Đề tài Sự phân kỳ lịch sử thê giới

Tài liệu Đề tài Sự phân kỳ lịch sử thê giới: MỞ ĐẦU Từ buổi đầu bình minh cho tới nay lịch sử loài người đã trải qua năm thời kỳ lớn (theo quan điểm mác-xít), các thời kỳ có thời gian tồn tại khác nhau vậy nên ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì mỗi thời kỳ lại mang trong mình những bản chất hay đặc điểm riêng biệt mà ở thời kỳ khác lại không có được. Thời kỳ xã hội nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm, là thời kỳ dài nhất trong lịch sử xã hội loài người, là thời kỳ mà tất cả các quốc gia đều phải trảo qua. Thời kỳ cổ đại là thời đại xã hội chiếm hữu nô lệ khoảng 3000 năm trước công nguyên. Thời kỳ trung đại là thời đại của xã hội phong kiến, bất đầu từ thế kỷ V sCN đến năm 1640 cách mạng tư sản Anh. Thời kỳ cận đại, từ năm 1640 cho đến năm 1917, là thời đại của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng tư sản Anh cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga. Thời kỳ hiện đại là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga cho đến nay. Như vậy trong mỗi thời kỳ (trừ xã hội nguyên thủy), cò...

doc40 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Sự phân kỳ lịch sử thê giới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Từ buổi đầu bình minh cho tới nay lịch sử loài người đã trải qua năm thời kỳ lớn (theo quan điểm mác-xít), các thời kỳ có thời gian tồn tại khác nhau vậy nên ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì mỗi thời kỳ lại mang trong mình những bản chất hay đặc điểm riêng biệt mà ở thời kỳ khác lại không có được. Thời kỳ xã hội nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm, là thời kỳ dài nhất trong lịch sử xã hội loài người, là thời kỳ mà tất cả các quốc gia đều phải trảo qua. Thời kỳ cổ đại là thời đại xã hội chiếm hữu nô lệ khoảng 3000 năm trước công nguyên. Thời kỳ trung đại là thời đại của xã hội phong kiến, bất đầu từ thế kỷ V sCN đến năm 1640 cách mạng tư sản Anh. Thời kỳ cận đại, từ năm 1640 cho đến năm 1917, là thời đại của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng tư sản Anh cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga. Thời kỳ hiện đại là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga cho đến nay. Như vậy trong mỗi thời kỳ (trừ xã hội nguyên thủy), còn bốn thời kỳ về sau mỗi thời đại đều có hình thái kinh tế xã hội tương ứng, các hình thái kinh tế xã hội sau ra đời sẽ phủ nhận các hình thái kinh tế xã hội cũ và ngày càng hoàn thiện hơn về tất cả các mặt của đời sống xã hội. Khoa học lịch sử có liên quan tới tất cả các ngành khoa họa khác, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội. Chính bởi vậy nên tôi chọn đề tài “Sự phân kỳ lịch sử thê giới” làm đề tài tiểu luân của mình. Chương I: Thời kỳ xã hội nguyên thủy đến thời kỳ Trung đại I. Xã hội nguyên thủy Sự xuất hiện và đời sống của ngươì nguyên thủy Lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ xã hội nguyên thủy. Thời kỳ này chiếm phần lớn thời gian của lịch sử nhân loại, nó bắt buộc tất cả các dân tộc phải đi qua vì đó là thời thơ ấu của họ. Cách ngày nay khoảng bốn triệu năm, một loài vượn đặc biệt đã chuyển biến thành vượn người–người thượng cổ. qua một quá trình tiến hóa lâu dài. Mười bốn vạn năm trước công nguyên người vượn tiến hóa thành người tinh khôn (nê-ăng-đéc-tan), bốn vạn năm trước công nguyên người tinh khôn tiến hóa thành người hiện đại(hô-mô-sa-piêng). Lý do chủ yếu của việc vượn đặc biệt chuyển hóa thành người là do lao động. F. Ăngghen cho rằng lao động cải biến cơ thể con vượn thành cơ thể của con người đứng thẳng. Công xã thị tộc: Trải qua hàng triệu năm phát triển, bầy người nguyên thủy tiến lên một cộng đồng mới cao hơn: công xã thị tộc. Công xã thị tộc là cộng đồng người cố kết với nhau bởi quan hệ huyết thống, máu mủ, ruột rà. Hôn nhân đã theo chế độ ngoại tộc hôn, qui định nam nữ trong thị tộc là ruột thịt, nên không được kết hôn với nhau, và hình thức hôn nhân tập thể làm cho con cái chỉ biết mặt mẹ nên theo họ mẹ (mẫu hệ). Trong thị tộc mẫu hệ kinh tế hái lượm vẫn là chủ yếu. Người nguyên thủy thời kỳ này cho rằng vạn vật đều có linh hồn. Chế đọ mẫu hệ là thời kỳ hưng thịnh nhất của xã hội nguyên thủy. Nó kéo dài khoảng 18.000 năm trong lịch sử đến nay chế độ mẫu hệ vẫn còn nhiều tàn dư ở một số dân tộc trên thế giới. Thị tộc phụ quyền: Ham muốn của người nguyên thủy cũng như con người về sau là làm thế nào để nâng cao năng suất lao động. 4.000 năm trước công nguyên con người đã tìm ra đồng. Người nguyên thủy đã phát minh ra cung tên mà tầm quan trọng của nó được F. Ăngghen đánh giá như phát minh ra sung của thời cận đại. các ngành nghề thủ công, chăn nuôi … cũng phát triển một cách mạnh mẽ. Một cuộc phân công lao động và sự chuyển biến vị trí giữa đàn ông và đàn bà bắt đầu. Thị tộc mẫu quyền nhường chỗ cho thị tộc phụ quyền. Công xã thị tộc tan rã – xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện: Công cụ đá mới tinh xảo, công cụ đồ đồng, đồ sắt xuất hiện đã làm năng suất lao động tăng cao cuối thời kỳ phụ quyền, điều đó đã tác động lớn đến tâm lý cộng đồng. Suốt thời kỳ dài của xã hội nguyên thủy, do năng suất lao động thấp kém, kinh tế hái lượm khó khăn con người phải duy trì cộng đồng thị tộc để nương tựa nhau. Kinh tế phát triển cuộc sống gia đình một vợ một chồng đã bắt đầu hình thành, từ gia đình đối ngấu tách ra thành gia đình một vợ một chồng. Xã hội xuất hiện chế đọ tư hữu. như vậy, xuất hiện gia đình một vợ một chồng đã dẫn tới chế đọ tư hữu, chế độ tư hữu đã phân hóa xã hội thành giai cấp, bọn giàu có hợp thành giai cấp chủ nô, giai cấp áp bức, thống trị, bóc lột. Giai cấp thứ hai là nông dân, thị dân nghèo có một ít tài sản, nhưng có thể biến thành nô lệ nếu họ bị phá sản. giai cấp thứ ba là giai cấp nô lệ. Giữa các giai cấp khác nhau về quyền lợi họ sẽ xuất hiện mâu thuẫn, xung đột nhau: giai cấp chủ nô sẽ xuất hiện một công cụ, bộ máy giúp họ cai trị, bóc lột, đàn áp được đa số. Bộ máy đó chính là nhà nước. nhà nước là công cụ của giai cấp này để thống trị, nhà nước bảo vệ mọi quyền lợi của giai cấp chủ nô, nhà nước diều hành mọi công việc . Nhà nước trong khi phục vụ một giai cấp, đồng thời cũng bắt buộc phải phục vụ toàn xã hội, nếu không nó không thể tồn tại. Cho nên, ngoài tính chất giai cấp, nhà nước còn mang tính chất xã hội. Xã hội có giai cấp, có nhà nước đầu tiên là xã hội chiếm hữu nô lệ thay thế cho xã hội nguyên thủy, nhung rồi nhà nước này cũng sẽ là dĩ vãng và được thay thế bằng nhà nước cao hơn. II. Xã hội chiếm hữu nô lệ phương Đông. Điều kiện tự nhiên và sự phát triển kinh tế. Phương Đông bao gồm châu Á và châu phi, có điều kiện tự nhiên đa dạng và phong phú. Nổi bật nhất, các nước phương Đông đều có các con sông lớn như: Sông Nin Ai Cập dài 6.688km, tạo nên vùng đồng bằng Ai Cập. “Ai Cập là quà tặng của Sông Nin”. Lưỡng Hà là vùng đất do hai con sông Tigrơ và ơphrát tạo nên. Hằng Hà con sông lớn mà phù sa lâu đời của nó tạo thành đồng bằng bắc Hoa Bắc, sông Trường Giang (Dương Tử) dài 5.000km tạo nên vùng đồng bằng Hoa Trung của Trung Quốc. Rõ ràng những đồng bằng rộng lớn của các quốc gia phương Đông rất thuận lợi cho một nền kinh tế nông nghiệp trồng trọt nói chung và đặc biệt là trồng lúa nước. Điều kiện tự nhiên đã quyết định kinh tế của các quốc gia phương Đông chủ yếu là nền nông nghiệp. Bên cạnh nông nghiệp, nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng phát triển ở các gia đình nông thôn. Tóm lại, kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu của các quốc gia phương Đông cổ đại. Quan hệ xã hội: Phương Đông bước vào xã hội có chế độ tư hữu, giai cấp tương đối sớm. Khoảng 3000 năm trước công nguyên, các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc đều lần lượt bước vào xã hội có giai cấp hay là thời kỳ quá độ sang xã hội đó. Trong xã hội cổ đại các nước phương Đông còn có giai cấp nông dân. Các gia đình nông dân có một số ít ruộng đất, sống cố kết trong các công xã nông thôn. Họ là giai cấp đước quyền làm người nhưng là đối tượng bóc lột chính cuẩ nhà nước chủ nô. Nô lệ là giai cấp bị âp bức bóc lột nặng nề nhất trong xã hội. Nô lệ phải lao động khổ sai không có giờ giấc, không được hưởng một chút nào gias trị của cải mà họ làm ra. Đó là những điểm chung của xã hội nô lệ toàn thế giới, phương Đông cũng như phương Tây. Song, đặc điểm của xã hội nô lệ phương Đông là xã hội nô lệ không điển hình. Các Mác gọi đó là chế độ nô lệ gia trưởng (gia đình). Nô lệ phương Đông không phải là lực lượng chính sản xuất ra của cải vật chất. Phần lớn nô lệ được sử dụng vào hầu hạ các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý. Bởi vì ở các quốc gia nông nghiệp, nhà nước bóc lột nông dân là chính, bằng chế độ thuế khóa, lao dịch. Ngoài sự phân hóa xã hội thành giai cấp, các quốc gia cổ đại phương Đông còn chia dân cư ra thành những đẳng cấp: Giai cấp thống trị là đẳng cấp quý tộc cao quý, giai cấp nông dân nghèo và các tầng lớp thị dân, thợ thủ công thuộc những đẳng cấp thấp hèn. Đậm nét nhất về việc phân chia xã hội thành các đẳng cấp là ở Ấn Độ. Theo đó đẳng cấp thứ nhất, cao quý nhất là đẳng cấp Bàlamôn, đẳng cấp này được tiếp xúc với thần thánh, phụ trách về tôn giáo, giảng kinh, giảng đạo. Đẳng cấp này cao quý nhất là vì sinh ra từ cái mồm của thần Brama. Đẳng cấp cao quý thứ hai là đẳng cấp Ksatơria. Đẳng cấp này cao quí thứ hai vì sinh ra từ cánh tay của thần Brama, có nhiệm vụ bảo vệ chế độ. Đẳng cấp thứ ba: Vaisia và cuối cùng là đẳng cấp bị khinh rẻ, thấp hèn nhất của xã hội, Lưỡng Hà và Trung Quốc đều coi giai cấp thống trị là đẳng cấp trên còn giai cấp bị trị là đẳng cấp dưới. Sơ lược lịch sử và chính trị: Ai Cập: khoảng 3000 tCN, Ai Cập đã bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước. Thời kỳ đầu tiên của nhà nước Ai Cập: Tảo Vương Quốc và cổ Vương quốc. Đây là giai đoạn dài hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ Ai Cập, kéo dài từ thế kỷ XX trước công nguyên . Hết thời kỳ cổ Vương quốc. Ai Cập bước sang thời kỳ trung vương quốc kéo dài từ thế kỷ XX đến thế kỷ XVI trước công nguyên, từ đời vua (Pharaông) thứ 9 đến đời vua thứ 17. Đây là thời kỳ vững mạnh của nhà nước Ai Cập. Kết thúc thời kỳ Trung Vương quốc thì chuyển sang thời kỳ Tân vương quốc, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XII trước công nguyên trải qua 30 triều vua, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của chế độ chiếm hữu nô lệ Ai Cập. Năm 225 trước công nguyên Ai Cập bị đế quốc Ba Tư xâm lược, chế độ chiếm hữu nô lệ độc lập của Ai Cập kết thúc. Giai cấp chủ nô Ai Cập đã thiết lập hình thức nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền. Vua Ai Cập có quyền lực to lớn: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, quyền chỉ huy quân đội, quyền sở hữu ruộng đất tối cao trong toàn quốc. Nhà vua còn là một chủ nô lớn nhất chiếm đoạt nhiều ruộng đất nhất. Các vương triều Ai Cập đã xây dựng được những lự lượng quân đội hùng mạnh để phục vụ cho việc trấn áp dân nghèo, nô lệ và bên ngoài thì mở rộng chiến tranh xâm lược. Lưỡng Hà: Nhà nước Lưỡng Hà ra đời khoảng 3000 tCN, với việc tồn tại nhiều quốc gia nhỏ như: Ua, Êriđu, Lagat của người Xume. Khoảng đầu thế kỷ XXIII trước công nguyên, miền Nam Lưỡng Hà được thống nhất. Cuối thế kỷ XXIII trước công nguyên dưới triều đại Naramxin, toàn bộ Lưỡng Hà được thống nhất bao gồm cả Xiri, I Ran, Irắc và các quốc gia bờ nam Địa Trung Hải. Thời Naramaxin là thời kỳ cực thịnh của quốc gia chiếm hữu nô lệ Lưỡng Hà. Khoảng năm 1894 tCN, Lưỡng Hà bị quốc gia Babilon đang lớn mạnh ở phía bắc tràn xuống xâm lược. Lịch sử Lưỡng Hà từ đó gắn với lịch sử Babilon và cực thịnh dưới triều đại Hămmurabi. Năm 792 trước công nguyên Babilon bị dietj vong. Năm 605 trước công nguyên Babilon lại hồi phục dưới cái tên Tân Babilon. Năm 539 tCN, vương quốc Tân Babilon bị đế quốc Ba Tư xâm lược. Nhà nước Lưỡng Hà chia đất nước thành khu vực để cai trị: Khu vực một bao gồm Áccát, Bắc Sume. Triều đình trực tiếp cử tổng đốc tới cai trị các vùng. Ấn Độ: Khoảng 2000 tCN, công xã nguyên thủy tan rã, Ấn Độ bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước với sự tồn tại của nhiều quốc gia, trong đó có vương quốc Magađa đóng vai trò chủ đạo ở miền Bắc. Ấn vào thời kỳ thế kỷ VI trước công nguyên. Năm 327 trước công nguyên vua Maxêđônia là Alếchxanđrơ đã tràn vào xâm lược Ấn Độ. Trong cuộc chiến chống Alếchxanđrơ, Chanđra Gúpta đã nổi dậy và là người sáng lập vương triều Môria, một vương triều hưng thịnh ở Ấn Độ từ năm 321 đến 187 trước công nguyên. Vương triều Asôca đã thống nhất Ấn Độ suốt từ Nam đến Bắc. Từ thế kỷ I trước công nguyên đến thế kỷ III sau công nguyên Ấn Độ rơi vào tình trạng phân cát. Phải đến thế kỷ IV Ấn Độ thống nhất dưới một vương triều mới: vương triều Gúpta. Chế độ nô lệ kết thúc, Ấn Độ bước sang chế độ phong kiến. Dưới chế độ nô lệ, Ấn Độ cũng thiết lập nền quân chủ chuyên chế tập quyền như các nước phương Đông khác. Nhà vua nắm toàn bộ quyền lực. Giúp việc cho vua ở trung ương có các đại thần hợp thành Ngự tiền văn phòng là cơ quan tư vấn cho vua. Đơn vị hành chính của Ấn Độ lớn nhất là một nghìn làng, dưới một nghìn làng là một trăm làng, dưới nữa là hai mươi làng…Quan cai quản từ một nghìn làng do trung ương bổ nhiệm. Hệ thống quan chức Ấn Độ dược nhà nước trả lương, bổng. Quan cao cấp lương gấp sáu lần quan trung cấp, Ấn Độ tiến hành đàn áp nhân dân và tiến hành chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Trung Quốc: Khoảng ba trăm nghìn năm trước công nguyên, công xã nguyên thủy tan rã, trung Quốc bước vào thời kỳ dân chủ quân sự, thời kỳ quá độ từ xã hội nguyên thủy chuyển sang xã hội có giai cấp với các thủ lĩnh liên minh bộ lạc được các thành viên cộng đồng bầu cử một cách dân chủ như Nghiêu, Thuẫn, Vũ. Năm 2140 tCN, vương triều Hạ, nhà nước đầu tiên của Trung Quốc ra đời. Người sang lập ra nhà Hạ là ông Khải, con ông Vũ, người không cần được cộng đồng bầu củ vẫn lên kế vị mở đầu cho thời kì cha truyền con nối. Vua cuối cùng của triều Hạ là Kiệt, Kiệt hoang dâm, tàn bạo đưa vương triều tới chỗ diệt vong. Năm 1711 trước công nguyên nhà Thương thay thế nhà Hạ. Nhà Thương do ông Thành Thang sáng lập, còn được gọi là nhà Ân vì năm 1324 trước công nguyên Nhà Thương dời kinh đô về đất Ân Khư thuộc đồng bằng sông Hoàng Hà, kinh đô mới được gọi là Triều Ca. Vua cuối cùng của nhà Ân hoang dâm tàn bạo khét tiếng, say mê Đát Kỷ nhà Ân bị nhà Chu xâm lược. Nhà Chu: Năm 1066 TCN các bộ tộc Chu ở khu vực Thiểm Tây do Cơ Phát (Chu Võ Vương) lãnh đạo lật đổ nhà Ân, sáng lập triều Chu. Nhà Chu có hai thời kỳ: Tây Chu, kinh đô ở Hạo Kinh, từ năm 1066 TCN đến 770 TCN. Vua cuối cùng của Tây Chu là U Vương say mê nàng Bao Tự, đùa giỡn phép nước để chiều ý người đẹp dẫn tới nhà Tây Chu sụp đổ. Từ năm 771 TCN đến năm 221 TCN là thời kỳ Đông Chu. Nhà Chu sau khi khôi phục ngôi vua đã rời đô về Lạc Dương, phía Đông của Hạo Kinh. Đông Chu có hai thời: Xuân Thu và Chiến Quốc. Xuân Thu từ năm 771 TCN đến năm 475 tCN: thời kỳ chính quyền trung ương hoàn toàn suy yếu. Thời kỳ chiến quốc: Từ năm 475 TCN đến năm 221 TCN, trải qua hàng trăm năm chiến tranh thôn tính lẫn nhau, các nước nhỏ bị các nước lớn tiêu diệt, sang thời chiến quốc chỉ còn lại bảy nước chiến tranh với nhau để giành quyền bá chủ Trung Quốc. Đó là các nước Sở, Yên,Tề, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần. Năm 256 TCN nhà Chu chính thức diệt vong. Năm 221 TCN Tần Thủy Hoàng đánh tan sáu nước, thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tần. Với nhà Tần chế độ chiếm hữu nô lệ kết thúc, Trung Quốc bước sang xã hội phong kiến. Nhà nước chiếm hữu nô lệ Trung Quốc kiến lập thiết chế quân chủ chuyên chế tập quyền. Vua xưng là Thiên tử (con trời), theo mệnh trời để cai trị nhân dân. Vua nắm mọi quyền lực của nhà nước, mọi quyền lực đều tập trung vào tay vua. Đến nhà Thương, đặc biệt là nhà Chu, bộ máy nhà nước phức tạp. Nhà Chu lấy huyết thống làm cơ sở cho việc tổ chức bộ máy cai trị, địa vị xã hội, quyền lực quốc gia. Quan hệ huyết thống quyết định vị trí cao thấp trong bộ máy nhà nước, trong xã hội. Các thời đại Trung Quốc đều chia quốc gia thành các đơn vị hành chính để cai trị. Nhà Chu trên cơ sở chế độ Tông pháp phân phong cho than thích, họ hàng những vùng đất rộng lớn lập thành những nước chư hầu. Trên toàn quốc, nước chư hầu là đơn vị hành chính lớn nhất, nhưng ở bình diện địa phương, các chư hầu cũng lập những triều đình riêng mô phỏng theo bộ máy trung ương, người đứng đầu nước chư hầu là vua con, xưng là vương hoặc công. Các quốc gia chiếm hữu nô lệ Phương Đông từ đầu đã xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền, dù chi tiết có khác nhau, nhưng chúng chỉ là một hình thức nhà nước của kiểu nhà nước nô lệ. Các quốc gia phương Đông sở dĩ thiết lập được thiết chế chính trị này bởi vua các nước này nắm được quyền cở hữu ruộng đất, tối cao trong toàn quốc, khắp dưới gầm trời không đâu không phải thần dân của nhà vua. Do nắm được tư liệu sản xuất là ruộng đất của nhà vua. Các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông với bộ máy bạo lực to lớn, với việc thần thánh hóa nhà vua và chế độ đã phục vụ đắc lực cho giai cấp chủ nô, bảo vệ tài sản cho giai cấp thống trị, đàn áp những cuộc chiến tranh, khởi nghĩa của dân nghèo và nô lệ, giữ vững địa vị thống trị của chủ nô. Nhưng trong khi phục vụ cho giai cấp của mình, nhà nước chiếm hữu nô lệ các nước phương Đông đã làm nòng cốt cho nhân dân nhiều thế hệ sáng tạo, xây dựng phát triển văn hóa. Vì thế, các quốc gia phương Đông cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu huy hoàng về văn hóa, đã trở thành những trung tâm của nền văn minh thế giới cổ đại. Văn hóa phương Đông: Chữ viết: Thời kỳ xã hội nguyên thủy chưa có chữ viết. Khi mà nhà nước ra đời nhu cầu giao tiếp mở rộng đòi hỏi phải có chữ viết. Bản than nhà nước cũng cần có chữ viết để ban hành các văn bản, pháp luật, công văn, giấy tờ trong công việc hành chính. Chữ viết của các nước phương Đông ra đời sớm, có thể cùng đồng thời ra đời với sự ra đời của nhà nước. Các nhà Ai Cập học lại cho rằng chữ viết Ai Cập có từ 4000 năm TCN. Đó là loài chữ tượng hình viết trên đá, trên xương, trên lá cây, trên các lăng mộ. Người ta đã tìm được 700 kí hiệu và 24 dấu hiệu phụ âm của chữ cổ Ai Cập. Ba nghìn năm TCN chữ tiết hình ra đời ở Lưỡng Hà. Chữ cổ của Ấn Độ là chữ Phạn và chữ Pali. ở Trung Quốc thời Hạ, Thương và Chu đã có chữ viết tượng hình giáp cốt, chữ kim văn, chữ triện là nền tảng của chữ Hán về sau này. Văn học nghệ thuật: sự ra đời của chữ viết gắn liền với sự ra đời của thành tựu văn học, nghệ thuật, nhu thể loại truyện kể bằng văn xuôi ở Ai Cập, Lưỡng Hà, sử thi đồ sộ của Ấn Độ: Mahabharata dài khoảng 220.000 câu kể lại cuộc chiến tranh tàn khốc tranh giành quyền lực trong dòng họ Bharata. Sử thi Mahabharata còn đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống cổ xưa, được coi là bộ Bách khoa của Ấn Độ. Sử thi Râmyana dài khoảng 48000 câu là bộ sử thi đồ sộ thứ hai của Ấn Độ kể về tình yêu trắc trở của chàng Hoàng tử Rama với nàng công chúa Sita. Thơ ca phương Đông ra đời sớm và phong phú vè thể loại. các bộ suer thi thực ra cũng là những tập thơ đồ sộ. Đáng chú ý thời kỳ này có thơ ca của Ai Cập. Bộ Kinh Thi của Trung Quốc tổng hợp thơ từ thời Tây Chu đến thời Xuân Thu. Phương Đông cũng đã để lại bề dày về những giá trị văn hóa vật chất; các công trình kiến trúc đền đài, lăng miếu, chùa, tháp. Những công trình tuyệt mỹ như vườn treo Babilon, những công trình khổng lồ như Kim Tự Tháp Ai Cập, Vạn lý trường thành Trung Quốc, những thành phố nguy nga diễm lệ. Tất cả nói lên tài năng sang tạo tuyệt vời của nhân dân các nước phương Đông cổ đại. Một số công trình như kim tự tháp cho đến nay vẫn còn một ẩn số về phương pháp xây dựng. Tóm lại phương Đông cổ đại có nền văn hóa rực rỡ phong phú về giá trị văn hóa tinh thần, vật chất. Các giá trị văn hóa này phát triển cao và tỏa ánh sáng ảnh hưởng đến các khu vực chung quanh. Nghĩa là văn hóa cổ đại phương Đông đã đạt đến trình độ văn minh và vì thế các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc là những trung tâm của nền văn minh thế giới cổ đại. III. Xã hội chiếm hữu nô lệ Phương Tây ( Hy Lạp – La Mã ) Điều kiện địa lý, kinh tế Hy Lạp và La Mã. Hy Lạp và La Mã nằm trên bán đảo Bancăng ở nam châu Âu, vươn mình ra Địa Trung Hải, lãnh thổ của quốc gia chiếm hữu nô lệ Hy Lạp bao gồm các vùng lục địa, các đảo thuộc biển Êgiê và vùng Tây Tiểu Á. Hy Lạp có những đồng bằng màu mỡ thuận lợi cho sự phát triển các nền kinh tế như thủ công nghiệp, thương nghiệp phát triển, sản xuất và xuất khẩu đồ gốm… Điều kiện kinh tế nhiều thành phần công, nông, thương nghiệp của Hy Lạp, La Mã sẽ ảnh hưởng to lớn đến sự phân hóa xã hội, đến thiết chế chính trị và đặc điểm của chế độ nô lệ các nước phương Tây. Quan hệ xã hội Hy Lạp và La Mã: Vào cuối thế kỷ VIII tCN, công xã nguyên thủy tan rã, Hy Lạp bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước. La Mã thì muộn hơn Hy Lạp 200 năm, bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước thế kỷ thứ VI tCN. Chủ nô và giai cấp thống trị áp bức bóc lột. Vì Hy Lạp và La Mã có nhiều thành phần kinh tế: Giai cấp nô lệ ở Hy Lạp và La Mã chiếm đông đảo trong xã hội. Họ bị chủ nô áp bức, bóc lột rất tàn khốc. Họ mang đặc tính chung của nô lệ thế giới: không được quyền làm người, giống như nô lệ các nước phương Đông, nô lệ Hy Lạp La Mã cũng chỉ được coi là tài sản biết nói. Họ bị chủ đối xử tàn tệ, dã man; Ở các đấu trường La Mã, bọn chủ nô đã buộc các nô lệ đấu với nhau hoặc đấu với thú cho đến chết để chủ nô tiêu khiển. Đặc điểm riêng của nô lệ Hy Lạp – La Mã được Các Mác coi là chế độ nô lệ điển hình. Ở đấy nô lệ là lực lượng sản xuất chính trong việc sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, là đối tượng chủ yếu để nhà nước và chủ nô bóc lột. Do bị áp bức bóc lột nặng nề, tàn khốc nên nô lệ La Mã liên tục khởi nghĩa chống lại giai cấp chủ nô. Lớn nhất là cuộc khởi nghĩa của Xpactacutxơ, một nô lệ đấu sĩ lãnh đạo năm 73-71 tCN đã làm rung động nền thống trị của đế quốc La Mã. Các Mác đã gọi Xpactacutxơ là vị anh hùng vĩ đại nhất thời kỳ cổ đại. Lịch sử Hy Lạp: Hy Lạp là một trong những quốc gia có lịch sử lâu đời ở châu Âu. Khoảng 2000 năm tCN người Crét về sau đó khoảng 1400 năm tCN người Misen đã bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước chiếm hữu nô lệ, tạo ra nền văn minh cao. Thế kỷ VIII tCN công xã nguyên thủy của người Đôrian tan rã và họ bước vào xã hội có giai cấp, có nhà nước. Trên toàn Hy Lạp đã hình thành nhiều nước được gọi là các thành bang, mỗi thành bang có một đô thi trung tâm, chung quanh là nông thôn. Thành bang lớn nhất là Aten, Xpác rộng khoảng 8000km2, thành bang be nhỏ nhất khoảng 800km2. Các thành bang Hy Lạp được thiết chế bởi chế độ cộng hòa. Năm 490 tCN hoàng đế Ba Tư Đatít và sau đó là Actaphécmơ đã mang quân vượt biển Êgiê tấn công xâm lược Hy Lạp. Quân đội Aten dưới sự chỉ huy của Mintiát đã đánh bại quân Ba Tư. Năm 480 tCN Ba Tư là Xêcxet lại huy động 1.700.000 bộ binh, 1207 chiến thuyền ào ạt vào Hy Lạp, trên bộ Hy Lạp bai trận nhưng trên biển thì lại giành phần thắng và Hy Lạp được hoàn toàn giải phóng. Sau khi thắng quân Ba Tư, trong nội các Hy Lạp lại xảy ra nội chiến, xung đột lẫn nhau, mâu thuẫn về sự phát triển kinh tế. Chiến tranh đã nổ ra. Trong thời kỳ Hy Lạp đang suy tàn thì đến năm 146 tCN Hy Lạp bị đế quốc La Mã xâm lược và nằm trong bản đồ rộng lớn của đế quốc La Mã. Lịch sử La Mã: Trước khi bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước, trên bán đảo Italia đã có nhiều bộ lạc sinh sống, trong đó có bộ lạc La Tinh (La Mã) và bộ lạc Êtơrutxcơ là người chủ yếu. Năm 753 tCN ba bộ lạc người La Tinh đã xây dựng thành Rôma trên bờ sông Tibrơ. Từ đó người La Tinh bắt đầu những cuộc xâm lược, bành trướng xây dựng nên một đế quốc La Mã rộng lớn hùng mạnh nhất thời kỳ cổ đại. Biển Địa Trung Hải thành ao của đế quốc La Mã. Thế kỷ II tCN thời kỳ cực thịnh của đế quốc La Mã vĩ đại này. Thế kỷ V (năm 476 đế quốc La Mã sụp đổ, chấm dứt chế độ chiếm hữu nô lệ, châu Âu bước sang thời kỳ phong kiến. Nhìn chung Hy Lạp và La Mã đã đạt được trình độ văn hóa cao, rực rỡ, nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực. F. Ăngghen viết: “không có nền văn minh Hy Lạp–La Mã thì không có nền văn minh châu Âu cận đại”. Hy Lạp–La Mã trở thành trung tâm văn minh lớn nhất của thế giới thời cổ đại. IV. Xã hội phong kiến châu Á Địa lý và kinh tế: Điều kiện địa lý tự nhiên của các nước châu Á như Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc phong phú và đa dạng với đặc điểm là có nhiều con sông lớn tạo nên nhiều đồng bằng màu mỡ phì nhiêu. Vì thế nền kinh tế chủ yếu của các nước châu Á là nông nghiệp, tự cung, tự cấp. Xã hội phong kiến được tạo nên, các hình thức bóc lột của các địa chủ với các nông nô với nhiều hình thức bóc lột khác nhau như: nộp tô, thuế, sưu, phải đi lao động không công cho nhà nước một thời gian…Lao động này được gọi là lao tô dịch. Kiểu bóc lột này của phong kiến được Các Mác gọi là sự “cưỡng bức siêu kinh tế”. Nghĩa là chỉ cần có ruộng đất, mà không càn vốn đầu tư trang thiết bị, chúa đất vẫn có thể bóc lột được địa tô và nhiều khoản sưu, thuế khác đối với nông dân. Quan hệ xã hội: Giai cấp phong kiến quí tộc và sau này xuất hiện thêm tầng lớp địa chủ giai cấp nắm tư liệu sản xuất là ruộng đất nên chúng là giai cấp thống trị. Đó là giai cấp đặc quyền đặc lợi. Giai cấp cơ bản thứ hai đông đảo nhất của xã hội phong kiến là nông dân. Ở châu Á, khi kinh tế phong kiến là điền trang thái ấp nông dân chịu thân phận nông nô. Khi kinh tế phong kiến chuyển sang hình thức địa chủ thì nông dân chịu thân phận là tá điền. Dù là tá điền hay nông nô thì nông dân vẫn chịu sự áp bức bóc lột, họ luôn có nguy cơ bị phá sản vì thuế má. Sự áp bức bóc lột một cách dã man của các địa chủ đã dẫn đến mâu thuẫn giữa các tầng lớp nông dân với địa chủ và các phong trào đấu tranh đã được nổ ra. Nhìn chung tất cả các cuộc khởi nghĩa của nông dân đều thất bại xét theo ý nghĩa chính trị, tức là không giải phóng được nông dân, không đem lại ruộng đất và quyền lợi cho họ. Lý do chủ yếu làm phong trào nông dân thất bại là do nông dân không đại diện cho lực lượng sản xuất mới. Nông dân có khả năng đập tan xã hội cũ, nhưng không có khả năng đưa ra các cương lĩnh xây dựng một xã hội khác với xã hội phong kiến. V. Xã hội phong kiến Tây Âu Sự hình thành chế độ phong kiến Tây Âu thế kỷ V-IX. Vương quốc Phrăng: Vào thế kỷ V (năm 476 ) đế quốc La Mã sụp đổ, người Giécmanh và Phrăng tràn vào xâm chiếm lãnh thổ của người La Tinh, lập nên nhiều vương quốc, trong đó nổi bật nhất là vương quốc Phrăng, thủ lĩnh của người Phrăng là Clôvít. Bộ máy nhà nước phong kiến Phrăng thời Côvít chưa phức tạp. Clôvít nắm toàn bộ quyền lực, có thể nói Clôvít là người đặt nền móng cho chế độ phong kiến Tây Âu. Sauk hi Clôvít chết, triều đại dòng họ của ông-Mê rôvanhgiêng mất, triều đại của dòng họ Carôlanhgiêng lên nắm chính quyền. Thời kỳ phong kiến Tây Âu cát cứ thế kỷ IX-XV: Năm 814 Sáclơmanhơ chết, các con và các cháu của hoàng đế đã lao vào cuộc tranh giành quyền lực, làm cho đế quốc Sáclơmanhơ tan vỡ và chia cắt thành 3 phần. Sáclơ Đầu hói được phần Tây Phrăng sau này là lãnh thổ nước Pháp, Lui được phần Giécmanh sau này là lãnh thổ nước Đức. Lôterơ được phần trung tâm của đế quốc La Mã sau này là lãnh thổ nước Italia. Đế quốc Sáclơmanhơ không chỉ được chia thành 3 nước mà chin mà còn bị chia thành nhiều nước phụ khác. Chủ nghĩa tư bản ra đời trong lòng xã hội phong kiến Tây Âu: Công xã nguyên thủy Tây Âu ngay từ thời kỳ tan rã đã giải thể một cách triệt để, vì thế chế độ tư hữu phát triển mạnh mẽ. Từ xã hội chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến, chế độ tư hữu tư nhân ngày càng phát triển nhanh chóng. Kinh tế tư bản và quan hệ tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu ra đời từ thế kỷ XI những thành thị của Hy Lạp, La Mã suy tàn nay được phục hồi, ngoài ra còn ra đời những đô thị mới như Amsteđam (Hà Lan), Luân Đôn, Livơpun (Anh) Pari, Liông, Mácxây (Pháp). Nguồn tích lũy tư bản ban đầu của các nước Tây Âu ngày càng gia tăng gấp bội khi các nước Tây Âu thực hiện các cuộc phát kiến địa lý. Sự lớn mạnh về tư tưởng của giai cấp tư sản được các trí thức của họ thể hiện trong phong trào văn hóa phục hưng, bắt đầu từ thế kỷ XIV, XV, XVI và kéo dài đến thế kỷ XVII. Chế độ phong kiến tập quyền ở Anh và Pháp: Sự xuất hiện những nhân tố tư bản chủ nghĩa trong lòng xã hội phong kiến Tây Âu đã tạo những tiền đề kinh tế, xã hội cho việc đấu tranh thống nhất đất nước, xây dựng quốc gia phong kiến tập quyền. Trong các quốc gia phong kiến Tây Âu cát cứ, Pháp và Anh là những nước mà tiền đề cho việc đấu tranh thống nhất đất nước chin muồi hơn cả. Cho nên Anh và Pháp đã thực hiện được thống nhất đất nước vào thế kỷ XV. Pháp: Để thống nhất đất nước, triều đại Capêxiêng đã gây chiến tranh với Anh để thu hồi đất miền Tây nước Pháp. Chiến tranh kéo dài từ 1337 đến năm 1453, lịch sử gọi đây là cuộc “chiến tranh trăm năm”. Sang thế kỷ XVII, Lui XIII, với sự phụ chính của tể tướng Risơliơ (1584-1642), một nhà nước chính trị tài năng, nghị lực đã tiến hành cải cách toàn diện chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự làm cho nền chuyên chế phong kiến vững chắc, nước Pháp trở nên hùng mạnh. Vua Pháp là người nắm tất cả quyền lực nhà nước. Nhà nước Pháp còn có cơ quan đại biểu 3 đănge cấp: Hội nghị 3 đẳng cấp. Quí tộc tăng lữ-đẳng cấp 1, quí tộc phong kiến-đẳng cấp 2, tư sản và nhân dân lao động-đẳng cấp 3. Cơ quan này có quyền biểu quyết khi nhà vua đề nghị tăng thuế. Anh: Từ thế kỷ XII Henri II (1154-1189) đã dựa vào tư sản và thị dân để đấu tranh thống nhất đất nước, chống lại thế lực lãnh chúa. Thế kỷ XV nước Anh thống nhất, xây dựng được quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà vua nắm toàn bộ quyền lực. Thế kỷ XIV nghị viện Anh đã có hai viện: Thượng viện và Hạ viện, là cơ quan lập pháp tối cao. Anh là nơi nghị viện ra dời sớm nhất trong lịch sử nghị viện thế giới. Việc Anh, Pháp xây dựng được các quốc gia tập quyền thống nhất là bước tiến trong lịch sử của các quốc gia đó. Cách mạng tư sản ở Nêđéclan 1566 – 1609: Nguyên nhân cách mạng: Sự phát triển kinh tế công thương nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt xã hội Nêđéclan, với sự ra đời của nhiều tầng lớp. Đặc biệt dưới thời cai trị của vua Philíp II, thuế má, bóc lột nặng nề hơn làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với chính quyền càng them sâu sắc. Mâu thuẫn cơ bản này thể hiện thành mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân, dân tộc Nêđéclan với bọn phong kiến thống trị Tây Ban Nha. Các mâu thuẫn giai cấp và dân tộc là nguyên nhân dẫn đến cuộc cách mạng tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc bùng nổ ở Nêđéclan. Diễn biến cách mạng: Tháng 8–1566, nhân dân Nêđéclan đã nổi dậy khởi nghĩa chống lại Tây Ban Nha. Năm 1567 vua Tây Ban Nha Philíp II cử công tước Anba đem 18.000 quân tới đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa làm cho 8.000 người bị giết hại. Năm 1588 họ đã đánh bại quân đội Tây Ban Nha. Năm 1609 Tây Ban Nha phải công nhận nền độc lập của Nêđéclan. Cách mạng Hà Lan thắng lợi là chiến thắng của giai cấp tư sản trong trận giao chiến đầu tiên với giai cấp phong kiến. Cách mạng đã lật đổ chế độ phong kiến ngoại xâm. Cách mạng Hà Lan như tiếng chuông báo hiệu một thời đại mới bắt đầu, thời đại cách mạng tư sản, thời đại cáo chung của chế độ phong kiến. * Tiểu kết : Trong thời kỳ lịch sử từ thời xã hội nguyên thủy cho tới hết thời kỳ trung đại. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua ba thời kỳ lịch sử lớn với hai hình thái kinh tế xã hội đầu tiên đó là hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ, có niên đại khoảng 3000 năm trước công nguyên đến đầu thời kỳ trung đại. Hình thái kinh tế xã hội thứ hai là hình thái kinh tế xã hội phong kiến, bắt đầu từ thế kỷ V sCN đến năm 1640, từ khi đế quốc Tây La Mã sụp đổ cho đến cách mạng tư sản Anh. Chương II. Thời kỳ cận đại và hiện đại I. Các cuộc cách mạng tư sản Cách mạng tư sản Anh: Nước Anh phong kiến cát cứ thống nhất vào thế kỷ XV. Vào những năm đầu của thế kỷ XVII mâu thuẫn giữa tư sản, nông dân, thị dân, thợ thủ công và một bên là chế độ phong kiến chuyên chế phản động của Sáclơ I đã rất gay gắt. Những năm 30 của thế kỷ XVII nước Anh đã đứng trước tình thế của một cuộc cách mạng tư sản. Năm 1640 cách mạng tư sản bùng nổ và tiến triển theo 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ năm 1640 đến 1642, là giai đoạn chuẩn bị và bùng nổ cách mạng. Cuộc chiến giữa Sáclơ I và nghị viện. Cách mang Anh bùng nổ dưới hình thức một cuộc nội chiến giữa quân đội nhà vua và quân đội nghị viện. Giai đoạn 2: Nội chiến với nghị viện lần 1 (1642 – 1646): Tháng 8 – 1642 nhà vua tuyên chiến với nghị viện. Quân nghị viện dưới sự chỉ huy của Ôlivơ Crômoen, một lãnh tụ thuộc tầng lớp quí tộc, với 22.000 binh lính được mệnh danh là quân “sườn sắt” đã đánh bại quân nhà vua ở Nêdơbi. Năm 1646 Sáclơ I bị bắt trên con dường chạy trốn. Quân đội Crômoen tiến vào Luân Đôn nắm chính quyền. Nội chiến lần 2 (1648): cuối năm 1647 Sáclơ I trốn thoát và chiêu mộ quân đội gây chiến lần 2. Tháng 8–1648 nhà vua bị thất bại và bị bắt lần 2. Ngày 30–1–1649 trước áp lực của nhân dân, nghị viện đưa Sáclơ I lên máy chém về tội danh phản quốc. Nước Anh tuyên bố thành lập nền cộng hòa. Đây là đỉnh cao nhất của cách mạng tư sản Anh. Giai đoạn 3 của cách mạng Anh (1649–1688): Việc lựa chọn hình thức nhà nước quân chủ nghị viện chứng minh cuộc cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng tư sản không triệt để, cách mạng tư sản Anh đã đưa giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, mở đường chi chủ nghĩa tư bản phát triển. Cách mạng tư sản Anh không chỉ kết thúc chế độ phong kiến mà, mở ra một thời đại mới cho lịch sủ nước Anh mà còn kết thúc thời kỳ trung đại, mở đầu cho thời kỳ cận đại trên toàn thế giới, tức là mở ra thời kỳ mới–thời đại cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản Anh vì thế là một sự kiện lịch sử tầm cỡ thế giới. Cách mạng tư sản Mỹ: Cách mạng tư sản Mỹ là cuộc cách mạng dân chủ tư sản và cách mạng giai phóng dân tộc. Lực lượng có vai trò quyết định đến sự thắng lợi là quần chúng nhân dân lao động, giai cấp tư sản có vai trò lãnh đạo cách mạng. Cuộc cách mạng tư sản Mỹ lật đổ chế độ phong kiến thuộc địa Anh, đưa giai cấp tư Mỹ lên cầm quyền, thiết lập được nhà nước tư sản. Cuộc cách mạng này đã mở đường, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản Mỹ phát triển mạnh mẽ. Yếu tố chính trị này sẽ hoàn thiện thêm trong cuộc nội chiến 1861–1865 làm cho Mỹ thực hiện công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, vươn lên hàng cường quốc số một về kinh tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bản “tuyên ngôn độc lập” và bản than cuộc cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc ở Mỹ đã ảnh hưởng sâu rộng đến trào lưu cách mạng ở châu Âu và Nam Mỹ, thúc đẩy, cổ vũ các dân tộc đứng dậy lật đổ chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa, giành độc lập, tự do, dân chủ. Tuy nhiên nước Mỹ-quê hương của “bản tuyên ngôn độc lập”. Bởi vì cuộc cách mạng tư sản Mỹ thế kỷ XVII là cuộc cách mạng tư sản, nghĩa là nó mang lại quyền lợi nhiều hơn cho giai cấp sở hữu tư sản mà thôi. Cách mạng tư sản pháp 1789 – 1794: Nước Pháp thống nhất vào thế kỷ XV và xây dựng được quốc gia phong kiến tập quyền dưới sự cai trị của dòng họ Buốcbông. Vua Lui XVI trị vì nước Pháp và đang đưa chế độ phong kiến xuống tận đáy của sự suy tàn, thối nát. Vào những năm 70 của thế kỷ XVIII mâu thuẫn giữa toàn dân Pháp với chế độ phong kiến Buốcbông đã rất trầm trọng, gay gắt. Tình thế cách mạng đã chin muồi. Nước Pháp bước vào khủng hoảng tài chính. Năm 1788, Lui XVI phải triệu tập Hội nghị ba đẳng cấp yêu cầu đặt nhiều thứ thuế mới và mở công trái. Ngày 17-6-1789 đại diện ba đẳng cấp đã bỏ hội nghị ở Vécxây về Pari thành lập Quốc hội mới. Cuộc đại cách mạng Pháp bắt đầu và trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Từ ngày 14-7-1789 đến ngày 10-8-1792 là giai đoạn cầm quyền và lãnh đạo của tầng lớp đại tư sản. Sau ngày 14-7-1789 cách mạng lan rộng khắp nước Pháp. Ngày 10-8-1792, Nhân dân Pari vùng dậy khởi nghĩa, lật đổ nền quân chủ lập hiến của tầng lớp đại tư sản, đưa cách mạng sang giai đoạn thứ hai. Giai đoạn 2: từ ngày 10-8-1792 đến tháng 6-1793 giai đoạn cầm quyền và lãnh đạo cách mạng của tầng lớp công thương Girôngđanh. Trước hành động phản bội của Girôngđanh quay sung bắn lại nhân dân, ngày 2-6-1793, 4 vạn nhân dân Pari khởi nghĩa lật đổ nền thống trị của phái Girôngđanh. Giai đoạn 3: Tháng 6-1793 đến 7-1793 giai đoạn cầm quyền và lãnh đạo cách mạng của phái Giacôbanh, Giacôbanh lên nắm chính quyền vào lúc cách mạng Pháp ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất so với tất cả các cuộc cách mạng trước và sau nó. Nguyên nhân thắng lợi triệt để của cuộc cách mạng pháp là vì tất cả các tầng lớp trong giai cấp tư sản Pháp đều bước lên vũ đài chính trị để lãnh đạo cách mạng nhằm thực hiện cương lĩnh chính trị của mình. Cách mạng tư sản Nhật 1868: Trước thế kỷ XVI Nhật là nước phong kiến cát cứ. Chế độ Mạc Phủ thi hành nhiều chính sách phản động, bóc lột nhân dân ha khắc. Về đối ngoại thì dù ra sức bế quan tỏa cảng nhưng chính quyền phong kiến Nhật vẫn không thể ngăn chặn được sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Trước sức ép bên ngoài và mâu thuẫn bên trong gia tăng, chình quyền Mạc Phủ quyết định dựa vào Pháp để vay tiền. Cuộc cách mạng 1868 ở Nhật đã thắng lợi, giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, mở đường cho Nhật tiến lên chủ nghĩa tư bản. Sau cách mạng 1868, Chính phủ của Thiên Hoàng Mút xô hi tô (Minh Trị) đã tiến hành một số cải cách kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự để xây dựng và phát triển chủ nghĩa tư bản. Cách mạng 1868 của Nhật đã đưa giai cấp tư sản, quí tộc mới lên cầm quyền và tiến hành những cải cách tư sản 1868 đến 1912. Nhờ đó nước Nhật từ một nước phong kiến trở thành một nước tư bản chủ nghĩa hùng mạnh. Nhật đã ảnh hưởng sâu sắc tới các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á. Cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Âu-Mỹ: Tiền đề của cách mạng công nghiệp, thuật ngữ cách mạng cong nghiệp được F. Ăngghen dùng lần đầu tiên trong tác phẩ “tình cảnh giai cấp công nhân Anh” năm 1848. Từ đó thuật ngữ này được dùng để chỉ quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa. Muốn công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa không chỉ tích lũy tư bản mà còn phải tích lũy sức lao động tự do. Tích lũy tư bản và tích lũy sức lao động, nó tuân theo qui luật bạo lực, đẫm máu và nước mắt của nhân dân lao động mà Anh là một điển hình. Công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa là áp dụng máy móc vào sản xuất, đòi hỏi khoa học, kỹ thuật phát triển đủ năng lực lý luận để giải quyết những vấn đề cơ giới hóa đặt ra. Cách mạng công nghiệp thực chất là cách mạng kinh tế, nó cũng cần đủ tiền đề chin muồi và nhu cầu bức thiết của sản xuất phải quyết định, phải bùng nổ như nhu cầu chính trị. Quá trình công nghiệp hóa ở Anh và các nước Âu Mỹ: Cách mạng công nghiệp ở Anh: Vào thế kỷ XVIII hàng dệt, len dạ của Anh nổi tiếng chất lượng, được bán ở khắp châu Âu và thị trường các nước khác. Năm 1785 Cácraitơ phát minh ra máy dệt vận hành bằng sức đẩy của nước, máy nâng công suất dệt tăng lên 39 lần. Trước đó 1769 Jêm Oát đã tìm ra nguyên lý hoạt động của máy hơi nước. Đến năm 1784 máy hơi nước đã được áp dụng vào hoạt động ở các công xưởng. Mở đầu cho kỷ nguyên lao động máy móc bắt đầu. Sự phát triển của sản xuất đòi hỏi nhiều máy móc mới. Như vậy công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu từ công nghiệp nhẹ kéo theo sự ra đời ngành công nghiệp nặng. Năm 1735 Abơraham Đácbi phát minh ra phương pháp nấu than cốc để luyện gang. Năm 1765 Coóctơ xây lò luyện gang để biến gang thành sắt, thép. Năm 1807 Phơntơn đã đặt máy hơi nước xướng tàu thủy. Năm 1814 Xtiphenxơn đặt máy hơi nước lên đường sắt kéo 8 toa tàu hỏa. Công nghiệp hóa ở các nước tư bản chủ nghĩa khác: cách mạng công nghiệp từ Anh lan sang các nước tư bản Âu-Mỹ, tạo nên một làn sóng dây chuyền công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa. Những năm 30 của thế kỷ XIX Pháp đã bắt đầu công nghiệp hóa và trở thành cường quốc thứ hai về kinh tế (sau Anh), cường quốc số hai về xâm lược thuộc địa. Năm 1804 Đức bước vào cách mạng công nghiệp hóa. Từ năm 1860 đến năm 1870 công nghiệp khai thác mỏ của Đức phát triển mạnh, 1860 sản lượng than đá đạt 1,2 triệu tấn. Béc lin trở thành trung tâm chế tạo máy móc. Những năm 40 của thế kỷ XIX nước Mỹ bước vào thời kỳ công nghiệp hóa. Những năm 50 máy hơi nước đã được dùng rộng rãi ở Mỹ. kết quả của cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo nên bước nhảy vọt to lớn về kinh tế, về kực lượng sản xuất, chuyển lao động thủ công chân tay sang lao động máy móc. Nhìn chung ở các nước tư bản công nghiệp hóa đã tạo ra những bước chuyển về chất trong sản xuất kinh tế.cách mạng công nghiệp còn mang lại kết quả về chính trị, đã tạo nên tác động sâu sắc tới sự phân hóa trong xã hội. Cách mạng công nghiệp đã có tác dụng thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển. Cách mạng công nghiệp đã chuyển nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp, đặt nền tảng cho toàn bộ nền văn minh hiện đại. II. Chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc: Trong lịch sử chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn mang những nét đặc thù riêng trên nền tảng biến đổi ít nhiều về kinh tế, chính trị. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản chuyển sang bước phát triển mới, là thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Trong đó từ 1870 đến 1945 chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, cạnh tranh tự do chấm dứt. Từ năm 1945 đến nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, tức là chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa đế quốc, tính chất của giai cấp tư sản cũng thay đổi. Trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, qui luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản ngày càng mạnh mẽ. Tóm lại, kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động theo qui luật cạnh tranh, tư bản nhỏ và vừa bị tiêu diệt, bị những nhà tư bản lớn tiêu diệt, tài sản to lớn tập trung vào tay một số người. Nhóm người này cạnh tranh nhau không loại trừ được nhau, phải liên minh lại với nhau tạo thành tổ chức độc quyền, chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa đế quốc. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918). Nguyên nhân chiến tranh: vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản tiến lên giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, do qui luật phát triển không đồng đều, vị trí của các cường quốc thay đổi liên tục, ảnh hưởng đến nền kinh tế của các nước, mâu thuẫn xảy ra ngày càng gay gắt dẫn tới chiến tranh nổ ra. Diễn biến chiến tranh: Cuộc chiến tranh kéo dài hơn 4 năm và được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn 1(1914 –1916). Mở đầu, quân Đức ào ạt tiến sang đất Pháp, chính phủ Pháp phải rời về Boócđô. Giữa lúc đó, Nga tấn công vào Đông Phổ, buộc Đức phải điều quân về chống đỡ, song song với mật trận Đông Phổ, Nga còn tấn công xuống miền Nam Áo–Hung. Bước sang 1915, Đức dồn quân sang phía Đông đánh Nga làm cho Nga phải bỏ chạy, Đức không hoàn toàn đè bẹp được Nga. Năm 1916 Đức quay trở lại phía Tây, mở chiến dịch Vecđoong, chiến sự diễn ra ác liệt nhưng Đức không hạ nổi thành Vecđoong. Giai đoạn 2 (1917-1918). Năm 1917, cuộc cách mạng thánh hai ở Nga bùng nổ. Vua Nga Nicôlai II bị lật đổ, chính phủ lâm thời được thành lập. Đúc dùng tàu ngầm đánh Anh và gây cho Anh nhiều thiệt hại, Mỹ kiếm cớ nhảy vào vòng chiến và cổ vũ cho phe Hiệp ước. Nửa đầu những năm 1918, Đức tập trung lực lượng tiến công Pháp. Tháng 7–1918, 65 vạn quân Mỹ đổ bộ vào châu Âu, nhờ đó mà Anh, Pháp quay lại đánh quân Đức. Từ tháng 9-1918, quân Đức liên tục rút lui, bỏ chạy khỏi lãnh thổ Bỉ và Pháp, các nước đồng minh của Đức cũng bị tấn công, buộc phải đầu hàng Bungari (19/9), Thổ (30/10), Áo–Hung (3/11). Chính phủ mới của Đức đòi thương lượng nhưng Mỹ không chấp nhận buộc Đức phải đầu hàng. Ngày 11-11-1918, hiệp ước đình chiến được ký ở rừng Côngpiehơ với những điều khoản nậng nề thuộc về Đức. Hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiến tranh thế giới thứ nhất có qui mô to lớn và tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử chiến tranh từ trước cho tới lúc bấy giời, 36 nước bi lôi vào vòng khói lửa, 74 triệu người tham gia vào quân đội, 10 triệu người chết, 20 triệu người bị thương và tàn phế, thiệt hại về vật chất lên đến 338 tỷ đô la. Chiến tranh đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và sự thay đổi vị trí của các cướng quốc trên thế giới. Mỹ vươn lên và chi phối thế giới tư bản, xếp lại trật tự thế giới có lợi cho Mỹ. sau chiến tranh một trật tự thế giới mới ra đời, trật tự Véc xây- Oa sinh tơn. Chiến tranh đã giáng những tai họa to lớn lên đầu nhân dân chính quốc và nhân dân thuộc địa: chết chóc, đói khổ. Điều đó làm cho những mâu thuẫn ở các nước tư bản ngày càng gay gắt, mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa ngày càng trầm trọng. Cách mạng dân chủ Tư sản tháng 2-1917. Nguyên nhân và tình hình nước Nga trước chiến tranh: Sau khi cách mạng dân chủ tư sản 1905-1907 thất bại, nước Nga vẫn là một đế quốc quân chủ chuyên chế dưới sự cai trị của Sa hoàng Nikolai II. Ngày 1 tháng 8 năm 1914, Nga tuyên chiến với Đức, chính thức tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất với hi vọng có thêm thị trường và thuộc địa sau chiến tranh. Tuy nhiên quân đội Nga liên tiếp bại trận trên chiến trường do trình độ tổ chức kém và lạc hậu khiến nhân dân Nga ngày càng bất mãn, làn sóng phản đối chiến tranh lan rộng do Sa hoàng đã tốn rất nhiều sức người, sức của cho cuộc chiến. Kinh tế Nga ngày càng suy sụp, nạn đói xảy ra khắp nơi. Triều đình Sa hoàng tỏ ra bất lực, không thể cai trị được như trước nữa. Điều này báo hiệu một cuộc cách mạng đang đến gần. Diễn biến cuộc cách mạng: Đảng Bônsêvích do Lênin lãnh đạo nhân thời cơ đó đã tổ chức những cuộc biểu tình lớn chống chiến tranh và bãi công tập thể. Ngày 9 tháng 1 năm 1917 (22 tháng 1 theo Công Lịch), trong lễ kỷ niệm "Ngày chủ nhật đẫm máu" ở Pêtrôgát đã xảy ra một cuộc biểu tình lớn chống chiến tranh. Cuộc biểu tình lan rộng sang Mạc Tư Khoa, Baku và nhiều thành phố khác. Phong trào cách mạng sôi nổi nhất là ở thành phố Pêtrôgát Ngày 18 tháng 2 (3 tháng 3 theo Công Lịch), 30.000 công nhân đình công và ngày này trở thành ngày mở đầu cho Cách mạng tháng Hai. Ngày 25 tháng 2 (10 tháng 3), đảng Bônsêvích quyết định chuyển sang tổng bãi công chính trị toàn thành phố và các cuộc xung đột giữa những người biểu tình và cảnh sát đã diễn ra. Ngày 27 tháng 2 (12 tháng 3), cuộc khởi nghĩa lan ra khắp thành phố. Triều đình Sa hoàng phải huy động 60.000 binh lính từ mặt trận trở về đàn áp phong trào tuy nhiên binh lính được nhân dân vận động đã bắn vào cảnh sát, bắt các bộ trưởng và tướng của Sa hoàng. Sa hoàng Nikolai II thoái vị và đế quốc Nga cáo chung (1917). Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga 1917: Nguyên nhân: Cách mạng tháng mười Nga bùng nổ vì những mâu thuẫn tồn tại trong xã hội Nga, đó là mâu thuân giữa vô sản và tư bản, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa các dân tộc với đế quốc Nga. Việc giải quyêt những mâu thuẫn trên tất yếu phải là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa lật đổ chủ nghĩa tư bản, lật đổ nền giai cấp tư sản Nga. Diễn biến: Cách mạng tháng Mười Nga trải qua hai giai đoạn, giai đoạn đầu từ tháng 3 đến tháng 7-1917 là giai đoạn giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình. Giai đoạn từ tháng 7 đến tháng 10-1917. Mùa thu năm 1917, tình thế cách mạng đã chin muồi, vấn đề chính quyền đã đặt ra. Ngày 10-10-1917 Đảng họp và quyết định khởi nghĩa, khoảng 11 giờ trưa ngày 24-10-1917 báo “Con đường công nhân” đăng lời kêu gọi khởi nghĩa của Đảng. Lênin bí mật đến điên Xmônnưi để trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Đêm ngày 25-10-1917 theo lịch Nga (7-11-1017 theo dương lịch) cách mạng tấn công vào cung điện Mùa Đông, bắt sống toàn bộ chính phủ tư sản, chỉ có thủ tướng Kêrênxki trốn thoát. 10 giờ đêm ngày 25-10-1917 đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ nhất diễn ra tại cung điện Xmônnưi, tham gia có 650 đại biểu. Từ Pêtrôgát cách mạng lan ra toàn nước Nga. Ngày 21-11-1917, Matxcơva giành được chính quyền. Mùa xuân năm 1918 cách mạng thắng lợi trên toàn quốc. Cách mạng tháng Mười Nga là điển hình về phương pháp cách mạng vô sản. Cách mạng đã đi từ thành thị tới nông thôn. Cách mạng tháng Mười Nga có ý nghĩa to lớn đối với nước Nga và lịch sử nhân loại, là cuộc cách mạng triệt để và sâu sắc nhất mà không cuộc cách mạng nào có thể sánh được. Cách mạng tháng Mười Nga đã kết thúc lịch sử cận đại, mở ra thời kỳ hiện đại cho toàn thế giới, những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng Mười cũng là những bài học kinh nghiệm cho các cuộc cách mạng về sau này. IV. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) Chủ nghĩa phát-xít và màn dạo đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ hai: Chủ nghĩa phát xít là sự kết tinh tất cả những tư tưởng cặn bã, phản động nhất của xã hội học, của triết học phản động chống lại loài người của Gôbinô, Nítsơ, Ruđônpho, Iuncơ…là những học thuyết sùng bái bạo lực, chiến tranh, phân biệt chủng tộc. Bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ XX nhân loại đã phải đối mặt với nguy cơ của chủ nghĩa phát xít. Nhiều tổ chức, nhiều đảng phát xít đã ra đời như phát xít Đức, phát xít Nhật, phát xít Italia, các phát xít đều xây dựng cho mình một chế độ độc tài khủng bố công khai, thủ tiêu những quyền dân chủ tư sản, toàn bộ quyền lực tập trung vào tay thủ lĩnh phát xít. Các nhà nước phát xít có những chính sách về đối ngoại như chiến tranh xâm lược cục bộ. Trong hành động quân sự, ba nước phát xít đã phối hợp với nhau làm bá chủ thế giới. Năm 1939 ba nước phát xít đã ký hiệp định liên minh quân sự, chính tri, màn đầu của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai được ba nước phát xít dạo lên đầy máu lủa. Nguyên nhân chiến tranh thế giơi thứ hai: Chiến tranh nằm trong bản chất kinh tế và chính trị của chủ nghĩa đế quốc. Còn đế quốc là còn chiến tranh. Chủ nghĩa đế quốc mang lại chiến tranh trong lòng nó như mây mù mang mưa, giống như chiến tranh thế giới thứ nhất chiến tranh thứ hai bùng nổ là do mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong cuộc đấu tranh giành thị trường, thuộc địa, làm bá chủ thế giới. Quyết tâm tiêu diệt Liên Xô là một trong những mục đích khi phát động chiến tranh của phe phát xít. Chính Hítle đã tuyên bố rằng cuộc chiến tranh vói Liên Xô là cuộc chiến tranh giữa hai hệ tư tưởng, trong cuộc đấu tranh đó không có kẻ chiến bại, chỉ có chiến thắng hay chết. Đây là lần thứ hai chủ nghĩa đế quốc đã tạo dựng được một liên minh với đầy đủ sức mạnh tàn bạo nhất, hung hãn nhất để hòng tiêu diệt Liên Xô. Diễn biến chiến tranh thế giới thứ hai: Đức tấn công Ba Lan (1-9-1939 đến 16-9-1939), 1-9-1939, Đức bất ngờ tấn công Ba Lan bắt đầu cho cuộc chiến tranh thế giới hai. Quân đội Ba Lan nhanh chóng thất bại. Ngày 12-9-1939 quân Đức bao vây thủ đô Vac Sa Va. Chính phủ Ba Lan phải bỏ chạy sang Ru Ma Ni, Anh, Pháp là đồng minh chủ yếu của Ba Lan nhưng họ lại không cứu vì họ muốn Đức đánh xong Ba Lan sẽ tấn công vào Liên Xô. Ngày 16-9-1939 thủ đô Vac Sa Va thất thủ. Nước Ba Lan bị đánh bại. Chiến tranh kỳ quặc: Trước sức ép của dư luận thế giới và để gây áp lực buộc Đức phải tấn công Liên Xô, ngày 3-9-1939 Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Đức đánh chiếm Tây Âu: Năm 1940 trong khi Anh, Pháp đang mơ tưởng Đức đánh chiếm xong Ba Lan sẽ tiến đánh Liên Xô thì Đức bất ngờ tấn công Tây Âu bằng việc Đức ào ạt vào Đan Mạch. Ngày 9-4-1940 chính phủ Đan Mạch đầu hàng, cùng ngày Đức đánh chiếm Na Uy. Ngày 5-6-1940 quân Đức tiến đánh Pari, chính phủ Pháp hoảng loạn bỏ chạy. Nước anh bị uy hiếp: Tháng 8-1940 Hítle dùng không quân ném bom dữ dội nước Anh. Luân Đôn và nước Anh bị tàn phá nặng nề. Nước Anh nguy khốn nhưng do được bao bọc bởi biển nên Đức không thể đổ bộ quân tấn công Anh được. Đức xâm lược các nước Nam Âu: Tháng 9-1940 đến tháng 4-1941: Tiếp tục mở rộng xâm lược và lần lượt thôn tính các nước như Hung Ga Ri, Ru Ma Ni, Bun Ga Ri, Nam Tư, Hi Lạp. Như vậy cho đến tháng 4-1941 Đức đã chiếm được hầu hết châu Âu. Chiến tranh Xô-Đức từ 22-6-1941 đến 9-5-1945. Đức tấn công Liên Xô, thắng lợi ban đầu của Đức: Kế hoạch “Bác ba rốt xa”. Đức đánh bại Liên Xô trong vòng hai tháng, mở đường cho Đức tiến xuống phía Nam Á, Trung Đông chinh phục toàn thế giới. 3 giờ 30 phút sáng ngày 22-6-1941, Đức dùng 190 sư đoàn bộ binh (5,5 triệu quân), 42260 pháo và cối, 3700 xe tăng, 4950 máy bay, 193 tàu chiến bất ngờ tấn công biên giới phía Tây Liên Xô. Về phía Liên Xô, khi ở biên giới phía Tây chỉ có 2,5 triệu quân, 1800 xe tăng, 34695 pháo và cối, 1450 máy bay. Đức tạm thời thu được thắng lợi ban đầu nhưng chiến tranh Xô-Đức làm cho Đức thiệt hại quá nhiều và Đức bắt đầu cảm thấy khiếp sợ trên chiến trường Xô-Đức. Chiến dịch Matxcơva (9-1941 đến 1-1942): Quân đội Đức quyết định đánh Matxcơva, Hítle ra lệnh cho quân đội Đức phải chiếm được Matxcơva. Đảng cộng sản Liên Xô đứng đầu là Stali kiên quyết lãnh đạo nhân dân bảo vệ thủ đô. Tháng 12-1941 quân Đức bị chặn lại và sau đó bị đánh bật khỏi Matxcơva. Chiến thắng Matxcơva đã đánh bại kế hoạch chiến tranh chớp nhoáng của Đức. Thất bại ở Matxcơva đã gây hoang mang, khủng hoảng nghiêm trọng trong giới quân sự Đức. Hítle cải tổ lại bộ máy chỉ huy, tự mình nắm lấy chức Tư lệnh mặt trận Xô-Đức. Nhật, Mỹ tham chiến - chiến tranh Thái Bình Dương: Ngày 7-12-1941 Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, một căn cứ hải quân Mỹ trên Thái Bình Dương, hầu như toàn bộ hạm đội Mỹ bị xóa sổ. Nhật Bản thu được nhiều thắng lợi lớn, đánh chiếm được toàn bộ thuộc địa của Anh, Mỹ, Hà Lan, làm chủ 1/2 Thái Bình Dương và một phần Ấn Độ Dương. Nhật Bản bước vào giai đoạn cực thịnh. Chiến dịch Stalingát: Mùa hè năm 1942 Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức quyết định đánh chiếm Stalingát, thành phố trên sông Vôn Ga. Do tầm quan trọng chiến lược của Stalingát, bộ chỉ huy quân sự tối cao quân đội Liên Xô quyết định phải bảo vệ Stalingát bằng mọi giá. Từ tháng 6 đến tháng 11-1942, 700 đợt tấn công của quân Đức nhằm chiếm thành phố đều bị hồng quân Liên Xô đánh bật ra ngoài. Quân đội Đức buộc phải chuyển sang bao vây Stalingát. Ngày 18-1-1943 Hồng quân giải phóng Lê Ningát sau 900 ngày đêm phòng thủ oanh liệt. Stalingát là trận thất bại lớn nhất của quân đôi Đức. Chiến thắng này của hồng quân mở đầu cho sự sụp đổ, diệt vong của Đức quốc xã không gì có thể cứu vãn đươc. Chiến dịch Cuốcscơ: Tháng 7 và 8-1943- Liên tục thất bại trên chiến trường Xô-Đức, Hítle rất muốn có một chiến thắng để giành lại quyền làm chủ động chiến lược và động viên tinh thần phe phát xít Đức đã huy động lực lượng đánh thành phố Cuốcscơ. Ngày 12-7-1943 một trận tăng lớn nhất trong lịch sử chiến tranh diễn ra ở làng prôkhôrốpxki. Kết quả Hồng quân Liên Xô đã đập tan chiến dịch Cuốcscơ của Đức. Sau Cuốcscơ Hồng quân tiến lên giải phóng toàn bộ lãnh thổ của Tổ quốc thân yêu vào đầu năm 1944. Hồng quân Liên Xô và Đồng minh Anh, Mỹ giải phóng châu Âu: (tháng 6-1944 đến tháng 5-1945). Ngày 6-6-1944 gần 3 triệu quân Anh, Mỹ với 5000 xe tăng, 4000 máy bay, 6483 tàu chiến do tướng Mỹ Aixenhao chỉ huy đổ bộ lên bờ biển Noócmăngđi miền Bắc nước Pháp. Quân Anh, Mỹ tiến vào giải phóng nước Pháp rồi tiến vào miền Tây nước Đức. Hồng quân Liên Xô tiến vào châu Âu và phía Đông. Từ tháng 7-1944 đến tháng 3-1945 Hồng quân giải phóng Ba Lan, Ru Ma Ni, Bun Ga Ri, Nam Tư, phần lớn Tiệp Khắc, Hung Ga Ri, Na Uy, Áo. Hồng quân giải phóng Béc Lin kết thúc chiến tranh châu Âu: (16-4 đến 2-5-1945). Ngày 16-4-1945 2,5 triệu Hồng quân Liên Xô với 42000 pháo, 6250 xe tăng,7500 máy bay… do nguyên sóai Giu Cốp chỉ huy bắt đầu cuộc tấn công giải phóng Béc Lin. Ngày 24-5-1945 Hồng quân vây chặt Béc Lin. Hồng quân đánh bại phát xít Nhật kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai: Từ ngày 9-8 đến 2-9-1945 Thực hiên lời cam kết của mình với đồng minh rằng sau khi tiêu diệt xong Đức, Liên Xô sẽ tiêu diệt phát xít Nhật. Vào mùa hè năm 1945, lực lượng quân Nhật ở Thái Bình Dương hầu như còn nguyên vẹn. Liên Xô dưới sự chỉ huy của nguyên soái Vaxilepxki. Ngày 6-8-1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hi rô si ma của Nhật, giết chết 25 vạn dân. Ngày 9-8-1945 Mỹ ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Na ga za ki giết chết 20 vạn dân thường. Hồng quân Liên Xô cùng ngày tiến vào phía Bắc và giải phóng ba tỉnh Đông Bắc, Trung Quốc, Triều Tiên, các quần đảo Xakha lin, Curin. Ngày 15-8-1945 Nhật Hoàng tiên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Ngày 2-9-1945 Nhật chính thức ký văn kiện đầu hàng Đồng minh. Chiến tranh thế giới hai kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của phe phát xít. Chiến tranh thế giới thứ hai có qui mô to lớn và sự tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Liên xô là người đóng vai trò quan quyết định trong việc đánh bại chủ nghĩa phat xít, cứu loài người thoát khỏi thảm họa. Chiến tranh thế giới hai bùng nổ đã phá vỡ trật tự thế giới Véc Xây- Oa sinh tơn vào năm 1939, kêt thúc chiến tranh thế giới hai các cường quốc Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ đã sắp xếp lại trật tự thế giới mới: Trật tự thế giới hai cực Ianta. V. Thế giới từ sau chiến tranh thế giới hai (1945-2003). 1. Trật tự thế giới hai cực Ianta: Vào đầu năm 1945 chiến tranh thế giới hai đã kết thúc với phần thắng thuộc về phe Đồng Minh. Những vấn đề sau chiến tranh được đặt ra một cách cấp thiết, như việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Vấn đề quan trọng là các nước Đồng Minh quan tâm tới việc phân chia thế giới, tổ chức lại trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Để giải quyết vấn đề trên, từ ngày 4 đến ngày 12-2-1945 Nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Anh, Mỹ gồm Stalin, Sơcsin, và Ruzơven đã họp ở Ianta (Crưm-Liên Xô). Tại đây, ba vị nguyên thủ đã đi đến thống nhất phải nhanh chóng kết thúc chiến tranh, tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức, Italia, Nhật. Theo đó, ở châu Âu, các nước Trung và Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Các nước Tây và Nam Âu sẽ thuộc phạm vi ảnh hưởng của Anh, Mỹ. Về vấn đề Đức, Liên Xô sẽ chiếm đóng phần Đông Đức và Đông Béclin. Quân đội Mỹ, Anh, Pháp chiếm đóng phần Tây Đức và Tây Béclin.Riêng áo và Phần Lan sẽ được hưởng quy chế trung lập. Ở Châu Á, Hội nghị chấp nhận những điều kiện của Liên Xô về việc tham gia chiến tranh tiêu diệt quân phiệt Nhật, bao gồm: Duy trì nguyên trạng và công nhận nền độc lập của Mông Cổ. Trả lại cho Liên Xô những quyền lợi mà nước Nga bị mất sau chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) như: trả lại miền Nam đảo Xakhalin và quần đảo Curin, quốc tế hoá cảng Đại Liên (Trung Quốc), cho Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận (Trung Quốc) làm căn cứ hải quân, trả cho Liên Xô tuyến đường sắt Xibêri-Trường Xuân, Liên Xô được cùng khai thác tuyến đường sắt Hoa Đông và Nam Mãn Châu…Sau khi Nhật đầu hàng, quân đội Đồng minh (chủ yếu là Mỹ) sẽ chiếm đóng Nhật Bản. Trung Quốc sẽ thu hồi lại Đài Loan, quần đảo Bành Hồ và Mãn Châu bị Nhật chiếm. Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản sẽ tiến hành hiệp thương để thành lập Chính phủ liên hiệp. Liên Xô và Mĩ có quyền lợi ở Trung Quốc. Triều Tiên sẽ do quân đội Liên Xô và Mĩ kiểm soát ở phía Bắc và Nam vĩ tuyến 38, sau khi giải phóng sẽ trở thành quốc gia độc lập, thống nhất. Phần còn lại của châu Á (Đông Nam Á, Tây Á, Nam Á…) vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây. 2. Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta: Trật tự thế giới hai cực Ianta chứ đựng những mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Các lực lượng đấu tranh gay gắt khiến cho trật tự này từ khi mới thành lập đã sụp đổ từng mảng lớn để cuối cùng đi đến sụp đổ hoàn toàn. Giai đoạn sụp đổ của trật tự này là từ năm 1945 đến những năm 60 thế kỷ XX: Ở Nam Tư giai cấp tư sản sẽ lên nắm chính quyền và đi theo cn đường tư bản chủ nghĩa, ở Trung Quốc ngày 1-10-1949 nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập và đi lên chủ nghĩa xã hội, sự kiện này làm cho cán cân lực lượng thế giới nghiêng hẳn về phe xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo ở châu Phi đã vùng dậy đấu tranh và giành lại độc lập dân tộc. Như vậy từ sau năm 1945 đến những năm 60 của thế kỷ XX, trật tự hai cực sụp đổ từng mảng lớn, có lợi chop he chủ nghĩa xã hội và phong trào giải phóng dân tộc. Giai đoạn thứ hai từ những năm 80 đến 1991: Bắt đầu từ từ sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu do từ những mâu thuẫn tiêu cực bên trong và diến biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc. Năm 1991 Liên Xô cải tổ sai lầm, thất bại và cũng tan rã. Ngày 30-12-1991, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của trật tự hai cực Ianta. 3. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới: V.I Lên nin từng viết, nếu hình dung lịch sử thế giới là con đường thẳng tắp, không có những bước quanh co, không có những bước lùi tạm thời, đôi khi rất lớn, thì không bao chứng, không khoa học, không đúng về mật lý luận. Lịch sử của chủ nghĩa tư bản đã như vậy. Lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội càng như thế. Song, nhân loại đấy sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đã lật đổ chủ nghĩa tư bản Nga, khai sinh ra nhà nước Xô Viết và năm 1922 là Liên bang cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Trong chiến tranh thế giới hai, các nước Đông Âu bị phát xít Đức, Italia xâm lược. Năm 1945 khi Hồng quân Liên Xô giải phóng, giúp đỡ thì vô sản các nước này mới lên nắm chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản dưới hình thức dân chủ nhân dân. Từ tháng 4-1944 đến tháng 10-1949 các nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lần lượt ra đời, sự ra đời của các nhà nước dân chủ Đông Âu là biến đổi to lớn nhất của châu Âu sau chiến tranh thế giới hai. Ở châu Á: chiến tranh thế giới hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, nhân dân Việt Nam đã xây dựng được mặt trận đoàn kết dân tộc, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Thang 8-1945 khi Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Nhật, Việt Nam tranh thủ chớp thời cơ vùng dậy lật đỏ ách thống trị, giành lại độc lập tự do. Năm 1975 sau khi đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở Trung Quốc: Ngày 1-10-1949 sau khi quân đội cách mạng đã đánh bại chế độ tư sản, địa chủ của Tưởng Giới Thạch. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập. Trug Quốc bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ở Triều Tiên: Tháng 9-1948 Đảng lao động Triều Tiên đã lãnh đạo nhân dân thành lập nước cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở Mông Cổ: Đảng nhân dân Mông Cổ lãnh đạo cách mạng than lập nhà nước nhân dân Mông Cổ năm 1921 và đi lên chủ nghĩa xã hội từ năm 20 của thế kỷ XX. Năm 1959, Cách mạng dân tộc dân chủ ở Cu Ba thành công, nước Cu Bar a đời, trở thành nước xã hội chủ nghĩa duy nhất ở châu Mỹ. Như vậy, ngoài Liên Xô, Mông Cổ thì sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới được xác lập và sự ra đời hàng loạt nhà nước dân chủ nhân dân ở châu Âu, qui mô hệ thống xã hội chủ nghĩa mở rộng khắp bốn châu lục. Ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu từ năm 1945 đến năm 1949, chính phủ các nước này lãnh đạo nhân dân hoàn than tốt những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ, bảo vệ chính quyền vô sản. Từ năm 1950 – 1970 các nước Đông Âu tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi, đạt những thành tựu to lớn về măt kinh tế, văn hóa xã hội, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho nhân dân. Vào những năm 70 của thế kỷ XX chủ nghĩa xã hội đạt đến đỉnh cao của sự hưng thịnh, chủ nghĩa xã hội thành mô hình, tấm gương cho toàn thể nhân dân trên toàn thế giới đấu tranh cho lý tưởng công bằng, bác ái, phồn vinh, dân chủ. Nhưng mô hình chủ nghĩa xã hội được thiết lập là mô hình hành chính, tập trung, mệnh lệnh, quan lieu, bao cấp. Trong thời kỳ đầu nó phát huy tác dụng, song đến những năm 80 mô hình này không còn thích hợp nữa. Những nhu cầu cải tổ, đổi mới cũng được đặt ra đối với Liên Xô một cách câp thiết. KẾT LUẬN Lịch sử loài người nói chung và lịch sử từng quốc gia nói riêng dù thăng trầm nhưng phát triển theo chiều hướng đi lên, xã hội nay thay thế xã hội khác hay như Các Mác đã nói một cách tổng quát Hình thái kinh tế xã hội này thay thế Hình thái kinh tế xã hội khác, trong khi đó Hình thái kinh tế xã hội sau cao hơn Hình thái kinh tế xã hội trước mà nó vừa phủ định. Đó là quy luật của sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, trước hết là ở công cụ sản xuất. Ở mỗi hình thái kinh tế xã hội, giai cấp cầm quyền khi còn tiến bộ không chỉ biết bóc lột mà còn lãnh đạo tổ chức nhân dân xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, nghệ thuật để phục vụ cho giai cấp thống trị và xã hội. Cho nên lịch sử thế giới, lịch sử các quốc gia không chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc mà còn là lịch sử văn hóa, văn minh. Đây mới là những giá trị tinh thần, vật chất bất tử của nhân loại. Lịch sử phát triển theo qui luật chung, nhưng do hoàn cảnh cụ thể của phương Đông, phương Tây, các quốc gia khác nhau mà qui luật được biểu hiện thành những qui luật đặc thù ngay cả khi cùng thời đại. Đó là qui luật của sự phát triển không ngừng của xã hội loài người và trải qua bao thời kỳ lịch sử đấu tranh và xây dựng nhằm hướng toàn thể nhân loại tiến lên một hình thái kinh tế xã hội mới đó là chủ nghĩa xã hội, đưa xã hội loài người bước lên một tầm cao vĩ đại của sự phát triển không chỉ là khoa học kỹ thuật mà là tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, văn minh rực rỡ góp phần xây dựng nên lâu đài văn hóa cho toàn nhân loại. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS Cao Văn Liên, Phác thảo lịch sử thế giới, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2003 PGS.TS Cao Văn Liên, Lịch sử 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, NXB Lao động, Hà Nội, 2007 PGS.TS Cao Văn Liên, Tìm hiểu các nước và các hình thức nhà nước trên thế giới, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2002 PGS.TS Đặng Đức An (chủ biên), Đại cương lịch sử thế giới trung đại, NXB Chính trị quốc gia,Hà Nội, 2009 MỤC LỤC Mở đầu……………………………………………………………………1 Chương I: Xã hội nguyên thủy đến thời kỳ trung đại……..…………..2 I. Xã hội nguyên thủy……………………………………………………...2 II. Xã hội chiếm hữu nô lệ phương Đông…………………………………4 III. Xã hội chiếm hữu nô lệ phương Tây (Hy Lạp-La Mã)……………….12 IV. Xã hội phong kiến châu Á……………………………………………14 V. Xã hội phong kiến Tây Âu…………………………………………….15 Chương II: Thời kỳ cận đại và hiện đại…………...…………………...19 I. Các cuộc cách mạng tư sản……………………………………………..19 II. Chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh……………………………………..24 III. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (1917)……….……….27 IV. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)…………………………….29 V. Thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-2003)………………..34 Kết luận………..………………………………………………………...38 Tài liệu tham khảo………….…………………………………………...39

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docsu_phan_ky_lich_su_the_gioi_3384.doc
Tài liệu liên quan