Đề tài Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An và một số giải pháp giải quyết việc làm

Tài liệu Đề tài Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An và một số giải pháp giải quyết việc làm: Lời nói đầu Đối với Quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp thiếu việc làm, “nhàn vi cư bất thiện” là mầm mống đưa con người vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách không xa. Vì những ảnh hưởng sâu rộng đó: giải quyết việc làm đi đến toàn dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là nước đang có tình trạng thất nghiệp như nước ta hiện nay. Nhận thức được những vấn đề nêu trên, qua thời gian thực tập ở Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội - Bộ lao động thương binh và xã hội em đã hoàn thành được chuyên đề: “Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An và một số giải pháp giải quyết việc làm”. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn GV. Nguyễn Thị Kim Dung và các cán bộ, chuyên viên Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội - Bộ lao động thương binh và xã hội. Do hạn chế về thời gia...

doc84 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An và một số giải pháp giải quyết việc làm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Đối với Quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp thiếu việc làm, “nhàn vi cư bất thiện” là mầm mống đưa con người vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách không xa. Vì những ảnh hưởng sâu rộng đó: giải quyết việc làm đi đến toàn dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là nước đang có tình trạng thất nghiệp như nước ta hiện nay. Nhận thức được những vấn đề nêu trên, qua thời gian thực tập ở Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội - Bộ lao động thương binh và xã hội em đã hoàn thành được chuyên đề: “Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An và một số giải pháp giải quyết việc làm”. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn GV. Nguyễn Thị Kim Dung và các cán bộ, chuyên viên Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội - Bộ lao động thương binh và xã hội. Do hạn chế về thời gian và trình độ nên bài viết này không tránh được những thiếu sót. Vì vậy em mong nhận được sự cảm thông và những ý kiến góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Phát triển - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Phần I Vai trò của lao động, việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm. I. Lao động và nguồn lao động. 1. Lao động. Lao động là hành động của con người diễn ra giữa người với tự nhiên, như Mác đã nói: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên”. Ngày nay khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất cho bản thân và xã hội. Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất, điều đó có nghĩa là không thể thiếu lao động. Lao động là nguồn gốc và là động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy xã hội càng văn minh thì tích chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động ngày càng tiến bộ. Đối với Việt Nam, khi đất nước đang thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì lý luận lao động phải được đánh giá ở nhiều khía cạnh mới, cụ thể là: Trước hết, lao động vẫn được coi là phương thức tồn tại của con người, nhưng vấn đề đặt ra là lợi ích của con người phải được coi trọng. Bởi vì lao động biểu hiện bản chất của con người còn lợi ích của người lao động là vấn đề nhạy cảm nhất, là nhân tố thấm sâu, phức tạp trong quan hệ giữa con người với con người, quan hệ cá nhân với xã hội. Thứ hai, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với phương thức sản xuất kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì lao động được xem xét trên các khía cạnh năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thứ ba, là bất cứ một hình thức lao động của cá nhân, không phân biệt thuộc thành phàn kinh tế nào, nếu đáp ứng được nhu cầu của xã hội tạo ra sản phẩm hoặc công dụng nào đó, thực hiện được lợi ích, đảm bảo nuôi sống mình, không ăn bám vào người khác, vào xã hội, lại có thể đóng góp cho xã hội một phần lợi ích thì lao động đó được coi là có ích. 2. Nguồn nhân lực và nguồn lao động Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Về số lượng đó là tổng số người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Việc quy định cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước ( kể cả cận trên và cận dưới) rất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Lao động, dân số trong độ tuổi lao động là những người đủ từ 15 đến 60 tuổi đối với nam và đủ từ 15 đến 55 tuổi đối vơí nữ. Về chất lượng nguồn nhân lực, đó là trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khoẻ và phẩm chất của người lao động. Nguồn lao động ( hay lực lượng lao động ) là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Cũng như nguồn nhân lực, nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Như vậy, theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng không phải là nguồn lao động. Đó là những người lao động không có việc làm nhưng không tích cực tìm việc làm; những người đang đi học, những người đang làm nội trợ trong gia đình và những người thuộc tình trạng khác (người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định)... Theo khái niệm mở rộng dùng trong thống kê lao động - việc làm Việt Nam thì lực lượng lao động còn bao gồm những người ở ngoài độ tuổi lao động ( lao động cao tuổi) thực tế đang làm việc trong các ngành kinh tế. 3. Vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. a. Lập luận của các trường phái kinh tế về lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế Lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất. Nhờ có lao động và các yếu tố đầu vào khác được kết hợp tạo ra sản phẩm cung ứng trên thị trường, hình thành nên tổng cung. Khi các yếu tố đầu vào (trong đó có yếu tố lao động) tăng lên thì sản phẩm tạo ra nhiều hơn, tổng cung tăng lên. Mặt khác lao động là mục tiêu của sản xuất. Khi lao động tăng tiêu dùng cũng tăng lên làm cho tổng cầu cũng tăng lên. Nền kinh tế đạt điểm cân bằng mới tương ứng với mức sản lượng thực tế tăng lên. Từ trước tới nay, có rất nhiều trường phái kinh tế đã khẳng định vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mô hình của Ricardo (trường phái cổ điển) đã tính thu nhập quốc dân bao gồm tiền công do lao động làm thuê nhận được, lợi nhuận và địa tô. Mô hình CácMác cho rằng lao động sống tạo ra nguồn của cải và giá trị thặng dư, là nguồn gốc của tái sản xuất xã hội, muốn mở rộng sản xuất cần tăng năng suất lao động. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình tân cổ điển về các yêú tố tác động đến tổng cung. Họ cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động (L), vốn sản xuất (K), tài nguyên thiên nhiên (R) và khoa học công nghệ (T). Họ cũng thống nhất với kiểu phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng: Y= T. Ka. Lb. Rg g = t + a.k + b.l + g.r Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của GDP k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào K, L, R t: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của Khoa học công nghệ (T) Giữa các yếu tố đầu vào có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc tạo ra tăng trưởng. Tuy nhiên cũng tuỳ vào từng nước, từng thời kỳ mà sử dụng nhiều yếu tố lao động, ít yếu tố vốn hoặc ngược lại nhiều yếu tố vốn, ít yếu tố lao động phục vụ mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đối với nước ta lao động đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển. Bởi vì trong các yếu tố đầu vào thì mặc dù là tài nguyên của chúng ta là phong phú, đa dạng nhưng không phải là vô tận mà đang cạn kiệt dần. Do vậy, lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển. b.Vai trò của nguồn lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. b1. Nguồn lao động là yếu tố hàng đầu, năng động và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong quá trình lao động con người luôn tìm tòi, suy nghĩ, năng động, sáng tạo, không chỉ sáng chế ra những tư liệu lao động có năng suất cao mà còn kết hơp tư liệu lao động với đối tượng lao động nhằm tạo ra những sản phẩm theo mục đích đã định. Nhờ con người mà các tư liệu sản xuất được hoàn thiện từng bước và chỉ thông qua hoạt động của con người, các tư liệu sản xuất mới phát huy được tác dụng, thúc đẩy lực lượng sản xuất và nền kinh tế phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, con người được đặt vào một quá trình lao động hết sức phức tạp, đòi hỏi năng lực sáng tạo, trình độ chuyên môn cao, ý thức trách nhiệm lớn cả trong lao động cơ bắp, lao động kỹ thuật và lao động quản lý. Có như vậy, lực lượng vật chất to lớn mới được sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội ngày càng phát triển. b2) Lợi ích của nguồn lao động là động lực to lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nhu cầu cuộc sống là động lực cơ bản nhất của con người. Bất kỳ hoạt động nào của con người cũng bắt nguồn từ những nhu cầu cuộc sống. Thoả mãn các nhu cầu chính là bảo đảm lợi ích của con người. Vì lợi ích mà con người hoạt động. Lợi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trong đó lợi ích vật chất đống vai trò quan trọng. Người lao động dù làm việc ở đâu, dưới hình thức nào cũng đều nhằm đạt được lợi ích của mình. Lợi ích càng cao, càng tạo nên sức hấp dẫn để con người hoạt động có hiệu quả hơn. như vậy chính lợi ích là nhu cầu trở thành động cơ của hành động. Thoả mãn lợi ích chính đáng của người lao động là động lực kinh tế trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. b3) Nguồn lao động với tư cách lực lượng tiêu dùng luôn là mục đích của sự phát triển kinh tế xã hội. Trong mọi phương thức sản xuất xã hội, sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào suy cho cùng đều để phục vụ con người. Ngược lại nhu cầu của con người là tác nhân kích thích, là “đơn đặt hàng” của xã hội đối với sản xuất và là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nguồn lao động với tư cách là một bộ phận quan trọng của dân số, đồng thời là một động lực tiêu dùng mạnh mẽ, luôn đóng vai trò quyết định là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở mọi thời đại. Nhận thức đúng đắn về vấn đề lao động không chỉ giúp chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của nó mà còn có cơ sở phương pháp luận để xem xét việc sử dụng lao động trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp sử dụng và phát huy vai trò của nguồn lao động trong giai đoạn mới. II. Việc làm. 1. Khái niệm việc làm. Việc làm là phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế xã hội và nhân khẩu, nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tuỳ theo cách tiếp cận mà người ta có những cách định nghĩa khác nhau về việc làm: Theo H.A Gowlop thì “việc làm là mối quan hệ sản xuất nảy sinh do sự kết hợp giữa cá nhân người lao động và phương tiện sản xuất”. Theo Huyhanto (Viện Hải ngoại Luân Đôn) thì việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ hoạt động kinh tế của một xã hội, là tất cả những gì liên quan đến cách thức kiếm sống của con người kể cả quan hệ sản xuất và các tiêu chuẩn hành vi tạo ra khuôn khổ của quá trình kinh tế. Đối với Việt Nam, Bộ luật Lao động đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội thông qua đã khẳng định: “mọi hoạt dộng lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Với khái niệm về việc làm như trên thì hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Những công việc tự làm để thu lợi cho bản thân hoặc thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật cho công việc đó. 2. Tình trạng việc làm và thất nghiệp. 2.1. Việc làm đầy đủ. Việc làm đầy đủ là việc làm cho phép người lao động có điều kiện sử dụng hết thời gian lao động theo quy định. Trong thống kê Lao động - việc làm ở Việt Nam thì người đủ việc làm gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ tính điểm thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ hoặc những người có số giờ nhỏ hơn 40 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ nhưng lớn hơn hoặc bằng giờ quy định đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành. Số giờ quy định trên có thể được thay đổi theo từng năm hoặc từng thời kỳ. 2.2. Việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả. Việc làm hợp lý là việc làm phù hợp với số lượng và chất lượng của các yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ. Việc làm hợp lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Việc làm hợp lý còn là việc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc là hiệu quả là việc làm đem lại mức thu nhập cao cho người lao động. Việc làm không hiệu quả là việc làm đem lại thu nhập thấp không đủ cho các chi tiêu cơ bản cho đời sống cua người lao động hoặc mức tu nhập từ việc làm thấp hơn so với mức thu nhập tối thiểu trong đời sống xã hội . 2.3. Thiếu việc làm. Thiếu việc làm là tình trạng việc làm trong đó người lao động không sử dụng hết thơig gian quy định và nhận được thu nhập thấp từ công việc khiến họ có nhu cầu làm thêm. Theo khái niệm dùng trong thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam , người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ làm việc của nhà nước có nhu cầu làm thêm và sẳn sàng làm việc nhưng chưa có việc làm (trừ những người co số giờ làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm). Tình trạng thiếu việc làm còn gọi là bán thất nghiệp. Người lao động ở trong tình trạng này thường là lao động ở nông thôn, theo mùa vụ, lao động ở khu vực thành thị không chính thức (khu vực phi kết cấu) lao động ở các khu vực sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn, lao động khuvực nhà nước dôi dư. Tỉ lệ người thiếu việc làm là phần trăm những người thiếu việc làm so với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động ). Tỉ lệ sử dụng thời gian lao động là phần trăm của tổng số ngày công làm việc thực tế so với tổng số ngày công có nhu cầu làm việc (bao gồm số ngày công thực tế đã làm việc và số ngày có nhu cầu làm thêm) của dân số hoạt động kinh tế. 2.4. Thất nghiệp. a. Khái niệm. Thất nghiệp là tình cảnh của những người có khả năng lao động, có nhu cầu lao động nhưng hiện tại không có việc làm, đang tích cực tìm hoặc đang chờ đợi trở lại làm việc. Người thất nghiệp, theo khái niệm dùng trong thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam , là người đủ 15 tuổi trả lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc: Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua, hoặc không có hoạt động trong 4 tuần qua vì lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được. Hoặc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờlàm việc dưới 8 giờ, muốn sẵn sàng làm thêm nhưng không tìm được việc. Khi đánh giá về tình hình thất nghiệp, người ta thường dùng chỉ tiêu tỉ lệ thất nghiệp . Tỉ lệ này tính bằng phần trăm của só người thiếu việc làm sao với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động ), theo công thức sau: Tỷ lệ thất nghiệp (%) = x 100 Tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao sẽ ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế - xã hội . Chính vì thế, các quốc gia phải thường xuyên đưa ra những chính sách biện pháp để giải quyết vấn đề này. b. Phân loại thất nghiệp. Thất nghiệp là hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để hiểu rõ về nó.Thất nghiệp được chia thành các loại sau: b.1. Phân theo loại hình thất nghiệp. Thất nghiệp là một gánh nặng nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào cần biết những điều đó để hiểu rõ về đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại... của thất nghiệp trong thực tế. Theo tiêu thức này ta có: + Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ). + Thấp nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi, nghề). + Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ thành thị, nông thôn). + Thất nghiệp chia theo nghành nghề. + Thất nghiệp chia theo thành phần kinh tế (quốc doanh, ngoài quốc doanh) + Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc... b.2. Phân loại theo lý do thất nghiệp . Theo lý do thất nghiệp ta chia thành các loại sau: + Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp, không hợp nghề, không hợp vùng... + Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác...) + Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm . b.3. Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp . Tìm hiểu nguồn gốc thất nghiệp có ý nghĩa phân tích sâu sắc về thực trạng thất nghiệp. Theo cách phân loại này, ta có: + Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn hoặc những ngươì mơí bước vào thi trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm. + Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối cung- cầu giữa các loại lao động (giữa các nghành, nghề khu vực...). Loại này gắn với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao động ( tổ chức đào tạo lại, môi giới...). + Thất nghiệp do thiếu cầu: xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là ở sự suy giảm tổng cầu. Loại thất nghiệp này thường gắn với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh nên còn gọi là thất nghiệp chu kỳ. + Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này xảy ra khi chính phủ hoặc công đoàn ấn định mức lương cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề việc làm . 3.1. Số lượng, chất lượng nguồn lao động và cơ cấu đào tạo. Đây là yếu tố thuộc về cung lao động. Chúng đóng vai trò quyết định đối với tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm cao hay thấp ở các quốc gia. Số lượng lao động càng lớn thì áp lực giải quyết việc làm sẽ càng lớn. Ngược lại nếu một quốc gia giảm dần được tốc độ tăng dân số quy mô lực lượng lao động sẽ biến đổi với tốc độ chậm dần, số lao động dư thừa trong nền kinh tế sẽ ít đi, khi đó tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống. Chất lượng lao động và cơ cấu đào tạo quyết định khả năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế mà cụ thể là của các đơn vị kinh tế sử dụng lao động. Thực tế cho thấy chất lượng lao động thấp là nguyên nhân của tình trạng không tuyển được nhân cần có trình độ chuyên môn kỹ thuật cuả các công ty, nhất là các khu công nghiệp, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu đào tạo giữa lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên với lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và số công nhân kỹ thuật bất hợp lý cũng là nguyên nhân của tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”. Các nước đang phát triển như Việt Nam luôn ỏ trong tình trạng dân số đông, lực lượng lao động lớn nhưng chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo không hợp lý. Vì thế, đối với các quốc gia này tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm đang là một vấn đề nan giải. 3.2. Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh sẽ tạo ra nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Nhân tố này lại phụ thuộc vào việc tăng cường huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước và từ nước ngoài (như FDI, ODA) và sự phát triển của các ngành các địa phương, của mọi thành phần kinh tế. Việc tăng chi tiêu của Chính phủ cũng góp phần làm giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu lao động của các ngành. Thông thường nếu như năng suất lao động không đổi hoặc tăng không đáng kể, tỷ trọng của một ngành trong GDP tăng lên ( như ngành Công nghiệp và Dịch vụ) hoặc giảm xuống ( như ngành Nông nghiệp) thì tỷ trọng lao động của ngành đó cũng sẽ tăng lên hoặc giảm xuống tương ứng. Khi GDP và năng suất lao động của các ngành đều tăng nhanh, mức tăng lao động trong các ngành sẽ chậm lại. Quá trình chuyển dịch kinh tế diễn ra đồng thời với việc tăng nhanh năng suất lao động có thể gây ra sự dôi dư lao động trong nền kinh tế. Chính vì vậy việc nghiên cứu xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động sẽ là căn cứ quan trọng để đưa ra các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề về lao động việc làm. 3.3. Sự ổn định kinh tế, chính trị. Sự ổn định về kinh tế, chính trị là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, tạo mở việc làm. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, bất ổn định nghiêm trọng, nguy cơ thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ ngày càng lớn. Những biến đổi lớn về chính trị như thay đổi Đảng cầm quyền, sụp đổ thể chế, bạo loạn, chiến tranh, mâu thuẫn sắc tộc, biểu tình, bãi công... cũng có những vấn đề tiêu cực đối với việc làm. 3.4. Sự di chuyển của lao động Các dòng di chuyển lao động bao gồm sự di chuyển lao động từ vùng này sang vùng khác, từ ngành này sang ngành khác, giữa các thành phần kinh tế và từ nước này sang nước khác. Do nhiều lý do khác nhau ( như tìm việc làm hoặc việc làm có thu nhập cao hơn, định cư...) người lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị, từ vùng Đồng bằng đông dân lên vùng Trung du, Miền núi; từ vùng kém phát triển này sang vùng phát triển hơn. Nhìn chung sự di chuyển lao động giữa các vùng sẽ làm giảm sức ép về việc làm của một số vùng nhưng có thể lại gây ra sự quá tải về số lượng lao động ở các vùng khác. Tuy nhiên nó cũng có những tác động tích cực như nâng cao thu nhập, giải quyết tình trạng thiếu việc làm của người dân nông thôn và các vùng nghèo, việc di cư đến các vùng thưa dân như miền núi, trung du sẽ góp phần giảm bớt tình trạng dư thừa lao động tại các vùng Đồng bằng. Sự di chuyển lao động giữa các ngành kinh tế hoặc từ khu vực Nhà nước sang khu vực ngoài quốc doanh, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện phân bố hợp lý lực lượng lao động trong từng ngành, từng khu vực, nhờ đó sẽ giảm bớt được số lượng lao động dôi dư. Sự di chuyển của lao động ra khỏi lãnh thổ Quốc gia dưới dạng xuất khẩu lao động hoặc xuất cảnh cũng góp phần điều chỉnh và làm giảm bớt sức ép về việc làm trong nước. Đây là một biện pháp mà các nước đang phát triển như Việt Nam đã và đang thực hiện. 3.5. Cơ chế, chính sách và các biện pháp phát triển kinh tế xã hội. Môi trường vĩ mô, trong đó bao gồm các cơ chế, chính sách và các biện pháp phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước có tác động quan trọng đối với vấn đề lao động việc làm. Việc thay đổi cơ chế quản lý ( từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường...) trong giai đoạn đầu sẽ khiến cho nhiều Doanh nghiệp Nhà nước bị thua lỗ, phá sản do không thích nghi được với điều kiện kinh doanh mới, dẫn đến nhiều lao động sẽ phải nghỉ việc. Tuy nhiên khi cơ chế mới đã vận hành ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế sẽ phát triển mạnh hơn, tạo ra nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế xã hội nói chung và đối với vấn đề lao động việc làm nói riêng của Nhà nước cũng có những tác động trực tiếp, gián tiếp đến tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm. Chính vì thế khi ban hành các chủ trương, biện pháp ở tầm vĩ mô, Nhà nước cần nghiên cứu, phân tích, đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với vấn đề lao động, việc làm, từ đó có những bổ sung điều chỉnh nhằm đảm bảo giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và mục tiêu giải quyết việc làm của đất nước. 3.6. Hỗ trợ cộng đồng và dịch vụ việc làm. Hỗ trợ cộng đồng bao gồm sự tham gia giải quyết việc làm của các đoàn thể quần chúng, sự tương trợ, trợ giúp lẫn nhau về thông tin, vốn, kỹ thuật để tạo mở và giải quyết việc làm trong xã hội. Dịch vụ việc làm là hoạt động hỗ trợ trực tiếp đối với người lao động. Nó thường được thực hiện qua các trung tâm Dịch vụ việc làm. Nhờ các hoạt động này, người lao động được tư vấn, được giới thiệu, cung ứng việc làm, người sử dụng lao động cũng được cung cấp các dịch vụ cần thiết theo hợp đồng. Đây là các nhân tố tác động tích cực và đóng vai trò quan trọng trong công tác giải quyết việc làm của các quốc gia. 3.7. Trợ giúp Quốc tế và giải quyết việc làm. Các quốc gia nhất là các nước đang phát triển thường nhận được các khoản trợ cấp quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề lao động việc làm. Một số nước phát triển còn cung cấp các khoản hỗ trợ song phương đối với lao động nước ngoài từng sinh sống và làm việc tại các quốc gia đó nhưng hết hạn hợp đồng hoặc phải trở về nước do có lý do về kinh tế hay chính trị ( như Quỹ Việt Đức, Quỹ Tiệp Khắc...). sự trợ giúp quốc tế về vốn đào tạo cán bộ... là rất cần thiết trong công tác giải quyết việc làm ở Việt Nam. III.Cơ cấu việc làm vàcác thị trường lao động. Thị trường lao động là biểu hiện quan hệ trao đổi diễn ra giữa một bên là người lao động với một bên là người muốn sử dụng lao động dựa trên nguyên tắc thoả thuận mua và bán sức lao động. Như vậy có thể coi sức lao động là hàng hoá và dịch vụ khác được mua và bán thị trường. Các nhà kinh tế cho rằng thị trường hoàn hảo là thị trường mà ở đó các hàng hoá được phân phối một cách hiệu quả thông qua giá cả. Nhưng ở mọi nơi, thị trường lao động chưa đều chưa hoàn hảo nhất là ở các nước đang phát triển. Thị trường lao động ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, bởi đặc trưng cơ cấu việc làm ba bậc, bao gồm: khu vực thành thị chính thức, khu vực phi kết cấu (khu vực thành thị không chính thức) và khu vực nông thôn. Việc làm và khu vực thành thị chính thức. Khu vực thành thị chính thức là nơi hầu hết mọi người đều thích làm việc nếu như có khả năng. Khu vực này bao gồm các tổ chức kinh doanh lớn như ngân hàng, công ty bảo hiểm, nhà máy, khách sạn, cửa hàng.. Những người lao động luôn chờ đón cơ hội được làm việc ở những nơi này, sức hẫp dẫn đối với họ là luôn được trả lương cao và cung cấp việc làm ổn định. Lý do cơ bản để họ được trả lương cao là vì ở những cơ sở này họ thuê những người lao động có trình độ chuyên môn cao, đã có trình độ cao đẳng, đại học, trung học. Vì vậy, ở khu vực này hầu như có một dòng người đang chờ việc làm. Tại khu vực thành thị chính thức, tiền lương được trả trên mức cân bằng của thị trường (w1>w0) và thường xuyên có dòng người chờ xin việc (L1’ >L1). (H1 : Cung- cầu lao động ở khu vực thành thị chính thức. Nguồn: Giáo trình kinh tế phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân) SL W2 W1 DL Lao động L2 L1 Việc làm và thị trường lao động khu vực thành thị không chính thức. Khu vực thành thị phi chính thức bao gồm những cửa hàng, những cơ sở kinh doanh bên lề đường, các đơn vị hoạt động tạp vụ ngoài đường, các cơ sở nhỏ khác nằm bên cạnh các cơ sở kinh tế lớn của khu vực thành thị chính thức. Những lao động ở khu vực này đại bộ phận là những người dân thành phố có vốn ít, trình độ chuyên môn thấp, một bộ phận ở nông thôn ra. Người lao động tham gia vào khu vực này khá dễ dàng, tuy nhiên thời gian làm việc hàng ngày tương đối dài, thu nhập thấp. Mặc dù vậy, mức thu nhập trung bình của người lao động trong khu vực này vẫn cao hơn ở khu vực nông thôn. Mức tiền công ở khu vực thành thị phi chính thức được xác định ở điểm cân bằng của thị trường. Mức tiền công này thấp hơn ở khu vực thành thị chính thức (w2<w1). (H2: Cung - Cầu lao động ở khu vực thành thị không chính thức. Nguồn: Giáo trình kinh tế phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân - 1999) Tiền công SL W2 DL L2 0 Lao động ở các nước đang phát triển, khu vực thành thị không chính thức được coi là khu vực quan trọng để tạo việc làm cho người lao động. Kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy ở Việt Nam, tỷ lệ lao động ở khu vực này khoảng 40-50% (ở khu vực thành thị phía Bắc). Hoạt động trong khu vực thành thị không chính thức ở nước ta có thể phân chia thành ba loại chủ yếu như sau: + Loại hình hoạt động đơn lẻ - gồm những người bán hàng vặt, hàng rong, cắt tóc, đạp xích lô, đánh giầy, bán vé số... + Loại hình hoạt động đã mang tính tập thể theo hình thức hộ gia đình hoặc một số người góp vốn. Loại hình này đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư và phương tiện hoạt động nhất định, người lao động có hiểu biết về chuyên môn nghề nghiệp. + Loại hình là những đơn vị kinh tế mà hoạt động của nó đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, tính tổ chức và hạch toán trong kinh doanh chặt chẽ hơn. Loại hình này có vốn đầu tư lớn hơn, có trang bị kỹ thuật và kinh doanh ổn định có hiệu quả. Việc làm và thị trường lao động khu vực nông thôn. Đối với các nước đang phát triển, lao động trong khu vực nông thôn thường làm việc trong phạm vi gia đình và mục đích không phải lấy tiền công mà để đóng góp phần mình vào sản lượng của gia đình. Tuy vậy, ở khu vực này vẫn tồn tại một thị trường lao động làm thuê, nhất là theo mùa vụ. Những người làm thuê này thường là do gia đình đông người, đất trồng trọt lại thiếu.. Mặt khác, ở nông thôn, các hộ gia đình vẫn duy trì hoạt động lao động trao đổi lao động vào các thời điểm khác nhau trong năm. Thu nhập của những trường hợp này có thể là đổi công hoặc được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật. ở khu vực nông thôn, người nông dân không chỉ làm nghề nông mà còn tham gia vào một số hoạt động phi nông nghiệp khác như buôn bán, dịch vụ, nghề thủ công. Tiền công của khu vực này được xác định tại điểm cân bằng W3 nhưng thấp hơn ở khu vực thành thị không chính thức. (H2: cung cầu lao động ở khu vực nông thôn. Nguồn: Giáo trình KTPT - Đại học KTQD 1999) Tiền công SL Giải quyết việc làm - vấn đề của mỗi quốc gia. ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Về mặt kinh tế. Giải quyết việc làm là vấn đề được đặt ra ở nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với một bộ phận dân cư, những người thiếu việc làm và thất nghiệp mà quan trọng hơn, nó tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. ở Việt nam hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động trước hết sẽ tạo điều kiện để khai thác được tối đa những nguồn lực quan trọng còn đang tiềm ẩn như tài nguyên vốn, ngành nghề.... thông qua lao động của con người. Khi người lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ và từ đó tạo ra tích luỹ. Nhà nước không những không phải chi trợ cấp cho những người nghèo không có việc làm mà khi giải quyết việc làm cho họ, họ có thể mang lại tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, thu hút thêm nhiều lao động. Mặt khác, khi người lao động có thu nhập, họ sẽ tăng tiêu dùng, từ đó làm tăng sức mua của toàn xã hội. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, tức là tác động đến tổng cung, tăng tiêu dùng sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên kích thích thích sự phát triển của sản xuất, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nước ta luôn tồn tại tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm nghiêm trọng. Đại bộ phận dân cư có mức sống thấp, nhiều người lao động cần có việc làm hoặc việc làm hiệu quả hơn. Giải quyết việc làm ở Việt nam trong tình trạng hiện nay có một ý nghĩa to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao thu nhập quốc dân. 2. Về mặt xã hội Giải quyết việc làm là một vấn đề mang tính xã hội. Mỗi con người khi trưởng thành đều có nhu cầu và mong muốn làm việc, đó là nhu cầu chính đáng và cũng là quyền lợi của người lao động. Chính vì vậy, giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động có ý nghĩ rất lớn đối với mỗi cá nhân và cả xã hội. Khi Chính phủ có chính sách tạo việc làm thoả đáng, điều đó sẽ đem đến sự công bằng trong xã hội, tạo công ăn việc làm cho tất cả lao động. Từ đó mà mọi người lao động có thu nhập, không phải lo ăn bám, hạn chế được sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội có thể giảm bớt. Ngược lại, nếu không giải quyết tốt việc làm cho người lao động, hiện tượng thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ tăng lên. Điều này luôn gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, ma tuý... làm rối loạn trật tự an ninh xã hội, tha hoá nhân phẩm người lao động. Thất nghiệp ở mức cao còn gây ra sự bất ổn định về kinh tế và chính trị, có khi nó còn là tác nhân gây ra sự sụp đổ của cả một thể chế, làm mất niềm tin của người dân đối với Nhà nước và các chính Đảng. Giải quyết việc làm trên phạm vi rộng còn bao gồm cả những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động. Trên giác độ này, giải quyết việc làm góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm đáp ứng những yêu cầu của thị trường, đồng thời xây dựng nguồn lực lâu dài cho đất nước. Giải quyết việc làm gắn liền với quá trình phân công lao động theo ngành và theo lãnh thổ. Nếu như không có các biện pháp tạo mở việc làm hợp lý cho khu vực nông thôn, nhiều người lao động ở khu vực này sẽ ra thành thị để tìm việc làm, gây sức ép cho khu vực thành thị trên tất cả các mặt như: nhà cửa, điện nước, y tế, thậm chí gây ra cả những rối loạn về mặt xã hội. II. Vai trò của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực giải quyết việc làm Sự ra đời và phát triển của Nhà nước gắn liền với sự hình thành và hoàn thiện các chức năng của mình. Giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội là một chức năng cơ bản bao trùm mà Nhà nước thường xuyên phải thực hiện. Khi vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm nảy sinh, Nhà nước phải đứng ra giải quyết nhằm ngăn chặn và giảm bớt những hậu quả về kinh tế xã hội mà vấn đề có thể gây ra, đồng thời hướng những tác động đó vào mục tiêu phát triển đất nước. Chính vì thế, khi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm càng cao thì vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực giải quyết việc làm sẽ càng lớn. Nhà nước có thể đưa ra nhiều chính sách và biện pháp khác nhau đểu giải quyết việc làm. Nhà nước tạo ra khuôn khổ pháp lý để giải phóng sức lao động, khuyến khích toàn dân tham gia phát triển sản xuất, tự tạo việc làm, khuyến khích các đơn vị kinh tế thu hút thêm nhiều lao động. Nhà nước sử dụng công cụ tài chính, phát huy vai trò của bộ máy Nhà nước, các đoàn thể xã hội để thực hiện các chính sách, biện pháp đưa ra như cho các đối tượng vay vốn với lãi suất thấp (ưu đãi), phát triển các dịch vụ việc làm và dạy nghề, tạo chỗ làm mới trong các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế ... Kết quả giải quyết việc làm ở các quốc gia sẽ phụ thuộc rất lớn vào mức độ quan tâm của Nhà nước cũng như các chính sách, biện pháp mà Nhà nước thực thi. Việc làm có mối quan hệ mật thiết với chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Vì vậy, giải quyết việc làm không những là nhiệm vụ của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của mọi người lao động và toàn xã hội. Trong đó, các tổ chức kinh tế xã hội, các đoang thể quần chúng đóng vai trò tích cực trong việc hướng dẫn giúp đỡ người lao động trang bị kiến thức, nghề nghiệp, tìm việc làm và tạo việc làm cho họ. Sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể này sẽ góp phần quan trọng cùng với Nhà nước giải quyết có hiệu quả những vấn đề lao động, việc làm đang được đặt ra. Nhà nước Việt nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đảng và Nhà nước đã khẳng định: Nền kinh tế nước ta “vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Chính vì thế, Nhà nước cùng với các đoàn thể xã hội cần phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong lĩnh vực giải quyết việc làm, một trong những vấn đề kinh tế xã hội cấp bách hiện nay. III. Kinh nghiệm một số nước trong lĩnh vực giải quyết việc làm 1. Kinh nghiệm của Trung Quốc: Trung Quốc là một nước láng giềng có nhiều nét văn hoá và xã hôi tương đồng với Việt Nam. Đây là một quốc gia có quy mô dân số và lao động lớn nhất trên thế giới. Chính vì thế, giải quyết việc làm ở Trung Quốc luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu. Sau gần hai thập kỷ cải cách mở cửa, Trung Quốc đã giành được những thành tựu nổi bật trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Với tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm (giai đoạn 1978-1985) đạt xấp xỉ 10%, Trung Quốc trở thành một nước có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Nhờ kinh tế phát triển trong cải cách mở cửa, Trung Quốc đã có điều kiện giải quyết một bước quan trọng vấn đề lao động và việc làm một trong những vấn đề khó khăn, nan giải nhất đối với một quốc gia đang phát triển có số đân khổng lồ, khoảng 1,2 tỷ người. Theo thống kê, từ khi tiến hành cải cách mở cửa đến năm 1995, Trung Quốc đã tạo được công ăn việc làm cho khoảng 228 triệu người, tương đương với đân số của các nước Anh, Pháp, Đức, ý cộng lại. Và nếu so sánh với toàn bộ thời kỳ 30 năm trước cải cách thì số lao động được sắp xếp việc làm ở Trung Quốc thời kỳ 1980-1985 đã nhiều hơn đến 30 triệu người, đó thực sự là một kỳ tích có một không hai của lịch sử hiện đại Trung Quốc và trên thế giới. Có được thành tựu đáng khích lện này là do Trung Quốc kiên trì thực hiện chính sách cải cách thể chế kinh tế ở cả nông thôn và thành thị. Trước hết đó là các chính sách hỗ trợ nông nghiệp phát triển như cơ chế khoản hộ trong nông nghiệp, chính sách về vốn đầu tư, tăng gái thu mua lương thực v.v... Bên cạnh đó, Trung Quốc phát triển fcác xí nghiệp hương trấn, một loại hình có nhiều ưu thế như sử dụng vốn ít, kỹ thuật đơn giản, mức lương tương đối thấp, thu hút được nhiều lao động. Theo các số liệu thống kê, trong vòng 10 năm (từ 1981 đến 1990), số người làm việc trong các xí nghiệp tăng từ 28,28 triệu đến 92,65 triệu. Trung Quốc cũng xây dựng các xí nghiệp nhỏ, phi quốc hữu hoá ỏ thành thị, thực thi chính sách phát triển sản xuất kinh doanh đa dạng với nhiều ngành nghề, nhiều loại sản phẩm, sắp xếp lại cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, phát triển dịch vụ ở Trung Quốc đã tăng hơn 3 lần. Lao động công nghiệp cũng tăng theo hướng cân đối và hợp lý hơn. Trên cơ sở đó, Trung Quốc thúc đẩy hình thành thị trường trong nước và hướng ra bên ngoài. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển các chế độ “ thị trường hoá việc làm” và do đó nâng cao trình độ chuyên môn hoá sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, Trung Quốc hiện nay vẫn đang phải đổi mặt với sức ép ngày càng tăng của ván đề lao động việc làm, trước hết là lực lượng lao động dư thừa một cách tiền tàng của bộ phận kinh tế dựa trên chế độ công hữu. Theo ước đoán, tổng số lao động cần việc làm ở Trung Quốc thời kỳ 1995-2010 sẽ rất lớn, mỗi năm cần phải tạo ra được 7,5 triệu chỗ làm việc mới. Trước tình hình đó, Trung Quốc đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu để giẩi quyết việc làm như sau: Thứ nhất, chú trọng phát triển nhanh hơn và nhiều hơn các ngành kinh tế cần nhiều sức lao động, áp dụng phương pháp lấy sức lao động thay vốn để giải quyết mâu thuẫn giữa thiếu nguồn vốn và thừa lao động. ở đây, một trong những biện pháp khả thi là đẩy nhanh sự phát triển các ngành dịch vụ. Thứ hai, xây dựng mô hình “thành phố nông thôn”. Hệ thống “thành phố nông thôn” này vừa thúc đẩy công nghiệp hó và đô t hị hoá, vừa góp phần phát triển các ngành sản xuất phi nông nghiệp, nâng cao độ đồng đều trong việc tạo dựng việc làm trên quy mô toàn quốc, trên cơ sở đó, giảm bớt gánh nặng về đời sống và việc làm cho các thành phố hiện nay và trong các năm tiếp theo. Thứ ba, bảo vệ và phát triển một cách hợp lý nhân tố tư bản tư nhân ở nông thôn, thực hiện đại chứng hoá tư bản. Việc khuyến khích người dân tích luỹ tư bản sẽ tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm nhiều hơn, giải tỷ lệ thất nghiệp trên tầm vĩ mô. Thứ tư, lựa chọn chiến lược ” xuất khẩu việc làm”, xuất khẩu hàng tinh chế do nguồn lao động chủ yếu trong nước sản xuất đưa lao động ra nước ngoài dưới nhiều hình thức, trong đó chú trọng hình thức đấu thầu các hạng mục kinh tế với nước ngoài. Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực, tháo gỡ từng bước vấn đề mâu thuẫn giữa yêu cầu chất lượng việc làm ngày càng cao với số lượng lao động dư thừa ngày càng lớn. Các giải pháp nêu trên đã và đnag có những đóng góp tích cực trong lĩnh vực giải quyết vấn đề lao động việc làm ở Trung Quốc. Đó cũng là những gợi ý có ích đối với Việt Nam trong vấn đề giải quyết việc làm. 2. Kinh nghiệm Đài Loan. Đài loan là một vũng lãnh thổ hải đảo với 80 đảo lớn nhỏ, tổng diện tích 36.000 km2, cách Trung Hoa đại lục 150 km. Dân số Đài loan đã tăng nhanh từ 8 triệu người năm 1952 lên tới 20 triệu người hiện nay. Mặc dù vậy, do Đài loan có những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, thu nhập tính bình quân đầu người của họ đã tăng nhanh từ 148 USD vào năm 1952 lên 7726 USD vào năm 1990 và nay đạt trên 10.000 USD. Trong giai đoạn 1953-1962, Đài loan đã đưa ra chiến lược phát triển, nông nghiệp gắn liến với chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và giải quyết việc làm. Đài loan chú trọng quy mô vừa và nhỏ, công nghệ không cao, xây dựng nhanh nên thu hồi vốn cũng nhanh, tạo được nhiều chỗ làm việc trọng giai đoạn khởi động nền kinh tế. Nhờ vậy, công nghiệp Đài loan trong giai đoạn này tăng bình quân hàng năm 11,7% số lao động công nghiệp tăng gấp rưỡi trong 10 năm (1952-1962) từ 36 vạn người lên 53,4 vạn người. Từ sau năm 1971, Đài loan luôn giữ ổn định về việc làm cho người lao động bằng một số biện pháp cơ bản sau: Thứ nhất - Phát triển mạnh mẽ kinh tế nông nghiệp bằng những cách thức cụ thể như: tăng vụ cây trồng 2-3 vụ lúa xen với 1-2-3 vụ cây trồng ngắn ngày; đa dạng hoá các hình thức kinh doanh với nhiều ngành nghề; đẩy mạnh cải cách ruộng đất theo phương thức: Bán ruộng đất công và thực hiện chính sách ruộng đất thuộc người cày, điều chỉnh lợi nhuận nông phẩm. Thứ hai - Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, gắn liền vấn đề tạo việc làm với vấn đề công nghiệp hoá. Thứ ba - Tích cự phát triển các ngành sản xuất cần nhiều lao động để đẩy nhanh tốc độ tạo ra nhiều việc làm. Thứ tư - Tích cực mở rộng mậu dịch đối ngoại và tăng cường khai thác thị trường quốc tế để tạo việc làm cho người lao động. Thứ năm - Nâng cao mức tăng tiền gửi tiết kiệm và đầu tư để tạo ra sự gia tăng việc làm. Thứ sáu- Giải quyết tối mối quan hệ giữa tăng việc làm và tăng thu nhập đảm bảo cho việc làm và thu nhập cũng tăng. Quá trình công nghiệp hoá được thực hiện với nhiều giải pháp nêu trên đã góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội ở Đài loan. Năm 1952, ở nước này, lao động nông nghiệp chiếm 50 %, lao động công nghiệp chiếm 16,9%, lao động dịch vụ chiếm 27%. Đến năm 1992, lao động nông nghiệp đã giảm xuống còn 12,8%, lao động công nghiệp tăng lên 40,2% và lao động dịch vụ tăng lên 46,9%. Do coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực hơn nhiều quốc gia khác trên thế giới, Đài Loan đã rút ngắn được khoảng cách trong thu nhập giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn. Thu nhập của nông dân Đài Loan hiện nay bằng 70% thu nhập của công nhân viên chức ở thành thị. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp của Đài Loan đã được duy trì ở mức thấp dưới 2%. 3. Kinh nghiệm Nhật Bản Sau năm 1945, nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá nặng nền do chiến tranh, thiệt hại về vật chất lên tới 61,6 tỷ yên. Hơn 13 triệu người rơi vào tình cảnh không có việc làm. Dòng người thất nghiệp từ thành thị đổ về nông thôn làm cho số hộ ở nông thôn tăng lên nhanh chóng, trước năm 1945, số hộ ở nông thôn khoảng 5,5 triệu, năm 1960 đã lên tới 6,18 triệu hô. Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra nhiều biện pháp và chính sách phát triển kinh tế tạo việc làm cho người dân. Nhật Bản đã tận dụng sự giúp đõ về tài chính và thị trường của Mỹ như nhận các đơn đặt hàng, các khoản viện trợ, đầu tư về vốn, máy móc, trang thiết bị trong giai đoạn đầu khôi phục kinh tế, tạo đà cho sự phát triển nhảy vọt sau này. Đặc biệt, người Nhật đã huy động và sử dụng vốn rất táo bạo và có hiệu quả. Tích luỹ của Nhật Bản luôn đạt từ 30-40% so với GDP trong giai đoạn từ 1951-1973, tiền lương bình quân của Nhật rất thấp, chỉ bằng 1/4 của Mỹ, 1/5 của Anh, 1/2 của Pháp. Mặc dù hạn chế chi tiêu cho phúc lợi xã hội, Nhật Bản vẫn đầu tư rất lớn cho giáo dục- đào tạo. Chính vì thế, người lao động ở Nhật Bản có trình đọ chuyên môn, kỹ thuật cao. Với nguồn vốn được huy động, tích luỹ, tiết kiêm, pháp hành công trái.... Nhật Bản đã đầu tư cho các ngành có điều kiện và hiệu quả cao như luyện kim , hoá chất, đóng tàu, chế tạo máy, lọc dầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng. Nhật Bản cũng đầu tư cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, chú trọng nghiên cứu khoa học ứng dụng. Thị trường của Nhật Bản ở nước ngoài và trong nước ngày càng được mở rộng. Hàng hoá của Nhật Bản đã xâm nhập vào các thị trường Đông Nam á, một số nước Châu Mỹ, Châu âu và được ưa chuộng, tín nhiệm của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhật Bản đã có chính sách và biện pháp nhằm thực hiện công nghiệp hoá nông thôn, vừa biến nền công nghiệp cổ truyền kiểu Châu á thành nền nông nghiệp tiên tiến, vừa phát triển công nghiệp nông thôn theo hướng đa dạng nhằm qiải quyết việc làm ở khu vực này. Các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp truyền thống cũng được khuyến khích phát triển. Vào những năm 70, tính QIVA C Tât Nam Nhật Bản, đã có phong trào “ Mỗi thôn làng một sản phẩm “ nhằm khai thác các ngành nghề cổ truyền nông thôn. Ngay năm đầu tiên, họ đã tạo ra 143 loại sản phẩm thu được 250 triệu USD. Đến năm 1992 tăng lên 1,2 tỷ USD. Phong trào phục hồi ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống đã lan rộng ra khắp nước Nhật, góp phần giải quyết biệc làm cho hàng triệu lao động, làm tăng mức sống cũng như tốc độ đo thị hoá của nông thôn Nhật Bản. Với nhiều chính sách và biện pháp hữu hiệu, Nhật Bản đã kiềm chế được tỷ lệ thất nghiệp ở mức trên dưới 2-3% trong rất nhiều năm kể từ khi tiến hành khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Đến đầu năm 1999, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản đã tăng lên cao nhất từ năm 1950 trở lại đây (4,8% trong quý đầu năm). Để đối phó với tình hình này, Chính phủ Nhật Bản đã thông qua chương trình “ cả gói” để giải quyết nạn thất nghiệp và cơ cấu lại các công ty. Chương trình sẽ góp phần tạo hơn 700.000 việc làm cho các thành phần kinh tế tư nhân thông qua các dự án của Chính phủ. Nhân sách bổ sung để thực hiện chương trình cả gói này là 500 tỷ yên (4,2 tỷ USD). Chính phủ sẽ cấp vốn cho các địa phương tạo việc làm trong 2 năm tới. Phần II Thực trạng về thị trường lao động thành phố vinh Nghệ an A- Phần cung lao động: I- Đặc điểm chung về dân số và lực lượng lao động 1. Đặc điểm của dân số điều tra. 1.1- Quy mô hộ gia đình và cơ cấu dân sô Quy mô hộ gia đình Quy mô hộ gia đình (số nhân khẩu/hộ) thường gắn liền với tỷ lệ sinh. Tuy nhiên các mối hạn hệ trong cuộc sống như mức độ quan hệ huyết thống, hôn nhân hay nuôi dưỡng của các thành viên, mức độ sống riêng hay chung của các hộ càng làm cho quy mô hộ gia đình lớn nhỏ khác nhau. Biểu 1: Một số đặc trưng hộ gia đình chia theo quy mô hộ <4 4á5 >5 Chung - Tổng số nợ 585 1.315 298 2.198 % so với tài sản 26,6 59,8 13,6 100 - Số nhân khẩu bq/hộ 2,7 4,4 6,4 4,2 - Số người trong độ tuổi lao động/hộ 2,0 3,0 4,2 2,9 % so số người/hộ 74,1 68,2 65,6 69,0 - Số người HSSKT/hộ 1,4 1,9 2,8 1,9 % số trong tuổi lao động 70,0 63,3 66,7 65,5 (Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An- Năm 1999- Bộ LĐ-TBXH/ Viện KHLĐ và CVĐXH) Số liệu cho thấy: - Số nhân khẩu bình quân hộ gia đình của dân số Thành phố Vinh vào loại thấp (so cả nước và nhiều địa phương khác) và có xu hướng giảm trong những năm gần đây (4,2 nhân khẩu/hộ so với 4,5 nhân khẩu/hộ ở cuộc điều tra lao động việc làm năm 1997). Sự suy giảm này có thể chủ yếu do việc giảm mức sinh và tách hộ của dân số. - Xem xét cơ cấu phẩn bổ nhóm hộ theo quy mô khác nhau cho thấy có tới 60% số hộ có quy mô từ 4 đến 5 người. Số hộ có quy mô lớn hơn cũng chỉ chiếm khoảng 14% tổng số. Số còn lại (khoảng 27%) là các hộ có quy mô nhỏ (<4 người). Từ cơ cấu phân bố này có thể nhận định rằng những năm gần đây dân số Thành phố Vinh đã có sự biến đổi khá rõ nét về quy mô từ hộ gia đình đông người sang hộ gia đình có quy mô nhỏ hơn. Quá trình biến đổ này gắn với sự suy giảm mức sinh và những tiến bộ to lớn trong phát triển kinh tế xã hội của Thành phố cũng như cuộc sống của mỗi gia đình. - Sự phân bố số người trong độ tuổi lao động, mặc dù không chịu ảnh hưởng rõ rệt của quy mô hộ gia đình nhưng cũng có sự khác nhau đáng kể giữa các hộ gia đình có quy mô khác nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt này không mang tính quy luật, vì thực tế hộ gia đình lớn nhỏ cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào mức sinh của dân số. Số liệu khảo sát cho thấy tỷ lệ nhân khẩu trong độ tuổi lao động (Nam: 15- 60 và nữ 15-55) của hộ gia đình giảm khi quy mô hộ gia đình lớn (trong thực tế cũng không hoàn toàn diễn ra theo một trật tự như vậy). Thực tế điều tra cho thấy ở những hộ gia đình có quy mô vừa và nhỏ (dưới 5 người) thường là những gia đình hạt nhân (vợ/ chồng và con cái) nên số người lao động thường chiếm tỷ lệ cao (tới 3/4) trong số thành viên hộ gia đình. ở những hộ gia đình đông người, một phần lớn do mức sinh cao (tỷ lệ trẻ em lớn), phần khác do có nhiều thế hệ hơn ( > 3 thế hệ) (tỷ lệ người già lớn) có thể là những nhân tố trực tiếp làm giảm tỷ lệ người trong độ tuổi lao động của hộ gia đình. Tình trạng hoạt động kinh tế của dân số trong độ tuổi lao động phân theo quy mô hộ gia đình có thể nói lên sức ép của dân số đối với việc giải quyết đối với những vấn đề có liên quan đến lao động, việc làm. Số liệu phân tích cho thấy tỷ trọng dân số hoạt động kinh tế không phụ thuộc một có trật tự vf quy moo hộ gia đình mà chủ yếu phụ thuộc vào cấu trúc tuổi của các thành viên, đối tượng hoạt động kinh tế của hộ và các thành viên trong hộ. Theo kết quả điều tra số người hoạt động kinh tế chiếm tỷ lệ cao nhất (70%) là ở hộ gia đình nhỏ (<4 người - trung bình 2,7 người) và thấp hơn cả là ở hộ có quy mô trung bình (4-5 người). Điều này có thể được giải thích rằng hộ có 4-5 người thường là hộ gia đình hạt nhân có tỷ lệ cao hơn về số trẻ em trong độ tuổi đi học so với các nhóm hộ gia đình khác, cả đối với hộ có 6 người trở lên. Hơn nữa hộ gia đình ít người và hộ gia đình đông người cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những tác động về kinh tế và đời sống. ở những hộ gia đình này, các thành viên trong độ tuổi thường phải tìm cách để có việc làm nên tỷ lệ hoạt động kinh tế thường cao hơn nhóm hộ gia đình có quy mô trung bình 1.2. Cơ cấu giới tính - độ tuổi. Từ các số liệu cho thấy. - Dân số của các hộ gia đình được khảo sát có cơ cấu tuổi vào loại “lý tưởng” so với dân số chung cả nước cũng như của nhiều địa phương khác vì số người trong độ tuổi lao động chiém tỷ lệ rất cao (68-69%) và tỷ lệ trể con (0-14 tuổi) rất thấp (23,8%). Do dự phân bố này mà tỷ lệ người già (>60 tuổi) cũng chỉ xấp xỉ 8%. Điều đáng lưu ý rằng số người ở độ tuổi lao động xung mãn nhất (20-45 tuổi) chiếm tởi hơn 1/3 dân số đuực khảo sát. Do vậy, gánh nặng dân số phụ thuộc (tỷ lệ trẻ em 0-14 tuổi và người già trên 60 tuổi so với dân số trong độ tuổi 15-60) vào loại rất thấp (31,6%). Điều này, có nghĩa là ở thành phố Vinh hiện nay, 2 lao động chỉ phải nuôi không đến 1 người ăn theo - Đây là một trong những thế mạnh của nguồn nhân lực thành phố. Biểu2: Phân tích dân số theo nhóm tuổi và theo giới Nhóm tuổi Chung Nam Nữ Tỷ số giới tính (Nam/100nữ) <13 19,0 19,9 18,5 104,3 13á14 4,7 4,9 4,5 105,2 15á24 21,4 21,9 21,0 101,0 25á45 27,7 26,9 28,3 91,64 46á55 15,0 13,4 16,6 78,2 56á60 4,4 5,1 3,6 137,1 61á65 2,4 2,7 1,9 149,3 >65 5,4 5,2 5,6 90,0 Tổng số 100,0 100,0 100,0 96,7 (Nguồn: Báo cáo phân tích kế quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An-năm 1999 Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH) Biểu 3: Cơ cấu dân số theo giới và 3 nhóm tuổi lớn Nhóm tuổi Chung Nam Nữ Tỷ số giới tính (Nam/100nữ) So sánh ĐTLĐ-VL (1997) Cơ cấu Tỷ số giới tính 0á14 23,8 24,8 23,0 104,28 35,0 105,4 15á60 68,4 67,2 69,5 93,58 57,2 94,4 >60 7,8 8,0 7,5 102,82 7,8 66,3 Tổng số 100,0 100,0 100,0 96,73 100,0 95,3 (Nguồn: Báo cáo phân tích kế quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An-năm 1999 ,Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH) Cơ cấu giới tính và tuổi tác là một trong những đặc trưng quan trọng nhất của dân số. Trước hết, phân bố dân số theo giới tính và tuổi được tạo nên bởi xu hướng biến đổi của mức sinh, tử vong và di chuyển của dân số. Trên góc độ phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và hộ gia đình nói riêng, tỷ lệ cao dân số trong tuổi lao động và sự cân bằng hơn về giới tính sẽ là mục tiêu quan trọng của phát triển xã hội và là chỉ số quan trọng thể hiện một phần chất lượng của dân số. Biểu 2 và biểu 3 cho thấy rõ hơn những đặc trưng về cơ cấu độ tuổi và giới tính của dân số điều tra. - Hình như có sự phân bố không bình thường về tỷ số giới tính (số Nam/100 nữ) của dân số ở độ tuổi già, đặc biệt là ở 2 nhóm tuổi 56-60 và 61-65 - nhóm tuổi có số nam nhiều hơn nữ tới 1,3 - 1,4 lần. Tính đặc thù này có thể do tác động của dòng di cư từ nông thôn về thành phố mà phần đông họ là những nam giới ở độ tuổi về hưu. Bên cạnh đó, mẫu điều tra cũng có thể là một yếu tố ảnh hưởng đến sự phân bố này. 2. Lực lượng lao động (LLLĐ) Lực lượng lao động (trong cuộc điều tra này) được hiểu là một bộ phận dân số ở độ tuổi 13-65 trực tiếp tham gia hoặc đang cố gắng tham gia vào các hoạt động kinh tế. Do vậy, LLLD ở đây được đồng nhất với “Dân số hoạt động kinh tế “ (ở độ tuổi trên). Như vậy, những người già trên 65 tuổi, những trẻ em dưới 13 tuổi, những người tàn tật về mặt thể xác hay tinh thần,... thường không tham gia vào LLLĐ - hay dân số không hoạt động kinh tế. 2.1. Phân bố LLLD theo độ tuổi và tình trạng hoạt động kinh tế Theo số liệu điều tra (Biểu 5) tổng nguồn lao động ( bao gồm những người từ 13 - 65 tuổi có khă năng lao động )trong tổng dân số được khảo sát là 6.881 người (chiếm 75,6% dân số), trong đó nam 3.340 người (chiếm 48,5%) và nữ : 3.541 người (chiếm 51,5%) bao gồm những người có việc làm (có hoạt động kinh tế )và những người có khả năng lao động nhưng không tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh (đang thất nghiệp, đi học, nội trợ và tình trạng khác). Biểu 5: Phân bố dân số 13á65 TS Có việc làm (HĐKT) Không có việc làm (Dân số không HĐ KT) TS Chia ra Người % Người % Người % Thất nghiệp Đi học (%) Nội trợ (%) KCKNLĐ (%) Khác 1. TS 6949 100 4147 59,6 2802 40,4 3,7 27,3 1,6 1,5 6,3 Nam 3395 100 1595 57,7 1436 42,3 4,8 28,9 0,1 1,8 6,7 Nữ 3554 100 2288 61,5 1366 38,5 2,7 25,8 3,0 1,2 5,8 Theo nhóm tuổi 6949 100 4147 59,6 2802 40,4 3,7 27,3 1,6 1,5 6,3 13á14 430 100 4 0,9 426 99,1 0 97,0 0,0 1,6 0,5 15á18 1021 100 46 4,5 975 95,5 1,5 93,0 0,1 0,7 0,3 19á24 951 100 336 35,3 615 64,7 10,6 50,6 1,2 2 0,3 25á45 2545 100 2259 88,8 286 11,2 5,1 1,8 2,2 1,3 0,8 46á55 1385 100 1136 82,0 249 18,0 0,7 1,4 1,5 1,4 14,2 56á60 401 100 257 64,0 144 36,0 0,5 0 3,2 2 30,3 61á65 216 100 109 79,8 107 50,2 0 0 4,6 5 40,6 Từ các số liệu trên có thể cho nhận xét chung là: Dân số hoạt động kinh tế chiếm tỷ lệ khá cao (60%) (số còn lại là dân số không hoạt động kinh tế 40%) trong dân số chung: Trong đó tỷ lệ cao hơn là ở LLLĐ nữ (61,5%). Có thể thấy rằng tại thời điểm điều tra, tỷ lệ thất nghiệp của dân số trong độ tuổi 13-65 rất thấp (3,7%) và những người còn đi học chiếm tỷ lệ khác cao (27%) trong đó nam chiếm tỷ lệ cao hơn nữ. Số người đang học chiếm tỷ lệ cao vì đối tượng khảo sát bao gồm cả dân số trong độ tuổi đi học phổ thông (13-18 tuổi) (1458 người, chiếm 21%) và số khác đang theo học các trường chuyên môn kỹ thuật tại địa phương. Tỷ lệ dân số có việc làm khác nhau theo từng nhóm tuổi. Sự khác biệt này có xu hướng đạt tỷ lệ thấp nhất ở độ tuổi dưới 24; đạt tỷ lệ rất cao ở các nhóm tuổi 25-45 và 46-55; và giảm dần theo độ tuổi già. Do hầu hết những người ở độ tuổi 13-18 và hơn một nữa số người ở độ tuổi 19-24 đang đi học nên những người này sống phụ thuộc vào lực lượng lao động có việc làm. Điều đáng chú ý rằng tỷ lệ thất nghiệp cao nhất là ở nhóm tuổi 19-24 (11%). Số liệu này cũng phù hợp với kết quả điều tra lao động việc làm toàn quốc ở khu vực thành thị. Có thể tin rằng một tỷ lệ khá đông những người ở độ tuổi này sau khi ra trường đã chưa tìm được việc làm hoặc đang tìm chọn việc làm tốt hơn và phù hợp hơn với năng lực của mình. 2.2. Trình độ học vấn. Học vấn là một chỉ tiêu dùng để tính chỉ số phát triển còn người (HDI). Nó là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất quyết định chất lượng của lực lượng lao động, là tiền đề tạo khả năng và cơ hội tiếp cận với việc làm, đặc biệt trong điều kiện phát triển của thị trường lao động. Trình độ học vấn phổ thông và chuyên môn kỹ thuật cũng chịu ảnh hưởng của cơ cấu tuổi, giới tính và tình trạng hoạt động kinh tế của LLLĐ. 2.2.1. Học vấn phổ thông LLLD của Thành phố Vinh có trình độ học vấn phổ thông vào loại cao, cao hơn nhiều so với mức bình quân chung của khu vực thành thị trong cả nước và có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây (Biểu 6). Kết quả này cũng khẳng định trình độ học vấn cao của LLLĐ Thành phố trong cuộc điều tra thông kế thông tin thị trường lao động năm 1998. Biểu 6: Trình độ học vấn phổ thông của LLLĐ được điều tra, so sánh với số liệu điều tra lao động việc làm năm 1997 ĐT 1999 (13á65 tuổi) So sánh điều tra 1997 (15 tuổi) TP Vinh Tỉnh Nghệ An Cả nước 1. Không biết chữ 0,6 1,54 0,9 5,1 2. Chưa tốt nghiệp tiểu học 1,8 2,85 6,8 - 3. Tốt nghiệp tiểu học 4,1 9,5 18,9 28,1 4. Tốt nghiệp PTCS 27,5 42,66 56,3 32,7 5. Tốt nghiệp PTTH 44,8 44,44 17,1 14,14 6. Đang học và khác 21,2 - - - TS 100,0 100,0 100,0 - (Nguồn: Báo cáo phân tích kế quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An-năm 1999 Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH) Chỉ tính riêng số người tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT) đã chiếm tới 71-72% số đối tượng đựoc phỏng vấn ( tỷ lệ này trong cuộc điều tra 1998 là 61,9%) trong đó số tốt nghiệp THPT chiếm tới 44%. - Sự chênh lệch về trình độ học vấn phổ thông được thể hiện khác rõ theo độ tuổi của LLLĐ (Biểu 7). Biểu 7: Trình độ học vấn phổ thông của dân số 13- 65 tuổi theo độ tuổi Không biết chữ Chưa TN tiểu học TN tiểu học TN THCS TN PTTH Đang học khác TS % Người 13-14 1,4 0,5 3,3 0,2 0,0 94,7 100 430 15-24 0,7 0,8 3,0 11,9 29,7 54,0 100 1,972 25-45 0,4 1,1 2,9 32,8 62,9 0,0 100 2545 46-55 0,3 1,8 4,3 44,7 118,7 0,2 100 1,385 56-60 0,5 6,5 9,2 40,1 43,8 0,0 100 401 61-65 2,8 12,0 18,1 30,1 37,0 0,0 100 216 % 0,6 1,8 4,1 27,5 44,8 21,2 100 TS 42 122 288 1912 3111 1474 6949 (Nguồn: Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động Thành phố Vinh- Nghệ An năm 1999- Bộ LĐ-TBXH- Viện KHLĐ và CVĐXH) ở độ tuổi 13-24 có tới 61% vẫn đang đi học, chủ yếu ở các trường phổ thông, nên sự so sánh trình độ học vấn đã đạt được so với các nhóm tuổi cao hơn là chưa có ý nghĩa thực tiễn, vì họ chưa kết thúc quá trình học tập của mình. Song điều đáng quan tâm ở đây là ở cả độ tuổi 13-14 và 15-24 của dân số Thành phố Vinh có tỷ lệ đang đi học rất cao, nếu so sánh với nhiều khu vực đô thị khác trong cả nước. Điều này một mặt cũng khẳng định thêm trình độ học vấn khá cao của LLLĐ, mặt khác cũng thể hiện truyền thống hiếu học cao của người dân thành phố đã được khẳng định trong thực tiễn. Điều dễ nhận thấy rằng những người ở độ tuổi 25-45 có trình độ học vấn phổ thông cao nhất (63%); sau đó giảm dần theo độ tuổi già và có trình độ tuổi thấp hơn là ở độ tuổi 61-65. Như vậy, phần lớn những người có trình độ học vấn cao nhất đều sinh ra sau những năm hoà bình ở miền Bắc và thống nhất đất nước (1975) Những người ở độ tuổi này thường có nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi hơn để hưởng thụ nền giáo dục ưu việt của thời kỳ bao cấp và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Trình độ chuyên môn - kỹ thuột (CMKT). Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động có quan hệ chặt chẽ với trình độ học vấn phổ thông, mặc dù mối quan hệ này cũng không hoàn toàn theo một trình tự nhất định. Cũng như trình độ học vấn phổ thông, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động thành phố Vinh được khảo sát trong cuộc điều tra này là rất cao vì có tới 55% trong số 6949 đối tượng được hỏi có trình độ chuyên môn kỹ thuật các loại, từ trình độ sơ cấp đến đại hoc, trên đại học và được phân bổ như sau: Biểu8: Trình độ CMKT của lực lượng lao động so với các địa phương khác năm 1997. ĐT 1999 So sánh 1997 (Điều tra lao động - việc làm) KV thành thị (TP Vinh) Toàn thể Nghệ An Cả nước (KVTT) 1. Không có CMKT 45,3 54,8 88,1 70,6 2. Có CMKT 54,7 45,2 11,9 29,4 + Sơ cấp 5,4 4,8 2,9 KXĐ + CNKT có bằng và không có bằng 15,4 12,3 2,8 12,1 + Trung cấp 16,5 19,3 4,4 8,3 + CĐ, ĐH trên ĐH 11,0 8,8 1,8 8,9 + Đang học, khác 6,5 - - - Tổng số 100,0 100,0 100,0 Như vậy, chỉ tính riêng số có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên đã chiếm tới 27-28% số đối tượng được hỏi; trong đó cứ 10 người trong độ tuổi 13-65 thì có 1 người đạt trình độ cao đẳng, đại học. Trình độ CMKT của lực lượng lao động thành phố cũng được nâng lên rõ rệt, nếu so với số liệu điều tra năm 1997, sau khoảng 2 năm, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật các loại tăng lên 8-9% trong đó rõ hơn là ở đội ngũ công nhân kỹ thuật và cao đẳng đại học trở lên. Do đa số ngừơi ở độ tuổi dưới 24 còn đang đi học nên số người đã có được trình độ CMKT tập trung ở các nhóm tuổi còn lại. Số liệu điều tra cho thấy trong số 3804 người ở độ tuổi 13-65 có được trình độ CMKT nhất định thì 73% số họ là những người ở độ tuổi 25-55, trong đó 45% số họ là ở độ tuổi 25-45. Những người có trình độ cao từ trung cấp trở lên cũng tập trung ở độ tuổi 25-55 này. Sự phân bố này cũng cần được xem xét rõ hơn trong mối quan hệ với mật độ phân bố mẫu. Nếu như số người được phỏng vấn trong nhóm tuổi 25-45 và 46-55 chiếm tỷ lệ tương ứng 37% và 20% tổng số mẫu điều tra thì tỷ lệ người có trình độ CMKT tương ứng là 43% và 90%. Biểu9: Phân bố số người theo trình độ CMKT và theo nhóm tuổi. Đơn vị: % Nhóm tuổi không có CMKT Sơ cấp CNKT trung cấp CĐ, ĐH, trên ĐH Đang học khác Tổng số 13-24 25-45 46-55 56-60 61-65 57,3 26,8 10,1 3,3 2,5 6,1 42,9 36,3 11,2 3,5 8,6 57,7 25,1 5,9 2,6 5,5 44,5 35,8 9,9 4,3 7,0 43,8 32,9 10,5 6,1 81,4 17,7 0,4 0,4 0,0 2401 2544 1386 402 216 Tổng số 100 100 100 100 100 100 6949 % người 45,3 3145 5,4 375 15,4 1066 16,5 1143 11,0 768 6,5 452 100 6949 Trình độ CMKT cũng phụ thuộc vào cơ cấu tuổi của dân số. Nếu như trình độ học vấn phổ thông ở những người ở độ tuổi 25-45 cao hơn các nhóm khác thì ở CMKT nhóm người đạt trình độ cao hơn lại thường ở những người trong độ tuổi 46-65 (biểu 10). Kết quả quan sát này có thể bị ảnh hưởng bởi một phần trong mẫu điều tra có tới gần 1/3 số họ lại ở độ tuổi 46-60. Tỷ lệ những người ở độ tuổi này trong các nhóm dân cư khác rất thấp, chỉ giao động 10% ở nhóm thành viên hộ gia đình đến 21% ở nhóm người tự tạo việc làm. Một trong những nguyên nhân cơ bản để lực lượng lao dộng thành phố Vinh có trình độ khá cao về CMKT và được nâng cao trong những năm gần đây là do thành phố có thế mạnh về các cơ sở giáo dục và đào tạo. Thành phố Vinh là trung tâm hành chính của tỉnh, là nơi có nhiều trường cao đẳng, đại học, dạy nghề của cả trung ương và địa phương vốn được xây dựng ngay từ những năm 60 và không ngừng được phát triển, mở trộng trong nhiều năm gần đây. Hơn nữa, những năm gần đây do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng kinh tế thị trường và các ngành kinh tế có nhu cầu cao về sử dụng lao động kỹ thuật và ứng dụng công nghệ hiện đại là nhân tố quan trọng thúc đẩy lực lượng lao động thành phố phải có được CMKT nhất định. Theo số liệu thống kê (1997) tại thành phố có 47.994 lao động có trình độ CMKT các loại (chiếm 1/3 lao động kỹ thuật toàn tỉnh) trong khi dân số của thành phố cũng chỉ chiếm hơn 8% dân số toàn tỉnh. Sự tập trung lực lượng lao động kỹ thuật này (một phần do sự hẫp dẫn của thành phố) đã làm cho lực lượng lao động có trình độ CMKT chiếm tỷ trọng rất cao trong lực lượng lao động nói chung của thành phố. Biểu10: Trình độ CMKT của dân số 13-65 tuổi, pghân theo độ tuổi. Đơn vị: %. Nhóm tuổi không có CMKT sơ cấp CNKT trung cấp CĐ, ĐH, trên ĐH Đang học khác Tổng số 13-24 25-45 46-55 56-60 61-65 75,0 33,1 22,9 25,9 36,6 1,0 6,3 9,8 10,5 6,0 3,8 24,2 19,3 15,7 13,0 2,6 20,0 29,5 28,1 22,7 2,2 13,2 18,3 19,4 21,7 15,3 3,1 0,1 0,5 0,0 100 100 100 100 100 Chung 45,3 5,4 15,4 16,5 11,0 6,5 Nguồn: Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động thành phố Vinh, Nghệ An - năm 1999 - Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH. Lực lượng lao động của thành phố có trình độ CMKT cao là một thế mạnh trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Song điều đáng quan tâm hơn là vất đề chất lượng và cơ cấu ngành nghề đào tạo của lực lượng lao động này. Mặc dù cuộc điều tra chưa đề cập đến vấn đề quan trọng này, song cũng có thể cho rằng trong số lực lượng lao dộng có trình độ CMKT nhất định cũng còn quá thiếu những người thợ và những người quản lý kin doanh giỏi có thể đáp ứng đầy đủ sự phát triển ngaỳ càng cao của nền kinh tế thị trường và các chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. II.Đào tạo và sử dụng lao động CMKT. Lực lượng lao động của thành phố Vinh có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cũng phần nào biện minh cho công tác đào tạo của điạ phương. Tại thành phố này có hệ thống các trường đào tạo chính quy (trong đó có trường đại học sư phạm Vinh, trường công nhân kỹ thuật Việt Nam - CHDC Đức trước đây) và không chính quy với phương thức hoạt động khác nhau như: “trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm” hoặc “cơ sở dạy nghề tư nhân”... Các hệ thống không đào tạo này góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ CMKT của lực lượng lao động thành phố. 1. Tình hình sử dụng CMKT trong công việc hiện tại: Trong thực tế, giữa chuyên môn kỹ thuật được đào tạo và thực tế công việc làm không phải lúc nào cũng được “sử dụng thoả đáng, đúng nghề” như chúng ta mong muốn. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này trong đó có sự mất cân đối nghiêm trong công tác đào tạo. Chúng ta thừa nhận một thực tế rằng ngành nghề đào tạo nhiều năm qua vừa thừa vừa thiếu, mất cân đối cả về quy mô đào tạo ở các trình độ khác nhau (CNKT, trung cấp, cao đẳng, đại học). Mức độ phù hợp giữa CMKT được đào tạo với công việc đang làm được trình bày ở biểu11 chỉ là một khía cạnh quan trọng phản ánh tính hợp lý trong công tác đào tạo và sử dụng lao động CMKT trong thực tiễn. Biểu11: CMKT được đào tạo của nguồn lao động phân theo tính chất phù hợp với công việc đang làm. Đơn vị: %. TS Phù hợp Không phù hợp CV chính CV phụ 1 CV chính CV phụ 1 1. Sơ cấp 100 56,4 11,5 43,6 88,5 2. CNKT Không bằng 100 73,9 25,3 26,1 74,7 3. CNKT có bằng 100 72,8 21,4 27,2 78,6 4. Trung cấp 100 66,5 16,2 33,5 83,8 5. CĐ, ĐH 100 90,4 35,6 9,6 64,4 6. Trên ĐH 100 100,0 93,0 0,0 7,0 7. Đang học và khác 100 81,4 22,7 18,6 77,3 Chung 100 74,4 22,0 25,6 78,0 (Nguồn: Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An năm 1999 - Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH). Từ số liệu trên cho thấy: + Có 3/4 số người được hỏi cho rằng lĩnh vực CMKT của mình được đào tạo đã được sử dụng phù hợp với công việc chính mà họ đang làm. Với các công việc phụ mà họ làm thêm thì CMKT được đào tạo chỉ được hơn 1/5 số người sử dụng tới. + Những người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên có xu hướng sử dụng đúng nghề đào tạo hơn so với những người được đào tạo ở trình độ thấp hơn. Đặc biệt một tỷ lệ khá cao những người có CMKT được đào tạo ở hệ sơ cấp (44%) và trung cấp (34%) đang làm những công việc không phù hợp hoặc không đúng với chuyên môn đào tạo. Tình hình trên có thể cho phép nhận định rằng: + CMKT được đào tạo của lực lượng lao động thành phố Vinh cũng đã được phân bố và sử dụng “tới mức tối đa” trong thực tiễn. Với ba phần tư số người được đào tạo có công việc làm phù hợp với chuyên môn được đào tạo cũng l à một thành công đáng kể trong điều kiện thực tế của nước ta nói chung và ở thành phố Vinh nói riêng. + Sự phù hợp hay không phù hợp giữa CMKT được đào tạo với công việc đang làm cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố, ví dụ như một người đã qua được một số chương trình và lĩnh vực đào tạo khác nhau. Hơn nữa, “cảm giác phù hợp” hay “ không phù hợp” của người trả lời nhiều khi chỉ mang ý nghĩa tương đối. Song có thể khẳng định rằng việc đào tạo CMKT ở trình độ sơ cấp cũng sẽ không giúp được nhiều trong công việc, trong khi đào tạo CMKT có xu hướng ngày càng gia tăng, lĩnh vực đào tạo được sử dụng khá phổ biến trong thực tiễn, nhất là trong điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường hiện nay. 2.Nhu cầu đào tạo. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sức ép việc làm và yêu cầu cao về loại việc làm ngày càng gia tăng. Do vậy, nhu cầu được đào tạo về chuyên môn được học nghề , trang bị kiến thức và các chuẩn bị hành trang nghề nghiệp của mỗi cá nhân là đòi hỏi bức thiết và ngày một tăng lên. Tuy nhiên, nhu cầu đào tạo này còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của địa phương và hoản cảnh cụ thể của đối tượng được hỏi. Số lượng và hình thức đào tạo trong số 6567 người ở độ tuổi 15-65 được hỏi về nhu cầu đào tạo trong tương lai, kết quả trả lời được phân bố ở biểu 12. Biểu 12. Nhu cầu đào tạo của người lao động phân theo hình thức đào tạo tuổi và giới tính. Đơn vị: % TS (%) Có nhu cầu đào tạo Chia theo hình htức đào tạo chung Ngắn hạn Dài hạn Người % Chung T.C C.Đ ĐH Trên ĐH 15 - 24 100 173 8,8 72 101 8 7 86 0 25 - 55 100 216 5,5 96 120 21 7 76 16 56 - 60 100 3 0,7 3 0 0 0 0 0 61 - 65 100 2 0,9 2 0 0 0 0 0 (Nguồn: Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An - năm 1999 - Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH) Số liệu điều tra cho thấy: Số người có nhu cầu đào tạo về CMKT chiếm tỷ lệ rất thấp (6%), trong đó cao hơn là ở độ tuổi 15-24 và 25-50. Trong số 394 người có nhu cầu đào tạo thì : nhu cầu đào tạo dài hạn có 221 người (chiếm 56%) trong đó chủ yêú là đào tạo đại học và trên đại học. Số còn lại (44%) là nhu cầu đào tạo hệ ngắn hạn, Sở dĩ số người có nhu cầu đào tạo chiếm tỷ lệ thấp là do: + Trong mẫu điều tra bao gồm cả những người đã được đào tạo và đã có trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. Số người này chiếm tới 55% tổng số người ở độ tuổi 55-65 được hỏi. Những ngừơi này hầu như không hoặc ít có nhu cầu đào tạo thêm. Do vậy, số người có nhu cầu đào tạo thêm sẽ chiếm tỷ lệ cao hơn nếu tách riêng số đã được đào tạo và có trình độ nhất định về CMKT. + Nhu cầu đào tạo thường xảy ra trong một bộ phận dân cư, nhất là đối với những người ở độ tuổi trẻ - độ tuổi bắt đầu lập nghiệp và có trình độ học vấn nhất định. Do vậy, những đánh giá về nhu cầu đào tạo sẽ có ý nghĩa hơn đối với những người ở độ tuổi thanh niên và ở độ tuổi lao động xung mãn. Song số liệu thể hiện qua cuộc điều tra có thể chưa thể hiện hết những nhu cầu đào tạo của lực lượng lao động ở độ tuổi này. Còn đối với những người không có nhu cầu về đào tạo, họ nêu một số lý do chủ yếu sau đây: Không có thời gian 42,6% Học phí quá cao 21,2% Không có đủ điều kiện 33,0% Các lý do khác9,0%. Nhu cầu về đào tạo nghề và thời gian đào tạo Câu hỏi về nhu cầu nghề được đào tạo và thời gian đào tạo được đặt ra đối với những người có nhu cầu đào tạo ngắn hạn nhằm ghi lại những nguyện vọng và dự định của họ về học nghề trong tương lai. Trong số 173 người có nhu cầu được đào tạo theo hệ này thì nguyện vọng về nghề được đào tạo phân bố như sau( biểu 13) Biểu13- Nhu cầu về nghề đào tạo ngắn hạn. Đơn vị % Số người Cơ cấu (%) Thời gian đào tạo TB (tháng) 1. Cơ khí 52 30,1 8,0 2. Xây dựng 17 10,1 3,2 3. Điện tử 18 10,4 12,3 4. May mặc 30 17,3 5,8 5. Lái xe 15 8,7 9,7 6. Ngoại ngữ 10 5,8 13,8 7. Vi tính 10 5,8 13,6 8. Khác 21 12,1 9,4 (Nguồn: Báo cáo phân tích tổng hợp thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An năm 1999 - Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH) Phụ thuộc vào điều kiện thực tế, khả năng thực hiện và nhận thức của mình, những người được hỏi đều có ít nhất một nguyện vọng hoặc dự định sẽ học trong tương lai. Từ số liệu thu được cho ta thấy: - Phần đông số người muốn được học nghề cơ khí (30%) chủ yếu là nam giới, kế đến là nghề may, sửa chữa điện tử, may mặc và lái xe. Còn ngoại ngữ và vi tính, mặc dù rất quan trọng và hẫp dẫn trong đào tạo và lập nghiệp hiện nay nhưng cũng chỉ mới có 20 người (trong tổng số 173) có nguyện vọng được học các nghề này. Từ thực tế này, có thể cho rằng nguyện vọng được đào tạo cũng đa dạng, phản ánh nhận thức của người dân về các khía cạnh khác nhau của nhu cầu lao động trên thị trường lao động. Những nghề tập trung được nhiều người có nhu cầu đào tạo phần nào cũng phản ánh sự phát triển kinh tế của địa phương hiện nay cũng như trong tương lai. Song điều quan trọng hơn, để có một bức tranh về nghề nghiệp trong tương lai của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá thì việc cung cấp các thông tin về đào tạo nghề cho người dân là rất quan trọng và khi đó nguyện vọng học nghề của người dân sẽ đa dạng và phong phú hơn. -Thời gian đào tạo nghề được người dân đề bạt giao động từ 3 đến 14 tháng/ khóa tuỳ thuộc vào lĩnh vực nghề được đào tạo. Sự kéo dài hơn về thời gian học ngoại ngữ, vi tính, điện tử... so với các nghề đào tạo khác cũng thể hiện sự nhận biết của người dân về tầm quan trọng của các chương trình đào tạo này. Cũng cần lưu ý rằng nhu cầu về thời gian đào tạo của của người dân chỉ mang ý nghĩa tương đối, vì những người có nguyện vọng đào tạo có thể bao gồm những người mới bắt đầu đi học, một số khác muốn tiếp tục đi học các khóa nâng cao, hoặc muốn được bổ túc thêm về nghề nghiệp có thể, sự phân bố thời gian của một khoá đào tạo ngắn hạn theo từng lĩnh vực chuyên môn trên là có cơ sở thực tế và cũng có thể giúp ích cho việc tổ chức các khóa đào tạo CMKT ttrong thời gian tới. III. Thất nghiệp. 1.Lao động đang thất nghiệp. 1.1.Cơ cấu lao động đang thất nghiệp. 1.1.1. Cơ cấu chung của lao động thất nghiệp. Tổng số lao động thất nghiệp của toàn bộ mẫu điều tra (gồm những ngừơi trong độ tuổi lao động: nam15-60, nữ 15-55 có khả năng lao động, không có việc làm và đang tìm việc làm) là 296 người bằng 7,64% so với tổng số lao động trong độ tuổi có việc làm, bằng 7,25% số lao động13-65 tuổi có việc làm và 7,09% so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Trong số này lao động thất nghiệp ngắn hạn và thời gian thất nghiệp bình quân 7 tháng, chiếm tỷ lệ 33,4% và lao động thất nghiệp dài hạn với thời gian thất nghiệp bình quân 49 tháng là 58,7%. Số lao động đã từng có việc làm là 128 người chiếm tỷ lệ 43,2% số lao động thất nghiệp. Lao độngchưa từng có việc làm hầu hết là lao động vừa mới tốt nghiệp trung học cơ sở và phổ thông trung học lần đầu bước vào thị trường lao động. Số lao động này vì thế mà chưa có mối quan hệ với hệ thống dịch vụ cung ứng - giới thiệu việc làm, chưa có trình độ CMKT nên gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm. 1.1.2.Cơ cấu laođộng thất nghiệp theo độ tuổi. Nguồn: Báo cáo phân tích tổng hợp thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An - năm 1999 - Bộ Bộ LĐTBXH - Viện KHLĐ và Các vấn đề xã hội. Sơ đồ trên cho thấy, trong tổng số lao động đang thất nghiệp, lao động ở độ tuổi 25-45 chiếm tỷ lệ cao nhất (51,4%), sau đó là lao động ở độ tuổi 15-24 (40,9%) và thấp nhất là lao động ở độ tuổi 56-60 (1,3%). Thực trạng rõ rệt là lao động độ tuổi 15-24 thất nghiệp cao là do một bộ phận lao động độ tuổi này mới tốt nghiệp các cấp giáo dục, các cấp đào tạo CMKT chưa tìm được việc làm và một số lao động phổ thông công việc không ổn định, hợp đồng lao động ngắn hạn nên đễ bị mất việc. Xét theo tình trạng thất nghiệp cho thấy: Trong lao động thất nghiệp ở độ tuổi 15-24, lao động thất nghiệp ngắn hạn với thời gian thất nghiệp bình quân 7 tháng chiếm tỷ lệ 38,8% và thời gian thất nghiệp dài hạn với thời gian thất nghiệp bình quân 34 tháng là 61,2%. Trong lao động thất nghiệp độ tuổi 25-45, lao động thất nghiệp ngắn hạn với thời gian thất nghiệp bình quân 7 tháng là 28,3% à thất nghiệp dài hạn với thời gian thất nghiệp bình quân 56 tháng là73,7%. Trong lao động độ tuổi 46-55, thất nghiệp ngắn hạn bình quân 5 tháng chiếm tỷ lệ 55,5% và thất nghiệp dài hạn bình quân 54 tháng là 49,5%. Thời gian bình quân của việc làm cuối cùng trước khi thất nghiệp chiếm cao nhất ở độ tuổi 61-65 là 256 tháng và độ tuổi 56-60 là149 tháng, độ tuổi 25-45 là 72 tháng và thấp nhất ở độ tuổi 15-24 là 27 tháng. Qua đó cho ta thấy, việc làm của lao động trẻ tuổi có sự biến động hơn so với việc làm của lao động ở độ tuổi khác. 1.1.3.Cơ cấu thất nghiệp theo giới tính. Trong tổng số lao động thất nghiệp, nam thất nghiệp106 người chiếm tỷ lệ 64,18% và lao động nữ thât nghiệp 106 người chiếm tỷ lệ 35,82%. Trong số lao động nam thất nghiệp, thất nghiệp ngắn hạn 7 tháng chiếm tỷ lệ 36,82% và thất nghiệp dài hạn bình quân 52 tháng là 63,38%. Lao động nữ thất nghiệp, thất nghiệp ngắn hạn bình quân 6 tháng chiếm tỷ lệ 35,64% và thất nghiệp dài hạn bình quân 42 tháng là 64,36%. Lao động nam thất nghiệp đã từng có việc làm cao hơn lao động nữ thất nghiệp đã từng có việc làm. So với lao động thât nghiệp của từng giới, nam thất nghiệp từng có việc làm là 59,47%; chưa từng có việc làm là 40,53%; nữ thất nghiệp từng có việc làm là 51,8% và chưa từng có việc làm là 48,2%. Qua đó thể hiện số lao động nữ lần đầu tiên bước vào thị trường lao động cao hơn lao động nam lần đầu tham gia vào thị trường lao động. 1.1.4.Cơ cấu lao động thât nghiệp theo trình độ văn hoá. (Nguồn: Báo cáo phân tích tổng hợp thị trường lao động Thành phố Vinh-Nghệ An năm 1999: Bộ LĐ-TBXH, Viện KHLĐ và CVĐXH). 1,04% (Nguồn: Báo cáo phân tích thị trường lao động thành phố Vinh- Nghệ An năm 1999- Bộ LĐ-TBXH- Viện KHLĐ và CVĐXH). Từ sơ đồ trên cho ta thấy, gần 2/3 lao động thất nghiệp là lao động có trình độ phổ thông trung học và hơn 1/3 lao động thất nghiệp có trình độ trung học cơ sở. Số lao động thất nghiệp có trình độ văn hoá thấp chỉ chiếm một phần nhỏ. Xét theo tình trạng thất nghiệp - Trong số lao động thất nghiệp có trình độ phổ thông cơ sở, thất nghiệp ngắn hạn bình quân 7 tháng chiếm tỷ lệ 29,16%, thất nghiệp dài hạn bình quân 46 tháng là 70,84%. - Trong số lao động thất nghiệp có trình độ phổ thông trung học, thất nghiệp dài hạn bình quân 48 tháng chiếm tỷ lệ 59,88% và lao động thất nghiệp ngắn hạn bình quân 7 tháng là 40,12%. - Trong tổng số lao động thất nghiệp của từng loại trình độ văn hoá: + Lao động trình độ tiểu học đã từng có việc làm là 60%, chưa từng có việc làm là 40% và thời gian của việc làm cuối cùng trước khi thất nghiệp bình quân là 34 tháng. + Lao động có trình độ văn hoá THCS đã từng có việc làm chiếm tỷ lệ 55,7%, chưa từng có việc làm 44,3% và thời gian của việc làm cuối trước khi thất nghiệp bình quân là 70 tháng. + Lao động có trình độ PTTH đã từng có việc làm 57%, chưa từng có việc làm 43”% và thời gian làm cuối trước khi thất nghiệp bình quân là 84 tháng. Rõ ràng, vấn đề bức xúc cần quan tâm giải quyết việc làm là đối với lao động có trình độ văn hoá tốt nghiệp PTCS trở lên, lao động lần đầu tham gia thị trường lao động. 1.1.5 Cơ cấu lao động đang thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. Sơ đồ sau thể hiện cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. 50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 47,97% 10,47% 13,51% 12,5% 9,79% 4,72% % so tổng số lao động thất nghiệp 1 2 3 4 5 6 7 (Nguồn: Báo cáo thị trường lao động thành phố- Loại trình độ CM-KT Vinh- Nghệ An năm 1999- Bộ LĐ-TBXH: Viện KHLĐ và CVĐXH) Ghi chú: 1- Không qua đào tạo 2. Sơ cấp 3. Công nhân kỹ thuật (CNKT) không bằng 4. CNKT có bằng 5. Trung cấp 6. Cao đẳng đại học 7. Đang học và khác Sơ đồ trên cho thấy, lao động thất nghiệp chủ yếu là lao động chưa qua đào tạo, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thất nghiệp của từng loại chỉ chiếm trên dưới 10% tổng số lao động thất nghiệp. Xét theo tình trạng thất nghiệp. - Trong số lao động thất nghiệp không qua đào tạo thất nghiệp ngắn hạn chiếm 39,15% với thời gian thất nghiệp bình quân 7 tháng và thất nghiệp dài hạn bình quân 44 tháng là 60,85%. Đồng thời số lao động thất nghiệp từng có việc làm là 43,7%, chưa từng có việc 56,3%. - Trong số lao động trình độ sơ cấp thất nghiệp thì tất cả lao động thất nghiệp ngắn hạn với thời gian thất nghiệp bình quân 8-9 tháng. Số lao động đã từng có việc làm của lao động thất nghiệp có trình độ sơ cấp là 75,57% và chưa từng có việc làm 24,43%. Thời gian bình quân của việc làm cuối trước khi thất nghiệp là 114 tháng. - Trong số lao động không có bằng CNKT, lao động thất nghiệp ngắn hạn với thời gian thất nghiệp 6 tháng chiếm tỷ lệ 43,3% và lao động thất nghiệp dài hạn bình quân 90 tháng là 56,7%. Trong đó số lao động thất nghiệp đã từng có việc làm chiếm 86,2% và chưa từng có việc làm là 13,8%. - Trong số lao động thất nghiệp có bằng công nhân kỹ thuật, lao động thất nghiệp ngắn hạn với thời gian bình quân 9 tháng chiếm tỷ lệ 38,9% và lao động thất nghiệp dài hạn bình quân 40 tháng là 61,1%. Số lao động thất nghiệp đã từng có việc làm chiếm 75,67% và lao động thất nghiệp chưa từng có việc làm 24,33%. - Trong số lao động thất nghiệp, lao động có trình độ trung cấp, lao động thất nghiệp ngắn hạn với thời gian thất nghiệp bình quân 6 tháng chiếm tỷ lệ 32,5% và lao động thất nghiệp thời gian bình quân 52 tháng là 67,5%. Số lao động thất nghiệp có trình độ trung cấp đã từng có việc làm là 70% và thất nghiệp chưa từng có việc làm là 30%. - Trong số lao động thất nghiệp có trình độ cao đẳng, đại học, lao động thất nghiệp ngắn hạn với thời gian thất nghiệp bình quân 7 tháng chiếm tỷ lệ 53,57% và lao động thất nghiệp dài hạn bình quân 43 tháng là 46,3%. Lao động có trình độ cao đẳng, đại học đã từng có việc làm chiếm 35,48% và chưa từng có việc làm 64,52%. Như vậy, lao động thất nghiệp ngắn hạn của các loại lao động chiếm trên dưới một nửa số lao động thất nghiệp. Đồng thời, trong lao động phổ thông và lao động có trình độ cao đẳng, đại học tỷ lệ lao động thất nghiệp chưa từng có việc làm là rất cao, từ đó suy ra rằng, lao động thất nghiệp là những người vừa tốt nghiệp các trường PTCS, PTTH và vừa tốt nghiệp cao đẳng, đại học chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số lao động thất nghiệp. Ngoài nhu cầu việc làm, đối với lao động thất nghiệp vừa tốt nghiệp PTCS và PTTH còn có cả nhu cầu đào tạo nghề nghiệp. 1.2 Các chỉ tiêu đặc trưng cho lao động đang thất nghiệp 1.2.1 Các chỉ tiêu thất nghiệp xét theo giới tính - Lao động thất nghiệp nam so với tổng số lao động trong độ tuổi có việc làm của nam giới (15-60 tuổi) là 10,24%. Nếu so với tổng số lao động trong độ tuổi 13-65 có việc làm thì tỷ lệ này là 9,87% và so với LLLĐ (những người trong độ tuổi lao động đang làm việc cộng với số lao động trong độ tuổi đang thất nghiệp) là 9,29%. - Lao động thất nghiệp nữ so với tổng số lao động nữ trong độ tuổi (15-55 tuổi) có việc làm chiếm tỷ lệ 5,25%, so với tổng số lao động có việc làm trong độ tuổi (13-65) là 4,91% và so với LLLD nữ (những người trong độ tuổi lao động đang làm việc cộng với số lao động trong độ tuổi lao động đang thất nghiệp) là 4,99%. Các chỉ số đều cho thấy, lao động thất nghiệp ở nam giới cao hơn nữ giới, và ở chừng mực nào đó thị trường lao động thu hút lao động nữ nhiều hơn lao động nam. 35 30 25 20 15 10 5 34 % 25,5% 2,5% 1,7 6,8% 6,4% 15-24 25-45 46-55 56-60 12.2 Các chỉ tiêu thất nghiệp xét theo nhóm tuổi. Ghi chú: I- Lao động thất nghiệp của từng nhóm tuổi so với tổng số lao động trong tuổi có việc làm của từng nhóm tuổi. II- Lao động thất nghiệp của từng nhóm tuổi so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của nhóm tuổi. (Nguồn: Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động Thành phố Vinh Nghệ An năm 1999- Bộ LĐ-TBXH- Viện KHLĐ và CVĐXH). Các sơ đồ trên cho thấy có biểu hiện chung là: Độ tuổi càng cao thì lao động thất nghiệp càng giảm, điều đó thể hiện việc làm ở nhóm tuổi này tương đối ổn định. Hay nói cách khách, tình trạng lao động thất nghiệp mang tính phổ biến hơn là lao động trẻ tuổi, đặc biệt là lao động ở độ tuổi 15- 24, trong đó lực lượng lao động trẻ vừa mới tốt nghiệp các trường PTCS, PTTH và các trường dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học, lần đầu bổ sung cho thị trường lao động chưa tìm được việc làm là một bộ phận làm cho quy mô lao động thất nghiệp trẻ tuổi lớn hơn so với quy mô lao động thất nghiệp của các độ tuổi khác. 1.2.3 Các chỉ tiêu thất nghiệp xét theo trình độ văn hoá - Tỷ lệ lao động đang thất nghiệp theo từng loại trình độ văn hoá so với lao động trong tuổi có việc làm, so với lao động 13-65 tuổi có việc làm và so với LLLĐ trong độ tuổi (thuộc từng loại trình độ văn hoá) không có sự chệnh lệch nhau nhiều và phổ biến ở mức trên dưới 7%. Tình hình này chứng tỏ, mức cung lao động rất đa dạng về trình độ văn hoá của thị trường lao động thành phố và tình trạng lao động thất nghiệp mang tính đồng đều tương đối giữa các loại lao động có trình độ văn hoá khác nhau. Đồng thời thị trường lao động khá dồi dào về sức lao động có trình độ văn hoá cao. 1.2.4 Các chỉ tiêu thất nghiệp xét theo trình độ chuyên môn- kỹ thuật 12 10 8 6 4 2 ( C ) 5,4% 4,8% 4,3% 6,8% 7,4% 4,8% 11% Trình độ CHKT 1 2 3 4 5 6 7 (Nguồn: Báo cáo phân tích thị trường lao động Thành phố Vinh Nghệ An năm 1999- Bộ LĐ-TBXH- Viện KHLĐ và CVĐXH) Ghi chú: Ký hiệu a, b, c là sơ đồ biểu diễn tỷ lệ lao động đang thất nghiệp 14 12 10 8 6 4 2 ( A ) 5,6% 5,1% 4,5% 7,3% 8% 5,1% 12,4% 1 2 3 4 5 6 7 14 12 10 8 6 4 2 ( B ) 5,6% 4,5% 4,3% 7,1% 7,8% 4,2% 11,5 1 2 3 4 5 6 7 So với lao động trong tuổi có việc làm (B) với lao động từ 13-65 tuổi có việc làm (C) so với lực lượng lao động trong tuổi theo các loại trình độ tCMKT. Ký hiệu ở trục ngang: 1. Không qua đào tạo 2. Sơ cấp 3. CNKT không bằng 4. CNKT có bằng 5. Trung cấp 6. Cao đẳng, đại học 7. Đang học và khác Các sơ đồ trên cho thấy, dù so sánh ở góc độ nào thì tỷ lệ lao động thất nghiệp cao nhất là các loại lao động không qua đào tạo (11- 12,4%), tiếp đó là CNKT không bằng (7,4-8%), CNKT có bằng (6,8-7,3%. ở các trình độ CNKT khác tỷ lệ lao động thất nghiệp thấp hơn hẳn (4,3-5,4%). Rõ ràng là lao động có CMKT cao có khả năng tìm được việc làm dễ hơn là lao động phổ thông và các loại lao động có tay nghề thấp khác. 2. Lao động đã từng thất nghiệp Tổng số lao động đã từng thất nghiệp tất cả các phường của mẫu điều tra là 563 người, trong đó lao động thất nghiệp ngắn hạn bình quân 7 tháng chiếm tỷ lệ 49,9% và thất nghiệp dài hạn bình quân 37 tháng là 50,1%. Lao động đã từng thất nghiệp là nam giới dhiếm tỷ lệ 49,3% và nữ giới là 50% trong tổng số nam giới và nữ giới đã từng thất nghiệp thì thất nghiệp ngắn hạn và thất nghiệp dài hạn đều chiếm tỷ lệ gần bằng nhau, dao động trên dưới 50%. Thời gian thất nghiệp ngắn hạn bình quân lần cuối là 7 tháng và thời gian thất nghiệp dài hạn bình quân lần cuối là 35- 38 tháng ở cả lao động nam giới và nữ giới. 2.1 Lao động có việc làm đã từng thất nghiệp xét theo nhóm tuổi Trong tổng số lao động đã từng thất nghiệp thì độ tuổi 25-45 chiếm đến 73% (do nhóm tuổi này chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động có việc làm và biến động việc làm thường xảy ra ở độ tuổi này nhiều hơn độ tuổi > 45 tuổi) và độ tuổi 46-55 chiếm 18,8%, các độ tuổi khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Đối với hầu hết các nhóm tuổi, thất nghiệp ngắn hạn và thất nghiệp dài hạn đều có tỷ lệ gần bằng nhau dao động trên dưới 50%. Thời gian thất nghiệp bình quân lần cuối của thất nghiệp ngắn hạn là 7- 11 tháng và thất nghiệp dài hạn là 23- 38 tháng. 2.2 Lao động đã từng thất nghiệp xét theo trình độ văn hoá Trong tổng số lao động đã từng thất nghiệp, lao động có trình độ văn hoá tốt nghiệp PTCS chiếm tỷ lệ 42,8% và tốt nghiệp PTTH 53,2%, các loại lao động có trình độ văn hoá khác chiếm tỷ lệ nhỏ. Trong tổng số lao động đã từng thất nghiệp có trình độ văn hoá tốt nghiệp tiểu học thì tốt nghiệp tiểu học chiếm tỷ lệ 72,2 % và thất nghiệp dài hạn 27,8%. Còn trong lao động đã từng thất nghiệp các loại lao động có trình độ tốt nghiệp PTTH trở lên thì lao động thất nghiệp ngắn hạn và thất nghiệp dài hạn có tỷ lệ gần bằng nhau, dao động trên dưới 50%. 2.3 Số lần thất nghiệp bình quân của lao động đã từng thất nghiệp Trên toàn bộ mẫu điều tra, số lần thất nghiệp bình quân là 1,3 lần. Xét riêng biệt theo nhóm tuổi, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật cho thấy không có sự xê dịch nhiều (1,1- 1,4 lần). Tuy nhiên, khi xét sự biến động việc làm của lao động đã từng thất nghiệp phần nào phản ánh sự bất ổn định của sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 2.4 Số công việc làm của người lao động Số công việc làm bình quân của người lao động đã từng thất nghiệp là 1,1 lần. Lao động đã từng thất nghiệp hiện nay đang làm việc chủ yếu là công việc chính, công việc phụ không đáng kể, ít làm kiêm. 3. Nguyên nhân thất nghiệp Trong tổng số các nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp của người lao động, thiếu việc làm chiếm tỷ lệ 27,7%, học xong chưa tìm được việc 17,2%, nghỉ theo quyết định cơ cấu lại sản xuất kinh doanh và tinh giảm biên chế khu vực hành chính sự nghiệp (QĐ 176 và 111) 14,6%, HTX giải thể 8%, doanh nghiệp phá sản 4,8%, hết hạn hợp đồng 4%, xuất ngũ chưa tìm được việc 3,6% và các nguyên nhân khác chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Xét nguyên nhân thất nghiệp của lao động nữ cũng biểu hiện các nguyên nhân chủ yếu. Thiếu việc làm, nghỉ theo quyết định 176 và 111, học xong chưa tìm được việc và HTX giải thể. Xét nguyên nhân thất nghiệp theo độ tuổi thì ở độ tuổi 15-24 chủ yếu là nguyên nhân học xong chưa tìm được việc làm chiếm tỷ lệ 57,4%, tổng số nguyên nhân và thiếu việc làm 9,5%, các nguyên nhân khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. ở các độ tuổi 25-55 nguyên nhân chủ yếu của thất nghiệp là: thiếu việc làm 31,4%, nghỉ theo QĐ 176 và 111 là 17,8%, học xong chưa tìm được việc 8,9% so tổng số nguyên nhân. Các số liệu đều phản ánh tính đa dạng của nguyên nhân thất nghiệp và các nguyên nhân phổ biến dẫn đến thất nghiệp và thiếu việc, vừa qua đào tạo, dạy nghề đang tìm việc, nghỉ theo QĐ 176 và 111. 4. Hình thức tìm việc làm của người lao động thất nghiệp Sự phát triển của thị trường lao động, của kinh tế nhiều thành phần đã làm phong phú hoá hình thức tìm việc làm của người lao động. Số liệu phỏng vấn người lao động cho thấy các hình thức chủ yếu tìm việc làm của người lao động thất nghiệp là: qua người quen, bạn bè 47,8%, tự tạo việc làm 30,8%, xin làm tại doanh nghiệp 11%, qua hệ thống quảng cáo 3%, qua trung tâm dịch vụ việc làm 2,4% so tổng số trường hợp tìm việc làm của tất cả các hình thức tìm việc. Các hình thức tìm việc làm khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Đối với lao động nữ thất nghiệp hình thức tìm việc chủ yếu thông qua người quen, bạn bè chiếm tỷ lệ 44%, tự tạo việc làm 38,2%, đến xin việc tại doanh nghiệp 8,6%, qua hệ thống quảng cáo 6,6%, qua trung tâm dịch vụ việc làm 6,6% so tổng số trường hợp tìm việc của tất cả các hình thức tìm việc. Xét hình thức tìm việc của lao động thất nghiệp theo độ tuổi cũng có biểu hiện là: Đối với lao động tìm việc các độ tuổi 15-24 và 25-55 đều có thứ tự hình thức tìm chủ yếu giống nhau: hỏi qua người quen, bạn bè 67,1% và 43%, tự tạo việc làm 10,5% và 35,5%, đến xin việc tại doanh nghiệp 8,5% và 11,8%, qua quảng cáo 6,6% và 2,2%, qua trung tâm dịch vụ việc làm 3,3% và 2,2%. Nhìn chung, vai trò của trung tâm dịch vụ việc làm trong tư vấn, môi giới việc làm cho lao động thất nhiệp còn mờ nhạt. Trong tổng số các trường hợp tìm việc của tất cả hình thức tìm việc chỉ có 1,5% số trường hợp được trung tâm dịch vụ việc làm cung cấp thông tin việc làm và 0,3% trường hợp được tư vấn về việc làm. Và có thể nói mối quan hệ xã hội quen biết, bạn bè và tự tạo việc làm còn đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong giải quyết việc làm cho lao động thất nghiệp. B. phần cầu lao động I. Đặc điểm doanh nghiệp điều tra 1. Doanh nghiệp điều tra xét theo hình thức sở hữu Trong tổng số 101 doanh nghiệp điều tra, doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ lệ chủ yếu là 69,31%, sau đó là công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) 13,86%, HTX 7,92%, doanh nghiệp tư nhân 6,93%, công ty cổ phần 1,98%. 2. Doanh nghiệp điều tra xét theo lĩnh vực hoạt động kinh tế Các doanh nghiệp điều tra chủ yếu là ở lĩnh vực hoạt động công nghiệp chiếm tỷ lệ 32,64%, xây dựng 18,81%, thương mại 15,84%, các ngành khác chiếm tỷ lệ nhỏ từ 1- 6%. 3. Doanh nghiệp điều tra xét theo quy mô lao động Hầu hết các doanh nghiệp điều tra có quy mô lao động từ 500 người trở xuống. Trong đó, doanh nghiệp có quy mô lao động 101- 500 người chiếm tỷ lệ 45,54%, doanh nghiệp có quy mô 51- 100 lao động 26,73%, 10- 50 lao động 27,72%. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp HTX hầu hết đều có quy mô lao động 10- 50 lao động, công ty TNHH 10- 100 lao động, công ty cổ phần 101- 500 lao động, trong khi 2/3 doanh nghiệp Nhà nước có quy mô 101- 500 lao động và gần 1/4 số doanh nghiệp có quy mô 51- 100 lao động. Như vậy, đặc trưng của doanh nghiệp điều tra chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong tổng số doanh nghiệp điều tra chỉ có 5 doanh nghiệp đang có dự định thay đổi hình thức sở hữu là một doanh nghiệp tư nhân sang công ty TNHH và 4 doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Như vâỵ, năm 1999 có động thái cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Thành phố. II. Thực trạng lực lượng lao động của các doanh nghiệp 1. Lực lượng lao động xét theo giới và độ tuổi Tổng số lao động của 101 doanh nghiệp điều tra tại thời điểm 1/1/1999 là 12.171 người, trong đó lao động nữ 1.101 người chiếm tỷ lệ 41,9%. Mặc dù mẫu điều tra ngành công nghiệp, xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhưng thu hút lao động nữ khá cao, biểu hiện các doanh nghiệp quan tâm tuyển dụng, sử dụng lao động nữ. Hầu hết doanh nghiệp có lao động ở độ tuổi 25- 55, trong đó độ tuổi 25- 40 có tỷ lệ 59,9%, các độ tuổi khác có tỷ lệ thấp và các doanh nghiệp không sử dụng lao động < 15 tuổi. 2. Lao động xét theo trình độ văn hoá Nhìn chung trình độ văn hoá của lao động trong các doanh nghiệp phần lớn tốt nghiệp PTTH với 79,14% tổng số lao động. Số tốt nghiệp PTCS 19,47% và tốt nghiệp tiểu học 1,3%, chưa tốt nghiệp tiểu học 0,06%, không biết đọc, biết viết 0,03%. Cơ cấu lao động theo trình độ văn hoá giữa lao động nam và lao động nữ không có sự khác biệt đáng kể. Rõ ràng là nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp phần lớn là sử dụng lao động có trình độ văn hoá cao. 3. Lao động doanh nghiệp xét theo trình độ chuyên môn- kỹ thuật (Nguồn: Báo cáo phân tích thị trường lao động Thành phố Vinh Nghệ An năm 1999- Bộ LĐ-TBXH- Viện KHLĐ và CVĐXH) Sơ đồ trên cho thấy, trên 2/ 3 số lao động của các doanh nghiệp có trình độ CM-KT từ công nhân kỹ thuật trở lên. Trong đó, phần lớn là lao động có trình độ CNKT và THCN, số tốt nghiệp đại học chỉ chiếm 12% tổng số lao động. So với cuộc điều tra 1/1/1996 lao động không có CM-KT giảm 2%, trong khi lao động trình độ cao đẳng, đại học tăng lên đáng kể (16% thời điểm 1/1/1999 so với 13% thời điểm 1/1/1996). Trình độ CM-KT của lao động nữ trong các doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể ở trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Trong 12% lao động cao đẳng, đại học trở lên của các doanh nghiệp, lao động nữ chỉ chiếm tỷ lệ 3% nhưng lại có sự tăng lên đáng kể lao động nữ ở trình độ CM-KT bán lành nghề và chiếm 9% trong tổng số 16% tổng số lao động trình độ CM- KT loại này. Như vậy, mặc dù việc sử dụng lao động có CM-KT từ CNKT trở lên là chủ yếu nhưng tính đa dạng loại hình trình độ lao động sử dụng (kể cả lao động không có CM- KT ) có biểu hiện khá rõ ở các doanh nghiệp và xuất phát từ yêu cầu của sản xuất kinh doanh. 4. Lao động theo loại hợp đồng lao động (HĐLĐ) Lao động tại các doanh nghiệp có hợp đồng lao động khá ổn định về thời hạn hợp đồng. Số lao động ký kết hợp đồng lao động không thời hạn chiếm tỷ lệ 82,7% tổng số lao động và hợp đồng lao động thời hạn trên 1 năm 10,59%. Loại hợp đồng lao động ngắn hạn (dưới 1 năm) chỉ chiếm tỷ lệ 1,33%. Lao động làm việc theo biên chế chiếm tỷ lệ 2,6%. Số lao động không có hợp đồng lao động hầu như không đáng kể (0,1%). Cơ cấu tỷ lệ hợp đồng lao động các loại được ký kết ở lao động nữ không có khác biệt đáng kể so với lao động nam. 5. Lao động doanh nghiệp xét theo tính chất công việc Trong các doanh nghiệp số lao động có việc làm ổn định, đủ thời gian chiếm tỷ lệ 77%, việc làm ổn định không đủ thời gian 16% và số có việc làm không ổn định 7%. Lao động nữ có việc làm tình trạng tương tự. Như vậy tại các doanh nghiệp còn có một bộ phận đáng kể lao động thiếu việc làm hoặc việc làm bấp bênh. 6. Thời gian làm việc của lao động trong các doanh nghiệp Trên toàn bộ mẫu điều tra, thời gian làm việc bình quân/ tuần của một lao động 45,6 giờ. Ngành có thời gian làm việc bình quân/ tuần của một lao động cao nhất là khách sạn, nhà hàng: 50 giờ, các ngành lâm nghiệp, ngư nghiệp, mỏ, thương mại: 48 giờ, các ngành khác từ 42- 45 giờ. Số liệu trên cho thấy, nhìn chung thời gian làm việc của lao động các doanh nghiệp điều tra không cao và không vượt quá thời gian chế độ cho phép của Luật lao động. Rõ ràng, ngoại trừ ngành khách sạn, nhà hàng thì đối với tất cả doanh nghiệp điều tra đều không có tình trạng người lao động làm thêm giờ. Trong khi 6/14 nhóm ngành có thời gian làm việc bình quân/tuần nhỏ hơn 48 giờ. Qua đó thấy rằng, đối với các doanh nghiệp điều tra, việc phấn đáu đảm bảo việc làm ổn định, đủ thời gian cho người lao động trên thực tế gặp khó khăn. 7. Đào tạo nâng cao trình độ người lao động Đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động để phát huy tiềm lực con người, tăng cường hiệu quả sản xuất- kinh doanh là nhiệm vụ mang tính chất chiến lược của các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp điều tra, số lao động được đào tạo trong năm 1998 là 275 người bằng 2,2% so tổng số lao động thời điểm 1/1/1999. Con số trên tuy còn ít ỏi nhưng là đáng kể. Trong tổng số lao động đào tạo nâng cao năm 1998 của các doanh nghiệp phần lớn là đào tạo cao đẳng, đại học chiếm tỷ lệ 71,27%, sau đó là công nhân kỹ thuật 10,55%, trung học chuyên nghiệp 4,36%, số còn lại là đào tạo các loại trình độ khác. Như vậy, hình thức đào tạo thời gian trên 12 tháng chiếm 2/3 tổng số trường hợp đào tạo nâng cao. Các hình thức đào tạo ngắn hạn nhỏ hơn hoặc bằng 12 tháng chỉ chiếm tỷ lệ thấp và chủ yếu ở các loại hình đạo tạo lại, bổ túc nghề cho CNKT. Phần lớn các trường hợp đào tạo nâng cao trình độ là ở độ tuổi 25- 40. Cụ thể là đào tạo đại học chiếm 74,49 trường hợp, trong đào tạo THCN số người ở độ tuổi này là 91,7%d, trong đào tạo CNKT số người ở độ tuổi này là 65,5% trường hợp. Số còn lại là ở độ tuổi trên 40, ở độ tuổi dưới 25 chủ yếu là đào tạo CNKT. Như vậy, lao động trẻ tuổi thâm niên làm việc tại doanh nghiệp ít năm có ít nhu cầu đào tạo nâng cao hơn là lao động đã có thời gian làm việc lâu dài tại doanh nghiệp. Nguyên nhân là do số lao động trẻ vừa mới ra trường, họ phải làm việc để tìm kiếm thu nhập trước khi tham gia các khoá đào tạo nâng cao trình độ. Trong năm 1998, số lao động nữ đào tạo nâng cao là 85 người trong tổng sô 275 lao động được đào tạo (chiếm 30,9%). Trong tổng số lao động nữ được đào tạo có 76,47% ở độ tuổi 25á40 và trong nhóm tổi này đào tạo cấp sao đẳng , đại học chiếm 75,38%. Ngoài ra các nhóm tuổi dưới 25 và trên 40 số lao động nữ được đào tạo chỉ bằng 41,67% và 19,23% so với lao động nam cùng nhóm tuổi. Đào tạo nâng cao đối với người lao động chiếm tỷ trọng lớn là ở doanh nghiệp nhà nước với 86,5% tổng số trường hợp đào tạo. Sau đó là công ty TNHH và công ty cổ phần với tỷ lệ tương ứng là 5% và 4,7 tổng số trường hợp đào tạo. Doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp HTX chưa quan tâm đến đào tạo nâng cao cho người lao động; số lao động đào tạo năm 1998 của các doanh nghiệp loại này hầu như không đáng kể. Các doanh nghiệp tư nhâm và doanh nghiệp HTX một phần chỉ chú trọng khai thác nguồn nhân lực đã được đào tạo trong thị trường lao động để dỡ tốn kém chi phí đào tạo, phần khác do công nghệ sản xuất kinh doanh lạc hậu, không gian thị trường hạn hẹp nên các doanh nghiệp loại này chưa chú trọng nâng cao cho bgười lao động đẻ tạo ra nguồn lực lao động CM-KINH Tế cao cho doanh nghiệp. Số người được đào tạo trong năm 1998 chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí đào tạo của doanh nghiệp chiếm tỷ lẹe 57,82% và cá nhân ự chi phí cho đào tạo 25,8% tổng số trường hợp đào tạo và còn lại là từ các nguồn khác như Nhà nước hỗ trợ thêm, các phòng ban giúp đỡ,... Như vậy có sự được tuyển mới chỉ bằng khoảng một nửa các loại lao động khác. Số liệu trên phần nào phản ánh sự biến động lao động và đào tạo làm mới của các doanh nghiệp đa dạn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25628.DOC