Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua và giai đoạn 1996-2002

Tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua và giai đoạn 1996-2002: Lời nói đầu Do những đòi hỏi khách quan trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, mỗi một sinh viên cần phải có sự tiếp cận thực tế trước khi ra trường. Do giữa lý thuyết và những kiến thức thực tế luôn có một khoảng cách, vì vậy thực tập tốt nghiệp đối với mỗi sinh viên là điều vô cùng cần thiết. Đây là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và nâng cao kiến thức đã học ở trường, vận dụng tổng hợp kiến thức vào thực tế. Qua quá trình thực tập, chúng ta tự rèn luyện tác phong và phương pháp làm việc, quản lý, bổ sung những kiến thức mà chúng ta không có điều kiện tiếp cận trong nhà trường. Vì vậy, em đã chọn Vụ đầu tư nước ngoài, thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư là nơi để học hỏi kinh nghiệm và là phối hợp quan để cung cấp cho em những thông tin hữu ích trong linh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài mà em đang nghiên cứu. Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường xuất khẩu phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đã được xác định và cụ t...

doc42 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua và giai đoạn 1996-2002, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Do những đòi hỏi khách quan trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, mỗi một sinh viên cần phải có sự tiếp cận thực tế trước khi ra trường. Do giữa lý thuyết và những kiến thức thực tế luôn có một khoảng cách, vì vậy thực tập tốt nghiệp đối với mỗi sinh viên là điều vô cùng cần thiết. Đây là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và nâng cao kiến thức đã học ở trường, vận dụng tổng hợp kiến thức vào thực tế. Qua quá trình thực tập, chúng ta tự rèn luyện tác phong và phương pháp làm việc, quản lý, bổ sung những kiến thức mà chúng ta không có điều kiện tiếp cận trong nhà trường. Vì vậy, em đã chọn Vụ đầu tư nước ngoài, thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư là nơi để học hỏi kinh nghiệm và là phối hợp quan để cung cấp cho em những thông tin hữu ích trong linh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài mà em đang nghiên cứu. Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường xuất khẩu phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành từ cuối năm 1987 đã mở đầu cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. ĐTNN đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào phát triển kinh tế-xã hội của nước ta. Nhưng tình hình trong nước và thế giới có nhiều thay đổi với những thuận lợi và khó khăn mới khác với dự báo ban đầu. Do đó, cần đánh giá hoạt động ĐTNN trong hơn mười năm qua, nhất là 5 năm trở lại đây để rút ra những kết luận cần thiết, trên cơ sở đó đề ra chủ trương, phương hướng và một hệ thống giải pháp hữu hiệu phù hợp với tình hình mới để thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn ĐTNN phục vụ cho chiến lược phát triển trong thời gian tới. Đó cũng là nội dung chính mà em muốn đề cập đến trong báo cáo tổng hợp này dựa trên những thông tin có đựoc từ Vụ ĐTNN. Trên cơ sở đó, em xin được trình bày báo cáo với bố cục như sau: Phần I : Khái quát về Bộ Kế hoạch- Đầu tư và Vụ ĐTNN Phần II : Thực trạng ĐTTTNN tại Việt Nam trong thời gian qua và giai đoạn 1996-2002 Phần III : Đánh giá hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam giai đoạn 1996-2002 và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong giai đoạn 2003-2005 Phần I Khái quát về Bộ kế hoạch đầu tư và vụ đầu tư nước ngoài I. Khái quát chung về Bộ Kế hoạch - Đầu tư 1. Quá trình hình thành và phát triển của Bộ Kế hoạch - Đầu tư Do yêu cầu phát triển kinh tế đất nước, ngày 8-10-1955 Nhà nước thành lập Uỷ ban kế hoạch quốc gia để thực hiện nhiệm vụ từng bước kế hoạch hoá việc xây dựng và phát triển kinh tế- văn hoá, tiến hành công tác thống kê, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch Nhà nước. Từ đó hệ thống kế hoach từ Trung ương đến địa phương được thành lập bao gồm: Uỷ ban kế hoạch Quốc gia; Các bộ phận kế hoạch của các Bộ ở Trung ương; Ban kế hoạch khu, tỉnh, huyện nằm trong Uỷ ban hành chính khu, tỉnh, huyện. Ngày 6-10-1961 Hội đồng Chính phủ ra Nghị định 158-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước. Theo nghị đinh này, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là cơ quan chính phủ có trách nhiệm xây dựng kế hoạch hàng năm và kế hoạch dài hạn về phát triển kinh tế và văn hoá quốc dân theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Uỷ ban Kinh tế Nhà nước có trách nhiệm quản lý công tác xây dựng cơ bản theo đúng đường lối chính sách kế hoạch của Nhà nước. Ngày 25-3-1974 Hội đồng Chính phủ chính thức phê chuẩn điều lệ về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước bằng Nghị định 49- CP, bao gồm các chức năng chủ yếu sau: Thực hiện kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân; -Tham mưu cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế có kế hoạch; -Nghiên cứu và dự báo kinh tế -Tổng hợp cân đối và xây dựng dự án dài hạn 5 năm ngiên cứu hướng dẫn về phương pháp chế độ kế hoạch hóa. Ngày 5-10-1990 chỉ thị của Hội đồng Bộ trưởng đã khẳng định vị trí của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, Ngày 27-10-1992 chính phủ quyết định đưa Viện quản lý kinh tế Trung ương về Uỷ ban kế hoạch hoá Nhà nước quản lý. Ngày 12-8-1994 Chính phủ ban hành Nghị định 86-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Ngày 21-10-1995 thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ VIII của Quốc hội khoá IX sát nhập Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước vào Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư thành Bộ kế hoạch- Đầu tư. 2. Chức năng, nhiệm vụ, và cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch- Đầu tư Chức năng, nhiệm vụ, và cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã được quy định rõ trong Nghị định 75/CP của Chính phủ ngày 01/11/1995, như sau: 2.1. Chức năng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chính Phủ có chức năng: - Tham mưu tổng hợp về xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của cả nước về cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước về lĩnh vực đầu tư trong và ngoài nước. - Giúp chính phủ phối hợp, điều hành, thực hiện các mục tiêu và cân đối chủ yếu của nền Kinh tế quốc dân. 2.2. Nhiệm vụ Để thực hiện chức năng của mình, Bộ Kế hoạch - Đầu tư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngành Bộ quy định tại chương IV Luật tổ chức Chính phủ và tại Nghị định 15/CP ngày 2-3-1993 của Chính phủ như sau: - Tổ chức nghiên cứu xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của cả nước và các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ. - Trình Chính phủ các dự án Luật, Pháp lệnh, các văn bản pháp quy có liện quan đến chính sách về quản lý kinh tế, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. - Tổng hợp các nguồn lực của cả nước kể cả nguồn kực của nước ngoài để xây dựng, trình Chính phủ các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn về phát triển kinh tế xã hội của cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. - Làm Chủ tịch các Hội đồng cấp Nhà nước: xét duyệt định mức kinh tế kỹ thuật, xét thầu quốc gia, thẩm định thành lập doanh nghiệp Nhà nước; là cơ quan thường trực thẩm định dự án đầu tư trong và ngoài nước; là cơ quan đầu mối trong việc điều phối quản lý và sử dụng nguồn ODA. - Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc sử dụng quỹ dự trữ Nhà nước. -Tổ chức nghiên cứu, dự báo, thu thập xử lý các thông tin về phát triển kinh tế- xã hội trong và ngoài nước phục vụ cho việc xây dựng và điều hành kế hoạch. -Tổ chức và đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ công chức- viên chức thuộc Bộ quản lý. -Thực hiện hợp tác Quốc tế trong lĩnh vực chiến lược phát triển, chính sách kinh tế, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, hỗ trợ phát triênẻ và hợp tác đầu tư. 2.3. Cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và đầu tư Phục vụ cho nhiệm vụ của mình, theo điều 3 của Nghị định 75/CP quy định về cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và đầu tư, hệ thống tổ chức của Bộ như sau: Bộ trưởng; Thứ trưởng; Các cơ quan trong Bộ bao gồm: Các cơ quan giúp Bộ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước: + Vụ pháp luật và đầu tư với nước ngoài; + Vụ quản lý đầu tư nước ngoài; + Vụ quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp; + Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân; + Vụ kinh tế đối ngoại; + Vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ; + Vụ doanh nghiệp; + Vụ tài chính tiền tệ; + Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn; + Vụ công nghiệp; + Vụ thương mại và dịch vụ; + Vụ cơ sở hạ tầng; + Vụ lao động văn hoá và xã hội; + Vụ khoa học giáo dục và môi trường; + Vụ quan hệ Lào và Cămpuchia; + Vụ quốc phòng an ninh; + Vụ tổ chức cán bộ; + Văn phòng thẩm định dự án quốc gia; + Văn phòng xét thầu quốc gia; + Văn phòng Bộ; + Cơ quan đại diện phía nam. Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc: - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương: + Ban nghiên cứu chhính sách vĩ mô; + Ban nghiên cứu quản lý doanh nghiệp; + Ban nghiên cứu chính sách cơ cấu; - Viện chiến lược và phát triển: + Ban tổng hợp; + Ban phân tích và đự báo kinh tế; + Ban kết cấu hạ tầng và đô thị; + Ban vùng lãnh thổ; + Ban công nghiệp thương mại và dịch vụ; + Ban nguồn nhân lực và xã hội; + Ban kinh tế thế giới; + Văn phòng; Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam; Trung tâm thông tin; Trường nghiệp vụ kế hoạch; Báo Việt Nam đầu tư nước ngoài. II. Tổng quan về Vụ đầu tư nước ngoài 1. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Vụ đầu tư nước ngoài Căn cứ vào Nghị định 75/CP của Chính phủ ngày 01/11/1995, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã ra quyết định số 103 BKH/TCCB quy định về chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Vụ ĐTNN, như sau: 1.1. Chức năng Vụ Đầu tư nước ngoài là đơn vị trực thuộc Bộ Kế hoach và Đầu tư giúp Bộ trưởng là chức năng theo dõi và quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư đối với các dự án đầu tư nước ngoài. 1.2. Nhiệm vụ Theo Quyết định số 103 BKH/TCCB, nhiệm vụ của Vụ Đầu tư nước ngoài được quy định như sau: - Làm đầu mối hướng dẫn các chủ đầu tư trong và ngoài nước về thủ tục đầu tư đối với các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam và các dự án của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. - Tổng hợp, xử lý các vấn đề liên quan đến chủ trương trong đầu tư trực tiếp của nước ngoài theo sự chỉ đạo của Bộ. - Tiếp nhận hồ sơ dự án xin cấp giấy phép đầu tư, xử lý sơ bộ hồ sơ dự án, giấy phép điều chỉnh khi thay đổi mục tiêu của dự án. - Tham gia thẩm định dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài. - Làm đầu mối phối hợp với Văn phòng Thảm định dự án đầu tư và các đơn vị trong Bộ tổ chức làm việc với chủ đầu tư về yêu cầu chủ đầu tư bổ sung, sửa đổi và giải đáp kiến nghị của chủ đầu tư. -Tổ chức tiếp xúc giữa các nhà đầu tư nước ngoài với lãnh đạo Bộ, các Vụ, Viện trong Bộ về các vấn đề liên quan đến dự án đầu tư - Hoàn chỉnh việc soạn thảo giấy phép đầu tư sau khi dự án đã được thẩm định và được Bộ chấp thuận. - Tổng hợp kế hoạch thu hút vốn và đánh giá kết quả thực hiện hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các cơ quan thông tin đại chúng trong và ngoài nước. - Thừa lệnh Bộ trưởngký văn bản thông báo, giấy mời liên quan đến các dự án đầu tư nước ngoài. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao. 1.3. Cơ cấu tổ chức của Vụ Đầu tư nước ngoài Vụ Đầu tư nước ngoài tổ chức làm việc theo chế độ chuyên viên. Vụ có Vụ trưởng và các Vụ phó, biên chế của Vụ do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định riêng. Vụ có phân Vụ tại cơ quan Đại diện phía Nam do đồng chí Vụ phó phụ trách để triển khai công việc nhanh chóng và kịp thời. Do không có các ban ngành phụ trách các công việc chuyên trách nên mỗi chuyên viên thực hiện nhiều công việc thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Sơ đồ cơ cấu, tổ chức củaVụ Đầu tư nước ngoài Chuyên viên viên Chuyên viên viên Chuyên viên viên Chuyên viên viên Chuyên viên n Vụ phó phụ trách CN nhẹ, chế biến, y tế, GD. Vụ phó phụ trách CN nặng và khai khoáng. Vụ trưởng Chuyên viên viên Nguồn: Vụ ĐTNN – Bộ Kế hoạch - Đầu tư Vụ đầu tư nước ngoài có 12 biên chế trong đó có một người đi học tại Nhật Bản, một người được Lãnh đạo Vụ cử đi công tác tại Trung tâm ASEAN- Nhật Bản nên trong thời gian vừa qua số người làm việc thường xuyên tại Vụ là 10 người. Ngoài ra, có một số cán bộ làm hợp đồng do Vụ tự trả lương và một số cộng tác viên khác. 2. Kết quả các hoạt động chính của Vụ Đầu tư nước ngoài trong năm 2002 Tuy có những khó khăn nhất định nhưng tập thể Vụ đều đoàn kết, khắc phục để hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn được giao, góp phần xây dựng Vụ ngày càng vững mạnh, đóng góp tích cực vào công việc chung của Bộ. 2.1. Về xây dựng chủ trương, chính sách về Đầu tư nước ngoài. 2.1.1. Vụ Đầu tư nước ngoài đã chủ trì, xây dựng các đề án. - Chủ trì, phối hợp với các Vụ chức năng trong Bộ, các Bộ, ngành và địa phương xây dựng danh mục dự án quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài năm 2001- trình Thủ tướng Chính phủ 2005. - Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng “ Tóm tắt danh mục dự án đầu tư nước ngoài” làm cơ sở cho việc vận động, xúc tiến đầu tư. - Trình Thủ tướng Chính phủ “Đề án về một số vấn đề đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ2002-2005. 2.1.2. Vụ Đầu tư nước ngoài đã phối hợp với các Vụ khác trong Bộ xây dựng các đề án có liên quan đến đầu tư nước ngoài. - Phối hợp tham gia góp ý xây dựng Đề án Cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Đề án sửa đổi Nghị định về Quy chế Khu công nghiệp- Khu chế xuất, Khu cộng nghệ cao; Đề án thành lập và hoạt động Khu Kinh tế mở Chu Lai. - Phối hợp tham gia xây dựng Đề án rà soát các quy định, giấy phép không cần thiết đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong đó chủ trì phần đánh giá đúng thực trạng phân cấp cấp giấy phép đầu tư trong thời gian qua. - Tham gia các đề án: Đề án sửa đổi bổ sung Nghị định 24/2000/NĐ-CP; Đề án Chương trình tổng thể vận động đầu tư nước ngoài qua các giai đoạn… 2.1.3. Tham gia với các Vụ, Viện xây dựng các đề án chung của Bộ ( Vụ đầu tư nước ngoài chuẩn bị nội dung liên quan đến lĩnh vực đầu tư nước ngoài). - Đề án nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Tham gia đề án về luận cứ nền kinh tế thị trường của Việt Nam liên quan đến các vụ kiện với nước ngoài: Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa, bán phá giá bật lửa ga. - Chuẩn bị các nội dung liên quan đến triển khai Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, báo cáo của nhóm công tác thuốc ADB về đầu tư và thương mại tiểu vùng, tham gia thảo luận về các báo cáo đánh giá thường niên của IFC, IMF liên quan đến đầu tư và kinh tế Vịêt Nam. 2.2. Tiếp nhận và xử lý các dự án đầu tư nước ngoài 2.2.1. Tiếp nhận, xử lý cấp Giấy phép đầu tư. - Trong năm 2002 Vụ đã tiếp nhận và xử lý trên 40 dự án đầu tư nước ngoài, tham gia thẩm định, soạn tháo giấy phép đầu tư cho 34 dự án, tổng vốn đăng ký gần 252 triệu USD ( chiếm gần 5% số dự án và 18% vốn đăng ký cấp giấp phép đầu tư của cả nước). - Đã xử lý, soạn thảo và trình cấp giấy phép đầu tư cho 11 dự án đầu tư ra nước ngoài, tổng vốn đầu tư gần 139 triệu USD. 2.2.2. Trả lời chủ trương về đầu tư nước ngoài Là đầu mối tiếp nhận trả lời về chủ trương đối với các dự án đầu tư nước ngoài cho các nhà đầu tư, các địa phương gửi xin ý kiến và là đầu mối tham gia góp ý về một số dự án đầu tư nước ngoài thuộc thẩm quyền cấp phép đầu tư của điạ phương xin ý kiến, mỗi năm xử lý trên 600 văn bản liên quan đến trả lời chue trương về đầu tư nước ngoài. 2.3. Tổ chức các cuộc gặp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Hàng năm, Vụ đầu tư nước ngoài đều tổ chức và tham gia các cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo các cơ quan Nhà nước Việt Nam với cộng đồng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như: - Chủ trì, phối hợp với các Vụ khối đầu tư nước ngoài, Kinh tế đối ngoại tổ chức đoàn vận động xúc tiến đầu tư tại Châu Âu, Italia, Hy Lạp..... - Tham gia chuẩn bị nôi dung và tổ chức Diễn đần kinh tế Việt Nam- Hoa Kỳ, Diễn đàn kinh tế Việt Nam- Nhật Bản, Việt Nam- Trung Quốc và Việt Nam với một số quốc gia, vùng kinh tế khác - Phối hợp với Vụ Kinh tế đối ngoại chuẩn bị nội dung cuộc họp hàng năm của các Uỷ ban hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với Nhật Bản, Italia, Cuba, Hàn Quốc, ấn Độ, EEC, Cộng hoà liên bang Đức... 2.4. Tổ chức công tác thông tin tuyên truyền về Đầu tư nước ngoài - Báo cáo cung cấp tình hình về đầu tư nước ngoài phục vụ chuyến công tác nước ngoài của Lãnh đạo các cấp.( Các báo cáo về tình hình đầu tư của Nhật Bản, ấn Độ, Mỹ, EU, ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Nga, Cuba, Italia...) - Báo cáo cung cấp tình hình về đầu tư nước ngaòi phục vụ các Hội nghị giao ban vùng, Hội nghị ngành kế hoạch cho các buổi Lãnh đạo Bộ làm việc với các địa phương. - Cung cấp thông tin về pháp luật, chính sách, tình hình đầu tư cho các Đại sứ nới chuẩn bị đi nhận công tác ở nước ngoài. - Chủ trì phối hợp các Vụ và Tổng cục thống kê chuẩn bị số liệu thông tin về đầu tư nước ngoài của Việt Nam cung cấp cho UNCTAD để ấn hành cuốn sách về Đầu tư trực tiếp nước ngoài thế giứo năm 2002, trao đổi cung cấp tình hình đầu tư cho các tổ chức tài chính quốc tế liên quan đến các chương trình tài trợ cho Việt Nam như IMF, WB, Moodly, JICA... 2.5. Vận động, xúc tiến đầu tư hợp tác quốc tế Vụ Đầu tư nước ngoài là đầu mối phía Việt Nam tham gia trung tâm xúc tiến đầu tư ASEAN- Nhật Bản (AJC) từ 1998. Trong năm 2002, Vụ Đầu tư nước ngoài đã phối hợp cùng trung tâm AJC tổ chức hội thảo về đầu tư nước ngoài tại Osaka và Tokyo. Hoạt động của tổ xúc tiến đầu tư đã chú trọng vào các dự án lớn, quan trọng. Vụ Đầu tư đã phối hợp với Bộ Khoa học công nghệ đón, chuẩn bi nội dung làm việc với tập đoàn Intel, chuẩn bị các chính sách ưu đãi cho dự án Intel nói riêng và dự án công nghệ cao nói chung trình Thủ tướng Chính phủ. Đang phối hợp với Vụ Công nghiệp xúc tiến dự án phôi màn hình của Trung Quốc, xi măng Thành Mỹ, Quảng Nam của Holiom, Thuỵ Sỹ, sơn mạ thép của BHP (Astralia). Trong năm 2002 Vụ cũng cố gắng thúc đẩy dự án thép của China Steel, nhà máy điện 1000 MW của Ever Fortuna ( Đài Loan), dự án xây dựng Cảng nông sản Hiệp Phước của ILLCOR (Canada). 3. Chương trình hành động năm 2003 Để thực hiện tốt hơn nữa chức năng nhiệm vụ của mình với quyền hạn cho phép, Vụ ĐTNN đã vạch ra chương trình hành động năm 2003, với những nội dung cơ bản sau: - Tiếp nhận, xử lý Hồ sơ dự án cấp Giấy phép đầu tư; - Xây dựng chủ trương, chính sách; - Công tác thông tin, kế hoạch; - Tổ chức hợp tác thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; - Hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học; - Công tác quản lý Vụ. Trên đây là những thông tin khái quát về Bộ Kế hoạch - Đầu tư và chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và một số hoạt động chính của Vụ ĐTNN. Chính nhờ những chức năng, nhiệm vụ và những hoạt động đó mà trong thời gian qua, Vụ ĐTNN đã đóng góp một vai trò to lớn trong việc xúc tiến, thu hút cũng như những hoạt động khác liên quan đến ĐTNN, như cấp phép, thẩm định, điều chỉnh các dự án ĐTNN… Nhờ vầy mà thông qua Vụ ĐTNN em có được những đánh giá sơ bộ về thực trạng ĐTTTNN ở Việt Nam trong thời gian qua và trong giai đoạn 1996-2002 sẽ được trình bày trong phần II. Phần II Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua và giai đoạn 1996-2002 Dựa theo báo cáo trình Chính phủ của Bộ Kế hoạch - Đầu tư số 40/BKH-ĐTNN ngày 25/3/2001 và theo bảng Tổng hợp thực hiện ĐTTTNN (tính đến 31/12/2002) của Vụ ĐTTN, tình hình hoạt động ĐTTTNN ở Việt Nam thời gian qua và giai đoạn 1996-2002 cò nhiều biến động phức tạp và phản ánh nhạy cảm với tình hình Thế giới. Trong thời gian thực tựp ở Vụ ĐTNN, em thấy nổi côm lên một số vấn đề sau. I. Tình hình cấp Giấy phép đầu tư - Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài đến hết tháng 12 năm 2002, đã có 4564 dự án ĐTNN được cấp GPĐT với số vốn đăng ký đạt khoảng 42,688 tỷ USD, trong đó, thời kỳ 1988-1990 có 214 dự án với số vốn đăng ký đạt 1,6 tỷ USD; thời kỳ 1991-1995 có 1.398 dự án với số vốn đăng ký đạt 16,24 tỷ USD; thời kỳ 1996-2000 có 1.676 dự án với số vốn đăng ký đạt 20,8 tỷ USD; năm 2001 có 523 dự án với số vốn đăng ký 2,5 tỷ USD; năm 2002 có 754 dự án với số vốn đăng ký là 1,56 tỷ USD. - Tính chung từ năm 1988 đến nay, đã có trên 2000 lượt dự án ĐTNN tăng vốn với quy mô vốn tăng thêm đạt khoảng 7,76 tỷ USD, nâng tổng vốn cấp mới và đăng ký bổ sung từ năm 1988 đến nay đạt khoảng 51,5 tỷ USD. Trừ các dự án hết hạn, giải thể trước thời hạn và cộng thêm khoảng trên 40 dự án được tách ra từ các dự án đã cấp phép, hiện còn 3603 dự án còn hiệu lực, với số vốn đăng ký đạt 40,477 tỷ USD. Riêng thời kỳ 1996-2002 có trên 1398 lượt dự án ĐTNN tăng vốn mở rộng kinh doanh, với số vốn tăng thêm đạt 5,633 tỷ USD, gấp 2,3 lần quy mô tăng vốn của 8 năm trước (8 năm 1988-1995 là 2,432 tỷ USD). (Xem bảng) II. Tình hình thực hiện dự án 1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư - Với tổng vốn ĐTNN thực hiện từ năm 1988 đến nay đạt 24,629 tỷ USD (gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết hạn hoặc giải thể trước thời hạn); trong đó vốn bên ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 21,799 tỷ USD, chiếm gần 88,5% tổng vốn thực hiện, các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Trong đó, vốn thực hiện thời kỳ 1988-1995 khoảng 7,35 tỷ USD, gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD (chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất) và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD (gồm góp vốn pháp định 3,5 tỷ USD và vốn vay nước ngoài 2,6 tỷ USD). Thời kỳ 1996-2002: vốn thực hiện đạt 17,476 tỷ USD, gần bằng dự kiến kế hoạch đặt ra mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực) và tăng 130% so với 8 năm trước; trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam 1,763 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 15,743 tỷ USD. - Các dự án ĐTNN chủ yếu vay nước ngoài hoặc vay từ công ty mẹ của bên nước ngoài do nguồn vốn tín dụng trong nước còn hạn chế, và chủ trương chung là ưu tiên dành cho các dự án trong nước vay. Tỷ trọng vốn vay nước ngoài trong tổng vốn đầu tư thực hiện có xu hướng tăng dần trong những năm gần đây, từ mức 39,5% năm 1996, tăng lên 43,2% năm 1998 và 56,5% trong năm 2000 và chiều hướng tăng này còn có khả năng tiếp tục trong thời gian tới. (Thông thường, trong tính toán của các chủ dự án, vốn vay chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư (điều này cũng phù hợp với thông lệ ở các nước). Tuy nhiên, phải quan tâm nhiều hơn đến xu hướng này, bởi lẽ tuy Nhà nước ta không có trách nhiệm trả các khoản nợ này, song một mặt đây là khoản nợ quốc gia của nước ta và mặt khác, tuyệt đại bộ phận bên Việt Nam trong các liên doanh là doanh nghiệp Nhà nước. (Xem bảng) 2. Tình hình triển khai dự án Tính đến hết năm 2002, trong số 3603 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 40,477 tỷ USD: Kể từ khi thi hành Luật ĐTNN tới nay, các dự án trên đã đạt tổng doanh thu gần 46,037 tỷ USD (không kể dầu khí), trong đó, năm 2002, đạt 9,6 tỷ USD; xuất khẩu 4,5 tỷ USD, nộp ngân sách gần 0,472 tỷ USD và hiện chiếm tới 13,3% GDP cả nước. Nhờ có những quyết sách hỗ trợ kịp thời của Chính phủ, của các Bộ ngành, nhiều doanh nghiệp ĐTNN đã khắc phục khó khăn vượt qua khủng hoảng; các chỉ tiêu doanh thu, xuất khẩu tăng bình quân trên 20% năm và không chỉ ngăn được việc dãn lao động mà còn tạo thêm nhiều việc làm mới. (Xem bảng) 3. Điều chỉnh Giấy phép đầu tư Trong quá trình triển khai, hầu hết các dự án ĐTNN đều xin điều chỉnh GPĐT với các nội dung như điều chỉnh mục tiêu dự án, tăng vốn, thay đổi đối tác, thay đổi chế độ ưu đãi..., trong đó việc điều chỉnh tăng vốn pháp định, vốn đầu tư để mở rộng sản xuất là phổ biến. Tính đến nay đã có 2007 lượt dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng số vốn tăng thêm khoảng 8,8 tỷ USD, chiếm tới 16% tổng vốn đăng ký (cấp mới và vốn bổ sung) của các dự án còn hiệu lực. Đây là xu hướng tích cực vì chất lượng nguồn vốn này cao hơn và thực hiện nhanh hơn nhiều so với vốn đầu tư cấp mới, do các doanh nghiệp sau khi triển khai dự án thành công mới xin phép đầu tư tăng công suất, mở rộng nhà máy. Nhiều doanh nghiệp sử dụng chính lợi nhuận thu được tại Việt Nam để tái đầu tư. Nhiều dự án số vốn điều chỉnh tăng thêm lớn hơn cả số vốn đăng ký ban đầu hoặc điều chỉnh tăng vốn đầu tư nhiều lần... (Xem bảng) 4. Rút Giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn - Tính đến hết năm 2002, đã có 34 dự án kết thúc đúng thời hạn với tổng vốn đăng ký 629 triệu USD, vốn thực tế đã thực hiện là 264 triệu USD. Các dự án kết thúc đúng thời hạn chủ yếu là các dự án đầu tư trong những lĩnh vực đặc thù như trục vớt tàu đắm, thăm dò và khai thác dầu, khí, nuôi trồng thuỷ sản... - Cũng tính đến hết năm 2002, đã có 883 dự án bị giải thể trước thời hạn với số vốn đăng ký khoảng 10,421 tỷ USD và số vốn đã được thực hiện là 2,7 tỷ USD (chiếm 26% vốn đăng ký); trong đó thời kỳ 1996-2002 có 640 dự án giải thể và vốn đăng ký là 8,872 tỷ USD, tăng 69% về số dự án và bằng 4,9 lần về vốn giải thể so với 8 năm trước (thời kỳ 1988-1995 có 243 dự án phải giải thể, vốn đăng ký 1,782 tỷ USD). (Xem bảng) - Trong thời kỳ 1996-2002, các dự án giải thể tập trung nhiều vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (chiếm 50% số dự án giải thể), nhưng số vốn đăng ký bị giải thể lại tập trung vào lĩnh vực dịch vụ (chiếm 58% số vốn bị giải thể). Đồng thời, trong các dự án giải thể, tỉ lệ lớn nhất là các liên doanh (chiếm 70% về dự án và 68% về vốn giải thể) trong khi tỷ lệ này ở các dự án 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 21% và ở các hợp doanh chỉ chiếm 9%. (Nguồn: Báo cáo tình hình ĐTTTNN trình Chính phủ số 40/BKH-ĐTNN của Bộ Kế hoạch - Đầu tư) III. Đầu tư nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực chủ yếu Cơ cấu vốn ĐTNN thay đổi phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng CNH-HĐH. Nếu trong những năm đầu, ngoài dầu khí, vốn ĐTNN tập trung nhiều vào lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê ... thì những năm 1996-2000 nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất vật chất với cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh hợp lý hơn, hướng mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, chế biến, sử dụng hiệu quả tài nguyên và sử dụng nhiều lao động: + Nguồn vốn ĐTNN chủ yếu tập trung trong các ngành công nghiệp và xây dựng với số vốn đăng ký tính đến cuối năm 2000 đạt 20,8 tỷ USD; trong đó thời kỳ 1996-2000 đạt 11,6 tỷ USD, tăng 30% so với 5 năm trước với tỉ trọng vốn trong tổng nguồn vốn ĐTNN không ngừng tăng lên, từ 41,5% giai đoạn 1988-1990, lên 52,7% giai đoạn 1991-1995 và 55,8% giai đoạn 1996-2000. Vốn thực hiện trong lĩnh vực này cũng đạt tỉ lệ cao nhất so với các lĩnh vực khác và tỉ trọng tăng dần từ 46% thời kỳ 1988-1990 lên 56% thời kỳ 1991-1995 và tăng lên 73% thời kỳ 1996-2000. + ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ tính đến cuối năm 2000 đạt 16,3 tỷ USD, trong đó, thời kỳ 1996-2000, đạt trên 8,7 tỷ USD, tuy vẫn duy trì tỷ trọng khoảng 42% trong tổng vốn đăng ký như thời kỳ 1991-1995 nhưng cơ cấu có sự chuyển dịch rõ rệt. ĐTNN về khách sạn du lịch, dịch vụ, văn phòng cho thuê giảm mạnh (vốn đăng ký thời kỳ 1996-2000 chỉ đạt 2,8 tỷ USD, giảm 52% so với 5 năm trước), trong khi các dự án xây dựng hạ tầng kinh tế kỹ thuật như bưu chính viễn thông, dịch vụ công nghiệp, dịch vụ kỹ thuật, giáo dục, y tế tăng mạnh (gấp 2,4 lần 5 năm trước). (Nguồn: Báo cáo tình hình ĐTTTNN trình Chính phủ số 40/BKH-ĐTNN của Bộ Kế hoạch - Đầu tư) IV. Đầu tư nước ngoài theo hình thức đầu tư 1. Hình thức doanh nghiệp liên doanh Với 1035 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký khoảng 21,5 tỷ USD, doanh nghiệp liên doanh là hình thức ĐTNN chủ yếu, chiếm 40% số dự án dự án và 59% vốn đầu tư. Quy mô bình quân mỗi dự án 20,7 triệu USD, trong đó có những dự án vốn đầu tư tới hàng tỷ USD như Liên doanh Nhà máy lọc dầu Vietross tại Quảng Ngãi (1,3 tỷ USD). Đến hết năm 2000, số vốn đã thực hiện của các doanh nghiệp liên doanh đạt hơn 9,7 tỷ USD, tạo ra hơn 140.000 việc làm. Xuất phát từ định hướng thu hút đầu tư của Nhà nước, hầu hết các doanh nghiệp lớn, hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế quan trọng như dầu khí, sản xuất xi măng, sắt thép, phân bón, hoá chất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử... đều là doanh nghiệp liên doanh. Các doanh nghiệp liên doanh đã góp phần vực dậy nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam (bị suy thoái do thiếu vốn, thiếu vật tư, công nghệ lạc hậu, mất thị trường khi Liên xô và Đông Âu tan rã), cung cấp nhiều sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế mà trước đây vẫn phải nhập khẩu. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh đã trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt, tiếp thu được công nghệ mới, kiến thức và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn) Bên cạnh những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế nêu trên, đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế: - Khả năng góp vốn của các doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, bình quân chỉ chiếm chưa đầy 30% vốn pháp định và bằng khoảng 10% vốn đầu tư của các liên doanh; vốn góp chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất. Với cơ chế doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Nhà nước cho doanh nghiệp Việt Nam nhận nợ (trước đây) và ghi vốn (hiện nay), nhưng khi doanh nghiệp Việt Nam chưa được chia lãi hoặc liên doanh thua lỗ thì Nhà nước không thu được tiền cho thuê đất để góp vốn; trong khi đó, nếu cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuê đất, thì Nhà nước thu được ngay tiền cho thuê đất. Ngoài ra, với cơ chế hiện nay, doanh nghiệp nào có quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp đó có thể liên doanh với nước ngoài thậm chí trong những ngành nghề chuyên môn không phù hợp với chức năng, sở trường kinh doanh của Bên Việt Nam. - Một trong những mục tiêu của việc liên doanh là đưa cán bộ Việt Nam vào tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp nhằm bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam, của Nhà nước, tiếp thu kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ của ta chưa đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, phẩm chất chính trị, nên không phát huy được tác dụng đại diện cho phía Việt Nam; hoặc chấp nhận "làm thuê" cho nước ngoài để hưởng lương cao, lo thu vén lợi ích cá nhân, thụ động theo sự điều hành của Bên nước ngoài, không dám đấu tranh bảo vệ lợi ích chung của Việt Nam, thậm chí đứng về phía lợi ích của bên nước ngoài. - Tuy không phổ biến, nhưng vẫn còn hiện tượng một số đối tác nước ngoài trong liên doanh ( nhất là các đối tác nước ngoài mà công ty mẹ của họ là bên cung cấp thiết bị, nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm) đã khai vống các chi phí đầu tư, nâng giá thiết bị, máy móc góp vốn và nguyên liệu đầu vào, hạ giá đầu ra thông qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận từ bên ngoài ngay từ đầu, hạch toán lỗ cho liên doanh mà bên Việt Nam trong liên doanh không có khả năng kiểm soát được. Ngoài ra, nhiều đối tác có mục tiêu lâu dài là chiếm lĩnh thị phần ở Việt Nam, nên họ thực hiện chính sách khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo với chi phí lớn và giá bán thấp nhằm cạnh tranh, thậm chí chấp nhận lỗ những năm đầu. Trong khi đó, ta chưa có luật chống độc quyền, chống bán phá giá nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh. Giữa các Bên liên doanh nảy sinh hàng loạt bất đồng về chiến lược kinh doanh, phương thức quản lý điều hành doanh nghiệp, tài chính, quyết toán công trình... dẫn đến tình trạng mâu thuẫn diễn ra khá phổ biến, ảnh hưởng đến việc triển khai dự án, và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự đổ vỡ của nhiều dự án. Những hạn chế nêu trên một phần phát sinh từ cách nhìn nhận khác nhau về các hình thức ĐTNN ở Việt Nam. Trong những năm đầu hợp tác đầu tư với nước ngoài, do quan niệm hình thức doanh nghiệp liên doanh có nhiều lợi thế hơn cho phía Việt Nam, chúng ta chủ trương hướng nhà ĐTNN đầu tư theo hình thức này kèm theo một số chính sách ưu đãi hơn hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, nhưng lại ràng buộc những quy định chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ quyền lợi của các đối tác Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Trong nhiều trường hợp, nhà ĐTNN còn bị áp đặt về đối tác Việt Nam, tỷ lệ góp vốn, địa điểm đầu tư, chịu sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý cấp trên của đối tác Việt Nam vào quá trình sản xuất kinh doanh, gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều lý do khác nhau, liên doanh không phải là hình thức có ưu việt nổi trội trong việc bảo vệ lợi ích kinh tế của phiá Việt Nam so với các hình thức đầu tư khác. Nhiều trường hợp doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng tài chính để tham gia liên doanh, nên sau một thời gian triển khai dự án, dù không mong muốn cũng đã buộc phải đứng trước hai sự lựa chọn, hoặc giải thể, hoặc phải chuyển nhượng vốn góp cho đối tác nưóc ngoài. Tỷ lệ đổ vỡ của các dự án liên doanh khá cao. (Khoảng 28% về số dự án và 17% về vốn đầu tư). 2. Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Với 1.459 dự án còn hiệu lực và tổng vốn đăng ký 10,7 tỷ USD, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tuy chiếm 55,5% số dự án nhưng số vốn đăng ký chỉ chiếm 29,4%. Đầu tư theo hình thức này có chiều hướng gia tăng. Xu hướng này một mặt là do những năm gần đây ta chủ trương cho phép nhà ĐTNN chủ động lựa chọn hình thức, địa điểm, đối tác đầu tư (trừ lĩnh vực đầu tư có điều kiện), cho doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp liên doanh; mặt khác còn do thời gian qua ta phát triển mạnh các khu công nghiệp, mà ở đó hình thức ĐTNN chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (chiếm 85% số dự án được cấp phép trong các KCN). Tuy nhiên tỷ trọng về vốn đăng ký của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài trong tổng vốn đăng ký (chiếm 29,4%) vẫn nhỏ hơn nhiều so với hình thức liên doanh (chiếm 59% tổng vốn đầu tư đăng ký). Quy mô vốn bình quân mỗi dự án cũng nhỏ hơn, chỉ khoảng 7.3 triệu USD (liên doanh là 20,7 triệu USD). Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động để sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may, giày dép, hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến và số vốn đã thực hiện đến hết năm 2000 đạt 5,3 tỷ USD, tạo ra 200.000 việc làm. Nhìn chung tốc độ triển khai thực hiện dự án của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhanh hơn các doanh nghiệp liên doanh. Tỷ lệ các dự án bị thất bại thấp hơn nhiều so với các hình thức đầu tư khác. (Tỷ lệ giải thể trước thời hạn chỉ chiếm 7,1% về số dự án và 11,7 % về vốn đầu tư). (Nguồn: Tài liệu đã dẫn) Đối với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư được chủ động hơn trong lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, điều hành sản xuất - kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực chất là các chi nhánh, các công ty con trong mạng lưới toàn cầu của các công ty đa quốc gia, nên có nhiều thuận lợi trong tiếp cận thị trường thế giới... Nhiều tập đoàn có chiến lược địa phương hoá nhân viên quản lý để tiết kiệm chi phí. Ngoài một số ít vị trí chủ chốt do người nước ngoài nắm giữ, họ có chủ trương đào tạo, sử dụng người Việt Nam quản lý, điều hành doanh nghiệp. Như vậy, đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài vẫn tạo điều kiện cho việc thu hút vốn, học tập kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ tiên tiến, giải quyết việc làm cho người lao động, tiếp cận thị trường thế giới. Xét một cách tổng thể, lợi ích của phía Việt Nam vẫn bảo đảm trong trường hợp cho đầu tư 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, vì toàn bộ quá trình kinh doanh do nhà đầu tư nước ngoài chi phối, nên cần có các quy định ngăn ngừa họ không trung thực trong báo cáo tài chính, gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép các doanh nghiệp trong nước... 3. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD) Hình thức HĐHTKD chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí (hai bên cùng tiến hành, bên nước ngoài bỏ vốn tìm kiếm, thăm dò; nếu có phát hiện thương mại thì chia cho bên Việt Nam theo các tỷ lệ quy định); các dự án liên lạc điện thoại nội hạt, viễn thông, in ấn và phát hành báo chí. (Bên nước ngoài chỉ đầu tư vốn và thiết bị, còn Bên Việt Nam nắm toàn quyền quản lý, điều hành dự án). Tính đến hết năm 2000 có 130 dự án theo hình thức HĐHTKD còn hoạt động, tổng vốn đầu tư 3,8 tỷ USD (chiếm 5% số dự án đang hoạt động và 10,5% vốn đầu tư). Hình thức đầu tư này đã góp phần tích cực vào việc phát triển, hiện đại hoá ngành dầu khí, ngành bưu chính-viễn thông Việt Nam, đồng thời đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiến hành thăm dò đánh giá trên diện tích rộng nguồn tài nguyên dầu khí. Những vấn đề nảy sinh khi triển khai theo hình thức HĐHTKD hiện nay là: - Đối tác nước ngoài bị coi là không thường trú tại Việt Nam nên không có tư cách pháp nhân, do vậy, không được đứng tên ký hợp đồng thuê nhà, thuê lao động địa phương; không được vay tiền Việt Nam... (Gần đây, với Luật sửa đổi,bổ sung một số điều của Luật ĐTNN, quy định này có được thay đổi ít nhiều). - Trong quá trình thực hiện dự án, nhất là đối lĩnh vực bưu chính viễn thông, do không được quyền tham gia điều hành, quản lý dự án làm cho nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tỏ ra ít quan tâm đến hình thức này. Về mặt pháp lý, đây là một hình thức hợp tác tương đối lỏng lẻo, chỉ phù hợp với việc thực hiện một mục tiêu cụ thể trong một thời hạn ngắn, nên nhiều trường hợp tranh chấp giữa các bên hợp doanh đã xảy ra mà không được giải quyết dứt điểm. - Tỷ lệ dự án bị giải thể trước thời hạn khá cao, chiếm 26,6% về số dự án và 16,3% về vốn đăng ký đã cấp phép. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn) 4. Đầu tư theo phương thức BOT Tính đến nay, đã cấp GPĐT cho 5 dự án BOT, trong đó có 3 dự án BOT cung cấp nước sạch cho thành phố Hồ Chí Minh (Bình An - 100.000 m3/ngày, Thủ Đức- 300.000 m3/ngày, Sài Gòn II - 300.000 m3/ngày), 1 dự án sản xuất điện (Wartsila - 120 MW), 1 dự án Cảng Quốc tế Vũng Tàu (đã rút Giấy phép đầu tư). Nhìn chung, do nhiều nguyên nhân, hình thức đầu tư này chưa thành công, chưa mở rộng được, một số dự án đã cấp phép cũng rất khó triển khai thực hiện. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn) Qua thực tế cấp GPĐT và quản lý các dự án BOT, bước đầu cho thấy: - Dự án BOT là dự án thực hiện Hợp đồng ký giữa Nhà ĐTNN và Chính phủ Việt Nam để xây dựng và vận hành một dự án nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách về một sản phẩm nhất định để bảo đảm sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên, do đa số các dự án BOT có phạm vi áp dụng không rộng, điều kiện thực hiện phức tạp nên thường mất nhiều thời gian để giải quyết những thủ tục ban đầu như hoàn chỉnh việc đàm phán, ký kết Hợp đồng BOT, Hợp đồng mua bán sản phẩm, thu xếp phương án tài chính, các thỏa thuận về việc chuyển đổi ngoại tệ, giải phóng mặt bằng, trong khi đây là phương thức đầu tư mới, kinh nghiệm của ta chưa nhiều. Khó khăn lớn nhất là việc đàm phán thoả thuận về giá đầu vào và đầu ra của các dự án trong khi bên cung cấp và bên mua đều muốn duy trì giá độc quyền của mình. Vì vậy trong nhiều trường hợp các dự án này không đáp ứng được yêu cầu về tiến độ, một số dự án do thời gian đàm phán kéo quá dài nên đã không còn có ý nghĩa thời sự nữa. - Cần phải khẳng định, mô hình đầu tư theo hình thức BOT đã được một số nước áp dụng thành công và cũng phù hợp với bối cảnh cụ thể của Việt nam trong điều kiện thiếu vốn, muốn đưa dự án nhanh đi vào hoạt động để giải quyết nhu cầu cấp bách về một loại hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước lại kiểm soát, khống chế được quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kết thúc hợp đồng BOT được nhận tài sản chuyển giao không bồi hoàn của Nhà đầu tư. Tuy vậy, để tiếp tục thực hiện chủ trương này một cách có hiệu quả, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện luật pháp để các các Bên tham gia Hợp đồng và các cơ quan quản lý thực hiện đúng trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, không mất nhiều thời gian điều chỉnh và xin phép. Về chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án BOT cần phải rõ ràng và cụ thể hơn (có danh mục dự án cụ thể gọi vốn theo hình thức BOT). V. Đầu tư nước ngoài theo đối tác đầu tư Đến nay, đã có 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án ĐTNN tại Việt nam. Trong tổng số vốn ĐTNN đăng ký cấp mới USD thì các nước khu vực Châu á chiếm 63,2% (nếu kể cả ôxtrâylia và Newzealand là 66,1%); Châu âu chiếm 20,4%; Châu Mỹ chiếm 13,4%. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn). Số liệu thống kê theo đối tác ĐTNN hiện nay căn cứ vào địa điểm đăng ký của doanh nghiệp ĐTNN trước khi xin phép đầu tư vào Việt nam. Phương pháp này tuy có phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng mang tính tương đối, chưa phản ánh sát thực dòng vốn ĐTNN của các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam vì có những doanh nghiệp xuất xứ ở một nước nhưng lại thành lập công ty con ở một quốc đảo (có điều kiện dễ dàng về thủ tục thành lập và ưu đãi về thuế) để đầu tư vào Việt Nam hoặc có nhiều tập đoàn lớn thông qua các chi nhánh và công ty con ở nước khác tiến hành đầu tư vào Việt Nam. Ví dụ: các Công ty P&G, Cocacola (Mỹ), Unilever (Anh) đều thông qua các công ty con đăng ký ở Singapore đầu tư vào Việt Nam; các tập đoàn ABB (Thuỵ điển), HSBC Holdings (Anh), Keppel (Singapore) đầu tư vào Việt Nam thông qua các chi nhánh tại Hồng Kông... Nói chung, trong số các đối tác đầu tư vào Việt Nam thì các nhà đầu tư Đông á luôn dẫn đầu về vốn đăng ký, khoảng trên 12 tỷ USD, chiếm 30%, tiếp đó là các đối tác ASEAN, chiếm 22% và Châu Âu chiếm 20%. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn). Đáng chú ý nhất là các dự án của các nhà đầu tư Châu Âu thường công có quy mô lớn, vốn bình quân 1 dự án khoảng 18 triệu USD, cao hơn 50% so với các đối tác Châu á, và cao hơn 20% so với các đối tác Châu Mỹ. Về mặt công nghệ, các đối tác Châu Âu thường đưa vào Việt Nam công nghệ tiên tiến, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế nhưng cũng vì vậy mà số lượng lao động được sử dụng không nhiều. Bình quân 1 dự án của các đối tác Châu Âu tạo ra trên 100 chỗ làm việc so với 150 chỗ làm việc bình quân 1 dự án của các đối tác Châu á. Các quốc gia Châu Âu như Pháp, Nga, Anh, Hà Lan luôn có mặt trong 10 nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam. - Thời kỳ 1996-2000, ĐTNN của Châu Âu đã tăng cả về số dự án và quy mô, số dự án tăng 52% và số vốn đăng ký tăng 65%. Tỉ trọng đầu tư của các nước Châu Âu trong tổng vốn ĐTNN thu hút đã tăng từ 17,3% giai đoạn 1991-1995 lên gần 22% giai đoạn 1996-2000. - Các đối tác Châu Âu tập trung vốn đầu tư vào các ngành khai thác, chế biến dầu khí, viễn thông, công nghiệp dược, cơ khí chế tạo, trong đó riêng hai lĩnh vực dầu khí và viễn thông đã chiếm tới 42% tổng vốn đầu tư của các công ty Châu Âu. Trong lĩnh vực dầu khí, các tập đoàn dầu khí lớn như BP, Shell, Total, Statoil, Fina, Elf ... đều đã có mặt tại Việt Nam từ rất sớm, thậm chí từ trước khi triển khai thực hiện Luật đầu tư nước ngoài. Các tập đoàn viễn thông lớn như France Telecom, Motorola, Comvik, Alcatel.. cũng đã đều có mặt tại Việt Nam. Lĩnh vực nông lâm nghiệp cũng được các nhà đầu tư Châu Âu quan tâm. Những dự án lớn trong lĩnh vực này như Nhà máy đường Nghệ An Tate&Lyte, đường Bourbon, chế biến sữa Foremost, Nestlé.... đã tạo thu nhập và việc làm cho hàng chục nghìn lao động nông nghiệp, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn) Tóm lại, với tình hình trên, ĐTTTNN ở Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tuy nhiên, hoạt động này cũng đã bộc lộ một số những yếu kém và hạn chế. Phần III Đánh giá hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam giai đoạn 1996-2002 và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong giai đoạn 2003-2005 I. Đánh giá hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam giai đoạn 1996-2002 1. Những thành tựu đạt được ĐTNN trong hơn 15 năm qua đã đáp ứng về cơ bản những mục tiêu đề ra, tạo dựng những cơ sở ban đầu quan trọng cho sự nghiệp mới mẻ và khó khăn này và đóng góp quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới. 1.1. Chủ trương thu hút vốn ĐTNN là đúng đắn và kịp thời, đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Vốn ĐTNN thực hiện tăng nhanh qua các năm: Thời kỳ 1988-1995 đạt trên 7,15 tỷ USD chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; thời kỳ 1996-2002 đạt trên 17,476 tỷ USD chiếm 24% tổng vốn đầu tư xã hội và gấp trên 1,8 lần thời kỳ 1988-1995; bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Tỷ lệ vốn ĐTNN thực hiện so với GDP chung thời kỳ 1996-2002 đã đạt trên 6%. Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần qua các năm: năm 1993 đạt 3,6%/năm đến năm 1995 đạt 6,3%, năm 1998 đạt 10,1% và năm 2000 đạt 13,3%, năm 2001 là 13,9%. Thu ngân sách từ khu vực ĐTNN trong 7 năm 1996-2002 đạt gần 2,335 tỷ USD, gấp 4,5 lần 8 năm trước đó, bình quân chiếm 6-7% nguồn thu ngân sách (nếu tính cả thu từ dầu khí, tỷ lệ này đạt gần 20%). 1.2. Việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu vực ĐTNN tăng nhanh: trong 5 năm 1991- 1995 đạt trên 1,12 tỷ USD, thời kỳ 1996-2002 đạt trên 18,775 tỷ USD, tăng hơn 15 lần so với 8 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Ngoài ra, khu vực ĐTNN đã góp phần mở rộng thị trường trong nước; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ; tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế. 1.3. Việc thu hút ĐTNNđã chú trọng nhiều hơn đến chất lượng, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu ĐTNN những năm đầu (ngoài dầu khí) tập trung nhiều vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản (khách sạn, văn phòng cho thuê...), thì trong thời kỳ 1996-2002 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất vật chất với cơ cấu ngành nghề hợp lý hơn, hướng vào sản xuất, chế biến xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng; trong đó, ĐTNN trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 56% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện (so với tỷ lệ tương ứng là 52,7% và 56% thời kỳ 1991-1995). Cơ cấu ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ chuyển dịch mạnh, trong thời kỳ 1996-2002, các dự án kinh doanh bất động sản giảm 52%, trong khi các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật (viễn thông, dịch vụ kỹ thuật) tăng 1,4 lần 8 năm trước. 1.4. Việc thu hút ĐTNN đã chú trọng kết hợp các dự án công nghệ hiện đại với các dự án thu hút nhiều lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực. Đến nay, khu vực ĐTNN đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác như xây dựng, cung ứng dịch vụ.... Một số lượng đáng kể người lao động đã được đào tạo nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Qua hợp tác đầu tư, người lao động được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp thu kỹ năng, công nghệ tiên tiến, rèn luyện tác phong lao động công nghiệp và thích ứng dần với cơ chế lao động mới. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp từng bước được cải thiện. Đội ngũ cán bộ Việt Nam trong lĩnh vực ĐTNN ngày một trưởng thành và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quản lý. 1.5. Thực hiện chủ trương đa phương hoá hoạt động ĐTNN đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Đến nay, đã có 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án ĐTNN tại Việt Nam. Ước tính trên 80 công ty xuyên quốc gia (TNCs) nằm trong danh sách 500 TNCs hàng đầu thế giới có tiềm lực mạnh về công nghệ và tài chính, đầu tư vào các ngành công nghiệp quan trọng như dầu khí, viễn thông, ôtô xe máy, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, hoá chất, vào lĩnh vực nước giải khát, ngân hàng, bảo hiểm ... ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung với EU, bình thường hoá quan hệ và ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ; tăng cường thế và lực của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế. Chính những đổi mới của nền kinh tế nói chung, về môi trường kinh doanh trong lĩnh vực ĐTNN nói riêng những năm qua cũng góp phần quan trọng trong việc khôi phục và gia tăng nguồn vốn ODA cho Việt Nam từ năm 1993 đến nay. 1.6. Cùng với việc thu hút ĐTNN các doanh nghiệp Việt Nam đã được khuyến khích từng bước tiến hành đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường. Đến nay, các doanh nghiệp nước ta đã có trên 45 dự án đầu tư ra 12 nước và vùng lãnh thổ, với số vốn đăng ký khoảng 38 triệu USD, chủ yếu trong các lĩnh vực chế biến thực phẩm, thương mại-dịch vụ, xây dựng. Tuy số dự án chưa nhiều và quy mô còn nhỏ, nhưng đây là hướng đi đúng, phù hợp với xu hướng chung, mở ra khả năng đầu tư vào các dự án có hiệu quả về nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng dân dụng, thủ công mỹ nghệ, dầu khí,... tại Lào, Campuchia, Liên bang Nga, Hồng Kông, Singapore, Trung Cận Đông. Thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp nước ta có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và lao động ra nước ngoài. 1.7. Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút ĐTNN trên thế giới gia tăng và trước ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, Quốc hội, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực cải thiện môi trường. Trong 5 năm qua, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản luật pháp, chính sách quan trọng về ĐTNN như: Luật ĐTNN năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN, và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Dầu khí năm 2000; các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật ĐTNN của Chính phủ (như: Nghị định 12/CP, Nghị định 10/1998/NĐ-CP, Nghị định 24/2000/NĐ-CP, Chỉ thị số 11/1998/CT-TTg và Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Những chính sách tập trung vào tháo gỡ khó khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế cho các doanh nghiệp ĐTNN (như miễn giảm thuế, tiền thuê đất, cho dãn, hoãn, tiến độ hoặc thay đổi mục tiêu dự án, giảm chi phí đầu tư); đơn giản hoá thủ tục đầu tư, mở rộng quyền tự chủ của các doanh nghiệp ĐTNN, khuyến khích ĐTNN vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn cần thu hút vốn ĐTNN..., được các nhà ĐTNN đánh giá cao. (Nguồn: Báo cáo tình hình ĐTTTNN trình Chính phủ số 40/BKH-ĐTNN của Bộ Kế hoạch - Đầu tư) 2. Những tồn tại, hạn chế 2.1. Sự cần thiết lâu dài và vai trò quan trọng của ĐTNN đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt thông suốt, chưa có sự nhận thức thống nhất ở các cấp, các ngành dẫn đến quan điểm xử lý nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến ĐTNN còn khác nhau, gây khó khăn cho hoạt động của lĩnh vực này. Những quan điểm còn khác nhau trên đây dẫn đến lúng túng trong hoạch định chính sách, trong điều hành xử lý cụ thể, làm chậm tiến độ xem xét dự án và đôi khi làm lỡ cơ hội thu hút đầu tư. Tình hình đó cộng với những nhận định còn nặng về xem xét chỉ trích mặt hạn chế trong ĐTNN dẫn đến sự đánh giá chưa thống nhất và thiếu khách quan về ĐTNN trong dư luận xã hội. 2.2. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể Do quy hoạch ngành và một số sản phẩm quan trọng chưa có hoặc được triển khai chậm, lại dựa trên một số dự báo thiếu chuẩn xác, chưa lường hết diễn biến phức tạp của thị trường... nên thời gian qua có tình trạng đã cấp phép ĐTNN vào một số lĩnh vực và sản phẩm tạm thời vượt quá nhu cầu hiện tại (như các dự án khách sạn, nước giải khát có gas; sản phẩm điện tử gia dụng; lắp ráp ô tô...). Tình hình trên cộng với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực đã làm cho công suất huy động của nhiều sản phẩm thuộc khu vực ĐTNN đạt thấp (như ôtô 5%; xe máy, máy giặt, tủ lạnh trên 30%; mía đường, xi măng, khách sạn trên dưới 40%...). Các KCN đã thành lập do thiếu kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư, nên mới lấp kín được gần 30% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Nhiều KCN ở miền Bắc và miền Trung chi phí san lấp mặt bằng cao, tỷ lệ cho thuê đất rất thấp. Quy hoạch mạng lưới giáo dục, dạy nghề, y tế còn thiếu đồng bộ và đang gặp khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư để phát triển, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật. 2.3. Cơ cấu vốn ĐTNN có một số bất hợp lý; hiệu quả tổng thể về kinh tế-xã hội của khu vực ĐTNN chưa cao. Trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản, mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định, nhưng ĐTNN còn quá thấp, số dự án thành công không nhiều do gặp rủi ro, thiên tai, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa xây dựng được quan hệ hợp đồng dài hạn cùng có lợi với nông dân... Tỷ trọng vốn ĐTNN đăng ký trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp liên tục giảm. Chiều hướng tăng tỷ trọng ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp là tốt; tuy nhiên, tỷ trọng đối với các dự án thay thế nhập khẩu, hướng vào thị trường nội địa còn cao, nhất là các dự án của EU, Mỹ, Nhật. Trong lĩnh vực dịch vụ, tỷ trọng các dự án kinh doanh bất động sản còn lớn, chiếm gần một phần ba tổng vốn đăng ký, thị trường về dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý còn chưa thực sự mở đối với ĐTNN; tư vấn về kỹ thuật, chuyển giao công nghệ còn hạn chế. 2.4. Hình thức ĐTNN chưa phong phú; khả năng góp vốn của Việt Nam còn hạn chế. Hơn mười năm qua, ĐTNN tại Việt Nam chỉ thực hiện theo 3 hình thức là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN và hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng; trong đó, các doanh nghiệp ĐTNN chỉ được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, do đó, chưa mở được các kênh mới để thu hút dòng vốn ĐTNN. 2.5. Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán được trước; môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế. Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao; một số luật pháp, chính sách liên quan trực tiếp đến ĐTNN thay đổi nhiều, một số trường hợp chưa tính kỹ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên đã làm đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai dự án liên quan đến phạm vi điều chỉnh của các luật, quy định chuyên ngành như đất đai, quản lý ngoại hối, công nghệ môi trường, lao động, xuất nhập cảnh, pháp lệnh thi hành án,... chậm được sửa đổi. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định. Một số văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành, địa phương có xu hướng xiết lại, đẻ thêm quy trình, dẫn đến tình trạng “trên thoáng, dưới chặt”, một số chính sách mới của Chính phủ chậm được đưa vào cuộc sống hoặc không được cơ quan cấp dưới chấp hành nghiêm chỉnh làm giảm lòng tin của cộng đồng ĐTNN. Các nhà ĐTNN đầu tư vào Việt Nam chủ yếu với động cơ kiếm lợi nhuận và nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa gần 80 triệu dân. Nhưng một mặt, quy mô của thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, sức mua rất thấp, nhất là vùng nông thôn; mặt khác ta lại chủ trương khuyến khích đầu tư hướng về xuất khẩu, nhiều dự án phải xuất khẩu trên 80%... nên tính khả thi của một số dự án không cao. Chi phí để duy trì sản xuất kinh doanh ở nước ta cao hơn so với một số nước trong khu vực (như giá điện, cước vận chuyển container, cước phí điện thoại quốc tế, mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân ...), do đó không còn là địa điểm hấp dẫn để đầu tư. 2.6. Công tác quản lý Nhà nước đối với ĐTNN còn những mặt yếu kém, vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp. Trong một thời gian dài chưa xây dựng được chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ĐTNN làm cơ sở cho vận động, xúc tiến đầu tư, xử lý các dự án cụ thể. Việc thực thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm; thủ tục hành chính các cấp, nhất là thủ tục sau Giấy phép (như thủ tục cấp đất, giải phóng mặt bằng, tuyển lao động...) rườm rà, chậm được cải tiến. 2.7. Cán bộ là yếu tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất. Một số không ít cán bộ Việt Nam được cử vào làm trong các liên doanh thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật và thương trường, không biết ngoại ngữ; nhiều người giữ cương vị lãnh đạo của liên doanh chỉ vì đối tác Việt Nam có đất góp vốn. Một số cán bộ chưa phát huy được vai trò đại diện chủ sở hữu Nhà nước trong liên doanh, kém phẩm chất, thoái hoá, lo nghĩ trước hết đến lợi ích cá nhân, thậm chí đứng về phía lợi ích của chủ ĐTNN. Tổ chức công đoàn mới được thành lập tại 40% doanh nghiệp, chưa phát huy đầy đủ tác dụng. Tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp ĐTNN nhìn chung còn lúng túng trong phương thức hoạt động. Thời gian qua, tuy Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách, biện pháp tích cực liên quan đến ĐTNN nhưng về tổng thể, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, môi trường đầu tư và nhất là môi trường kinh doanh ở nước ta vẫn chưa có sức hấp dẫn đủ mạnh do còn nhiều rủi ro, một số lợi thế so sánh đang mất dần, một số chính sách về thuế, quản lý ngoại hối thường thay đổi quá nhanh (mặc dầu là bắt buộc vì mang tính tình thế), thị trường trong nước còn hạn hẹp, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng sản xuất yếu kém, đồng tiền Việt Nam chưa được chuyển đổi... Trong nhiều trường hợp, do quan điểm xử lý nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến ĐTNN chưa thống nhất, cộng thêm các thủ tục hành chính phiền hà, sự thiếu phối hợp chặt giữa các cấp các ngành, thái độ tắc trách của cán bộ ... đã làm lỡ cơ hội đầu tư, làm chậm tiến trình xét duyệt hoặc triển khai dự án. Vì vậy, để thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa ĐTNN, yêu cầu đặt ra là phải xác định chủ trương, phương hướng và hệ thống các giải pháp hữu hiệu, tạo dựng một môi trường đầu tư về tổng thể phải có sức hấp dẫn và tính cạnh tranh cao. II. Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN giai đoạn 2003-2005 Trong qua trình phân tích, đánh giá hoạt động ĐTTTNN ở Việt Nam với những thành tựu và hạn chế như trên, Vụ ĐTNN phối hợp với các Vụ và cơ quan khác trong Bộ Kế hoạch - Đầu tư và đề nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN trong giai đoạn 2003-2005 dựa trên những chủ trương thu hút và sử dụng vốn ĐTNN trong thời gian tới. 1. Chủ trương thu hút, sử dụng ĐTNN trong thời gian tới 1.1. Chủ trương chung là tạo điều kiện để khu vực kinh tế có vốn ĐTNN phát triển thuận lợi và thu hút mạnh ĐTNN nhằm góp phần thực hiện kế hoạch 5 năm và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm tới; gắn với quy hoạch và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế; giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và định hướng XHCN. 1.2. Định hướng thu hút, sử dụng ĐTNN theo ngành, lĩnh vực Định hướng chung là khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút ĐTNN vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu, công nghiệp cơ khí, điện tử, dầu khí, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, khai thác thế mạnh về tài nguyên, nguyên liệu. - Trong lĩnh vực nông-lâm nghiệp cần khuyến khích và có chính sách ưu đãi thoả đáng đối với các dự án, chế biến các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp gắn với việc phát triển các vùng nguyên liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; chú trọng các dự án ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất các loại giống mới có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; khuyến khích các dự án công nghiệp phục vụ nông nghiệp, các dự án dịch vụ nông thôn. - Trong lĩnh vực công nghiệp, việc thu hút ĐTNN vừa hướng vào những ngành sản xuất hàng xuất khẩu, những ngành sử dụng nhiều lao động (như chế biến nông lâm thuỷ sản, may mặc, da giày, hàng tiêu dùng...) vừa chú trọng những ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá, dầu khí, ...). Một số định hướng cụ thể: + Tiếp tục thu hút ĐTNN trong các lĩnh vực quan trọng: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí và phát triển các cơ sở công nghiệp hạ nguồn dầu khí + Thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam; đầu tư sản xuất phôi thép, hoàn nguyên quặng, cán thép lá, thép hợp kim, thép hình, sắp xốp, ... + Sản xuất linh kiện, phụ tùng, lốp, ôtô, xe máy; sản xuất, lắp ráp thiết bị xe máy thi công xây dựng, thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải; thiết bị phụ tùng máy nông nghiệp và thiết bị cho các ngành công nghiệp khác; + Phát triển nguyên liệu hoá chất cơ bản, vật liệu mới (chất dẻo, sợi tổng hợp, polyme, ...); các chất hoạt động bề mặt (LAS, LAB, ..), chất bảo vệ thực vật, nguyên liệu nhựa (PE, PS, PP, PVC2), Methanol, Ethylen, các loại phân DAP, UH, Kali. + Các dự án may mặc-da giầy xuất khẩu; sản xuất nguyên liệu, phụ kiện cho ngành may mặc, da giầy; chú trọng các dự án kéo sợi, dệt, in hoa, nhuộm; các dự án sản xuất công cụ, gia cụ, đồ dùng gia đình ... + Các dự án điện tử, điện gia dụng chú trọng vào sản xuất linh kiện điện, điện tử, màn hình vi tính; thiết bị, phần mềm tin học, điện tử công nghiệp, điện tử y tế phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; các dự án điện gia dụng xuất khẩu trên 80%. + Các dự án sản xuất các loại dược phẩm thay thế hàng nhập khẩu; khuyến khích các dự án sản xuất nguyên liệu thuốc kháng sinh, nguyên liệu hoá dược; sản xuất thiết bị y tế, dịch truyền. - Trong lĩnh vực dịch vụ: tập trung khuyến khích các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật-kinh tế, cơ sở hạ tầng ngành du lịch; các dịch vụ tin học, chuyển giao công nghệ, trong đó chú trọng các lĩnh vực cụ thể sau: + Ngành bưu chính-viễn thông: thu hút ĐTNN vào phát triển mạng thông tin kết hợp điện thoại di động và vô tuyến cố định; cáp quang biển Bắc Nam; mạng Internet phục vụ cộng đồng; sản xuất thiết bị viễn thông. + Các dự án giao thông như cầu, đường, cảng, một số nhà máy điện theo hình thức BOT. + Các dự án xây dựng tổ hợp du lịch, trung tâm văn hoá-thể thao, khu vui chơi-giải trí; phát triển du lịch sinh thái ở những vùng có tiềm năng lớn. 1.3. Định hướng thu hút ĐTNN theo địa bàn, đối tác nước ngoài. - Tiếp tục thu hút ĐTNN vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của các vùng phụ cận về nguyên liệu, lao động và các nguồn lực khác. Có chính sách ưu đãi hơn nữa để khuyến khích ĐTNN vào những vừng và địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Tập trung thu hút ĐTNN vào các Khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt. - Đa phương hoá các đối tác ĐTNN để tạo thế chủ động trong các tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà ĐTNN ở khu vực Đông á, ASEAN vào các dự án mà họ có nhiều kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng xuất khẩu, dịch vụ,... cần tăng cưòng thu hút mạnh ĐTNN từ các nước công nghiệp phát triển như Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản nhằm tranh thủ tiềm lực về tài chính, công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh ranh của nền kinh tế. - Có kế hoạch vận động trực tiếp các công ty xuyên quốc gia (TNCs) có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ nguồn, thị trường quốc tế đầu tư vào Việt Nam trên cơ sở thế mạnh của các TNCs; đồng thời chú ý đến cả các dự án có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại. 2. Các giải pháp thu hút, sử dụng ĐTNN giai đoạn 2003-2005 2.1. Thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược và nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút ĐTNN -Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, cần xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ĐTNN; trong đó bao quát chiến lược ngành và lĩnh vực, chiến lược đối tác cụ thể. - Cần gấp rút xây dựng quy hoạch ĐTNN như là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực chung của cả nước. Kiến nghị: - Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về ĐTNN 5 năm 2001-2005; xây dựng định hướng chiến lược, quy hoạch thu hút ĐTNN cho thời kỳ tới; chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng danh mục dự án quốc gia gọi vốn ĐTNN trình Chính phủ. - Giao các Bộ, ngành, địa phương xây dựng danh mục dự án kêu gọi ĐTNN của ngành, địa phương mình, hoàn thành quy hoạch ngành, sản phẩm chủ yếu trong năm 2001. 2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN - Xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. - Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp ĐTNN; xây dựng chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá. - Đa dạng hoá các hình thức ĐTNN để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự án ở Việt nam thành lập các công ty quản lý vốn (holding company); đẩy nhanh việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp ĐTNN. Kiến nghị: - Giao cho Bộ kế hoạch và Đầu tư triển khai, nghiên cứu Bộ luật đầu tư chung; trình Chính phủ đề án cổ phần hoá các doanh nghiệp ĐTNN. - Giao Bộ Tài chính hoàn chỉnh đề án liên quan đến thuế, kinh doanh bất động sản, hướng dẫn phá sản đối với doanh nghiệp ĐTNN. - Giao Bộ Thương mại hoàn chỉnh văn bản Luật cạnh tranh chống độc quyền. - Giao Bộ Tư pháp làm đầu mối rà soát các văn bản cần ban hành, sửa đổi cho phù hợp với các Điều ước quốc tế Việt nam đã ký. 2.3. Đổi mới và triển khai hiệu quả các chính sách về ĐTNN 2.3.1. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư. Quyết định 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là bước đi đầu tiên thực hiện lộ trình tiến tới một mặt bằng thống nhất giá phí dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ IV. Thực hiện chủ trương này, xin kiến nghị Chính phủ: - Tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hóa, dịch vụ để sau một thời gian, về cơ bản áp dụng một mặt bằng giá, phí thống nhất cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTNN. - Ban hành khung giá thống nhất về tiền đền bù giải toả mặt bằng. - Trong năm 2001, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam thanh toán dứt điểm, hợp lý các công trình điện ngoài hàng rào do các chủ đầu tư đã ứng vốn xây dựng. 2.3.2. Sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi hơn cho hoạt động ĐTNN - Đất đai. - Soát xét lại giá cho thuê đất, miễn giảm tiền thuê đất trong một số năm đầu để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp - Ngân hàng Nhà nước cùng với Bộ Tư pháp, Tổng cục địa chính ban hành các văn bản hướng dẫn việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam; nghiên cứu khả năng cho phép các dự án lớn và dự án xây dựng cơ sở hạ tầng được thế chấp quyền sử dụng đất ở tổ chức tài chính nước ngoài. - Tài chính, tín dụng, ngoại hối. - Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xóa bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hóa chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Có chính sách bổ sung đảm bảo việc bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp ĐTNN đã thực hiện nghĩa vụ kết hối để đáp ứng nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp. - Nghiên cứu ban hành mức lãi suất trần hợp lý đối với khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp ĐTNN). - Các doanh nghiệp ĐTNN được tiếp cận thị trường vốn; được vay tín dụng, kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Kiến nghị - Giao Ngân hàng Nhà nước sớm có văn bản hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với doanh nghiệp ĐTNN theo hướng không mở rộng đối tượng kết hối, và bảo đảm cân đối ngoai tệ đối với các dự án cơ sở hạ tầng, dự án quan trọng đầu tư theo chương trình Chính phủ được xác định trong GPĐT. - Giao Bộ tài chính ban hành Quy chế về hoạt động của các quỹ đầu tư; ban hành Quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp ĐTNN; ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, quản lý được hoạt động tài chính của doanh nghiệp. - Sớm ban hành quy định về thành lập cơ quan đăng ký quốc gia về các giao dịch có bảo đảm (Đề án Bộ Tư pháp đã trình). 2.3.3. Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những lĩnh vực, địa bàn cần thu hút ĐTNN - Thực hiện chính sách thuế khuyến khích các dự án công nghệ cao, sản xuất thiết bị điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo, công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện; khuyến khích đẩy nhanh chương trình nội địa hoá, chuyển giao công nghệ; sử dụng các sản phẩm trung gian phục vụ xuất khẩu. Kiến nghị: Giao Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ chuyên ngành xây dựng các chính sách ưu đãi trên. 2.3.4. Tăng cường thu hút ĐTNN vào các Khu công nghiệp, khu chế xuất. - Xem xét chặt chẽ việc thành lập các KCN mới khi hội đủ điều kiện; rà soát các KCN đã có quyết định thành lập để dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng những KCN không đủ yếu tố khả thi. - Nghiên cứu tách riêng việc Nhà nước cho thuê đất nguyên thổ với việc kinh doanh cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp phát triển KCN để ngăn tình trạng đầu cơ đất. - Bảo đảm hỗ trợ các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên lạc) đến tận hàng rào các KCN. Kiến nghị: - Giao Tổng cục địa chính hoàn thiện văn bản hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp để tạo thuận lợi cho việc thế chấp, cầm cố giá trị quyền sử dụng đất và tài sản trên đất để vay ngân hàng. - Giao Bộ KHĐT nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Quy chế KCN, KCX, KCNC phù hợp với tình hình mới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư; thu hẹp khoảng cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong nước và ĐTNN trong các KCN. 2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực ĐTNN 2.4.1. Tập trung cao độ công tác quản lý, điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án ĐTNN hoạt động có hiệu quả Giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. - Đối với các dự án chưa thực hiện, cần rà soát lại tính khả thi của dự án và liên hệ với nhà ĐTNN để nắm dự định, năng lực thực sự của họ. - Đối với những dự án mới bắt đầu triển khai hoặc đang xây dựng cơ bản thì cần hỗ trợ họ giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính để nhanh chóng đưa nhà máy vào hoạt động. - Hỗ trợ những dự án đang hoạt động sản xuất-kinh doanh thông qua việc chủ động điều chỉnh Giấy phép đầu tư để các dự án ĐTNN nhanh chóng được hưởng các ưu đãi mới trong Luật, Nghị định vừa ban hành... 2.4.2. Tiếp tục thực hiện phân cấp quản lý Nhà nước về ĐTNN cho các địa phương -Phân cấp quản lý Nhà nước về ĐTNN cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các Ban quản lý KCN phải bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch, cơ cấu, chính sách, cơ chế quản lý; tăng cường sự hướng dẫn và kiểm tra, giám sát của các Bộ, Ngành trung ương; nâng cao kỷ luật thực hiện để vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, vừa tránh phá vỡ quy hoạch, tránh mọi sơ hở. Việc phân cấp liên quan đến mọi khâu của quản lý Nhà nước đối với ĐTNN, kể cả các khâu trước và sau khi cấp GPĐT. - Đối với các Ban quản lý không trực thuộc sự quản lý của UBND cấp tỉnh ( như KCN Việt Nam - Singapore, KCN Dung Quất, KCNC Hoà Lạc) vẫn thực hiện cơ chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền như hiện nay. Kiến nghị: Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm chủ trì tổng kết tình hình phân cấp và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về phân cấp quản lý Nhà nước về ĐTNN cho UBND cấp tỉnh trong quý II năm 2001. 2.4.3. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với ĐTNN - Hoàn chỉnh quy trình ban hành các văn bản pháp quy để ngăn chặn việc các Bộ, ngành, địa phương ban hành các văn bản trái quy định chung hoặc thực hiện không nghiêm các quyết định của Chính phủ trong lĩnh vực ĐTNN. Rà soát có hệ thống các văn bản của các ngành, các cấp liên quan đến hoạt động ĐTNN. - Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động ĐTNN theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm. - Quy định cụ thể chế độ kiểm tra để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế; đồng thời vẫn bảo đảm giám sát được các doanh nghiệp. áp dụng các chế tài đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Kiến nghị: - Giao Bộ Tư pháp hoàn chỉnh quy trình ban hành văn bản pháp quy. - Giao Bộ kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát các văn bản pháp quy liên quan đến ĐTNN, kiến nghị bãi bỏ những văn bản, những loại giấy phép không còn cần thiết; xây dựng quy chế phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý hoạt động ĐTNN; xây dựng đề án về đăng ký cấp phép và đăng ký đầu tư. 2.5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư - Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng địa bàn, loại hình doanh nghiệp (TNCs, doanh nghiệp vừa và nhỏ). Thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại các Bộ, ngành, Tổng công ty lớn, tại các cơ quan đại diện nước ta ở một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư trực tiếp đối với từng dự án, từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng. - Tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới. Kiến nghị: - Giao Bộ Tài chính chuẩn bị ngân sách thường xuyên cho hoạt động xúc tiến đầu tư. - Giao bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. 2.6. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các Doanh nghiệp ĐTNN Trong hoạt động ĐTNN, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng luật pháp, chính sách để xử lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt động ĐTNN, là người bảo vệ lợi ích phía Việt Nam; đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Để nâng cao chất lượng của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp ĐTNN, xin kiến nghị: - Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, quy định rõ tiêu chuẩn tuyển chọn về chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ làm việc tại các doanh nghiệp ĐTNN; - Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đào tạo chính quy cán bộ làm công tác ĐTNN, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. - Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý KCN tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp ĐTNN. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thường xuyên việc tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, kinh nghiệm cần thiết nhất cho cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các doanh nghiệp ĐTNN. Kết luận Trong thời gian qua, Vụ ĐTNN luôn là một cơ quan giữ vai trò quan trọng trong việc cấp giấy phép và thẩm định các dự án ĐTTTNN. Thông qua Vụ ĐTNN và Bộ kế hoạch - Đầu tư, em đã tìm hiểu một cách sâu sắc tình hình hoạt động ĐTTTNN ở Việt Nam trong vong 15 năm qua. Đó là khoảng thời gian khởi đầu đầy khó khăn và thử thách của Việt Nam trong việc thu hút và sử dụng vốn ĐTNN. Cũng trong khoảng thời gian đó, Việt Nam đã rút ra được nhiều bàu học quý giá để tăng cường hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN, như cải thiện môi trường đầ tư, đổi mới về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiến đầu tư, điều chỉnh công tác quy hoạch phù hợp hơn với tiến trình CNH, HĐH, chẳng hạn như khuyến khích các dự án có công nghệ cao, vốn đầu tư lớn, các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp từ các đối tác Châu Âu... Những bài học này là vô cùng cần thiết trong bối cảnh mới của tình hình trong nước và Thế giới, đặc biệt là những khó khăn từ sự cạnh tranh từ phía Trung quốc và các nước tiếp nhận vôn ĐTTTNN trên Thế giới. Danh mục từ viết tắt ĐTTTNN : Đầu tư trực tiếp nước ngoài ĐTNN : Đầu tư nước ngoài CNH : Công nghiệp hoá HĐH : Hiện đại hoá KCN : Khu công nghiệp KCX : Khu chế xuất KCNC : Khu công nghệ cao Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35954.DOC
Tài liệu liên quan