Đề tài Tìm hiểu cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá,khu vực hoá nền kinh tế. Tiến trình toàn cầu hoá mở ra cho các quốc gia cả những quốc gia phát triển và đang phát triển những cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.,Hội nhập quốc tế vừa là cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong công cuộc tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế.Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới.Một trong những yếu kém hiện nay của toàn nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng đó là sức cạnh tranh trên thị trường cả trong nước lẫn nước ngoài. Việc nhìn nhận được những thuận lợi và khó khăn của mình sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam rút ra những bài học bổ ích và tìm được lời giải đúng nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên nhóm em đã quyết định chọn đề tài tiểu luận “Cơ hội và thách thức của các do...

doc25 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1223 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá,khu vực hoá nền kinh tế. Tiến trình toàn cầu hoá mở ra cho các quốc gia cả những quốc gia phát triển và đang phát triển những cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.,Hội nhập quốc tế vừa là cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong công cuộc tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế.Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới.Một trong những yếu kém hiện nay của toàn nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng đó là sức cạnh tranh trên thị trường cả trong nước lẫn nước ngoài. Việc nhìn nhận được những thuận lợi và khó khăn của mình sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam rút ra những bài học bổ ích và tìm được lời giải đúng nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên nhóm em đã quyết định chọn đề tài tiểu luận “Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập ”. Bài viết của nhóm em sẽ đề cập về cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trước hiệp định thương mại song phương (HĐTM) Việt-Mỹ,việc gia nhập AFTA, việc gia nhập WTO. Để hoàn thành đề tài này em nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa đặc biệt là cô Nguyễn Thị Hồng Vân em xin chân thành cám ơn các thầy cô đã tạo điều kiện giúp đỡ nhóm em hoàn thành đề tài. Tuy nhiên đề tài còn nhiều bất cập, không tránh khỏi những thiếu sót nhóm em rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô để đề tài được đi vào thực tiễn . PHẦN 1: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY 1.1 Cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế kinh tế Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng mức độ và quy mô còn hạn chế. Do nhu cầu phát triển nền kinh tế hiện tại và tỏngtương lai cũng như xu thế phát triển chung của thế giới đã đến lúc chúng ta cần đánh gái lại một số thuận lợi và khó khăn đặt ra đối với việc "đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng cũng như Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách nhất quán cho việc chủ động tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoán. Còn nhớ khi Việt Nam bắt đầu bước vào cải cách đổi mới việc mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu chưa phải đã có được tiếng nói chung. Nay với quan điểm "mở cửa hội nhập phát triển" "hội nhập chứ không hoà tan", Việt Nam đã đẩy nhanh quá trình hội nhập. ở tầm vĩ mô về "xu thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển" của việc tham gia toàna cầu hoá thực tế có ý nghĩa rấ lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này, mà trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế nói chung, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất cả ở các tâng cấp khác nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực. Sử dụng tài nguyên, nhân lực dồi dào. + Nguồn tài nguyên sẵn có: Tham gia toàn cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng kinh tế nước nhà, Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức hút đối với các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu, thị trường thế giới, về vị trí địa lý nước ta cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam Á, là điểm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng của thế giới. Đáng chú ý với bờ biển rộng, trải dài từ Bắc tới Nam với nihều hải cảng, đặc biệt cảng Cam Ranh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hải cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. Ngoài ra một só khoáng sản nưh Bôxít có trữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba thế giới, quặng đất hiếm cũng có trữ lượng lớn đứng thứ hai thế giới. + Sau Trung Quốc, thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện địa hoá, thì việc khai thác sử dụng các nguồn lực đó thông qua hợp tác là rất cần thiết. Với thực trạng nguồn tài nguyên kinh tế chúng ta, không nên hình thành cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu tài nguyên lớn. Cần qua, hợp tác, quỹ như phát huy năng lực bên trong đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển sang xuất khẩu các mặt khàng chế biến. + Nguồn nhân lực: Với thị trường gồm 80 triệu dân, trong đó tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao (dân só trẻ) có trình độ văn hoá, cần cù lao động và đặc biệt giálao động rẻ. Đó là với thể so sánh có ý nghĩa trong quá trình tham gia hội nhập. Trên thực tế nhiều công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lao động dồi dào, rẻ và có khả nang tiếp thu công nghệ mới Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty Nhậ khi phân tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số 10 quốc gia. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn hình khối phù hợp tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhập là điều kiện để hàng cao chát lượng nguồn lao động của Việt Nam. 1.2 Những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập. Trình độ phát triển so với kinh tế Một khoảng cách khá xa giữa Việt Nam và quốc tế. Hiện nay 75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho đến năm 1999 nền kinh tế nước ta về thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, trong đó khu v ực thực chất vẫn là nèn kinh tế nông nghiệp, trong đó khu vực nông nghiệp chiếm 25,4% GDP, công nghiệp chiếm 34,5% và dịch vụ chiếm 40,1%. Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh chỉ chòn khoảng 20% và khu vực dịch vụ thì đặc biệt phát triển, nhất là lĩnh vực thông tin, Nhìn chung trong nền kinh tế của Việt Nam, về công nghệ hiện nay vô cùng lạc hậu, so với thế giới chậm từ 56 -100 năm. Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình hiện nay của thế giới 2 → 3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực 4 -5 thế hệ. mà các ln của Việt Nam còn nỏ, yếu cả về khả năng quản lý kinh doanh lẫn khả năng, năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp của chúng ta sau một thời gian dài hoạt động theo cơ chế hoạch hoá chuyển sang phương thức kinh doanh mơí còn lúng túng, nhất là trong tham gia cạnh tranh quốc tế. Hiện nay trong 6000 doanh nghiệp nhà nước. Chỉ có 5% làm ăn thực sự có hiệu quả. Năng lực cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế là nguy cơ lớn khi đẩy nhanh nhịp độ hội nhập. Để hội nhập có hiệu quả vấn đề làm sao hỉa nâng cao được sức cạnh tranh thì các xí nghiệp mới có thể đứng vững trước sự xam nhập của hàng hoá bên ngoài và từ đó mới có thể vươn mạnh ra thị trường thế giới. Vì vậy Nhà nước cũng như doanh nghiệp cần có chính sách để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh, xem đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay nên không sẽ không chạy kịp với lịch trình hội nhập vào AFTA đã xác định. Tình hình nền kinh tế thị trường hiện tại. Nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay đã phát triển trong khi đó chúng ta mới chuyển sang kinh tế thị trường vì vaạy các yêu tố của thị trường cũng chỉ mới hình thành ở bước đầu, chưa phát triển. Hơn nữa nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay đang nằm dưới sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia. Hội nhập, chúng ta phải tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Các luật chơi chúng ta chưa thông thạo, thậm chí kiến thức kinh tế thị trường còn bất cập. Đó là chưa kể chúng ta hội nhập để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu vấp phải sự chống đối thù địch chứ không phải chỉ là sự cạnh tranh kinh tế đonư thuần. Thách thức này bộc lộ rõ trong quá tình hội nhập vừa qua. Do mới chuyển sang kinh tế thị trường trình độ cán bộ quản lý, nhất là các cán bộ làm công tác, hội nhập còn mỏng và yếu đi vì vậy trong thực thi nhiệm vụ không tránh khỏi những sai lệch làm ảnh hưởng đến tiến trình chung. Hội nhập đặt ra yêu cầu cao đối với các nhà quản lý doanh nghiệp bên cạnh kiến thức, năng lực kinh doanh phải hiểu biết về kinh tế quốc té, nhất là thị trường quốc tế, tổ chức và hoạt động của các thể chế kinh tế quốc tế, các cam kết mà Việt Nam và các quốc gia dã thoả thuận . vv... Có thể nói nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được điều này. Vì vậy trên thực tế đã có doanh nghiệp tuỳ tiện phá bỏ hợp đồng gây mất lòng tin với khách hàng quốc tế, làm tâm lý no ngại khi làm ăn ở Việt Nam. Cũng do mối phát triển trong giao dịch thnfh toán quốc tế chúng ta chưa áp dụng hoặc chưa quan tâm. Trong xu thế gia tăng mạnh mẽ toàn cầu hoá thị trường tài chính thì đây là hạn chế không nhỏ cho phép ta tham gia có hiệu quả vào thị trường tài chính quôc tế. Vấn đề cải cách chính sách. Có thể nói rằng cho đến nay tuy chúng ta dã có rất nhiều cố gắng trong công tác soạn thảo xây dưngj ban hành pháp luật, nhưng hẹe thống luật lệ, chính sách của Việt Nam liên quan đến hội nhập quốc tế vẫn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập so với các quy chuẩn quốc tế. Trong lĩnh vực thương mại hệ thống các quy định về thuế quan và phi thuế quan của ta quá phưc tạp lại hay điều chỉnh bổ sung thậm chí thay đổi làm cho các đối tác giảm nhiệt tình kinh doanh. Chúng ta vẫn còn áp dụng nhiều quy định riêng trong hợp tác kinh tế quốc tế và ngược lại cũng còn không ít kẽ hở, về pháp luật, về các chính sác, quy định để phía các đối tác gây thiệt hại cho phía Việt Nam cũng như thất thoát nguồn thu cho nhà nước. Trong lĩnh vực liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng có nhiều ý kién phàn nàn về hệ thống luật, gồm ba điểm chính. - Việc áp dụng luật ở nhiều nơi, nhiều lúc còn tuỳ tiện. Các luật rất nhiều, song vẫn không đủ không đồng bộ, lại vênh nhau. Các ngôn từ trong luật không rõ ràng gây ra kẽ hở và khó khăn cho người điều hành. - Việc hiểu biết về pháp luật, tôn trọng pháp luật còn nhiều bất cập. Thiếu tổ chức công khai vẫn bàn luận và phán quyết của toà án hay quyết định của trọng tài dã dẫn đến những hiện tượng thiếu lành mạnh. Trong vận dụng và thực thi pháp luật. - Thiếu vắng một hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp có hiệu quả công bằng. Các toà án kinh tế Việt Nam được thành lập để giải quyết các tranh chấp kinh tế, nhưng lại không có nhiều uy tín trên thế giới. Mặt khác các luật sư và doanh nghiệp Việt Nam thiếu sự hợp tác trong thi hành pháp luật. Sự hạn chế trong hệ thống luật như trên rõ ràng rất khó khăn cho việc đẩy nhanh quá trình hội nhập. Hội nhập vào các tổ chức kinh tế đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ các quy chế chung mà thực tế nhiều quy định của ta không phù hợp thậm chí trái ngược, cho nên các hoạt động trong thực tiễn thường bị ách tắc, làm chậm tiến độ theo hợp đồng. Vấn đề đặt ra rõ ràng phải kiểm tra, hiện đại hoá hệ thống luật lệ cho phù hợp với việc xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại. - Hội nhập chủ động sé là phương châm hợp lý bảo đảm cho chúng ta hoà nhập với công đồng thế giới mà không bị hoà tan, tức vẫn bảo đảm được bản sắc, giữ vững nền độc lập. Để chủ động hội nhập đỏi hỏi chúng ta phải có kế hoạch dào tạo bồi dưỡng cán bộ những kiến thưc nghiệp vụ quản lý, phương tiện giao tiếp... Phải tiến hành tổ chức nghiên cứu thường xuyên và chuyên sâu về tình hình quốc tế, về các tổ chức kinh doanh quốc tế nói chung và đặc biệt về các đối tượng làm ăn chính. Nhiều thua thiệt của chúng ta trong giao lưu, hội nhập do chúng ta thiếu thông tin. Và cũng để chủ động hội nhập và hội nhập có hiệu quả cần kết hợp tốt giữa sức mạnh bên trong với bên ngoài. Tránh lệ thuộc quá lớn vào bền ngoài làm tăng tình dễ bị tổn thương của nền kinh tế. Phát huy đông sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Vấn đề then chốt để hội nhập có hiệu quả cần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế dân tộc. Muốn vậy phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. PHẦN 2: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT-MỸ 2.1. Sự ra đời của hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ. Chúng ta biết rằng đối với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ thì một sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi trong lĩnh vực kinh tế thương mại sẽ giúp hai nước mau chóng khép lại quá khứ ,nhìn về tương lai vì lợi ích chung của hai dân tộc.Tuy nhiên, nếu trong quan hệ ngoại giao đã đạt được những thành tích nhất định như bãi bỏ lệnh cấm vận vào năm 1994, bình thường hoá quan hệ hai nước vào năm 1995,thành lập đại sứ quán hai nước vào năm 1997, thì trong quan hệ kinh tế bao gồm thương mại và đầu tư lại phát triển khá chậm chạp, chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước.Chính vì thế HĐTM song phương Việt-Mỹ được ký kết ngày 14/7/2000 đánh dâú một bước tiến mới trong quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa Kỳ. Hai bên đã cam kết thực hiện các nguyên tắc mậu dịch phù hợp với các thông lệ của WTO, bao gồm thực hiện quy chế tối hậu quốc và không phân biệt đối xử,những nỗ lực chung về thương mại, mở rộng và thúc đẩy thương mại,bằng việc cắt giảm thuế quan và xoá bỏ các biện pháp ngăn chặn phi thuế quan như quota(hạn nghạch),đảm bảo quyền buôn bán cho các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước .Ngoài ra còn có những can kết về quyền sở hữu trí tuệ phát triển quan hệ đầu tư. 2.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi ký kết hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ. 2.2.1. Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trước HĐTM Việt-Mỹ 1/ HĐTM Việt-Mỹ mở cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ một thị trường mạnh nhất thế giới với hơn 245 triệu người.Hàng hoá của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn do mức thuế suất chỉ còn trên 3%,trong khi trước kia phải từ 40% đến 80%.Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ xuất khẩu sang Mỹ những mặt hàng mà chúng ta có lợi thế như dầu thô, dệt may, giày dép, mặt hàng nông hải sản. Cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ là rất lớn.Năm 1999 giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ chỉ đạt 601 triệu USD/năm,thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực mà Mỹ đã áp đặt quy chế quan hệ bình thườngvà là thành viên của WTO.Kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ bằng 1/35 của Malaixia và bằng 1/23 của Thái Lan (do một lượng hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải qua nước thứ ba, chủ yếu là Singapore nên số liệu của Việt Nam và Mỹ về xuất khẩu của Việt Nam và Mỹ về xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ là khá lớn.Khi hiệp định thương mại được thực hiện, do giảm hàng hoá qua trung gian nên xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ có cơ hội tăng mạnh hơn.Có ý kiến cho rằng năm 1999 ”Giá trị kim nghạch nhập khẩu của Mỹ là 1227 tỷ USD, do đó dù Việt Nam có sang Mỹ tới 1 tỷ USD thì cũng như muối bỏ bể ”). Còn nếu xét về cơ cấu xuất nhập khẩu sang thị trường Mỹ trong tổng xuất nhập khẩu cũng rất nhỏ bé.Trong suốt giai đoạn 1994-1999, xuất khẩu sang thị trường chỉ đạt 2,4% tổng giá trị kim nghạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó tỉ lệ này của Thái Lan là 17,4% và 10,3% và Malaixia là 19,4% và 11,9% (So với các thị trường có mức thu nhập và tiêu dùnh bình quân đầu người tương đương, hiện nay thị trường Mỹ chỉ chiếm 4,8% giá trị kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam so với các nước Châu Âu là 24% và Nhật Bản là 28,7%). 2/ HĐTM Việt-Mỹ sẽ tạo cơ hội làm ăn mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt Nam dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc liên doanh với các doanh nghiệp Việt Nam qua đó sẽ tăng khả năng thành công cũng như học hỏi được cách quản lý của các nhà kinh doanh hàng đầu thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam.Đồng thời nó cũng mở ra cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phải nổ lực không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, học tập một cách làm ăn bài bản, phù hợp với luật lệ kinh doanh quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể tiếp thu công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trinh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. 3/ HĐTM Việt-Mỹ giúp các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu một lượng hàng lớn vào Mỹ do đó các doanh nghiệp sẽ giải quyết được vấn đề việc làm cho công nhân của mình đồng thời cũng tạo nhiều công ăn việc làm mới góp phần giải quyết vấn đề dân số và việc làm ở Việt Nam. 2.2.2. Những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam 1/Trình độ phát triển kinh tế giữa hai nước rất chênh lệch, lại có những điểm rất khác nhau về thể chế chính trị xã hội, về quan niệm ,về tập quán ,sở thích, thị hiếu người tiêu dùng.Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không tính đến các nhân tố này thì có thể dẫn đến tư tưởng nôn nóng ,sốt ruột hoặc chủ quan hay bi quan trong khi giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong quá trình làm ăn với Mỹ do đó rất dẫn đến thất bại. 2/ Hệ thống pháp luật Việt Nam còn nhiều thiếu sót lại chưa đồng bộ và có nhiều điểm không phù hợp với thông lệ quốc tế.Mỹ là một nước có hệ thống pháp luật hết sức chặt chẽ với tư cách là một siêu cường về kinh tế và chính trị Mỹ đã tự đặt ra những điều luật của riêng mình do đó việc mới tiếp xúc với một thị trường mới mẻ sẽ khiến các doanh nghiệp Việt Nam không khỏi bỡ ngỡ rất khó tránh khỏi những sai lầm bởi ở Mỹ “kiện tụng cũng được coi như một nghề” mà bằng chứng chính là việc xuất khẩu cá Tra cá Basa của các doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ. 3/ Sau một thời gian ngắn(3-7 năm), khi HĐTM có hiệu lực nhiều hàng hoá của Mỹ sẽ được nhập khẩu vào Việt Nam với việc bãi bỏ hạn ngạch và giảm thuế sẽ đặt các doanh nghiệp Việt Nam ở trong một điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn trước đây.Đồng thời các lĩnh vực hoạt động tài chính ,ngân hàng bảo hiểm ,viễn thông, pháp lý, giáo dục,y tế sẽ chiếm lĩnh thị trường Việt Nam làm cho các doanh nghiệp kinh doanh trong những ngành này của Việt Nam sẽ gặp phải những đối thủ cạnh tranh hết sức gay gắt vì những lợi thế hơn hẳn của họ .Nếu chúng ta không có những chuẩn bị ngay từ bây giờ thì người tiêu dùng Việt Nam chỉ hướng tới những dịch vụ tiện lợi hơn của các nhà đầu tư Mỹ. 4/ Các doanh nghiệp Việt Nam, những người trực tiếp làm ăn với Mỹ lại chưa thông hiểu luật lệ cung cách kinh doanh của người Mỹ.Chính điều này chẳng những có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi khi còn bị thiệt thòi vì những lý do không đáng có. Bên cạnh đó ,với trình độ quản lý còn yếu kém, lại chưa có kinh nghiệm làm ăn theo cơ chế thị trường cùng với trình độ công nghệ còn lạc hậu, trình độ chuyên môn của người lao động còn chưa cao.Tất cả những điều đó làm cho sản phẩm của chúng ta còn kém về chất lượng, xấu về hình thức khó lòng cạnh tranh với biết bao bạn hàng mậu dịch của Mỹ từ các nước Nam Mỹ, từ Trung Quốc, từ các nước Nics, các nước ASEAN. Đây chính là thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi HĐTM có hiệu lực. PHẦN 3: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI RA NHẬP ASEAN – AFTA 3.1. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA. ASEAN (Asscociation of Southeast Asian Nation), hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được thành lập từ năm 1976 với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị, khoa học, xã hội. Đến nay, ASEAN đã phát triển lớn mạnh với 10 thành: Brunei, Indonesia, Malaysia, Phillipin, Singapore, Thái lan, Việt Nam, Campuchia, Lào và Mianmar. Tuy vậy là một khu vực kinh tế phát triển vào loại năng động nhất thế giới, vấn đề hợp tác kinh tế trong khu vực lại được ra đời khá muộn, năm 1992, 25 năm sau khi thành lập ASEAN. Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng với kế hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vực ưu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại ưu đãi và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được các mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về khu vực mậu dich tự do AFTA hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN mới thực sự được đưa lên một tầm mức mới.Mục tiêu của AFTA là: Tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất. Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển của các thoả thuận thương mại khu vực (Regional trade arrangement - RTA) trên thế giới. 3.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi gia nhập AFTA. 3.2.1. Thách thức. Qua phân tích cụ thể những lợi thế so sánh của Việt Nam và các nước, chúng ta có thể thấy được những khó khăn của Việt Nam khi tham gia vào tổ chức liên kết kinh tế khu vực. Trước hết đó là sự khác biệt về thể chế và cơ chế quản lý kinh tế. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các quan hệ thị trường trong nền kinh tế Việt Nam thực sự chưa trưởng thành (cái quán tính của cung cách quan liêu, bao cấp trong quản lý còn nặng nề). Điều này thể hiện mức độ sẵn sàng đón nhận tiến trình AFTA chưa cao xét về mặt cơ chế quản lý. Quan trọng hơn nữa khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN (về thu nhập bình quân trên đầu người, dự trữ ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ... ) cho thấy sự cách biệt quá lớn bất lợi cho Việt Nam cũng là mối lo ngại cho quá trình hội nhập này. Trình độ công nghệ sản xuất hiện nay ở ta, đặc biệt trong các ngành chủ chốt như công nghiệp chế tạo, chế biến, còn ở mức yếu kém thì liệu có đủ sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường hay chỉ là nơi tiêu thụ hàng hoá của các nước ASEAN thậm chí nhiều doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp theo đó tăng... Do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và phần lớn các nước ASEAN tương đối giống nhau, vì vậy có thể gây ra sự cạnh tranh nội bộ khu vực trong việc thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường và công nghệ (ở mức độ khác nhau). Ngoài ra cò phải kể đến sự cạnh tranh của cả khối với Trung Quốc trong cả thương mại và đầu tư nước ngoài. Một trong những khó khăn và có lẽ đây là khó khăn lớn nhất mà Việt Nam sẽ phải đương đầu trong quá trình hội nhập là nhân tố về con người do trình độ, kể cả cán bộ quản lý kinh tế và các doanh nhân còn chưa đáp ứng được với nhu cầu đặt ra của tình hình mới. Nếu chỉ xét riêng về thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường cạnh tranh thì phần lớn các doanh nghiệp còn rất non trẻ, thiếu vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý, tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm. Phần lớn các doanh nghiệp đều mới bước vào thương trường nên có nhiều hạn chế, thể hiện ở các mặt như: kinh doanh trên diện mặt hàng rộng nhưng thiếu chuyên ngành; mạng lưới tiêu thụ còn mong manh; các doanh nghiệp còn chưa quan tâm và ít thành công trong việc xây dựng khối các khách hàng tin cậy và lâu bền; thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường và khách hàng; Thiếu các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức như thông tin thương mại, hỗ trợ triển lãm quảng cáo, tư vấn về thị trường, môi trường đầu tư, tìm đối tác kinh doanh... Ngoài ra, tác động không thuận lợi đến các doanh nghiệp còn có những vấn đề về môi trường vĩ mô thiếu ổn định với một hệ thống các thủ tục hành chính phức tạp và không rõ ràng. Thủ tục lập doanh nghiệp, lập chi nhánh, đại diện, mạng lưới kinh doanh trong tỉnh, ngoài tỉnh, ngoài nước nói chung có tác dụng kìm hãm hơn là khuyến khích kinh doanh. Tóm lại, có thể thật sự hội nhập được với khu vực, chúng ta phải vượt lên những trì trệ của chính mình, đạt được sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội đi kèm với sự tăng trưởng về kinh tế. Sự tăng trưởng cùng nhịp độ với các nước trong khu vực sẽ là cơ sở đảm bảo về lâu dài để có sự liên kết giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN được bền chặt trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Bên cạnh những khó khăn rất lớn, chúng ta cũng có những thuận lợi nhất định khi hội nhập với ASEAN. Việt Nam và các nước ASEAN là những nước láng giềng đã có truyền thống giao lưu kinh tế, văn hoá và tương đối hiểu biết lẫn nhau. Bên cạnh đó, đường lối đổi mới của Việt Nam đang tiến tới để hội nhập trong sự thống nhất của khu vực. Liên kết kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN là xu thế tất yếu của mỗi nước trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu, bởi lẽ nó phù hợp với lợi ích của mỗi quốc gia. 3.2.2. Cơ hội. Tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có thể thu được một số cơ hội và thuận lợi sau đây: Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN là sự kiện đánh dấu bước phát triển của Việt Nam trong quan hệ quốc tế để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Có Việt Nam trong ASEAN sẽ góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất mới trong ASEAN, từ đó tạo ra nhiều lợi ích cho Việt Nam và các nước thành viên. Trọng tâm của hợp tác kinh tế trong ASEAN những năm gần đây là hợp tác phát triển thương mại, trong đó cốt lõi là việc hình thành AFTA, thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT, hình thành nên một thị trường thống nhất cho mọi nước thành viên. Việc tham gia vào chương trình này là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi các nước cắt giảm dần thuế thì hàng hoá Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn để xâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Thứ hai, Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA. Kinh nghiệm các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để mở rộng thị trường sang các nước trong và ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là từ các nước thuộc ASEAN. Các mặt hàng được Nhà nước ưu tiên nhập khẩu như máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất công nghiệp khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng này sẽ giảm thuế nhập khẩu tới 5%. Như vậy, khi đó luồng hàng nhập khẩu sẽ được mở rộng nhanh chóng. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến nên nếu Việt Nam tăng cường sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN và các nước ngoài khu vực. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung lượng cung hàng hoá của mình trên thị trường và tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới . Thứ ba, tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Thứ tư, có điều kiện để thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước thừa vốn và đang có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan... Thứ năm, có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao. Sử dụng vốn và kỹ thuật cao của các nước trong khu vực để khai thác khoáng sản và xây dựng cơ sở hạ tầng Thứ sáu, tận dụng ưu thế về lao động rẻ và có hàm lượng chất xám cao để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nước trong khu vực. Thứ bảy, một trong những quy định về sản phẩm được hưởng quy chế Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GPS) của Mỹ là "trị giá nguyên liệu cho phép nhập để sản xuất hàng hoá đó phải dưới 65% toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan Mỹ" và "giá trị một sản phẩm được chế tạo ở hai hoặc trên hai nước là hội viên của một hiệp hội kinh tế, liên minh thuế quan, khu mậu dịch tự do thì được coi là sản phẩm của một nước". Vì vậy, việc Việt Nam tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam vẫn có thể nhập nguyên liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất và sản phẩm đó vẫn được GPS. PHẦN 4: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI RA NHẬP WTO 4.1 Quá trình hình thành và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO ) Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization - WTO) được thành lập ngày 15/4/1994 tại Ma rốc, xuất phát từ tổ chức Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995. Tính đến thời điểm 31/12/2005, WTO có 148 nước, lãnh thổ thành viên. WTO là tổ chức thế giới có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Về chức năng, WTO có hai chức năng chính vừa là diễn đàn đàm phán về thương mại và đồng thời là tổ chức giải quyết các tranh chấp về thương mại; về đàm phán, phần lớn các quyết định của WTO đều dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận. Mỗi thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau; về giải quyết tranh chấp, thông qua hội đồng dàn xếp tranh chấp, WTO có quyền ban hành các biện pháp trừng phạt đối với các thành viên không tuân theo luật lệ; về cơ cấu tổ chức, cơ quan có quyền lực cao nhất là Hội nghị bộ trưởng, họp ít nhất hai năm một lần. Giữa hai kỳ hội nghị là Đại hội đồng bao gồm đại diện có thẩm quyền của tất cả các thành viên. Dưới đó là các Hội đồng thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ, Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; về các nguyên tắc: Không phân biệt đối xử, không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn trong nước; Đãi ngộ tối huệ quốc, các đãi ngộ thương mại của một thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO; Minh bạch, các điều lệ và hạn định ngoại thương phải được công bố. Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO vào tháng 1-1995 và được công nhận là quan sát viên của tổ chức này. Tháng 7-1998, Việt Nam bắt đầu tiến hành phiên đàm phán gia nhập WTO đầu tiên. Sau hơn 10 năm, Việt Nam đã trải qua 11 phiên đàm phán đa phương (trong đó có một phiên trù bị) và hàng trăm cuộc đàm phán song phương với sự tham gia của tất cả các bộ, ngành. Việc nước ta gia nhập WTO sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình kinh tế, xã hội nói chung và cuộc sống của mỗi người nông dân nói riêng. Nước ta phấn đấu sớm gia nhập WTO xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế của chính chúng ta, chứ không phải từ sức ép bên ngoài. 4.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi gia nhập WTO. 4.2.1. Cơ hội khi gia nhập WTO. 1/Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu. Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trườngquốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam. 2/Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết tâm cải cách của nước ta, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. 3/Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. 4/ Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. 4.2.2. Thách thức của việc gia nhập WTO. Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là: 1/Sức ép cạnh tranh Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với "bầu vú bao cấp" của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến. Riêng đối với khu vực nông nghiệp, việc gia nhập WTO có thể sẽ mang lại khó khăn nhiều hơn bởi chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp khó có thể diễn ra trong một sớm, một chiều. Chính phủ luôn lưu tâm đến yếu tố này trong đàm phán gia nhập WTO và hy vọng kết quả đàm phán cuối cùng sẽ là một kết quả chấp nhận được đối với lĩnh vực nông nghiệp. 2/Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. Quá trình này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Đây là thách thức hết sức to lớn. Chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn. 3/Thách thức của việc hoàn thiện thể chế và cải cách nền hành chính quốc gia. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế - thương mại, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Sau đó, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh, yếu tố quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí lại nguồn lực. Cuối cùng, những cam kết mở cửa thị trường của ta là cam kết theo lộ trình nên tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài. Một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hoá. Đây là thách thức to lớn đối với mọi nền hành chính quốc gia. Khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và doanh nhân, coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân hơn nữa, khắc phục "sức ỳ" của tư duy và khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các cơ hội do việc gia nhập WTO đem lại. 4/Thách thức về nguồn nhân lực. Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu. Từ những cơ hội cũng như thách thức đó, hiện nay Việt Nam đang đẩy nhanh công tác chuẩn bị gia nhập WTO. Về chuẩn bị điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ thành viên, thời gian qua Quốc hội và các cơ quan Chính phủ đã khẩn trương đẩy nhanh chương trình xây dựng pháp luật. Quá trình rà soát văn bản pháp luật đã tiến hành ở Trung ương. Bộ Tư pháp đang tiếp tục hướng dẫn các tỉnh rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, có đối chiếu với quy định của WTO và cam kết của nước ta. Các địa phương cũng đang khẩn trương, nghiêm túc tiến hành rà soát, điều chỉnh các quy định, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại - đầu tư để đảm bảo tính thống nhất với các văn bản của Nhà nước và cam kết quốc tế. Đồng thời, chúng ta cũng đang đẩy mạnh triển khai các chương trình hành động thực hiện các hiệp định của WTO như Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (IL); Hiệp định về các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs); Hiệp định về kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS)… Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, chúng ta đã tập trung đầu tư phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất khẩu như nâng cao chất lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản; đầu tư công nghệ và quản lý để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dệt may, da giày…; khuyến khích các ngành hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học… Đồng thời, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế. Ngoài ra, nên tiếp tục củng cố hệ thống cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài và gắn kết hoạt động của các cơ quan này với các doanh nghiệp, hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để giúp các doanh nghiệp làm quen và ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử. Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế… Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. KẾT LUẬN Việc nhìn nhận được những cơ hội và thách thức đóng một vai trò hết sức quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nó giúp các doanh nghiệp nhìn nhận được những mặt còn yếu kém phát huy những mặt mạnh đồng thời học hỏi được những kinh nghiệm quý giá từ những nền kinh tế phát triển.Qua đó sẽ giúp các doanh nghiệp tìm được chỗ đứng cho mình trên đấu trường quốc tế.Sự thành công của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế của Việt Nam nói chung như khẳng định một cách đúng đắn chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí thương mại số :12(2000);17;19;24(2001) 2. Ngoại thương số 21-27/4/2000 3. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ 4. Kinh tế và dự báo số 1,4,5(2000);4(2001) 5. Tạp chí phát triển kinh tế số 23(2000) 6. Tạp chí kinh tế phát triển số 10+11(2001) 7. Thời báo kinh tế Sài Gòn(9/8/2001) 8. Bản tin nội bộ câu lạc bộ chất lượng 9. Đổi mới chất lượng sản phẩm trong thời kỳ đổi mới-Hoàng Mạnh Tuấn 10. Chiến lược chất lượng và giá cả sản phẩm xuất khẩu của các loại doanh nghiệp ngành công nghiệp nhẹ-Hà Nội năm 2000 11. Bộ tài chính:Thời báo tài chính Việt Nam số 30(9/3/2001) 12. Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN tài liệu Bộ KH-ĐT .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNHOM 5_Triet Copy.doc
Tài liệu liên quan