Đề tài Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long

Tài liệu Đề tài Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long: PHẦN 1; TỔNG QUAN Chương 1: Tổng quan về Đồng Bằng sông Cửu Long I. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN 1. Vị trí địa lý ĐBSCL (Đồng Bằng Sông Cửu Long) nằm kéo dài từ 8°30’ đến 11°00 vĩ Bắc; 104°35’ đến 107°00 kinh Đông. Nằm ở cực nam của đất nước, là phần cuối cùng của lưu vực sông Mêkông với tổng diện tích tự nhiên là 3,96 triệu ha bằng 5% diện tích toàn lưu vực. Diện tích đồng bằng là 39.700 km2, bao gồm 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Bến Tre, và thành phố Cần Thơ. 2. Địa chất Nếu so với đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL có tuổi thành tạo xưa hơn nhiều - ít nhất cũng cách đây cả hằng triệu năm. Vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu. 2.1. Lịch sử hình thành đá móng Lịch sử ĐBSCL nằm trọn vẹn trong 2 đại Mezozoic và Kainozoic (trung sinh và cận sinh) l...

doc87 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 2274 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1; TỔNG QUAN Chương 1: Tổng quan về Đồng Bằng sông Cửu Long I. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN 1. Vị trí địa lý ĐBSCL (Đồng Bằng Sông Cửu Long) nằm kéo dài từ 8°30’ đến 11°00 vĩ Bắc; 104°35’ đến 107°00 kinh Đông. Nằm ở cực nam của đất nước, là phần cuối cùng của lưu vực sông Mêkông với tổng diện tích tự nhiên là 3,96 triệu ha bằng 5% diện tích toàn lưu vực. Diện tích đồng bằng là 39.700 km2, bao gồm 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Bến Tre, và thành phố Cần Thơ. 2. Địa chất Nếu so với đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL có tuổi thành tạo xưa hơn nhiều - ít nhất cũng cách đây cả hằng triệu năm. Vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu. 2.1. Lịch sử hình thành đá móng Lịch sử ĐBSCL nằm trọn vẹn trong 2 đại Mezozoic và Kainozoic (trung sinh và cận sinh) lập nên một móng đá cứng. Móng đá trải qua 2 thời kỳ xáo trộn mãnh liệt do hoạt động tách dãn đáy biển Đông ở ngoài khơi và đới toạt nứt của vịnh Thái Lan. Vào thời cận sinh, móng đá bị phủ bởi trầm tích phong phú, mà chiều dày đã được giải đoán địa chấn, và tam giác châu có chiều dày về phía Đông Nam. 2.2. Bồi tích bờ biển Hệ thống bồi tích bờ biển xảy ra nhờ cân bằng giữa 2 cực độc lập là dòng sông đi ra và triền biển đi vào mà hậu quả trực tiếp là vật liệu trầm tích lơ lửng (cát mịn, bùn sét) mưa xuống đáy nước những cồn cửa sông mọc ra, rồi dần dần lấp nghẽn cửa sông. 2.3. Bồi tích lòng sông Lòng sông có 2 loại trầm tích: Loại lơ lửng, thường chỉ rơi xuống đáy nước của các trũng yên lặng, hay rơi xuống đáy biển. Loại trượt trên mặt đáy tạo ra cát sông, cồn sông, tiếp tục di chuyền và tạo thành cù lao sông. 2.4. Bồi tích đồng lũ Đây là kết quả của nước thượng nguồn trên ĐBSCL, vật liệu của lũ chủ yếu là sét, sau là bùn mịn. Về mặt môi trường trầm tích có 2 loại đồng lũ: đồng lũ kín của tiểu vùng Đồng Tháp Mười và đồng lũ hở tương ứng với Tứ Giác Long Xuyên. 3. Địa hình Chủ yếu là do phù sa mới của sông Cửu Long bồi đắp. Các dạng địa hình: địa hình trũng khó thoát nước (Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười), địa hình cao (Đông Bắc Long An, Bắc Đống Tháp), địa hình trung bình (Tiền Giang). Nhìn chung, ĐBSCL bằng phẳng, sự chênh lệch độ cao không đáng kể (trừ vùng núi An Giang), tuy nhiên cũng ảnh hưởng rõ đến quá trình hình thành và qui luật phân bố các loại đất. 4. Thỗ nhưỡng Tùy theo điều kiện phân bố tính chất đất, người ta có thể phân thành các vùng đất chính như sau: 4.1. Vùng đất phèn (S) Diện tích đất phèn cả nước là 2.140.306 ha, chiếm 6.45% diện tích tự nhiên của cả nước. ĐBSCL có 1.885.890 ha, chiếm 88.11% diên tích đất phèn cả nước. Đất phèn được hình thành do 2 nguyên nhân: một là do tầng đất phèn tiềm tàng bị oxi hóa mà thành; hai là do tích tụ ở vùng trũng do nước mưa mang đến. 4.2. Vùng đất phù sa nước ngọt (P) Cả nước có 2.936.413 ha đất phù sa nước ngọt, chiếm 8.9% đất tự nhiên. Ở ĐBSCL, diện tích đất phù sa nước ngọt là 960.734 ha. Ở nhiều ở các tỉnh An Giang (214.662ha), Đồng Tháp (150.853ha). Đất phù sa thoát nước: 420.236 ha; đất phù sa ít thoát nước: 535.638 ha. Đất phù sa ĐBSCL là loại đất tốt. Đất khá giàu chất hữu cơ và đạm.Rất thích hợp để trồng lúa, hoa màu, cây ăn quả...Phân bố chủ yếu ở các tỉnh Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Tiền Giang, Đồng Tháp..... 4.3. Vùng đất mặn (M) Cả nước là: 991.202 ha. Ở ĐBSCL, diện tích đất mặn 703.452 ha, chiếm 70.96% diện tích đất mặn của cả nước và được chia thành: Đất mặn, sú, đước, vẹt: 170.479 ha. Đất mặn nhiều: 255.042 ha. Đất mặn ít và trung bình: 277.931 ha. Đặc trưng của đất mặn là lượng Cl- cao 0.05-0.25% vào mùa khô, pH ít chua đến hơi kiềm, hàm lượng mùn từ trung bình đến hơi khá, ít thoát nước. Đất mặn phân bố nhiều ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau. 4.4. Vùng đất phèn mặn (SM) Đất phèn mặn là loại đất bị nhiễm mặn muối. Đất này thường phân bố ở địa hình trung bình và tương đối thấp. Đặc biệt tập trung nhiều ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. 4.5. Vùng đất giồng cát (Cz) Là loại đất cát biển tập trung ở ĐBSCL.Thường gặp ở Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bạc Liêu.... 4.6. Vùng đất xám trên phù sa cổ (X) ĐBSCL có 64.705ha, Long An (46.195ha), Đồng Tháp (15.484ha). Phân bố trên các bậc thềm phù sa cổ, chạy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia như ở Đồng Tháp Mười. Đây là nhóm đất nghèo dinh dưỡng nhất ở ĐBSCL, hàm lượng chất hữu cơ thấp. Thích hợp trồng các loại cây công nghiệp, hoa màu, cây họ đậu... Được phân bố theo thứ tự Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang.... 4.7. Vùng đất núi (F) Ở ĐBSCL, khu vực đồi núi tập trung ở An Giang, có diện tích 26.200 ha.Nhìn chung loại đất này có hàm lượng mùn rất thấp, nghèo dinh dưỡng. 5. Thủy văn Mọi hiện tượng thủy văn và các đặc trưng tài nguyên nước mặt ĐBSCL là hậu quả của chế độ mưa mùa tập trưng trên toàn bộ lưu vực sông Cửu Long và mối tương tác giữa các quá trình sông và quá trình biển. Hai quá trình chuyển động và ngược chiều này giao thoa, phối hợp và khống chế lẫn nhau. Mối tương tác này còn bị ảnh hưởng bởi hệ thống thủy văn và các kiến trúc nhân tạo khiến chế độ thủy văn ĐBSCL mang một sắc thái đặc biệt và biến động không ngừng. 5.1. Yếu tố chủ đạo của quá trình sông Lưu lượng trên dòng chính: chủ yếu là do 2 sông Tiền và sông Hậu. Sự phân bố của 2 sông này trong năm là không đều, tùy thuộc lượng nước ở Tân Châu, Châu Đốc do sự điều tiết của biển Hồ từ Campuchia bắt nguồn mang đến. Nước sông thường lên cao từ tháng 7 đến tháng 11, cao nhất là vào tháng 9 và 10, mực nước có thể chênh lệch so với mùa cạn đến 4 m. 5.2. Yếu tố chủ đạo của quá trình biển Triều biển Đông thuộc loại bán nhật triều không đều, biên độ từ 2m - 3.5m. Cực đại có thể lên đến 4m. Ngược lại triều biển Tây thuộc loại triều hỗn hợp thiên về nhật triều có biên độ triều nhỏ (nhỏ hơn 1m). Dạng bán nhật triều và dao động mạnh của biển Đông có tác dụng lớn trong việc đẩy nước, tích nước trong lúc triều cao, trong khi ấy dạng nhật triều yếu của biển Tây có lợi cho việc tiêu nước. Các sông chính rộng và sâu đều chảy ra biển Đông, đó là lý do khiến triều biển Đông tác dụng lên phần lớn diện tích ĐBSCL Do những tác động khác nhau về lưu lượng của sông, địa hình dòng sông, hình thái và mạng lưới kênh rạch....nên khi truyền vào nội địa qua các sông chính thì hình dạng, biên độ và tốc độ truyền triều trên mỗi sông khác nhau và thay đổi trên từng đoạn sông. Do đó, diện tích có khả năng tự chảy trên 9 tháng/năm chỉ giới hạn ở vùng ven và giữa sông Tiền, sông Hậu. Các khu vực khác muốn đưa nước lên vườn, ruộng trong mùa kiệt phải sử dụng động lực vào các thời điểm khác nhau. Mực nước bình quân ở biển Đông cao hơn biển Tây nên sự chuyển nước từ Đông sang Tây là hợp quy luật. Biên độ giảm khi đi sâu vào vườn ruộng. Tốc độ truyền triều trên các sông khá lớn, biến đổi theo mùa, lớn nhất là trên sông Tiền (trung bình: 20km/g, có đoạn 40km/g) và giảm nhanh khi triều truyền vào vườn, ruộng. Hậu quả là tuy cùng nguồn triều, các điểm khác nhau trên các dòng chính và nội đồng có thể khác pha do triều truyền theo nhiều đường khác nhau. 5.3. Chế độ thủy văn mùa kiệt và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp Trong mùa cạn, toàn bộ sông rạch ở ĐBSCL chịu tác dụng của thủy văn và hầu như không có kênh chính nào chảy một chiều trong mùa cạn, những kênh nào lợi dụng được các quy luật truyền triều và ít bị nhiễu động bởi các kênh ngang đều có chế độ tải nước tốt trong mùa cạn. Ngoài nguồn của sông Tiền vào mùa nắng, cần lưu ý khai thác nước của các nguồn từ sông rạch Campuchia đổ về. 5.4. Chế độ thủy văn mùa lũ và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp Ngập úng là hiện tượng khá thường xuyên đối với ĐBSCL, nhất là ở các vùng trũng và khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu.Vì thế cũng ảnh hưởng đến diện tích, năng suất trồng vườn và ruộng. Nước sông vào mùa lũ không đục như sông Hồng do hàm lượng phù sa nhỏ (0,100 kg/m3 vào các tháng 3,4; 0,300 kg/m3- tháng 9,10). Tuy vậy tổng lượng của các con sông này hợp lại lên đến một con số khổng lồ, khoảng 100 triệu tấn/năm, nghĩa là gấp khoảng vài lần tổng lượng phù sa sông Hồng và tổng lượng trung bình nhiều năm lên đến 475-500 tỉ m3. Vì vậy, sau mấy trăm năm khai khẩn, vùng ĐBSCL đã trở thành vựa lúa lớn nhất của Việt Nam và là nơi trồng hoa quả với năng suất cao nhờ hệ thông dẫn thuỷ nhập điền quy mô và phức tạp biến những vùng đất phèn trở thành đất phù sa phì nhiêu, ngăn chặn những luồng nước mặn từ biển. Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến nạn lũ lụt xảy ra tại ĐBSCL thường hơn những thập niên trước, với một nhịp độ ngày càng tăng, gần như ngập lụt xảy ra hằng năm. Vùng ngập sâu nhất (>2m) là Tân Châu, Châu Đốc.Vùng ít ngập nhất (<0.3m) là Bạc Liêu, Mỹ Tho, Bến Tre và các vùng núi. 5.6. Vấn đề xâm nhập mặn Sự xâm nhập của nước mặn trong sông ngòi là một hiện tượng tự nhiên trong các con sông mà cao độ của đáy sông thấp hơn mặt nước biển. Hiện tượng này xảy ra do sự khác biệt về tỉ trọng của nước mặn (khoảng 1,03) và nước ngọt (khoảng 1,00). Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như lưu lượng và thời lượng của sông, độ dốc của lòng sông, biên độ thủy triều, vận tốc và chiều gió cũng như nhiệt độ của nước, trong đó lưu lượng và thời lượng là yếu tố quyết định. Nước mặn sẽ xâm nhập một cách dễ dàng nếu không có đủ lưu lượng và thời lượng của nước sông. Lưu lượng thấp và kéo dài có thể do hạn hán, nhưng cũng có thể do các dự án thủy nông, cấp thuỷ và rẽ nước ra khỏi lưu vực ở thượng lưu. Sự xâm nhập mặn trên các sông chính: là do nước biển theo dòng triều oh god Truyền ngược vào trong lòng sông nên sự thay đổi mặn cũng mang tính chất chu kì. Xâm nhập mặn trong nội đồng: sự xâm nhập mặn ở các ruộng, vườn còn phức tạp hơn nhiều so với sông chính vì chịu tác động của nhiều nguồn mặn và các điều kiện khí hậu, địa hình các nơi có ảnh hưởng khá lớn.Tuy nhiên độ mặn bị giảm nhanh vào đầu mùa mưa. Hậu quả là mất đi nguồn nước gia dụng và trồng trọt duy nhất hoa màu và cây trái bị hủy hoại. Thực vật sẽ chết nếu độ mặn của nước trồng trọt vượt quá 0,36 g/l. Ngoài ra, nước có độ mặn cao cũng ảnh hưởng đến gia súc và cá nước ngọt. Sông Cửu Long và các sông khác trong vùng ĐBSCL có tất cả các yếu tố thuận lợi cho cho sự xâm nhập của nước mặn:đáy sông thấp hơn mặt nước biển, độ dốc lòng sông rất bằng phẳng, biên độ thủy triều cao( khoảng 3m ở biển Đông) và gió chướng thổi từ đất liền vào mùa khô .Vì sông Cửu Long có một lưu lượng tự nhiên cao trong một thời gian dài ,nhất là trong mùa nươc nổi, cho nên sự xâm nhập của nước mặn trong sông Cửu Long ngày trước chỉ giới hạn ở vùng cửa sông và không tạo nên một vấn đề nghiêm trọng cho vùng ĐBSCL vào thời điểm đó. Ngày nay sự xâm nhập mặn trong sông Cửu Long là một trong những yếu tố tối quan trọng có ảnh hưởng đến việc khai thác và phát triển ĐBSCL. Dữ kiện đo đạc gần đây, tuy không đầy đủ đã cho thấy sự nghiêm trọng của vấn đề. Ví dụ tại Mỹ Tho nơi mà trước đây có nước ngọt quanh năm, độ mặn trong sông Tiền đã lên đến 5,3g/l vào đầu tháng 4 /1999 và còn có thể lên cao hơn .Độ mặn này vượt quá tiêu chuẩn 2,0 g/l cho nước gia dụng ở các nước đang phát triển ,0,36 g/l cho nước trồng trọt và 3,0 g/l cho nước chăn nuôi. Nước mặn đang xâm nhập sâu vào sông Cửu Long, nhất là trong mấy năm vừa qua.Trong năm 1995 ,nước mặn đã tiến sâu vào sông Cửu Long 50 km, nhưng đến năm 1999 nước mặn tiến sâu 70km, một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử. Có nhiều phương pháp có thể dùng để đối phó với sự xâm nhập của nước mặn trong sông Cửu Long .Phương pháp trước tiên có thể nghĩ đến là gia tăng lưu lượng của sông Cửu Long trong lãnh thổ Viêt Nam, nhất là trong mùa khô. Có thể thực hiện bằng cách giảm số lượng nước dẫn vào kinh dùng cho việc canh tác,nhất là những vùng có năng suất thấp. Lưu lượng của sông Cửu Long cũng có thể được gia tăng bằng các hồ chứa nước nhân taọ trong vùng. Một phương pháp rất thông dụng đã được thực hiện là trong vùng ĐBSCL là cống ngăn mặn. Một giải pháp thỏa đáng cho sự xâm nhập nước mặn trên sông Cửu Long có thể là một sự kết hợp của tất cả các phương pháp bao gồm sự gia tăng lưu lượng của sông, cống ngăn mặn ,đập và điều kiện tự nhiên… Tất cả phải nhằm một mục đích là làm sao cho việc khai thác và phát triển mang lại nhiều lợi ích nhất trong khi giảm thiểu các ảnh hưởng tai hại của các dự án thủy lợi trong toàn lưu vực sông Meekong lên dân cư và hệ thông sinh thái của sông Cửu Long và vùng ĐBSCL. 5.7. Tình hình chua phèn trên kênh mương Quá trình oxi hóa, thủy phân và rửa trôi các thành phần độc hại trong đất chua đã làm cho nước kênh có độ pH rất thấp, với hàm lượng Al3+, Fe2+, Fe3+ rất cao. Hai biện pháp để cải tạo nước chua trong kênh rạch là cô lập ém phèn tại chỗ, và tạo thủy để đẩy nước chua đi nhanh ra sông lớn. 5.8. Phù sa và sự chuyển tải phù sa vào nội đồng Lượng phù sa của sông Cửu Long cao nhất vào mùa lũ. Thuộc loại phù sa hạt mịn. Quá trình chuyển tải phù sa vào nội đồng bị chi phối hoàn toàn bởi động lực của các dòng chảy ở các khu vực bị lũ ảnh hưởng. Phù sa vào nội đồng sâu nhất vào mùa lũ khi nước trong các kênh chảy một chiều, song lượng bùn cát này chưa được bồi đắp vào đồng ruộng vì nước chưa tràn lên đồng. Khi lũ đã cao, nước lũ từ phía biên giới Campuchia về tạo ra các sông lũ ngăn cản không cho phù sa vào sâu. Các vùng đất có nước phù sa chảy mạnh qua thường là đất tốt cho nông nghiệp vì được cải tạo và bồi tích. Muốn tăng lượng phù sa và trong vườn, ruộng cần phải tăng tốc độ của dòng nước. 5.9. Nước ngầm Các kết quả nghiên cứu địa chất, thủy văn đồng vị, thủy địa hóa.... đã khẳng định các vỉa nước ngầm ở ĐBSCL không phải là các túi nước cô lập bị chôn vùi mà liên tục được bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau. Nước ngầm đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp. 6. Khí hậu ĐBSCL mang tính chất khí hậu gió mùa cận xích đạo. Các yếu tố khí hậu như ẩm độ, không khí, bốc hơi, nắng, bức xạ, nhiệt độ tuy có thay đổi theo mùa nhưng tương đối ổn định. Nhiệt độ: Nhiệt độ hằng năm tương đối điều hòa, trung bình khoảng 270C. Nhiệt độ tháng cao nhất và thấp nhất chênh lệch không quá 3-40C Độ ẩm : độ ẩm trung bình trong khoảng 80-86% Mưa Lượng mưa biến động theo từng trạm. Lượng mưa trung bình tháng vào khoảng 130-150 mm trong các tháng mùa mưa và vài chục mm trong các tháng mùa khô. Có hai đợt hạn đáng kể: đợt hạn tháng 5,6 DL(gọi là đầu vụ) hay tháng 7, 8 DL (gọi là hạn Bà Chằng). Bốc hơi: Nơi có lượng bốc hơi trung bình năm thấp nhất là Cần Thơ: 693.5 mm, TPHCM : 1.300mm Ánh sáng: Ở ĐBSCL số giờ nắng trung bình năm khoảng 2.500 giờ. Bức xạ: cán cân bức xạ năm đạt 75-80 kcal/cm2 Gió: có 3 hướng gió chính: Tây Tây Nam, Đông Bắc và Đông Nam. Bão: quanh năm ít có bão xảy ra. 7. Hệ sinh vật 7.1. Thực Vật Rừng nước mặn ven biển chiếm diện tích 30.000 ha, đứng thứ ba trên thế giới có giá trị kinh tế cao. 7.1.1 Thảm thực vật tự nhiên vùng đất hoang Kiểu thảm thực vật trên vùng phù sa cổ và núi sót: phân bố trên vùng có địa hình cao. Kiểu thảm thực vật vùng ngập nước: Rừng ngập mặn Trảng cỏ ngập mặn Trảng cỏ Năng Xoắn Kiểu thảm thực vật ven sông rạch Kiểu phụ Mấm, Đước Kiểu phụ dừa nước Kiểu phụ bần chua Kiểu phụ chiếc Kiểu thảm thực vật ngập nước định kỳ: phân bố ở vùng trung bình thấp hoặc trũng.Kiểu sinh cảnh này chiếm diện tích trong vùng ngập lũ. 7.1.2 Thảm thực vật trên vùng đất canh tác Trên vùng đất canh tác thảm thực vật tự nhiên bị thay thế hoàn toàn bằng thảm thực vật nhân tạo. Gồm: đất địa hình cao ngập ít, đất ruộng, đất ven biển nhiễm mặn. 7.2. Động Vật 7.2.1 Chăn nuôi Trên cạn: các loại gia súc gia cầm... Dưới nước: phần lớn là thủy hải sản. 7.2.2 Tự nhiên Hệ động vật hoang dã ở đây bao gồm 23 loài thú, 386 loài và loài phụ chim., 35 loài bò sát, 6 loài ếch nhái và 260 loài cá chủ yếu thấy ở rừng U Minh và các rừng đước ở Nam Căn. 8. Khoáng sản ĐBSCL có triển vọng dầu khí trong thềm lục địa tiếp giáp thuộc biển Đông và Vịnh Thái Lan: Bể trầm tích Cửu Long: thềm lục địa tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía Bắc, ĐBSCL ở phía Nam. Dự báo khoảng 2 tỷ tấn dầu quy đổi. Bể trầm tích Nam Côn Sơn: Tiềm năng dự báo địa chất khoảng 3 tỷ tấn dầu quy đổi. Bể trầm tích Thổ Chu - Mã Lai thuộc Vịnh Thái Lan có trữ lượng dự báo không lớn, khoảng vài trăm triệu tấn dầu. Đá vôi có trữ lượng khoảng 130 đến 440 triệu tấn. Đá Granit, Andesit có khoảng 450 triệu m3. Sét gạch ngói có trữ lượng đến 40 triệu m3. Cát sỏi có trữ lượng đến 10 triệu m3/năm Than bùn có lượng 370 triệu tấn, trong đó U Minh khoảng 300 triệu tấn Nước khoáng có ở Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Minh Hải. II. KINH TẾ-XÃ HỘI 1. Dân số-lao động Là vùng có dân số đông nhất trong các vùng của cả nước, chiếm 22% dân số cả nước. Dân cư ở ĐBSCL phân bố không đều và không ổn định. Dự báo dân số đô thị năm 2010 khoảng 7,4 triệu người, chiếm 35% dân số vùng. Về lực lượng lao động: ĐBSCL có hơn 6 triệu lao động xã hội có khoảng 4.5 triệu làm nông nghiệp. Tỷ lệ chết còn cao có thể do ảnh hưởng mức sống bị giảm sút và thiếu thuốc men chữa bệnh. Nhân dân ĐBSCL giàu truyền thống cách mạng, thông minh sáng tạo, có kinh nghiệm trong sản xuất hàng hoá có thể thích ứng nhanh nhạy với điều kiện và đòi hỏi mới của thời đại khoa học công nghệ tiên tiến. 2. Văn hoá xã hội 2.1. Văn hoá ĐBSCL là vùng đất thuộc nền văn hóa Óc eo của cư dân bản địa thuộc vương Phù Nam. Người Việt miền Bắc đến khai phá vào khoảng thế kỷ 16. Khoảng thế kỷ 17, nhóm người Hoa thuộc gia tộc Mạc Cửu đến khai phá vùng đất Hà Tiên. Cư dân ĐBSCL hầu hết là người Việt, ngoài ra còn có các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa, Mạ, Stieng, Chơro, Mnông…trong đó người Việt đóng vai trò chủ thể quyết định sự phát triển. 2.1.1 Văn hóa nông ngiệp: Thiên về quảng canh nhằm sử dụng diện tích đất khai hoang còn quá rộng, nhằm trừ hao do chim chóc… Hệ thống thuỷ lợi không có đê, chủ yếu dựa vào chế độ thuỷ triều đề đưa nước ngọt và phù sa lên diện tích đất canh tác. Mỗi lần có lũ là một lần cải tạo chất lượng nước, vệ sinh ruộng đồng. Ngoài trồng lúa còn trồng nhiều loại hoa màu, cây ăn trái nổi tiếng như bưởi Năm Roi, xoài cát Hòa Lộc. Bên cạnh nông nghiệp, cư dân ĐBSCL còn chăn thả gia súc, gia cầm, nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản 2.1.2. Tập quán ăn uống: Văn hoá ẩm thực của người Tây Nam Bộ không đi vào sự cầu kì mà thiên về sự dư dật, phong phú, thề hiện sự dung hợp hài hòa giữa các dân tộc. 2.1.3. Tập quán trang phục: Trang phục đặc trưng là áo bà ba, bên cạnh là trang phục của các dân tộc Hoa, Chăm, Khmer nhất là các vùng có các dân tộc này sống tập trung như Châu Đốc, Sóc Trăng. Trang phục cũng thể hiện lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên với các chất liệu bằng vải sợi, thoáng mỏng như truyền thống của người Việt nhưng cũng mang những sắc thái riêng. 2.1.4. Ăn ở - đi lại: Về nhà ở, điều kiện tự nhiên bắt buộc xây dựng nhà trên đồi, gò, gồng và nhà dọc trên kênh rạch, mặt nhà hướng ra lộ hay kênh rạch. Có 4 loại nhà chủ yếu là nhà đất, nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất trong đó nhà sàn là phổ biến nhất. Vật liệu xây nhà trước kia lấy từ các loại vật liệu tự nhiên: tràm, đước, lá dừa nước …sau này thêm các loại cây khác, gạch, đá… 2.2. Xã hội 2.2.1. Y tế: Hệ thống y tế phát triển tương đối rộng khắp. Toàn vùng có 11 bện viện đa khoa, 103 trung tâm y tế tuyến huyện và 100% xã có trạm y tế. Chương trình tiêm chủng mở rộng được thực hiện rộng khắp và thu được nhiều kết quả khả quan. Tình hình sức khoẻ cộng đồng có nhiều vấn đề, cần giải quyết vấn đề bệnh dịch liên quan đến nguồn nước do thiếu nước sạch. Bệnh AIDS lan truyền mạnh ở khu vức biên giới do người dân thiếu hiểu biết và tệ nạn xã hội. Trong những năm gần đây dịch cúm gà lan rộng, ĐBSCL cũng là vùng có tốc độ lây truyền cao và phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề. Điều đó đòi hỏi công tác y tế, tiêm phòng, vệ sinh dịch tễ cần được nâng cao và mở rộng để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. 2.3. Giáo dục Mạng lưới giáo dục ở ĐBSCL khá đầy đủ. Tính đến 30/4/2000 có 3.458 triệu người đến trường. Trong đó, trường tiểu học và phổ thông cơ sở là 4.034 và phổ thông trung học là 324 triệu. Mỗi xã thường có trường trung học. Bên cạnh đó, mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học khá nhiều gồm: đại học Cần Thơ, 5 trường kinh tế, 86 trường cao đẳng dạy nghề. Tuy nhiên, những vùng sâu, vùng xa đầu tư cho giáo dục chưa nhiều, số lượng trẻ em đến trường còn thầp so với cả nước. Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học thấp, chỉ cao hơn Tây Nguyên (ĐBSCL 97,01%, Tây Nguyên 7.,01%, đồng bằng sông Hồng 93,28%) Nhìn chung, hệ thống giáo dục chưa phát triển đồng bộ giữa các cấp học và các vùng dân cư. 3. Kinh tế 3.1. Nông nghiệp ĐBSCL là một vùng lương thực, thực phẩm quan trọng nhất cả nước hội tụ nhiều trọng điểm sản phẩm hàng hóa. ĐBSCL có diện tích đất nông nghiệp lớn nhất trong cả nước. Diện tích đất phù sa ngọt thuận lợi và tương đối thuận lợi cho nông nghiệp-chủ yếu là lúa nước. Đặc biệt, trồng lúa đang là thế mạnh của ĐBSCL, diện tích trồng lúa là 4 triệu ha, xuất khấu 2-3 triệu tấn gạo mỗi năm. Lượng gạo xuất khẩu trong 10 năm tăng lên đến 22 triệu tấn. ĐBSCL chiếm một nửa sản lượng lương thực của cả nước trong khi dân số chiếm 22%. (hình 1.1) ĐBSCL là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất của cả nước, nông nghiệp ĐBSCL đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế trong vùng, đồng thời góp phần ổn định nền kinh tế chung của đất nước. Khu vực ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước, đây cũng là vườn cây ăn trái rộng lớn của Việt Nam, chính vì vậy đây cũng là nơi dùng rất nhiều các loại thuốc bảo vệ thực vật (TBVTV), phân bón hóa học(PBHH). Các hóa chất này không chỉ gây ô nhiễm nguồn nước, đất mà còn gây hại cho con người, đặc biệt những người tiếp xúc trực tiếp với chúng . Việc sử dụng TBVTV và PBHH quá nhiều sẽ gây ra rất nhiều hậu quả về môi trường như đất, không khí, đặc biệt là tác động mạnh đến nguồn nước ngầm, nước mặt khu vực, nếu sử dụng không đúng chúng cũng có phản tác dụng lên cây trồng như vàng lá, khô cây, giảm sức nảy mầm, ảnh hưởng xấu tới sinh trưởng của cây… Các ảnh hưởng thông thường như các bệnh ngoài da, ung thư, thần kinh, vô sinh, nội tạng…hoặc tử vong, ngoài ra con có những biểu hiện mãng tính khi mới tiếp xúc như muốn ói, hoa mắt, xanh xao, mẩn ngứa… 3.2. Công nghiệp Tuy không là thế mạnh của vùng nhưng công nghiệp ở ĐBSCL cũng đã và đang phát triển rất mạnh mẽ: Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An... Công nghiệp chủ yếu tập trung vào chế biến gạo, thủy sản. Ngành khai thác vật liệu xây dựng đang phát triển mạnh. Tuy nhiên, trang thiết bị và công nghệ còn lạc hậu, nhất là ngoài quốc doanh. 3.3. Thủy sản Với lợi thế về nguồn nước mặt phong phú từ hệ thống sông ngòi kênh rạch, chằng chịt.... ĐBSCL có nhiều loại cá nước ngọt có chất lượng. Giá trị xuất khấu thủy hải sản đạt 50-60% so với cả nước. 3.4. Giao thông-vận tải Đặc điểm của khu vực này là sông nước, kênh rạch chằng chịt nên giao thông chủ yếu từ trước là đường thủy. Gần đây công nghiệp dịch vụ phát triển, nhu cầu giao thông đường bộ tăng nhanh nên đã có hoàng loạt các công trình cầu đường mới được xây dựng để thuận tiện hóa mọi việc giao lưu thương mại, văn hóa ,du lịch giữa các vùng Sự tham gia của tư nhân ngày càng gia tăng thúc đẩy sự phát triển của ngành giao thông vận tải. Vận chuyển hàng hóa chủ yếu tập trung vào hai hướng chính là TpHCM-Cà Mau và TpHCM-Kiên Lương. Hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy chủ yếu là gạo, vật liệu xây dựng, phân bón, gỗ.... 3.5. Thương mại-Dịch vụ-Xuất nhập khẩu Trong những năm gần đây, dịch vụ thương mại của ĐBSCL phát triển rất nhanh, hàng hóa đổi mới về số lượng, đa dạng về chủng loại. Xuất khẩu phát triển nhanh trong thời kì gần đây, tập trung vào xuất khẩu gạo, thủy sản là chính. Nhập khẩu không nhiều, chủ yếu là phân bón và các vật tư nông nghiệp khác. 3.5. Du lịch Trong những năm gần đây, khu vực ĐBSCL trở thành một địa điểm du lịch sinh thái nổi tiếng với hệ thống kênh rạch, nổi tiếng với đời sống sông nước, với những ngôi chùa mang kiến trúc người Khơme, nổi tiếng với nhiều bãi biển đẹp có thể ngắm hoàng hôn,…Lượng khách trong nước và ngoài nước tới vùng ngày càng tăng và kéo theo đó cũng nhiều vấn đề môi trường. Hầu hết những địa điểm du lịch đều bị thay đổi về cảnh quan, sinh thái quanh vùng, chúng được biến đổi phục vụ cho các mục đích như xây dựng đường bê tông quanh khu núi Cấm, núi Sam, núi Đá Dựng hay vùng thạch Động,…và nhiều khu du lịch quanh vùng. Quanh khu du lich còn phát sinh nhiều người dân sinh sống dựa vào việc chủ yếu là cung cấp một số dịch vụ cho khách du lịch như nước uống, đồ ăn, sách báo…điều này làm mất vẻ tôn nghiêm của các khu vực đền chùa, mất vẻ mỹ quan, đồng thời xả nhiều rác thải xung quanh khu du lịch… Điều tệ hại là rác thải tại những khu du lịch này rất nhiều và bị vứt bừa bãi. Phần là do ý thức kém của khách du lịch, phần do quản lý khu du lịch và thu gom chất thải kém .Dẫn tới các khu du lịch trở thành bãi rác khổng lồ gây mùi hôi thối khó chịu. 4. Tiềm năng kinh tế ĐBSCL, một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu ở Đông Nam á và thế giới, là một vùng đất quan trọng, sản xuất lương thực lớn nhất nước, là vùng thuỷ sản và vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn của cả nước. ĐBSCL có bờ biển dài trên 700 km khoảng 360.000 km2 vùng kinh tế đặc quyền, giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. ĐBSCL nằm giữa một khu vực kinh tế năng động và phát triển, liền kề với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam vùng phát triển năng động nhất Việt Nam bên cạnh các nước Đông Nam á (Thái Lan, Singapore, Malaixia, Philippin, Indonesia...) một khu vực kinh tế năng động và phát triển là những thị trường và đối tác đầu tư quan trọng. ĐBSCL nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng, giữa Nam á và Đông á cũng như Châu úc và các quần đảo khác trong Thái Bình Dương. Vị trí này hết sức quan trọng quan trọng cho giao lưu quốc tế. ĐBSCL nằm giáp Campuchia, gần Lào, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ là những vùng có nguồn tài nguyên khoáng sản, rừng phong phú, có nguồn dầu khí, điện lớn. ĐBSCL nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông thuỷ vào bậc nhất so với các vùng ở nước ta. Chương 2: Các điểm khảo sát, học tập I. CỐNG ĐẬP BẢO ĐỊNH - TIỀN GIANG 1. Giới thiệu Vị trí địa lý: rạch Bảo Định thuộc ấp 6, xã Đạo Thạch, Thành phố Mỹ Tho (gần ngã ba Trung Lương). (hình 2.1) Thời gian xây dựng: 27/01/2004 Cấp công trình: cấp IV Hình thức: kiểu cống lộ thiên bằng bêtông cốt thép, đóng mở cửa bằng van tự động 2 chiều Cao trình ngưỡng: - 4.20m Kích thước cửa (n*B*H): 3*10*6.5(m) Chiều rộng thông nước: 30.0m. (hình 2.2) Chiều dài thân cống: 16.0m Cao độ dạ cầu: +3.90m Tiêu năng 2 chiều: Chiều dài bể tiêu năng thượng lưu: 15.0m Chiều dài bể tiêu năng hạ lưu: 21.70m Hố phòng xói thượng lưu có cao độ: -6.0m Hố phòng xói hạ lưu có cao độ: -6.0m Xử lý nền cống bằng cọc bêtông cốt thép 35*35cm Cửa van tự động hình chữ nhật bằng thép không rỉ, cao độ đỉnh cửa: +2.5,0m; H=6.5m Tần suất tiêu: P=10% Tần suất tưới: P=75% Cống tự vận hành theo triều, mực nước triều lên xuống được ghi nhận thường xuyên 2. Nhiệm vụ công trình Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng cả trên lĩnh vực nông nghiệp lẫn giao thông vận tải đối với tỉnh Tiền Giang. Vì tuyến đường tránh quốc lộ 50 qua thành phố Mỹ Tho đã được bộ giao thông vận tải thi công xong, chỉ còn chờ công trình này hoàn thành mới nối liền toàn tuyến để đưa vào sử dụng, góp phần giải quyết tình trạng tắt nghẽn giao thông trong nội ô thành phố Mỹ Tho từ trước đến nay Nhiệm vụ chính của công trình là giải quyết vấn đề xâm nhập mặn vào tháng giêng âm lịch hằng năm, không cho nước mặn xâm nhập vào theo hướng biển Đông. Tiêu chuẩn thoát lũ ứng với lũ năm 1961, triều 1994. Đồng thời giữ ngọt, tạo ra nguồn nước ngọt, tiêu úng, tiêu chua, rửa phèn, cải tạo đất cho 10300 ha đất lúa 3 vụ và vườn cây ăn trái, cấp nước sinh hoạt cho dân. Chuyển nước ngọt từ rạch Bảo Định sang rạch Gò Cát và giải quyết tiêu nước ở nội đồng vào mùa mưa. Đồng thời, kết hợp phát triển giao thông thuỷ, bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. 3. Vấn đề đặt ra Vần đề xây dựng đập ảnh hưởng đến sinh hoạt - sản xuất của cư dân trong vùng, ảnh hưởng đến môi trường, nhất là ảnh hưởng năng suất lúa phía trong vùng đê do pH thay đổi. Khi tạo đập ngăn sông, phần ngọt rất dễ thiếu nước vào mùa khô. Sự thay đổi chế độ nước cũng như các tính chất lý hoá của sông do hoạt động của đập có thể làm thay đổi cơ cấu cây trồng của nhân dân trong vùng. Sự thay đổi từ chế độ nước chảy thành nước đứng làm thay đổi hệ sinh thái trong vùng, tạo điều kiện cho dịch bệnh phát sinh cũng như làm gia tăng lượng bùn lắng. II. TRÀM CHIM – TAM NÔNG 1. Lược sử phát triển của Vườn Quốc gia Tràm Chim Năm 1985, Tràm Chim được Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp thành lập với tên gọi là Công ty Nông Lâm Ngư trường Tràm Chim, với mục đích là trồng tràm và khai thác thủy sản, và vừa giữ lại được một phần hình ảnh của Đồng Tháp Mười xa xưa. Năm 1986, loài sếu đầu đỏ (chim hạc, sếu cổ trụi), được tái phát hiện ở Tràm Chim. Năm 1991, Tràm Chim trở thành Khu Bảo tồn Thiên nhiên Tràm Chim cấp tỉnh, nhằm bảo tồn loài sếu đầu đỏ (Grus antigone sharpii). Năm 1994, nơi đây trở thành Khu Bảo tồn Thiên nhiên Tràm Chim, cấp quốc gia, theo Quyết định số 47/TTg ngày 2 tháng 2 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ kèm theo thông tư số 4991/KGVX, với diện tích 7.500 ha. Vào tháng 9 năm 1998, diện tích của Vườn quốc gia Tràm Chim được điều chỉnh lại là 7.588 ha. Năm 1998, nơi đây trở thành Vườn quốc gia Tràm Chim theo Quyết định số 253/1998/QĐ-TTg, ngày 29 tháng 12 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ. 2. Điều kiện tự nhiên 2.1. Vị trí địa lý Vườn Quốc gia Tràm Chim nằm ở vị trí : 10037’ đến 10046’ độ vĩ Bắc 105028’ đến 105036’ độ kinh Đông Nằm cách sông Mêkông 25km về phía Tây, gần biên giới Campuchia Thuộc địa phận 4 xã : Tân Công Sinh, Phú Thọ, Phú Hiệp và Phú Đức huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp Tổng diện tích tự nhiên là 7.586 ha 2.2. Địa hình Vườn Quốc gia Tràm Chim nằm ở vùng đồng lụt kín Đồng Tháp Mười. Địa hình trũng, khó tiêu nước, cao trung bình từ 1.4m-1.5m, cao nhất là 1.7m, thấp nhất là 1.2m Ở phía Bắc và phía Đông có địa hình cao hơn và là vùng chuyển tiếp giữa bậc thềm phù sa cổ và phù sa hiện đại, địa hình cao nên lớp phủ mỏng, đất đai phần lớn là bậc thềm phù sa cổ, thành phần cơ giới nhẹ hình thành nên các loại đất xám 2.3. Các loại đất chính 2.3.1 Nhóm đất xám trên phù sa cổ Đất xám điển hình trên phù sa cổ tập trung chủ yếu ở phía Bắc của vùng và các khu vực địa hình hơi cao như các giồng Giăng, giồng Phú Đức,giồng Phú Hiệp…hình thành nên các vùng đất xám điển hình có thành phần cơ giới nhẹ, xốp, nghèo dinh dưỡng. Ở các chân giồng với địa hình bằng hơi thấp, đất xám bị ảnh hưởng nhiễm phèn … Đất xám điển hình phù sa cổ là loại đất nghèo dinh dưỡng nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đất xám ở đây ít chua,độ pH từ 4,5 – 5. Hàm lượng hữu cơ thấp từ 0,8 – 2%, trung bình từ 1,5% ở tầng mặt và 0,5% ở các tầng sâu. Đạm tổng số thấp,tầng mặt 0,08% - 0,15%, các tầng dưới 0,08%. Lân tổng số rất nghèo, biến động từ 0,005%-0,02%. Các cation trao đổi thấp, Ca2+ biến động từ 2-5me/100g đất. Thành phần cơ giới có nặng hơn so với đất xám ở vùng Đông Nam Bộ. 2.3.2 Nhóm đất phèn Quá trình hình thành đất phèn: do quá trình trầm tích phù sa, cốt đất ngập mặn phèn tiềm tàng dưới rừng đước, sú, vẹt, rừng già mỗi ngày một cao dần. Ảnh hưởng ngập nước trên mỗi ngày giảm đi. Cuối cùng,đất ngập mặn tiềm tàng cũng dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của triều. Quá trình khử oxi trong đất ngày càng yếu đi, quá trình oxi hóa trong đất ngày càng mạnh và đất ngập mặn tiềm tàng chuyển thành đất phèn hoạt động. Đất phèn hoạt động có phản ứng chua mạnh (pH 3 – 4), độ mạnh của đất thấp 1/100 2.4. Chế độ khí hậu Vườn Quốc gia Tràm Chim nằm trong khu vùng có chế độ nhiệt đới gió mùa với 2 mùa mưa và khô rõ rệt: mùa mưa kéo dài 6 tháng (từ tháng 5 đến tháng 12), các tháng còn lại là mùa khô Nhiệt độ: nhiệt độ ở đây cao quanh năm và tương đối ít biến động,nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 270C.Nhiệt độ cao nhất được ghi nhận là 380C vào khoảng tháng 12 và tháng 1,còn nhiệt độ thấp nhất là khoảng 14 - 150C vào khoảng tháng 4 và tháng 5. Độ ẩm: độ ẩm trung bình hàng năm duy trì trong khoảng 82 – 83%,vào các tháng mùa mưa độ ẩm có thể đạt đến 85%,ngược lại tỏng mùa khô độ ẩm bình quân có thể xuống tới 74% có khi đạt dưới 30% Chế độ gió: Từ tháng 5 đến tháng 11, hướng gió thịnh hành ở vùng này là hướng Tây–Nam, tốc độ gió trung bình là 3 m/s mang theo nhiều hơi nước và gây mưa. Từ tháng 12 đến tháng 4 có gió Đông–Bắc, tốc độ gió trung bình khoảng 2 m/s. Bão hầu như không ảnh hưởng đến Tràm Chim và vì thế, gió với tốc độ lớn trong cơn mưa chưa từng xảy ra. Lượng mưa: Lượng mưa phân bố theo mùa rõ rệt, trung bình khoảng 1.400 mm/năm. Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 12, hơn 85% lượng mưa tập trung vào khoảng thời gian này. Trong khi đó, tháng 1, 2, 3 lại là những tháng khô hạn nhất, thời tiết hầu như không có mưa. Số ngày mưa trung bình đo được tại Vườn quốc gia Tràm Chim khoảng 110-160 ngày/năm. Như vậy: lượng mưa có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và biến đổi của các hệ sinh thái đất ngập nước.Trong mùa mưa,mưa lớn thường kéo dài hàng tuần vào tháng 7 và tháng 8 đã gây nên hiện tượng lam truyền nước chua cho toàn khu vực làm cho các loài sinh vật đặc biệt là các loài phù du động thực vật và cá có thể chết rất nhiều và có thể làm ngừng sự sinh trưởng của các loài thực vật.Mùa mưa thường ngừng đột ngột,nước rút đi nhanh,mặt đất nhanh chóng bị trơ ra nắng,các quá trinh sinh hóa diễn ra nhanh ở trong các tầng đất,đất nứt nẻ và các loại độc tố trong đất theo các mao quản lên tầng trên cũng gây hai cho đời sống của sinh vật ở các vùng này 2.5. Chế độ thủy văn Vườn quốc gia Tràm Chim chịu ảnh hưởng thủy văn của vùng châu thổ sông MeKong, nhận nguồn nước trực tiếp từ sông MeKong thông qua hệ thống kinh thủy lợi như kênh Hồng Ngự–Long An, Đồng Tiến, An Hòa và Phú Hiệp. Vào mùa khô, khi nguồn nước mưa chấm dứt, nước từ sông MeKong lan truyền vào sâu trong đồng rất khó khăn. Nước từ trên biển Đông theo sông MeKong và Vàm Cỏ ngược lên phía Tây ảnh hưởng đến chất lượng nước ở khu vực này. Biên độ dao động của mực nước triều trong các kênh rạch vào khoảng 20 – 30 cm. Mực nước triều có thể đạt đến độ cao tuyệt đối là 50cm, nhưng luôn luôn thấp hơn mặt đất trong đồng. Năng lượng triều và năng lượng chênh lệch mực nước triều ở các vị trí khác nhau rất nhỏ. Lưu lượng dòng chảy ít đạt 10m3/s. Lưu lượng nước triều ở nơi tiếp giáp giữa 2 luồng nước triều là rất nhỏ. Vào mùa lũ (đầu tháng 5 và tháng 6), nước mưa cùng với nước lũ sông MeKong và Campuchia bắt đầu tác động vào khu vực này. Mực nước tăng dần lên vào khoảng tháng 8, nước bắt đầu chảy qua những chỗ đê thấp, chảy vào những vùng đất trống tạo nên thành hồ lớn mênh mông, những dạng cây trên cồn đất cao còn lại như những đảo nhỏ giữa biển khơi rộng lớn. Thời gian và mức độ ngập nước ở đây phụ thuộc vào nước lũ ở sông MeKong Tương ứng với 2 mùa mưa và khô chế độ thủy văn cũng được phân thành 2 màu rõ rệt : Từ tháng 2 đến tháng 5: mực nước bình quân cao nhất trên kênh rạch luôn luôn thấp hơn so với cao trình mặt đất thấp nhất trong đồng Từ tháng 9 đến tháng 12: mực nước thấp nhất hàng tháng trên kênh rạch luôn luôn cao hơn mặt đất nơi cao nhất trong đồng Vườn quốc gia Tràm Chim được chia thành 5 vùng quản lý khác nhau, mỗi khu vực được bao bọc xung quanh bởi hệ thống kênh và đê với tổng chiều dài lên đến 59 km. Mực nước bên trong vườn quốc gia được điều tiết thông qua hệ thống cống và cửa xả nằm ở các bờ bao xung quanh. Ở Tràm Chim, nước phèn chua là yếu tố quan trọng nhất chi phối chất lượng nước ở khu vực này. Vào đầu mùa mưa, nước mang acide từ các khe nứt và các mao quản ở các tầng sinh phèn trong đất chảy ra toàn khu vực. Trong điều kiện địa hình trống, khó thoát nước tạo nên sự tồn đọng nước chua ở các khu vực khác nhau. Nước chua với hàm lượng cation Fe, Al cao gây thiệt hại đối với đời sống sinh vật, làm nghèo môi trường thủy sinh từ tháng 8 trở đi, nước mưa và nước ngọt từ sông MeKong đổ về chảy vào khu vực làm loãng nồng độ acide và đẩy lượng nước chua trong đồng, kênh rạch ra biển, làm cho lượng độc tố trong đất và nước giảm đi. 3. Rừng và hệ thực vật 3.1. Thực vật nổi Gồm 106 loài, trong đó ngành tảo lục Chlorophyta chiếm ưu với 52 loài khác nhau (chiếm 49,05%), tiếp đó là tảo mắt Euglenophyta 21 loài, tảo Silic 20 loài Trong ngành tảo lam có Microcysticeae noginosn là loài có khả năng tiết độc tố gây hại cho các loài cá và một số loài thủy sinh khác 3.2. Thực vật bậc cao Hệ thực vật gồm 130 loài khác nhau, trong đó Tràm (Melaleuca leuxadendron) là loài chiếm ưu thế của vùng đầm lầy ngập nước 3.2.1. Cây tràm Xuất hiện nhiều ở vùng ẩm ướt và có thời tiết nóng ở miền nhiệt đới (cụ thể là Tam Nông – Đồng Tháp). Rừng Tràm mọc thường bị ngập nước với độ pH trên dưới 4 (cụ thể là pH 2 – 3). (hình 2.3) Rừng Tràm ở đây có 2 loại: loại do trồng (chiếm đa số) và loại mọc tự nhiên Cây tràm có nhiều công dụng: Lá tràm có chứa nhiều tinh dầu. Lá có thể pha chè giúp để uống giúp tiêu hóa, chữa cảm cúm, trừ đờm. Nước sắc lá dùng chữa vết thương có mủ,vết loét.Trong tinh dầu có chứa tới 70% là chất Xineol có tính sát trùng mạnh,với mùi thơm dịu, được dùng làm dược liệu, sử dụng trong và ngoài nước Hoa tràm có nhiều mật, mùa hoa lại kéo dài (từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau), rất thuận lợi để phát triển nghề nuôi ong lấy mật. Gỗ tràm cũng có rất nhiều công dụng, đặc biệt khi ngâm trong nước dùng trong xay dựng nhà. Muốn xây dựng các công trình nhà kiên cố ở Nam Bộ người ta cần có gỗ tràm để làm cừ đóng móng. Ngoài ra nó còn làm vật dụng và nông cụ, làm củi, giấy mà chúng ta vẫn thường sử dụng. Vỏ cây tràm mềm, màu xám đỏ, gồm nhiều lớp mỏng, dễ tách ra, mục đích để thoát nước nhanh trong mùa ngập nước; ngoài ra vỏ cây tràm trộn với dầu trong, bột chaoi dùng đèn chai và trét ghe. Nó còn có tác dụng cách nhiệt Chu kỳ ra hoa kết trái của cây tràm phụ thuộc vào thời gian ngập nước Rừng tràm có tác dụng hạn chế quá trình phèn hóa trong đất phèn. Hàng năm, rừng tràm mang trả lại cho đất phèn một khối lượng chất hữu cơ qua cành lá rụng và rễ của cây tràm. Lý do là trong thời gian mùa mưa, chất hữu cơ dưới rừng tràm chuyển sang loại đất than bùn phèn tiềm tàng dưới rừng tràm.Tầng than bùn dưới rừng tràm góp phần hạn chế quá trình phèn hóa mạnh hơn. Tuy nhiên, rừng tràm sinh trưởng trên đất than bùn phèn tiềm tàng lại kém hơn, cây trồng bị rỗng ruột 3.2.2 Cỏ năn Cỏ năn có tên khoa học là Melaluca, sống chủ yếu ở vùng đất phèn ngập nước. Vào mùa nước nổi, các loài thủy sinh thực vật chết đồng loạt, nổi lên thành một lớp dề ngăn ánh sáng chiếu xuống dưới nước. Hiện tượng này làm cho các loài thủy sinh khác không tiếp nhận ánh sáng để quang hợp, từ đó chết đi và làm cho lớp dề ngày càng dâng lên . (hình 2.4) Cỏ năn có 2 loại : cỏ năn ống cao từ 1,5 đến 1,6m; cỏ năn kim là thức ăn cho sếu cổ trụi; ở vùng Tam Nông – Đồng Tháp có riêng một vùng rộng lớn cỏ năn mọc tự nhiên làm thức ăn cho sếu cổ trụi mà người dân vùng này gọi thường gọi là cánh đồng năn Cỏ năn màu xám hoặc đen gần giống củ cỏ gấu thành phần chính là tinh bột, ăn có vị hơi đắng chat. Củ nằm dưới một lớp đất mỏng, khá xốp nên sếu đầu đỏ có thể dùng mỏ để lấy củ dễ dàng 3.2.3 Lúa trời Lúa trời còn gọi là lúa ma, là giống lúa tự mọc vào mùa nước nổi. Nước lên tới đâu, lúa mọc tới đó, sống trồi trên mặt nước. Người dân dùng làm thức ăn cho trâu bò. Hạt lúa có đuôi và vỏ trấu sau khi trổ hoa bắt đầu ngậm sữa trở nên cứng, không thấm nước. Khi lúa chín rụng xuống trôi nổi trên mặt nước nhưng không nảy mầm hay thối rữa. Sau khi nước rút hạt trong tình trạng đợi ngày nảy mầm vào mùa nước nổi năm sau. Lột vỏ trấu, hạt có lớp vỏ màu đỏ nhạt thường thấy lẫn trong gạo ăn hằng ngày. Vườn Quốc gia Tràm Chim có nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ loài lúa này để phục vụ công tác bảo tồn gen và lai tạo giống. 3.2.4 Sen nguyên thủy Sen nguyên thủy ở vùng Đồng Tháp Mười là một loài đặc hữu. Loại sen trồng lấy hạt là giống sen đã bị lai tạo không thuần chủng như sen Đồng Tháp.Việc giữ gìn và bảo vệ giống sen nguyên thủy Đồng Tháp mục đích là để bảo tồn gen của một loài hoa quý hiếm, chỉ có ở Việt Nam 4. Rừng và hệ động vật Hệ thống rễ rừng tràm tự nhiên đã hoàn toàn phù hợp với điều kiện sình lầy đọng nước và mọc thành quần tụ rộng lớn ở Đồng Tháp Mười. Những quần tụ rừng loại này đã tạo nơi ở thích hợp cho rất nhiều loài chim nước và các loại động vật khác như Ardea purpurean, Egretta alba, E.intermedia, E.garzetta… Hệ thống rễ tràm dày đặc là nơi cư ngụ và đẻ trứng của nhiều loài động vật đáy, các loài sò, vọp, cua và nhiều loài động vật khác như rùa, ba ba, ếch nhái. Đây cũng là môi trường thích hợp của các loại tảo. Trên mặt nước, các cành cây là nơi sinh sống của các loài động vật không xương sống như ong, kiến, nhện và các loài côn trùng khác. Củ của một số loài sa thảo mọc trong điều kiện đất ngập, sình lầy cùng với các loài cá nhỏ và côn trùng là thức ăn quan trọng của sếu đầu đỏ. Những loài sa thảo này cũng làm thành lớp thảm thực vật thích hợp cho việc làm tổ của các loài chim khác. Thảm thực vật đã tạo nơi ở cho nhiều loài bò sát như trăn, rắn, rùa, đồi mồi, lươn và cả cá sấu.Vào mùa lũ trên những cây gáo có khi có tới vài chục con rắn sống quấn quyện với nhau. Nhưng ngày nay không còn thấy xuất hiện cá sấu, đồi mồi ở vùng đất này, các loài khác cũng dần dần hiếm thấy Chế độ thủy văn thích hợp với nhiều loài chim nước di cư. Nhiều loài vịt trời như Northern Pintails (Anus acuta), Northern shovellers (Anus clypeata)…kiếm ăn trên thảm thực vật nổi thủy sinh và những động vật đang sống nơi đất sình lầy. Hội đoàn sen sung mọc trên những vùng đầm lầy nơi đây cũng là địa điểm kiếm ăn của nhiều loài chim như: Purple (Swamsphen Porphyrio…) Nước lũ hàng năm đã cung cấp chất khoáng hòa tan và chất mùn lơ lửng làm tăng dinh dưỡng khoáng của môi trường thủy sinh. Các mảnh vụn thực vật không bị cuốn theo dòng nước sẽ lắng đọng lại trên mặt đất, bị phân hủy bởi các loài vi sinh vật và các động vật đáy tạo thức ăn cho nhiều loài sinh vật nước. Trong mùa nước lũ, nhiều loài cá nước ngọt từ sông MeKong đi vào sống ở trong đồng làm tăng năng suất sinh học của các vùng nước này. Những vùng sình lầy đọng nước cũng làm tăng sự sinh sôi nảy nở của các loài động vật không xương sống một cách khủng khiếp đặc biệt là các loài muỗi và đĩa.Sự bùng nổ các loài công trùng đã làm bùng nổ hoạt động của các loài chim sâu bọ. Sự thay đổi yếu tố khí hậu, thông qua lượng mưa đã ảnh hưởng rất lớn đến đặc trưng sinh thái của khu vực. Những năm lượng mưa lớn, kéo dài đã hình thành nên nhiều vũng nước đọng cuối mùa khô. Những vũng nước này giữ nước ngọt cho nhiều loài chim và động vật hoang dại trong mùa khô.Vào những năm lượng mưa và nước lũ thấp làm cho nền đất bị khô dễ dàng, ảnh hưởng xấu đến thành phần và sự sinh trưởng của các loài thân thảo. Điều đó cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của các loài thân gỗ như tràm. Thời gian ngập nước kéo dài, hoặc ngắn đều ảnh hưởng đến chu kỳ ra hoa kết quả của cây và năng suất gỗ của loài tràm 4.1. Động vật đáy Có 21 loài động vật đáy thuộc 5 lớp của 3 ngành. Trong đó ngành Mollusca chiếm ưu thế về thành phần loài gồm lớp Gastropoda 3 loài ( 14,3%), lớp Bivalvia 6 loài ( 28,6%), Annelida 3 loài (14,3%), Insecta 5 loài (23,8%) 4.2. Động vật nổi Gồm 72 loài khác nhau thuộc 5 ngành: - Ngành Protozoa 4 loài 5% - Ngành Nemathelmintes 21 loài 29% - Ngành Annelida 1 loài 1,5% - Ngành Malleusca 1 loài 1,5% - Ngành Arthropoda 45 loài 63% Số lượng động vật nổi thay đổi rất lớn qua các tháng cuối mùa mưa và trong mùa khô 4.3. Cá Có 50 loài cá khác nhau ở Vườn Quốc gia Tràm Chim.Trong đó Họ Cyprinidea chiếm số loài nhiều nhất 14 loài (38,88%) Họ Bagridea chiếm 5 loài ( 13,9%) Các họ Mastacembelidac và Cobitidac mỗi họ có 3 loài chiếm 5,6%. Còn các họ khác mỗi họ chỉ có 1 loài (2,8%) Trong số các loài kể trên, Notopterus là loài có số lượng cá thể nhiều nhất. Có khi đạt đến 98,59% về số lượng và 85% về trọng lượng Trong tổng số các loài được thống kê có 8 loài cá có giá trị thương mại cao 4.4. Động vật hoang dại và chim Hệ động vật không xương sống rất giàu có,các nhóm chính thuộc Arthropoda, Insecta, Coleoptera, Orthoptera, Diptera Hệ sinh thái Vườn Quốc gia Tràm Chim có 6 loài ếch nhái, 13 loài bò sát, 5 loài chuột Trong Vườn Quốc gia Tràm Chim có khoảng 198 loài chim với 16 loài quý hiếm. 4.4.1 Sếu đầu đỏ (sếu cổ trụi) Chim trưởng thành đầu và trên cổ trụi long, trừ một đám màu xám ở má. Ở chim non đầu và cổ có phủ lông nhỏ màu vàng xỉn. Mùa sinh sản của sếu từ tháng 7 đến tháng 10 (mùa mưa). Mỗi năm đẻ một lứa, mỗi lứa 2 trứng và thường chỉ nuôi được 1 con. Tổ làm trên mặt đất bằng xác thực vật thủy sinh. Nơi sống và sinh thái trong các vùng đất ngập nước chua phèn có nhiều cỏ năn,chúng ăn cỏ năn kim và cỏ năn ống. Đào củ bằng mỏ. Nơi làm tổ thường có xen những cây thân gỗ như tràm hoặc cây thân gỗ ngập nước khác để có bóng mát cho trứng trong thời gian ấp (hình 2.5) Phân bố : Trên thế giới : Mianma, Nam Trung Quốc, Đông Dương, Philippin, Úc Việt Nam : ở ĐBSCL (Đồng Tháp, An Giang,Kiên Giang) (sếu đầu đỏ) Sếu đầu đỏ là loài quí hiếm, có giá trị khoa học, thẩm mỹ và bảo tồn thực phẩm. Do mất sinh cảnh thiên nhiên, bị săn bắn quá mức và ô nhiễm nguồn nước ở những nơi sinh sống nên đàn sếu đã bỏ đi.Ở Việt Nam chỉ mới gặp trở lại vào khoảng năm 1980 sau khi nhân dân đại phương ở vùng ĐBSCL đã khôi phục lại vùng đất ngập nước bị tàn phá trong 2 cuộc kháng chiến chống Phap – Mỹ. Từ khi khôi phục hệ sinh thái Tràm Chim đến năm 1995 có 300 con sếu đầu đỏ bay về. Năm 1996 số lượng sếu đầu đỏ tăng gấp đôi là 600 con. Mùa khô năm 1997 có 850 con trong đó có rất nhiều con theo bố mẹ bay về Tràm Chim. Hiện nay chúng chưa sinh sản ở nước ta mà chỉ về đây vào về đây vào màu khô với số lượng khoảng 1000 con. 4.4.2 Gà đẫy Gà đẫy sống ở vùng đất ngập nước.Sinh sản từ tháng 11 đến tháng 4.Đẻ 2 lứa, số lượng trứng là 4. Thức ăn chính là cá đôi khi cả rắn.Trong mùa sinh sản chúng kiếm ăn và làm tổ ở rừng tràm,sau đó di chuyển đến các vùng đất ngập nước khác như Tam Nông – Đồng Tháp. Làm tổ trên cây tràm lớn hoặc cây móp.Tổ rất to và thường ở cách mặt đất khoảng 8 đến 10m Phân bố: Trên thế giới: Ấn Độ, Xrilanca, Mianma, Đông Nam Trung Quốc, Đông Dương, Malaysia, Giava… Ở Việt Nam: Trung bộ và Nam bộ.Hiện nay chỉ tập trung ở vùng Đồng Nai (vùng đất ngập nước), các vùng ngập nước ở Đồng Tháp Muời, ven biển ĐBSCL và U Minh. Gà đẫy có nguồn gen quý hiếm, có giá trị khoa học và thẩm mỹ. Hiện nay có khoảng 100 đôi sinh sản trong rừng U Minh và gần đây đã gặp ở rừng Nam Cát Tiên với số lượng không nhiều. Nguyên nhân chính là do rừng tràm bị cháy lien tục, bị hủy hoại do nhiều nguyên nhân và điều kiện kinh tế xã hội của địa phương. Ngoài ra còn bị săn bắt quá mức ở nhiều nơi. 5. Thực trạng hiện nay Vườn Quốc gia Tràm Chim nằm gọn trong vùng lãnh thổ huyện Tam Nông ngay và ngay sát trung tâm huyện. Nó được bao bọc bởi 1 vùng đệm rộng lớn đông dân cư (khoảng 40000 người), do vậy môi trường tự nhiên cũng như đời sống sinh vật ở đây cũng chịu không ít tác động Những nguy cơ đe dọa Vườn Quốc gia Tràm Chim Nông dân sử dụng thuốc trừ sâu gây ô nhiễm cho khu vực sinh sống của sếu. Nạn săn bắt chim thú, đánh bắt cá, trộm cây, phá rừng của một bộ phận người dân Cây Mai dương cũng là hiểm họa hung hãn, ác liệt nhất của tự nhiên. Khi một cây Mai dương vươn lên thì cả một thảm thực vật bị nó che phủ.Hiện nay độ che phủ của nó đã làm hư hại thảm thực vật đồng thời hủy diệt cỏ năn III. MIẾU BÀ – NÚI SAM – CHÂU ĐỐC – AN GIANG 1. MIẾU BÀ 1.1. Giới thiệu chung Miếu bà Chúa Xứ thuộc ấp Vĩnh Tế 1, thị xã Châu Đốc tỉnh An Giang. Miếu bà Chúa Xứ núi Sam được xây dựng theo lối kiến trúc hoành tráng, bề thế. Bên trong thờ tượng bà Chúa Xứ ngồi uy nghi giữa gian chánh điện. Pho tượng nữ thần tuyệt đẹp được tạc bằng đá son, có từ thế kỷ thứ VI. Đôi mắt tròn tuyệt sáng. Chiếc áo và mão bà được kết bằng nhiều loại kim tuyến quý giá. 1.2. Nguồn gốc tượng bà Nguồn gốc tượng bà Chúa Xứ đến nay vẫn còn là điều bí ẩn. Theo diễn giải của các vị bô lão, tượng Bà ngày xưa ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài. Chứng minh cho điều này là bệ đá bà ngồi vẫn còn tồn tại và ngày nay được bảo vệ như một chứng tích. Bệ đá có chiều ngang 1,60m; dài 0,3m, chính giữa có lỗ vuông cạnh 3,4 tấc, loại trầm tích thạch màu xanh đen, hạt nhuyễn. Tương truyền rằng trước khi Thoại Ngọc Hầu đến trấn nhậm vùng này, quân Xiêm đã sang quậy phá ở vùng núi Sam, chúng phát hiện ra pho tượng cổ. Vì long tham chúng đã nạy pho tượng ra khỏi bệ đá và khiêng đi. Do tượng quá nặng nên khi đi đến triền núi làm rớt nên tượng bị gãy tay.Chúng tiếp tục khiêng đi nhưng không thể nhấc nổi. Thời gian sau bà đạp đồng về kêu dân làng đem xuống núi thờ phụng. Sẵn có lòng tín ngưỡng, hàng trăm người dân đã cố gắng khiêng tượng Bà nhưng không lay chuyển được. Trong lúc bối rối bà lại đạp đổng phải có 9 cô gái đồng trinh lên khiêng bà mới chịu đi. Quả thật 9 cô gái khiêng được bà dễ dàng nhưng khiêng gần đến chân núi thì tượng tự nhiên nặng trịch không sao nhấc nổi. Dân làng nghĩ Bà muốn ở đây nên lập miếu thờ, khi ấy nhằm ngày 25 tháng 4 âm lịch nên hằng năm dân làng lấy ngày đó làm lể viếng Bà. 1.3. Kiến trúc của Miếu Miếu Bà được thành lập khỏang năm 1825. Lúc đầu Miếu được làm bằng tre, lá, sau đó dần dần được trùng tu. Khỏang năm 1870, Miếu được xây bằng đá miểng, lợp ngói. Ngôi Miếu hiện nay được xây dựng mới năm 1972, do kiến trúc sư Hùynh Văn Mãng thiết kế. Quy hoạch của khu này khá đẹp nhưng xây dựng chưa hoàn thành như bảng vẽ. Đến năm 1995 Ban quản trị mới tiến hành tu sửa nhà trưng bày với mái cong lợp ngói xanh, trông hài hòa cân đối. Với lối kiến trúc cổ kính đông phương, miếu Bà nằm trên vùng đất trũng, quay lưng lên đường. Miếu Bà Chúa Xứ kiến trúc dạng chữ quốc, hình khối tháp, kiểu hoa sen nở, nền lát gạch bong, tửng cẩn đá ốp lát, cột bêtông cốt thép. Song song với kiến trúc bêtông ấy là nghệ thuật chạm khắc ở miếu Bà cũng tinh vi, sắc sảo. Miếu Bà là một kiến trúc nghệ thuật kết hợp truyền thống dân tộc và hiện đại.Toàn khu di tích là tổng thể hài hòa, cân đối và đồ sộ, uy nghiêm, hùng tráng. 1.4. Các ngày lễ lớn  Lễ hội chùa Bà Chúa Xứ là lễ hội dân gian lớn nhất ở Nam Bộ, được tổ chức hằng năm bắt đầu từ đêm 20 đến 27 tháng tư âm lịch. Từ đêm 23, mọi người đã tập trungvề chùa để xem lễ tắm Bà. Tượng Bà được đưa xuống, cởi áo ra, lấy nước mưa pha với nước thơm để tắm, ngày 25 còn có lễ xây chầu, hát bội. Phong tục này đã tồn tại hàng trăm năm năm nay.  Mặc dù đến cuối tháng 4 âm lịch, mới vào chính hội, nhưng từ sau Tết người dân đã bắt đầu về Núi Sam vía Bà...  Lễ hội Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam đang ngày càng chứng tỏ là một lễ hội văn hóa dân gian lớn ở Nam bộ. Mỗi năm thu hút hàng chục vạn khách thập phương về hành lễ. Họ đến đây mang theo những ý nguyện, mong cầu Bà Chúa ban phước lộc hoặc gỡ rối nạn kiếp, tai ương... tạo nên một mùa lễ hội sôi nổi, đông đảo ở núi Sam suốt nhiều tháng. Khách về đây không những chỉ xin lộc của Bà mà còn muốn tận mắt được chứng kiến những chứng tích lịch sử dân tộc khác nữa mà cha ông ta đã dày công vun dựng trên vùng đất An Giang hùng vĩ. Các lễ cúng ở miếu Bà vẫn được duy trì. Lễ đầu tiên là “Lễ Tắm Bà” được cử hành vào lúc 0 giờ ngày 24/3 âm lịch. Mở đầu là 2 ngọn nến to được đốt sáng lên trong chánh điện. Ông lễ chánh bái nghi cùng với 2 vị bô lão, ban quản tự chùa niệm hương, dâng rượu và trà. Bức màn vải có viền ren lộng lẫy kéo ngang bệ thờ, che khuất khu vực đặt tượng, 9 cô gái trẻ bắt đầu vén màn tắm cho tượng Bà. Đầu tiên là cởi mũ, áo, khăn đai từ lớp ngoài vào trong để lộ toàn thân pho tượng tạc ở tư thế ngồi bằng đá xanh, đường nét tạc tinh tế, sắc sảo. Bà được tắm bằng một loại nước thơm ướp từ nhiều loại hoa. Sau đó bộ đồ đẹp nhất của khách đến cúng viếng được khoác lên bức tượng cùng với áo mũ, cân đai. Chiếc màn vải kéo qua, khách hành hương đến thắp hương, dâng lễ xin lộc. Phần Lễ tắm Bà kết thúc… Tiếp theo là “Lễ Cúng Túc Yết”, được tổ chức lúc 0 giờ đêm 25 rạng 26/4 âm lịch. Đây là lễ cúng chánh thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu, nhị vị phu nhân và các tướng lĩnh của ông về miếu Bà. Đoàn thỉnh sắc có đội lân đi trước, tiếp theo là chiếc kiệu sơn son thiếp vàng do 4 người khiêng. Hai hàng học trò đứng lễ tay cầm cờ phướn suốt đoạn đường lên lăng Thoại Ngọc Hầu. Lễ vật dâng cúng gồm một con heo trắng làm sẵn (chưa nấu chín), một đĩa đựng huyết, một ít lông heo gọi là “mao huyết”, một mâm xôi, một mâm trái cây – trầu cau và một đĩa gạo – muối. Đúng giờ hành lễ, ban quản trị đốt hưong đèn nghi ngút, dâng tuần trà rượu và đọc văn tế, sau đó đốt đi cùng với một ít vàng mã, con heo cũng được lật trở lại. Các ngày lễ tiếp theo gồm có: Xây chầu, Lễ Cúng Chánh Tế, Lễ Hồi Sắc… sẽ nối tiếp diễn ra nhằm nhớ ơn các bậc tiền nhân có công trong những buổi đầu mở đất - cầu mong cho mưa thuận gió hòa, nhân dân khỏe mạnh, trường thọ… Cuối dịp lễ sẽ là Lễ Thỉnh Sắc Thần (tức Lễ Rước sắc Thoại Ngọc Hầu cùng chư vị về lại lăng) - kết thúc nghi lễ dịp lễ hội vía Bà.   1.5. Giá trị du lịch của Miếu Bà Năm 2001, Bộ Văn hóa thông tin và tổng cục du lịch đã chính thức công nhận lễ vía bà Chúa Xứ Núi Sam là lễ hội cấp quốc gia, trở thành một trong 15 lễ hội tiêu biểu cùa cả nước. 2. NÚI SAM 2.1. Vị trí núi Sam Tức Vĩnh Tế Sơn cao 284m, dài 2km nằm trên đồng bằng hữu ngạn sông Hậu. Phía bắc cách ranh giới Campuchia 3km, Tây tiếp giáp với cánh đồng Thới Sơn, Nhơn Hưng là hai xã anh hùng trong thời chống Pháp và Mỹ, phái đông giáp cánh đồng bạt ngànChâu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn. Núi Sam nằm trong vùng địa hình đồi núi sót. Đứng từ trên đỉnh núi có thể quan sát rõ cảnh quan của vùng: khỏang 70-80% địa hình ở quanh đó là đồng bằng trồng lúa nước. Các con kênh, đường giao thông chia cùng thành cát tuyến, thỉnh thỏang xuất hiện các đốm, vệt (ao, hồ, khu đô thị, …). Núi Sam có một vị trí chiến quân sự, là pháo đài bảo vệ thị xã Châu Đốc, là một con đê thiên nhiên ngăn mùa nước lũ. 2.2. Chân dung núi Sam Cách trung tâm tỉnh lỵ An Giang "thành phố Long Xuyên" khoảng 60km đi về hướng tây theo Quốc lộ 91 là đến thị xã Châu Đốc, nơi có ngọn núi mà nhiều người biết và muốn đến đó là Núi Sam. Núi có tên Núi Sam vì từ xa ta thấy núi có dáng dấp như một con Sam đen bám trên cánh đồng xanh mênh mông. Ngoài ra còn có truyền thuyết cho rằng nơi đây xưa kia từng là hòn đảo nhô lên trên biển (lúc biển còn bao phủ toàn vùng), là nơi có nhiều con Sam sinh sống nên được gọi là "Học Lãnh Sơn" nghĩa là núi con Sam. Núi có diện tích khoảng 280 ha, với độ cao vừa phải (241m), đây là loại núi trẻ, có cây xanh bóng mát, mỗi mùa hè đến trên sườn Núi Sam lại được tô điểm rực rỡ một màu đỏ của phượng vĩ, làm Núi Sam càng tươi mát hơn cùng với những hang động kỳ thú. Bên cạnh đó còn có cả một hệ thống kênh rạch bao quanh, cùng với hệ thống đền, chùa cổ kính trên sườn núi tạo nên một phong cảnh đẹp, hữu tình giữa vùng đồng bằng trù phú. Vào thời nhà Nguyễn, Núi Sam thuộc thôn Vĩnh Tế, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang, ngày nay là xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Với phong cảnh ấy, nên từ hai thế kỷ trước qua ngòi bút của Thoại Ngọc Hầu (trong bia "Vĩnh Tế Sơn") thì Núi Sam đẹp như một bức tranh phong thủy. Di tích lịch sử và danh thắng Núi Sam đã in dấu trên sách sử từ đó. Từ lâu hình ảnh Núi Sam đã thấm đậm trong tâm hồn người dân An Giang nói riêng và niềm Nam nói chung. Bởi vì nơi đây tập trung nhiều công trình kiến trúc, di tích lịch sử văn hoá như: Chùa Tây An, Miếu Bà Chúa Xứ, Lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Hang.. và nhiều thắng cảnh đẹp như đồi Bạch Vân, vườn Tao Ngộ...       IV. NHÀ MÁY XI MĂNG HOLCIM 1. Giới thiệu nhà máy Công ty Holcim Việt Nam trước đây là Ximăng Sao Mai – một liên doanh giữa tập đòan Holcim của Thụy Sỹ, tập đòan ximăng hàng đầu thế giới và công ty ximăng Hà Tiên 1, thuộc tổng công ty ximăng Việt Nam, được cấp giấy phép vào tháng 2 năm 1994.Vốn đầu tư của công ty lên đến 441 triệu USD với thời gian họat động là 50 năm. Nhà máy chính của công ty được xây dựng tại Hòn Chông thuộc huyện Kiên Lương tỉnh Kiên Giang. Những tấn ximăng đầu tiên được sản xuất tại Hòn Chông vào năm 1997. Ximăng sau khi đuợc sản xuất tại Hòn Chông sẽ được bơm xuống tàu và chở về 2 trạm Cát Lái và Thị Vải để phân phối thị trường. 2. Quá trình khai thác và sản xuất Quá trình khai thác: Đất sét được khai thác lộ thiên bằng máy xúc với công suất 200 tấn/giờ. Đá vôi đươc khai thác và vận chuyển đến trạm đập bằng xe tải 40 tấn. Sau đó được đưa vào máy đập sơ bộ để chuyển thành những hạt có kích thước bé hơn 80 mm. Nguyên liệu thô và than đá được chất đống trong hai kho dự trữ. Quá trình sản xuất: Đá vôi và đất sét đươc máy rút liệu chất lên băng tải chuyển vào máy nghiền, thành phần các nguyên tố Fe, Si, Ca được gia nhiệt bằng laterite, cát đá vôi nguyên chất phù hợp với thành phần vật liệu đã định trước. Hỗn hợp này được nghiền mịn trong máy nghiền đứng 330 tấn/giờ. Khí nóng từ lò nungcũng được sử dụng để làm khô nguyên liệu trong khi nghiền. Sau khi nghiền, bột liệu đươc chuyển đến tháp đồng nhất có dung tích 8000 tấn. Tại đây bột liệu được trộn nhiều lần làm cho thành phần bột liệu trở nên đồng nhất đảm bảo cho việc cho ra clinker chất lượng cao. (hình 2.6 - dụng cụ lấy đất sét tại Holcim) Tiếp đó bột liệu được di chuyển lên đỉnh tháp nung và rơi trở xuống. Trong quá trình rơi, bột liệu gặp dòng khí nóng đi ngược chiều và được gia nhiệt. Tại đây, CaCO3 chuyển thành CaO. Khi đến đầu lò quay, nhiệt độ của bột liệu đã đạt đến 1000oC. Bột liệu đi vào lò quay với công suất 4500 tấn/ngày. Tại đây bột liệu đựơc gia nhiệt tiếp tục đến 1450oC, ở nhiệt độ này, các khoáng nóng chảy và tạo thành clinker. Clinker ra khỏi lò quay và đươc làm nguội đến nhiệt độ thường. Clinker sau khi nguội được trữ trong 2cyclo có tổng công suất là 60.000 tấn. Trước khi đươc đưa vào hai máy nghiền đứng công suất 130 tấn/giờ mỗi ngày. Thạch cao được thêm vào trong quá trình này để sản xuất ra măng. Ximăng đươc đóng gói và ra thị trường. 3. Đánh giá tác động hoạt động của nhà máy lên môi trường trong quá trình khảo sát Khi tiến hành khảo sát khu vực nhà máy thì thấy cảnh quan nơi đây hoang tàn, xơ xát. Hàng cây bên đường gần nhà máy phủ đầy một màu trắng, không khí đầy bụi bặm. Tại khu vực núi đá vôi – nơi nhà máy khai thác thì thấy núi đã được khai thác gần hết V. LĂNG MẠC CỬU 1. Lịch sử dòng họ Mạc Mạc Cửu người Quảng Đông (Trung Quốc), vì bất phục tòng nhà Thanh nên cùng đoàn tùy tùng xuống thuyền vượt biển vào Nam, ghé qua nhiều nơi, sau cùng lui về vùng đất Hà Tiên chiêu tập lưu dân khai thác nông nghiệp và đón khách thương hồ. Khi Chúa Nguyễn ở Đàng Trong mở rộng thế lực đến các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Mạc Cửu liền dâng biểu xưng thần và được Chúa Nguyễn Phúc Chu chấp thuận, phong cho chức “Tổng binh trấn Hà Tiên”. Sau khi qua đời, Mạc Cửu được nhà Nguyễn truy tặng: “Khai trấn thương trụ quốc Đại tướng quân Vũ nghi công” Sự nghiệp của Mạc Cửu còn nối tiếp đến đời con ông là Mạc Thiên Tích, người đã thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các nổi tiếng với “Hà Tiên thập vịnh”. Đáng tiếc là hầu hết những danh thắng được tao đàn xưng tụng đều đã đổi thay, duy chỉ có “Bình San diệp thúy”, nơi an nghỉ của dòng họ Mạc là còn giữ được cái hồn của “Hà Tiên thập vịnh” 2. Giới thiệu chung về Lăng Mạc Cửu Khu di tích núi Bình San rộng gần 3 ha, gồm 4 khu trong đó khu 1(nơi đoàn tiến hành khảo sát) gồm 3 địa điểm: đền thờ dòng họ Mạc, lăng tẩm họ Mạc và chùa Phù Dung. Cả lăng và đền thờ Mạc Cửu đều do Mạc Thiên Tích thiết kế, xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Lăng Mạc Cửu được bố trí theo luật phong thuỷ: mặt tiền quay về hướng đông, nơi có núi Tô Châu với dòng lưu thuỷ Đông Hồ, lưng tựa vào vách núi hình vòng cung vững chãi, bên trái là núi Bát Giác, bên phải là Đại Kim Dự. 2.1. Đền thờ dòng họ Mạc Do Mạc Công Du lập từ thời vua Gia Long năm 1818. Lúc mới đầu xây dựng chỉ bằng cây ván và lợp lá. Đến năm Thiệu Trị thứ 6, 1846, mới lợp ngói. Từ đó tới nay đã tu bổ và tái thiết nhiều lần. Di tích hiện tồn tại là kiến trúc có giá trị nghệ thuật, được trạm trổ tinh vi sắc sảo. Trước sân có ao sen “bảo nguyệt liên trì” mùa hạ hoa nở hương thơm ngát. Đền thờ dòng họ Mạc – Trung Nghĩa Từ được xây dựng theo mô típ kiến trúc của cung đình Huế, bên trong gồm 3 bàn thờ: bàn thờ giữa chánh điện thờ ngài Mạc Cửu (người có công khai phá ra vùng đất này), con trai ông Mạc Thiên Tích (người có công trạng sáng chói nhất trong dòng họ Mạc) và các cháu nội của ngài là Mạc Tử Hoàng, Mạc Công Du; bên tay trái là thờ các bà trong đó có mẹ ngài Mạc Cửu – thái thái bà bà, người trung hoa, bà Nguyễn Lý Đức-người vợ chính thức của ngài và bà My Cô-người con gái thứ 5 của Mạc Cửu. 2.2. Lăng tẩm họ Mạc Lăng tẩm dòng họ Mạc được xây dựng theo kiến trúc kết hợp giữa dịch lý và thuật phong thủy của người Trung Hoa. Kiến trúc về phòng thủ của người phương Tây và kiến trúc cổ truyền của người Việt Nam. Xung quanh lăng tẩm và ở núi Bình Sam có nhiều cây bụi thấp: Mai mù u,thốt nốt-đăc trưng của vùng đất gần biên giới. Phần lăng mộ Mạc Cửu nằm giữa những bức tường kiên cố, các bậc thềm đều cẩn đá xanh, có tảng dài đến 3m, do các nhà buôn Trung Hoa thời bấy giờ chở từ Quảng Tây sang. Mộ Mạc Cửu là ngôi mộ lớn nhất, có hình bán nguyệt khoét sâu vào núi, núm mộ có hình dáng như con trâu nằm (còn được gọi là thế toạ ngưu). Hai bên mộ trước kia có hai tướng sĩ oai phong cầm gươm đứng hầu, chạm trổ tinh vi. Dù đã trải qua ba thế kỷ nhưng khu mộ rất kiên cố và vẫn giữ được nét kiến trúc ban đầu, chỉ đáng tiếc hai bức tượng bằng đá xanh đã bị trộm và hiện nay được thay thế bằng hai bức tượng bằng ximăng. Lần theo lối mòn là đến mộ phần của gia đình và tướng tá dòng họ Mạc. Phía dưới lăng Mạc Cửu là mộ bà Nguyễn Thị Hiếu Túc, vợ Mạc Thiên Tích ở bên trái, mộ Mạc Tử Hoàng ở phía phải rồi đến mộ Mạc Thiên Tích – cũng giống như mộ cha nhưng bày trí khiêm nhường hơn. 2.3. Chùa Phù Dung Là ngôi chùa do Mạc Thiên Tích xây dựng cho nàng thứ thiếp là Phù Cừ tu hành. Đi vòng theo chân núi chừng 3 cây số sẽ gặp được ngôi chùa này. VI. KHU DU LỊCH NÚI ĐÁ DỰNG Núi Đá Dựng còn có tên là Châu Nham (tên cổ là Bạch Thấp) thuộc hệ thống núi đá vôi vùng Hà Tiên, nằm trong địa phận xã Mỹ Đức cách trung tâm thị xã Hà Tiên 4 km. Nhìn từ hướng quốc lộ 80, núi có hình thang mà mặt tây bắc chỉ cách biên giới Việt Nam - Campuchia vài chục mét. Châu Nham Sơn thật ra là tên cổ của núi Đá Dựng. Cái tên Đá Dựng là cách gọi địa danh thông qua đặc điểm của nơi đó ở vùng đất Nam Bộ. Đây là ngọn núi đá vôi hình thang cân (đỉnh núi bằng song song với chân núi), có dốc đá dựng đứng. Vì vậy gọi là Đá dựng để phân biệt với những ngọn núi xung quanh. Gọi dần thành quen và trở thành tên chính thức sau này. (hình 2.7) Châu Nham có nghĩa là “Núi Ngọc”. Sở dĩ Đá dựng có tên như vậy là vì đây là nơi lánh nạn của người trấn Hà Tiên xưa khi có biến. Thuở xưa, Chân Lạp và Xiêm La là hai nước thường cho quân sang đánh phá, cướp bóc, nhiều người đem ngọc ngà, châu báu vào chôn giấu trong các hang động rồi bị thất lạc dần theo thời gian. Cuối thế kỷ XVII, khi Mạc Cửu đến khai mở trấn Hà Tiên thì thỉnh thoảng thấy có nông dân nhặt được ngọc quí tại Đá Dựng nên ông gọi là núi Châu Nham. Sau này, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Mỹ và chiến tranh biên giới chống lại bọn diệt chủng Pôn-Pốt, Đá Dựng luôn là một trong những căn cứ địa, một chỗ dực vững chắc cho quân, dân Hà Tiên. Núi Đá Dựng có đến 11 hang động. Chuyện dân gian xưa kể rằng khi chân núi còn tiếp giáp với biển cạn, chen chúc bao quanh những hang động hình thành từ chân sóng là những cánh rừng tràm, lau sậy rậm rạp đã trở thành sân chim cho các loài chim phương nam tìm về làm tổ, sinh sôi. Đô đốc Hà Tiên Mạc Thiên Tích và các thi nhân tao đàn Chiêu Anh Các từng ví khung cảnh đàn cò trắng lao xao bay về đậu trên núi là một trong mười cảnh đẹp xứ Hà Tiên (Hà Tiên thập cảnh). Do địa thế hiểm trở nên chim, cò về sống tại Đá Dựng rất đông vì không bị ai quấy phá. Chính vì vậy mà thời Mạc Thiên Tích mới có bài vịnh “Châu Nham Lạc Lộ”. Đá Dựng có chiều cao 83m. Do bị tác động của thiên nhiên, nhất là bị xâm thực nên trong lòng núi có vô số hang động. Có hang sâu, hang cạn, hang rộng, hang hẹp. Cũng có hang ở dưới chân núi và hang ở lưng chừng núi. Nhưng hầu như hang nào cũng đẹp, một nét đẹp đặc trưng chỉ có ở núi đá vôi với rất nhiều thạch nhũ thiên hình, vạn trạng. Có người ví “Đá Dựng như một toà lâu đài với lối kiến trúc có hàng trăm vọng gác đài, hàng ngàn gác chuông”. Nổi tiếng nhất ở đây là các hang Bà Chuá Xứ với tập hợp nhiều hang thông thương với nhau, hang Trống (hay Trống Ngực) với nét đặc biệt là khi bạn vỗ nhẹ tay vào ngực mình thì vách hang sẽ cộng hưởng và dội lại với âm thanh giống như tiếng trống. Còn hang Lầu Chuông thì có nhiều thạch nhũ mà khi gõ nhẹ vào sẽ tạo nên tiếng ngân trong như tiếng chuông. Ở hang khác thì có thứ thạch nhũ gõ vào lại nghe như tiếng đàn đá trầm bổng vọng về từ ngàn xưa,… Cùng với thiên nhiên hùng vĩ, Châu Nham Sơn – Đá Dựng còn mang trong lòng nó một pho truyền thuyết ly kỳ về câu chuyện Thạch Sanh – Lý Thông và những trang sử hào hùng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của con người Hà Tiên. Tương truyền rằng ngày xưa, Thạch Sanh bị mắc mưu Lý Thông nên bị nhất vào hang sâu ở đây. Chàng lấy thạch nhũ làm đàn để tiêu sầu. Tiếng đàn ấy vang đến tận cung điện nhà vua với lời than thở thống thiết, ai oán: “Đàn kêu tích tịch tình tang, ai đem công chúa lên thang mà về. Đàn kêu anh hởi Lý Thông, anh ở hai lòng trời đất chứng cho”. Tiếng đàn khiến cho công chuá Huỳnh Nga nghe được mới xin vua cha mang quân đến giải nguy cho chàng Thạch Sanh. Đá Dựng có một hang động tên là “Cội Hàng Gia”. Trước cửa động có nhiều mảng đá ghép lại với nhau tạo thành một mái che tự nhiên. Người đời bảo nhau rằng, đây chính là nơi sinh sống thuở thiếu thời của Thạch Sanh và cũng là nơi chàng ngồi suy ngẫm sự đời về sau. Chính từ đây, chàng phát hiện ra chim đại bàng cắp nàng công chúa bay ngang rồi đem lòng nghĩa hiệp giương cung bắn đại bàng và lần theo vết máu đến núi Thạch Động cứu nàng công chúa. VII. BÃI BIỂN MŨI NAI 1. Giới thiệu chung Mũi Nai, cách thị xã Hà Tiên 4km về phía Đông, ở độ cao 100m nhô ra biển, Mũi Nai hình dạng giống đầu một con nai đang nghếch mõm ra biển. Trên đỉnh là ngọn hải đăng xây từ cuối thế kỷ XIX. Bờ biển bán đảo Mũi Nai có 2 bãi cát đẹp là bãi Nô và bãi Bằng. Bãi Nô nằm cạnh xóm chài, nhà cửa đông vui. Còn bãi Bằng cát phẳng phù hợp nhu cầu tắm biển. Từ đây có thể nhìn thấy đảo Phú Quốc, đảo Hải Tặc trong những ngày trời quang. (hình 2.8) 2. Tên gọi Từ thuở hồng hoang, vùng đất này là mênh mông nước và mênh mông trời. Có một chú nai con thuộc dòng dõi nai thần hay ra uống nước. Rồi một ngày, mải say cảnh đẹp của biển trời Hà Tiên, chú không về kịp giờ đóng cửa rừng. Buồn bã, chú nai quay lại bờ biển, thơ thẩn đi dạo. Nhưng biển đêm không hề thơ mộng êm ả vào mùa gió chướng. Gió nổi, sóng xô ầm ầm. Chú nai con gục ngã giữa biển. Ngày nay, khi tản bộ lên đỉnh cao của phía đối diện, bạn sẽ được nhìn ngắm toàn cảnh bãi biển. Ngọn núi phía xa xa vẫn mang hình chú nai con đang uống nước. 3. Đặc điểm Cát biển Mũi Nai màu nâu sậm, khi những làn sóng chồm lên, quyện vào cát, một màu đen nhánh hiện lên thật lạ lùng. Theo người dân địa phương, màu đen này là do cát biển nơi đây chứa rất nhiều bùn. Biển nơi đây thoai thoải và khá nông, rất an toàn để tắm Bãi tắm này không sâu, với cát mịn, nâu, nước biển trong xanh, rất sạch và sóng êm, có hàng cây bàng cổ thụ dọc theo bờ biển rợp bóng mát. Từ Mũi Nai ra xa bờ chừng vài trăm mét có rất nhiều đảo nhỏ, đảo lớn của quần đảo Bình Trị và Hải Tặc. Hai quần đảo này cũng là nơi du lịch rất lý tưởng trong tuyến du lịch biển - đảo. Dải đất này được sự ưu đãi đặc biệt của thiên nhiên theo một cách nào đó, nên có những dòng hải sản di cư đi ngang qua. Nơi đây có hệ sinh thái vùng ven biển và biển rất phong phú đa dạng Những người đến Hà Tiên thường không phải để tắm biển, chính vì thế biển Mũi Nai rất hoang sơ, bàn tay con người cải tạo dường như không lưu lại nhiều dấu vết. 4. Tác động đến môi trường Người dân xung quanh sống bằng nghề dịch vụ du lịch là chính nên tác nhân gây ô nhiễm môi trường biển ở đây chủ yếu là nước thải từ hoạt động sinh hoạt của dân cư trong vùng,của khu du lịch và rác thải của du khách khi đến đây vui chơi. Tuy nhiên, do mục tiêu phát triển du lịch mà bãi biển Mũi Nai được đầu tư thành khu du lịch an toàn và sạch đẹp. Đội ngũ bảo vệ không cho phép những người nồng nặc mùi men rượu xuống tắm Khu du lịch Mũi Nai đã xây dựng một công viên nước mini ngay sát biển dành cho trẻ em để các bé có thể nghịch sóng, chơi cát, trượt nước mà phụ huynh chẳng phải lo ngại gì cả. Các gánh hàng rong, vé số hay những người ăn mày không được phép xuất hiện trong khuôn viên bãi tắm. Trong khuôn viên khu du lịch có nhiều thùng chứa rác đặt ở những vị trí cho du khách dễ nhìn thấy. VIII. HỆ SINH THÁI NÚI ĐÁ VÔI KIÊN LƯƠNG 1. Giới thiệu chung Khu hệ núi đá vôi Kiên Lương - Hà Tiên (Kiên Giang) nằm trong quần thể núi đá vôi kéo dài từ Kiên Giang- Việt Nam sang Kampot - Campuchia. Chúng phân bổ riêng lẻ dọc biển và đồng bằng, cách xa các khu hệ núi đá vôi khác từ 300 đến 1.000 km. Tuy vậy, núi đá vôi Kiên Giang lại mang đặc tính sinh học hấp dẫn các nhà nghiên cứu. Trên thế giới, núi đá vôi chiếm khoảng 10% tổng diện tích đất liền. 1/4 dân số thế giới sống phụ thuộc vào nguồn nước ngầm ngọt có nguồn gốc đá vôi. Một thay đổi dù rất nhỏ sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nguồn lợi nhạy cảm này 2. Nguồn gốc hình thành Đá vôi Kiên Giang được hình thành từ các trầm tích hàng triệu năm trước bởi các sinh vật có nguồn gốc từ biển, như: san hô, vỏ sò, rong, vi sinh vật... Các kiến tạo địa chất đã nâng đẩy chúng lên khỏi mặt nước, hình thành những khối đá khổng lồ gãy khúc. Do cấu tạo chủ yếu bằng calcite (carbonat canxi) nên các khối đá vôi rất dễ bị xói mòn. Vì vậy, sau hàng vạn năm, mưa gió đã kiến tạo núi đá vôi Kiên Giang thành những kiệt tác thiên nhiên kỳ thú: vách núi lô nhô những ngọn thạch đao chỉ thẳng lên trời, những hang động với hình dáng độc đáo, thạch nhũ... Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, các hang động trong khu hệ núi đá vôi của Kiên Giang đã được con người sử dụng cách đây hàng ngàn năm. Nhiều di chỉ thuộc nền văn hóa Phù Nam được tìm thấy tại các núi đá vôi ở Konpong Trach (Kampot, Campuchia). 3. Sự đa dạng của hệ sinh thái núi đá vôi Hệ thống núi đá vôi Kiên Giang chỉ chiếm một diện tích nhỏ so với hệ thống núi đá vôi của cả nước nhưng được đánh giá đa dạng sinh học bậc nhất thế giới. Tại đây, các nhà khoa học đã tìm được nhiều loài động thực vật đặc hữu và loài mới bổ sung cho danh mục của thế giới. Ban đầu, nhiều nhà khoa học cho rằng núi đá vôi ở khu vực Kiên Giang phân bố rời rạc và cách xa nhau nên sự đa dạng sinh học không cao. Tuy nhiên, càng nghiên cứu, các nhà khoa học càng bị cuốn hút bởi những mới lạ và sự đa dạng của quần thể sinh học nơi đây. Tính đến nay, có thể thống kê thành các nhóm trọng tâm như: thực vật trên cạn, hang động, nhóm nhuyễn thể, nhóm linh trưởng, nhóm thú nhỏ và nhóm có tỷ lệ rất cao là động vật không xương sống. Đầm Hà Tiên và Hòn Chông, Kiên Lương (Kiên Giang) là vùng đất khá đa dạng về sinh cảnh, bao gồm rừng ngập mặn, vùng đầm lầy nước lợ, đồng cỏ ngập nước theo mùa, rừng tràm, rừng trên núi... với diện tích lên đến khoảng 200.000ha. Trong đó, quần xã năn xoắn và đồng cỏ tự nhiên phân bổ trên diện tích rộng chừng 1.300ha tại khu vực Hòn Chông, xã Bình An, Kiên Lương chứa đựng những sinh cảnh đồng cỏ gắn liền với hệ sinh thái núi đá vôi và rừng ngập mặn. Khu hệ núi đá vôi tại Kiên Giang còn có giá trị cao về đa dạng sinh học và tính đặc hữu không nơi nào có. Khu vực này xứng đáng được đầu tư nghiên cứu kỹ hơn và quy hoạch lại để có được một vị trí quan trọng trong lòng khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang. Một loài thực vật mới, gọi là Thu Hải Đường (Begonia bataiensis Kiew) vừa được tìm thấy tại vùng núi đá vôi của huyện Kiên Lương (Kiên Giang). Viện sinh học Nhiệt đới (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) phối hợp với Công ty Xi măng HOLCIM vừa phát hiện một loài thực vật mới có tên khoa học là Begonia bataiensis Kiew, hay còn gọi là Thu Hải Đường tại vùng núi đá vôi của huyện Kiên Lương (Kiên Giang). Loài thực vật mới này mọc chủ yếu trong khe đá có môi trường ẩm và nơi có bóng mát trên núi đá vôi, chiều cao so với mặt biển từ 10-50 mét. Theo số liệu thống kê ban đầu, khu hệ núi đá vôi Kiên Giang có 17 loài thú được ghi nhận, thuộc 10 họ. Trong đó, 5 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam; 3 loài có tên trong sách đỏ của thế giới- IUCN 2006. Đặc biệt, Voọc bạc phát hiện tại đây được đưa vào nhóm “cực kỳ đe dọa”. Ở Việt Nam, loài này chỉ được ghi nhận tại 7 nơi. Ngoài ra, các nhà khoa học còn ghi nhận được 77 loài chim; trong đó, có 2 loài được xem là bị đe dọa ở cấp độ quốc gia. Khu hệ động vật vùng núi đá vôi Đông Á thường chứa đựng một lượng lớn các loài đặc hữu. Vùng núi đá vôi ở Kiên Giang có những loài mới, chưa được ghi nhận ở bất cứ nơi đâu. Đến thời điểm này, các nhà khoa học chuyên sâu về sinh học núi đá vôi đã có thể khẳng định rằng vùng núi đá vôi Kiên Giang là “điểm nóng” có tính đa dạng cao nhất trên thế giới về khu hệ động vật trong hang động... Trong 60 loài bọ nhảy (Collembola), có 3 loài đặc hữu cho vùng núi đá vôi này, 24 loài có thể là loài mới cho khoa học và là loài đặc hữu, 15 loài đang còn trong quá trình phân tích và có nhiều khả năng nằm trong nhóm đặc hữu. Loài bọ thuộc Chi Eustra gồm nhiều loài cực hiếm trong vùng Đông Nam Á, sống trong hang động, cũng được tìm thấy tại đây. Đặc biệt là loài Lepidosinella sp., bọ đuôi bật springtail - được tìm thấy trên các chùm rễ cây phía bắc Bãi Voi- có thể là một trong những loài có đời sống thích nghi nhất với hang động tại vùng núi đá vôi Hòn Chông. Chính sự cô lập về địa lý và bị bao bọc bởi môi trường bất lợi cho sự sống (biển, rừng ngập mặn...) của khu hệ núi đá vôi Kiên Giang đã hình thành nên những dạng sống “ốc đảo” với những loài phân bố hẹp đến rất hẹp. Vì thế, ở nơi này, tỷ lệ động thực vật đặc hữu và loài mới là rất cao. Loài Thu Hải Đường (Begonia Bataiensis Kiew) đã được công bố là mới cho khoa học và là đặc hữu của vùng. 4. Giá trị của hệ sinh thái núi đá vôi Một số khu núi đá vôi cung cấp độ phì nhiêu cao cho đất trồng trọt. Các khu vực hang động là sinh cảnh của nhóm chim yến cung cấp yến sào. Nhiều nơi khai thác núi đá vôi để làm xi măng. Nguồn lợi lớn nhất từ núi đá vôi là khai thác du lịch bền vững. Nhiều cảnh quan núi đá vôi trên thế giới trở thành biểu tượng hoặc được công nhận là thắng cảnh hay di sản thế giới, như: Hòn Phụ Tử (Kiên Giang), Hạ Long (Quảnh Ninh), Non Nước (Đà Nẵng), Phong Nha (Quảng Bình), Vườn quốc gia Port Campbel (Úc), quần thể hang động thờ Phật tại Pak Ou (Lào)... Nếu trước kia đến Kiên Lương- Hà Tiên, du khách có thể tham quan các di tích, danh thắng nổi tiếng Hòn Phụ Tử, Chùa Hang, Thạch Động..., thì nay nơi đây sẽ là điểm tham quan du lịch sinh thái với khu hệ động thực vật đặc hữu và duy nhất trên thế giới 5. Vấn đề sếu đầu đỏ tại hệ sinh thái núi đá vôi Kiên Lương Đây được xem là vùng đất ngập nước nguyên thủy quí giá duy nhất còn sót lại ở ĐBSCL. Các cuộc quan trắc gần đây của các nhà khoa học thuộc Trường đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia TP.HCM), Hội Sếu quốc tế cho thấy: khu vực Hòn Chông (Kiên Lương) là nơi đàn sếu đầu đỏ về trú ngụ đông nhất khu vực châu Á, với hơn 50% tổng số cá thể sinh sống vào mùa khô. Không chỉ có sếu mà khu vực này còn nhiều loại chim quí hiếm khác về trú ngụ như: ô tác, cò quắm cánh xanh, đại bàng đen... (hình 2.10) Những năm gần đây, nhất là từ năm 2001-2003, sếu đầu đỏ về đồng Kiên Lương (Kiên Giang) ngày càng đông, từ 200-300 con, có thời điểm lên đến 400 con. Thế nhưng hiện sếu đầu đỏ về rất ít, chỉ còn 100-150 con và chỉ ở được vài ngày rồi bay đi. Một bản báo cáo của Hội Sếu quốc tế cho biết: số lượng sếu đầu đỏ đang giảm đi một cách đáng báo động. Tại Kiên Giang, thời điểm tháng 3-2001 là 348 con, tháng 3-2002 là 377 con, tháng 3-2003 là 258 con, tháng 3-2004 là 150 con và hiện nay chỉ đếm được trên dưới 200 con. Chúng chỉ về ngủ đêm, còn ban ngày lại bay đi kiếm ăn nơi khác. Dự báo sếu sẽ không về Hòn Chông khi vùng đầm ngập nước ở đây không còn nữa. Nguyên nhân theo các nhà khoa học, do cánh đồng cỏ năn (thức ăn của sếu) rộng lớn thuộc vùng Kiên Lương đã bị thu hẹp. Hiện vùng đồng cỏ này đều đã có chủ và tốc độ chuyển đổi sang nuôi tôm diễn ra ồ ạt đã làm xáo trộn nghiêm trọng môi trường sống của sếu đầu đỏ. Theo các nhà khoa học, muốn bảo vệ và giữ chân đàn sếu, trước hết phải giữ được vùng đất ngập nước đầm Hà Tiên, Hòn Chông, Kiên Lương với diện tích 200.000ha. Trong đó, khu vực cần bảo vệ cấp bách nhất hiện nay có diện tích 1.300ha, thuộc khu vực Hòn Chông (Kiên Lương). Đây là một trong hai dự án: “Bảo vệ sếu đầu đỏ và đồng cỏ kết hợp du lịch vùng Hòn Chông” và “Bảo tồn đồng cỏ bàng kết hợp phát triển thủ công mỹ nghệ” đã được các nhà khoa học thuộc Trường đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia TP.HCM), Đại học Cần Thơ, một số viện nghiên cứu trong nước, nhà tài trợ như công ty tài chính quốc tế... đề xuất. (hình 2.11- đồng cỏ bị phá để nuôi tôm) IX. HÒN PHỤ TỬ 1. Giới thiệu chung Vị trí: Huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang Đặc điểm: Hòn Phụ Tử ở biển thuộc huyện Kiên Lương, Kiên Giang là khối đá vôi, do hoạt động kiến tạo hình thành. (hình 2.12) Hình dạng hòn Phụ Tử gồm hai khối đá dính liền nhau đứng trên một bệ đá có chiều cao 5m so với mặt biển. Trong đó hòn Phụ có chiều cao khoảng 33,6m và hòn Tử cao khoảng 30m Hòn Phụ Tử được xem là biểu tượng cho cảnh đẹp Kiên Giang. Đó là hai trụ đá cao nghiêng nghiêng cùng một chiều tượng trưng cho hình hai cha con quấn quýt bên nhau trông ra biển cả. Theo truyền thuyết, xưa kia ở vùng biển này có con thuồng luồng rất hung dữ, hay đánh đắm thuyền bè để thịt ngư dân. Bên chân ngọn An Hải Sơn, cạnh chùa Hang, có hai cha con làm nghề chài lưới. Quá bất bình trước tình cảnh này, người cha quyết lòng tiêu diệt con ác thú trừ hại cho bà con. Sau khi tính hết kế, cuối cùng ông thấy chỉ còn cách hy sinh thân mình mới mong giết được con thuồng luồng này. Thế là ông liền tẩm thuốc độc vào mình, nằm sát mé biển để dụ con ác thú. Thấy mồi ngon, con thuồng luồng đến cắn đứt đầu ông, trúng độc rồi chết. Người con đi tìm cha, bắt gặp xác cha cụt đầu liền ôm lấy khóc thương thảm thiết. Không ngờ chất độc từ người cha thấm qua khiến người con trúng độc rồi chết. Trời nổi giông bão, mưa suốt mấy ngày liền. Và nơi hai cha con nằm mọc lên hai hòn đá lớn và nhỏ. Hòn to là cha và hòn nhỏ là con, người ta gọi là hòn Phụ Tử. Hai bên hòn Phụ Tử là hai hòn đảo có hình dáng giống như một con thỏ quỳ hai chân sau để giỡn với sóng biển và một con rùa. Thiên nhiên đã tạo nên một cảnh quan thật kỳ lạ khéo léo. Chắc chắn rằng ai đã đến hòn Phụ Tử thì không thể quên được cảnh non nước hữu tình. Hòn Phụ Tử là một phần trong di tích thắng cảnh Hòn Chông được xếp hạng cấp quốc gia từ năm 1989. 2. Sự cố Hòn Phụ Tử Rạng sáng 9/8/2006, gần như toàn bộ hòn Phụ trong tổ hợp hòn Phụ Tử - một nơi du lịch nổi tiếng của tỉnh Kiên Giang - đã bất ngờ đổ sập xuống biển.. Hòn Phụ đổ về hướng đất liền,gẫy thành hai đoạn chìm xuống nước,chỉ còn lại phần chân đế .Các cơ quan chức năng của huyện Kiên Lương và tỉnh Kiên Giang kiểm tra thực tế, xác minh hòn Phụ có chiều cao 33,6 m đã gãy làm ba đoạn, hai đoạn ngã xuống biển, đoạn còn lại cao khoảng 4 - 5 m còn nằm trên bệ đá, cách bờ khoảng gần nhất chừng 110 m. (hình 2.13) Nguyên nhân: - Quan sát thực tế cho thấy hai hòn Phụ và hòn Tử đều là những núi đá cao nhưng lại được tạo thành từ những tảng đá lớn chồng lên nhau nên không gắn kết chặt chẽ. Mặt khác, do xâm thực, giữa những nơi ráp nối của các tảng đá đều có những vết đứt gãy. Do đó, có thể vì sóng to, gió mạnh cộng với một chấn động nào đó đã khiến hòn Phụ đổ xuống biển. - Một phần do sự bào mòn ở chân núi dưới biển cộng với phải hứng chịu sức ép của gió bão thường xuyên. - Có thể do thời tiết khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều trong rất nhiều năm qua nên đá vôi bị phong hóa, nứt nẻ, bào mòn nhiều... nhưng tập trung nhiều nhất là ở phần chân của hòn Phụ Tử - Hiện nay, phần chân hòn Tử cũng đang bị nước biển xâm thực và có nhiều dấu hiệu cho thấy hòn này có thể bị đổ khi có một chấn động mạnh hay một tác động bất ngờ nào đó. Ảnh hưởng từ sự cố: - Đất nước chúng ta mất đi một tác phẩm của tạo hóa ban tặng - Gây tổn thất của ngành Du lịch Kiên Giang. Biện pháp khắc phục của các cấp địa phương - Huyện đang kiến nghị tỉnh và Trung ương cử cán bộ khảo sát, đánh giá cụ thể nguyên nhân cũng như xem xét tôn tạo hòn Phụ nhằm giữ lại một danh thắng nổi tiếng, phục vụ nhu cầu du lịch tại địa phương. - UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng tiếp tục xem xét, đánh giá và bảo vệ phần còn lại. 3. Khảo sát thực tế Do Hòn Phụ Tử gần chùa Hang, nên khách du lịch đến đây rất nhiều, đặc biệt là vào những ngày rằm. Xuất hiện nhiều dịch vụ phục vụ cho khách du lịch như là khu buôn bán nhộn nhịp trước cổng chùa Hang,các mặt hàng hải sản phục vụ du khách tại chỗ, quà lưu niệm là các sản phẩm bằng đá và vỏ ốc chạm trổ khá tinh xảo, đẹp mắt. Ngoài ra còn có các loại thuốc bổ làm từ hải sâm, hải mã, rong biển, tắc kè bay, rắn núi, mỏ quạ, hà thủ ô … Khách du lịch và những người kinh doanh du lịch ở đây có thể là tác nhân gây ô nhiễm môi trường, làm mất cảnh quan tự nhiên của thắng cảnh nếu không có sự quan tâm của địa phương. X. CHÙA HANG Khu du lịch chùa Hang thuộc xã Bình An – huyện Kiên Lương – tỉnh Kiên Giang. Chùa Hang có tuổi địa chất khoảng 240 triệu năm, thuộc loại hình có nền móng cổ xưa, bị uốn nép biến chất, bên trên trở thành đá vôi. Chùa Hang nằm hẳn trong một hang đá sâu 40m, cửa chùa quay vào trong đất liền, ánh sáng lờ mờ có thể nhìn thấy những thạch nhũ chảy từ trên trần xuống đông cứng lại to như những cột nhà. Đá vôi tái kết tinh ở đây rỗng nên khi gõ vào thân thạch nhũ thì nó vang lên như tiêng chuông chùa ( nên gọi là đá chuông ), thu hút sự tò mò và trí tưởng tượng phong phú của du khách. Chùa Hang trông bên ngoài là một ngọn núi, nhưng bên trong lòng núi là một động đá vôi thẳng theo trục Đông Bắc - Tây Nam chiều dài hơn 50m, cửa Đông nhìn ra biển. Đây là động đá do thiên nhiên tạo nên hết sức độc đáo. Chùa Hang không chỉ là một danh thắng mà còn có ý nghĩa lịch sử. Vùng này xưa kia Nguyễn Trung Trực đã từng đưa nghĩa quân kháng chiến chống Pháp về đóng quân. Chùa nằm trong dãy núi hòn Chông. Xưa có 2 hoàng tử Xiêm cùng đám tàn quân đến xin Mạc Thiên Tích tị nạn, họ đưa kho báu dấu vào trong hang. Để che mắt mọi người, đám tàn quân đó cất nhà chung quanh chùa Hang, kẻ làm ruộng người đánh bắt cá, còn hai hoàng tử cạo đầu làm sư, cho người đắp 2 tượng Phật trong hang và lấy đó làm nơi tu hành. Ngày nay hai tượng Phật còn trong hang đá được tạc theo kiểu thức tượng Phật Tiểu Thừa Thái Lan. Trước cửa hang có miếu bà chúa xứ chùa Hang. Ngoài hang có một vách đá nhô ra biển được gọi là núi công chúa Ngọc Du. Tục truyền rằng khi Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi đã lần chạy đến vùng biển này. Thuyền chở công chúa Ngọc Du ( con gái Nguyễn Ánh ) bị quân Tây Sơn đuổi kịp, tướng Tây Sơn nhảy lên toan bắt công chúa thì Ngọc Du công chúa nhảy xuống biển tuej tử. Về sau Nguyễn Ánh ghé lại thăm nơi này bèn lập dàn tế và đặt tên nơi này là mũi công chúa Ngọc Du. PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CỦA HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC VÀ CHẾ BIẾN KHOÁNG SẢN TẠI NHÀ MÁY XI MĂNG HOLCIM. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP CẢI THIỆN Chương 3: Mô tả về nhà máy xi măng Holcim Trong những năm gần đây, xây dựng đang là một trong những ngành phát triển rất mạnh ở Việt Nam. Nhu cầu xi măng dùng trong ngành năng lượng ngày càng tăng. Trước tình hình trên Chính phủ đã phê duyệt “Phương án đầu tư phát triển xi măng đến năm 2000 và 2010”- theo chương trình này Nhà Nước đã có chủ trương khuyến khích sự phát triển của ngành xi măng Việt Nam nhằm góp phần tiết kiệm ngoại tệ do nhập khẩu xi măng và thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước. Nhà máy xi măng Holcim Hòn Chông là một trong những công ty xi măng có những đóng góp cho sự phát triển của ngành xi măng nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Ngoài những đóng góp to lớn về mặt kinh tế, sự hoạt động của Công ty cũng đã gây tổn hại về tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan và sinh thái. Những ảnh hưởng trên cần được xem xét về mặt tiêu cực ( là chính) và mặt tích cực nhằm lượng hóa các thiệt hại, trên cơ sở đó lựa chọn giải pháp tối ưu cho hoạt động bền vững của dự án 1. Đặc điểm vị trí, quy mô công trình 1.1. Lược sử phát triển Tập đoàn được thành lập năm 1912 với tên gọi “ Holdderbank” tại Thụy Sĩ, sau đó đổi tên thành “Holcim” năm 2001. Ngày nay, Holcim đã có chi nhánh ở hơn 70 nước trên thế giới. Năm 2005 Sản lượng thu được trên 100 triệu tấn xi măng và trên 200 triệu tấn vật liệu xây dựng Doanh thu 13.3 tỉ CHF (tiền Thụy Sĩ) Lợi nhuận trước thuế 3.6 billion CHF Tổng số nhân viên 47,000 người .(hình 3.1) Năm 1994 hợp đồng liên doanh giữa tập đoàn xi măng Holcim và tổng công ty xi măng Việt Nam trong đó Hà Tiên là người đại diện để ký hợp đồng liên doanh. Nhà máy bắt đầu xây dựng từ tháng 8/1995 đến tháng 8/1998 phần xây dựng cơ bản và lắp đặt thiết bị hoàn thiện và đưa vào vận hành . trong khoảng thời gian 10 năm từ đó đến nay số lượng sản xuất tăng trưởng liên tục. Tổng vốn đầu tư lên đến 440 triệu USD và hoạt động trong vòng 50 năm. Công ty Xi măng Holcim Hòn Chông là một trong những Công ty xi măng có những đóng góp lớn cho sự phát triển của ngành xi măng nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Vào năm 1994, Holcim Việt Nam có giấy phép đầu tư. Hòn Chông thuộc Huyện Kiên Lương, Tỉnh Kiên Giang được chọn làm nơi xây dựng nhà máy xi măng. Xi măng lần đầu tiên được sản xuất tại Hòn Chông là vào năm 1997. Holcim Việt Nam còn vận hành một trạm xi măng tại Cát Lái, quận 2, nơi lưu trữ, trộn hỗn hợp và phân phối xi măng, và Văn Phòng Riverside tại Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh. Trạm nghiền Thị Vải tại Bà Rịa-Vũng Tàu (cách Tp. Hồ Chí Minh 80km). Trong một thời gian ngắn, Holcim Việt Nam đã trở thành một trong những nhà sản xuất xi măng và cung cấp bê tông trộn sẵn hàng đầu ở phía Nam Việt Nam. Nhãn hiệu Xi Măng Holcim được xem là sản phẩm có có uy tín về chất lượng, đáng tin cậy, phục vụ tốt và được đánh giá cao. 1.2. Công suất thiết kế Công ty đã đạt được công suất hàng năm là 3.6 triệu tấn xi măng và hơn 120,000m3 bê tông trộn sẵn. Năm 1998 sản xuất khoảng 1 triệu tấn xi măng thì 2008 đưa ra thị trường khoảng 3 200 000 tấn do có thêm trạm nghiền ở Thị Vải 2. Đặc điểm công nghệ 2.1. Công nghệ khai thác đá vôi Dãy núi đá vôi Moso được giao cho nhà máy xi măng Holcim toàn quyền khai thác trong 50 năm. Đến nay nhà máy đã khai thác được hơn 10 năm. Hiện nhà máy đang sử dụng 2 mỏ đá vôi là Bãi Voi và Cây Xoài. Ngoài ra, khi cho phép Holcim hoạt động, toàn dãy Moso và khu di tích hang Moso nhưng do bị phản ứng nên giữ lại khu vực núi có hang Moso, nhưng bù lại Holcim được đền bù bằng một núi khác đó là núi Khoe Lá. Công nghệ khai thác theo phương pháp tầng, tiến hành khoan và nạp thuốc, loại thuốc nổ TNT, water gain. Sau khi nổ đá rơi từ tầng xuống chân núi, những viên đá có kích thước > 1500 mm tiến hành khoan tẻ, những viên đá có kích thước <1500 mm được xe xúc đưa vào xe tải chở về các cối đập và kích thước đá ra khống chế <30 mm. Đá thành phẩm rơi xuống băng tải cao su đưa về kho rải đều dọc theo chiều dài kho nhằm đồng nhất sơ bộ về thành phần. Ngoài ra hiện tại nhà máy đã áp dụng phương pháp nổ mìn vi sai, đây là phương pháp đặc biệt khoang những vị trí nhất định và cho mìn nổ úp xuống dưới theo từng lớp để hạn chế bụi, tiếng ồn và độ rung. Đá vôi là nguyên liệu chính thứ nhất cung cấp Cao>50% cho phối liệu nung luyện Clinker. Toàn bộ nhân lực khai thác đá được bố trí theo 3 ca cho sản xuất và tu bảo dưỡng thiết bị. 2.2. Công nghệ khai thác đất sét Nhà máy thường khai thác đất sét ẩm: Đất sét có độ ẩm tự nhiên từ 16-20 % được khai thác ở độ sâu từ 18-20 m có góc nghiêng 40o, khai thác dọc theo chiều dài từng ô 500 m. Hệ thống giàn gầu múc đất sét di chuyển dọc theo ô, rồi đổ vào băng tải để đưa vào kho, tại kho có băng tải 2 chiều đổ 2 đống theo chiều dài kho, nhằm đồng nhất sơ bộ về thành phần.(hình 1.2) Đất sét là nguyên liệu chính thứ 2 cung cấp Si02 >60% cho phối liệu nung luyện Clinker. 2.3. Công nghệ sản xuất Clinker Hai nguyên liệu chính đá vôi, đất sét và hai nguyên liệu phụ đá đỏ, cát từ các kho nhờ băng tải chuyển về khu định lượng theo tỷ lệ nhất định. Sau khi định lượng, 4 nguyên liệu được đưa qua hệ máy nghiền đứng. Trong suốt quá trình trao đổi nhiệt ngược chiều với dòng khí nóng từ lò quay ra, bột phối liệu được sấy nóng và tiến hành phân hủy gần như hoàn toàn để tạo các ôxít chính CaO, Fe2O3, SiO2, Al2O3. Phối liệu bắt đầu vào lò có nhiệt độ < 8500C tiếp tục phân hủy phần còn lại. Dưới tác động quay và độ nghiêng của lò 3%, 5 phối liệu di chuyển theo toàn bộ chiều dài lò 60 m và tạo thành Clinker ở nhiệt độ 14500C, tạo ra các khoáng chính, quyết định chất lượng Clinker là C3S, C2S, C3A, C4AF. Clinker từ lò chính xuống hệ thống lò con được làm nguội nhanh nhờ không khí bên ngoài được hút vào do quạt hút.(hình 3.2) Thành phần nguyên liệu và Clinker Thành phần Nguyên liệu SiO2 CaO F 2O3 Al2O3 MgO MKN Tỉ lệ phối liệu Đá vôi <4 48-53 <1 <2 <4 77-80 Đất sét 60-66 <1 <6 <20 - <9 12-14 Đá đỏ <30 <2 35-40 <18 <1 - 3 Cát >85 - - - - <2 <1 SiO2 CaO F 2O3 Al2O3 MgO MKN C3S C2S C3A C4AF Clinker 20,5-21,5 65-66,5 3,3-5 5-6,5 < 3 < 1 53-58 15-18 11-13 11-12 2.4 Công nghệ sản xuất xi măng Xi măng là chất bột màu xám mịn, có khả năng kết gắn cát, đá (và vật liệu xây dựng khác) thành khối cứng (bê tông). Thành phần của xi măng một tổ hợp của n[CaO] y[SiO2] z[Al2O3] t[Fe2O3]… Xi măng là thành phần chính của bê tông, là vật liệu xây dựng phổ biến nhất trên thế giới. Nguyên liệu chính là Clinker và 2 phụ gia thạch cao và mu rùa (Puzolan), thạch cao là phụ gia điều chỉnh thời gian đóng rắn, mu rùa là phụ gia hoạt tính có tác dụng hút vôi trong quá trình đóng rắn .(hình 3.3) Clinker + một số phụ gia àcác sản phẩm xi măng Quy trình sản xuất xi măng ở Hòn Chông.(Hình 3.4) Nghiền xi măng: từ silo, clinker được chuyển tới buồng chứa clinker. Clikner đi qua cân định lượng nhằm điều chỉnh lưu lượng để cân đối tỷ lệ với các chất phụ gia. Trong giai đoạn này, thạch cao được bổ sung vào clinker và sau đó được nạp vào máy nghiền mịn. Hỗn hợp clinker và thạch cao cho xi măng loại I hoặc hỗn hợp clinker, thạch cao và phụ gia pozulan cho xi măng loại P đều được nghiền thành bột mịn theo hệ thống luôn chuyển kín trong máy nghiền xi măng để có được độ mịn mong muốn. Sau đó xi măng được đưa vào trong các buồng chứa silo xi măng. Công suất của nhà máy vào khoảng 1.4 triệu tấn/năm, sản lượng xi măng 1.8 triệu tấn / năm (OPC). Xuất xi măng bột về trạm Cát Lái (Tp HCM) để pha trộn và xuất hàng. Đóng bao xi măng và xuất hàng cho ĐBSCL (0.5 triệu t/năm) Dây chuyền vận hành theo chế độ tự động điều khiển từ trung Tâm 2.5. Hoạt động môi trường của nhà máy Giai đoạn năm 1995-1998 ở vùng này không có điện lưới quốc gia nên đã cho lắp đặt một nhà máy phát điện với công suất 33MW/h nhưng hiện nay đã ngưng nghỉ sử dụng khi cần thiết do 2 nguyên nhân; Phát thải NOx và SO2 quá cao so với TCVN Về vấn đề kinh tế do giá dầu quá đắt Hệ thống xử lý bụi: thiết bị xử lý bụi của nhà máy tích hợp hoàn toàn trong dây chuyền công nghệ, không thể tách rời. Ngoài ra, ở nhà máy còn sử dụng công nghệ xử lý bụi hiện đại nhất như lọc bụi tĩnh điện, lọc bụi túi…(hình 3.5) Hệ thống xử lý khí thải: Sử dụng hệ thống SNCR xử lý Nox đạt TCVN trước khi xảy ra môi trường, sử dụng dung dịch Urê 40 % phun vào dòng khí thải để giảm lượng Nox. Chi phí lắp đặt cho hệ thống này là 7.5 tỷ VND Chi phí vận hành 0.3-0.5 USD/tấn clinker. Hệ thống này có khả năng giảm được 45 % Nox. Xử lý chất thải rắn(hình 3.6) Chất thải rắn: thực hiện theo Nghị định số 59/2007 NĐ-CP của Chính phủ về việc quản lý chất thải rắn. Chất thải sinh hoạt: ký hợp đồng thu gom với Công ty Công trình đô thị huyện Kiên Lương Chất thải nguy hại: đốt tại lò nung clinker, hợp đồng với công ty TNHH Sao Mai Xanh xử lý Chất thải có thể tái chế: bán cho nhà thầu để tái chế lại. Bên cạnh đó công ty còn có những hệ thống để xử lý nước thải và những biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế các ô nhiễm khác như tiếng ồn do nổ mìn hay trong thi công sản xuất của nhà máy. Chương 4: Đánh giá tác động của môi trường trong các hoạt động của nhà máy 1. Nguồn phát sinh chất thải (hình 4.1) Chất ô nhiễm Nguồn gây ô nhiễm Mức độ, tính chất ô nhiễm Khí thải 1. Lò hơi, thiết bị nghiền đập nguyên liệu, nhiên liệu, xi măng. Lò nung sơ bộ, clinker, máy phát điện, khu vực đóng bao. 2. Hoạt động của các phương tiện vận tải. 3. Nổ mìn phá đá và sơ chế đá . 4. Tồn trữ, bốc xếp và vận chuyển nguyên vật liệu. Bụi than, bụi đất đá, bụi clinker, bụi xi măng, khí độc (SO2, CO, CO2, NO2) Bụi, khí độc (SO2, CO, CO2, NO2) Tiếng ồn 1. Tuabin hơi nước, máy nghiền nguyên liệu (đá vôi), xi măng, clinker, băng tải, hoạt động của lò nung sơ bộ, lò nung clinker, đóng bao. 2. Hoạt động phương tiện vận chuyển, đóng bao. Mức tiếng ồn cao hơn TCCP (4dBA-10dBA) Nước thải 1. Nước thải công nghiệp: -Nước làm nguội thiết bị -Nước thải từ quá trình nghiền nguyên liệu, than Nước từ quá trình rửa thiết bị (kể các lọc bụi) 2. Nước mưa chảy qua các bãi vật liệu, rác của nhà máy 3. Nước thải sinh hoạt Nhiệt độ cao, nhiễm dầu mỡ, cặn lơ lửng (bụi than) Hàm lượng cặn lơ lửng cao, dầu mỡ, kim loại nặng. Cặn lơ lửng, dầu , mỡ, COD lớn, độ pH, kiềm, một số kim loại pH, BOD, COD cao, tổng Nitơ, tổng Photpho. Chất thải rắn 1. Chất thải rắn công nghiệp: - lò hơi (dùng than) -Băng tải than, nghiền than, xỉ các phân xưởng sản xuất khác 2. Chất thải sinh hoạt Tro, xỉ than, đá vôi rơi vãi Xi măng bị đóng rắn Bao bì, giấy phế thải Rác hữu cơ, thủy tinh, nhựa Trong đó, bụi là tác nhân gây ô nhiễm chính, sinh ra do các hoạt động: (hình 4.2) Nổ mìn, phá đá và sơ chế đá. Bốc xếp và vận chuyển nguyên vật liệu ngoài trời. Tồn trữ và bốc xếp nguyên vật liệu ngoài trời. Nghiền nguyên liệu, nung Clinker. Làm nguội Clinker. Nghiền xi măng, phụ gia. Đóng bao, xuất xi măng bao, xi măng xá. 2. Tác động đến môi trường vật lý 2.1. Tác động môi trường nước Nước thải sinh ra chủ yếu là nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Nước thải công nghiệp gồm nước làm nguội, nước từ quá trình nghiền nguyên liệu có lưu lượng lớn, từ các thiết bị lọc bụi, từ bãi thải xỉ, từ các xưởng cơ khí, các khu vực sản xuất khác và nước thải từ việc làm vệ sinh thiết bị máy móc. Nước thải từ quá trình làm nguội thiết bị có lưu lượng lớn. Loại nước thải này ít bị ô nhiễm và thường chỉ được làm nguội và cho chảy thẳng ra nguồn nước mặt khu vực. Tuy nhiên nước xả từ lò hơi lại có nhiệt độ cao, độ pH cao và có chứa một lượng nhỏ dầu mỡ, cặn lò không hòa tan, chất vô cơ. Do vậy cần phải tách ra khỏi loại nước làm nguội khác để xử lý. Nước thải từ quá trình nghiền nguyên liệu, các thiết bị lọc bụi và bãi thải xỉ có lưu lượng và hàm lượng cặn lơ lửng (bụi than) rất lớn. Nước thải từ các khu vực sản xuất, xưởng cơ khí có mức độ nhiễm dầu thay đổi tùy thuộc vào mức độ và khả năng vận hành, quản lí. Lượng nước này thường không lớn và không thường xuyên. Nước thải từ quá trình rửa thiết bị thường có chứa dầu, mỡ cặn và trong trường hợp rửa lò hơi có thể chứa cả axit, kiềm. Đặc điểm, tính chất nêu trên của nước thải nhà máy xi măng sẽ làm ô nhiễm nước mặt ở những ao hồ, sông , cũng như nước ngầm trong khu vực. Với tình hình và nguy cơ bị ô nhiễm như vậy, thì ở nhà máy xi măng Holcim có hệ thống xử lý nước thải riêng (hình 4.3) với lưu lượng là 285 m3/ngày, đảm bảo xử lý đạt tiêu chuẩn loại B trước khi thải ra môi trường. Lượng nước sau khi xử lý được tái sử dụng vào việc tưới cây.(hình 4.4) Sơ đồ tổng quát xử lý nước thải của nhà máy xi măng Holcim – Hòn Chông Nước thải Bể gom Bể phân hủy sinh học Bể lắng Khử trùng Sục khí Khí clo Bể chứa nước sau khi xử lý 2.2. Tác động đến môi trường không khí Như đã nêu ở phần 2.1, khí thải của nhà máy xi măng chủ yếu từ khu vực lò hơi có chứa nhiều chất ô nhiễm đặc biệt là khí SO2, CO, NOx và bụi than. Lượng khí thải này là rất lớn lên tới hàng ngàn m3/phút. Ngoài ra còn một số khí độc khác. Tiếng ồn: đặc trưng của ngành xi măng là sử dụng các máy mọc thiết bị có công suất lớn nên thường phát tiếng ồn có cường độ cao: lò nung nguyên liệu, mày phát điện, hoạt động của các van xả hơi nước, băng tải chuyền than xỉ, clinker…\ ( Theo đánh giá trong báo cáo môi trường năm 2005 của UBND tỉnh Kiên Giang thì trong năm nhà máy ximăng đang hoạt động ở huyện Kiên Lương, chỉ có Nhà máy ximăng Holcim có hệ thống xử lý chất thải tương đối đạt tiêu chuẩn. Còn ở các nhà máy khác hệ thống xử lý chất thải là chưa đạt. ) Gồm 2 giai đoạn: Trước quá trình sản xuất: bụi được thải chủ yếu do quá trình sản xuất, khai thác và vận chuyển đất đá. Đó được xem là chất thải chính của nhà máy. Biện pháp an toàn khi vận chuyển là không cho xe chạy quá nhanh hoặc quá trọng tải cho phép hoặc là có phủ bạc khi vận chuyển. Biện pháp làm giảm nồng độ bụi ở công trường khai thác đá là dung nước tưới để giảm bụi… Đối với khí thải của quá trình sản xuất, xử lý bằng các thiết bị xử lý bụi. Thiết bị lọc bụi tĩnh điện: Nguyên lý: Trong một điện trường đều, có sự phóng điện của các điện tử từ cực âm sang cực dương. Trên đường đi, nó có thể và phải các phân tử khí và ion hóa chúng hoặc có thể gặp phải các hạt bụi làm cho chúng tích điện âm và chúng sẽ chuyển động về phía cực dương. Tại đây chúng được trung hòa về điện tích và nằm lại ở đó. Lợi dụng nguyên lý này người ta sẽ thu được bụi từ các tấm điện cực dương và khí đi ra là khí sạch bụi. Sự tích điện diễn ra trong trường phóng điện quầng sáng, theo 2 cơ chế: dưới tác dụng của điện trường (các hạt bị bắn phá bởi các ion chuyển động theo hướng điện trường) và bởi sự khuếch tán của các ion. Thiết bị lọc tay áo Cấu tạo: Trường lực được tạo ra bởi hai điên cực: một điện cực – cực âm – quầng sáng để tích điện cho các hạt. Đó là các dây dẫn mảnh được bố trí ở các khoảng cách nhất định. Điện cực thứ hai – cực lắng, có bề mặt rộng hơn. Hình dạng của chúng rất đa dạng: dạng phẳng hoặc dạng lưới tấm, dạng gợn sóng, dạng trụ, dạng lòng máng. Các yêu cầu cơ bản đối với các điện cực lắng là bền cơ học, cứng và có khả năng tách bụi khi rung lắc. Thiết bị lọc bụi dạng tay áo : Thiết bị này phổ biến nhất. Đa số thiết bị lọc vải có vật liệu lọc dạng tay áo hình trụ, được giữ chặt trên lưới ống và được trang bị cơ cấu giữ bụi gọi là thiết bụi lọc bụi tay áo. Vật liệu lọc phổ biến nhất là vải bông, len, vải tổng hợp và vải thủy tinh. Vải bông có tính lọc tốt và giá thấp nhưng không bền hóa học và nhiệt, dễ cháy và chứa ẩm cao. Vải len có khả năng cho khí xuyên qua lớn, bảo đảm độ sạch ổn định và dễ phục hồi nhưng không bền hóa và nhiệt, giá cao hơn vải bông. Khi làm việc lâu ở nhiệt độ cao sợi len trở nên giòn. Chúng làm việc tới 900C. Vải thủy tinh bền ở 150 – 3500C. Chúng được chế tạo từ thủy tinh nhôm silicat không kiềm hoặc thủy tinh magezit. Tổng diện tích bề mặt lọc cần thiết phụ thuộc vào lưu lượng khí cần xử lý và vận tốc lọc (đối với các bụi của các ngành công nghiệp khác nhau vận tốc lọc cũng khác nhau). 2.3. Tác động đến môi trường đất Đất bị tác động do công việc. Đào lấp dẫn đến các ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp, cảnh quan môi trường. Xói mòn sẽ tạo ra độ lắng sông ngòi, cống rãnh thoát nước, gây úng ngập, giảm chất lượng nước mặt gây ảnh hưởng tới hệ sinh thái dưới nước. Ngoài ra, khí thải, nước thải của nhà máy cũng góp phần gây ô nhiễm đất và cây trồng. Vì vậy, cần phải đánh giá chính xác mức độ của việc đa đất, đắp đất và xói mòn đối với tài nguyên và hệ sinh thái. Trong quá trình sản xuất, lượng bụi than, đất đá lớn phát sinh, phát tán ra môi trường có thể làm ô nhiễm môi trường đất thấp nhất là đối với đất nông nghiệp ở những khu vực xung quan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1252.doc