Đề tài Vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002-thực trạng và giải pháp

Tài liệu Đề tài Vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002-thực trạng và giải pháp: Trường đại học ngoại thương Khoa Kinh tế ngoại thương Khóa luận tốt nghiệp Đề tài: Vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức trong ngành giáo dục ở Việt nam giai đoạn 1993-2002-Thực trạng và giải pháp Giáo viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Trọng Hải Sinh viên thực hiện : Phan Thu Thuỷ Lớp : Nhật 2- K38 F-KTNT Hà nội - 2003 trường đại họC khoa học tự nhiên tiểu luận môN: lý luận day học đại học Đề Tài: bản chất của quá trình dạy học đại học thực trạng thực hiện chúng ở trường đại học khoa học tự nhiên Người thực hiện : Nguyễn Sỹ Hải hà nội: 5 - 2000 Danh mục từ viết tắt STT Từ viết tắt Tên đầy đủ Nội dung chính 1 ODA Official Development Assistance Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức 2 BGD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo BKH&ĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư 4 OECD Organization for Economic Cooperation & Development Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển 5 DAC Development Assistance Committee ủy ban Hỗ trợ phát triển 6 WB World Bank Ngân ...

doc114 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002-thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường đại học ngoại thương Khoa Kinh tế ngoại thương Khóa luận tốt nghiệp Đề tài: Vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức trong ngành giáo dục ở Việt nam giai đoạn 1993-2002-Thực trạng và giải pháp Giáo viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Trọng Hải Sinh viên thực hiện : Phan Thu Thuỷ Lớp : Nhật 2- K38 F-KTNT Hà nội - 2003 trường đại họC khoa học tự nhiên tiểu luận môN: lý luận day học đại học Đề Tài: bản chất của quá trình dạy học đại học thực trạng thực hiện chúng ở trường đại học khoa học tự nhiên Người thực hiện : Nguyễn Sỹ Hải hà nội: 5 - 2000 Danh mục từ viết tắt STT Từ viết tắt Tên đầy đủ Nội dung chính 1 ODA Official Development Assistance Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức 2 BGD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo BKH&ĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư 4 OECD Organization for Economic Cooperation & Development Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển 5 DAC Development Assistance Committee ủy ban Hỗ trợ phát triển 6 WB World Bank Ngân hàng thế giới 7 ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu á 8 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài 9 TH Tiểu học 10 THCS Trung học cơ sở 11 THDN Trung học dạy nghề 12 THPT Trung học phổ thông 13 ĐH&SĐH Đại học và sau Đại học 14 GDPCP Giáo dục phi chính quy 15 SEAMEO Tổ chức Bộ trưởng giáo dục các nước Đông Nam á 16 CNH-HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Toàn thể nhân loại đã bước vào những năm đầu tiên của thế kỷ XXI- thế kỷ văn minh, trong đó tri thức và công nghệ là hai đặc trưng chủ yếu nhất. Việt Nam tuy còn nghèo về kinh tế nhưng những thành tựu đạt được trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua cũng đã tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần để chuẩn bị cải cách, bước vào thế giới văn minh, hoà nhập với cộng đồng. Nhưng cần có chiến lược phát triển như thế nào để có thể khẳng định mình trên trường quốc tế, đó là một câu hỏi lớn đặt ra cho Việt Nam cũng như cho các quốc gia khác trên thế giới. Chính trong Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001- 2010 là “đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá”. Để đạt mục tiêu đó thì “ con người và nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng nhất, quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH – HĐH nên cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục” (Văn kiện Đại hội Đảng IX). Vì vậy có thể nói phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế ổn định, lâu dài và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo là đầu tư cho con người - động lực trực tiếp của sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội. Song việc đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo là rất tốn kém mà hiệu quả của nó lại không thấy ngay được, hơn nữa nguồn kinh phí dành cho phát triển sự nghiệp giáo dục còn hạn hẹp nên việc mở rộng khai thác nguồn tài chính cho sự nghiệp giáo dục đào tạo có ý nghĩa rất quan trọng nhằm phát triển nền kinh tế – xã hội ở nước ta. Trong những năm qua, do ảnh hưởng của công cuộc “đổi mới” nên công tác quan hệ quốc tế của nước ta, đặc biệt là trong ngành giáo dục và đào tạo có nhiều chuyển biến thuận lợi. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) do các tổ chức song phương, đa phương tài trợ cho ngành giáo dục trở nên vô cùng quan trọng. Việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục đã góp phần cải thiện môi trường giáo dục ở Việt Nam song đồng thời cũng vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc và trở ngại. Do đó, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA như thế nào để có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung và phát triển ngành giáo dục nói riêng là những vấn đề cấp thiết của đất nước, nên cần được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận: Khóa luận tập trung vào nghiên cứu những vấn đề sau: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ODA. Nghiên cứu tổng quát về vai trò của nguồn vốn ODA đối với ngành giáo dục ở Việt Nam. Phân tích tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993- 2002. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng thu hút và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Khoá luận nghiên cứu về vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002 - Thực trạng và giải pháp. Đây là một vấn đề có liên quan đến nhiều nhà tài trợ thuộc nhiều tổ chức, nhiều quốc gia với các điều kiện tài trợ và quy trình thủ tục khác nhau, mà lại chưa có một bộ ngành nào tổng hợp được đầy đủ số liệu nguồn vốn ODA đầu tư cho ngành giáo dục. Vì vậy, khoá luận chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất của các dự án đầu tư cho giáo dục bằng nguồn vốn ODA và đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đã vận dụng kết hợp phương pháp thống kê, phân tích hệ thống và các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh, tổng hợp ... để giải quyết các nội dung nghiên cứu của khóa luận. Các phương pháp đó được kết hợp chặt chẽ với nhau dựa trên cơ sở các quan điểm, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách sử dụng nguồn vốn ODA của Đảng và Nhà nước. 5. Bố cục của khóa luận Tương ứng với nội dung nghiên cứu, ngoài phần lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, các từ viết tắt, phụ lục, khoá luận được kết cấu như sau: Chương I: Vai trò của nguồn vốn ODA đối với ngành giáo dục ở Việt Nam. Chương II: Thực trạng tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993- 2002. Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian chuẩn bị không nhiều, hơn nữa việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam còn khá mới mẻ, chưa được tổng kết, rút kinh nghiệm thường xuyên nên khoá luận không tránh khỏi thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để em có thể học hỏi, rút kinh nghiệm, hoàn thiện khoá luận cũng như trau dồi kiến thức cho bản thân. Em xin chân thành cảm ơn thạc sĩ Nguyễn Trọng Hải về sự hướng dẫn tận tình trong quá trình viết khoá luận. Em cũng xin cảm ơn các cán bộ công tác tại Vụ Quan hệ Quốc tế- Bộ Giáo dục và Đào tạo (BGD & ĐT), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (BKH & ĐT) đã giúp đỡ, cung cấp các tài liệu cần thiết để em có thể hoàn thành khóa luận này. Chương 1 Vai trò của nguồn vốn ODA đối với ngành giáo dục ở Việt Nam I. Tổng quan về ODA 1. Quá trình hình thành và phát triển của ODA. 1.1. Khái niệm về ODA Hiện nay, trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về ODA. Theo định nghĩa của Cơ chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA (ban hành kèm theo Nghị định 17/2001/NĐ- CP ngày 04/05/2001 của Chính phủ) thì hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là sự hợp tác phát triển giữa nước CHXHCN Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, bao gồm các hình thức chủ yếu sau: Hỗ trợ cán cân thanh toán. Hỗ trợ theo chương trình. Hỗ trợ kỹ thuật. Hỗ trợ theo dự án. ODA có thể ở dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi (lãi suất thấp, thời gian vay dài ). ODA cho vay ưu đãi có yếu tố không hoàn lại ít nhất đạt 25% giá trị khoản vay. 1.2. Nguồn gốc lịch sử của ODA: ODA là một bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt của nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế. ODA hình thành và ra đời từ những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các nước công nghiệp phát triển đã thoả thuận về sự giúp đỡ dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi cho các nước đang phát triển. Ngày 14-2-1960, tại Pari đã ký thoả thuận thành lập tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (Organisation for Economic Cooperation Development_OECD).Tổ chức này bao gồm 20 nước thành viên, ban đầu đã đóng góp phần quan trọng nhất trong việc cung cấp ODA song phương và đa phương. Trong khuôn khổ hợp tác và phát triển, các nước OECD đã lập ra các Uỷ ban chuyên môn, trong đó có ủy ban Hỗ trợ phát triển (Development Assistance Committee-DAC), nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. Tham gia ủy ban này hiện nay có 20 nước gồm: Ailen, Thuỵ Điển, Thụy Sĩ, Nhật, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Tây Đức, Italia, Hà Lan, Tây Ban Nha, Lucxembua, New Zealand, Anh, Mỹ …và ngoài ra còn có thêm ủy ban cộng đồng Châu Âu EU. Các nước thành viên của nhóm DAC thông báo cho ủy ban khoản đóng góp cho các chương trình phát triển và trao đổi với nhau về những vấn đề liên quan đến chính sách viện trợ phát triển. Năm 1996, DAC cho ra đời bản báo cáo: “Kiến tạo thế kỷ XXI-Vai trò của hợp tác và phát triển’’. Báo cáo này đã nói tới một vai trò khác của viện trợ ngoài vai trò cung cấp vốn. Viện trợ phát triển phải chú trọng vào việc hỗ trợ cho các nước tiếp nhận có được thể chế và những chính sách phù hợp chứ không phải chỉ cung cấp vốn . 1.3. Các điều kiện cơ bản để được nhận tài trợ nguồn vốn ODA: Các quốc gia thoả mãn hai điều kiện cơ bản sau thì sẽ được nhận tài trợ nguồn vốn ODA: Điều kiện thứ nhất: GDP bình quân trên đầu người thấp, đặc biệt là các nước có mức GDP bình quân trên đầu người dưới 220 USD/ người/ năm. Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn của nước tiếp nhận phù hợp với chính sách bên cấp ODA về phương hướng ưu tiên sử dụng. 1.4. Mục tiêu của ODA: Kể từ khi ra đời cho đến nay, viện trợ ODA luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song. - Mục tiêu thứ nhất: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở những nước đang phát triển. Động cơ đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này là do bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế. Mỹ cũng như nhiều nhà tài trợ khác quy định phải dùng khoản tiền viện trợ của họ để mua hàng hoá của Mỹ, hoặc trực tiếp lấy hàng hoá dư thừa của Mỹ thay cho khoản viện trợ. Mỹ còn đòi nước nhận viện trợ cung cấp vật tư chiến lược trọng yếu, dành cho Mỹ những điều kiện đầu tư thuận lợi. Xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mọi mặt: an ninh, kinh tế, chính trị khi các nước nghèo tăng trưởng. Mối quan tâm mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng, vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo... đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế, không phân biệt nước giàu nước nghèo. Mục tiêu thứ hai: Tăng cường lợi ích chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng nguồn vốn ODA như một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận nguồn vốn ODA. Mỹ là một trong những nước dùng nguồn vốn ODA làm công cụ để thực hiện ý đồ gây “ảnh hưởng chính trị trong thời gian ngắn”. Chính sách viện trợ của Mỹ nhằm một mặt dùng viện trợ kinh tế để bày tỏ sự thân thiện, tiến đến gần gũi thân thiết về chính trị, mặt khác, tiếp cận với quan chức cao cấp của các nước phát triển để mở đường cho hoạt động ngoại giao trong tương lai. Mỹ “lái” các nước nhận viện trợ chấp nhận một lập trường nào đó của Mỹ trong ngoại giao và tác động, can thiệp vào sự phát triển chính trị của các nước đang phát triển. Viện trợ kinh tế là thủ đoạn chính trong việc tiến hành thâm nhập văn hoá tư tưởng đối với các nước nhận viện trợ. Chẳng hạn, đòi các nước nhận viện trợ đề cao vai trò của kinh tế cá nhân, tiếp nhận tư tưởng, lối sống của các nước tài trợ. Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị, mà còn là một công cụ lợi hại để kiếm lời cả về kinh tế lẫn chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ gò ép các nước nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Vì vậy, khi nhận viện trợ các nước nhận viện trợ cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hoà bình. 1.5. Ưu đãi và trục lợi của ODA : Cũng như nhiều nguồn vốn khác, ODA cũng có ưu đãi và trục lợi riêng : 1.5.1. Ưu đãi của ODA : Vốn ODA có thời hạn cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài (chỉ trả nợ lãi, chưa trả nợ gốc). Vốn ODA của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) có thời gian hoàn lại là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Thông thường, trong nguồn vốn ODA, có một phần là viện trợ không hoàn lại (tức là cho không). Yếu tố cho không dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh mức lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tín dụng thương mại trong tập quán quốc tế. Cho vay ưu đãi hay còn gọi là cho vay “mềm”. Các nhà tài trợ thường áp dụng nhiều hình thức khác nhau để làm “mềm” khoản vay, chẳng hạn kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng gắn với điều kiện thương mại thành tín dụng hỗn hợp. Tính ưu đãi của ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành cho những nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Thông thường, mỗi nước cung cấp viện trợ đều có những chính sách riêng của mình, họ tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý …). Đồng thời, mục tiêu ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. 1.5.2. Trục lợi của ODA : Các nước viện trợ đều không quên mưu cầu lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa đem lại lợi nhuận cho hàng hoá, dịch vụ, và tư vấn trong nước. Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá và dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu cao nhất (tới 65%); Thụy Sĩ chỉ yêu cầu 1,7%, Hà Lan 2,2%, hai nước này được coi là những nước có tỷ lệ ODA yêu cầu phải mua hàng hoá và dịch vụ của nhà tài trợ thấp và thấp hơn cả là New Zealand 0%. Nhìn chung, 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ Nguồn Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 268 tháng 9/2000 . 1.6. Phân loại ODA: Tuỳ theo từng tiêu chí phân loại mà người ta có thể phân loại ODA như sau: 1.6.1. Theo tính chất: - Viện trợ không hoàn lại: các khoản cho không, không phải trả lại. - Viện trợ có hoàn lại: các khoản cho vay ưu đãi (vay tín dụng với điều kiện “mềm”) - Viện trợ hỗn hợp: Gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện theo hình thức vay tín dụng. 1.6.2. Theo mục đích: - Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi. - Hỗ trợ kỹ thuật: là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực v.v... loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại. 1.6.3. Theo điều kiện : - ODA không ràng buộc: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng. - ODA có ràng buộc: + Bởi nguồn sử dụng: có nghĩa là việc mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước ngoài tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc các công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương). + Bởi mục đích sử dụng: chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể. - ODA có thể ràng buộc một phần: một phần chi ở nước viện trợ, phần còn lại chi ở bất kỳ nơi nào. 1.6.4. Theo hình thức: - Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể, có thể là hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi. - Hỗ trợ phi dự án gồm các loại hình như sau: + Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách. + Hỗ trợ trả nợ. + Viện trợ chương trình: là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào. 1.7. Các nhà tài trợ ODA: Hiện nay có nhiều nước và tổ chức quốc tế cho vay, cung cấp tài trợ ODA. Nhìn chung, các nước đều có chiến lược tài trợ riêng, đồng thời cũng có những điều kiện về thủ tục, quy chế cung cấp tài trợ khác nhau. Tiềm lực kinh tế là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến lượng vốn cho vay. Tuy nhiên, nguồn vốn vay và cung cấp tài trợ còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: Quan điểm chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi dựa trên vấn đề nhân đạo và mối quan tâm đến việc ổn định tình hình kinh tế xã hội quốc tế. Mối quan hệ truyền thống đối với các nước khác. Tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư cách bạn hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên vật liệu, lao động). Chính sách đối ngoại, an ninh, lợi ích kinh tế xã hội. Các nhà tài trợ ODA gồm các nước tài trợ song phương và các tổ chức tài trợ đa phương 1.7.1. Các nước tài trợ song phương: a. Các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV, CMEA): Trong hai thập kỷ qua, Liên Xô (cũ) là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam: 12,6 tỷ Rup chuyển nhượng. Nhưng đến năm 1990, Liên Xô (cũ) tan rã, kéo theo các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, CMEA giải thể khiến cho nguồn tài trợ này bị chấm dứt. b. Các nước thuộc tổ chức OECD: Nguồn vốn ODA có nguồn gốc chủ yếu từ các nước OECD. Tổ chức OECD gồm 24 nước thành viên, là những nước công nghiệp phát triển, những nước xuất khẩu tư bản và cung cấp ODA cho các nước đang phát triển, gồm: Anh, áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Canada, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Mỹ, Nhật Bản, New Zealand, Na Uy, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, ... Các nước thuộc tổ chức OECD có tiềm lực kinh tế lớn, đồng thời cũng là những nước cung cấp ODA chủ yếu trên thế giới. Tuy giá trị tuyệt đối còn thấp song Thụy Điển và Hà Lan lại là những nước có tỷ lệ đóng góp vào nguồn vốn này cao nhất so với GDP của nước mình (0,89% và 0,98% so với mức trung bình 0,36% của toàn bộ tổ chức OECD). Đối với việc tài trợ nguồn vốn ODA, vai trò quan trọng hàng đầu vẫn là Hoa Kỳ và Nhật Bản (10.141 tỷ USD và 9.134 tỷ USD vào năm 1988). Những năm gần đây, vai trò của Hoa Kỳ giảm tương đối; còn vai trò của Nhật Bản tăng lên và trở thành nguồn đóng góp quan trọng nhất Nguồn Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 268 tháng 9/2000 . c. Các nước đang phát triển: Hiện nay, một số nước đang phát triển cũng cung cấp ODA như ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, ... Việc tài trợ ODA của các nước này còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: quan điểm chính trị, quan điểm cộng đồng, nhân đạo, ổn định kinh tế- xã hội quốc tế. Nhưng nhìn chung lượng tài trợ của những nước này nhỏ, không đáng kể. 1.7.2. Các tổ chức tài trợ đa phương: Các tổ chức tài trợ đa phương đang hoạt động gồm có các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, Liên minh Châu Âu, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế. a. Các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc: Hầu hết viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc (UNDP, UNESCO, UNICEF, WEP, ...) đều được thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưu tiên cho cho các nước đang phát triển có thu nhập thấp và không ràng buộc về các điều kiện chính trị nặng nề. Viện trợ thường tập trung cho các nhu cầu có tính chất xã hội như xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, văn hoá- xã hội, sức khoẻ- dân số, bảo vệ môi trường... b. Liên minh Châu Âu (EU): EU là tổ chức có tính chất kinh tế xã hội của 15 nước công nghiệp phát triển ở châu Âu, EU có quỹ lớn, song chủ yếu ưu tiên viện trợ cho các thuộc địa cũ ở châu Phi, Nam Thái Bình Dương. Những lĩnh vực mà EU coi trọng là dân số, bảo vệ môi trường, phát triển dịch vụ, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo. c. Các tổ chức phi chính phủ (NGOs- Non Governmental Organization): Trên thế giới hiện có hàng trăm tổ chức NGOs hoạt động theo các tôn chỉ, mục đích khác nhau: nhân đạo, tri thức, y tế, tôn giáo. Các tổ chức NGOs thường có số vốn nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn quyên góp hoặc nhờ sự tài trợ của các chính phủ, thường muốn hoạt động giữa các cá nhân với cá nhân của nước viện trợ và các nước nhận viện trợ. Quy mô viện trợ thường nhỏ, khả năng cung cấp viện trợ và thực hiện viện trợ thay đổi tuỳ từng thời kỳ nhưng thủ tục viện trợ thường đơn giản, thực hiện lại nhanh. d. Các tổ chức tài chính quốc tế: Ngân hàng thế giới (WB- World Bank): Ngân hàng phát triển Châu á (ADB- Asian Development Bank) Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF- International Monetary Fund) Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) 2. Các khâu chủ yếu trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Từ tình hình tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian qua có thể nhận xét rằng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA là một quá trình với nhiều công việc khác nhau, có thể biểu đạt thành 3 khâu chủ yếu: - Thu hút ODA - Giải ngân ODA - Sử dụng ODA 2.1. Thu hút ODA Đây chính là quá trình vận động các nhà tài trợ để có thể có được nguồn tài trợ ODA. Quá trình vận động ODA này có thể được tiến hành ở nhiều cấp khác nhau. Đó là thông qua các diễn đàn như Hội nghị nhóm tư vấn vì hỗ trợ phát triển dành cho Việt Nam, các hội nghị điều phối viện trợ ngành, các cuộc tiếp xúc giữa các địa phương, cán bộ, các dự án với các nhà tài trợ trên cơ sở quy hoạch ODA, chương trình đầu tư công cộng, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương, quy hoạch phát triển ngành… Ngoài ra cần tìm hiểu và nắm vững các chính sách và những lĩnh vực ưu tiên cung cấp ODA của từng nhà tài trợ, nắm được xu hướng và theo dõi sự vận động của tỷ giá hối đoái. Đặc biệt trong xu thế tổng nguồn vốn ODA của thế giới ít có xu hướng gia tăng đáng kể, điều kiện cung cấp giảm bớt tính ưu đãi, có sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong việc tiếp nhận ODA thì việc làm thế nào để thu hút được nhiều nguồn vốn ODA là vô cùng quan trọng, đòi hỏi sự phối hợp của tất cả các bộ, ngành, và các địa phương. 2.2. Giải ngân ODA Sau khi đã thu hút được nguồn vốn ODA thì vấn đề giải ngân ODA cũng là vấn đề rất đáng lưu tâm. Số Rẫn ODA giải ngân cho từng ngành, lĩnh vực, dự án sẽ phộ thuộc vào chiến lược phát triển#kinh tế-xã hội giai đoạn đó và ớêu cầu cần đầu tư của ngành. ểăn cứ vào hướnz dẫn củaẵBKH & ĐT, bộ, ngành, cơ quan nào có nhu cầu về ODA thì lập công văn đề nghị và kèm theo đề cương dự án, tham khảo ý kiến của các cơ quan tổng hợp và các bộ có liên quan trình lên để Chính phủ quyết định. Sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục dự án ODA, BKH & ĐT thông báo cho bên nước ngoài. Trường hợp bổ sung, điều chỉnh danh mục dự án sử dụng ODA đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, BKH & ĐT phải trình lại trên cơ sở tổng hợp ý kiến bằng văn bản của các cơ quan có nhu cầu ODA và thoả thuận của bên nước ngoài. Trường hợp ngoại lệ, bên nước ngoài chủ động đề xuất dự án với cơ quan có nhu cầu ODA, BKH & ĐT trình Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở ý kiến bằng văn bản của cơ quan có nhu cầu về vốn ODA và đề cương dự án kèm theo. Từ đó, số tiền giải ngân sẽ được bên nước ngoài quyết định. 2.3. Sử dụng ODA Sau khi đã thu hút được nguồn vốn ODA, công việc giải ngân cũng đã bắt đầu tiến hành thì việc sử dụng nguồn vốn ODA như thế nào là rất quan trọng, quyết định hiệu quả của toàn bộ công việc. Số vốn ODA đã được giải ngân sẽ được Chính phủ lên kế hoạch phân bổ sử dụng cho các ngành, lĩnh vực, dựa trên yêu cầu phát triển của ngành cũng như của đất nước. Từ đó, các bộ ngành lại lên những kế hoạch cụ thể theo định hướng ưu tiên cho các vấn đề cần giải quyết trước. Đồng thời, từ trung ương đến địa phương phải lập ra bộ máy quản lý hệ thống các vấn đề, các chương trình, dự án có liên quan đến nguồn vốn ODA. Hệ thống quản lý này sẽ thường xuyên theo dõi, giám sát xem nguồn vốn ODA đã được phân bổ cho các ngành, các lĩnh vực được sử dụng như thế nào, từ đó rút ra những kết quả đã đạt được và những vấn đề cần khắc phục. Tất cả những công việc trên luôn được tiến hành phối hợp giữa hai phía là Việt Nam và phía nhà tài trợ nước ngoài. 3. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự phát triển đất nước. Thời gian qua, nguồn vốn ODA đã có ý nghĩa quan trọng và có tác dụng tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta. Thứ nhất, nhờ sự tiếp nhận nguồn vốn ODA mà chúng ta đã có điều kiện tạo lập một môi trường thuận lợi cho sự phát triển đất nước nói chung. Do những đặc điểm mang tính chất ưu đãi, nguồn vốn ODA được Chính phủ sử dụng vào các mục đích: Thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia, đặc biệt là các dự án cải tạo, nâng cấp, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội để làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước. - Cải thiện chất lượng giáo dục, y tế, môi trường sinh thái dinh dưỡng. Bù đắp thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế (do nhập siêu) để Chính phủ có đủ thời gian để quản lý tốt hơn ngân sách trong giai đoạn cải cách hệ thống tài chính hay chuyển đổi hệ thống kinh tế (viện trợ để điều chỉnh cơ cấu). Thực hiện các chương trình nghiên cứu tổng hợp nhằm hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam hoạch định chính sách hay cung cấp thông tin cho đầu tư tư nhân bằng các hoạt động điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên, hiện trạng kinh tế- kỹ thuật- xã hội các ngành, các vùng lãnh thổ. Nhờ thế mà nước ta cải thiện được điều kiện về cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, môi trường; khung thể chế và pháp lý cho các ngành cụ thể cũng được xây dựng và tăng cường hơn, tạo thuận lợi cho sự phát triển đất nước. Thứ hai, nhờ có nguồn vốn ODA mà đã khuyến khích thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Một trong các khó khăn lớn của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước khi có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam là điều kiện cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém khiến cho chi phí sản xuất và chi phí bán hàng cao hơn dự tính, giảm tính sinh lãi và tính khả thi của việc đầu tư. Thậm chí, nhiều nhà đầu tư còn phải tự xây dựng nguồn cung cấp điện cho mình, đặc biệt là ở các khu công nghiệp. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng luôn lo lắng tới tính ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý, v.v ... Các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ nhiều nước cung cấp ODA cho Việt Nam với khối lượng cam kết cho vay lớn thể hiện sự tin tưởng của các bên cung cấp ODA vào sự phát triển của Việt Nam, kéo theo lòng tin của một loạt các nhà đầu tư tư nhân. Đồng thời, nguồn vốn ODA góp phần xây dựng các cơ sở hạ tầng quan trọng cho nền kinh tế và giải quyết các khó khăn tài chính của Chính phủ Việt Nam, góp phần giảm nhẹ và xua tan những mối lo lắng của các nhà đầu tư, làm họ quan tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Hơn nữa, việc hình thành và thực hiện các chương trình, các dự án có vốn ODA đã tạo ra những cơ hội lớn cho các công ty, các nhà sản xuất trong và ngoài nước, đó là tạo ra nhu cầu lớn về các loại dịch vụ và hàng hoá đủ loại. Các nhu cầu này được đảm bảo tương đối chắc chắn về khả năng thanh toán như các chương trình có vốn ODA đã từng được thực hiện trên thế giới và các nước xung quanh Việt Nam. Vì vậy, có thể nói Việt Nam là mảnh đất vàng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đối với nước ta, nhu cầu về vốn để thực hiện công cuộc CNH – NĐH rất lớn. Vì vậy, chúng ta cần phải tranh thủ mọi nguồn vốn, trong đó có cả nguồn vốn ODA và các nguồn viện trợ khác. Trong những năm trước đây, nguồn viện trợ chủ yếu là từ các tổ chức NGOs và nguồn ODA từ các nước thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế (lớn nhất là Liên Xô cũ) và các nước DAC, OPEC (3 tỷ USD thời kỳ 1980- 1981 và 3,9 triệu USD thời kỳ 1995- 1996). Gần đây, chỉ riêng việc Nhật Bản tăng vốn ODA đã thúc đẩy các nhà đầu tư Nhật Bản tăng nhanh vốn FDI. Với việc Mỹ xoá bỏ cấm vận và với những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội và hoạt động đối ngoại vừa qua, chúng ta có cơ hội dự đoán rằng nguồn vốn ODA sẽ tiếp tục tăng lên cùng với nguồn FDI. Thứ ba, nguồn vốn ODA đã góp phần nâng cao điều kiện sống cho người dân. Mục tiêu chủ yếu của các dự án hay chương trình sử dụng nguồn vốn ODA đều nhằm cải thiện sống cho người dân, tăng phúc lợi công cộng và cải thiện điều kiện môi trường. Nhờ có nguồn vốn ODA, điều kiện về cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục và môi trường đã được nâng lên, nên đời sống của người dân Việt Nam cũng dần được cải thiện. Theo một cuộc điều tra của UNDP, SIDA, WB cùng phối hợp với Chính phủ Việt Nam thực hiện cho thấy vào năm 1992- 1993, 58,1% dân số Việt Nam sống dưới mức nghèo đói, nhưng đến năm 1998 thì thu nhập thực tế bình quân của các hộ gia đình đã tăng lên 39% và tỷ lệ hộ nghèo đã giảm gần một nửa xuống còn 37,4% và năm 2002 tỷ lệ này chỉ còn là 28,9%. Thêm vào đó, nguồn vốn ODA cũng đã làm cho một số chỉ tiêu kinh tế- xã hội trở nên tốt hơn như: số trẻ sơ sinh tử vong giảm xuống, số người chết do các bệnh có thể phòng ngừa cũng thấp hơn rất nhiều.. do hệ thống chăm sóc y tế cho người dân được cải thiện, người dân được hưởng một cuộc sống đầy đủ hơn. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người HDI của nước ta theo bảng xếp loại của UNDP 10 năm gần đây cũng đã có những tiến bộ đáng kể: từ 0,456 xếp thứ 121 tăng lên 0,682 xếp thứ 101/174, có nghĩa là vượt lên 19 bậc Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – BGD&ĐT – NXB Giáo dục 2002. . Đó là nhờ một phần không nhỏ vào vai trò của nguồn vốn ODA đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực của nước ta trong thời gian qua. II. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với ngành giáo dục ở Việt Nam 1. Vị trí ngành giáo dục đối với sự phát triển đất nước. Từ xưa, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã có truyền thống hiếu học và luôn đề cao giá trị của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển của đất nước nên giáo dục vốn luôn được coi là trọng tâm của quá trình phát triển, vì giáo dục giúp con người phát triển, sử dụng và tăng cường được năng lực của mình, giúp họ có khả năng quyết định và tham gia vào quá trình biến đổi của bản thân và của cả xã hội. Hơn nữa, giáo dục cũng là trọng tâm của quá trình nỗ lực vì một xã hội công bằng hơn, tốt đẹp hơn. Vì thế, đầu tư vào giáo dục không những mang lại lợi ích cho công dân, mà còn có ý nghĩa tích cực đối với toàn thể nền kinh tế nước ta. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn cần đẩy mạnh xây dựng sự nghiệp xây dựng CNH – HĐH đất nước thì vị trí ngành giáo dục lại càng trở nên quan trọng hơn. Chính trong Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cũng đã khẳng định “để đảm bảo thành công của sự nghiệp này, cần phải lấy việc phát huy nguồn nội lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Như vậy, thông qua giáo dục và đào tạo dân trí thành nguồn lực con người, trong đó có cả người tài, là sức mạnh nội sinh của từng người, của cả cộng đồng, của cả dân tộc và cả đất nước Việt Nam. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), các đại biểu cũng đã nhất trí quyết định đưa nước ta vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Và việc thực hiện công cuộc CNH – HĐH bằng giáo dục, đào tạo, bằng khoa học công nghệ là tư tưởng của thời đại ngày nay. Vì thế, dựa trên tình hình thực tế của đất nước cũng như những yêu cầu của thời đại, Đảng ta cũng đã chọn giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm “khâu đột phá” của thời kỳ mới. Hơn nữa, thực tế phát triển của các nước trong khu vực đã chứng minh một điều rằng phát triển giáo dục phải luôn đi trước một bước so với phát triển kinh tế. Vì vậy, việc đầu tư phát triển giáo dục là rất quan trọng. Nghị quyết của Đảng còn khẳng định: “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng nhất, không chỉ về tài chính mà là đầu tư về mọi mặt”. Do đó, sự ưu tiên cho giáo dục phải thể hiện bằng sự ưu tiên về chính sách, ưu tiên về đội ngũ cán bộ và ưu tiên về quản lý. Nếu thực hiện được những ưu tiên đó thì giáo dục mới đúng là quốc sách hàng đầu và quốc sách đó mới được thực hiện. 2. Các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục Với định hướng phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước là thực hiện xã hội hoá trong giáo dục đào tạo, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là những tiền đề khẳng định nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo không chỉ bằng nguồn ngân sách Nhà nước như trước đây mà là đa nguồn. 2.1. Các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục 2.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước Trong các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục - đào tạo thì nguồn ngân sách là quan trọng nhất và chiếm tỉ trọng chủ yếu. Đó là do quan điểm của Nhà nước coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, đầu tư cơ bản quan trọng nhất được mọi thành phần trong xã hội nhất trí cao. Như trong khoản 1 điều 89 Luật giáo dục đã ghi rõ: “Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tỉ lệ ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục”. Nguồn đầu tư này chủ yếu lấy từ nguồn chi thường xuyên, nguồn chi phát triển, xu hướng chung là chi cho giáo dục năm sau tăng hơn năm trước. Biểu đồ 1: Xu thế tăng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002 Đơn vị tính: % Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư Khoảng 85% chi công cộng cho giáo dục - đào tạo là từ ngân sách Nhà nước. Nhà nước đang cố gắng để nâng tỷ lệ chi cho giáo dục trong ngân sách Nhà nước lên ít nhất 18% vào năm 2005 và 20% vào năm 2010. Những khoản chi ngân sách Nhà nước này được phân bổ rộng rãi theo sự phân bố trách nhiệm hành chính của hai cấp Chính phủ: Trung ương và địa phương. 2.1.2. Nguồn vốn đóng góp của các doanh nghiệp Thực tiễn của Việt Nam trước đây cũng như nhiều nước cho thấy đào tạo tại nhà máy, công ty là một hình thức tổ chức đào tạo rất có hiệu quả về ngành nghề và chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn. Qua đó, huy động được nguồn vốn đáng kể cho công việc này. Tuy nhiên, ở Việt Nam sự huy động vốn cho phát triển giáo dục bằng phương pháp này còn rất hạn chế. Mới chỉ có những công ty lớn như FPT, các công ty kiểm toán ... là thực hiện phương pháp này. Nhờ thế mà một số sinh viên đã nắm được công việc trước khi ra làm việc, góp phần tăng hiệu quả công việc, giảm thời gian đào tạo. 2.1.3. Nguồn vốn đóng góp của nhân dân Đóng góp của nhân dân trong giáo dục đào tạo cũng là rất lớn, đó chính là khoản học phí thu được từ các cấp và các loại hình đào tạo. Trong điều kiện GDP bình quân đầu người còn thấp và phần lớn dân cư Việt Nam còn nghèo, ngân sách phân bổ cho giáo dục còn hạn hẹp, thì nguồn đóng góp này cũng rất quan trọng cho giáo dục đào tạo. Đặc biệt, mô hình trường bán công, dân lập, và tư thục với mức học phí cao hơn các trường công đang ngày càng mở rộng tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục hơn. 2.1.4. Nguồn vốn đóng góp của tổ chức xã hội ở Việt Nam có rất nhiều tổ chức xã hội đang hoạt động rất tích cực và có hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Nhiều tổ chức xã hội như Liên đoàn lao động, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên ... có những cơ sở đào tạo riêng như trường học, trung tâm đào tạo. Ngoài ra, những hoạt động của các tổ chức xã hội cho sự phát triển giáo dục đào tạo thường được thực hiện bởi những hình thức như lập các quỹ khuyến học và cấp học bổng cho các đối tượng đặc biệt, tổ chức các khoá huấn luyện cho hội viên, cung cấp các dịch vụ giáo dục đào tạo cho các nhóm dân cư bị thiệt thòi như quỹ hỗ trợ tài năng trẻ, quỹ học bổng Nguyễn Thái Bình, quỹ học bổng của hội sinh viên ... 2.2. Nguồn vốn đầu tư từ ngoài nước 2.2.1. Nguồn vốn ODA Trong tất cả các nguồn vốn từ ngoài nước đầu tư cho giáo dục, thì nguồn vốn ODA là nguồn vốn quan trọng nhất và cũng chiếm tỉ lệ đáng kể nhất (thường chiếm 10-15% kinh phí đầu tư cho giáo dục). Những nước, những tổ chức quốc tế như WB, ADB, UNDP, UNESCO, UNICEF, Hiệp hội các trường Đại học và Viện nghiên cứu các nước nói tiếng Pháp (AUPELF_ UREF), Viện công nghệ Châu á (AIT), Tổ chức Bộ trưởng giáo dục các nước Đông Nam á (SEAMEO) ... là những nhà tài trợ ODA chủ yếu cho ngành giáo dục. Nguồn vốn ODA này được phân bổ cho các cấp và các lĩnh vực đào tạo theo tỉ lệ thay đổi tuỳ theo từng năm. Nguồn vốn ODA đầu tư cho giáo dục này tăng nhanh vào những năm 1990, với những dự án đầu tư có mục tiêu rất đa dạng, phong phú và kích cỡ dự án cũng rất khác nhau. Có dự án có tổng vốn đầu tới hơn 100 triệu USD (dự án giáo dục Đại học vay vốn của WB) kéo dài hơn 5 năm, cũng có cả những dự án chỉ vài chục ngàn USD (dự án cấp trang thiết bị học tiếng cho trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội) nhưng lại giải quyết được những vấn đề thiết thực và cụ thể cho ngành giáo dục. Nhờ những dự án quốc tế này mà BGD & ĐT đã thực hiện được các mục tiêu quan trọng, góp phần nghiên cứu tổng thể và hoạch định chiến lược giáo dục - đào tạo Việt Nam, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu thông tin khoa học cho các cơ sở, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. 2.2.2. Nguồn vốn FDI Cho đến nay, vẫn còn rất ít dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Vì thế, chúng ta cần tìm ra những biện pháp để có thể thu hút phần nào nguồn tài chính này cho giáo dục. 2.2.3. Nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường đóng góp vào quỹ đào tạo, hợp đồng đào tạo với các cơ sở để tăng nguồn tài chính cho giáo dục. Ví dụ như công ty tin học NITT, công ty sữa Cô gái Hà Lan... là những công ty đã tài trợ học bổng cho sinh viên các trường Đại học và cho học sinh nghèo trong cả nước. 2.2.4. Đóng góp của những người Việt Nam ở nước ngoài Những người Việt Nam ở nước ngoài cũng có một phần đóng góp cho giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Họ thường xuyên đóng góp tài chính cho việc xây dựng mới trường lớp cũng như nâng cấp những phòng học cũ nát. Công ty thương mại Bến Thành ( Matxcơva - Nga) đã đầu tư 500 triệu đồng xây dựng trường cấp III Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Họ cũng có thành lập một số quỹ học bổng dành cho học sinh nghèo hiếu học hoặc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn để tạo điều kiện học tập tốt hơn cho trẻ em, góp phần giúp đỡ tài chính cho ngành giáo dục. 3. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với ngành giáo dục ở Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục - đào tạo với sự phát triển đất nước, ngay trong những năm chiến tranh, bằng nhiều nguồn tài chính, Nhà nước vẫn đảm bảo chi ngân sách tối thiểu để phát triển giáo dục, chủ động duy trì, củng cố ổn định và phát triển giáo dục. Tuy nhiên, do đất nước còn nghèo, kinh tế chưa phát triển, tổng ngân sách Nhà nước còn nhỏ nên chi ngân sách của Nhà nước cho giáo dục còn thấp so với yêu cầu của ngành giáo dục (hiện mới đáp ứng khoảng 50% - 60% nhu cầu cần thiết). So với ngân sách giáo dục của một số nước, ngân sách của giáo dục Việt Nam vào loại thấp nhất trong khu vực (chỉ chiếm 15% tổng chi ngân sách). Trong khi đó, tỉ lệ này hiện nay ở Trung Quốc là 16,6%; ở Nhật Bản là 16,7%; Singapore 18,1%; Hàn Quốc 19,6%; Thái Lan và Malaysia đều trên 20% Nguồn : Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài – Nghiêm Đình Vỳ – NXB Chính trị Quốc gia 2002. . Vì thế trong tình hình muốn đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH đất nước như hiện nay thì Việt Nam cần đẩy mạnh các chương trình hợp tác quốc tế trong giáo dục - đào tạo, tranh thủ mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn ODA, qua đó có thể thấy rõ rằng nguồn vốn ODA đóng một vai trò rất quan trọng trong phát triển giáo dục ở Việt Nam. Ngay sau khi thống nhất đất nước, trong các nhà tài trợ ODA thì UNICEF là một trong những tổ chức quốc tế đầu tiên đến giúp đỡ ngành giáo dục. Sự hỗ trợ của giai đoạn viện trợ khẩn cấp sau năm 1975 tập trung vào sự giúp đỡ về cơ sở vật chất cho trường học như: giúp xây dựng 12 xưởng đóng bàn ghế, 78 trung tâm giáo dục lao động hướng nghiệp, xây dựng 3074 phòng học, trang thiết bị cho 38 trường cao đẳng sư phạm, 40 trường mẫu giáo, 41 trường trung học sư phạm, 41 trường thực hành. Nhờ có sự giúp đỡ trong giai đoạn đầu này mà cơ sở vật chất ngành giáo dục được cải thiện đáng kể, làm tiền đề cho những sự phát triển của giáo dục sau này. Kể từ năm 1993 đến nay, nguồn vốn ODA tài trợ cho giáo dục tăng lên nhờ sự tài trợ của các tổ chức viện trợ đa phương cũng như các nước viện trợ song phương. Nhờ có nguồn vốn ODA mà không những quy mô giáo dục không ngừng tăng lên mà chất lượng giáo dục giáo dục cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực, giúp thực hiện vấn đề xã hội hoá giáo dục cũng như công bằng xã hội trong giáo dục. Nhờ thế mà vị thế của giáo dục Việt Nam dần được nâng cao trên thế giới. Như vậy, có thể nói nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các khó khăn về vốn đầu tư cho giáo dục trong giai đoạn vừa qua cũng như trong giai đoạn sắp tới. Vì thế, chúng ta phải biết sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này để nó phát huy tác dụng tốt hơn nữa những vai trò tích cực của nó đối với ngành giáo dục cũng như đối với toàn thể nền kinh tế nước ta. Chương 2 Thực trạng tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993- 2002 I. Thực trạng tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 1993- 2002 1. Tình hình thu hút nguồn vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 1993- 2002 Những thành tựu đạt được trong cuộc đổi mới đã tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ với các quốc gia, cũng như các tổ chức trên thế giới, khiến cho việc thu hút nguồn vốn ODA vào đất nước ngày càng tăng. Chúng ta đều biết rằng cho đến năm 1989, Việt Nam tiếp nhận nguồn vốn ODA chủ yếu từ Liên Xô cũ, các nước XHCN Đông Âu, Trung Quốc và một số nước tư bản phát triển (như Thụy Điển), một số tổ chức quốc tế (như UNDP), và một số tổ chức NGOs... Nhưng từ năm 1991, nguồn vốn ODA từ các nước XHCN chấm dứt, khiến cho Việt Nam hầu như không còn nguồn ODA lớn. Nhưng bắt đầu từ năm 1993 trở đi, quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế được nối lại trên cơ sở tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VII. Tiếp theo đó, các Đại Hội Đảng lần thứ VIII và lần thứ IX tiếp tục khẳng định chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng ta, đó là Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Cho đến nay Việt Nam có quan hệ hợp tác phát triển song phương với 25 quốc gia (Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Pháp, Canada, Đan Mạch...) và 15 tổ chức quốc tế đa phương ( ADB, UNDP, WB, EC, UNFPA...) Ngoài ra, các đối tác trong quan hệ hợp tác phát triển của Việt Nam còn phải kể đến các tổ chức NGOs đang hoạt động tại Việt Nam với trên 350 tổ chức, giá trị viện trợ bình quân mỗi năm hơn 80 triệu USD viện trợ không hoàn lại. Trong số các nhà tài trợ, có 3 nhà tài trợ có quy mô cung cấp ODA lớn nhất là Nhật Bản, WB và ADB, chiếm khoảng 70% tổng giá trị ODA đã cam kết, (trong đó Nhật Bản chiếm tới 40%) Để thu hút, vận động ODA, từ năm 1993 đến năm 2002 chúng ta đã tổ chức 10 Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam, trong đó có 3 lần họp tại Pháp, 1 lần họp tại Nhật Bản, còn lại đều họp tại Việt Nam. Thông qua 10 hội nghị này, các nhà tài trợ đã cam kết cung cấp ODA cho nước ta với tổng lượng cam kết đạt 22,31 tỷ USD (trong đó viện trợ không hoàn lại chiếm 19%, đạt 4,24 tỷ USD và phần còn lại là vốn vay ưu đãi) Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư . Về cơ bản, lượng ODA cam kết trong giai đoạn 1993-2002 có xu hướng ngày càng tăng, trung bình mỗi năm đạt trên 2,2 tỷ USD, là mức cam kết cao hơn so với các nước đang phát triển khác. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á năm 1997 chỉ làm giảm mức cam kết xuống một lượng không đáng kể trong 3 năm 1998, 1999, 2000 (giảm hơn 10%) rồi sau đó lại phục hồi nhanh chóng và đạt đỉnh cao vào năm 2002 là 2,5 tỷ USD. Điều đó gây bất ngờ cho các nhà phân tích kinh tế cũng như Chính phủ Việt Nam vì cùng thời gian này khối lượng FDI có xu hướng giảm. Như vậy, quy mô ODA cam kết khá cao, thể hiện sự quan tâm của các nhà tài trợ tới Việt Nam, một phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc tạo ra một yếu tố quan trọng là vốn phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất nước, mặt khác cũng đặt Việt Nam trước đòi hỏi phải thực hiện tốt công tác giải ngân và sử dụng vốn có hiệu quả. Bảng 1: Cam kết ODA cho Việt Nam giai đoạn 1993-2002 Đơn vị: Tỷ USD Năm Cam kết ODA Lượng tăng giảm 1993 1,819 1994 1,941 0,122 1995 2,264 0,323 1996 2,430 0,166 1997 2,420 -0,10 1998 2,186 -0,234 1999 2,100 -0,86 2000 2,250 0,150 2001 2,400 0,150 2002 2,500 0,100 Tổng 22,310 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2. Tình hình giải ngân nguồn vốn ODA giai đoạn 1993- 2002. Để sử dụng nguồn vốn đã cam kết, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế về ODA. Từ năm 1993 đến hết năm 2002, tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết đạt khoảng 19,5 tỷ USD, trong đó 15,5 tỷ USD vốn vay (đạt 85,78% tổng vốn vay ODA đã được cam kết) và khoảng 4 tỷ USD viện trợ không hoàn lại (đạt 94,34% so với số vốn ODA đã được cam kết) Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư . Nguồn vốn ODA đã giải ngân trong giai đoạn 1993 - 2002 đạt khoảng 10,38 tỷ USD (bằng 52,23% tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết và bằng khoảng 47,53% tổng lượng ODA đã cam kết trong thời gian này) trong đó tổng số vốn ưu đãi của Chính phủ đã được giải ngân là 7,02 tỷ USD (đạt 45,3% số vốn vay đã được ký kết) Bảng 2: Giải ngân ODA cho Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002 Đơn vị: Triệu USD Năm Tỷ lệ giải ngân (%) Giải ngân ODA Lượng tăng giảm Tuyệt đối Tương đối(%) 1993 26,00 413 1994 37,35 725 312 75,54 1995 32,55 737 12 1,66 1996 37,03 900 163 22,12 1997 41,32 1000 100 11,11 1998 54,89 1200 200 20,00 1999 56,66 1190 -10 -0,83 2000 62,00 1400 210 17,65 2001 50,86 1220 -180 -12,86 2002 63,6 1590 370 30,33 1993 - 2002 47,53 10375 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nhìn chung, lượng ODA giải ngân tăng lên khá nhanh và ổn định (trung bình mỗi năm trên 1 tỷ USD đã được giải ngân để hỗ trợ nguồn vốn cho Nhà nước). Lượng vốn giải ngân năm 2002 đạt mức cao nhất 1,59 tỷ USD gần gấp 4 lần so với lượng giải ngân 413 triệu USD của năm 1993. Tỷ lệ giải ngân cũng có xu hướng tăng nhanh, năm 2002 đạt 63% gấp gần 2,5 lần so với tỷ lệ 26% của năm 1993. Có thể nói sự giảm sút mức ODA trong năm 2001 là lần suy giảm mạnh đầu tiên kể từ năm 1993: mức giải ngân giảm khoảng 11,14% sau 8 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA (chỉ đạt 1,22 tỷ USD). Nguyên nhân chủ yếu là do một số dự án và chương trình do Nhật Bản tài trợ đã được hoàn thành, trong đó bao gồm các nhà máy điện Phú Mỹ, Phả Lại và Hàm Thuận - Đa Mi cũng như sáng kiến Miyazawa hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân, cải cách doanh nghiệp nhà nước và thương mại. Thế nhưng ngay sau đó, mức giải ngân năm ODA năm 2002 đã tăng 13,6% so với mức giải ngân năm 2001, đạt 1,59 tỷ USD. Đó là do một số nhà tài trợ lớn chuyển sang áp dụng cơ chế giải ngân nhanh các khoản vay ODA. Điều này đã bù lại cho mức giải ngân thấp trong lĩnh vức cơ sở hạ tầng sau khi đã hoàn thành một số dự án lớn về năng lượng trong giai đoạn 2000- 2001. Mặc dù tỉ lệ giải ngân ODA năm 2001 có phần chậm lại nhưng chêch lệch giữa cam kết và giải ngân dường như đã được thu hẹp một cách đáng kể trong những năm gần đây. Tổng cộng các cam kết của các nhà tài trợ trong giai đoạn 1993- 2002 đã đạt 22,31 tỷ USD và theo số liệu của Việt Nam thì những khoản cam kết này đã được chuyển thành hiệp định ký kết với giá trị lên tới khoảng 19,5 tỷ USD, với mức giải ngân trong giai đoạn này lên tới 10,375 tỷ USD. Điều này có nghĩa là còn khoảng 6,1 tỷ USD (chiếm khoảng 1/3 tổng số cam kết) vẫn còn chưa được giải ngân và thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ gần 50% vào giữa những năm 1990. Mặc dù mức giải ngân có xu hướng tăng nhanh nhưng vẫn còn thấp so với kế hoạch và xu hướng này đang dần được cải thiện. Mức giải ngân thời kỳ 1996-2000 chỉ đạt 70% kế hoạch đặt ra nhưng sang đến năm 2002 thì mức giải ngân này đã đạt 91,2% kế hoạch ( Nguồn Bộ Kế hoạch và Đầu Tư ). Tình hình giải ngân không đồng đều giữa các nhà tài trợ phụ thuộc vào tính chất và qui mô của các dự án đầu tư. Các nhà tài trợ chủ yếu cung cấp ODA không hoàn lại với các dự án kỹ thuật thường đạt hay vượt mức kế hoạch giải ngân năm như Anh, Na Uy...Tuy nhiên, những dự án hỗ trợ này thường có chi phí chuyên gia cao (60-70% giá trị dự án). Những nhà tài trợ đầu tư cho cả dự án xây dựng cơ bản lẫn dự giải ngân nhanh thì có mức độ thực hiện tương đối khá (như WB, ADB...). Trong khi đó các nhà tài trợ chủ yếu chỉ cung cấp dự án xây dựng cơ bản tập trung (nhất là điện, giao thông, thủy lợi), như Nhật Bản thì mức ODA giải ngân rất thấp. Theo điều tra của UNDP thì tỷ trọng ký kết trung bình của các nhà tài trợ song phương và đa phương đều tương đương nhau, xu hướng chung vẫn tập trung vào 3 nhà tài trợ lớn nhất là Nhật Bản, WB và ADB (chiếm trên 70% tổng lượng giải ngân). Triển vọng giải ngân ODA cho năm 2003 là sẽ tiếp tục tăng mặc dù có thể không cao. Vì thế, Chính phủ Việt Nam cần có đủ thời gian để xác định những dự án đầu tư tiếp theo nhằm đảm bảo đem lại hiệu quả cao nhất cho toàn bộ nền kinh tế. 3. Tình hình sử dụng nguồn vốn ODA giai đoạn 1993- 2002 Căn cứ vào chính sách ưu tiên sử dụng ODA của Chính phủ, nguồn vốn ODA đã được định hướng ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực như sau: giao thông vận tải (25,39%), phát triển hệ thống nguồn điện, mạng lưới chuyển tải và phân phối điện (22,62%), y tế, xã hội, giáo dục, đào tạo, khoa học (20,45%) phát triển nông nghiệp và nông thôn bao gồm cả thuỷ lợi, thuỷ sản, lâm nghiệp (16,74%) cấp thoát nước và bảo vệ môi trường (8,71%), các ngành khác (6,09%). Nguồn Tạp chí Thông tin Kinh tế - Xã hội số 12/2003 Trước hết, trong giao thông vận tải, nguồn vốn ODA đã được dùng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676 km đường quốc lộ, khôi phục và cải tạo khoảng 1.000 km đường tỉnh lộ, làm mới và khôi phục 188 cầu, chủ yếu trên các đường quốc lộ số 1, quốc lộ số 10, quốc lộ số 18 với tổng chiều dài 33,7 km, cải tạo và nâng cấp 10.000 km đường nông thôn và khoảng 31 km cầu nông thôn quy mô nhỏ, xây dựng mới 111 cầu nông thôn với tổng chiều dài 7,62 km. Vốn ODA đã được dùng để nâng cấp cảng Hải Phòng, nâng cấp cảng Sài Gòn, xây dựng mới cảng nước sâu Cái Lân, cải tạo cảng Tiên Sa, Đà Nẵng ... Nguồn Tạp chí Thông tin Kinh tế - Xã hội số 12/2003 Nguồn vốn ODA đã được dùng để đầu tư cho 7 nhà máy điện lớn là: Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận - Đa Mi, Sông Hinh, Đa Nhim, Phả Lại 2, Trà Nóc. Các nhà máy này có công suất thiết kế chiếm 40% tổng công suất của các nhà máy điện Việt Nam xây dựng trong kế hoạch 5 năm 1996- 2000.Trong ngành năng lượng điện, vốn ODA còn được đầu tư để phát triển hệ thống đường dây và mạng lưới phân phối điện, bao gồm các dự án đường dây 500 KV Tao Đàn - Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố. Vốn ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo. 156 dự án với tổng vốn ODA hơn 1,4 tỷ USD đầu tư cho phát triển nông nghiệp đã góp phần cung cấp nguồn tín dụng ưu đãi cho nông dân, tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học ... Vốn ODA đã góp phần cho sự thành công của một số chương trình xã hội có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong việc phòng chống HIV/AIDS, phòng chống ma tuý ... Vốn ODA dành cho giáo dục đào tạo khoảng 771 triệu USD (chiếm 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục đào tạo) đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Vốn ODA được huy động cho vay lại đã có hiệu quả thiết thức đối với sự phát triển của một số doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ ngân sách của nhiều tỉnh trong việc khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là với những tỉnh nghèo, gặp nhiều khó khăn. Được đề cập cuối cùng, nhưng lại đóng một vai trò hết sức quan trọng là vốn ODA đã tạo điều kiện cho việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, cải cách kinh tế ... Đánh giá một cách tổng thể, việc thu hút và sử dụng ODA của ta trong 10 năm qua đã được thực hiện theo đúng chủ trương đường lối của Đảng và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước là ưu tiên sử dụng nguồn lực này để cải thiện cơ bản và phát triển một bước quan trọng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn đầu tư trong nước và thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và từng bước cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân lao động, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo. II. Thực trạng tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002. 1. Tình hình thu hút nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2002. Hoà với xu thế phát triển của đất nước, ngành giáo dục cũng đã không ngừng phát triển và mở rộng công tác quan hệ quốc tế của ngành. Nhiều hội nghị, hội thảo đã được mở ra để thu hút sự quan tâm của quốc tế, cũng như tăng cường quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và đối tác như: Hội nghị bộ trưởng Đại hoc và nghiên cứu khoa học (22 - 26/ 10/ 1997), Hội nghị thượng đỉnh các nước sử dụng tiếng Pháp (14 - 16/11/1997), Hội nghị hiệu trưởng các trường Đại học thành viên cơ quan Đại học Pháp ngữ AUF (1/2001), Hội thảo hợp tác đào tạo cán bộ quản lý giáo dục (20/3/2001), Hội thảo giáo dục Nga đầu thiên niên kỷ thứ 3 (27/4/2001), Hội thảo hợp tác Đại học Việt Nam - Hà Lan (16/5/2001), Hội thảo giáo dục Đại học Thái Lan (12 - 16/5/2001), Hội thảo các cơ hội học tập tại Alberta, Canada (11/2001) và hội thảo với nhiều nước khác như Anh, Australia, Mỹ ... Các hội thảo này đều đã được tổ chức thành công ở Việt Nam, giúp nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, đồng thời cũng tạo điều kiện thu hút nguồn vốn ODA cho phát triển ngành giáo dục. Tính đến nay, BGD & ĐT Việt Nam đã có quan hệ và hợp tác chính thức với 69 nước, 15 tổ chức quốc tế và 70 tổ chức NGOs. Thông qua các hội nghị, hội thảo đó, BGD & ĐT đã thu hút được một số lượng vốn đáng kể cho ngành giáo dục. Biểu đồ 2: cam kết ODA cho ngành giáo dục Việt Nam so với tổng cam kết ODA giai đoạn 1993 - 2002 Triệu USD Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Qua đồ thị trên có thể thấy cũng như nguồn vốn ODA cam kết cho Việt Nam, nguồn vốn ODA cam kết cho ngành giáo dục cũng có xu hướng chung là tăng lên trong giai đoạn 1993-2002. Tổng lượng vốn ngành giáo dục thu hút được trong giai đoạn 1993-2002 là 1243 triệuUSD. So với các ngành khác thì số lượng vốn ODA thu hút được cho ngành giáo dục không nhiều (chỉ chiếm 5,57% lượng vốn ODA thu hút được cho Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002 ) do quy mô của các dự án giáo dục nhỏ hơn, thậm chí có dự án chỉ có số vốn vài ngàn USD nhưng công tác thu hút nguồn vốn ODA của ngành giáo dục được đánh giá là thuận lợi và khá thành công do giáo dục luôn được các nhà tài trợ quan tâm. Có thể kể đến các nhà tài trợ chủ yếu là Nhật Bản, WB ... với số lượng dự án, lượng vốn đầu tư lớn cho nhiều cấp học. Ngành giáo dục đã thu hút được 104 dự án cho các cấp học. Giai đoạn 1998-2002 thu hút được 687 triệu USD, tăng 23, 56% so với mức 556 triệu USD của giai đoạn 1993-1997 (trong đó lượng vốn vay chiếm 45,4%, còn lại là vốn viện trợ không hoàn lại). Đạt được những thành công trong thu hút nguồn vốn ODA cho ngành giáo dục là do chế độ mở cửa được thực hiện, công tác quan hệ quốc tế phát triển và Nhà nước luôn coi giáo dục là quốc sách. Các tổ chức NGOs muốn hội nhập, đầu tư vào Việt Nam thông qua việc phát triển giáo dục ở Việt Nam. Hơn nữa, việc đầu tư vào giáo dục được coi là mang tính chất nhân đạo, đi đúng với mục tiêu của các nước hỗ trợ về xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường, nên có lẽ lượng vốn ODA thu hút được cho ngành giáo dục sẽ còn tiếp tục tăng trong tương lai. 2. Tình hình giải ngân nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2002. Từ năm 1993 trở lại đây, việc giải ngân nguồn vốn ODA được cải thiện. Có thể nói giải ngân nguồn vốn ODA được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA. Trong giai đoạn 1993 – 2002 cùng với sự gia tăng lượng ODA thu hút, tỷ lệ giải ngân ODA trong ngành giáo dục cũng đã gia tăng đáng kể. Tỷ lệ giải ngân chung cho toàn ngành giáo dục trong giai đoạn 1993-2002 đạt 62% cao hơn so với tỷ lệ chung của Việt Nam là 47,53%. Xu hướng giải ngân của ngành giáo dục trong giai đoạn 1998-2002 là 66,23% tăng lên hơn 11% so với tỷ lệ giải ngân của giai đoạn 1993-1997. Trong vòng 10 năm, lượng ODA giải ngân cho ngành giáo dục có xu hướng tăng dần, đạt đỉnh cao vào năm 2000 (124 triệu USD), tăng gần gấp 1,5 lần so với năm 1999 và gấp 3 lần so với năm 1993 do có một dự án đầu tư quy mô rất lớn của WB nhằm nâng cao chất lượng và một dự án hỗ trợ của Nhật Bản cho các tỉnh miền núi phía bắc được giải ngân một số lượng vốn lớn. Biểu đồ 3: Tỷ lệ giải ngân ODA trong ngành giáo dục so với tỷ lệ giải ngân chung giai đoạn 1993 - 2002 % Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Các dự án giáo dục nhìn chung đều đạt tốc độ giải ngân trên 90% (dự án giáo dục tiểu học vay vốn của WB đạt 95%, dự án phát triển cơ sở vay vốn của ADB cũng đạt 96% so với kế hoạch đề ra) Nguồn: Bộ Giáo dục & Đào tạo . Với những dự án có tổng thời gian đầu tư dài thì giai đoạn đầu giải ngân chậm do gặp nhiều khó khăn trong thủ tục giải ngân và do phải điều chỉnh lại kế hoạch giải ngân cho phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam.(bảng 3) Có tổng số 25 nước tài trợ song phương, khoảng 19 tổ chức quốc tế và 70 tổ chức NGOs đầu tư ODA cho ngành giáo dục với những thủ tục giải ngân tương đối khác nhau. Vì thế tình hình giải ngân không đồng đều giữa các nhà tài trợ. Có thể kể đến hai nhà tài trợ giải ngân nhiều nhất cho ngành giáo dục là Nhật Bản (đạt 247,66 triệu USD chiếm 34,72%), và WB (đạt 123,83 triệu USD chiếm 16,06%). Bảng 3: Lượng vốn ODA giải ngân cho ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002 Đơn vị: Triệu USD Năm Lượng ODA giải ngân cho ngành giáo dục Lượng tăng giảm Tuyệt đối Tương đối % 1993 46 1994 52 6 13,04 1995 58 6 11,54 1996 68 10 17,24 1997 82 14 20,59 1998 80 -2 -2,44 1999 85 5 6,25 2000 124 39 45,88 2001 86 -38 -30,65 2002 90 4 4,65 1993-2002 771 Nguồn: Điều tra ODA, UDDP Nguồn vốn ODA được giải ngân cho tất cả các cấp học và cho cả công tác nâng cao năng lực cho BGệ & ĐT. Tổng lượng vốn vay là 350 triệu USD (chiếm 45,lạ), tổng lượng vốn viện trợ là 421 triệu U}D (chiếm 51,4%) trong tổng lượng vốn ODA đượ? giải ng–n. Toàn bộ lượng vốn giải ngân cho cấp trung học phổ thông (THPT), giáo dục phi chính quy (GDPCQ) và công tác nâng cao năng lực qẽản lý đều là vốn viện trợ (trong khi các cấÅ học kháx vừa nhận được cả vốn vay và vốn viện trợ ) nên thuận lợi hơn trong quá trình giải ngân do không phải giải quyết vấn đề vốn đối ứg. Lượng vốn đối ứng toàn ngành đạt 94 triệu USD chiế1 tỷ lệ 12,19Ơ so với tổng lượng vốn ODA, trong đó tỷ lệ vốn đối ứng của cấp trung học cơ sở (THCS) là cao nhất (29,41%) do lượng vốn vay lớn. Tình hình giải ngân ODA trong ngành giáo dục đã đạt nhiều chuyển biến thuận lợi do nỗ lực của cả phía Việt Nam và nhà tài trợ. Hơn nữa, do số lượng dự án hỗ trợ kỹ thuật trong ngành giáo dục cao nên việc giải ngân số vốn này cũng dễ dàng hơn (áp dụng cơ chế giải ngân nhanh). Điều đó đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cho toàn ngành là làm sao đảm bảo những khoản giải ngân nhanh đó được đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết nhất và sử dụng hiệu quả nhất. 3. Tình hình sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2002. 3.1 Khái quát tình hình sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002. Nguồn vốn ODA đã được sử dụng một cách tương đối hiệu quả trong ngành giáo dục. Theo thống kê của BGD & ĐT, ngành đã tiếp nhận 104 dự án ODA với tổng số vốn ODA sử dụng là 771 triệu USD. Nếu như 80-90% ngân sách nhà nước dành cho giáo dục dùng để chi trả lương, học bổng và xây dựng cơ bản thì phần lớn tiền từ các dự án ODA lại có thể dùng để mua sắm trang thiết bị hiện đại, cải tiến chương trình, giáo trình, đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật... Tính đa dạng của các dự án quốc tế ODA mà chúng ta tiếp nhận dược thể hiện ở nhiều khía cạnh: các nhà tài trợ có thể là các quốc gia, các tổ chức quốc tế, tổ chức NGOs; mục tiêu tài trợ rất đa dạng , phong phú và kích cỡ dự án cũng rất khác nhau nhưng đều giải quyết những vấn đề thiết thực và cụ thể cho ngành . Mục tiêu đầu tư của các dự án cũng rất đa dạng. Biểu đồ 4: Mục tiêu đầu tư cho giáo dục giai đoạn 1993-2002 Nguồn: Trung tâm Thông tin quản lý giáo dục, văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo Theo bảng trên, lượng vốn ODA hỗ trợ cho các cấp học chiếm tỷ lệ cao nhất trong các mục tiêu đầu tư, chứng tỏ sự quan tâm rất lớn của các nhà tài trợ tới việc nâng cao chất lượng của các cấp học (40%). Sử dụng các nguồn vốn ODA theo các mục tiêu đầu tư như trên đã góp phần nghiên cứu tổng thể và phát triển nguồn nhân lực nhằm hoạch định chiến lược giáo dục và đào tạo Việt Nam góp phần tăng cường cơ sở vật, chất trang thiết bị cho các cơ sở cũng như góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo bằng nhiều hình thức như nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo dục và nghiên cứu khoa học, cán bộ quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo ở các cấp học khác nhau từ mầm non, tiểu học (TH), THCS, THPT, trung học dạy nghề (THDN), Đại học và sau Đại học (ĐH & SĐH), và cả lĩnh vực giáo dục phi chính quy (GDPCQ). Các dự án này được dàn trải trên hầu hết đất nước, với từng vùng có từng loại dự án riêng biệt : 7 tỉnh miền Trung (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) và một số tỉnh thuộc miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long (Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Sơn La, Kon Tum, Bạc Liêu, Cần Thơ, Cà Mau) được dự án phát triển giáo dục THCS của ADB hỗ trợ, đã xây dựng xong và đưa vào sử dụng 205 trường học với 1324 phòng học; các tỉnh vùng bão đã được dự án ODA Nhật Bản hỗ trợ xây dựng 40 trường TH với 500 phòng học, đồng thời đang khởi công xây dựng trường TH cho một số tỉnh miền núi; 35 tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải miền Trung, miền núi phía Bắc và 5 thành phố lớn nhờ vào dự án TH của WB mà đã đưa được 1623 phòng học vào sử dụng Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002. (Xem phụ lục) 3.2 Tình hình sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002 theo cấp học và loại hình đào tạo Nguồn vốn ODA đầu tư cho ngành giáo dục được phân ra cho các cấp học, từ TH, THCS, THPT, THDN, ĐH & SĐH, GDPCQ cho đến cả công tác nâng cao năng lực quản lý. (bảng 4) 3.2.1. Tiểu học: Có thể nói TH là lĩnh vực được ưu tiên nhiều nhất với lượng vốn ODA đầu tư lớn nhất (339 triệu USD chiếm 51,75%), được rất nhiều nhà tài trợ chú ý đầu tư (WB, Australia, Canada... ). Điều này đã phản ánh nhận thức của các nhà tài trợ về ưu tiên cho giáo dục cơ bản là động lực phát triển kinh tế và giảm nghèo. Hiện tại, các nhà tài trợ tập trung cho giáo dục TH trong khuôn khổ giáo dục cơ bản. Giáo dục TH là một chương trình mới của các nhà tài trợ song phương và đa phương gồm : WB, JICA, Australia, Canada và Anh. Các sáng kiến mới đang được hình thành nhằm nghiên cứu hiệu quả điều phối của các nhà tài trợ và tập trung ưu tiên hỗ trợ các nhóm, vùng nghèo, bị thiệt thòi. JICA được BKH & ĐT uỷ nhiệm và điều phối các nhà tài trợ ở cấp giáo dục TH nhằm đưa ra một danh sách mà Chính phủ và các nhà tài trợ có thể can thiệp. Đối với giáo dục TH có 3 dự án lớn mà hầu hết 61 tỉnh, thành phố trong cả nước đều có tham gia: Bảng 4: Nguồn vốn ODA sử dụng cho từng cấp học giai đoạn 1993 - 2002 Cấp học Tổng số Vốn vay Vốn viện trợ Vốn đối ứng Dự án Vốn đầu tư Vốn ODA Dự án Vốn vay Dự án Vốn viện trợ Vốn (Tr. USD) Tỉ lệ %/tổng vốn ODA Số lượng (DA) Tỉ lệ (%) Vốn (tr. USD) Tỉ lệ (%) Vốn (tr. USD) Tỉ lệ (%) Số lượng (DA) Tỉ lệ (%) Vốn (tr. USD) Tỉ lệ (%) Số lượng (DA) Tỉ lệ (%) Vốn (tr. USD) Tỉ lệ (%) Tiểu học 13 12,50 452 52,25 399 51,75 5 45,45 176 50,29 8 8,60 223 52,97 53 13,28 THCS 11 10,58 110 12,72 85 11,02 2 18,18 58 16,57 9 9,68 27 6,41 25 29,41 THPT 1 0,96 3 0,35 3 0,39 0 0,00 0 0,00 1 1,08 3 0,71 0 0,00 THDN 5 4,81 27 3,12 25 3,24 1 9,09 8 2,29 4 4,30 17 4,04 2 8,00 ĐH&SĐH 69 66,35 250 28,90 236 30,61 3 27,27 108 30,86 66 70,97 128 30,40 14 5,93 Nâng cao NLQL 2 1,92 8 0,92 8 1,04 0 0,00 0 0,00 2 2,15 8 1,90 0 0,00 Giáo dục PCQ 3 2,88 15 1,73 15 1,95 0 0,00 0 0,00 3 3,23 15 3,56 0 0,00 Tổng 104 100,00 865 100,00 771 100,00 11 100,00 350 100,00 93 100,00 421 100,00 94 12,19 Nguồn: Vụ Quan hệ Quốc tế, Bộ giáo dục & Đào tạo - Chương trình hợp tác Việt Nam – UNICEF (2 - 3 triệu USD/ năm) gồm 3 dự án : Dự án lồng ghép phát triển trẻ thơ, Dự án trường TH bạn hữu, Dự án giáo dục sức khoẻ, vệ sinh và môi trường. Chương trình này đã hỗ trợ Chính phủ đảm bảo 90% trẻ em từ 6 – 14 tuổi học hết TH, còn 10% còn lại học hết lớp 3 và không có trẻ dưới 15 tuổi mù chữ vào năm 2000. Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002 - Dự án giáo dục TH vay vốn của WB : WB đã cho Việt Nam vay 70 triệu USD trong thời hạn 40 năm trong đó có 10 năm ân hạn. Kết quả là dự án này đã sửa chữa được 4.209 phòng học, thay thế và xây mới 6.162 phòng học, xây dựng 12.075 nhà vệ sinh và 1.136 điểm cấp nước tại 5 thành phố, 11 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và 8 tỉnh miền núi. Đồng thời, xuất bản 50 đầu sách với khoảng 171.425.500 bản sách nên nhiều học sinh TH đã có bộ sách giáo khoa tốt hơn về chất lượng, đẹp, bền, có thể sử dụng lâu dài cho vài ba khoá học. Mỗi trường thuộc đối tượng đầu tư của dự án cũng được cung cấp một bộ đồ dùng dạy học theo một danh mục thống nhất trị giá 250 USD và mỗi trường sư phạm đào tạo giáo viên TH 300 USD tuỳ theo yêu cầu từng trường, 4.000 giáo sinh năm thứ hai của các trường này cũng được bồi dưỡng để nâng cao năng lực thực hành sư phạm và bước đầu nghiên cứu khoa học. Ngoài ra dự án còn hỗ trợ cho 7 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và 7 tỉnh miền Trung bị thiệt hại do lũ lụt gây ra 9 triệu USD. Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002 - Dự án xây dựng các trường TH vùng bão của Nhật Bản : Đây là một dự án điển hình có hiệu quả sử dụng cao, chất lượng tốt. Trong năm năm 1995 – 2000, với số vốn ODA 83 triệu USD, qua 4 giai đoạn của dự án, Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng 2.912 phòng học của 256 trường TH tại 17 tỉnh đặc biệt khó khăn, thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lụt. Những trường TH kiên cố này không những giúp học sinh ở các tỉnh vùng bão có thêm điều kiện tốt để đảm bảo học tập mà còn là nơi tránh bão cho nhân dân trong vùng. Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002 3.2.2. Trung học cơ sở : Các dự án đầu tư vào THCS còn ít, chỉ có 11 dự án, chiếm 11,02% tổng nguồn vốn ODA sử dụng trong ngành giáo dục. Khác với các cấp học khác thường có số vốn viện trợ nhiều hơn vốn vay thì số vốn viện trợ dành cho cấp THCS chỉ có 27 triệu USD trên tổng số 85 triệu USD nguồn vốn ODA đầu tư cho THCS. Vì vậy, lượng vốn đối ứng dành cho của cấp THCS chiếm 29,41% trong tổng vốn ODA, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ vốn đối ứng chung của ngành là 12,19%. Các dự án chủ yếu là vay vốn của ADB. Thông qua dự án phát triển giáo dục THCS vay vốn của ADB 50 triệu, vốn đối ứng là 21,5 triệu với mục tiêu là nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống giáo dục THCS đã đạt được những kết quả sau : - Công tác xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa đã xây dựng được chương trình học cho 13 môn, biên soạn và xuất bản thử nghiệm sách giáo khoa của 13 môn học cho học sinh lớp 6, tổ chức thí điểm và sử dụng sách giáo khoa mới tại 11 tỉnh, thành phố. - Công tác đào tạo và nâng cao trình độ giáo viên đã tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng giáo viên cho các trường cao đẳng sư phạm, bồi dưỡng giáo viên trung học cơ sở cho 141 trường THCS thí điểm, tập huấn cho cán bộ quản lý giáo dục và triển khai chương trình và sách giáo khoa mới 11 tỉnh, thành phố thí điểm. - Công tác xây dựng cơ bản và cung cấp thiết bị đã tiến hành cung cấp máy tính, thiết bị nghe nhìn, máy photocopy và đồ gỗ cho 36 trường cao đẳng sư phạm, xây mới, nâng cấp 304 trường THCS với 2.336 phòng học của 17 tỉnh. Nguồn: Ngành Giáo dục - Đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX - Bộ Giáo dục và Đào tạo (NXB Giáo dục). Nhìn chung, dự án này được đánh giá là một trong những dự án tốt, có tiến độ giải ngân khá và việc tuân thủ các quy định của nhà tài trợ và Chính phủ được thực hiện nghiêm túc. 3.2.3. Trung học phổ thông Có thể nói đây là cấp học ít được đầu tư nhất do xu hướng tập trung vào giáo dục cơ bản. Chỉ có duy nhất một dự án giảng dạy tăng cường tiếng Pháp và bằng tiếng Pháp ở 24 trường THPT tại 18 tỉnh. Học sinh được học thêm 3 môn Toán, Lý, Sinh bằng tiếng Pháp với ngân sách dành cho dự án là 3 triệu USD, chiếm 0,35% nguồn vốn ODA đầu tư cho ngành giáo dục . 3.2.4. Trung học dạy nghề Gần đây có xu hướng tập trung sử dụng nguồn vốn ODA cho các trường dạy nghề. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà tài trợ cho thấy rằng phần lớn dân Việt Nam còn rất nghèo, trong khi đó vào được ĐH là rất khó, mà chi phí đầu tư cho con em học ĐH vượt quá mức thu nhập bình quân của gia đình họ; trong khi đó ở Việt Nam lại đang có tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Vì thế, các nhà tài trợ chú ý đầu tư một phần nguồn vốn ODA cho THDN, một phần để nâng cao trình độ tay nghề của người dân Việt Nam, và cũng là để chuẩn bị một lực lượng tay nghề có đào tạo để làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp mà họ sang đầu tư và xây dựng ở Việt Nam. Với 5 dự án đầu tư cho các trường THDN (tổng số vốn là 25 triệu USD, vốn đối ứng 2 triệu USD chiếm tỷ lệ 7,4%), tuy số lượng không nhiều nhưng những kết quả bước đầu của các dự án này rất khả quan. Điển hình là năm 2000, Nhật Bản đã dành 815 triệu yên tài trợ cho dự án nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật của trường Kỹ thuật và nghiệp vụ giao thông vận tải I. Dự án đã xây dựng khu nhà điều hành có tổng diện tích 540 m2, gồm cả thư viện với hơn 100 đầu sách kỹ thuật và giáo trình song ngữ bằng hai thứ tiếng Anh và Việt; khu ký túc xá hai tầng hiện đại có diện tích 1450 m2 ; khu nhà xưởng có tổng diện tích 2540 m2 gồm nhiều phòng học lý thuyết hiện đại và khu thực hành trang bị các phương tiện máy móc thiết bị tiên tiến Nguồn : Báo Nhân dân số 44 ngày 2/11/2003 . Nhờ vậy mà chất lượng dạy và học của trường đã được nâng lên, giúp công nhân khi ra trường thích ứng với yêu cầu thực tế công việc đặt ra. 3.2.5. Đại học và sau Đại học Xu hướng sử dụng nguồn vốn ODA đầu tư cho giáo dục ĐH & SĐH ngày càng giảm do sự tập trung đầu tư vào giáo dục cơ bản. Tuy nhiên các dự án đầu tư cho giáo dục ĐH & SĐH vẫn chiếm số lượng lớn nhất (69 dự án) và đầu tư vào hầu hết các trường ĐH trên toàn quốc. Nếu như giáo dục cơ bản nhằm phổ cập giáo dục, xoá mù chữ cho trẻ em Việt Nam thì giáo dục ĐH & SĐH nhằm nâng cao dân trí, đào tạo ra những người có tri thức sâu rộng về các lĩnh vực để có thể giúp phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Trong lĩnh vực giáo dục ĐH, phải kể đến dự án xây dựng trung tâm phát triển nguồn nhân lực của Nhật Bản cho trường ĐH Ngoại thương ở cả hai cơ sở : Hà Nội (khánh thành năm 2002) và thành phố Hồ Chí Minh với tổng giá trị đầu tư 777 triệu yên. Các trung tâm này đã tổ chức các khoá học về kinh doanh như kinh tế, tài chính doanh nghiệp, luật, quản trị nguồn nhân lực, kinh nghiệm Nhật Bản, các khoá học tiếng Nhật trong kinh doanh, thực hiện các chương trình trao đổi văn hoá và cung cấp dịch vụ thông tin, để phát triển nguồn nhân lực, đóng góp vào công cuộc đổi mới của Việt Nam trong thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau làm vững mạnh mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Nhật Bản. 3.2.6. Giáo dục phi chính quy Đây cũng là một lĩnh vực được các nhà tài trợ chú ý nhiều do đặc trưng của Việt Nam có rất nhiều trẻ em đường phố, với trình độ học vấn rất hạn chế do thiếu điều kiện học tập cũng như sinh hoạt. Một số tổ chức như UNICEF, WB và đặc biệt là các tổ chức NGOs rất quan tâm đến hỗ trợ GDPCQ. Dự án GDPCQ của BGD & ĐT phối hợp với UNICEF đã tạo điều kiện cho 665.000 học sinh ở các lớp học gia đình và giáo dục linh hoạt (chiếm 30% số học sinh đến tuổi đi học hiện nay không được tới trường) được hưởng nền GDPCQ Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002 .Số dự án đầu tư cho GDPCQ không nhiều (3 dự án), nhưng thường là sự phối hợp của nhiều nhà tài trợ, nhất là các tổ chức NGOs do số vốn của họ thường nhỏ. Những dự án này là những dự án nhanh chóng đạt được sự thống nhất của Chính phủ và các nhà tài trợ do đối tượng của các dự án thường là đối tượng đặc biệt: trẻ em bị thiệt thòi, trẻ em lang thang, trẻ em mồ côi, trẻ em ở các vùng xa xôi hẻo lánh và các khu ổ chuột. 3.2.7. Nâng cao năng lực quản lý Việc nâng cao năng lực quản lý là rất thiết thực, để có thể góp phần tăng chất lượng giáo dục các cấp, và điều hành được các dự án. Các dự án ODA nhằm hỗ trợ để nâng cao năng lực quản lý chỉ chiếm gần 1% tổng số vốn ODA đầu tư cho ngành giáo dục nhưng hiệu quả đem lại từ các dự án này rất lớn. Đó là do năng lực quản lý các cấp học được năng cao dẫn tới việc sử dụng nguồn vốn ODA cho từng cấp học được quản lý hiệu quả hơn, góp phần tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA cho ngành giáo dục . Dự án tài trợ học bổng phát triển nguồn nhân lực cho Việt Nam được thực hiện trong 3 năm 2001, 2002, 2003 với tổng trị giá dự án là 159 triệu Yên. Nhật Bản đã tài trợ 60 suất học bổng đào tạo tại Nhật Bản trình độ thạc sỹ cho cán bộ của các bộ, ngành và những người làm việc trong khu vực tư nhân của Việt Nam. Có 4 ngành đào tạo chủ yếu là: luật, nông nghiệp, quản trị kinh doanh, kinh tế; trong đó có 9 suất học bổng dành cho các ngành quản lý cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin và y tế. 3.3. Tình hình sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam trong giai đoạn 1993-2002 theo các nhà tài trợ: Trước năm 1992 thì nhà tài trợ chủ yếu là Liên Xô (cũ) nhưng sau khi hệ thống XHCN ở Đông Âu sụp đổ, Việt Nam mở rộng quan hệ với rất nhiều đối tác thuộc các chế độ xã hội khác nhau. Các nhà tài trợ cho nền giáo dục Việt Nam từ năm 1993 đến nay có thể là các nhà tài trợ song phương và đa phương. 3.3.1. Các nhà tài trợ song phương. Các nhà tài trợ song phương tài trợ cho tất cả các cấp học. Mức giải ngân cho giáo dục của các nhà tài trợ song phương rất khác nhau. New Zealand và Lucxembua là 2 nước có mức giải ngân cao nhất, nhưng nước có lượng vốn ODA giải ngân lớn nhất thì phải kể đến Nhật Bản. Bên cạnh đó cũng có những nước mà mức giải ngân cho giáo dục nhỏ hơn 1% như Đan Mạch. Nhìn chung, mức giải ngân giai đoạn 1998-2002 của các nước đều tăng so với giai đoạn 1993-1997 (trừ Hàn Quốc giảm 10% và Australia giảm 7%). Một số nước có mức giải ngân tăng lên rất mạnh như Vương quốc Anh (tăng gấp 10 lần từ 2% lên 21%), Cộng hòa Séc (từ 15% lên 50,4%)... chứng tỏ các nhà tài trợ song phương tập trung đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực giáo dục của Việt Nam. Bảng 5A1: Lượng vốn ODA sử dụng cho ngành giáo dục của một số nhà tài trợ song phương chủ yếu trong giai đoạn 1993 – 1997 Đơn vị: Triệu USD STT Quốc gia Mức giải ngân (%) 1993 1994 1995 1996 1997 1993-1997 1 Nhật Bản 2,8 10,32 10,22 14,57 14,72 15,6 65,43 2 CHLB Đức 6 1,71 3,16 7,22 5,4 6,3 23,79 3 Thụy Điển 13 1,95 2,48 3,97 4,77 6,5 19,67 4 Pháp 18 1,9 2,45 1,46 3,8 0,5 10,11 5 Thụy Sĩ 20 1,32 1,64 1,28 2,79 2,73 9,76 6 Hà Lan 7,6 1,7 1,4 2,33 2,19 1,6 9,22 7 Bỉ 11 0,53 2,07 1,09 1,89 1,6 7,18 8 Luc Xem Bua 37 0,93 1,04 1,11 1,18 1,07 5,33 9 Cộng hoà Séc 15 2,2 2,31 0,24 0,25 0,3 5,3 10 Hàn Quốc 32 0,8 0,73 1,02 1,13 1,16 4,84 11 Nauy 4,5 0,21 0,28 0,2 0,19 0,14 1,02 12 Vương quốc Anh 2 0,11 0,22 0,12 0,25 0,3 1 13 Thái Lan 14 0,15 0,14 0,14 0,2 0,3 0,93 14 Đan Mạch 0,7 0,12 0,14 0,05 0,185 0,21 0,705 15 Cộng hoà Phần Lan 0,13 0,13 0,14 0,11 0,11 0,12 0,61 Nguồn: điều tra ODA, UNDP Bảng 5A2: Lượng vốn ODA sử dụng cho ngành giáo dục của một số nhà tài trợ song phương chủ yếu trong giai đoạn 1998 - 2002 Đơn vị: Triệu USD STT Quốc gia Mức giải ngân (%) 1998 1999 2000 2001 2002 1998-2002 1993-2002 1 Nhật Bản 3 30,66 37,37 35,5 38,7 40 182,23 247,66 2 CHLB Đức 6 1,46 1,8 0,32 1,1 1,5 6,18 29,97 3 Thụy Điển 15 3,63 4,77 3,87 4,84 4,3 21,41 41,04 4 Pháp 21 3,21 4,8 3,9 2,8 4,9 19,61 29,72 5 Thụy Sĩ 28 3,25 2,74 2,91 3,22 3,43 15,55 25,31 6 Hà Lan 8 1,17 0,84 2,71 2,6 2,8 10,12 19,34 7 Bỉ 18 1,75 2,52 3,6 3,5 3,7 15,07 22,25 8 Luc Xem Bua 40 1,44 1 1,8 2 1,9 8,14 13,47 9 Cộng hoà Séc 50,4 0,06 0,11 0,19 0,27 0,21 0,84 6,14 10 Hàn Quốc 20,2 2,34 1,39 2,83 1,81 2 10,37 15,21 11 Nauy 4,7 0,32 0,3 0,28 0,27 0,31 1,48 2,5 12 Vương quốc Anh 21 0,7 0,8 0,85 0,7 0,62 3,67 4,67 13 Thái Lan 30 0,26 0,08 0,06 0,07 0,08 0,55 1,48 14 Đan Mạch 0,8 0,3 0,24 0,28 0,27 0,32 1,41 2,115 15 Cộng hoà Phần Lan 1,8 0,14 0,13 0,1 0,11 0,12 0,6 1,21 Nguồn: điều tra ODA, UNDP Bảng 5B1: Lượng vốn ODA sử dụng cho ngành giáo dục của một số nhà tài trợ song phương chủ yếu giai đoạn 1993 - 1998 Đơn vị: Triệu USD STT Quốc gia Mức giải ngân 1993-1994 1994-1995 1995-1996 1996-1997 1997-1998 1993 - 1998 1 Australia 34% 5,74 6,54 6,79 6,64 7,28 32,99 2 Canada 8,10% 0,68 0,57 1,64 1,06 1,5 5,45 3 New Zealand 43% 0,17 0,19 0,25 0,36 0,57 1,54 Nguồn: Điều tra ODA, UNDP Bảng 5B2: Lượng vốn ODA sử dụng cho ngành giáo dục của một số nhà tài trợ song phương chủ yếu giai đoạn 1999 – 2002 Đơn vị: Triệu USD STT Quốc gia Mức giải ngân 1998-1999 1999-2000 2000-2001 2001-2002 1998 – 2002 1993-2002 1 Australia 27% 5,49 6,09 5,03 3,04 19,65 52,64 2 Canada 8,50% 1,11 1,05 1,02 1,02 4,2 9,65 3 New Zealand 60% 1,04 1,28 1,02 1,26 4,6 6,14 Nguồn: Điều tra ODA, UNDP Trong số các nhà tài trợ song phương thì Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất. Trong vòng 10 năm qua Nhật Bản đã giải ngân cho ngành giáo dục Việt Nam 247,66 triệu USD chiếm khoảng 34,72% tổng số ODA mà ngành giáo dục Việt Nam được tài trợ thông qua một số dự án chủ yếu như : - Dự án xúc tiến giáo dục xoá mù chữ cho người lớn vì sự phát triển cộng đồng bền vững tại vùng núi phía bắc thông qua JICA và hiệp hội UNESCO Nhật Bản: trong giai đoạn 2000 – 2002 đã xây dựng 40 trung tâm giáo dục cộng đồng ở 40 xã của hai huyện Phong Thổ và Tủa Chùa thuộc tỉnh Lai Châu, nâng cao chất lượng giáo viên xoá mù chữ và giáo viên TH thông qua đào tạo tại chức tại trung tâm giáo dục cộng đồng, đồng thời tổ chức giáo dục xoá mù chữ và giáo dục thường xuyên, xúc tiến các chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống. Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002 - Dự án nâng cấp khoa nông nghiệp trường ĐH Cần Thơ với tổng số vốn viện trợ không hoàn lại là 23 triệu USD ( hình thức chìa khoá trao tay). Nhờ thế mà trường ĐH Cần Thơ đã trở thành trường có cơ sở vật chất và trang thiết bị giáo dục hiện đại nhất trong số các trường ĐH ở Việt Nam, năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học cũng đã được tăng cường giúp trường có thể hợp tác với nước ngoài như Bỉ, Hà Lan... Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002 - Ngoài ra còn rất nhiều dự án khác, với các chương trình viện trợ học bổng và tài trợ của các công ty cho ngành giáo dục ở Việt Nam. Đặc biệt có thể kể đến các chương trình học bổng như chương trình học bổng Monbusho để nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề của người Việt Nam. Số lượng những người Việt Nam được hưởng học bổng này ngày càng tăng. Bảng 6: Số lượng lưu học sinh Việt Nam được cử sang Nhật Bản theo học bổng Monbusho giai đoạn 1993 - 2002 Đơn vị: người Loại hình đào tạo 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1993-2002 Sau Đại học 19 19 12 21 21 26 23 29 31 32 233 Đại học 2 2 2 9 9 12 16 22 24 28 126 Cao đẳng KT 5 7 24 8 8 13 17 19 21 25 147 THCN 3 5 7 7 7 7 7 7 7 7 64 TN&VHNB 2 3 6 9 13 13 12 16 19 25 118 Đào tạo GV 0 1 1 2 1 0 0 0 0 0 5 56 59 71 75 93 102 117 693  Nguồn: Vụ Quan hệ Quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo 3.3.2. Các nhà tài trợ đa phương: Các nhà tài trợ đa phương là các tổ chức như WB, UNICEF, ADB, UNESCO…. Các tổ chức này cũng đã hỗ trợ cho ngành giáo dục ở Việt Nam một lượng vốn không nhỏ, tăng dần lên theo các năm để xây dựng cơ sở vật chất cũng như đào tạo đội ngũ giáo viên. Trong số đó, WB và ADB được coi là nhà tài trợ lớn nhất (chiếm khoảng 30% lượng giải ngân). Nhìn chung, mức giải ngân cho giáo dục của các nhà tài trợ đa phương thay đổi không đáng kể trong cả giai đoạn 1993-2002.(Bảng 7A, 7B). Nguồn hỗ trợ của WB (xấp xỉ 123,8 triệu USD), chiếm khoảng 16,06% hỗ trợ ODA chung cho ngành giáo dục với một số dự án chủ yếu như: dự án giáo dục ĐH được thực hiện trên toàn bộ hệ thống giáo dục ĐH Việt Nam với số vốn 80 triệu USD để tăng cường tính thống nhất, độ linh hoạt, khả năng thích ứng của giáo dục ĐH đối với nhu cầu dang thay đổi của xã hội và nền kinh tế thị trường; nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong giáo dục ĐH và chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Ngoài ra, ADB cũng là một nhà tài trợ lớn ( chủ yếu cho cấp THCS), nhưng các quy định của ADB rất chặt chẽ, gây nhiều khó khăn trong quá trình sử dụng nguồn vốn ODA. UNICEF, UNESCO… cũng là những nhà tài trợ quan trọng với nhiều dự án có tổng vốn đầu tư lớn như dự án nâng cấp khoa Sinh, trường ĐH Sư phạm Hà Nội (500.000 USD), dự án nghiên cứu tổng thể ngành giáo dục (500.000 USD). Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002 Các tổ chức NGOs cũng có một vai trò quan trọng trong việc sử dụng nguồn vốn ODA hiệu quả trong ngành giáo dục của Việt Nam. Cho đến nay chưa có một số liệu thống kê cụ thể nào về các tổ chức NGOs do số lượng các tổ chức NGOs quá nhiều, nhưng nhìn chung các tổ chức NGOs tập trung hỗ trợ rất nhiều cho GDPCQ với quy mô vốn thường nhỏ. (Bảng 8) Bảng 7A: Lượng vốn ODA sử dụng cho ngành giáo dục của một số tổ chức đa phương giai đoạn 1993-1997 Đơn vị: Triệu USD STT Tổ chức Tỉ lệ 1993 1994 1995 1996 1997 1993-1997 1 WB 7% 5,4 8,8 3,68 14,4 16,6 48,92 2 UNICEF 14% 2,05 2,09 2,5 4,58 0,13 11,35 3 EU 11% 4,3 4,8 4,51 4,95 5,1 23,66 Nguồn: Điều tra ODA, UNDP Bảng 7B: Lượng vốn ODA sử dụng cho ngành giáo dục của một số tổ chức đa phương giai đoạn 1998-2002 Đơn vị: Triệu USD STT Tổ chức Tỷ lệ 1998 1999 2000 2001 2002 1998-2002 1993-2002 1 WB 7% 15,3 14,49 20,92 11,2 13 74,91 123,83 2 UNICEF 19% 2,34 2,05 8,09 2,66 2,62 17,76 29,11 3 EU 9% 2,34 2,05 5,09 2,66 2,62 14,76 38,42 Nguồn: Điều tra ODA, UNDP Bảng 8: Các lĩnh vực sử dụng ODA của một số tổ chức phi chính phủ Stt Tổ chức Lĩnh vực sử dụng ODA Tỉnh, thành phố 1 1 Action Aid -Hỗ trợ các sáng kiến của hội phụ huynh học sinh. -Nâng cấp lớp học trường tiểu học -Thành lập thư viện sách -Xoá mù chữ người lớn Sơn La Sơn La Hà Tĩnh, Sơn La Bắc Giang 12 AC Thụy Điển - Dạy nghề Cần Thơ, Hà Nam, Hà Tây 3 Quỹ Châu á ATF Tài trợ sách và tạp chí cho các thư viện Tất cả các tỉnh, thành phố trên toàn quốc. 44 Gli Amici di Xa Me Khuyến khích giáo dục tiểu học và hoà nhập cộng đồng cho trẻ em ở tổ bán báo xa mẹ. Hà Nội 5 5 Quỹ phát triển giáo dục EFD Vận động trẻ em thiệt thòi hoà nhập hệ thống giáo dục chính thức. Thành phố Hồ Chí Minh 46 Deutcher Caritasverband Chương trình tái hoà nhập dạy nghề dựa vào cộng đồng cho người tàn tật. Quảng Trị, thành phố Hồ Chí Minh 77 Counterpart Nâng cao trình độ tiếng Anh và kỹ năng vi tính cho những học viên đi xe lăn. Hải Phòng 88 COV Tài trợ cho các lớp học buổi tối và trường dạy nghề cho trẻ em không có khả năng đến trường. Đà Nẵng 9 9 ADRA Tổ chức lớp chữ nổi cho người mù, cung cấp gạo và đồ dùng học tập cho học sinh. Hà Tây, Nam Định, thành phố Hồ Chí Minh. Nguồn: Danh tập các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam 2001- 2002 III. Đánh giá tình hình thực hiện việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002. 1. Các nguyên tắc đánh giá hiệu quả 1.1 - Các nguyên tắc đánh giá hiệu quả Để đánh giá chính xác hiệu quả của một dự án nào đó cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây: 1.1.1. Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả. Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được đưa ra trên cơ sở mục tiêu. Mục tiêu khác nhau, tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau, mục tiêu thay đổi, tiêu chuẩn hiệu quả thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem như là thước đo để thực hiện các mục tiêu. Phân tích hiệu quả của một dự án nào đó luôn dựa trên phân tích mục tiêu. Dự án có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất. 1.1.2. Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích Theo nguyên tắc này, một dự án được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp trong đó các loại lợi ích, bao gồm lợi ích của nhà tài trợ và lợi ích của xã hội; lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Về lợi ích của nhà tài trợ và lợi ích của xã hội được xem xét trong phân tích hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân. Theo nguyên tắc “lợi ích”, hiệu quả tài chính không thể thay thế cho hiệu quả kinh tế quốc dân và ngược lại trong việc quyết định cho ra đời một dự án hành động của nhà tài trợ. Về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài : Không thể hy sinh lợi ích lâu dài để lấy lợi ích trước mắt. Kết hợp đúng đắn giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài là phương án được coi là có hiệu quả. Trong quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích lâu dài là cơ bản. Về kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội cũng như lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần: Việc phân tích hiệu quả kinh tế các dự án cần đặt nằm trong mối quan hệ với phân tích các lợi ích khác mà dự án mang lại. Bất kỳ một sự hy sinh lợi ích nào đều giảm hiệu quả chung của dự án đó. Trong đại bộ phận các trường hợp, lợi ích xã hội đóng vai trò quyết định. 1.1.3. Nguyên tắc về tính chính xác, tính khoa học. Để đánh giá hiệu quả các phương án cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hóa được và không lượng hoá được, tức là phải kết hợp phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Không thể thay thế phân tích định lượng bằng phân tích định tính khi phân tích định lượng chưa đủ đảm bảo tính chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi những căn cứ tính toán hiệu quả phải được xác định chính xác, tránh chủ quan tuỳ tiện. 1.1.4. Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế. Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải dựa trên cơ sở các số liệu thông tin thực tế, đơn giản và dễ hiểu. Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính xác. 1.2. Công cụ đánh giá các dự án giáo dục. Công cụ đánh giá thích hợp nhất theo cấp giáo dục và mục tiêu của các cấu phần dự án. Bảng 9: Công cụ đánh giá thích hợp nhất theo cấp giáo dục và mục tiêu của các cấu phần dự án. Cấp học và loại hình giáo dục Mục tiêu dự án Công cụ đánh giá Tiểu học, trung học Mở rộng diện theo học Nâng cao kết quả kiểm tra của học sinh Giảm chi phí thường xuyên của giáo dục CE hoặc WCE CE hoặc WCE CE Trung học (phổ thông và dạy nghề), đào tạo dạy nghề Tăng số tốt nghiệp (thí dụ,số giáo viên) Nâng cao kết quả kiểm tra của học viên Cải thiện triển vọng làm việc cho những người tốt nghiệp CE hoặc WCE CE hoặc WCE CB Đại học Cải thiện triển vọng làm việc cho những người tốt nghiệp CB CB- phân tích chi phí – lợi ích CE- phân tích chi phí – hiệu quả WCE – Phân tích chi phí –hiệu quả gia quyền Nguồn: Điều chỉnh từ Psacharopoulos (1995) 2. Những kết quả đạt được và những tồn tại cần phải khắc phục. 2.1. Những kết quả đã đạt được Trong thời gian qua, với những nỗ lực hợp tác của BGD & ĐT cùng với sự hỗ trợ nguồn vốn ODA của các tổ chức NGOs, ngành giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. 2.1.1. Quy mô giáo dục không ngừng tăng Nhờ có sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA, quy mô giáo dục không ngừng tăng lên, mạng lưới trường lớp được mở rộng, các mục tiêu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục TH đã được thực hiện, công cuộc phổ cập giáo dục THCS đang được đẩy mạnh. Đầu năm học 2001 – 2002, tổng số học sinh, sinh viên trong cả nước là gần 23 triệu, tăng khoảng 24% so với năm học 1995 – 1996. Xu thế đi học đúng tuổi tăng lên, tỷ lệ trẻ trong độ tuổi TH được đến trường là 95% (năm 1995 – 1996 là 93%), quy mô giáo dục TH ổn định dần. Nguồn : Ngành Giáo dục - Đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX - Bộ Giáo dục và Đào tạo (NXB Giáo dục) - Mạng lưới trường lớp và các loại hình đào tạo tiếp tục được củng cố, phát triển rộng khắp trong cả nước, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và vùng dân tộc góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của trẻ em. Nhờ vào khoảng 26.000 lớp học được xây dựng trong thời gian qua bằng nguồn vốn ODA, số lượng phòng học và trường học tăng lên đáng kể. - Cùng với việc củng cố phát triển trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú các địa phương đã quan tâm bố trí sắp xếp hệ thống trường lớp TH và THCS ở các vùng đồng bào dân tộc tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em đến trường. Hệ thống các trường sư phạm tiếp tục được củng cố, góp phần tăng thêm điều kiện thuận lợi trong việc đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn giáo viên đáp ứng nhu cầu ngày càng cao đặt ra cho ngành giáo dục. Sau hơn một thập kỷ kiên trì phấn đấu, đến giữa năm 2000, công cuộc chống nạn mù chữ và phổ cập giáo dục TH đạt kết quả to lớn nhất, tất cả 61 tỉnh, thành phố đều đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục TH, 94% dân số trong độ tuổi 15 – 35 biết chữ. Đạt được những kết quả đó một phần là nhờ các dự án đầu tư cho TH, cho trẻ em lang thang, dự án xoá mù chữ của các nhà tài trợ ODA. 2.1.2. Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến tích cực. Trong giai đoạn 1993-2002, chúng ta đã có thêm một nguồn vốn đáng kể là nguồn vốn ODA bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục, nhờ thế mà chất lượng giáo dục đã có chuyển biến trên một số mặt. Thông qua các dự án ODA, trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao; giáo dục THPT đạt trình độ cao của khu vực và thế giới. Số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường THDN, ĐH có thể tìm được việc làm phù hợp với năng lực bản thân ngày càng nhiều hơn. Giáo dục ĐH đã từng bước vươn lên, đạo tạo một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật từ cử nhân, thạc sĩ cho đến tiến sĩ, đã và đang công tác và có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội. Trong số đó, hàng trăm cán bộ khoa học, cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên của Việt Nam đã được cử đi tham dự các khoá đào tạo ngắn hạn do SEAMEO tổ chức. Hầu hết các học viên đều có chung nhận định rằng, kinh nghiệm của các nước trong khu vực rất bổ ích và dễ áp dụng vào tình hình thực tế của Việt Nam, qua đó giúp tiếp thu nhanh hơn và hiệu quả hơn trong việc giúp Việt Nam hội nhập một cách nhanh chóng với khu vực. Công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở các trường Đh, các cơ sở giáo dục đã đóng vai trò quan trọng vào việc nâng cao chất lượng đào tạo. Nhờ vào nguồn vốn ODA, nhiều trường ĐH, cao đẳng đã có thư viện khang trang, hiện đại; các trường ĐH lớn như ĐH Bách Khoa Hà Nội, ĐH Xây dựng Hà Nội, ĐH Đà Nẵng đã xây dựng thư viện điện tử, góp phần nâng cao chất lượng rõ rệt trong học tập, phục vụ việc nghiên cứu khoa học. Số lượng giáo viên được đào tạo ở trình độ thạc sĩ và tiến sĩ ngày càng nhiều hơn, giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy. Do có các dự án ODA đầu tư vào việc nâng cao năng lực cán bộ đào tạo nên chất lượng quản lý giáo dục đào tạo được cải thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển của cả ngành giáo dục. 2.1.3. Mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các tổ chức, các khu vực được tăng cường. Thông qua việc đầu tư nguồn vốn ODA vào ngành giáo dục ở Việt Nam, các nhà tài trợ và phía Việt Nam cũng có mối quan hệ hợp tác tốt đẹp hơn. Hoạt động hợp tác quốc tế của ngành giáo dục cũng đã tập trung vào việc duy trì và mở rộng mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước khu vực, tổ chức trên thế giới. Từ thời điểm gần như chỉ có quan hệ với Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu vào những năm 80 về trước, tính đến nay BGD & ĐT Việt Nam đã có quan hệ hợp tác chính thức với 69 nước, 15 tổ chức quốc tế và 70 tổ chức NGOs. Trong những năm cuối thập kỷ 80, hàng năm BGD & ĐT đón khoảng 400 lượt khách quốc tế, đến năm 1995 là 1500 lượt và đến năm 2002 đã lên tới 7000 lượt trong đó có 40% khách vào Việt Nam để trao đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, còn lại 60% số khách vào để giao lưu và tham gia các hoạt động văn hoá, giáo dục. Nguồn : Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002 16000 lưu học sinh Việt Nam cũng đã được cử đi học ở nước ngoài phân theo khu vực địa lý như sau: Biểu đồ 5: Tỷ lệ lưu học sinh phân theo khu vực địa lý giai đoạn 1993 - 2002 Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ giáo dục và Đào tạo Những lưu học sinh này sau khi về nước cùng với các sinh viên trong nước đã góp phần đáng kể vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội đất nước. Những năm gần đây, Australia là nước đã và đang cung cấp cho Việt Nam nhiều học bổng dài hạn nhất (từ 150 – 200 suất/ năm), đặc biệt Australia rất chú ý tới các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa phục vụ cho sự phát triển đất nước. Việt Nam cũng đã đứng ra đăng cai tổ chức hay tham dự các hội nghị, hội thảo về giáo dục quốc tế như Hội nghị bộ trưởng Đại học và nghiên cứu khoa học các nước nói tiếng Pháp, Hội nghị các nhà giáo dục Châu á - Thái Bình Dương…Ngoài ra, Việt Nam cũng có tăng cường trao đổi chuyên gia với nước bạn. Trong 10 năm Việt Nam đã cử 3000 lượt chuyên gia đến giảng dạy ở Lào, Campuchia, và một số nước Châu Phi như Algerie, Angola, Madagasca và hơn 100 chuyên gia đến dạy tiếng Việt ở các nước Nhật, Pháp, Hàn Quốc, Mỹ, Thụy Điển, Đức, Ba Lan, Nga… 2.1.4. Vị thế ngành giáo dục đào tạo Việt Nam được nâng cao trên l’Äờng quốc tế. Nguồn vốn ODA đã góp phần khắc phục khó khăn về nguồn lực của ngành, đồng thời cũng tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo Việt Nam vươn lên để hội nhập với giáo dục khu vực và thế giới. Th‹g qua quan hệ quốc tế, Việt Nam có thể giới thiệu với bè bạn, đồng nghiệp các nước những thành tích nổi bật của công tác giáo dục và đào tạo nước nhà để làm tăng thêm uy tín của nướcH^HXHCN Việt Nam trên trường quốc tế. Tại hội nghị tổng kết chương trình thập kỷ “Giáo dục cho mọi người” tại Darka_ Seregan tháng 4/2000, UNESCO và {ác nước thành viên của tổ chức n– đã đánh giá cao những thành tựu đạt được của giáo dục Việt Nam trong thập kỷ vừa qua và Việt Nam được chọn là một trong những nước điển hình của khurvực Châu á trong lĩnh vực giáo dục cho mọi người. Trong một nghiên cứu về giáo dục của Việt Nam, các chuyên gia của WB đã đánh giá “Việt Nam đã đưa ra một thành tích đầy ấn tượng, ngay cả khi so sánh với nhiều nền kinh tế khác có mức thu nhập cao hơn (Nguồn: Việt Nam: Education Financing Sector Study, WB, 1996) Có thể nhận định rằng giáo dục Việt Nam đang từng bước hội nhập giáo dục kmửvực và thế giới. Ngành giáo dục đang tích cực mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, kết hợp với các nguồn lực chọn lọc từ bên ngoài. Đó là biện pháp tích cực giúp giáo dục và đào tạo Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các nền giáo dục phát triển trong khu vực và thế giới. 2.2. Những tồn tại cần khắc phục Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục trong ngành giáo dục. 2.2.1. Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước. Mặc dù nguồn vốn ODA đã được đầu tư vào ngành giáo dục nhưng do sử dụng chưa hiệu quả lắm nên chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước, đặc biệt là ở các tỉnh vùng sâ{ vùng xa. Khả năng thích ứng với các dự án ODA trong các trường còn chưa cao. Ví dụ như với một số dự án dành cho các trường ĐH thì mặc dù giáo viên đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thực tế nhiều hơn nhưng do sinh viên chưa bắt kịp với sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy, vẫn quen với lối học thụ động, thiếu thực tế nên hiệu quả tiếp thu của sinh viên vẫn còn hạn chế, không đáp ứng được mục tiêu của các dự án ODA đặt ra. Hay như dự án giảng dạy tiếng Pháp trong các trường phổ thông từ TH đến ĐH cũng không mang lại kết quả như mong muốn. Việc học các môn Toán, Lý, Sinh bằng tiếng Pháp đối với học sinh cấp 2, cấp 3 chỉ là hình thức chứ không đem lại những kiến thức thực tế như mục tiêu dự án đề ra. Nguyên nhân là do chương trình học cấp 2, cấp 3 của học sinh Việt Nam đã quá nặng; những môn học Toán, Lý, Sinh bằng tiếng Việt vốn đã rất khó, nên lại càng khó khăn hơn khi phải tiếp thu bằng tiếng Pháp. Vì vậy, học sinh chỉ thụ động, đối phó với các kỳ thi. Sau đó, phần lớn những học sinh này lại chuyển sang học tiếng Anh để phù hợp với tình hình thực tế, trong khi lẽ ra với những gì đã được đầu tư thì những học sinh đó có thể sẽ trở thành những kỹ sư, cử nhân chuyên về tiếng Pháp phục vụ cho sự phát triển của đất nước, nhất là trong giai đoạn cần nhiều người có trình độ cao như hiện nay để đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 2.2.2. Tỷ lệ giải ngân chưa cao Tỷ lệ giải ngân chung trong ngành giáo dục và đào tạo chỉ mới đạt 62% , còn thấp hơn tỷ lệ giải ngân của các nước khác trong khu vực. Vì thế, điều này đã gây ra một số hậu quả bất lợi: không thực hiện đúng tiến độ dự án, đưa công trình vào hoạt động chậm gây ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm hiệu quả sử dụng vốn, ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội đã đề ra. Hơn nữa, việc giải ngân chậm đã làm cho tốc độ đầu tư cho công cộng chậm lại có thể ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong tương lai. Đặc biệt với nguồn vốn vay, thì việc chậm giải ngân đồng nghĩa với việc làm cho các điều kiện ưu đãi kém đi trong khi đó thời gian ân hạn lại bị rút ngắn, thời hạn hiệu lực rút vốn giảm làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ vào khả năng tiếp nhận ODA của ngành giáo dục Việt Nam. 2.2.3. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA chưa cao. Người Việt Nam có tâm lý rất thích tiếp nhận các dự án đầu tư vì họ cho rằng như thế họ sẽ nhận được một khoản tiền đầu tư, có thể xây dựng, mua sắm những gì mình thích. Họ không tính đến yêu cầu của bên phía tài trợ, không nhận thức được rằng với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep Thuy.doc