Đề tài Tìm hiểu tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA ĐỊA LÝ ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NGÀNH: KINH TẾ - XÃ HỘI TÌM HIỂU TIỀM NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH HÀ GIANG Người hướng dẫn khoa học: T.S. Nguyễn Xuân Trường TRẦN THỊ HƯƠNG NGUYỄN THỊ LIÊN HỒ HUYỀN TRANG Thái Nguyên, năm 2012 y LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian nghiên cứu, tìm tòi với sự cố gắng của bản thân cùng sự giúp đỡ của thầy, cô giáo và bạn bè trong khoa chúng tôi đã hoàn thành đề tài: “Tìm hiểu tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang”. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS Nguyễn Xuân Trường và các thầy, cô giáo trong khoa Địa lý, Trường Đại Học Sư Phạm thuộc Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thực hiện đề tài của mình. Chúng tôi cung xin chân thành cảm ơn: UBND tỉnh Hà Giang, Cục thống kê tỉnh Hà Giang, Sở văn hóa – du lịch và thể thao tỉnh Hà Giang… đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này. Trong qu...

doc105 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA ĐỊA LÝ ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NGÀNH: KINH TẾ - XÃ HỘI TÌM HIỂU TIỀM NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH HÀ GIANG Người hướng dẫn khoa học: T.S. Nguyễn Xuân Trường TRẦN THỊ HƯƠNG NGUYỄN THỊ LIÊN HỒ HUYỀN TRANG Thái Nguyên, năm 2012 y LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian nghiên cứu, tìm tòi với sự cố gắng của bản thân cùng sự giúp đỡ của thầy, cô giáo và bạn bè trong khoa chúng tôi đã hoàn thành đề tài: “Tìm hiểu tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang”. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS Nguyễn Xuân Trường và các thầy, cô giáo trong khoa Địa lý, Trường Đại Học Sư Phạm thuộc Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thực hiện đề tài của mình. Chúng tôi cung xin chân thành cảm ơn: UBND tỉnh Hà Giang, Cục thống kê tỉnh Hà Giang, Sở văn hóa – du lịch và thể thao tỉnh Hà Giang… đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này. Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài do khó khăn về thời gian và năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô và các bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 3 năm 2012 Nhóm sinh viên thực hiện Trần Thị Hương Nguyễn Thị Liên Hồ Huyền Trang MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ i Mục lục ii MỞ ĐẦU 7 PHẦN NỘI DUNG 14 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH 14 1.1. Cơ sở lý luận về du lịch. 14 1.1.1. Các khái niệm về du lịch 14 1.1.2. Chức năng của du lịch 19 1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển du lịch 20 1.1.4. Các hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch 24 1.2. Cơ sở thực tiễn 26 1.2.1. Thực tiễn phát triển du lịch ở Việt Nam 26 1.2.2. Thực tiễn phát triển du lịch vùng Trung du và miền núi phía Bắc 28 Chương 2. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH HÀ GIANG 33 2.1. Khái quát chung về Hà Giang 33 2.1.1. Vài nét về lịch sử Hà Giang 33 2.1.2. Tổng quát về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 33 2.2. Tài nguyên du lịch 36 2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên 36 2.2.2 Tài nguyên du lịch nhân văn 48 2.2.4. Văn hóa ẩm thực vùng cao Hà Giang 59 2.3. Cơ sở hạn tầng và chính sách phát triển du lịch 61 2.3.1. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải 61 2.3.2. Bưu chính viễn thông 64 2.3.3. Thực trạng phát triển hệ thống đô thị 64 2.3.4. Đường lối, chính sách phát triển du lịch 66 2.4. Đặc điểm dân cư, dân tộc 66 Chương 3. HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN 69 3.1. Hiện trạng phát triển du lịch 69 3.1.1. Đánh giá chung phát triển du lịch tỉnh Hà Giang giai đoạn 2006-2011 69 3.1.2. Số lượng và thành phần du khách 72 3.1.3. Mùa tham quan du lịch và thời gian lưu trú của khách du lịch 74 3.1.4. Doanh thu du lịch và điều kiện cơ sở vật chất phục vụ du lịch 74 3.2. Tổ chức lãnh thổ theo các tuyến và điểm du lịch Hà Giang 77 3.2.1. Các khu và điểm du lịch 77 3.2.2. Các tuyến du lịch 82 3.3. Những hạn chế phát triển du lịch Hà Giang 88 3.4. Định hướng và một số giải pháp phát triển du lịch Hà Giang trong điều kiện hội nhập quốc tế 89 3.4.1. Định hướng phát triển du lịch Hà Giang 89 3.2.4. Giải pháp phát triển du lịch Hà Giang 93 KẾT LUẬN 99 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100 PHỤ LỤC 101 CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ ĐBBB Đồng bằng Bắc Bộ UBND Uỷ ban nhân dân HTX Hợp tác xã SVHTT Sở văn hoá thể thao KH Khoa học DL Du lịch DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Lượng khách và doanh thu du lịch Hà Giang 2008 - 2011 72 Bảng 3.2: Số lượng cơ sở lưu trú của Hà Giang giai đoạn 2002 - 2010 75 DANH MỤC HÌNH Hình 2.1. Lược đồ hành chính tỉnh Hà Giang 34 Hình 3.1: Lược đồ tuyến điểm du lịch tỉnh Hà Giang 88 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, du lịch - ngành kinh tế được ví là “công nghiệp không khói” - đang trở thành hoạt động kinh tế sôi động hàng đầu thế giới. Du lịch là một ngành kinh tế tương đối nhạy cảm và có trách nhiệm với môi trường, vì vậy phát triển du lịch góp phần khai thác có hiệu quả cũng như bảo vệ, tôn tạo tài nguyên thiên nhiên và văn hóa của đất nước, bảo vệ môi trường tự nhiên. Cùng với xu hướng đó, Việt Nam với tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch phát triển và khẳng định vị thế trong nền kinh tế quốc dân. Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, có vị trí chiến lược quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Phía bắc Hà Giang có đường biên giới 277,5 km với Trung Quốc, phía đông, tây và nam Hà Giang giáp với các tỉnh có tiềm năng du lịch như: Cao Bằng, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển các tuyến du lịch liên tỉnh. Hà Giang là một vùng đất có tiềm năng rất lớn về du lịch, đặc biệt là phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng. Cùng với đó là lợi thế tiếp giáp với nước bạn Trung Quốc và nhiều địa bàn nội địa có ngành du lịch đang phát triển mạnh như Lào Cai, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Cao Bằng… Hà Giang còn có bản sắc văn hoá của cộng đồng 22 dân tộc anh em, được bảo lưu khá tốt. Vì thế, trên đường hội nhập, du lịch Hà Giang có nhiều lợi thế để phát triển nhiều loại hình du lịch mà đông đảo khách du lịch quốc tế đang hướng tới hiện nay đó là: Du lịch tham quan nghỉ dưỡng, du lịch mạo hiểm, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng… Trong những năm qua, tỉnh đã có nhiều nỗ lực nhằm phát triển du lịch, đưa du lịch trở thành thế mạnh của Hà Giang. Một trong những nỗ lực đó chính là sự tích cực chuẩn bị các bước cần thiết để cao nguyên đá Đồng Văn được thế giới công nhận là Công viên Địa chất toàn cầu. Đây sẽ là tiền đề hết sức quan trọng trong phát triển du lịch của tỉnh trong thời gian tới. Chính vì lý do đó, được sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Xuân Trường, nhóm đề tài chọn hướng nghiên cứu, tìm hiểu: “Tìm hiểu tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang” 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Trên thế giới Từ khi du lịch xuất hiện và khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, khu vực; du lịch và ngành địa lý du lịch đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới dưới nhiều gióc độ và mức độ khác nhau. Một trong những khía cạnh đầu tiên là nghiên cứu các yếu tố tác thành và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động du lịch. Những công trình nghiên cứu đầu tiên về du lịch có tầm quan trọng trên thế giới có thể kể đến là những nghiên cứu đầu tiên về các loại hình du lịch, khảo sát về vai trò lãnh thổ, lịch sử, những nhân tố ảnh hưởng chính đến hoạt động du lịch… của Poser (1939), Christaleer (1955)…được tiến hành ở Đức năm 1930. Tiếp theo đó là các công trình đánh giá các thể tổng hợp tự nhiên phục vụ giải trí của Mukhina (1973); nghiên cứu sức chứa và sự ổn định của các điểm du lịch của Khadaxkia (1972) và Sepfer (1973). Các nhà địa lý cảnh quan học của Trường Đại học Tổng hợp Matxcova như E.D Xmirnova, V.B Nhefedova… đã nghiên cứu các vùng cho mục đích nghỉ dưỡng trên lãnh thổ Liên Xô (cũ). Ngoài ra các nhà địa lý Mỹ như Bôhart (1971), nhà địa lý Anh H.Robison (1976), các nhà địa lý Canada)… cũng đã tiến hành đánh giá các loại tài nguyên thiên nhiên phục vụ mục đích du lịch. Bên cạnh đó, một khía cạnh quan trọng trong nghiên cứu du lịch đã được quan tâm là vấn đề tổ chức lãnh thổ du lịch. Các nhà địa lý du lịch trên thế giới đã có nhiều công trình nổi tiếng về vấn đề này được xem là kim chỉ nam - là cơ sở lý luận có tính kế thừa cho các nghiên cứu về sau. Các công trình nghiên cứu đã xác định đối tượng nghiên cứu của địa lý du lịch là hệ thống lãnh thổ du lịch các cấp hoặc thể tổng hợp lãnh thổ du lịch và phân tích cơ cấu tổng hợp các yếu tố trên địa bàn để phát triển du lịch. Trong những năm gần đây, những lợi ích của du lịch trở nên rõ ràng hơn cũng như tác động của nó đối với hàng loạt vấn đề nảy sinh mang tính toàn cầu thì việc nghiên cứu du lịch gắn với sự phát triển vùng lại càng trở nên cần thiết. Ở Pháp, Jean - Lozoto (1990) đã nghiên cứu và phân tích các tụ điểm du lịch. Các nhà địa lý Anh, Mỹ gắn công việc nghiên cứu lãnh thổ du lịch với những dự án du lịch trên một miền hay một vùng cụ thể. Nhìn chung, nhiều nhà địa lý đã xác định đối tượng nghiên cứu của địa lý du lịch là các hệ thống lãnh thổ hoặc tổng hợp lãnh thổ du lịch, tức là xác định các hệ thống địa bàn phát triển du lịch trên lãnh thổ và phân tích cơ cấu tổng hợp các yếu tố trên địa bàn để phát triển du lịch. 2.2. Ở Việt Nam Lịch sử ngành du lịch Việt Nam được đánh dấu bắt đầu từ năm 1960, từ đó đến nay các công trình nghiên cứu địa lý du lịch nhìn chung vẫn chưa nhiều. Phần lớn tập trung vào các vấn đề về tổ chức không gian du lịch, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu du lịch với một số tác giả tiêu biểu như PGS.TS Vũ Tuấn Cảnh, GS.TS Lê Thông, PGS.TS Nguyễn Minh Tuệ, PGS.TS Đặng Duy Lợi, PGS.TS Phạm Trung Lương… Nhiều công trình nghiên cứu có giá trị trong lĩnh vực này đã được thực hiện như: Đề tài “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam” do Vũ Tuấn Cảnh chủ trì (1991); “Cơ sở lý luận phương pháp nghiên cứu các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch biển Việt Nam” do Nguyễn Trần Cầu và Lê Thông chủ trì (1993); “Quy hoạch quốc gia và vùng, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu” do Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông thực hiện (1994); 2 cuốn sách “Địa lý du lịch” (1996) và “Địa lý du lịch Việt Nam” (2010) do Nguyễn Minh Tuệ chủ biên; “Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam” do Phạm Trung Lương chủ biên (2000)…Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu, một số dự án, đề tài tiêu biểu cấp Nhà nước, một số bài báo và các báo cáo trong các cuộc hội thảo về du lịch của các địa phương được thực hiện với sự tham gia các các nhà khoa học địa lý, cá luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ trong và ngoài nước. Tiêu biểu như luận án tiến sỹ: “Tổ chức lãnh thổ du lịch thành phố Hải Phòng” - Nguyễn Thanh Sơn (1997); “Phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh với việc khai thác tài nguyên du lịch vùng phụ cận” - Đỗ Quốc Thông (2004); “Tổ chức lãnh thổ du lịch Hòa Bình trên quan điểm bền vững” - Phạm Lê Thảo (2006); và một số bài báo có giá trị trên các tạp chí Du lịch Việt Nam, Nghiên cứu kinh tế. Trên thực tế, đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch của Hà Giang của Tổng cục Du lịch hay Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hà Giang. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Vận dụng có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch trên thế giới và Việt Nam vào địa bàn tỉnh Hà Giang nhằm đánh giá tiềm năng phát triển du lịch, bước đầu tìm hiểu thực trạng hoạt động du lịch của tỉnh Hà Giang, trên cơ sở đó đề xuất các ý kiến khuyến nghị cho phát triển du lịch Hà Giang. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan có chọn lọc những vấn đề lý luận và thực tiễn của du lịch và tài nguyên du lịch. - Phân tích tiềm năng phát triển du lịch Hà Giang. - Bước đầu phân tích kết quả hoạt động du lịch tỉnh Hà Giang. - Đề xuất một số giải pháp có tính khuyến khích nhằm phát triển du lịch của tỉnh Hà Giang 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: đề tài tập trung đánh giá tài nguyên du lịch, một số kết quả hoạt động du lịch theo hai khía cạnh ngành và lãnh thổ. - Về phạm vi không gian: phạm vi nghiên cứu đề tài là toàn bộ tỉnh Hà Giang. Bên cạnh đó có sự phân tích cụ thể vào các điểm, tuyến, cụm du lịch, trung tâm du lịch có ý nghĩa quan trọng của tỉnh; chú ý tới mối quan hệ của địa bàn nghiên cứu với các tỉnh lân cận. - Về thời gian: đề tài chủ yếu nghiên cứu giai đoạn 2005 - 2010, giải pháp phát triển đến năm 2020. 5. Quan điểm, phương pháp nghiên cứu đề tài 5.1. Quan điểm nghiên cứu 5.1.1. Quan điểm lãnh thổ Đây là quan điểm đặc thù trong nghiên cứu các vấn đề địa lý. Nếu coi các đối tượng nghiên cứu của du lịch là thể thống nhất có sự phân bố trên một không gian lãnh thổ nhất định, trong đó các đối tượng này có tác động qua lại với nhau và với các thành phần kinh tế - xã hội khác một cách chặt chẽ trên cùng phạm vi lãnh thổ. Do vậy, khi nghiên cứu tiềm năng du lịch Hà Giang, cần chú ý đến các mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố và với môi trường trên lãnh thổ. 5.1.2. Quan điểm hệ thống Hệ thống lãnh thổ du lịch là hệ thống bao gồm nhiều phân hệ, trong đó phân hệ tài nguyên du lịch là phân hệ quan trọng bao gồm các yếu tố tự nhiên, nhân văn và các mối quan hệ qua lại mật thiết giữa chúng. Mặt khác, cần đặt hệ thống trong các cấp phân vị cao hơn để thấy được vị trí của hệ thống cũng như các mối liên hệ ra ngoài. 5.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh Vận dụng quan điểm này là hết sức cần thiết trong việc khai thác tài nguyên du lịch phục vụ mục đích phát triển du lịch. Cần có sự kết thừa chọn lọc và phát huy những điểm, tuyến, loại hình du lịch đã khai thác có hiệu quả, đồng thời tìm ra những mặt yếu kém và khắc phục nhược điểm ở những điểm có tiềm năng khai thác chưa hiệu quả. 5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững Tài nguyên du lịch là yếu tố vô cùng quan trọng để phát triển du lịch, tuy nhiên tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên không phải là mãi mãi, vô hạn. Quan điểm cho rằng du lịch là ngành kinh tế ít ảnh hưởng với môi trường đã không còn đúng nữa, đã có nhiều minh chứng về sự cạn kiệt tài nguyên và những nguy hại tới môi trường xuất phát từ khai thác du lịch bất hợp lý. Do vậy cần có những chiến lược phát triển du lịch mà trong đó bảo vệ môi trường được chú trọng, hướng đến sự phát triển du lịch bền vững. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu Đây là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu. Việc thu thập tài liệu sẽ cung cấp thông tin, số liệu cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Đây sẽ là cơ sở dữ liệu phong phú và quan trọng cho việc thực hiện các phương pháp khác đạt hiệu quả cao. 5.2.2. Phương pháp bản đồ, biểu đồ Đây là phương pháp cho phép thu thập thông tin về số lượng, chất lượng, sự phân bố, thực trạng khai thác Tài nguyên du lịch của tỉnh Hà Giang. Phương pháp này còn thể hiện sự phân bố về số lượng, chất lượng, khả năng tôn tạo và khai thác tài nguyên du lịch của Hà Giang. 5.2.3. Phương pháp chuyên gia Trong quá trình thực hiện đề tài, các chuyên gia, nhiều nhà khoa học am hiểu về lĩnh vực du lịch, từ lý luận cho đến thực tiễn của Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên, Sở VHTT&DL Hà Giang đã đóng góp nhiều ý kiến vô cùng quý báu giúp giải quyết nhiều vấn đề còn vướng mắc của đề tài. 6. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các hình ảnh, các bảng biểu, các tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài được thể hiện trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về du lịch Chương 2: Tiềm năng phát triển du lịch tỉnh hà giang Chương 3: Hiện trạng và định hướng phát triển du lịch hà giang trong xu thế hội nhập PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH 1.1. Cơ sở lý luận về du lịch. 1.1.1. Các khái niệm về du lịch 1.1.1.1. Khái niệm du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa xã hội và hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước trên thế giới. Du lịch góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân… Quan niệm về du lịch luôn là một vấn đề được tranh luận trong suốt một thời gian dài. Từ khi thành lập Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch International Union of Official Travel Organization (IOUTO) năm 1925 tại Hà Lan, theo Hiệp hội IOUTO khái niệm du lịch được hiểu một cách đầy đủ như sau: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan đến sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trứ thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức về văn hóa kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa (P.I.pirogionic) Theo điểm 1, điều 10, trang 8, Pháp lệnh Du lịch Việt Nam năm 1992 thì: “Du lịch là hoạt động con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thảo mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định”. Theo sổ tay Thuật ngữ Địa lý: “Du lịch là ngành dịch vụ chuyên lo khai thác các tài nguyên thiên nhiên, văn hóa để tổ chức các cuộc tham quan, đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí , bồi dưỡng sức khỏe nâng cao hiểu biết cho nhân dân trong nước cũng như khách nước ngoài”. Như vậy, Du lịch là một ngành kinh tế dựa trên các tài nguyên du lịch phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí, tham quan và nghỉ dưỡng của con người. 1.1.1.2. Khách du lịch Đã có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về khách du lịch. Tuy nhiên, về cơ bản chúng còn phiến diện và chưa phản ánh đầy đủ nội hàm của khái niệm. Một số mới chỉ dừng lại ở việc phân tích động cơ du lịch, hoặc bóc tách du lịch khỏi các chức năng kinh tế - xã hội…Năm 1993, theo đề nghị của Tổ chức Du lịch Thế giới, Hội đồng Thống kê Liên hợp quốc (UNSC) đã công nhận thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch: - Khách du lịch quốc tế (International tourist) bao gồm: khách du lịch quốc tế đến: gồm những người nước ngoài đến du lịch một quốc gia; và khách du lịch quốc tế ra nước ngoài: gồm những người đang sống trong một quốc gia đi du lịch nước ngoài. - Khách du lịch trong nước: gồm những người là công dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ của quốc gia đó đi du lịch trong nước. Ở nước ta, theo Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005) thì “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. Tại điều 34, chương V quy định: “Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”. 1.1.1.3. Sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình, đó là tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch. Theo Michael M. Coltman, sản phẩm du lịch có thể là một món hàng cụ thể như thức ăn, hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu không khí tại nơi nghỉ mát. Cơ cấu của sản phẩm du lịch: - Những thành phần tạo lực hút (lực hấp dẫn đối với du khách) gồm nhóm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. - Cơ sở du lịch (Điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch) gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. - Dịch vụ du lịch: là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch và thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng du lịch. Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”. Như vậy, hiểu một cách chung nhất, sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tài nguyên du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Sản phẩm du lịch = Dịch vụ du lịch + Tài nguyên du lịch. Dịch vụ du lịch gồm có: dịch vụ lữ hành; dịch vụ vận chuyển; ăn uống; dịch vụ vui chơi, giải trí; dịch vụ mua sắm; dịch vụ thông tin, hướng dẫn; dịch vụ trung gian và dịch vụ bổ sung. 1.1.1.4. Tài nguyên du lịch Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ, đến việc hình thành chuyên môn hóa và hiệu quả kinh tế của hoạt động du lịch. Về thực chất, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên, các đối tượng văn hóa – lịch sử đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch. Theo Nguyễn Minh Tuệ, “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa - lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực, trí lực của con người, khả năng lao động vào sức khỏe của họ…”. Theo Phạm Trung Lương và nnk “Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin có trên Trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan, mà con người có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình”. Theo PGS.TS Trần Đức Thanh: “ Tài nguyên là tất cả thông tin vật chất, năng lượng được khai thác phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người. Đó là những thành tạo hay tính chất của thiên nhiên, những công trình, những sản phẩm do bàn tay khối óc của con người làm nên, những khả năng của loài người…Được sử dụng phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội cộng đồng.” Mỗi khái niệm đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tài nguyên có thể quan niệm một cách dễ hiểu và đơn giản là: “Tất cả những gì thuộc về tự nhiên và tất cả những sản phẩm do con người tạo ra, có thể được con người sử dụng vào phát triển kinh tế và xã hội để tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường trong quá trình lịch sử phát triển của loài người.” Nhiều tác giả, tổ chức trong và ngoài nước đã tiến hành phân loại tài nguyên theo một số cách khác nhau: - Theo nguồn gốc hình thành: gồm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn + Tài nguyên thiên nhiên: gồm các thành phần của tự nhiên là tài nguyên địa hình, địa chất, khí hậu, nước…khoảng không ngoài vũ trụ và các thể tổng hợp tự nhiên + Tài nguyên nhân văn: gồm các loại tài nguyên nhân văn hữu thể như: các di tích lịch sử, di tích LSVH, công trình đương đại, vật kỷ niệm, bảo vật quốc gia. Một số chỉ tiêu đánh giá tài nguyên du lịch là: - Tính hấp dẫn: Tính hấp dẫn là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá tài nguyên du lịch vì nó quyết định sức thu hút khách du lịch. Độ hấp dẫn có tính chất tổng hợp rất cao và thường được xác định bằng vẻ đẹp của phong cảnh, sự thích hợp của khí hậu, sự đặc sắc và độc đáo của tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. - Tính an toàn: Là chỉ tiêu thu hút du khách đảm bảo sự an toàn về sinh thái và xã hội, được xác định bởi tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, vệ sinh môi trường. - Tính bền vững: Tính bền vững nói lên khả năng bền vững của các thành phần và bộ phận tự nhiên trước áp lực của hoạt động du lịch và các hiện tượng tự nhiên tiêu cực như thiên tai. - Tính thời vụ: Thời vụ hoạt động du lịch được xác định bởi số thời gian thích hợp nhất trong năm của các điều kiện khí hậu và thời tiết đối với sức khỏe của du khách và số thời gian trong năm thuận lợi nhất cho việc triển khai các hoạt động du lịch. Tính thời vụ của tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến hướng khai thác đầu tư quy hoạch kinh doanh du lịch được đánh giá cho tài nguyên tự nhiên và nhân văn. - Tính liên kết. 1.1.1.5. Các loại hình du lịch Các hoạt động du lịch rất phong phú và đa dạng. Tùy theo yêu cầu và mục đích khác nhau mà hoạt động đó được phân loại thành các loại hình khác nhau. Các loại hình du lịch chủ yếu là: - Theo nhu cầu của khách: du lịch văn hóa, du lịch nghỉ dưỡng, thể thao, chữa bệnh, MICE… - Theo lãnh thổ hoạt động: du lịch nội địa, du lịch quốc tế - Theo vị trí địa lý: du lịch biển, núi, du lịch đô thị, du lịch đồng quê… - Theo thời gian: du lịch ngắn ngày, dài ngày, cuối tuần… - Theo lứa tuổi: thanh niên, gia đình… - Theo phương tiện sử dụng: du lịch bằng ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay, xe đạp… - Theo hình thức tổ chức: du lịch cá nhân, theo đoàn… 1.1.2. Chức năng của du lịch 1.1.2.1. Chức năng xã hội Du lịch giải quyết việc làm cho nhiều lao động, cải thiện đời sống nhân dân. Du lịch có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, phục hồi sức khỏe của con người. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ, tăng cường sức sống và khả năng lao động của con người. Du lịch có khả năng góp phần tái tạo sức lao động của con người thông qua nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe thể chất và tinh thần. Hàng năm, đa số tổ chức và doanh nghiệp đều thực hiện những kỳ nghỉ ngắn ngày và dài ngày nhằm phục hồi sức khỏe, gắn kết thành viên. Ngoài ra, nhờ có sự phát triển của du lịch, nhiều di sản văn hóa, lịch sử của các dân tộc được quảng bá, nhiều người biết đến hơn. Điều này đã tạo ra một nguồn thu có thể được dùng cho mục đích tôn tạo các di sản đó, đồng thời nâng cao ý thức của cư dân sở tại về việc bảo tồn các di sản. 1.1.2.2. Chức năng kinh tế Du lịch không chỉ là ngành “xuất khẩu tại chỗ” mà còn là ngành “xuất khẩu vô hình” mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, góp phần tăng thu nhập quốc dân, đa dạng hóa và thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Du lịch khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó là sự tăng dần tỉ trọng ở khu vực dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế, trong đó có du lịch. Có thể khẳng định rằng du lịch là một lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn so với các ngành kinh tế khác. 1.1.2.3. Chức năng sinh thái Du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ và khôi phục môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và các hoạt động của con người. Du lịch tạo cho con người có điều kiện hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, thấy được giá trị của tự nhiên đối với đời sống con người, là bằng chứng thực tiễn phong phú góp phần tích cực vào việc giáo dục môi trường. Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt, xã hội đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động xâm hại của dòng khách du lịch cũng như của việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ du lịch. Như vậy, giữa du lịch và bảo vệ môi trường có mối quan hệ qua lại với nhau. 1.1.2.4. Chức năng chính trị Du lịch là phương tiện hữu hiệu để giáo dục về truyền thống dân tộc, về lòng yêu quê hương đất nước. Du lịch cũng là nhân tố mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc, thúc đẩy giao lưu quốc tế, củng cố hòa bình giữa các quốc gia. Du lịch quốc tế khiến cho những con người ở những vùng khác nhau trên thế giới hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau và tạo tình hữu nghị giữa các dân tộc. 1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển du lịch 1.1.3.1. Vị trí địa lý Đây là một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển du lịch. Vị trí địa lý bao gồm vị trí địa lý về mặt tự nhiên (các chỉ tiêu về giới hạn tọa độ, giới hạn lãnh thổ…) và vị trí địa lý kinh tế - xã hội, chính trị. Đối với hoạt động du lịch, có hai yếu tố về vị trí cần xét đến là điểm đến nằm trong khu vực phát triển về du lịch ở mức độ nào và khoảng cách từ điểm đến tới nơi phát sinh cầu du lịch ngắn hay dài. 1.1.3.2. Tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa - lịch sử cùng các thành phần của chúng có sức hấp dẫn du khách đã, đang và sẽ được khai thác, cũng như bảo vệ nhằm đáp ứng nhu cầu của du lịch một cách hiệu quả và bền vững. - Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và mối liên hệ giữa chúng được lôi cuốn vào để phục vụ cho mục đích du lịch. Các yếu tố tự nhiên bao gồm: địa hình, nguồn nước, khí hậu, sinh vật là các yếu tố có ảnh hưởng nhất đến hoạt động du lịch. Trong tài nguyên du lịch tự nhiên thì các di sản thiên nhiên thế giới, công viên địa chất có ý nghĩa quan trong trong phát triển du lịch. - Tài nguyên du lịch nhân văn do con người tạo ra, hay nói cách khác, nó là đối tượng và hiện tượng được tạo ra một cách nhân tạo. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho tài nguyên du lịch nhân tạo có những đặc điểm khác biệt nhiều so với nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên. Theo Luật du lịch Việt Nam (2005) quy định tại điều 13, chương II: “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”. Trong tài nguyên du lịch nhân văn thì các di sản văn hóa vật chất và phi vật thể được UNESSCO công nhận, bảo tồn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển du lịch. 1.1.3.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội và chính trị a) Dân cư và lao động Dân cư và lao động là nguồn lực quan trọng của nền sản xuất xã hội. Cùng với hoạt động lao động, dân cư còn có nhu cầu nghỉ ngơi và du lịch. Số dân càng đông thì số người tham gia vào các hoạt động du lịch càng nhiều. Việc nắm vững số dân, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, sự phân bố và mật độ dân có có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch. Ngoài ra, cần nghiên cứu cơ cấu dân cư theo nghề nghiệp, lứa tuổi để xác định nhu cầu nghỉ ngơi du lịch. b) Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Nền sản xuất xã hội càng phát triển thì nhu cầu về du lịch của dân cư càng lớn, chất lượng dịch vụ càng đa dạng. c) Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội Du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng chỉ có thể phát triển được trong bầu không khí hòa bình, ổn định trong tình hữu nghĩ giữa các dân tộc. Ngược lại, du lịch có tác dụng ngược trở lại đến việc củng cố hòa bình. Thông qua du lịch quốc tế, con người thể hiện nguyện vọng của mình được sống, lao động trong hòa bình và tình hữu nghị. Điều kiện đảm bảo về y tế trước các dịch bệnh cũng ảnh hưởng lớn đến tâm lý và nhu cầu của du khách. Bên cạnh đó, các tai biến thiên nhiên (động đất, sóng thần…) gây mất an toàn cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách du lịch của cac quốc gia, vùng lãnh thổ. d) Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không gian trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra đời và phát triển du lịch. Nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch mang tính chất kinh tế - xã hội và là sản phẩm của sự phát triển xã hội, đó là nhu cầu của con người về khôi phục sức khỏe và khả năng lao động, thể chất và tinh thần bị hao phí trong quá trình sống. e) Cách mạng khoa học – công nghệ và xu hướng hội nhập quốc tế Những tiến bộ tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trong thế kỷ XX và sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa là những yếu tố trực tiếp làm nảy sinh nhu cầu và hoạt động du lịch. f) Đô thị hóa Trong quá trình đô thị hóa, bên cạnh những đóng góp tích cực, còn rất nhiều mặt trái làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người như tiếng ồn, lao động căng thẳng… Từ những mặt trái đó, nghỉ ngơi, giải trí trở thành một trong những nhu cầu không thể thay thế được của người dân thành phố. Nhu cầu này đã làm xuất hiện một loạt các loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch ngắn ngày đã trở nên phổ biến. g) Điều kiện sống Du lịch chỉ có thể phát triển khi mức sống của con người đạt tới trình độ nhất định. Một trong những yếu tố then chốt là mức thu nhập thực tế của mỗi người trong xã hội. Không có mức thu nhập cao thì khó có thể nghĩ đến việc nghỉ ngơi, du lịch. Nhìn chung, ở các nước phát triển có mức thu nhập bình quân trên đầu người cao, nhu cầu và hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ. h) Thời gian rỗi Du lịch trong nước và quốc tế không thể phát triển được nếu con người thiếu thời gian rỗi. Nó thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động du lịch. Thời gian rỗi là thời gian cần thiết để con ngưuời nâng cao học vấn, phát triển trí tuệ, hoàn thành các chức năng xã hội, tiếp xúc với bạn bè và vui chơi giải trí. 1.1.3.4. Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là tiền đề cần thiết cho sự phát triển của bất cứ ngành kinh tế nào, du lịch cũng không ngoại lệ bởi nó cần phải có các nền tảng thuận lợi để phục vụ du khách, bao gồm: - Hệ thống giao thông vận tải - Hệ thống thông tin liên lạc - Hệ thống điện và cấp thoát nước 1.1.4. Các hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch Hệ thống phân vị trong phân vùng du lịch được sử dụng rất khác nhau giữa các nước. Đối với nước ta, trong Báo cáo Quy hoạch tổng thể Du lịch Việt Nam đến năm 2010, các nhà khoa học đã đưa ra 5 cấp phân vị trên quy mô lãnh thổ quốc gia bao gồm: điểm du lịch - trung tâm du lịch - tiểu vùng du lịch - á vùng du lịch - vùng du lịch. Điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005) còn đưa thêm khu du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch trong thực tế ở quy mô nhỏ hơn như cấp tỉnh. Trong khuôn khổ đề tài có đề cập đến một số hình thức chính sau: 1.1.4.1. Điểm du lịch “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Điểm du lịch có thể phân thành hai loại: điểm tài nguyên và điểm chức năng. Điểm du lịch quốc gia phải đủ các điều kiện sau: có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 100 nghìn lượt khách tham quan một năm. Điểm du lịch địa phương phải đủ các điều kiện: có tài nguyên du lịch hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 10 nghìn lượt khách tham quan một năm. 1.1.4.2. Tuyến du lịch “Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở liên kết dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Như vậy, để phát triển các tuyến du lịch thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống giao thông và xây dựng các điểm nhấn là các điểm du lịch có sức thu hút. Tuyến du lịch về mặt không gian lãnh thổ có thể chia làm nhiều loại như: tuyến du lịch quốc gia nối các điểm, các khu du lịch có ý nghĩa quốc gia, với các cửa khẩu quốc tế; tuyến du lịch nội vùng; tuyến du lịch liên vùng; các tuyến du lịch địa phương, nội tỉnh… 1.1.4.3. Khu du lịch “Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường”. (Luật Du lịch Việt Nam, 2005) Hiện nay, ở nước ta phổ biến các khu du lịch được xây dựng trên nền tảng các cảnh quan tự nhiên hấp dẫn, các di tích hoặc cụm di tích văn hóa – lịch sử, nơi có các danh lam thắng cảnh… và xây dựng thêm các công trình nhân tạo khác để phục vụ nhu cầu ăn, nghỉ và vui chơi của du khách. 1.1.4.4. Trung tâm du lịch Đây là một cấp hết sức quan trọng. Đặc trưng của trung tâm du lịch là nguồn tài nguyên du lịch tương đối tập trung và được khai thác một cách cao độ. Trung tâm du lịch có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật tương đối đầy đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để đón, phục vụ và lưu khách lại trong một thời gian dài. Trung tâm du lịch có quy mô nhất định về mặt diện tích, có thể tương đương với lãnh thổ cấp tỉnh hay một thành phố trực thuộc tỉnh. Có hai loại trung tâm du lịch, đó là trung tâm có ý nghĩa quốc gia (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng) và trung tâm có ý nghĩa địa phương (như Cần Thơ…). 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực tiễn phát triển du lịch ở Việt Nam Nước ta nằm trong khu vực Đông Nam Á, nơi đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nói chung và du lịch nói riêng. Vì thế nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Bên cạnh vị trí thuận lợi, nước ta còn có sự đa dạng về nguồn tài nguyên. Bao gồm cả tài nguyên về tự nhiên như bãi biển, hang động, sinh vật hay nhiều cảnh quan thiên nhiên độc đáo điển hình…; tài nguyên nhân văn có các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, phong tục tập quán, các làng nghề thủ công truyền thống, sự đa dạng về bản sắc văn hóa của các dân tộc… Đây là điều kiện để nước ta phát triển nhiều loại hình du lịch với nhiều sản phẩm khác nhau, trong thời gian dài ngắn khác nhau. Ngành du lịch nước ta chỉ thực sự chuyển biến mạnh mẽ và trở thành một ngành kinh tế khi đất nước tiến hành đổi mới, đặc biệt từ những năm 90 của thế kỷ XX. Đảng và Nhà nước đã khẳng định “Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” và coi “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu từng bước đưa nước ta thành trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực” (Chỉ thị số 46 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam). Sự phát triển của du lịch gắn bó mật thiết với dòng khách du lịch. Trước hết là dòng khách quốc tế đến nước ta ngày càng tăng. Cuối năm 1994, lần đầu tiên nước ta đón người khách quốc tế thứ 1 triệu, mở đầu cho sự gia tăng mạnh. Nếu năm 2000, lượng khách quốc tế đến Việt Nam mới đạt 2,1 triệu lượt khách thì đến năm 2010, con số này đã tăng hơn 2 lần, đạt 5,05 triệu lượt khách. So với các nước Đông Nam Á, Việt Nam đứng hàng thứ 6 về số khách du lịch quốc tế đến (sau Thái Lan, Malaixia, Singapo, Indonexia, Philippin). Qua một số cuộc khảo sát đã đưa ra 5 lý do để khách lựa chọn đến Việt Nam, đó là: giá cả hàng hóa và dịch vụ thấp (49%), phong cảnh thiên nhiên (44%), văn hóa Việt Nam (41%), du lịch mạo hiểm (38%) và con người thân thiện. Đây là điều đáng mừng với du lịch nước ta, nhưng cũng là điều rất đáng lo ngại vì phần lớn khách du lịch quốc tế đến nước ra chỉ một lần, 85% không muốn quay trở lại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này như thiếu hụt cơ sở vui chơi giải trí, trình độ của lao động du lịch còn thấp… Vì thế, ngành cần có những giải pháp để khắc phục những nhược điểm trên. Trong cơ cấu nguồn khách thì khách nội địa luôn chiếm vị trí áp đảo. Do mức sống của một bộ phận dân cư được cải thiện nhờ thích ứng với cơ chế thị trường. Nên sau những ngày lao động căng thẳng, họ cần nghỉ ngơi, du lịch để phục hồi sức khỏe. Chính vì thế số khách du lịch nội địa ở nước ta tăng liên tục, từ 11,2 triệu lượt khách năm 2000 lên 28 triệu lượt khách vào năm 2010. Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà còn gián tiếp đối với những ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương. Doanh thu du lịch tăng trưởng nhanh và liên tục qua các năm. Nếu năm 2000, doanh thu mới đạt hơn 17 nghìn tỷ đồng, thì đến năm 2010 đã đạt khoảng 96 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 5 lần. Số lượng cơ sở lưu trú cũng tăng cả về chất lượng và số lượng. Năm 2010, ngành du lịch Việt Nam có khoảng 11.000 cơ sở lưu trú với hơn 200 nghìn buồng. Phương tiện vận chuyển khách du lịch phát triển đa dạng cả đường ô tô, đường sắt, đường hàng không, đường thủy và dần được hiện đại hóa. Một số khu nghỉ dưỡng, sân golf, công viên chuyên đề và cơ sở giải trí được đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu của du khách và nhân dân. Toàn ngành đã chú trọng xây dựng phát triển nhiều loại hình du lịch, các tuyến du lịch mới cả đường bộ, đường sông, đường biển, nối các điểm du lịch, khu du lịch ở miền núi, cao nguyên, đồng bằng, vùng ven biển và hải đảo. Hình thành các loại hình du lịch mới, đặc thù… Chú trọng khai thác giá trị nhân văn giàu bản sắc dân tộc, tổ chức các cuộc thi để nâng cao chất lượng sản phẩm. 1.2.2. Thực tiễn phát triển du lịch vùng Trung du và miền núi phía Bắc Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là nơi hội tụ đầy đủ nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc, mang đậm các đặc trưng cơ bản về đất nước và con người Việt Nam. Nhiều điểm du lịch nổi tiếng như Đền Hùng, Điện Biên, Sa Pa, Ba Bể, Bản Giốc, cao nguyên dá Đồng Văn….đã và đang là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có những nét riêng biệt không hề có ở các vùng lãnh thổ khác trên đất nước ta. Vùng này bao gồm nhiều dãy núi trùng điệp, hùng vĩ như dãy núi Hoàng Liên Sơn được mệnh danh là "mái nhà của Đông Dương", với đỉnh cao nhất là Phanxipang 3.142m và hàng chục đỉnh núi khác có độ cao trên dưới 3.000m. Những dãy núi nơi đây có đặc điểm bị chia cắt rất mạnh và có tính phân bậc, vì thế tạo nên nhiều cảnh quan đẹp và di tích tự nhiên bao gồm các thác nước, những thung lũng mở rộng và vực thẳm. Ngoài Sa Pa là thị trấn du lịch nổi tiếng nằm ở độ cao 1.500m thuộc tỉnh Lào Cai, các địa danh khác như cao nguyên Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Đồng Văn, Quản Bạ (Hà Giang), Bắc Hà (Lào Cai), Mộc Châu (Sơn La)...được ví như bức tranh tuyệt tác vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng, có đầy đủ mọi điều kiện tự nhiên thuận lợi để xây dựng các khu du lịch miền núi. Bên cạnh đó, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ còn có những rừng cọ, đồi chè, vườn cây ăn quả, những đỉnh đồi lượn sóng theo thung lũng và cánh đồng ngát xanh men theo các dòng sông đỏ nặng phù sa, tạo nên một cảnh sắc thân thuộc gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam. Bằng vẻ hùng vĩ cộng với không gian khoáng đạt, cảnh vật tĩnh mịch, êm đềm và môi trường trong lành, vùng này đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ và cảm xúc sâu đậm cho mọi du khách. Mặt khác, nơi đây còn có thêm những hệ thống hang động của địa hình Karst thuộc vùng núi đá vôi. Các nhà khoa học đã phát hiện hơn 20 hang có giá trị khảo cổ thời kỳ đồ đá, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Lai Châu và Hòa Bình. Ngoài giá trị thiên nhiên, các hang động này còn có các sự tích hoặc gắn với các sự kiện lịch sử như Hang Pắc Bó (Cao Bằng). Du lịch sinh thái tập trung chủ yếu ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên vốn rất phong phú gồm 49 khu bảo tồn tự nhiên, 5 vườn quốc gia và 20 khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường, với những danh lam thắng cảnh hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, hồ Thác Bà, lòng hồ sông Đà, Thác Bản Giốc, Thác Bạc...Đặc biệt, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ rất có ý nghĩa về lịch sử cội nguồn. Nhiều di tích gắn bó với truyền thuyết và lịch sử dân tộc như Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Hùng (Phú Thọ); di tích lịch sử gắn với từng giai đoạn cách mạng như Hang Pắc Bó (Cao Bằng), Cây đa Tân Trào và An toàn khu ở Tuyên Quang, Di tích lịch sử Điện Biên Phủ... đang tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc trên vùng đất này phát triển mạnh về du lịch để xóa nghèo vươn lên làm giàu bền vững. Các sản phẩm du lịch, dịch vụ nổi bật của vùng là: - Du lịch sinh thái: Các vườn, hồ (Hoàng Liên, Ba Bể, Núi Cốc,…), công viên đía chất (cao nguyên đá Đồng Văn); - Du lịch lịch sử - văn hóa: Đền Hùng, Điện Biên Phủ, ATK, văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc,… - Du lịch thể thao-mạo hiểm: Leo núi Fanxipan, vượt thác ghềnh trên hệ thống sông Hồng, các tuyến du lịch dã ngoại Các khu du lịch quốc gia (có vai trò động lực thúc đẩy phát triển du lịch vùng TDMNBB): Pác Bó, Bản Giốc (Cao Bằng); Ba Bể (Bắc Kạn); cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang); Điện Biên Phủ- Pá Khoang- Mường Phăng (Điện Biên); Sa Pa (Lào Cai); Thác Bà (Yên Bái); Hồ Hòa Bình (Hòa Bình), Đền Hùng (Phú Thọ); ATK (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn); Định Hóa (Thái Nguyên); Mộc Châu (Sơn La). Hình thành các tuyến du lịch gồm: - Các tuyến du lịch quốc gia và quốc tế gồm: + Lạng Sơn-Hà Nội-các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ (sau đây viết tắt là các tỉnh ĐBBB). + Cao Bằng-Bắc Kạn-Thái Nguyên-Hà Nội-các tỉnh ĐBBB. + Hà Giang (Đồng Văn) - Tuyên Quang - Phú Thọ - Hà Nội- các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. + Tây Bắc - Hà Nội - các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. + Côn Minh (Trung Quốc) - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. + Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng-Quảng Ninh. - Các tuyến nội vùng gồm: + Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên (Điện Biên Phủ) - Lai Châu - Lào Cai (Sa Pa) -Yên Bái - Hà Giang - Cao Bằng-Lạng Sơn. + Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên (Điện Biên Phủ) -Yên Bái (Yên Bình) -Bắc Kạn (Ba Bể) - Lạng Sơn (Đồng Mỏ). + Thái Nguyên - Ba Bể - Cao Bằng (Bản Giốc) - Lạng Sơn. + Bắc Giang - Lạng Sơn - Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên - Tuyên Quang - Hà Giang. + Sơn La - Điện Biên (Điện Biên Phủ) - Lai Châu - Lào Cai (Sa Pa). + Phú Thọ (Việt Trì)-Yên Bái-Lào Cai (Sa Pa). + Phú Thọ (Việt Trì)-Sơn La-Điện Biên (Điện Biên Phủ)-Lào Cai (Sa Pa). Nhằm tạo ra sự liên kết du lịch giữa các tỉnh trong vùng, các chương trình phát triển du lịch đã được thực hiện khá bài bản trong những năm gần đây. Chương trình “Qua miền Tây Bắc - Sơn La 2011” được tổ chức tại huyện Mộc Châu từ ngày 27/8-2/9 với sự tham gia của ngành du lịch 8 tỉnh Tây Bắc gồm: Sơn La, Hoà Bình, Yên Bái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Phú Thọ. Nhiều hoạt động du lịch hấp dẫn sẽ được triển khai trong dịp này như: Khảo sát cung đường du lịch Tây Bắc; tổ chức các tour, điểm du lịch điển hình tại khu du lịch Quốc gia Mộc Châu, Yên Châu, Mường La như các tour hang động, tham quan lòng hồ thuỷ điện lớn nhất Đông Nam Á, tour bản làng…; hội trại văn hoá và hội chợ thương mại với các gian hàng trưng bày và bán các sản vật địa phương. Lần đầu tiên, tỉnh Sơn La giới thiệu sản phẩm du lịch sinh thái, cộng đồng và du lịch văn hóa lịch sử, tạo điểm nhấn liên kết vùng miền giữa các tỉnh miền núi Tây Bắc (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu). Để giới thiệu quảng bá loại hình du lịch này một cách rộng rãi, Sơn La đã xây dựng ý tưởng và mời các tỉnh bạn như Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu cùng tham gia liên kết thực hiện chương trình du lịch mang tên “Qua miền Tây Bắc”. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chương trình “Du lịch qua những miền di sản” lần thứ nhất được tổ chức tại tỉnh Hà Giang năm 2009, lần thứ 2 tại tỉnh Tuyên Quang năm 2010. Mặc dù mới hình thành khối liên kết hợp tác nhưng Chương trình du lịch qua những miền di sản 4 tỉnh bước đầu đã gặt hái được một số kết quả đáng khích lệ như: Năm 2009, doanh thu hoạt động du lịch của 4 tỉnh đạt gần 2.000 tỷ đồng, năm 2010 doanh thu đạt trên 2.500 tỷ đồng; công tác tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng không ngừng được đẩy mạnh; chất lượng hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch từng bước được nâng cao; số lượng các nhà đầu tư, khách du lịch đến hợp tác, tham quan, nghỉ dưỡng ngày một tăng góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở các địa phương. Đồng thời bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, di sản văn hoá các dân tộc của các tỉnh. Từ hiệu quả của việc mở rộng hợp tác phát triển du lịch, ngày 13/8/2010, tại Hội nghị xúc tiến Chương trình hợp tác phát triển du lịch 6 tỉnh: Cao Bằng - Bắc Kạn- Lạng Sơn - Thái Nguyên - Tuyên Quang - Hà Giang, đại diện lãnh đạo Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch 6 tỉnh đã họp bàn và ký kết biên bản ghi nhớ làm cơ sở tham mưu cho UBND các tỉnh về công tác phát triển du lịch trên địa bàn. Trong đó thống nhất việc đề xuất với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa 2 tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn tham gia vào cụm hợp tác phát triển du lịch. Tiếp đó tại văn bản số 692/TCDL-LH ngày 12/7/2011 của Tổng cục Du lịch Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã chấp thuận cho 2 tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn tham gia nhóm hợp tác phát triển du lịch vùng cùng với các địa phương trên để tạo thành vùng du lịch Chiến khu Việt Bắc. Chương 2 TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH HÀ GIANG 2.1. Khái quát chung về Hà Giang 2.1.1. Vài nét về lịch sử Hà Giang Đất Hà Giang xưa thuộc bộ Tân Hưng một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Về sau, Hà Giang nằm trong phạm vi thế lực của ba Tộc tướng xứ Thái. Trong giai đoạn Minh thuộc đầu thế kỷ XV, được gọi là huyện Bình Nguyên, đổi thành châu Bình Nguyên từ năm 1473, sau lại đổi tên thành châu Vị Xuyên Vào cuối thế kỷ XVII, tộc trưởng người Thái dâng đất cho Trung Hoa, đến năm 1728, Trung Hoa trả lại cho Đại Việt một phần đất từ vùng mỏ Tụ Long đến sông Lô. Năm 1895, ranh giới Hà Giang được ấn định lại như trên bản đồ ngày nay. Tỉnh Hà Giang được thành lập ngày 20/8/1891 theo Quyết định của Toàn quyền Đông Dương. Trước năm 1975, Hà Giang có các huyện Đồng Văn, Vị Xuyên, Xín Mần, Yên Minh, Hoàng Su Phì, Bắc Quang, Thanh Thủy và Quản Bạ. Năm 1976, tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang sát nhập thành tỉnh Hà Tuyên. tỉnh Hà Giang tái thành lập ngày 1/10/1991 theo Nghị quyết của kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa VIII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay, tỉnh có 1 thành phố Hà Giang và 10 huyện: Bắc Mê, Bắc Quang, Hoàng Su Phì, Mèo Vạc, Đồng Văn, Quảng Bạ, Quảng Bình, Vị Xuyên, Xín Mần, Yên Minh với 22 dân tộc anh em cùng chung sống. 2.1.2. Tổng quát về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Hà Giang là một tỉnh biên giới phía Bắc của tổ quốc Việt Nam, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Phía Bắc giáp 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Tây giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Tại điểm cực bắc Lũng Cú của lãnh thổ thuộc tỉnh Hà Giang có vĩ độ 23015’00”, điểm cực nam có vĩ độ 2101’0”. Điểm cực tây tại Xín Mần có kinh độ 104024'05” và mỏm cực đông tại Mèo Vạc có kinh độ l05030’04”. Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Hà Giang (Nguồn: Tập bản đồ hành chính Việt Nam, NXB Bản đồ, H, 2010) Toàn tỉnh có 22 dân tộc với dân số trên 724.353 người (thời điểm 1/4/2009). Hiện nay, Hà Giang có 11 huyện, thị và 195 xã, phường, thị trấn, có đường biên giới dài trên 274km tiếp giáp với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế và thu hút đầu tư đồng thời phát triển du lịch bề vững. Tổng diện tích đất tự nhiên: là 7.914,88 km2, tỉnh Hà Giang là một quần thể núi non hùng vĩ, địa hình hiểm trở, bị chia cắt mạnh mẽ, độ cao trung bình từ 800 đến 1.200m so với mực nước biển. Phía Tây với dải núi cao Tây Côn Lĩnh án ngữ và Cao nguyên đá Đồng Văn ở phía Bắc đã tạo cho Hà Giang có địa thế cao dần về phía Tây Bắc, thấp dần về phía Đông Nam. Địa hình chia cắt nhiều, do đó hình thành các tiểu vùng mang những đặc điểm khác nhau về độ cao và khí hậu Lãnh thổ Hà Giang phân hóa thành ba tiểu vùng với những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khác biệt, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng: - Vùng I: Là vùng cao núi đá phía bắc, gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và Quản Bạ. Diện tích toàn vùng là 2.356,0 Km2, dân số trên 25,6 vạn người, chiếm xấp xỉ 35,3% dân số toàn tỉnh. Đặc điểm chung của vùng là địa hình núi đá có độ đốc lớn, điều kiện khí hậu rét đậm về mùa đông, mát mẻ về mùa hè nên rất thích hợp với việc phát triển các loại cây ôn đới như cây dược liệu thảo quả, đỗ trọng; cây ăn quả như mận, đào, lê, táo... Cây lương thực chính ở vùng này là cây ngô. Chăn nuôi chủ yếu là bò, dê, ngựa và nuôi ong. Những giống gia súc trên đây là giống riêng của khí hậu cận nhiệt đới, có đặc điểm to khỏe và chịu được rét. - Vùng II: Là vùng cao núi đất phía tây gồm 02 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.217,3 km2; dân số trên 11,6 vạn người, chiếm 16,2% dân số toàn tỉnh. Đặc điểm chung của địa hình là núi đất dốc, có nhiều nguồn nước thuận lợi cho sinh hoạt và canh tác lúa nước, phát triển nghề rừng và trồng cây ăn quả cận nhiệt như đào, lê, mận…. Cây lương thực chính vùng này là lúa nước và ngô. Chăn nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và các loại gia cầm.Vùng này là vùng đất của chè Shan tuyết và chủ nhân lâu đời của nó là người Dao, một dân tộc có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây chè núi lâu đời. - Vùng III: Là vùng núi thấp gồm các huyện: Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang là vùng trọng điểm kinh tế của Hà Giang. Diện tích tự nhiên 4.372,6 km2; dân số trên 35,1 vạn người, chiếm 48,5% số dân của tỉnh. Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt đới, thuận lợi cho việc phát triển nghề rừng, trồng các loại cây nguyên liệu giấy như bồ đề, mỡ, thông và đây cũng là vùng tre, nứa, vầu, luồng lớn nhất trong tỉnh ... Ngoài ra, đây còn là vùng trồng các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt, chanh ... Do địa hình phức tạp đã tạo cho Hà Giang có nhiều sông, suối, hồ phục vụ đời sống cư dân và thuận tiện cho tưới tiêu đồng ruộng. Ngoài những sông chính chảy qua địa phận tỉnh Hà Giang là sông Lô, bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) chảy qua Thanh Thuỷ, Thị xã Hà Giang và sông Gâm bắt nguồn từ Trung Quốc qua Cao Bằng, Bắc Mê chảy xuống Tuyên Quang, còn có một số sông ngắn và nhỏ chảy trong tỉnh như đoạn nguồn sông Chảy, sông Nho Quế, sông Miện, sông Bạc, sông Chừng cùng với nhiều suối to, nhỏ nằm xen giữa núi rừng. Sông ở Hà Giang có độ nông sâu không đều, độ dốc lớn nhiều thác ghềnh, không thuận lợi cho giao thông đường thuỷ, nhưng đó cũng là nguồn nước chính phục vụ cho sinh hoạt, tưới tiêu đồng ruộng, đảm bảo môi trường sinh thái.  2.2. Tài nguyên du lịch 2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên 2.2.1.1. Địa hình, địa chất Nằm tựa vào dãy núi Hoàng Liên Sơn với dải Tây Côn Lĩnh và cao nguyên Đồng Văn tạo cho Hà Giang dáng địa hình cao dần về phía Tây Bắc, thấp dần về phía Đông Nam. Độ cao trung bình của tỉnh từ 800 - 1200 m so với mặt nước biển, chỗ thấp nhất là thung lũng sông Lô (cao 80 - 100 m) và nơi cao nhất là đỉnh Tây Côn Lĩnh (cao 2.419 m). Nhìn chung diện tích Hà Giang không rộng, nhưng do ảnh hưởng của yếu tố địa hình nên mật độ tập trung các ngọn núi cao khá dày đặc với khoảng 10 ngọn núi có độ cao từ 500 - 1.000 m; 24 ngọn núi cao từ 1.000 - 1.500 m; 10 ngọn núi cao từ 1.500 - 2.000 m; 5 ngọn núi cao từ 2.000 m trở lên. Hà Giang là một tỉnh thuộc Trung du miền núi Bắc bộ, địa hình khá phức tạp, có thể chia 3 vùng. Vùng cao núi đá phía bắc, có độ dốc khá lớn, thung lũng và sông suối bị chia cắt nhiều. Vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp. Vùng thấp trong tỉnh gồm vùng đồi núi, thung lũng sông Lô và thành phố Hà Giang. Núi đá vôi Hà Giang có đặc điểm phân bố gần như song song với nhau và kéo dài theo hướng tây bắc- đông nam, điển hình là từ Đồng Văn đến Vị Xuyên. Tỉnh có 4 quần thể núi cao, mỗi quần thể được đặc trưng bởi 1 ngọn cao nhất: Quần thể Đồng Văn - Mèo Vạc là đỉnh 1901m (cách Mèo Vạc 13 km về phía bắc), quần thể Quản Bạ - Bắc Mê có đỉnh 2274m (Pu Tha Ca), quần thể vòm nâng song Chảy có đỉnh 2419( Tây Côn Lĩnh) và quần thể giữa vòm nâng sông Chảy là đỉnh 2402( Kiều Liên Ti). Những quần thể núi đá này có hướng đông bắc - tây nam đã tạo ra đường phân thủy, hình thành nên các con sông uốn lượn theo những sườn núi của Hà Giang. Tương phản với hành lang cao của Hà Giang là 2 thung lũng lớn: Bắc Quang - Cốc Pàng ở phía tây nam và Sâu Dang ở phía bắc( thuộc đất Trung Quốc). Với địa hình đa dạng núi đá cao đồ sộ xen kẽ giữa thung lũng và những dòng sông uốn lượn quanh co theo chân núi, tất cả đã tạo nên sức hấp dẫn cho khách du lịch tới đây thám hiểm thưởng ngoạn cảnh sông nước mây trời nơi địa đầu tổ quốc. Bốn huyện vùng cao núi đá tỉnh Hà Giang gồm các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và Quản Bạ, có tổng diện tích tự nhiên. 2.356,0 Km2. Bốn huyện nằm trọn vẹn trong một phạm vi lãnh thổ phía bắc tỉnh Hà Giang Địa hình của 4 huyện vùng cao chủ yếu là núi đá có xen lẫn núi đất bị chia cắt mạnh, núi cao, vực sâu; độ cao tuyệt đối phổ biến từ 800m - 1.200m so với mặt nước biển. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Phần lớn các xã đều nằm trên các sườn núi đá vôi có độ dốc lớn và là thượng nguốn của sông Miện và sông Nho Quế. Do địa hình phức tạp nên giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, khả năng khai thác đất đai phát triển nông nghiệp và khai thác nguồn nước cho sản xuất, sinh hoạt có nhiều hạn chế, đồng thời cũng tạo thành các tiểu vùng khí hậu khác nhau. 2.2.1.2. Khí hậu Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và là miền núi cao, khí hậu Hà Giang về cơ bản mang những đặc điểm của vùng núi Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn, song cũng có những đặc điểm riêng, mát và lạnh hơn các tỉnh miền Đông Bắc, nhưng ấm hơn các tỉnh miền Tây Bắc . . .Nhiệt độ trung bình cả năm khoảng 21,60C - 23,90C, biên độ nhiệt trong năm có sự dao động trên 100C và trong ngày cũng từ 6 - 70C. Mùa nóng nhiệt độ cao tuyệt đối lên đến 400C (tháng 6, 7); ngược lại mùa lạnh nhiệt độ thấp tuyệt đối là 2,20C (tháng l). Chế độ mưa ở Hà Giang khá phong phú, toàn tỉnh đạt bình quân lượng mưa hàng năm khoảng 2.300 - 2.400 mm, riêng Bắc Quang hơn 4.000 mm, là một trong số trung tâm mưa lớn nhất nước ta. Dao động lượng mưa giữa các vùng, các năm và các tháng trong năm khá lớn. Năm 2001, lượng mưa đo được ở trạm Hà Giang là 2.253,6 mm, Bắc Quang là 4.244 mm, Hoàng Su Phì là 1.337,9 mm... Tháng mưa cao nhất ở Bắc Quang (tháng 6) có thể đạt trên 1.400 mm, trong khi đó lượng mưa tháng 12 ở Hoàng Su Phì là 3,5 mm, ở Bắc Mê là 1,4 mm. . .Độ ẩm bình quân hàng năm ở Hà Giang đạt 85% và sự dao động cũng không lớn. Thời điểm cao nhất (tháng 6,7,8) vào khoảng 87 - 88%, thời điểm thấp nhất (tháng l,2,3) cũng vào khoảng 81%: Đặc biệt ở đây ranh giới giữa mùa khô và mùa mưa không rõ rệt. Hà Giang là tỉnh có nhiều mây (lượng mây trung bình khoảng 7,5/10, cuối mùa đông lên tới 8 - 9/10) và tương đối ít nắng (cả năm có 1.427 giờ nắng, tháng nhiều là 181 giờ, tháng ít chỉ có 74 giờ). Nét nổi bật của khí hậu Hà Giang là độ ẩm trong năm cao, mưa nhiều và kéo dài, nhiệt độ mát và lạnh, đều có ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. Cao nguyên đá Đồng Văn có độ cao trung bình từ 700 - 1000 m, trong đó có nhiều đỉnh cao trên 2000m; khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình năm 200C - 230C, một số nơi xuống đến 0oC. Lượng mưa trung bình năm 1400mm nhưng do địa hình kaster nên nước mưa nhanh chóng thẩm thẩu xuống các hang động ngầm, độ ẩm trung bình 80 %. Khí hậu của vùng khá khắc nhiệt, thời tiết có nhiều biến động bất thường, những tháng mùa đông thường có sương muối và mưa phùn, thậm chí có tuyết và băng giá. Mùa mưa thường có mưa đá, gió lốc, lũ quét gây sạt lở đất ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân trong vùng. Nhìn chung, khí hậu mang sắc thái ôn đới và cận nhiệt đới, thích hợp với các loại cây trồng có nguồn gốc ôn đới, có ưu thế trồng cây dược liệu, cây ăn quả, sản xuất hạt rau giống, nuôi ong mật, chăn nuôi bò, dê… 2.2.1.3. Đặc điểm thuỷ văn và nguồn nước Các sông lớn ở Hà Giang thuộc hệ thống sông Hồng. Ở đây có mật độ sông, suối tương đối dày. Hầu hết các sông có độ nông sâu không đều, có độ dốc lớn, nhiều ghềnh thác, ít thuận lợi cho giao thông. Những sông lớn chảy qua Hà Giang như sông Chảy, sông Gâm và sông Nho Quế đều chảy theo hình chữ “S” ngược. Sông Lô là một sông lớn ở Hà Giang, bắt nguồn từ Lưa Lung (Trung Quốc), qua biên giới Việt - Trung gần Thanh Thủy. Sông chảy qua thành phố Hà Giang đến Làng Hung. Từ Làng Hung đến Ngô Khê thì đổi hướng chảy theo đông bắc bắc - tây tây nam. Đây là nguồn cung cấp nước sông chính cho vùng trung tâm tỉnh. Sông Gâm bắt nguồn từ vùng Nghiêm Sơn, Tây Trù (Trung Quốc), chảy qua mỏm cực bắc gần Lũng Cú đến Mèo Vạc, chừng 30km thì chuyển theo hướng đông bắc - tây nam, rồi theo hướng bắc nam đến gần thị xã Tuyên Quang mới nhập vào sông Lô. Đây là nguồn cung cấp nước chính cho phần đông của tỉnh. Sông Chảy bắt nguồn từ sườn tây nam đỉnh Tây Côn Lĩnh 2419 và sườn đông bắc đỉnh Kiều Liêu Ti 2042m, rồi chảy tiếp một đoạn chừng 50km gần tới Mường Khương (Lao Cai). Tại đây, sông ngoặt theo vòng cung chữ “V” chảy theo hướng đông nam một đoạn dài 75km qua Bảo Yên, rồi Lục Yên về Đoan Hùng. Mật độ các dòng nhánh ở đây cao (1,1km/km2), hệ số tập trung nước đạt (2,0km/km2). Mặc dù chỉ đoạn đầu nguồn thuộc địa phận tỉnh nhưng là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho khu vực phía tây của Hà Giang. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh Hà Giang còn có các sông ngắn và nhỏ hơn như sông Nho Quế, sông Miện, sông Bạc, sông Chừng, nhiều khe suối lớn nhỏ cung cấp nước phục vụ cho sản xuất và đời sống dân cư. 2.2.1.4. Sinh vật Hà Giang một địa danh du lịch với những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, những nét sinh hoạt truyền thống lâu đời đặc sắc của đồng bào các dân tộc mà nhiều khách du lịch còn chưa biết đến. Một trong những thế mạnh khác của Hà Giang chính là tài nguyên du lịch sinh thái. Trước hết phải kể đến thảm thực vật phong phú và đa dạng cùng nhiều chủng loại quý hiếm như: các loại cây dẻ, re, ngát, sến, lim, sồi, gụ, lim…, các loại động vật hoang dã như hổ, báo, hoẵng, gấu ngựa, gấu chó, sơn dương, lợn rừng, khỉ cùng các loại chim quý, bò sát…. Chính đây là nguồn lợi đáng kể đóng góp vào kinh tế địa phương đồng thời cũng là tiềm năng để xây dựng những khu bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học. Hà Giang được xếp vào hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên điển hình của hệ rừng núi đá điển hình của đông bắc Việt Nam. Các khu hệ thực vật Hà Giang phong phú, bước đầu có thể nhận ra 5 khu hệ như sau: - Khu vòm nâng sông Chảy, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền 2 nhóm đá chính là macma axit và đá biến chất với thành phần chủ yếu là gnai, amphibolit, phiến thạch anh và mica. Sườn núi dốc trung bình 25 - 350. Những nơi đá phiến phát triển thì sườn ít dốc hơn. Có thể xếp địa hình nơi đây vào kiểu núi khối tảng dạng vòm trên nền nguyên sinh phân cắt mạnh. Độ phân cắt sâu: 300 - 450 m, chia cắt ngang 0,3 – 0,4 km/km2. Lượng mưa trung bình khoảng 3000 mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 9. Sườn đông nam và tây nam mưa nhiều hơn các sườn khác. Lớp phủ thổ nhưỡng khá phức tạp, chủ yếu là mùn màu vàng đỏ. Rừng thuộc kiểu á nhiệt đới, lá rộng thường xanh. Trừ một vài loại cây lá kim còn chủ yếu là thuộc họ Sồi dẻ, Thích, Lau sau, Chè… - Khu Quản Bạ -Vị Xuyên, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền 3 nhóm đá chính là trầm tích đá hạt mịn bị biến chất đến tướng đá lục hoặc lục yếu, đá vôi, sét vôi và đá lục nguyên hạt vừa và mịn. Sườn dốc trung bình 30 – 350, đôi nơi trên 350. ở nơi có đá lục nguyên hạt mịn thì độ dốc giảm đi 18 – 280. Địa hình khu này có thể xếp vào kiểu núi khối tảng trên nền nguyên sinh bị phân cắt rất mạnh. Nhiều nơi độ phân cắt sâu 300 – 500 m và chia cắt ngang 0,25 – 0,4 km/km2. Lượng mưa hang năm khoảng 3000mm. Sườn đông nam mưa nhiều hơn sườn tây bắc. Trên 75% diện tích là đất mùn đỏ và mùn xám xẫm. Thảm thực vật phong phú, thuộc kiểu rừng á nhiệt đới thường xanh. - Khu Đồng Văn – Mèo Vạc, lớp thổ nhưỡng được hình thành trên nền đá vôi bị phân háo mạnh. Sườn dốc trung bình 25 – 350, nhiều nơi dốc đứng. Địa hình thuộc kiểu karst. Thảm thực vật chủ yếu là loại cây thấp, mật độ thưa, 75% diện tích đất đỏ xẫm hoặc vàng xẫm. Rừng thuộc kiểu á nhiệt đới, cây trên núi đá vôi, có mặt của trai, nghiến. - Khu tây bắc Vĩnh Tuy có khuynh hướng ôm lấy vòm nâng sông Chảy ở phía tây nam và đông nam. Đặc trưng địa hình là đồi núi thấp, núi gò sót. Sườn dốc ít, trung bình 12 – 250. Lượng mưa rất lớn, Bắc Quang là một trung tâm mưa lớn nhất nước ta, hàng năm đạt 5000mm. Nhiều loại cây như tre, nứa, bương vàng và các loại cây lá rộng phát triển mạnh. Lớp đất phủ thổ nhưỡng chủ yếu là nhóm đất màu xám xẫm hơi đen, chiếm 65% diện tích. Rừng đặc trưng cho rừng á nhiệt đới, lá rộng thường xanh. Bên cạnh những thảm động thực vật phong phú ở những huyện vùng thấp tạo nên dáng vẻ và cảnh quan hấp dẫn cho du khách khi mới lên tới Hà Giang thì cảnh quan vùng cao ở Hà Giang cho đến nay vẫn mang đậm nét hoang sơ, thuần khiết. Đấy là một địa hình karst tiêu biểu với bạt ngàn những dãy núi đá tai mèo nhấp nhô ở các huyện phía Bắc, hay những dãy núi đất hùng vĩ với những thửa ruộng bậc thang nối tiếp nhau ở những huyện miền Tây và cùng cả một hệ thống những thác nước, hang động đẹp không chỉ có giá trị về cảnh quan mà còn chứa đựng những dấu ấn di tích lịch sử, khảo cổ học. Bên cạnh đó Hà Giang nổi tiếng được biết đến với những cổng trời cao vời vợi mà đến đó ta có cảm giác như đang cưỡi mây cưỡi gió và thấy mình thật nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Tất cả đang chờ đợi du khách khám phá khi đến với Hà Giang. 2.2.1.5. Các cảnh quan du lịch tự nhiên a) Đèo Mã Pì Lèng Mã Pì Lèng dịch ra từ tiếng Mông nghĩa đen là sống mũi ngựa. Dịch ý, thì đây là con đèo hiểm trở đến mức ngựa đi qua cũng phải bạt vía lạc hơi. Mã Pì Lèng được biết đến là con đèo dài thứ 2 trong “tứ đại đỉnh đèo” hùng vĩ vào bậc nhất nước ta. Đỉnh nối liền Đồng Văn và Mèo Vạc (Hà Giang), nằm vắt mình trên những dãy núi đá của miền cao nguyên, nơi có những vách đá dựng đứng, nơi có dòng Nho Quế trong xanh uốn mình qua từng khe núi ở độ cao 1.600m đến 1.800m, có nơi cao đến 2.000m so với mặt nước biển, một bên là vực sâu thẳm một bên là sườn núi dốc dựng đứng. Nơi đây thấm bao mồ hôi nước mắt của công nhân lao động được huy động từ các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái nguyên, Tuyên quang và Hà Giang trong vòng 11 năm phải treo mình trên dây để đục đá hình thành lên con đường hạnh phúc, hiện đã đầu tư xây dựng chiếu nghỉ để cho du khách dừng chân chụp ảnh dòng sông Nho Quế thơ mộng và tạo cho du khách một cảm giác mạnh. Con đường hình thành vòng vèo quanh lưng núi, nơi có vực đá bên sông Nho Quế là hẻm vực sâu và hùng vĩ nhất Đông Nam Á. Hẻm vực sông Nho Quế sâu khoảng 800m, đứt gãy địa chất này được hình thành vào kỷ Kainozoi, cách đây khoảng 32 triệu năm đến 15 triệu năm theo cơ chế trượt bằng trái. Cách đây khoảng 5 triệu năm, đứt gãy hoạt động theo cơ chế trượt bằng phải, tạo nên hẻm vực hiện nay. Hiện nay, Mã Pì Lèng là một điểm đến không thể thiếu khi tham quan công viên địa chất Đồng Văn (thuộc tỉnh Hà Giang, được công nhận là công viên địa chất toàn cầu vào ngày 3/10/2010). Trên địa bàn, dân cư chủ yếu là người Mông trắng với bản sắc văn hóa độc đáo, hầu như nguyên sơ. b) Cao nguyên đá Đồng Văn Cao nguyên đá Đồng Văn có diện tích gần 2.350km², nằm trải rộng trên địa bàn 4 huyện vùng cao của tỉnh Hà Giang gồm Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn. Cao nguyên Đồng Văn có tới 80% diện lộ đá vôi với 11 hệ tầng địa chất, trong đó Chang Pung là hệ tầng cổ nhất có niên đại 545 triệu năm. Ở đây còn có 17 nhóm hóa thạch giúp các nhà khoa học hoàn chỉnh bức tranh lịch sử phát triển địa chất vùng cao nguyên đá Đồng Văn nói riêng và khu vực đông bắc Việt Nam - nam Trung Quốc nói chung. Do có sự đa dạng địa chất cao cùng với sự thay đổi của khí hậu nên quá trình tiến hóa karst ở Cao nguyên đá Đồng Văn diễn ra liên tục, tạo ra các “vườn đá”, “rừng đá” vô cùng phong phú như: vườn đá Khâu Vai, vườn đá Lũng Pù thuộc huyện Mèo Vạc… và hệ thống hang động kỳ vĩ như: hang Rồng ở Sảng Tủng (Đồng Văn), hang Khố Mỷ ở Tùng Vài (Quản Bạ), động Én ở Vần Chải (Đồng Văn)… Cao nguyên đá Đồng Văn còn được các nhà khoa học đánh giá là vùng có hệ địa - sinh thái núi đá độc đáo và đa dạng. Quần xã rừng nguyên sinh ở đây còn tương đối nguyên vẹn, có nhiều gỗ, lâm sản và các loài thuốc quý. Đây cũng là môi trường sống của các loài động vật hoang dã, tạo nên nét đẹp tự nhiên, sinh động của vùng cao nguyên. Bên cạnh những giá trị về địa chất, địa mạo, cảnh quan, cao nguyên đá Đồng Văn còn chứa đựng những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc. Ngày 3/10/2010, tại Lesvos (Hy Lạp), Cao nguyên đá Đồng Văn đã được Hội đồng tư vấn mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu công nhận là thành viên chính thức của mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu (GGN - Global Network of National Geoparks) dựa trên giá trị nổi bật về cảnh quan, có sinh địa tầng, địa chất, địa mạo, văn hóa của các dân tộc trên cao nguyên đá. Như vậy, Cao nguyên đá Đồng Văn đã trở thành công viên địa chất đầu tiên của Việt Nam và thứ hai ở khu vực Đông Nam Á (sau Công viên địa chất Langkawi - Malaysia). c) Núi Đôi - Cổng trời Quản Bạ Thuộc thị trấn Tam Sơn và xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, cách thành phố Hà Giang 46km về phía Bắc. Ra khỏi thành phố Hà Giang đường lên Quản Bạ hiểm trở với hai bên đều núi cao vút. Vượt qua con đèo khúc khủy tới đỉnh đèo cao 1.500m so với mực nức biển là cổng trời Quản Bạ. Đứng giữa cổng trời, du khách có dịp dừng chân chiêm ngưỡng Núi Đôi Quản Bạ, với “đôi gò Bồng Đào” do thiên tạo với dáng vẻ cân đối. Đây là một cảnh quan karst độc đáo của thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ và của cả khu vực cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc. Cũng bắt đầu từ đây là cánh đồng Quản Bạ thấp, phẳng, vì thế càng tạo không gian thoáng đãng cho “đôi gò” nhô cao, bay bổng. Theo đánh giá của các nhà khoa học địa chất thì Núi Đôi được cấu tạo bằng đá Đôlômít. Do quá trình phong hóa đá lăn đồng đều theo sường núi làm lùi dần sườn và hạ thấp dần đỉnh núi. Cuối cùng tạo nên hình nón như hiện nay. Đá Đôlômít bị phong hóa (do quá trình tự vỡ) thành các hạt sạn và cát rất dễ dàng di chuyển theo sườn xuống dưới chân do trọng lực và nước chảy tràn trong mùa mưa. Đặc biệt, còn đóng vai trò trọng trong việc hình thành hình nón của Núi Đôi nói riêng và của các ngọn núi có hình chóp nón nói chung là có sự đan xen của các đứt gãy, hướng khác nhau làm đá bị phá hủy dễ dàng hơn. Núi Đôi thuộc kỷ Đệ Tứ - có niên đại cách ngày nay khoảng 1,6 triệu đến 2 triệu năm trở lại đây. Ngoài Núi Đôi ra còn có một mực cao hơn gồm các đồi dạng nón được hình thành theo con đường tương tự nhưng ở giai đoạn cổ hơn, thể hiện rõ nhất là ba ngọn núi đang tồn tại ở khu vực thị trấn Tam Sơn hiện nay. Danh thắng Núi Đôi Quản Bạ xếp hạng quốc gia ngày 16/11/2009. d) Khu rừng nguyên sinh Vần Chải Thuộc xã Vần Chải - huyện Đồng Văn, đây là khu rừng nguyên sinh rộng khoảng 500ha với những thân cây cổ thụ mọc chen giữa các tảng đá lớn, con đường đi xuyên qua rừng được xếp bằng những khối đá lớn theo kiểu bậc thang dẫn lên đỉnh núi. Đứng trên đỉnh núi phóng tầm mắt nhìn ra xung quanh, du khách sẽ thấy vẻ đẹp của thiên nhiên với một thung lũng khá bằng phẳng, một khu rừng xanh tốt với nhiều loài thực vất phong phú. Đặc bệt, nằm trong khu rừng nguyên sinh này có hang Tướng phỉ Vàng Vạn Ly, cách huyện lỵ UBND Đồng Văn khoảng 4km, nằm trên núi Tùng Tò Sá cao gần 2000m. Nơi đây đã gắn liền với tên tuổi của người anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Sùng Dúng Lù, một mình dũng cảm vào hang đá gọi Tướng phỉ Vàng Vạn Ly ra hàng. đ) Rừng nguyên sinh Đèo Gió, Thác Tiên Thuộc xã Nấm Dẩn - huyện Xín Mần, là nơi thượng nguồn con sông Chảy với chiều dài qua huyện 40km. Rừng nguyên sinh Đèo Gió ở độ cao 1400m so với mặt nước biển, hệ sinh thái rừng phong phú có nhiều loài động, thực vật, đặc biệt có nhiều loài gỗ quý hiếm sinh trưởng gần 500 tuổi. Dòng suối đầu nguồn trong, mát giữa rừng đã tạo nên một Thác Tiên thơ mộng huyền bí, khí hậu mát mẻ trong lành là khu du lịch lí tưởng cho các du khách thập phương đến tham quan . e) Hồ Noong Cách thành phố Hà Giang chừng 17 km, thuộc xã Phú Linh. Đối với người dân địa phương, hồ Noong được ví như “con mắt của rừng”, với diện tích mặt nước rộng khoảng 20 ha, nằm giữa cánh rừng nguyên sinh rộng gần 100 ha bao quanh khiến cho hồ Noong có cảnh sắc hoang sơ kỳ thú. Điểm đặc biệt của hồ Noong là những gốc cây xanh tốt hoặc những gốc cây khô mọc lên từ trong lòng hồ. Mùa mưa có thể đi thăm hồ bằng bè còn mùa khô thì nước nông đến nỗi chỉ có thể đứng trên bờ chụp ảnh. Hồ Noong vừa có thể nuôi trồng thuỷ sản, vừa có thể trồng trọt. Vào mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10), nước dâng cao nên tổng diện tích mặt hồ có thể rộng khoảng 80 ha, đây là thời điểm thích hợp để thả cá (đặc biệt là các loại cá tiến vua như cá Dầm xanh, cá Anh vũ), nuôi vịt. Du khách đến đây có thể đi bè ra hồ câu cá, thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ nơi và thưởng thức những món ăn đặc sản của núi rừng nơi địa đầu tổ quốc. Vào mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau), diện tích mặt nước thu hẹp chỉ còn khoảng 20 - 30 ha, trong lòng hồ thời điểm này chỉ còn một số cây vẫn đang mọc xanh tốt, một số cây chỉ còn trơ lại gốc khô tạo nên một cảnh quan khá thú vị.  f) Bãi đá cổ Nấm Dẩn Được phát hiện vào năm 2004 bởi các nhà khoa học Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hà Giang. Khu di tích đá cổ chạm khắc các hình vẽ có cách đây cả nghìn năm nằm trong một thung lũng rộng thuộc địa phận xã Nấm Dẩn – huyện Xín Mần. Khác với di tích đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai), bãi đá cổ Nấm Dẩn còn được ít người biết đến nhưng vẻ đẹp của các hình vẽ và những điều bí ẩn xung quanh các phiến đá thì không kém phần hấp dẫn và lôi cuốn. Các di tích cự thạch này nằm giữa dãy núi Tây Ðản và dãy núi đồi Nấm Dẩn, ngay gần sát với con suối Nậm Khoòng. Nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm dọc bờ suối với hình thù đa dạng và độc đáo. Có tảng đá như một bàn cờ phẳng, có tảng lại giống tấm phản nằm hay một chiếc ghế ngồi. Trên bề mặt và ở các rìa cạnh của tấm đá vẫn giữ được nguyên trạng phong hóa tự nhiên. Nhân dân trong vùng gọi khu vực này là Nà Lai (ruộng nhiều chữ) vì trên một số tảng đá có khắc hình, chữ. Các hình khắc vẽ rất đa dạng, mang vẻ đẹp riêng trong phong cách tạo hình của nghệ thuật cổ. Ngoài hơn 80 hình khắc vẽ, trên bề mặt tảng đá còn có khoảng 80 lỗ vũm, được khoét với đường kính trung bình 5 - 6cm, sâu 1 - 2cm, các vũm phân bố chủ yếu ở đầu phía tây của tảng đá. Mỗi tảng đá là một điều bí ẩn, gắn với những câu chuyện ly kỳ mang dấu ấn tín ngưỡng, thể hiện sự linh nghiệm cầu ứng các đấng thần linh của nhân dân các dân tộc thiểu số trong vùng. Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích nghệ thuật tạo hình thời tiền sử còn tìm thấy khá ít. Theo các nhà KH, di tích cự thạch Nấm Dẩn có niên đại khoảng 2000 năm. Đây có thể là di tích mộ của thủ lĩnh cộng đồng hoặc là khu đất thiêng, thờ cúng thần linh, tổ tiên và các nhân vật lỗi lạc của cộng đồng dân cư. Ngoài ra, di tích cự thạch Nấm Dẩn còn có khả năng liên quan đến tục thờ thần đá của các cư dân tiền sử. Bãi đá cổ Nấm Dẩn có giá trị đặc biệt về văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng và giá trị nghiên cứu khoa học cao. Nơi đây chứa đựng tiềm năng du lịch rất lớn và là một địa điểm tham quan rất thú vị cho du khách. Thời gian tới, đang có khá nhiều hãng lữ hành có ý định đưa di tích này trở thành điểm đến trọng điểm trong chương trình du lịch đi bộ, thăm các bản làng ở Hà Giang. h) Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì Danh thắng ruộng bậc thang thuộc huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích cấp quốc gia. Di tích ruộng bậc thang Hoàng Su Phì nằm trên địa bàn 6 xã Bản Luốc, Sán Sả Hồ, Bản Phùng, Hồ Thầu, Nậm Ty và Thông Nguyên. Đây là những xã có danh lam thắng cảnh ruộng bậc thang tiêu biểu, được đánh giá vào loại đẹp nhất Việt Nam với lịch sử hàng trăm năm, do đồng bào các dân tộc La Chí, Dao, Nùng tạo nên bằng chính bàn tay lao động cần cù và sáng tạo của mình. Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì không chỉ mang những giá trị về mặt vật chất mà còn mang nhiều giá trị về lịch sử, văn hoá và giá trị thẩm mỹ cao. Những thửa ruộng bậc thang nơi đây không chỉ là tư liệu sản xuất mà còn là minh chứng rõ ràng nhất về lịch sử cư trú từ bao đời nay của đồng bào các dân tộc trên vùng đất Hoàng Su Phì. Với việc được công nhận là Di tích cấp quốc gia, ruộng bậc thang Hoàng Su Phì sẽ trở thành một trong những điểm thu hút du khách trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng những công trình độc đáo và mang đậm nét văn hóa của bà con vùng cao Hà Giang. 2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 2.2.2.1. Các di tích lịch sử Văn hóa a) Cột cờ Lũng Cú (Đồng Văn) Cột cờ Lũng Cú cách trung tâm huyện lỵ Đồng Văn 24 km. Đây là điểm du lịch mang ý nghĩa lịch sử và thiêng liêng đối với khách du lịch nội địa. Đỉnh Lũng Cú được ví như “Vầng trán kiêu hãnh của Tổ Quốc”. Đánh dấu điểm cực Bắc của đất nước, đứng trên đỉnh Lũng Cú có thể nhìn bao quát cảnh quan xung quanh thể hiện cảnh quan rất đẹp và hùng vĩ. Cột cờ cao 29.5m, có hình dáng cột cờ Hà Nội: chân, bệ có 6 mặt phù điêu mang nét hoa văn của trống đồng Đông Sơn. Cán cờ cao 9m, lá cờ Tổ Quốc có chiều dài 9m, chiều rộng 6m, diện tích 54m2 tung bay trên đỉnh núi rồng lộng gió tượng trưng cho 54 dân tộc anh em biệt, là biểu tượng sức mạnh, lòng tự tôn, tự hào, tinh thần kiêu hãnh, ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đường lên đỉnh núi cột cờ được xây lại gồm 283 bậc theo lối cũ,đồng thời xây mới thêm 283 bậc đi xuống. Thân cột cờ có hệ thống thanh bộ lên đỉnh. Ngày 25/9/2010, sau 7 tháng thi công cột cờ Lũng Cú mới hoàn thành. Đây chính là công trình trào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ 15, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội và Đại hội Toàn quốc lần thứ XI. Việc đầu tư xây dựng cột cờ quốc gia Lũng Cú có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, ngoại giao, khẳng định về mặt chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đồng thời tạo điểm nhấn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Lũng Cú nằm trên đỉnh của Cao nguyên đá Đồng Văn. Đứng ở chân cột cờ phóng tầm mắt bao quát ra vùng biên giới của Tổ Quốc Việt Nam. Xa xa là bản Lô Lô và con sông Nho Quế uốn lượn, phân chí ranh giới Việt Trung. b) Phố cổ Đồng Văn Thị trấn Đồng Văn nằm trên cao nguyên đá ở độ cao trung bình từ 1000m - 1600m so với mực nước biển, cách thành phố Hà Giang 160 km. Ở đây có một khu phố và chợ cổ có lối liền trúc hàng trăm năm tuổi với một vẻ đẹp cổ kính, thâm trầm. Phố cổ nằm ở trung tâm thị trấn Đồng Văn ( xưa thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Vân, tỉnh Tuyên Quang). Khi mới hình thành đầu thế kỷ XX, khu phố này chỉ gồm vài gia đình người Mông, Tày, Hoa sinh sống. Khi vào đây chiếm đóng, người Pháp có những quy hoạch lại và để lại những điểm nhấn quan trọng về quy hoạch và kiến trúc, đặc biệt là chợ Đồng Văn xây bằng đá trong những năm 1920, gần như còn nguyên vẹn đến ngày nay. Chợ phiên Đồng Văn họp vào các ngày chủ nhật hàng tuần. Vì vậy mà cứ các tối thứ 7 trước phiên chợ từng đôi trai, gái người Dao, Mông…lại đưa nhau về đây dạo chơi, thổi kèn, uống rượu và múa hát. Từ năm 2006, huyện Đông Văn đã tổ chức “Đêm phố cổ” vào các ngày 14,15,16 âm lịch hàng tháng. Trong “Đêm phố cổ” các hộ dân ở đây đều treo đèn đỏ, đồng thời tổ chức một số hoạt động mang đậm bản sắc khác như trưng bày thổ cẩm dân tộc, trình diễn và bày các món ăn truyền thống của các dân tộc với kỳ vọng thu hút khách du lịch giống như cách người Hội An đã làm. c) Dinh họ Vương Dinh họ Vương nằm trên địa bàn xã Xà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách huyện lỵ Đồng Văn chừng 24 km. Đây là một công trình kiến trúc đẹp, hiếm có và rất độc đáo của vùng cao nguyên này. Đường vào dinh chỉ dốc thoai thoải, được lát bằng những phiến đá lớn, vuông vức, bằng phẳng. Dinh được bao bọc bởi hai bức tường thành xây bằng đá, dày khoảng 60cm đến gần 1m, cao từ 2,5 đến 3m. Vòng thành trong dày và kiên cố hơn vòng thành ngoài. Cả hai vòng thành đều bố trí nhiều lỗ châu mai. Khoảng đất giữa hai tường thành rộng khoảng 50m, được trồng cây. Dinh có 10 ngôi nhà, 6 ngôi nằm cùng một hướng, 4 ngôi kia nằm theo hướng khác. Ngôi nhà chính quay mặt ra phía cổng. Các ngôi nhà đều được làm bằng gỗ quý từ cột, kèo, sàn, vách. Mái nhà lợp bằng ngói máng.  Tại ngôi nhà chính còn lưu bức hoành phi với bốn chữ "Biên chinh khả phong" được vua Nguyễn ban cho. Các bức chạm trên đá, trên gỗ cho thấy sự tinh xảo và tài nghệ của người thợ. Công trình đã được xếp hạng di tích và bảo vệ từ năm 1993. Di tích này đáng để bạn dừng chân và quên đi mọi vất vả sau những chặng đường cheo leo hiểm trở. Công trình toát lên vẻ thâm nghiêm trong khung cảnh tĩnh mịch nơi vùng cao biên giới.  d) Tiểu khu Trọng Con Tiểu khu Trọng Con cách Thành phố Hà Giang khoảng 60 km về phía Nam ở tại Xã Bằng Hành, Huyện Bắc Quang, Tỉnh Hà Giang (đã được Nhà nước xếp hạng năm 1996). Năm 1945, thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí: Lê Quảng Ba, Bế Triều, Nam Long cùng đội vũ trang tuyên truyền tiến về tổng Bằng Hành xây dựng lực lượng cách mạng đặt tên là Tiểu Khu Trọng Con. Tiểu Khu Trọng Con là cái nôi của phong trào cách mạng ở Hà Giang. Từ đây phong trào cách mạng được nhân lên, lan rộng khắp các địa bàn của Tỉnh Hà Giang, từ vùng thấp đến các huyện vùng cao, Tiểu khu Trọng Con đã góp phần vào sự thắng lợi của Cách mạng, giải phóng Hà Giang trong thời gian ngắn, đưa nhân dân thoát khỏi cuộc sống kìm kẹp của thực dân Pháp, Phát xít Nhật cùng bè lũ tay sai. Tạo tiền đề cho sự phát triển tốt đẹp của phong trào cách mạng ở Hà Giang trong những thời kỳ lịch sử sau này. đ) Di tích lịch sử Kỳ Đài. Di tích nằm ở Trung tâm thành phố Hà Giang, nơi đây ngày 27/3/1961 đồng bào các dân tộc Hà Giang đã vinh dự được đón Bác Hồ thăm và nói chuyện thân mật. Di tích Kỳ Đài không những là công trình văn hóa, mà còn là nơi ghi dấu, gìn giữ những kỷ niệm về Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang, động viên khích lệ nhân dân Hà Giang làm theo lời Bác Hồ căn dặn, hăng hái tham gia sản xuất, đoàn kết một lòng theo Đảng xây dựng và bảo vệ quê hương Hà Giang ngày càng phát triển. Bia và Chuông chùa Sùng Khánh e) Căng Bắc Mê và hồ thủy điện Na hang – Bắc Mê Căng Bắc Mê là di tích lịch sử nằm trên địa phận Bản Sáp, Yên Phú, Bắc Mê, ở điểm cuối của quốc lộ 34 Hà Giang, Bắc Mễ. Năm 1938 thực dân Pháp lợi dụng nơi này lập trại giam để giam giữ các đồng chí cách mạng bị bắt nhưng chưa bị kết án, trong đó có đồng chí Xuân Thủy, Lê Giản, Nguyễn Văn Ngọc. Đây là điểm du lịch về nguồn hấp dẫn du khách. Hồ thuỷ điện Tuyên Quang là hồ nhân tạo được xây dựng với mục tiêu chính là sản xuất ra điện năng và thuỷ lợi. Việc ngăn sông đã tạo ra một vùng hồ rộng lớn bao gồm lưu vực của hai con sông chính là sông Gâm và sông Năng. Hồ có mực nước ở thời điểm cao nhất là trên 8.000ha. Hồ thuỷ điện Tuyên quang kết nối 3 tỉnh Hà Giang - Tuyên Quang - Bắc Kạn bằng đường thuỷ trên mặt hồ. 2.2.2.2. Nghề thủ công truyền thống a) Nghề dệt vải lanh của dân tộc Mông Cây Lanh là nguyên liệu dệt phổ biến của người Mông, người Mông có giống lanh địa phương đã được sử dụng rất lâu đời và được chính người mông và các dân tộc khác rất ưa chuộng về tính bền, đẹp và mặc rất ấm vào mùa đông mát về mùa hè, thích nghi với điều kiện khí hậu của vùng sinh sống nên người Mông ưa dùng lanh hơn và họ sống ở đâu là trồng lanh ở đó, cay lanh trở thành biểu trưng cho cuộc sống tinh thần của họ. Đồng bào Mông vốn có nghề truyền thống dệt vải thổ cẩm, nhà nào cũng có khung dệt vải, các sản phẩm chủ yếu phục vụ gia đình là vải váy áo, khăn, mũ...  Mô hình HTX dệt lanh xã Lũng Tám, huyện Quản Bạ, các sản phẩm của HTX là váy áo, khăn, chăn, gối, thảm, ví thổ cẩm, áo nam, túi, sắc, túi điện thoại... Thổ cẩm Lùng Tám với thế mạnh sẵn có của mình và sự khác biệt ở những điểm như: chất liệu của vải lanh, sợi dệt nguyên từ cây lanh, không có hóa chất pha tạp, vải thô, mát, sợi lanh mềm, hoa văn và cách bài trí trên tấm vải thể hiện nhiều hình tượng mang đậm phong cách văn hóa dân tộc Mông. Công nghệ dệt vải là thủ công bằng khung dệt, không có sự can thiệp của máy móc. Là yếu tố thu hút khách du lịch tìm mua thổ cẩm Lùng Tám. b) Nghề làm hàng mây tre đan Đan lát là một nghề thủ công vốn có từ lâu đời của các dân tộc ở Hà Giang. Nghề đan lát của các dân tộc ở Hà Giang đã từng có sự phát triển rất mạnh, với các chủng loại sản phẩm đa dạng về mẫu mã, phong phú về chức năng và cũng mang đặc điểm riêng của từng dân tộc, là những tác phẩm nghệ thuật. Vốn sinh sống trên các địa bàn vùng núi cao nên các dân tộc ở đây sử dụng các nguyên liệu chủ yếu là nứa, giang, vầu, tre gại, trúc, guột hay mây để làm ra các sản phẩm phục vụ khách du lịch. Sản phẩm dùng trong vận chuyển; Gùi (dân tộc Mông, Dao), quẩy tấu (dân tộc Mông), dậu gánh thóc (dân tộc Tày, Nùng)...hay trong sản phẩn làm đồ đựng: hòm đựng quần áo ( dân tộc La Chí, Dao) bồ đựng lúa, thúng, nong phơi (dân tộc Tày). Cũng như các nghề thủ công khác ở Hà Giang, thủ công nghiệp trong đời sống các dân tộc chỉ mang tính chất bổ trợ, như việc làm ra các đồ dùng phục vụ sinh hoạt phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân. khôi phục lại các làng nghề, ngành nghề truyền thống, bảo tồn, gìn giữ và phát huy các nét tinh hoa văn hóa dân tộc. c) Nghề chạm bạc của người Dao ở Hà Giang Ở dân tộc Dao, nghề chạm bạc là một tổ hợp những kỹ thuật tinh tế lại hết sức phức tạp, nên suốt mấy trăm năm, hàng mỹ nghệ người Dao vẫn luôn được lưu truyền với những thủ pháp kỹ thuật và nghệ thuật tinh xảo nhất. Hàng chạm bạc của người Dao khác hẳn và nổi trội so với hàng bạc của các dân tộc khác ở các kiểu thức lạ về hình khối, dáng vẻ sản phẩm, ở các đồ án trang trí mô tuýp hoa văn tinh vi mà cân đối, sử dụng thủ pháp xử lý sáng - tối nhờ tận dụng đặc tính phản quang của chất liệu bạc. Ðặc trưng của sản phẩm mỹ nghệ này là sự điêu luyện tế nhị và hoàn hảo tới mức tối đa. Có thể nói rằng tài năng và tính cẩn trọng của nghệ nhân chạm bạc dân tộc Dao đã đáp ứng được mọi yêu cầu sử dụng đồ chạm bạc của chính người dân và được các dân tộc khác ưa chuộng đặt hàng.  Trong trang phục của thiếu nữ Dao, thường sử dụng khá nhiều đồ trang sức bằng bạc. Mỗi thiếu nữ người Dao khi kết hôn đều được bố mẹ sắm cho 1 bộ trang sức bằng bạc gồm: vòng cổ, xà tích, vòng tai, lắc đeo tay, nhẫn, bộ lùi ton.. với trọng lượng có khi đến gần 4 kg. Tất cả các đồ trang sức này đều được chạm, khắc nhiều hoa văn rất đẹp thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Nghề chạm bạc truyền thống của người Dao ở Hà Giang đã có từ cách đây hàng trăm năm. Nhưng hiện nay, nghề truyền thống này chỉ còn tồn tại dải dác trong các hộ gia đình ở một số xã vùng sâu, vùng xa của huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần, Vị Xuyên, Yên Minh, Mèo Vạc, và có dấu hiệu mai một. và cũng chỉ còn một số ít những nghệ nhân cao d) Nghề làm khèn ở thôn Tả Cồ Ván Người Mông có rất nhiều loại nhạc cụ để sử dụng trong những ngày lễ, tết…trong đó cây khèn là nhạc cụ đặc trưng nhất của đồng bào. Khèn Mông đã trở thành một giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn. Hiện nay, đồng bào Mông vẫn lưu giữ được kỹ năng chế tác cây khèn. Thôn Tả Cồ Ván, xã Hố Quáng Phìn, huyện Đồng Văn là một trong những thôn ít ỏi vẫn còn giữ có nghề làm khèn truyền thống. Cả thôn có 128 gia đình người Mông sinh sống thì có gần 30 hộ thường xuyên làm khèn để bán. Để hoàn thành một chiếc khèn phải mất 8-10 ngày công. Trong đó nguyên liệu để làm khèn như: Gỗ để làm thân khèn, vỏ cây đào rừng để tạo thành các gióng quấn quanh thân khèn, lưỡi đồng đều phải đặt mua ở các huyện Quản Bạ, Yên Minh… Chỉ có nguyên liệu làm gióng khèn là thân cây trúc thì không phải mua vì bà con tự trồng được.  Một cây khèn với giá bán từ 200- 300 nghìn đồng, sau khi trừ đi chi phí mua nguyên liệu thì mỗi cây khèn mang lại thu nhập đáng kể, phụ cấp thêm vào sinh hoạt hằng ngày của gia đình. Không biết nghề làm khèn ở Tả Cồ Ván có từ bao giờ nhưng đến nay nó vẫn được các nghệ nhân gìn giữ và phát huy.  2.2.2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể Hà Giang là tỉnh miền núi phía Bắc Tổ quốc, nơi tập chung sinh sống của 22 dân tộc anh em, là nơi tập trung nhiều sắc thái văn hoá dân tộc, những phong tục tập quán và lễ hội độc đáo nơi đây đã tạo ra sự hấp dẫn cuốn hút riêng biệt cho mảnh đất này. a) Lễ hội chợ tình Khâu Vai Có thể thấy đây là một phiên chợ rất đặc biệt, gọi là chợ nhưng ở đây không có người mua cũng không có người bán, chỉ có chuyên tình yêu, là nơi gặp gỡ của người lỡ dở tình duyên và gần đây phiên chợ này còn là nơi trao gửi tình cảm của những đôi trai gái yêu nhau, bày tỏ tình cảm cho nhau. giờ đây còn là nơi gặp gỡ của tất cả mọi người đã có gia đình và chưa có gia đình. Những người tới với lễ hội mang trên mình những bộ trang phục đủ mầu sắc của người dân tộc Mông, Dao, Giáy, Tày, Nùng v.v. Khiến cả phiên chợ như một rừng hoa nhiều mầu. Đây là phiên chợ đặc biệt, chỉ tổ chức một năm một lần vào ngày 27 tháng 3 âm lịch hằng năm. Trai gái đến đây chỉ để nói trao những lời yêu thương. Già thì gặp bạn tình xưa, trẻ thì tìm người tình mới. Một khung cảnh thật ấm cúng và hạnh phúc. Người đàn ông ngồi thổi đàn môi, khèn bè; phụ nữ bên bếp lửa hát ví hát đối những điệu dân ca. Chợ tình Khâu Vai một nét văn hoá thật đẹp, luôn mang lại những điều hấp dẫn cho du khách tới thăm và cùng tham gia. b) Lễ hội nhảy lửa của dân tộc Pà Thẻn  Lễ hội nhảy lửa là một lễ hội được xem là một lễ hội mang đầy sự huyền bí, hoang sơ. Lễ hội được tổ chức vào hàng năm khi mùa màng đã thu hoạch xong. Trong phần lễ hội, đồng bào sẽ nhảy múa trên than hồng bằng đôi chân trần nhằm trừ ma tà, cầu cho mùa màng tươi tốt, gia súc đầy đàn, con cháu được khoẻ mạnh. Lễ vật cúng tế gồm một bát hương, một chiếc đàn sắt, một con gà, mười chén rượu, tiền giấy. Một đống lửa lớn được đốt lên và thầy mo bắt đầu làm lễ. thời gian làm lễ kéo dài 1h đến 2h đồng hồ. Sau khi cúng các thanh niên Pà Thẻn như được tiếp thêm sức mạnh và lòng quả cảm đầy thần bí, họ nhẩy vào đống than hồng trong vòng 3 - 4 phút, không hề sợ hãi hay cảm thấy bỏng rát gì. Một người có thể nhảy vào đống lửa 3, 4 lần và qua đó thể hiện sức mạnh, khéo léo của đồng bào dân tộc Pà Thẻn. Du khách đến với lễ hội có thể cùng tham gia để cảm nhận được sự huyền bí, hoang sơ và linh thiêng của lễ hội này. Đây cũng được coi là tâm điểm của du khách khi muốn khám phá những nét đẹp trong phong tục của người dân tộc miền núi phía Bắc nói chung. c) Lễ hội Gầu tào của người Mông Lễ hội Gầu tào là một lễ hội độc đáo của người dân tộc Mông. Lễ hội phong phú về thành phần tham gia có thể ở một gia chủ, nhiều gia chủ, về nơi tổ chức có thể ở một bản hoặc nhiều bản cùng chung sống tại một khu vực mà gia đình đã lựa chọn mỗi dịp Tết Nu Tra (tết Mông) hằng năm. Từ mùng 3 đến mùng 5 chọn ngày tốt, giờ tốt, chủ nhà tiến hành khai hội. Dưới chân cây nêu đã được chuẩn bị từ trước là một cây tre to cao chủ nhà chỉ nói một vài lời mang tính chất tuyên bố, ngay sau đó hát hội bắt đầu. Nội dung của lời bài hát chủ yếu là ngợi ca, chúc tụng hoặc giao duyên tình cảm. Ngoài ra còn có các trò chơi dân gian và các nội dung sinh hoạt văn hoá: hát giao duyên, sú giàng (khèn môi), sú kềng (thổi khèn bè), sinh tiền (múa gậy), sú kình (múa khèn). Sau màn múa hát, hằng trăm người toả khắp quả đồi, dưới đồng ruộng cạn, dọc đường đi .v.v. Với các lễ phục sắc mầu rực rỡ, vòng cổ, vòng tay lấp lánh, tiếng gọi cùng tiếng nói râm ran, đặc biệt nhiều loại nhạc cụ nhiều hình thức trên tay, trên vai v.v. Những màn múa hát này sẽ kéo dài đến hết lễ hội tuỳ theo kế hoạch mà gia chủ đề ra. Các loại hình sinh hoạt văn hoá của dân tộc Mông rất đa dạng và đặc sắc. Ở đó ta thấy thể hiện đúng chất Mông của vùng đất phía Tây. Tuy nhiên những thay đổi của xã hội ngày càng phức tạp thì những bản sắc văn hoá nguyên sơ của người dân tộc Mông có phần bị mai một, vì thế cần được bảo vệ và giữ gìn để phát huy hơn nữa đời sống tinh thần của đồng bào người Mông. d) Lễ cúng thần rừng của dân tộc Pu Péo Đây là lễ hội có từ lâu đời của dân tộc Pu Péo, tồn tại và phát triển cùng nhiều thế hệ người Pu Péo, là nét sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, gắn với đời sống triết lý đa thần của cư dân nông nghiệp như: Thần Suối, Thần Sông, Thần Núi, Thần Rừng, Thần Cây v.v. đã tạo ra sắc thái văn hoá riêng trong đời sống cộng đồng. Buổi lễ diễn ra ở khu rừng cấm - rừng thiêng ở đầu bản. Người Pu Péo luôn hiểu rằng, giữ rừng là giữ nước, cầu thần nước là cầu thần rừng. Bởi vậy, vào ngày tết trai gái ở bản Pu Péo nô nức kéo nhau ra suối gánh nước vàng, nước bạc vè nhà cầu may. Trong thời gian một ngày, với không khí lễ hội tưng bừng, đoàn kết. Phần lễ đã được các nghệ nhân dân gian dân tộc Pu Péo thực hiện nghiêm túc đảm bảo đúng yêu cầu truyền thống của lễ cúng thần rừng. Phần hội được nhân dân tham gia hưởng ứng sôi nổi, tham gia vào những trò chơi dân gian: nhảy cóc, đánh yến, kéo co v.v. Bên cạnh đó còn có các tiết mục múa hát các làn điệu dân ca, hát đối đáp được các nghệ nhân dân gian trình bày, nội dung các bài hát, điệu múa thể hiện phong phú cuộc sống hằng ngày của người dân tộc Pu Péo. đ) Lễ hội cầu mùa của dân tộc Dao Hàng năm cứ vào đúng ngày Tỵ tháng Giêng âm lịch, người dân tộc Dao lại chuẩn bị cho lễ hội truyền thống của dân tộc mình - lễ hội cầu mùa. với nghi thức hết sức đơn giản nhưng lễ hội cầu mùa mang một ý nghĩ hết sức sâu sắc và thiêng liêng đó là sự mở đầu cho một năm mùa màng bội thu, cầu mong mưa thuận gió hoà, mong mọi sự bình yên, thi đua bảo vệ rừng, phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, loại bỏ những hủ tục lạc hậu. Bên cạnh lễ hội cầu mùa, đồng bào người dân tộc Dao có một số tín ngưỡng về thần linh, ma quỷ và một số tục lệ thờ cúng truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, một trong những tục thờ cúng ấy là Lễ cấp sắc. Lễ cấp sắc được coi là một nghi lễ không thể thiếu trong vòng đời người dân tộc Dao, được tổ chức vào dịp cuối năm, và đây là lễ hội không thể thiếu dành cho người đàn ông dân tộc Dao và với người Dao người đàn ông khi được cấp sắc mới được coi là người đàn ông trưởng thành, được làm nghề cúng bái và được giao tiếp với cõi âm. e) Lễ hội cầu mưa của người Lô Lô Đây lễ hội cầu mưa của đồng bào Lô Lô mang tín ngưỡng phồn thực khá phổ biến của cư dân nông nghiệp. Đồ tế lễ trong trong hội cầu mưa phải có rượu, ngô, chó, gà, một thanh kiếm, một bát nước, bốn chén rượu, bốn ống hương bằng tre tượng trưng cho bốn phương trời. Cúng xong, dân bản cùng nhau múa hát xung quanh bàn lễ. Những làn điệu dân ca Tế Phua, Tế La, hồ La Tế v.v. ngày hội cầu mưa, là ngày hội mà nhiều người cùng gặp mặt nói chuyện với nhau: người già gặp nhau nói chuyện nhà, chuyện trồng cấy, chọn rể, chọn dâu. Thanh niên gặp nhau nói chuyên đôi lứa hẹn hò, đây cũng là dịp tìm người yêu qua câu hát giao duyên, bằng tiếng sáo cờ lé, sáo đôi. Các cô gái Lô Lô rực rỡ trong trang phục đầy mầu sắc, hoa văn kết hợp với nhiều đồ trang sức lóng lánh càng tôn thêm vẻ đẹp cho các cô gái. Mọi hình thức sinh hoạt của người Lô Lô trong ngày hội chủ yếu là tập trung cho lễ hội cầu mưa. Đồng bào Dao tâm nguyện, cầu khấn ước ao những hạt mưa rơi xuống tưới cho cánh đồng ngày càng xanh tốt, cầu cho dân bản ngày càng ấm no và hạnh phúc. Văn hoá Phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Hà Giang rất phong phú và đa dạng không chỉ bởi nó mang đặc trưng của nhiều dân tộc trên toàn tỉnh mà đó còn là bởi những điểm đặc biệt mà không ở đâu có được tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn cho những du khách tới thăm quan và cùng tham gia vào những lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc miền núi phía Bắc. Bản sắc văn hoá dân tộc vùng núi cao nguyên không chỉ là vẻ đẹp tinh thần của đồng bào các dân tộc mà còn là điểm hấp dẫn và thu hút sự quan tâm của du khách cùng các chuyên gia tới thăm quan, tìm hiểu đóng góp ý kiến cho sự phát triển của nền văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc, cần được giữ gìn và phát huy hiệu quả tiềm năng của tỉnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của Hà Giang trong tương lai f) Chợ vùng cao Chợ vùng cao phổ biến ở tất cả các huyện của tỉnh Hà Giang với nét văn hóa đặc sắc. Trong đó, chợ vùng cao Đồng Văn là một trong những điển hình. Chợ Đồng Văn thuộc xã Đồng Văn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Đến đây, du khách sẽ có dịp được chiêm ngưỡng phong cảnh núi rừng trùng điệp ngút tầm mắt và tìm hiểu thêm về lối kiến trúc Việt - Hoa của ngôi chợ cổ Đồng Văn. Chợ Đồng Văn là nơi giao thương của đồng bào các dân tộc như: Tày, Nùng, Hán, Mông, Hoa, Dao, Kinh… Chợ họp vào ngày chủ nhật hàng tuần và các ngày lễ, tết trong năm. Chợ nằm dưới chân núi Đồn Cao, ngay bên cạnh khu phố cổ Đồng Văn. Toàn khu chợ được thiết kế theo lối kiến trúc Việt - Hoa và có sự giao thoa rất tinh tế hợp với phong thủy miền cao nguyên: những dãy cột đá ba bốn người ôm được đục đẽo rất đẹp; khu chợ bề thế, vững chãi giữa lòng chảo thung lũng cao nguyên Đồng Văn như một nét chấm phá đầy ấn tượng. Từng đoàn người nô nức, dắt díu nhau về chợ: người đi bộ thì mang theo gùi rau, quả, lồng gà, lồng chim, con trâu, con bò; người đi xe đạp, xe máy thì ở đằng sau xe là những tải hàng hóa hay những chú lợn... còn những người khác thì xúng xính trong những bộ trang phục dân tộc từ các bản làng xa xuống chơi chợ. Tất cả có vẻ như đều rất phấn khởi, hồ hởi vì sau những ngày làm việc mệt mỏi, đến cuối tuần, họ lại được tụ họp tại đây để cùng trao đổi, thưởng thức những sản phẩm của vùng quê mình. 2.2.4. Văn hóa ẩm thực vùng cao Hà Giang Ẩm thực là một trong cá nhân tố tạo ra sức hấp dẫn du lịch. Đến với Hà Giang, du khách sẽ được thưởng thức các món ăn đặc trưng của vùng sơn cước và cùng với đó là được hòa vào trong văn hóa ẩm thực của đồng bào các dân tộc nơi đây. - Thắng cố: Nói đến Thắng cố, ai cũng biết đó là đặc sản, là một món ăn truyền thống của người dân tộc Mông ở các huyện vùng cao Hà Giang cũng như ở miền núi phía Bắc. Nếu người miền xuôi tự hào vì có phở, thì người miền núi cũng tự hào vì có thắng cố. Trời càng lạnh, thắng cố càng ngon, thêm bát rượu ngô ấm nồng với người miền núi thực không có gì sánh bằng. Thắng cố được chế biến từ nguyên liệu tổng hợp của con bò, dê vùng cao gồm: toàn bộ đầu, chân, các loại thịt bạc nhạc và nội tạng cùng các gia vị đặc sắc (thảo dược) ăn cùng với mèn mén, bánh ngô nướng, với người Mông, Thắng cố không chỉ là món ăn ngon, thể hiện sự khéo léo và sành ăn, mà còn là nét đẹp văn hóa của đồng bào - Mèn mén: Được chế biến từ nguyên liệu bột ngô xay vùng cao, sau nhiều công đoạn chế biến trở thành món ăn độc đáo và hấp dẫn. Hương thơm, vị đượm, rất bùi và ngậy. Món ăn này gắn bó với đồng bào vùng cao từ bao đời nay, đây là loại thực phẩm được dùng hàng ngày và trong các dịp lễ tết ăn rất ngon và no lâu. Mèn mén chế biến khá dễ dàng nhưng khi thưởng thức món ăn, phải theo một quy tắc ăn hợp lý thì mới cảm nhận được vị thơm ngon của món ăn. Đây là món ăn khô nên trong bữa ăn không thể thiếu bát nước canh (thường là canh rau cải, canh bí hoặc canh gà), cách ăn của người Mông là ăn từ từ, nhai kỹ và kèm theo nước canh hoặc thức ăn cùng một lúc, để tránh bị ngẹn. - Thịt bò khô Đồng Văn: Nguyên liệu chính là thịt bò sạch, có hàm lượng chất dinh dưỡng cao của cao nguyên đá Đồng Văn. Thịt bò tươi sau khi được ướp ủ các gia vị, treo hong khói để khô trên sàn bếp củi.. Quan trọng nhất trong chế biến món đặc sản này là phải chọn được miếng thịt ngon, đưa vào tẩm ướp đúng gia vị và đủ lượng, rồi treo sản phẩm lên nóc bếp hong khói nhiệt độ vừa đủ và thêi gian lâu ngày sao cho thớ thịt quắt lại và chín dần vào trong. Nhược điểm duy nhất là thịt ngót rất nhiều, càng để lâu thịt càng ngót, trung bình phải 3 kg thịt bò tươi mới được 1 kg bò khô, trong vòng từ 4 – 6 tháng. - Thịt lợn hun khói: Được chế biến từ thịt lợn ba chỉ. Sau khi tẩm, ướp các gia vị, thịt được treo trên khu đốt lửa cho đến khi khô (thường treo từ nửa năm cho đến một năm). Lúc lấy xuống dùng thì miếng thịt gần như đã chín từ bên trong, người dân chỉ việc sơ chế qua là có thể dùng được luôn. Khi thưởng thức có vị ngọt rất thơm ngon và không "ngấy". Thịt lợn hun khói ở đây mang đậm phong vị núi rừng, ăn rồi mới thấy khác. Hằng năm cứ đến mùa đông người dân mới chọn những miếng thịt lợn ngon về, thái mỏng, rồi treo lên gác bếp. Thông thường, người ta chỉ dùng thịt lợn ba chỉ, đôi khi là thịt mông, vai. Các món ăn được chế biến từ thịt lợn hun khói ngon hơn so với các loại thịt lợn không treo nóc bếp, bởi miếng thịt chắc, không bị nát, có mùi thơm rất đặc trưng. - Cháo hầm ấu tầu với chân giò lợn: Được nấu từ một loại thuốc quý và gạo nếp cái hoa vàng của đồng bào dân tộc vùng cao, cháo ấu tẩu Hà Giang vị bùi, dẻo và thơm đặc biệt. Cháo có tác dụng chữa bệnh tốt, và là đặc sản chỉ có ở miền núi phía Bắc. Những đầu bếp lâu năm cho biết, món cháo bắt nguồn từ một vị thuốc của đồng bào vùng cao. Củ ấu có chất độc, thường ngâm rượu để thoa lên các vết thương kín. Nhưng qua bàn tay chế biến, vị thuốc này đã được chế biến thành món ăn ngon, lại có tác dụng chữa bệnh. Trườc kia, đây là món cháo "giải cảm" đơn giản của đồng bào dân tộc thiểu số. Sau này, người dân Hà Giang thêm một số gia vị, phụ gia khác, nấu thành món cháo "đặc sản" của vùng cao nguyên đá. - Ngoài ra còn các món ăn như lạp sườn treo gác bếp, măng cuốn thịt (măng đắng), đồ uống có rượu ngô Thanh Vân, Chè Shan Tuyết, các loại dược liệu như thảo quả, mật ong bạc hà…. 2.3. Cơ sở hạn tầng và chính sách phát triển du lịch 2.3.1. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải a) Hệ thống đường quốc lộ: Trên địa bàn tỉnh Hà Giang có 4 tuyến quốc lộ đi qua, đây là những tuyến giao thông huyết mạch của tỉnh với tổng chiều dài qua địa bàn 458 km, cụ thể như sau: - Quốc lộ 2: Được nâng cấp xong năm 2004 (đoạn từ Đoan Hùng - thị xã Hà Giang) là đường cấp 3 miền núi được trải thảm bê tông nhựa toàn tuyến với tải trọng H30 - XB80. Tổng chiều dài đi qua địa phận tỉnh Hà Giang là 108 km,là tuyến đường quan trọng nhất nối Hà Giang với thủ đô Hà Nội và các tỉnh miền xuôi. - Quốc lộ 4C (cung đường mang tên Hạnh phúc trước đây), có chiều dài 204 km, điểm đầu tại thị xã Hà Giang, điểm cuối xã Niêm Sơn (Mèo Vạc), đi qua 4 huyện vùng cao phía Bắc là Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc, hiện nay đã được nâng cấp rải nhựa. - Quốc lộ 34: Có chiều dài 73 km, điểm đầu từ cột mốc Km 0 thị xã Hà Giang đi qua huyện lỵ Bắc Mê,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài TÌM HIỂU TIỀM NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH HÀ GIANG.doc
Tài liệu liên quan