bằng không có. Một số HTX có khả năng vốn để đầu tư mở rộng mặt bằng như HTX Đại Dương nhưng việc mua đất, thuê đất với diện tích hợp lý và thời gian dài là điều rất khó khăn và vẫn đang là vấn đề nhức nhối hiện nay của HTX. Và nếu qua lâu mà vẫn không thể thuê được mặt bằng sản xuất ở xã Phú Cường thì HTX có ý định mở rộng sản xuất ra xã Quang Minh-Mê Linh-Vĩnh Phúc bởi ở đó họ có thể kiếm mặt bằng sản xuất dễ dàng hơn. Đây là một báo động đối với các ngành chức năng của huyện cần quan tâm giải quyết. Bởi vậy, nhu cầu mở rộng mặt bằng sản xuất đang là vấn đề bức xúc, nổi cộm và cần giải quyết trước mắt của các làng nghề Sóc Sơn. 2.2.3. Thị trường đầu ra. Hiện nay, thị trường đầu ra chủ yếu của các LNTT huyện Sóc Sơn vẫn là thị trường nội địa, và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài vẫn rất hạn chế. Sản phẩm của LNTT huyện Sóc Sơn ngoài các làng nghề như tre trúc Thu Thuỷ với sản phẩm độc đáo như nhà tre, cổng tre, đồ ngoại thất bằng tre, các làng nghề Mộc Lai Cách, Chiếu trúc Đại Dương đã và đang khẳng định và chiếm vị trí ngày càng lớn trên thị trường thì các sản phẩm mây tre đan của làng nghề Điệu Tân-xã Tân Hưng và Xuân Dương-xã Kim Lũ vẫn đang tìm lối ra cho mình. Hai làng nghề này mới bắt đầu có sự đầu tư đào tạo lao động sản xuất các sản phẩm mây tre, giang đan xuất khẩu dần thay cho các sản phẩm mây tre đan phục vụ nông nghiệp như thúng, dần, sàng. Trong khi các sản phẩm truyền thống mây giang đan của các nước như Trung Quốc, được nhà nước bảo trợ về nguồn nguyên liệu, xúc tiến thương mại, được miễn thuế thuê đất, các sản phẩm thường xuyên thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã hợp thị hiếu thì các sản phẩm của Việt Nam nói chung và làng nghề Sóc Sơn nói riêng vẫn phải tự thân vận động từ đào tạo lao động, thuê đất, xúc tiến quảng cáo, bán hàng và thậm chí còn tự tìm đầu ra cho mình theo kiểu mạnh ai lấy chạy. Bởi vậy khả năng cạnh tranh của các sản phẩm truyền thống Sóc Sơn vẫn rất hạn chế trên thị trường. Các LNTT Sóc Sơn chưa có những doanh nghiệp có khả năng, tiềm năng, thế mạnh chuyên về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt làng Điệu Tân và Xuân Dương còn chưa có cả các HTX thu gom sản phẩm, tìm đầu ra cho làng nghề mà chủ yếu vẫn là các hộ sản xuất tự tìm thị trường đầu ra cho mình thông qua các phiên chợ quê. Chính điều này đã hạn chế sự mở rộng và phát triển sản xuất của các làng nghề bởi họ chưa có sự yên tâm về thị trường đầu ra nên xuất hiện tâm lý dè dặt trong mở rộng và phát triển sản xuất, họ chỉ sản xuất cầm chừng để kiếm thêm, và vẫn coi đó là các nghề phụ những lúc nông nhàn. Trong khi đó, thu nhập họ tạo ra lại là nguồn thu nhập chính của họ. Bởi vậy vấn đề ở đây là cần phải có chính sách quảng cáo, xúc tiến bán hàng có sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương và các nhà đầu tư có kinh nghiệm. Những hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam nói chung và Sóc Sơn nói riêng được làm tỷ mỉ bằng tay nên có nét đẹp và độc đáo riêng của mình, khiến các hàng thủ công của Trung Quốc, Thái Lan không cạnh tranh được vì họ làm nhiều chi tiết bằng máy. Tuy vậy các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của chúng ta vẫn chưa phát huy được thế mạnh của mình. Nói chung, các làng nghề chưa có sự hiểu biết về các thị trường cũng như cách thức giới thiệu sản phẩm khi tiếp cận thị trường. Ở mỗi thị trường khác nhau, khách hàng có một sở thích khác nhau và lựa chọn khác nhau, trong khi chúng ta lại có thói quen sản xuất một mặt hàng và giới thiệu, xuất đi tất cả các thị trường. Ví dụ như: người phương tây rất chuộng những sản phẩm mới mang tính thời trang, còn các cơ sở nước ta lại sản xuất theo kiểu mình có sẵn chứ không phải thị trường cần nên không đáp ứng được thị hiếu. Ngay cả khi có được những đối tác để xuất khẩu với một số lượng, chúng ta cũng không đáp ứng được do năng lực sản xuất còn quá thấp (Ví dụ như HTX Đại Dương đã phải từ chối một đơn đặt hàng của Đài Loan trị giá 5 tỷ đồng do hạn chế về năng lực sản xuất). Phần do năng lực sản xuất còn quá thấp, các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ và rất thủ công, điều này làm các đối tác không hài lòng khi đặt quan hệ làm ăn lâu dài. Hiện nay, đa số các LNTT Sóc Sơn chưa có khả năng xuất khẩu trực tiếp nên vẫn phải thông qua các nhà nhập khẩu và các hệ thống phân phối đã khiến sản phẩm bị trượt giá nhiều. Sau khi phân tích ta thấy tình hình thị trường đầu ra đối với các LNTT đang gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong khâu xúc tiến sản phẩm và bán hàng. 2.3.4. Quản lý nhà nước và chính sách của nhà nước. 2.3.4.1. Về quản lý nhà nước. Trong thời gian qua, việc làng nghề được khôi phục và phát triển đều là do tự thân vận động. Việc không có một cơ quan nào quản lý và có trách nhiệm chăm lo sự phát triển của các LNTT cho thấy quản lý nhà nước đối với làng nghề như thế nào. Chính vì vậy, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm ở làng nghề hầu hết là do các có sở sản xuất tự lo liệu và như vậy đã dẫn đến tình trạng là cùng mặt hàng nhưng cơ sở nào kiếm được hợp đồng thì sản xuất phát triển như HTX Đại Dương, HTX Lai Cách, HTX Xuân Thu; còn không thì vẫn lại gặp khó khăn như làng nghề Xuân Dương và Điệu Tân. Để tránh tình trạng này, nhà nước cần có sự hỗ trợ, xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển làng nghề, quy hoạch sản phẩm xem loại sản phẩm nào sẽ chiếm ưu thế. Bên cạnh đó cần xúc tiến thành lập các tổ chức nghề nghiệp để các làng nghề có thể hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau về công nghệ cũng như đào tạo lao động. Hiện nay cũng như trước mắt chưa thấy có mấy viện khoa học hay trường nào, cơ quan nào nghiên cứu, hướng dẫn và giúp đỡ lang nghê cải tiến công cụ sản xuất, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hay đào tạo về kỹ thuật phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh ở làng nghề. 2.3.4.2. Chính sách của nhà nước. Trong những năm qua, mặc dù Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, nhưng vẫn cần nhanh chóng hoàn thiện, bổ xung thêm các chính sách sách và luật pháp mới để tạo điều kiện cho sản xuất nhất là sản xuất làng nghề phát triển. Về chính sách cho vay vốn: hiện nay chính sách về cho vay vốn, và cho vay vốn ưu đãi đối với những hộ gia đình sản xuất, những HTX làng nghề hầu như chưa có, thủ tục cho vay thì rườm rà, phức tạp. Do vậy, các hộ sản xuất muốn vay nhưng rất khó có thể vay được. Do vậy, các cơ quan chức năng, ngân hàng chính sách phải nên có những chính sách đổi mới về điều kiện vay vốn, thủ tục vay, chính sách lãi suất phù hợp đối với các hộ sản xuât làng nghề nói riêng và các hộ nông dân có nguyện vọng vay để phát triển kinh tế nói riêng. Chính sách khuyến khích sản xuất và cung ứng nguyên vật liệu: Hiện nay, huyện Sóc Sơn và thành phố đã có nhiều chính sách khuyến khích sản xuất nhưng vẫn chỉ là chính sách mà chưa đi vào thực tế, chưa biến thành hành động. Có các chính sách khuyến khích sản xuất nhưng vấn đề giải quyết mặt bằng sản xuất, cấp đất cho các cơ sở sản xuất vẫn rất khó khăn và thậm chí còn không hề có sự quan tâm giúp đỡ nào về vấn đề này. Cấp chính quyền chưa có sự phối hợp với nhau một cách hiệu quả. Về Nguyên vật liệu cho làng nghề thủ công mỹ nghệ như gỗ ngày càng khan hiếm do tình trạng buôn bán, xuất khẩu trái phép làm gia tăng sự khan hiếm nguyên vật liệu. Cho đến nay, việc mua nguyên vật liệu đều do cơ sở tự lo mà không hề có một tổ chức hay tập thể nào đứng ra lo việc này, trong khi một số nước như Trung Quốc, Inđônêxia thì đã có chính sách và hành động tập trung vùng nguyên liệu cho các làng nghề. 2.3.5. Vấn đề môi trường tại các làng nghề. Như trên ta đã thấy sản xuất tại các làng nghề có những hạn chế như: quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít nên việc cải tiến công nghệ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật gặp nhiều khó khăn, lao động thủ công là chính, sử dụng nguyên liệu rẻ tiền, chất thải (rắn, lỏng, khí..) có nồng độ ô nhiễm cao không được xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường xung quanh gây ra ảnh xấu đến sức khoẻ người lao động và sức khoẻ cộng đồng. Ở làng nghề mộc như mộc Lai Cách: yếu tố gây ô nhiễm môi trường chính tại đây là tiếng ồn, bụi, hơi dung môi và nhiệt. Tiếng ồn phát sinh từ các máy xẻ gỗ, máy cưa , máy tiện, máy bào,máy phun sơn, máy chuốt, xẻ mây song…Tại các vị trí này, tiếng ồn vượt 85 dBA, cá biệt tại khu vực làm việc bên cạnh các máy xẻ gỗ, chuốt, xẻ mây song tiếng ồn vượt 95 dBA. Do đặc thù là làng nghề nên nơi sản xuất và nhà ở liền kề nhau, điều này làm cho người công-nông dân và gia đình họ phải chịu đựng tiếng ồn lớn đến cả những lúc nghỉ ngơi. Có nhiều gia đình mức ồn đo được trong phòng khách, phòng ngủ lên tới 78 dBA, vượt quá tiêu chuẩn cho phép tiếng ồn trong khu dân cư (tiêu chuẩn XD: 175:1990, mức tiếng ồn cho phép là : từ 22h-6h: 40dBA; từ 6h-22h: 55 dBA). Do không gian chật hẹp, không có vùng đệm nên tiếng ồn mà các cơ sở sản xuất này gây ra cho khu vực xung quanh là khá cao, tại nhiểu vị trí trước cửa nhà, mức tiếng ồn lên tới 80-82 dBA. Các cấp chính quyền và người dân địa phương các làng nghề đều nhận thức được khá rõ về môi trường, song các làng nghề với tính chất là những cơ sở sản xuất hộ gia đình nhỏ, thiếu vốn, cơ sở vật chất nghèo nàn, chắp vá thiếu đồng bộ thì vấn đề ô nhiếm môi trường có thể xảy ra hay không chỉ được tính bằng thời gian nhanh hay chậm mà thôi. Như vậy, giải quyết ô nhiễm môi trường tại các làng nghề đang và sẽ là vấn đề nan giải. Nan giải ở chỗ làm sao phải cân bằng được giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển làng nghề Sóc Sơn trong thời gian tới. 3.1. Định hướng phát triển làng nghề Sóc Sơn trong thời gian tới. 3.1.1. Nâng cao vai trò, vị trí của LNTT trong quá trình CNH-HĐH nông thôn. Hiện nay, việc đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn theo hướng CNH-HĐH, trong đó vấn đề chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn là căn cứ quan trọng để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trên phạm vi cả nước khi chuyển sang giai đoạn phát triển theo hướng CNH-HĐH. Xu hướng của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng CNH-HĐH, đổi mới bộ mặt kinh tế-xã hội nông thôn, nâng cao thu nhập, sức mua và đời sống cho nông dân, giảm sự phân hoá giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn về mức sống cũng như sự hưởng thụ các thành quả do công cuộc đổi mới đem lại. Lao động nông thôn Việt Nam nói chung, huyện Sóc Sơn nói riêng là lao động nông nghiệp với kỹ thuật canh tác lạc hậu, chủ yếu vẫn là lao động thuần nông, năng suất lao động, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp và không ổn định. Các hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp theo hướng “ly nông bất ly hương” cũng chưa có tác động đáng kể trong việc tạo việc làm cho nông dân vào những tháng nông nhàn, lao động trong các làng nghề thời gian qua có tăng lên đáng kể song so với dân số nông thôn thì vẫn chiếm tỷ trọng rất ít ỏi. Bởi vậy luồng lao động di cư tự do từ nông thôn ra thành thị để kiếm việc làm vẫn ngày càng tăng, làm nảy sinh thêm nhiều hậu quả xấu về mặt xã hội cho cả khu vực thành thị cũng như nông thôn. Do vậy, để đánh giá được đầy đủ vai trò của phát triển ngành nghề nông thôn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, cần căn cứ vào đầu ra của lao động, và đầu vào ngành nghề tại thời điểm xuất phát và tại thời điểm đánh giá. Trong đó cần chú ý cả về cơ cấu số lượng và chất lượng trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất là chuyển dịch lao động nông nghiệp từ độc canh, thuần lúa, tự cung tự cấp sang lao động sản xuất nông nghiệp hàng hoá đa canh với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Thứ hai là chuyển dịch lao động thuần nông sang lao động kiêm ngành nghề. Thứ ba là chuyển dịch lao động từ thuần nông và kiêm ngành nghề sang lao động chuyên hoạt động trong khu vực ngành nghề phi nông nghiệp. Thứ tư là chuyển dịch lao động từ lao động thủ công sang lao động kỹ thuật có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Thứ năm là chuyển dịch từ lao động nông thôn sang lao động thành thị trong quá trình phát triển đô thị hoá và mở rộng thị trường lao động trong khu vực. 3.2.2. Khôi phục và phát triển LNTT, mở mang các làng nghề mới. Phát triển làng nghề gắn với lang nghề văn hoá du lịch. Làng nghề là điểm dân cư tập trung , có nhiều loại hình sản xuất với quy mô vừa và nhỏ, phương pháp tổ chức đa dạng, phong phú gắn bó với nông thôn; có thể sử dụng nguyên liệu tại chỗ, giải quyết việc làm cho một số lượng lao động xã hội; đã góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Vì vậy cần tích cực củng cố và phát triển LNTT, mở mang làng nghề mới trong nông thôn Sóc Sơn theo hướng sau: Thứ nhất là củng cố làng nghề hiện có. Ổn định được sản xuất kinh doanh, tổ chức sản xuất từng hộ, từng tổ chức kinh tế chặt chẽ, tổ chức các dịch vụ sản xuất hợp lý. Tổ chức tiếp thị, từ đó nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, cải tiến thay đổi mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm phù hợp và có biện pháp củng cố, mở rộng thị trường tiêu thụ. Các cơ sở quản lý ngành, các huyện cần hướng dẫn giúp đỡ các làng nghề thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước. Thứ hai là xây dựng mô hình làng nghề mới trong thời kỳ đẩymạnh CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Xây dựng quy hoạch Kinh tế xã hội của làng nghề trong những năm trước mắt và phương pháp phát triển lâu dài. Nếu có điều kiện kết hợp xây dựng làng văn hoá thành “làng nghề-văn hóa du lịch”. Xây dựng mô hình quản lý theo quy định của pháp luật và phù hợp với yêu cầu của quá trình phát triển làng nghề. Xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy hoạch bao gồm: nhà xưởng sản xuất, khu vực trưng bày, giới thiệu và bán sản phẩm, kết hợp với hệ thống giao thông thuỷ lợi, điện, trường học…và các điều kiện cần thiết cho hệ thống xử lý môi trường. Sở xây dựng phối hợp với các ngành liên quan (địa chính, giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn..) cùng với huyện giúp đỡ quy hoạch cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16602.DOC
Tài liệu liên quan