Đề tài Quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải trả tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C)

Tài liệu Đề tài Quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải trả tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C): LỜI MỞ ĐẦU Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp đều phải lập Báo cáo tài chính vào cuối mỗi niên độ kế toán. Trong đó, Bảng cân đối kế toán là một bộ phận hợp thành có vị trí đặc biệt quan trọng. Các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp tại các thời điểm đầu và kết thúc của niên độ kế toán. Trong các chỉ tiêu thể hiện trên Bảng cân đối kế toán thì các khoản mục thanh toán được xem là những khoản mục trọng yếu vì chúng thường được coi là nguồn tài trợ cho sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khoản mục thanh toán bao gồm các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải trả. Do những khoản mục này dễ phát sinh gian lận và sai sót có thể gây ảnh hưởng trọng yếu đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, kiểm toán các khoản mục thanh toán là một trong những nội dung hết sức quan trọng và cần thiết. Do đó, em đã lựa chọn chuyên đề “Quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải trả tại Công ty Kiểm toá...

doc91 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 989 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải trả tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp đều phải lập Báo cáo tài chính vào cuối mỗi niên độ kế toán. Trong đó, Bảng cân đối kế toán là một bộ phận hợp thành có vị trí đặc biệt quan trọng. Các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp tại các thời điểm đầu và kết thúc của niên độ kế toán. Trong các chỉ tiêu thể hiện trên Bảng cân đối kế toán thì các khoản mục thanh toán được xem là những khoản mục trọng yếu vì chúng thường được coi là nguồn tài trợ cho sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khoản mục thanh toán bao gồm các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải trả. Do những khoản mục này dễ phát sinh gian lận và sai sót có thể gây ảnh hưởng trọng yếu đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, kiểm toán các khoản mục thanh toán là một trong những nội dung hết sức quan trọng và cần thiết. Do đó, em đã lựa chọn chuyên đề “Quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải trả tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C)”. Mỗi doanh nghiệp có nhiều nợ phải trả khác nhau. Tuy nhiên, trong bài viết này em chỉ xin đề cập đến một số nội dung của khoản mục nợ phải trả bao gồm: - Nợ phải trả người bán; - Nợ phải trả công nhân viên; - Nợ phải trả các khoản vay. Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận chung về quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải trả. Chương II: Thực trạng kiểm toán khoản mục nợ phải trả tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C). Chương III: Nhận xét và ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải trả tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C). CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TRÌNH KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC NỢ PHẢI TRẢ I – NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KHOẢN MỤC NỢ PHẢI TRẢ 1- Nội dung khoản mục Nợ phải trả thường thể hiện nghĩa vụ kinh tế của một doanh nghiệp, nợ phải trả bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. - Nợ ngắn hạn là các khoản phải trả trong một chu kỳ hoạt động kinh doanh bình thường hoặc một năm. Các khoản này hy vọng sẽ được trang trải bằng tài sản lưu động hiện có hoặc bằng cách huy động các khoản nợ ngắn hạn khác. Nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản sau: phải trả cho nhà cung cấp, phải trả công nhân viên, người mua ứng trước tiền, thuế và các khoản phải nộp Nhà nước, chi phí phải trả, vay ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả… - Nợ dài hạn là các khoản phải trả trong thời gian nhiều hơn một chu kỳ hoạt động kinh doanh hoặc hơn một năm. Nợ dài hạn thường bao gồm vay dài hạn, các khoản nợ dài hạn phải trả cho nhà cung cấp, cho người ký cược ký quỹ dài hạn… Nợ phải trả được trình bày trên Bảng cân đối kế toán, phần Nguồn vốn, mục A: Nợ phải trả và chi tiết theo từng đối tượng phải trả: nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và nợ khác. 2- Đặc điểm khoản mục nợ phải trả Trong kiểm toán các khoản nợ phải trả, kiểm toán viên cần chú ý tới khả năng nợ phải trả bị khai thấp hoặc không được ghi chép đầy đủ. Việc khai thiếu nợ phải trả sẽ làm cải thiện tình hình tài chính. Ví dụ như doanh nghiệp trì hoãn việc hạch toán một khoản phải trả năm nay sang năm sau sẽ làm cho nợ phải trả bị khai thấp, đồng thời do chi phí không đầy đủ khiến cho lợi nhuận tăng lên. Từ đó, một doanh nghiệp đang bị lỗ có thể chuyển thành lãi. Các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện các khoản nợ phải trả không được ghi chép khác với thủ tục phát hiện sự khai khống tài sản. Sự khai khống tài sản thường dựa trên việc ghi chép không đúng vào sổ sách kế toán như ghi các nghiệp vụ không thực sự xảy ra. Những nghiệp vụ này có thể phát hiện được thông qua việc kiểm tra từng nghiệp vụ được ghi chép liên quan đến số dư tài khoản. Việc xác định trách nhiệm cá nhân trong trường hợp này cũng tương đối dễ dàng. Ngược lại, việc khai thiếu nợ phải trả thường chỉ là sự bỏ sót nghiệp vụ hình thành nợ phải trả nên thường khó phát hiện hơn khai khống. Mặt khác, nếu bị phát hiện thì cũng khó xác định đây là cố ý hay vô tình bỏ sót. Vì vậy, có thể nói việc gian lận bằng cách không ghi chép các nghiệp vụ là loại sai phạm khó phát hiện nhất đối với kiểm toán viên. Đối với các khoản vay, điểm cần chú ý là để đạt được những khoản vay này đơn vị thường phải chịu một số giới hạn bởi chủ nợ như doanh nghiệp chỉ được phân chia cổ tức khi mà vốn lưu chuyển được duy trì cao hơn một mức độ nhất định; việc mua tài sản cố định cũng như tăng lương cho cán bộ quản lý cũng chỉ được phép khi hệ số thanh toán hiên thời được duy trì ở mức cao và lợi nhuận thuần đạt mức dự kiến… Nếu những giới hạn này bị vi phạm thì chủ nợ có quyền yêu cầu phải thanh toán ngay toàn bộ số nợ. Vì vậy, trong trường hợp này kiểm toán viên cần nghiên cứu hợp đồng vay và kiểm tra việc chấp hành những giới hạn (nếu có). Khoản mục nợ phải trả có liên quan đến nhiều khoản mục khác như khoản mục về tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, chi phí, VAT… Do vậy khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên phải kết hợp với các phần hành khác có liên quan nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm toán. 3- Mục tiêu kiểm toán - Kiểm soát nội bộ đối với nợ phải trả là đầy đủ. - Các khoản phải trả được ghi chép là có thật, nghĩa là thật sự phát sinh và là nghĩa vụ của đơn vị. - Các khoản nợ phải trả được ghi chép đầy đủ. - Các khoản phải trả được cộng dồn chính xác, thống nhất giữa sổ cái và các sổ chi tiết. - Các khoản nợ phải trả được đánh giá đúng. - Các khoản nợ phải trả được trình bày đúng đắn và khai báo đầy đủ. II – LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC NỢ PHẢI TRẢ Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện qua một số điểm sau: - Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra các ý kiến xác đáng về các Báo cáo tài chính, từ đó giúp các kiểm toán viên hạn chế những sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả của công việc và giữ vững được uy tín nghề nghiệp đối với khách hàng. - Kế hoạch kiểm toán giúp các kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với nhau cũng như phối hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan như kiểm toán nội bộ, các chuyên gia bên ngoài… Đồng thời qua sự phối hợp hiệu quả đó, kiểm toán viên có thể tiến hành cuộc kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với các chi phí ở mức hợp lý, tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho Công ty kiểm toán và giữ uy tín với khách hàng trong mối quan hệ làm ăn lâu dài. - Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ để Công ty kiểm toán tránh xảy ra những bất đồng đối với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm toán viên thống nhất với các khách hàng về nội dung công việc sẽ thực hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng như là trách nhiệm của mỗi bên… Điều này tránh xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc giữa hai bên. - Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, kiểm toán viên có thể kiểm soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện, góp phần nâng cao chất lượng công việc và hiệu quả của cuộc kiểm toán, từ đó càng thắt chặt hơn mối quan hệ giữa Công ty kiểm toán với khách hàng. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung cũng như hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng là những hoạt động hết sức mới mẻ. Trong khi đó hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán chưa đầy đủ, nội dung, quy trình cũng như phương pháp được vận dụng cho các cuộc kiểm toán của Việt Nam mới ở giai đoạn ban đầu, nguồn tài liệu thiếu cả về số lượng, tính đồng bộ và hạn chế về mặt chất lượng. Do vậy, kế hoạch kiểm toán cần được coi trọng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán. Thực tiễn hoạt động kiểm toán ở nước ta trong những năm vừa qua cho thấy kế hoạch kiểm toán được lập đầy đủ và chu đáo là một trong những nhân tố hàng đầu đưa đến sự thành công của cuộc kiểm toán cũng như dẫn đến sự thành công của các doanh nghiệp. 1- Thu thập các thông tin cần thiết về khách hàng và các bên có liên quan Sau khi ký kết hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên bắt đầu lập kế hoạch kiểm toán. Trong giai đoạn này, như đã được xác định trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300, Lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên thu thập hiểu biết về ngành nghề, công việc kinh doanh của khách hàng, tìm hiểu về hệ thống kế toán, kiểm soát nội bộ và các bên liên quan để đánh giá rủi ro và lên kế hoạch kiểm toán. Trong giai đoạn này kiểm toán viên đánh giá khả năng có những sai sót trọng yếu, đưa ra đánh giá ban đầu về mức trọng yếu và thực hiện các thủ tục phân tích để xác định thời gian cần thiết để thực hiện kiểm toán và việc mở rộng các thủ tục kiểm toán khác. 1.1- Giấy phép thành lập và Điều lệ công ty: Việc nghiên cứu những tài liệu này giúp kiểm toán viên hiểu được về quá trình hình thành, mục tiêu hoạt động và các lĩnh vực kinh doanh hợp pháp của đơn vị cũng như nắm bắt được những vấn đề mang tính chất nội bộ của đơn vị như cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các phòng ban, thủ tục phát hành cổ phiếu, trái phiếu. 1.2- Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng: Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300, Lập kế hoạch kiểm toán, quy định kiểm toán viên phải tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng, và trong đoạn 2 của Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 310, Hiểu biết về tình hình kinh doanh, đã hướng dẫn: “để thực hiện được kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải có hiểu biết về tình hình kinh doanh đủ để nhận thức và xác định các dữ kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của đơn vị được kiểm toán mà theo đánh giá của kiểm toán viên, chúng có thể ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của kiểm toán viên hoặc đến báo cáo kiểm toán”. Điều này rất cần thiết khi kiểm toán viên thực hiện kiểm toán với tính thận trọng nghề nghiệp đúng mức. Mỗi ngành nghề sản xuất kinh doanh có những hệ thống kế toán riêng và áp dụng những nguyên tắc kế toán đặc thù. Thêm vào đó, tầm quan trọng của mỗi nguyên tắc kế toán cũng thay đổi theo ngành kinh doanh của khách hàng. Những hiểu biết về ngành nghề kinh doanh bao gồm những hiểu biết chung về nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động của đơn vị và sự hiểu biết cụ thể hơn về tổ chức và hoạt động của đơn vị kiểm toán. Ngoài ra, kiểm toán viên còn phải hiểu cả những khía cạnh đặc thù của một tổ chức cụ thể như: cơ cấu tổ chức, dây chuyền và các dịch vụ sản xuất, cơ cấu vốn, chức năng và vị trí của kiểm toán nội bộ… để hiểu rõ các sự kiện, các nghiệp vụ và các hoạt động có thể tác động đến Báo cáo tài chính và để thực hiện quá trình so sánh khách hàng này với các đơn vị khác trong ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đó. Kiểm toán viên có thể có được hiểu biết này bằng nhiều cách nhưng phương pháp thường được sử dụng nhiều nhất là trao đổi với các kiểm toán viên, những người đã tiến hành kiểm toán cho khách hàng những năm trước hoặc đã kiểm toán cho khách hàng khác trong cùng ngành nghề kinh doanh hoặc trao đổi trực tiếp với nhân viên, Ban Giám đốc công ty khách hàng hoặc một số phương pháp thông dụng khác như nghiên cứu các sách báo, tạp chí chuyên ngành. 1.3- Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung: Các hồ sơ kiểm toán năm trước thường chứa đựng rất nhiều thông tin về khách hàng, về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức và các đặc điểm hoạt động khác. Ngoài ra đa phần các Công ty kiểm toán đều duy trì hồ sơ kiểm toán thường xuyên đối với mỗi khách hàng. Hồ sơ này có các bản sao của các tài liệu như: sơ đồ tổ chức bộ máy, điều lệ công ty, chính sách tài chính, kế toán… Qua đó kiểm toán viên sẽ tìm thấy những thông tin hữu ích về công việc kinh doanh của khách hàng. Việc cập nhật và xem xét các sổ sách của công ty là rất cần thiết vì qua đó kiểm toán viên không chỉ xác định được các quyết định của nhà quản lý có phù hợp với luật pháp của Nhà nước, với các chính sách hiện hành của công ty hay không mà còn giúp kiểm toán viên hiểu được bản chất của các số liệu cũng như sự biến động của chúng trên các Báo cáo tài chính được kiểm toán. 1.4- Tham quan nhà xưởng: Việc tham quan nhà xưởng, quan sát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng sẽ cung cấp cho kiểm toán viên những điều mắt thấy tai nghe về quy trình sản xuất kinh doanh của khách hàng và nó cũng cho phép kiểm toán viên gặp các nhân vật chủ chốt cũng như cung cấp cho kiểm toán viên một cái nhìn tổng thể về công việc kinh doanh của khách hàng. Điều này tạo điều kiện cho việc thuyết minh số liệu kế toán, phát hiện những vấn đề cần quan tâm như sản xuất trì trệ, sản phẩm ứ đọng, máy móc lạc hậu hay không được phát huy hết công suất… Ngoài ra, kiểm toán viên cũng có được những nhận định ban đầu về phong cách quản lý của Ban giám đốc, tính hệ thống trong việc tổ chức, sắp đặt công việc. 1.5- Các Báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra của năm hiện hành hay trong vài năm trước: Các Báo cáo tài chính cung cấp dữ liệu về tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, giúp kiểm toán viên nhận thức được tổng quát về vấn đề đó và dựa trên cơ sở đó, áp dụng các kỹ thuật phân tích các báo cáo này để nhận thức được xu hướng phát triển của khách hàng. Đây là tài liệu quan trọng nhất trong một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính. Ngoài ra việc xem xét các báo cáo kiểm toán, các biên bản kiểm tra, thanh tra (nếu có) sẽ giúp kiểm toán viên nhận thức rõ hơn về thực trạng hoạt động của đơn vị khách hàng và dự kiến phương hướng kiểm tra. 1.6- Nhận diện các bên hữu quan: Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên cần xác định tất cả các bên hữu quan với khách hàng. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 550, Các bên hữu quan, các bên hữu quan được hiểu là: các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức của công ty khách hàng hay bất kỳ công ty chi nhánh, một cá nhân hay tổ chức nào mà công ty khách hàng có quan hệ và các cá nhân tổ chức đó có khả năng điều hành, kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các chính sách kinh doanh hoặc chính sách quản trị của công ty khách hàng. Theo các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận, bản chất mối quan hệ giữa các bên hữu quan phải được tiết lộ trên các sổ sách, báo cáo và qua mô tả các nghiệp vụ kinh tế. Do vậy các bên hữu quan và các nghiệp vụ giữa các bên hữu quan có ảnh hưởng lớn đến sự nhận định của người sử dụng Báo cáo tài chính. Do vậy kiểm toán viên phải xác định các bên hữu quan và nhận định sơ bộ về mối quan hệ này ngay trong giai đoạn lập kế hoạch thông qua phỏng vấn Ban giám đốc, xem sổ theo dõi cổ đông, sổ theo dõi khách hàng… từ đó bước đầu dự đoán các vấn đề có thể phát sinh giữa các bên hữu quan để có thể hoạch định một kế hoạch kiểm toán phù hợp. 1.7- Dự kiến nhu cầu chuyên gia bên ngoài: Thuật ngữ “chuyên gia” chỉ một người hoặc một văn phòng có năng lực, hiểu biết và kinh nghiệm cụ thể trong một lĩnh vực riêng ngoài lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Nếu Công ty kiểm toán cho rằng không ai trong nhóm kiểm toán có chuyên môn hoặc khả năng về lĩnh vực nào đó để thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết nhất định, khi đó Công ty kiểm toán có thể quyết định sử dụng chuyên gia bên ngoài. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 620, Sử dụng tư liệu của một chuyên gia, hướng dẫn khi sử dụng chuyên gia, kiểm toán viên phải đánh giá khả năng chuyên môn, hiểu mục đích và phạm vi công việc của họ cũng như sự phù hợp của việc sử dụng tư liệu đó cho các mục tiêu dự định. Kiểm toán viên cũng nên xem xét mối quan hệ giữa chuyên gia với khách hàng, những yếu tố có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của chuyên gia đó. 2- Thực hiện các thủ tục phân tích đối với khoản mục nợ phải trả Theo Chuẩn mực Kiểm toán hiện hành các thủ tục phân tích được áp dụng cho tất cả các cuộc kiểm toán và chúng thường được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán. Thủ tục phân tích, theo định nghĩa của Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 520, là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến. Ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, sau khi đã thu thập được các thông tin cần thiết về khách hàng và các bên có liên quan, kiểm toán viên tiến hành thực hiện các thủ tục phân tích đối với các thông tin đã thu thập nói chung và các thông tin về khoản mục nợ phải trả nói riêng để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các thủ tục kiểm toán sẽ được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán. Các thủ tục phân tích sử dụng cho việc lập kế hoạch kiểm toán nhằm vào các mục tiêu sau: - Thu thập hiểu biết về nội dung khoản mục nợ phải trả và những biến đổi quan trọng về kế toán và hoạt động kinh doanh của khách hàng vừa mới diễn ra kể từ lần kiểm toán trước. - Tăng cường sự hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động kinh doanh của khách hàng và giúp kiểm toán viên xác định các vấn đề nghi vấn về khả năng hoạt động liên tục của công ty khách hàng. - Đánh giá sự hiện diện các sai số có thể có trên khoản mục nợ phải trả trong Báo cáo tài chính của khách hàng. Như vậy qua việc thực hiện các thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên có thể xác định nội dung cơ bản của cuộc kiểm toán. Mức độ, phạm vi và thời gian áp dụng các thủ tục phân tích thay đổi tuỳ thuộc vào quy mô và tính phức tạp trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Việc xây dựng các thủ tục phân tích bao hàm một số bước đặc như xác định mục tiêu, thiết kế các cuộc khảo sát, tiến hành khảo sát, phân tích kết quả và đưa ra kết luận. Các thủ tục phân tích được kiểm toán viên sử dụng bao gồm hai loại cơ bản: - Phân tích ngang (phân tích xu hướng): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các trị số của cùng một khoản mục nợ phải trả. Các chỉ tiêu phân tích được sử dụng ngang bao gồm: * So sánh số liệu kỳ này với số liệu kỳ trước hoặc giữa các kỳ với nhau và qua đó kiểm toán viên thấy được những biến động bất thường. Ví dụ: tỷ số thanh toán hiện hành giảm đột ngột với quy mô lớn cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tình hình tài chính, khả năng thanh toán công nợ… * So sánh số liệu thực tế với số liệu dự toán hoặc số liệu ước tính của kiểm toán viên. * So sánh dữ kiện của công ty khách hàng với dữ kiện chung của ngành. - Phân tích dọc (phân tích tỷ suất): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ tương quan của khoản mục nợ phải trả và các khoản mục khác trên Báo cáo tài chính. Các tỷ suất tài chính thường dùng trong phân tích dọc có thể là các tỷ suất về khả năng thanh toán, các tỷ suất về khả năng sinh lời… 3- Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro của khoản mục nợ phải trả Nếu ở các bước trên, kiểm toán viên mới thu thập được các thông tin mang tính khách quan thì ở bước này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào các thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một kế hoạch kiểm toán phù hợp. 3.1- Đánh giá tính trọng yếu: Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay qui mô) và bản chất của các sai phạm (kể cả bỏ sót) của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm. Ở đây kiểm toán viên cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ Báo cáo tài chính và phân bổ mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính. Đó cũng chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục. Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở mức đó khoản mục có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến toàn bộ Báo cáo tài chính và các quyết định của người sử dụng thông tin tài chính. Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho kiểm toán viên lập kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Cụ thể là nếu các kiểm toán viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp, nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên khoản mục nợ phải trả càng cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng ít và ngược lại. Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là một việc làm mang tính chất xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Do đó ước lượng ban đầu về tính trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán viên thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá cao hoặc quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu bị thay đổi. Khi xây dựng mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu, kiểm toán viên cần lưu ý những yếu tố ảnh hưởng sau: - Tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một khái niệm tuyệt đối, gắn liền với quy mô của công ty khách hàng. Một sai phạm với một quy mô nhất định có thể là trọng yếu đối với một công ty nhỏ nhưng không trọng yếu đối với một công ty lớn hơn. Do vậy việc xác định và chỉ dẫn một mức giá trị cụ thể bằng tiền cho sự ước lượng ban đầu về tính trọng yếu áp dụng cho tất cả các khách hàng là một điều không thể làm được. - Yếu tố định lượng của tính trọng yếu: quy mô sai phạm là một yếu tố quan trọng để xem xét liệu các sai phạm có trọng yếu hay không. Tuy nhiên do trọng yếu mang tính chất tương đối nên việc có được các cơ sở để quyết định xem một quy mô của một sai phạm nào có là trọng yếu hay không là một điều cần thiết. - Yếu tố định tính của trọng yếu: trong thực tế để đánh giá một sai phạm là trọng yếu hay không, kiểm toán viên phải xem xét đánh giá cả về mặt quy mô (số lượng) và bản chất (chất lượng) của sai sót đó. Một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô của nó là bao nhiêu. Các gian lận thường được xem là quan trọng hơn các sai sót với cùng một quy mô tiền tệ bởi các gian lận thường làm người ta nghĩ tới tính trung thực và độ tin cậy của Ban Giám đốc hay những người có liên quan. Các sai sót có quy mô nhỏ nhưng lặp đi lặp lại hoặc gây ra tác động dây chuyền làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thông tin trên Báo cáo tài chính thì luôn được xem là sai phạm trọng yếu vì đây là sai phạm có tính chất hệ thống. Một sai phạm khiến cho một khoản lỗ được báo cáo thành một khoản lãi thì luôn được coi là sai phạm trọng yếu bất kể quy mô của sai phạm này là bao nhiêu. Mặc dù ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là một xét đoán nghề nghiệp mang tính chủ quan của kiểm toán viên song trên thực tế các Công ty kiểm toán thường đề ra những đường lối chỉ đạo để hỗ trợ cho các kiểm toán viên của mình trong việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu qua việc hướng dẫn các chỉ tiêu được chọn làm gốc trong từng trường hợp cụ thể, tỷ lệ tính mức trọng yếu đối với từng chỉ tiêu. 3.2- Đánh giá rủi ro: Theo định nghĩa trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400, Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, rủi ro kiểm toán là rủi ro do Công ty kiểm toán và kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định rủi ro kiểm toán mong muốn. Do vậy, kiểm toán viên cần đánh giá các loại rủi ro kiểm toán sau: - Rủi ro cố hữu: là khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục nợ phải trả chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ. Để đánh giá rủi ro cố hữu, kiểm toán viên dựa vào các yếu tố ảnh hưởng sau: * Bản chất kinh doanh của khách hàng: rủi ro cố hữu thường bị tăng lên bởi những đặc thù của ngành nghề kinh doanh mà nó có thể tạo nên những khó khăn cho kiểm toán do tồn tại những khoản không chắc chắn hoặc khả năng tồn tại một cách tiềm tàng những gian lận hoặc những sai sót trên khoản mục nợ phải trả. * Tính trung thực của Ban Giám đốc: Ban Giám đốc không thể xem là hoàn toàn trung thực trong mọi trường hợp. Khi Ban Giám đốc bị kiểm soát bởi một hoặc một số ít các cá nhân thiếu tính trung thực thì khả năng những khoản mục nợ phải trả bị báo cáo sai sẽ tăng lên, do vậy rủi ro cố hữu sẽ được đánh giá ở mức cao. * Kết quả các lần kiểm toán trước: đối với tài khoản được phát hiện có sai phạm trong các lần kiểm toán của năm trước, rủi ro cố hữu được xác định ở mức cao. Lý do là nhiều loại sai phạm có tính chất hệ thống và các đơn vị thường chậm chạp không tiến hành các biện pháp sửa chữa nên các sai phạm đã xảy ra trong các năm trước có thể vẫn tiếp tục xảy ra trong các năm sau. * Hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn: trong các hợp đồng kiểm toán lần đầu, kiểm toán viên thường thiếu hiểu biết và kinh nghiệm về các sai sót của đơn vị khách hàng nên họ thường đánh giá rủi ro cố hữu cao hơn so với hợp đồng kiểm toán dài hạn. * Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên: các nghiệp vụ này có khả năng được vào sổ sai nhiều hơn là các nghiệp vụ diễn ra hàng ngày do khách hàng thiếu kinh nghiệm trong hạch toán các nghiệp vụ đó, do đó rủi ro cố hữu đối với các tài khoản chứa nghiệp vụ này thường được đánh giá cao. * Quy mô của các số dư tài khoản: các tài khoản có số dư bằng tiền lớn thường được đánh giá là rủi ro cố hữu cao hơn so với tài khoản có số dư bằng tiền nhỏ. Như vậy kiểm toán viên cần đánh giá lần lượt các yếu tố trên và quyết định mức rủi ro cố hữu thích hợp đối với từng khoản mục nợ phải trả. - Rủi ro kiểm soát: đây là loại rủi ro liên quan đến sự yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ. Rủi ro kiểm soát là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả, do đó đã không phát hiện và ngăn chặn các sai phạm này. Rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá đối với từng khoản mục nợ phải trả thông qua việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đối với khoản mục này. Rủi ro kiểm soát luôn có và khó tránh khỏi những hạn chế cố hữu của bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào. - Rủi ro phát hiện: là khả năng xảy ra các sai sót hoặc gian lận trên khoản mục nợ phải trả mà không được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ và cũng không được kiểm toán viên phát hiện trong quá trình kiểm toán. Trong quá trình kiểm toán rủi ro phát hiện phát sinh do ảnh hưởng của các nhân tố sau: * Các bước kiểm toán không thích hợp, điều này thường xảy ra đối với những kiểm toán viên mới, thực hiện không hợp lý quy trình kiểm toán. * Phát hiện ra bằng chứng nhưng không nhận thức được sai sót, nên thường đưa ra kết luận sai. * Kiểm toán viên hoàn toàn không phát hiện ra sai sót do có sự thông đồng, nhất trí bên trong doanh nghiệp làm các chính sách và chế độ do Ban Giám đốc đề ra. Rủi ro phát hiện được xác định từ ba loại rủi ro: rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro cố hữu và rủi ro kiểm soát. Vì ba loại rủi ro này thay đổi đối với từng khoản mục nên rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập cũng thay đổi theo đối với từng khoản mục. 3.3- Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán: Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 320, Tính trọng yếu trong kiểm toán, mức độ trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ ngược chiều nhau nghĩa là nếu mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Kiểm toán viên phải quan tâm tới mối quan hệ này khi xác định bản chất, thời gian và phạm vi của thủ tục kiểm toán cần thực hiện. Ví dụ: nếu sau khi lập xong kế hoạch kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên xác định rằng mức độ trọng yếu có thể chấp nhận được thấp thì rủi ro kiểm toán tăng lên. Và khi đó để giữ cho rủi ro kiểm toán ở mức có thể chấp nhận được như ban đầu, kiểm toán viên cần mở rộng phạm vi kiểm toán, lựa chọn các phương pháp kiểm toán hữu hiệu hơn nhằm thu thập được nhiều hơn các bằng chứng kiểm toán có giá trị để giảm rủi ro phát hiện xuống mức có thể chấp nhận được. Xác định mức trọng yếu và rủi ro là thủ tục phức tạp đòi hỏi trình độ cũng như phán đoán của kiểm toán viên. Trên thực tế chỉ một số Công ty kiểm toán tại Việt Nam đã xây dựng quy trình ước lượng trọng yếu và rủi ro, còn nhiều công ty vẫn chưa xây dựng được quy trình cụ thể. 4- Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát là một phần việc hết sức quan trọng mà kiểm toán viên phải thực hiện trong một cuộc kiểm toán, vấn đề này được quy định trong nhóm chuẩn mực đối với công việc tại chỗ ở điều thứ 2 trong 10 Chuẩn mực Kiểm toán được chấp nhận rộng rãi (GAAS): “kiểm toán viên phải có một sự hiểu biết đầy đủ về hệ thống kiểm soát nội bộ để lập kế hoạch kiểm toán và để xác định bản chất, thời gian và phạm vi của các cuộc khảo sát phải thực hiện”. Và điều này cũng được quy định trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400, Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán và xây dựng cách tiếp cận kiểm toán có hiệu quả. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300, Kế hoạch kiểm toán, những vấn đề chủ yếu kiểm toán viên phải trình bày trong kế hoạch kiểm toán bao gồm: hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán; hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ; rủi ro và mức trọng yếu; nội dung, lịch trình và phạm vi thực hiện các thủ tục kiểm toán; phối hợp, chỉ đạo, giám sát và kiểm tra và các vấn đề khác. 4.1- Kiểm soát nội bộ nợ phải trả người bán: Do khoản mục nợ phải trả người bán có liên quan đến quá trình mua hàng nên để nghiên cứu về kiểm soát nội bộ đối với khoản này cần phải xem xét kiểm soát nội bộ trong chu trình mua hàng và thanh toán. Có thể tóm tắt như sau: - Kho hàng hoặc bộ phận kiểm soát hàng tồn kho sẽ chuẩn bị và lập phiếu yêu cầu mua hàng để gửi cho bộ phận mua hàng. Một liên của phiếu này sẽ được lưu trữ theo thứ tự có đính kèm các chứng từ liên quan như đơn đặt hàng, phiếu nhập kho… - Bộ phận mua hàng căn cứ vào phiếu yêu cầu mua hàng để xem xét về nhu cầu về chủng loại hàng cần mua đồng thời khảo sát về các nhà cung cấp, chất lượng và giá cả… Sau đó, bộ phận này sẽ phát hành đơn đặt hang, đơn đặt hàng cần được đánh số liên tục và lập thành nhiều liên. Ngoài liên gửi cho nhà cung cấp, các liên còn lại sẽ gửi cho bộ phận kho, bộ phận nhận hàng và kế toán nợ phải trả. - Khi tiếp nhận hàng tại kho, bộ phận nhận hàng kiểm tra chất lượng lô hàng và số lượng lô hàng… Mọi nghiệp vụ nhận hàng đều phải lập phiếu nhập hoặc báo cáo nhận hàng. Phiếu này phải được đánh số liên tục, được lập thành nhiều liên và chuyển ngay cho các bộ phận liên quan như kho hàng, mua hàng, kế toán nợ phải trả. - Trong bộ phận kế toán nợ phải trả, các chứng từ cần được đóng dấu ngày nhận và các chứng từ khác phát sinh trong bộ phận này phải được đánh số liên tục để kiểm soát. Mỗi công đoạn kiểm tra, người thực hiện phải ghi ngày và ký tên để xác nhận trách nhiệm của mình. Thông thường có những cách kiểm tra, đối chiếu sau: * So sánh số lượng trên hoá đơn với số lượng trên báo cáo nhận hàng và đơn đặt hàng, mục đích là để không thanh toán vượt quá số lượng đặt hàng và số lượng thực nhận. * So sánh giá cả, chiết khấu trên đơn đặt hàng và trên hoá đơn để bảo đảm không thanh toán vượt quá số nợ phải trả cho người bán. * Việc xét duyệt chi quỹ để thanh toán cho người bán sẽ do bộ phận tài vụ thực hiện. Sự tách rời giữa hai chức năng là kiểm tra và chấp thuận thanh toán (bộ phận kế toán đảm nhận) và xét duyệt chi quỹ thanh toán (bộ phận tài vụ đảm nhận) là một biện pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn các sai phạm. Trước khi chuẩn chi, thông qua sự hợp lệ, hợp lý và đầy đủ của các chứng từ, bộ phận tài vụ có nhiệm vụ kiểm tra mọi mặt của nghiệp vụ. Người ký duyệt chi quỹ phải đánh dấu các chứng từ để chúng không được tái sử dụng để lập chứng từ chi quỹ lần thứ hai. - Cuối tháng, bộ phận kế toán nợ phải trả cần đối chiếu giữa sổ chi tiết người bán với sổ cái. Việc đối chiếu này thực hiện trên Bảng tổng hợp chi tiết và Bảng này được lưu lại để làm bằng chứng là đã đối chiếu cũng như để tạo thuận lợi khi hậu kiểm. - Nhiều nước trên thế giới có thông lệ là hàng tháng thì người bán gửi cho các khách hàng một bảng kê các hoá đơn đã thực hiện trong tháng về các khoản đã trả và số dư cuối tháng. Ngay khi nhận được bảng này, kế toán phải tiến hành đối chiếu với sổ chi tiết và tìm hiểu mọi sai biệt (nếu có). 4.2- Kiểm soát nội bộ phải trả công nhân viên: Do khoản mục phải trả công nhân viên có liên quan đến chu trình tiền lương và nhân viên nên mỗi loại hình kiểm soát nội bộ được thiết lập sẽ gắn với các mục tiêu kiểm soát cụ thể nhằm phát hiện và ngăn chặn những khả năng sai phạm có thể xảy ra. - Nghiệp vụ phê duyệt: để phòng nhân sự có thể tuyển chọn được đúng người, đúng việc thì Ban quản lý cần phải có các tiêu chí tuyển dụng lao động rõ ràng bằng văn bản và phải duy trì một hệ thống sổ nhân sự được cập nhật liên tục. Bên cạnh đó, Ban quản lý cũng cần phải thẩm tra tất cả các thông tin có liên quan tới hồ sơ tuyển dụng của nhân viên. Tất cả các khoản tièn lương, tiền thưởng, các khoản trích trên lương và các khoản khấu trừ đều phải được phê duyệt bởi Ban quản lý nhằm ngăn ngừa các hiện tượng tăng cho phí lương không hợp lý, vi phạm các hợp đồng của công đoàn hoặc những khoản cộng dồn về tiền lương, nghỉ phép, hưu trí… không thích hợp. Ban quản lý có thể thiết lập một số chính sách bằng văn bản về việc điều chỉnh mức lương, bậc lương và công bố rộng rãi chính sách cho phòng nhân sự và các đốc công của các bộ phận hoạt động nhằm kiểm soát các trường hợp tăng, giảm lương mà không được thông qua. - Ghi sổ sách kế toán về tiền lương: tất cả các khoản phải trả cho công nhân viên cần phải được ghi chép một cách chính xác, đúng thời kỳ và phải phân loại hợp lý. Nếu không sẽ dẫn tới việc tính sai các khoản trích trên lương, các khoản khấu trừ, chi phí nhân công và các khoản nợ khác. Để kiểm soát được việc ghi chép thì Ban quản lý có thể thiết lập ra một sơ đồ tài khoản hạch toán và các thủ tục phân bổ chi phí nhân công. Đồng thời Ban quản lý phải thống nhất một cách hợp lý giữa hệ thống các bảng tính lương, bảng tổng hợp chi phí tiền lương, sổ nhật ký tiền lương và sổ cái. - Thực chi: để kiểm soát các khoản cho không có thật thì trong việc chi trả thanh toán tiền lương, thưởng cần chú ý chỉ thanh toán dựa trên các khoản nợ đã được ghi nhận. Các phiếu chi hoặc séc chi lương phải thể hiện đó là những phiếu chi hoặc séc chi cho các công việc, sản phẩm hoặc lao vụ đã được thực hiện hoặc những sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành và nghiệm thu. Ban quản lý có thể kiểm soát các khoản chi lương mà chưa được phê duyệt bằng việc yêu cầu tất cả các bên liên quan phải ký vào phiếu chi bất thường hoặc những phiếu chi có số tiền lớn. - Tiếp cận hệ thống sổ sách: nhằm kiểm soát đối với các khoản chi không đúng chỗ và những chi phí nhân công không được thông qua thì Ban quản lý cần phải đưa ra các chính sách nhằm hạn chế việc tiếp cận hệ thống báo cáo sổ sách nhân sự và kế toán tiền lương ở một số người có thẩm quyền. Chẳng hạn, Ban quản lý có thể tạo ra các hàng rào cản trở những nhân viên không có phận sự tiếp cận tới tài liệu của bộ phận nhân sự và bộ phận tiền lương, phân chia trách nhiệm tách bạch giữa các quyền phê duyệt, quyền ghi chép sổ sách và quyền thanh toán tiền lương để hạn chế các hành vi gian lận. - Phân chia trách nhiệm: để đảm bảo một cách thoả đáng về việc phân chia tách bạch các trách nhiệm thì bộ phận nhân sự cần phải tách khỏi trách nhiệm tính toán lương, thưởng; lập bảng lương, thưởng; chi lương, thưởng và trách nhiệm giám sát thời gian lao động hoặc dịch vụ hoàn thành. Nếu không chức năng phê duyệt của bộ phận nhân sự sẽ phối hợp với chức năng thanh toán tiền lương dẫn tới làm tăng các cơ hội tăng mức lương, bậc lương một cách cố ý vì mục đích tư lợi hoặc tạo ra nhân viên khống. Hơn nữa, nếu để bộ phận tiền lương và bộ phận hoạt động kết hợp với nhau thì sẽ dẫn đến các khoản chi không có thực như chi cho các dịch vụ hoặc lao vụ không được cung cấp bởi vì nhân viên theo dõi thời gian lao động, khối lượng công việc, sản phẩm hoặc lao vụ hoàn thành cũng chính là người tính ra số lương phải thanh toán. 4.3- Kiểm soát nội bộ đối với các khoản vay: Kiểm soát nội bộ đối với các khoản vay chủ yếu là thực hiện nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn. Đối với các khoản vay nhỏ, có tính chất tạm thời thì có thể do Ban giám đốc quyết định. Còn đối với các khoản vay lớn, dài hạn phải được sự chấp thuận của Hội đồng quản trị hoặc người được uỷ quyền. Trong trường hợp này, Giám đốc tài chính hoặc người phụ trách công tác tài chính phải chuẩn bị một báo cáo về kế hoạch vay nợ, trong đó phải có giải trình về nhu cầu và hiệu quả của khoản vay, so sánh tình hình tài chính của công ty trước và sau khi vay với các đơn vị cùng ngành, các giải pháp khác nếu có, phương án trả nợ… Hội đồng quản trị hoặc người được uỷ quyền cũng sẽ xem xét và xét duyệt những vấn đề khác như chon lựa hình thức vay, tổ chức tín dụng… Sau khi đã được chấp thuận cho đi vay, Ban giám đốc phải tiếp tục báo cáo cho Hội đồng quản trị về số tiền đã nhận được, việc sử dụng chúng và các vấn đề liên quan. Các khoản vay phải được theo dõi trên sổ chi tiết mở theo từng chủ nợ và theo từng khoản vay. Hàng tháng, các số liệu này phải được đối chiếu với sổ cái và định kỳ phải đối chiếu với chủ nợ. Các công ty lớn cũng có thể vay được những khoản nợ dài hạn quan trọng thông qua việc phát hành trái phiếu. Trong trường hợp này, công ty có thể thuê một Ngân hàng lớn để làm người uỷ thác độc lập, họ sẽ có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ và liên tục giám sát việc chấp hành hợp đồng của đơn vị. Người uỷ thác này cũng sẽ giữ các sổ sách theo dõi chi tiết về tên và địa chỉ của những người sở hữu trái phiếu, huỷ bỏ các trái phiếu cũ và lập các trái phiếu mới khi có chuyển quyền sở hữu, phân phối lợi tức trái phiếu và hoàn trả nợ gốc khi trái phiếu đáo hạn. Việc sử dụng người uỷ thác độc lập này có tác dụng rất lớn đối với kiểm soát nội bộ. Trong bước tiếp theo của giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, dựa vào các yếu tố xác định trong kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên sẽ thiết kế các thủ tục kiểm toán chi tiết và soạn thảo chương trình kiểm toán. 5- Chương trình kiểm toán Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các kiểm toán viên cũng như dự kiến về những tư liệu, thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập. Trọng tâm của chương trình kiểm toán là các thủ tục kiểm toán cần thiết thực hiện đối với từng khoản mục hay bộ phận được kiểm toán. Chương trình kiểm toán được thiết kế phù hợp sẽ đem lại rất nhiều lợi ích: - Sắp xếp một cách có kế hoạch các công việc và nhân lực, đảm bảo sự phối hợp giữa các kiểm toán viên cũng như hướng dẫn chi tiết cho các kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán. - Đây là phương tiện để chủ nhiệm kiểm toán (người phụ trách kiểm toán) quản lý, giám sát cuộc kiểm toán thông qua việc xác định các bước công việc được thực hiện. - Bằng chứng để chứng minh các thủ tục kiểm toán đã thực hiện. Thông thường sau khi hoàn thành một cuộc kiểm toán, kiểm toán viên ký tên hoặc ký tắt lên chương trình kiểm toán liền với thủ tục kiểm toán vừa hoàn thành. ` III – THỰC HIỆN KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC NỢ PHẢI TRẢ Như đã nói ở trên, mỗi đơn vị có thể có rất nhiều loại nợ phải trả nhưng bài viết này chỉ đề cập đến một số khoản loại nợ phải trả sau: phải trả người bán, phải trả công nhân viên và các khoản vay. 1- Thực hiện thử nghiệm kiểm soát Có thể đánh giá sự hữu hiệu của kiểm soát nội bộ thông qua việc thực hiện các thử nghiệm kiểm soát sau: 1.1- Đối với nợ phải trả người bán - Căn cứ các nhật ký liên quan để kiểm tra việc ghi chép trên sổ cái nợ phải trả, mục đích là xem xét sự có thực của các nghiệp vụ đã được ghi chép trên sổ cái bằng cách đối chiếu chúng với các nhật ký có liên quan. Thử nghiệm này thực hiện trên cơ sở chọn mẫu một số nghiệp vụ trên sổ cái nợ phải trả rồi truy hồi về nhật ký liên quan và việc này có thể tiến hành trước ngày kết thúc niên độ. - Chọn mẫu một số nghiệp vụ mua hàng, thực hiện các kiểm tra như kiểm tra về sự xét duyệt các nghiệp vụ, đối chiếu giữa đơn đặt hàng, báo cáo nhận hàng và hoá đơn của người bán về số lượng, giá cả…, kiểm tra việc ghi chép lên sổ sách. - Kiểm tra chứng từ gốc của các nghiệp vụ ghi chép trên một số sổ chi tiết, mục đích là xem việc thực hiện các thủ tục kiểm soát có đầy đủ và hữu hiệu hay không? Kiểm toán viên sẽ lựa chọn một số sổ chi tiết người bán rồi truy hồi về nhật ký và xem xét toàn bộ chứng từ gốc (đơn đặt hang, phiếu nhập kho, chứng từ thanh toán…) của các nghiệp vụ đã ghi trên các sổ chi tiết này. Thử nghiệm này cũng có thể thực hiện theo một chiều hướng khác, đó là lựa chọn một số nghiệp vụ trên nhật ký và theo dõi việc ghi chép chúng trên các sổ chi tiết. Cách này sẽ cho phép kiểm toán viên kiểm tra tính đầy đủ của việc ghi chép từ nhật ký lên các sổ chi tiết. - Chọn mẫu để so sánh giữa khoản chi đã ghi trong nhật ký chi tiền với tài khoản phải trả và với các chứng từ có liên quan. Thử nghiệm được thực hiện bằng cách chọn ra một số khoản chi trên nhật ký và đối chiếu ngược trở về với các chứng từ gốc như đơn đặt hàng, báo cáo nhận hàng, hoá đơn và các séc chi trả. Trong khi xem xét những tài liệu này, kiểm toán viên sẽ có cơ hội để kiểm tra các thủ tục kiểm soát về chi tiền. Tương tự, kiểm toán viên sẽ đặc biệt lưu ý đến sự xét duyệt trên các tài liệu và xác định xem các tài liệu trên có phù hợp với nhau hay không? 1.2- Đối với nợ phải trả công nhân viên Nhìn chung, những bằng chứng được chuẩn bị bởi đơn vị khách hàng là bằng chứng kiểm toán có tính thuyết phục nhất mà có sẵn cho việc kiểm tra các khoản phải trả công nhân viên. Cho nên, thường thì kiểm toán viên chủ yếu dựa vào các thử nghiệm kiểm soát hơn là dựa vào các thử nghiệm cơ bản. a) Khảo sát tổng quan về tiền lương và nhân viên: Bảng tính lương của đơn vị được kiểm toán chính là cơ sở để thanh toán tiền lương, ghi chép vào sổ sách kế toán và phân bổ chi phí tiền lương do đó nó thường là xuất phát điểm trong các cuộc khảo sát của kiểm toán viên về tiền lương và nhân viên. Đầu tiên kiểm toán viên chọn ra bảng tính lương của một kỳ nào đó hoặc một số kỳ, sau đó kiểm toán viên kiểm tra lại độ chính xác số học của việc tính toán. Tiếp theo, kiểm toán viên chọn ra một bảng tổng hợp thanh toán tiền lương có lien quan và một bản tổng hợp phân bổ chi phí nhân công rồi đem so sánh với con số trên bảng tính lương. Đồng thời, con số tổng hợp này cũng được đối chiếu với sổ nhật ký tiền lương và sổ cái. Tính chính xác của tiền lương và việc phân bổ vào các tài khoản hợp lý là mối quan tâm chủ yếu của kiểm toán viên bởi sự ảnh hưởng đáng kể của tiền lương tới rất nhiều khoản mục, tài khoản trên Báo cáo tài chính. Bước tiếp theo là kiểm toán viên chọn ra một mẫu ngẫu nhiên gồm một vài nhân viên từ bảng tính lương và lấy ra các hồ sơ nhân sự của mỗi nhân viên đã được lựa chọn. Sau đó, kiểm toán viên kiểm tra sự hoàn hảo của các hồ sơ và rà soát lại các báo cáo hoạt động nhân sự về sự phê duyệt xem có hợp lý không? Đồng thời, kiểm toán viên so sánh các mức lương, bậc lương và các khoản khấu trừ trên các sổ nhân sự với các thông tin như vậy trên bảng tính lương để xác định xem chúng có khớp nhau hay không? Hơn nữa, kiểm toán viên cũng cần đối chiếu tiền lương của các nhân viên đã được lựa chọn trên bảng tính lương kỳ trước so với kỳ này và kiểm tra các báo cáo hoạt động nhân sự về việc tuyển mới hoặc mãn hạn hợp đồng. b) Khảo sát tiền lương khống: Lương khống có thể biểu hiện dưới hình thái số nhân viên khống hoặc số giờ lao động, số lượng sản phẩm hoàn thành khống. Số nhân viên khống là việc tiếp tục viết phiếu chi hoặc séc chi lương cho nhân viên đã thôi việc hoặc đã mãn hạn hợp đồng hay không có thực. Công việc này thường được tiến hành bởi một nhân viên phụ trách tiền lương, quản đốc hoặc đốc công. Trong trường hợp người theo dõi thời gian lao động lại vừa là người phụ trách phát phiếu chi hoặc séc chi lương cho nhân viên thì khả năng xảy ra gian lận rất cao. Để kiểm soát hiện tượng này thì kiểm toán viên có thể so sánh tên trên các phiếu chi hoặc séc chi lương đã thanh toán với các bảng chấm công và các giấy tờ khác liên quan về chữ ký phê chuẩn và tính hợp lý của các chữ ký tắt ở mặt sau. Nếu phát hiện ra sự khác biệt thì đó chính là dấu hiệu cần được điều tra. Kiểm toán viên có thể chọn ra một số hồ sơ nhân viên từ sổ nhân sự nhằm tìm các nhân viên đã thôi việc hoặc đã mãn hạn hợp đồng trong năm hiện hành để xác định xem các khoản thanh toán có phù hợp với chính sách của công ty hay khồng? Kiểm tra việc thanh toán lương cho nhân viên để bảo đảm việc chấm dứt thanh toán cho những nhân viên đã kết thúc hợp đồng. Một nhược điểm của thủ tục này là nếu phòng nhân sự không được báo cáo về việc mãn hạn hợp đồng thì thủ tục này sẽ không còn hiệu lực. Một biện pháp khác mà kiểm toán viên cũng có thể tiến hành nhằm kiểm soát số nhân viên khống bằng cách yêu cầu trả lương đột xuất. Đây là hình thức rất tốn kém thời gian và công sức cho cả đơn vị được kiểm toán và công ty kiểm toán. Theo cách này, mọi nhân viên đều phải trực tiếp ký vào phiếu chi hoặc séc chi của mình và được giám sát bởi kiểm toán viên và một nhân viên kiểm soát của đơn vị được kiểm toán. Kiểm toán viên phải then trọng trong việc quan sát để bảo đảm mỗi nhân viên chỉ được nhận một phiếu chi hoặc séc chi. Có nhiều nhân viên có thể có mặt hai lần do đó kiểm toán viên cần phải xác định rõ từng người bằng việc yêu cầu xuất trình chứng minh thư. Tất cả các phiếu chi thừa ra sẽ là đối tượng cần điều tra để phát hiện ra nhân viên khống. Ngoài nhược điểm là tốn kém thời gian và công sức thì thủ tục này còn dễ gây ra mâu thuẫn giữa đôi bên vì thế thủ tục này hiếm khi được sử dụng. Số giờ, khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành khống là hình thức khai tăng số giờ làm việc hoặc khai man số sản phẩm hoàn thành. Việc này dễ bị xảy ra trong những trường hợp việc theo dõi thời gian, giám sát và quản lý không chặt chẽ hoặc do sự móc nối giữa người giám sát với các nhân viên của họ. Hình thức gian lận này rất khó phát hiện vì thiếu bằng chứng thực tế. Tuy nhiên, hiện tượng này dễ dàng bị ngăn chặn nếu đơn vị được kiểm toán thiết kế các thủ tục kiểm soát chặt chẽ và thích hợp. Để khảo sát hình thức gian lận này kiểm toán viên có thể cân đối tổng số giờ công, ngày công hoặc khối lượng công việc, sản phẩm được thanh toán theo số lương với số liệu ghi chép độc lập và được kiểm tra thường xuyên của kiểm soát nội bộ tại từng bộ phận hoạt động. Kiểm toán viên có thể tiếp cận với quản đốc nhằm theo dõi việc chấm công của quản đốc và phỏng vấn nhân viên về việc kiểm soát giờ giấc của quản đốc. Khi tiếp cận để giám sát trực tiếp thì kiểm toán viên phải thận trọng không được để lộ ra vì nếu biết trước kiểm toán viên đến kiểm tra thì họ sẽ bố trí, chuẩn bị trước thì sẽ rất khó phát hiện ra các hiện tượng gian lận hoặc các hiện tượng không bình thường. c) Khảo sát việc phân bổ chi phí tiền lương vào các đối tượng sử dụng lao động: Khảo sát quá trình kiểm soát nội bộ về việc phân loại, phân bổ chi phí tiền lương vào đối tượng sử dụng lao động đóng vai trò quan trọng. Trong việc khảo sát, kiểm toán viên cần chú ý tới tính nhất quán trong hạch toán chi phí ciữa các kỳ kế toán đối với việc phân loại các bộ phận chịu phí. Hơn nữa, kiểm toán viên cũng phải kiểm tra sơ đồ hạch toán tiền lương xem có đúng theo quy định hiện hành và chính sách đã đề ra của công ty hay không? Kiểm toán viên cũng có thể đối chiếu khối lượng công việc hoàn thành của một vài công nhân viên xem có phù hợp với việc hạch toán vào các tài khoản liên quan không? Khảo sát các khoản trích trên lương: Các khoản trích theo tiền lương bao gồm quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn. Như vậy, tiền lương là căn cứ để tính ra các khoản trích trên lương theo tỷ lệ quy định. Theo chế độ kế toán hiện hành, quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành băng cách tính theo tỷ lệ 20% trên tổng quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp thường xuyên của người lao động thực tế trong kỳ hạch toán. Quỹ bảo hiểm y tế được hình thành bằng cách trích 3% trên số thu nhập tạm tính của người lao động. Kinh phí công đoàn được trích theo tỷ lệ 2% trên tổng số tiền lương phải trả cho người lao động. Đối với các khoản trích theo tiền lương này thì kiểm toán viên cần phải xác định tính chính xác của quỹ lương để làm cơ sở tính toán chính xác cho các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn. Đồng thời kiểm toán viên phải so sánh chi tiết thông tin trên bảng kê khai các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn phải nộp với các thông tin trên sổ lương để đánh giá tính hợp lý của các khoản phải nộp. Kiểm toán viên cũng có thể so sánh các khoản đã thanh toán với các bảng kê khai các khoản phải nộp để xác định doanh nghiệp có kê khai đúng hay không cũng như xem xét thủ tục quyết toán các khoản đó giữa doanh nghiệp với các tổ chức bên ngoài có đúng không? 1.3- Đối với các khoản vay Riêng đối với các khoản vay, đặc biệt là các khoản nợ vay dài hạn, vì số tiền lớn và nghiệp vụ không nhiều nên việc thực hiện các thử nghiệm kiểm soát thường được kết hợp trong các thử nghiệm cơ bản. Sau khi đã thực hiện các thử nghiệm kiểm soát nêu trên, kiểm toán viên sẽ đánh giá lại rủi ro kiểm soát. Nếu kiểm toán viên đánh giá rủi ro kiểm soát là thấp thì các thử nghiệm cơ bản có thể chỉ hạn chế ở mức đối chiếu và so sánh số dư với thư xác nhận của khách hàng. Ngược lại, nếu kết quả của cuộc thử nghiệm kiểm soát chỉ ra rằng rủi ro kiểm soát vượt quá mức tối đa cho phép thì kiểm toán viên sẽ phải mở rộng các thử nghiệm cơ bản. Tương tự, nếu có sự thay đổi đáng kể trong các thủ tục kiểm soát hoặc trong việc ứng dụng các phương pháp hạch toán mới của đơn vị thì kiểm toán viên phải bổ sung thêm các thử nghiệm kiểm soát để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ hoặc là đánh giá rủi ro kiểm soát quá cao và không cần xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ mà thực hiện thẳng các thu tục thử nghiệm cơ bản cần thiết. 2- Thực hiện các thử nghiệm cơ bản 2.1- Các thử nghiệm cơ bản đối với nợ phải trả người bán a) Yêu cầu đơn vị cung cấp bảng số dư chi tiết nợ phải trả để đối chiếu với sổ các và sổ chi tiết. Mục đích của thử nghiệm này là để chứng minh số liệu nợ phải trả trên Báo cáo tài chính là thống nhất với tất cả các khoản phải trả của từng đối tượng trong các sổ chi tiết. Ngoài ra, qua bảng số dư chi tiết, kiểm toán viên cũng tiến hành việc chọn mẫu để thực hiện cho các thử nghiệm khác. Cụ thể là kiểm toán viên yêu cầu đơn vị cung cấp bảng số dư chi tiết nợ phải trả vào thời điểm khoá sổ, sau đó kiểm tra tổng cộng và đối chiếu với sổ cái và các sổ chi tiết. Nếu số liệu trên bảng không thống nhất với sổ cái hoặc các sổ chi tiết thì cần phải tìm hiểu nguyên nhân, có thể trao đổi với nhân viên của đơn vị để tìm kiếm sai sót và có sự điều chỉnh thích hợp. Cần lưu ý rằng sự thống nhất giữa số liệu của bảng này với sổ sách chưa phải là bằng chứng đầy đủ về toàn bộ khoản phải trả. Thí dụ như các hoá đơn vào thời điểm cuối năm vẫn có thể không được ghi chép cả trên sổ chi tiết lẫn sổ cái. b) Gửi thư xác nhận một số khoản phải trả: Việc xin xác nhận thường được thực hiện đối với các nhà cung cấp chủ yếu của đơn vị mặc dù số dư cuối kỳ có thể rất thấp. Ngay cả khi số dư cuối kỳ không có thì cũng cần phải xin xác nhận nếu họ thuộc về nhóm những nhà cung cấp chủ yếu. Để nhận diện các đối tượng này, kiểm toán viên có thẻ xem trên sổ chi tiết hoặc phỏng vấn nhân viên của đơn vị. Một số đối tượng khác cũng cần xác nhận là các nhà cung cấp không cung cấp bảng kê hoá đơn hàng tháng, các khoản phải trả có tính chất bất thường, các khoản phải trả liên quan đến các bên hữu quan, các khoản phải trả được thế chấp bằng tài sản… Thủ tục này trong các khoản phải trả không mang tính chất bắt buộc như đối với nợ phải thu, xuất phát từ những lý do sau: - Vấn đề đáng quan tâm nhất khi kiểm tra khoản phải trả là phát hiện các khoản không được ghi chép. Thế nhưng thủ tục xác nhận không chứng minh được rằng mọi khoản phải trả đều đựpc ghi chép. Ngoại trừ việc gửi thư xác nhận về các khoản phải trả không có số dư cuối kỳ vì đây là thủ tục để phát hiện các khoản không được ghi chép. - Ngoài thư xác nhận, kiểm toán viên còn có những bằng chứng khác có độ tin cậy cao đối với nợ phải trả vì kiểm toán viên có những bằng chứng do bên ngoài lập nên như hoá đơn của người bán, bảng kê các hoá đơn hàng thàng của người bán… Trong khi đối với kiểm toán nợ phải thu kiểm toán viên lại không có các bằng chứng này. - Nhiều khoản phải trả nằm trong số dư cuối năm có thể đã được đơn vị thanh toán vào đầu năm sau, nghĩa là trước khi kiểm toán viên hoàn thành cuộc kiểm toán. Đây cũng là một bằng chứng có giá trị về các khoản phải trả đã được ghi chép. c) Chọn mẫu để kiểm tra chứng từ gốc và các tài liệu liên quan: Đây là thủ tục nhằm kiểm tra sự có thực của các khoản phải trả. Kiểm toán viên chọn lựa một số khoản phải trả trên số dư chi tiết cuối năm để kiểm tra chứng từ gốc và các tài liệu có liên quan như là thương phiếu, hóa đơn, đơn đặt hàng, phiếu nhập… Đối với các đơn vị sử dụng hệ thống thương phiếu, việc kiểm tra khá thuận tiện vì các số dư chi tiết nợ phải trả thể hiện sẵn trong các hồ sơ thương phiếu chưa thanh toán. Khi được thanh toán, người ta sẽ chuyển các thương phiếu này sang hồ sơ đã thanh toán. Công việc này tiến hành hàng ngày nên đơn vị cần lưu lại bảng kê thương phiếu chưa thanh toán vào thời điểm khoá sổ. Bảng kê này bao gồm tên người bán, số thương phiếu, ngày và số tiền phải trả. Ở Việt Nam, hầu hết các doanh nghiệp chưa sử dụng hệ thống thương phiếu này. Tuy nhiên, em cũng xin đưa thử nghiệm cơ bản này vào phần cơ sở lý luận chung. d) Kiểm tra bảng tổng hợp và điều chỉnh nợ phải trả với bảng kê hoá đơn hàng tháng của người bán: Căn cứ bảng kê cuả người bán đã gửi cho đơn vị trong tháng, nhân viên đơn vị sẽ đối các chiếu số liệu này với số dư trên sổ chi tiết để lập một bảng tông hợp và điều chỉnh, đồng thời thuyết minh sự khác biệt số liệu giữa hai bên. Sự khác biệt này có thể do nhầm lẫn, sai sót trong ghi chép của một bên nhưng cũng có thể do khác biệt về thời điểm khoá sổ. Trong trường hợp đơn vị có tiến hành tổng hợp và điều chỉnh, kiểm toán viên chỉ cần kiểm tra lại các bước này xem có được thực hiện tốt hay không? Nếu đơn vị không tiến hành tổng hợp và điều chỉnh, kiểm toán viên có thể tự thực hiện chúng. Khi kiểm soát nội bộ đối với nợ phải trả là yếu kém, kiểm toán viên cần kiểm tra thư gửi đến để xem đã nhận được mọi bảng kê của người bán hay chưa? Một trong những khác biệt về số liệu giữa đơn vị và người bán có thể sẽ được phát hiện thông qua bảng tổng hợp và điều chỉnh, đó là các khoản người bán tính trong những lô hàng đã gửi đi nhưng đơn vị vẫn chưa nhận được hoặc chưa ghi chép. Mặc dù về lý thuyết thì tất cả các hàng hoá đã được chuyển giao thì phải ghi vào hàng tồn kho của người mua nhưng thông thường thì đơn vị mua lại không ghi chép các khoản này cho đến khi họ nhận được hàng. Vì vậy, cần lập danh sách các khoản hàng đang đi đường và căn cứ mức trọng yếu để điều chỉnh cho thích hợp. Một mục đích khác của thủ tục này là bảo đảm sự phân kỳ chính xác của số dư nợ phải trả. Sự phân kỳ của nợ phải trả có mối quan hệ chặt chẽ với sự khoá sổ của hóa đơn mua hàng để xác định số dư hàng tồn kho. Khi quan sát kiểm kê hàng tồn kho vào thời điểm khoá sổ, kiểm toán viên nên ghi chép lại số liệu của các phiếu nhập cuối cùng, chúng sẽ được đối chiếu tương ứng với các hoá đơn của người bán theo bảng kê các khoản phải trả vào thời điểm khoá sổ: - Các hoá đơn tương ứng với các phiếu nhập cuối cùng sẽ phải ghi nhận trong khoản nợ phải trả cuối kỳ. - Ngược lại, các hóa đơn tương ứng với các phiếu nhập sau phiếu nhập cuối cùng sẽ không được tính vào khoản nợ phải trả cuối kỳ. Nói cách khác, việc khóa sổ cuối năm phải đảm bảo rằng các lô hàng đã nhận vào ngày cuối niên độ sẽ được ghi chép vào nợ phải trả và được ghi nhận vào biên bản kiểm kê tồn kho. Nếu một lô hàng được nhận vào ngày khóa sổ nhưng lại sau khi đã hoàn thành việc kiểm kê thì lợi nhuận sẽ không bị ảnh hưởng do hàng hóa không được kiểm kê và công nợ sẽ không được ghi chép. Đây cũng là một loại sai sót có thể xảy ra nhưng nó không trọng yếu so với trường hợp hàng hóa được kiểm kê nhưng công nợ lại không được ghi chép. e) Thực hiện các thủ tục phân tích: Để đảm bảo tính hợp lý chung của nợ phải trả, kiểm toán viên có thể tính một số chỉ tiêu dưới đây và so sánh với năm trước để nhận dạng các biến động bất thường và tìm hiểu nguyên nhân: Tỷ lệ nợ phải trả Nợ phải trả cuối kỳ trên tổng số hàng = mua trong kỳ Tổng giá trị hàng mua trong kỳ Tỷ lệ nợ phải trả Nợ phải trả cuối kỳ trên tổng nợ = ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn Tỷ lệ nợ Nợ phải trả quá hạn cuối kỳ phải trả = quá hạn Tổng nợ phải trả cuối kỳ Một thủ tục phân tích khác là kiểm toán viên nghiên cứu số liệu chi tiết nợ phải trả theo từng người bán để phát hiện những điểm bất thường. Chẳng hạn so sánh số liệu của từng người bán với số liệu của chính họ trong các năm trước như so sánh số liệu mua vào, số dư cuối kỳ… Kiểm toán viên cũng cần xem xét sự hợp lý của các khoản chiết khấu mua hàng bằng cách tính tỷ lệ chiết khấu bình quân trên tổng giá trị hàng mua và so sánh với các kỳ trước. Một sự sút giảm đáng kể của tỷ lệ này cần được xem xét vì đó có thể là do sự thay đổi kết cấu hàng mua nhưng cũng có thể là một sai phạm trong ghi chép chiết khấu mua hàng. f) Tìm kiếm các khoản nợ phải trả không được ghi chép: Đây là một nội dung quan trọng trong chương trình kiểm toán nợ phải trả. Ngoài các thủ tục đã tìm hiểu trong các thử nghiệm trên còn có thêm những thủ tục kiểm tra sau: - Kiểm tra các nghiệp vụ sau thời điểm khoá sổ: thông qua việc xem xét các khoản chi quỹ vào đầu niên độ sau, kiểm toán viên có thể phát hiện các khoản chi quỹ cho các chi phí của niên độ này như các khoản tiền điện, tiền thuê nhà…của tháng cuối niên độ kế toán. Để đảm bảo tính đúng kỳ thì các khoản chi phí này phải được đơn vị tính chi phí của niên độ này đồng thời sẽ phát sinh các khoản phải trả cuối kỳ nhưng họ lại không ghi chép bút toán đúng kỳ mà lại ghi vào đầu năm sau khi thực chi. Như vậy là nợ phải trả cuối kỳ và chi phí của niên độ này bị ghi thiếu một khoản, đồng thời số liệu của niên độ sau cũng bị ảnh hưởng tương ứng. - Xem xét các tài liệu có khả năng ẩn giấu các khoản nợ phải trả không được ghi chép: * Các trường hợp hàng về nhưng hoá đơn chưa về hay hoá đơn đã về nhưng hàng chưa nhận được, kiểm toán viên cần xem xét các hồ sơ dở dang trong hệ thống thương phiếu của đơn vị. * Các thương phiếu được phát hành vào sau thời điểm khoá sổ, kiểm toán viên cần xem xét cẩn thận để phát hiện những khoản thực tế phát sinh trước thời điểm khoá sổ. * Các hoá đơn của người bán nhận được sau ngày kết thúc niên độ, do người bán có thể gửi hóa đơn chậm vài ngày sau khi gửi hàng đi nên có thể những hóa đơn này thực sự thuộc nên độ kiểm toán và chúng phải được ghi vào nợ phải trả cuối năm. Một vấn đề khác mà kiểm toán viên cũng cần lưu ý đó là có hai trường hợp ghi thiếu nợ phải trả. Thứ nhất, ghi thiếu nợ phải trả đồng thời phản ánh thiếu một tài sản. Thứ hai, ghi thiếu một khoản phải trả đồng thời phản ánh thiếu một chi phí. Với hai trường hợp này thì trường hợp thứ hai sẽ gây ảnh hưởng trọng yếu hơn trường hợp thứ nhất vì nó làm lợi nhuận biến đổi. Thông thường đối với trường hợp thứ nhất, kiểm toán viên chỉ điều chỉnh khi nó gây ảnh hưởng lớn đến Báo cáo tài chính. Tuy nhiên một sai sót có thể không ảnh hưởng đáng kể nhưng khi kết hợp với những sai sót cùng loại thì lại có thể gây ảnh hưởng trọng yếu. Cuối cùng, kiểm toán viên cần xem xét việc trình bày và khai báo các khoản phải trả trên Báo cáo tài chính. Thông thường bao gồm những vấn đề sau: - Xem xét các trường hợp phát sinh số dư bên nợ trên các tài khoản phải trả như ứng trước tiền cho người bán, trả lại hàng cho người bán sau khi đã thanh toán tiền…Những trường hợp này phải được trình bày trong khoản mục nợ phải thu của Bảng cân đối kế toán để đảm bảo trình bày đúng về tình hình tài chính của đơn vị. Nếu đơn vị không thực hiên điều này và số tiền là trọng yếu thì kiểm toán viên phải lập bút toán điều chỉnh để sắp xếp lại khoản mục - Các khoản nợ phải trả trọng yếu liên quan đến các bên hữu quan cần được khai báo trên Báo cáo tài chính. - Các khoản phải trả được bảo đảm bằng việc thế chấp tài sản thì phải khai báo và tham chiếu với tài sản bị thế chấp. Tuy nhiên, hai vấn đề sau là căn cứ theo thông lệ quốc tế còn chế độ kế toán Việt Nam thì chưa có yêu cầu này. 2.2- Các thử nghiệm cơ bản đối với nợ phải trả công nhân viên Mục tiêu của các thử nghiệm cơ bản về nợ phải trả công nhân viên là nhằm kiểm tra xem các khoản tính dồn về tiền lương có được đánh giá đúng hay không đồng thời cũng xác định xem các nghiệp vụ có được thanh toán và ghi sổ đúng kỳ hạn không? Đối tượng chủ yếu được kiểm toán viên sử dụng để thực hiện các thử nghiệm cơ bản là các số dư tài khoản của tài khoản tiền lương, thưởng và các khoản phải trả cho công nhân viên (TK 334); tài khoản phải trả phải nộp khác liên quan tới các khoản chi phí trích trên tiền lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn (TK 338). a) Đối với tài khoản 334: việc thử nghiệm được tiến hành thông qua số dư tiền lương, thưởng và các khoản thanh toán khác phải trả cho công nhân viên. - Về số dư tiền lương tính dồn thực chất là các khoản lương phát sinh khi người lao động không nhận lương vào những ngày làm việc cuối kỳ mà để lại thanh toán vào kỳ sau. Thời hạn tính và trả lương phụ thuộc vào chính sách của từng đơn vị song về nguyên tắc thì các đơn vị phải thực hiện chính sách đó một cách nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác, từ niên độ này sang niên độ khác. Nếu có thay đổi thì phải giải trình trong Thuyết minh báo cáo tài chính. Khi tiến hành thử nghiệm trực tiếp số dư tiền lương, kiểm toán viên cần nắm chắc về các chính sách, chế độ thanh toán tiền lương của đơn vị và đánh giá xem nó có được tuân thủ một cách nhất quán không? Một khi kiểm toán viên đã xác định chính sách của đơn vị đối với tiền lương là nhất quán giữa các kỳ kế toán thì thủ tục kiểm toán thích hợp được áp dụng tiếp sẽ là xem xét thời hạn tính và độ tin cậy của số dư trên tài khoản 334. Sai sót có thể xảy ra ở đây là trường hợp kế toán tiền lương không tính đúng, tính đủ thời gian và lượng công việc, sản phẩm hoàn thành của người lao động và do đó người lao động chưa được trả lương và các khoản phải trả khác tương xứng với thời gian và lượng công việc sản phẩm mà họ hoàn thành. - Về các khoản tiền thưởng tính dồn, tại một số đơn vị, số tiền thưởng cho người lao động chưa được trả vào cuối niên độ là một khoản mục lớn, nếu không ghi chép kịp thời và chính xác sẽ dẫn tới những sai sót trọng yếu trên Bảng cân đối kế toán. Để kiểm tra những khoản tiền thưởng tính dồn này, kiểm toán viên cần xem xét tính kịp thời và tính chính xác trong việc ghi sổ các khoản đó thông qua việc đối chiếu với quyết định hoặc biên bản của Ban quản lý về sự phê duyệt các khoản tiền lương đối với người lao động. - Các khoản phải trả khác cho công nhân viên bao gồm các khoản được chia từ phúc lợi, tiền nghỉ ốm đau, thai sản, bảo hiểm mà người lao động được hưởng. Đối với những khoản này, kiểm toán viên cần xem xét tính nhất quán trong cách tính dồn giữa các kỳ kế toán. Sau đó, kiểm toán viên kiểm tra độ tin cậy của số liệu bằng cách tính toán lại chi tiết các khoản tiền liên quan đã được ghi sổ và cộng dồn đồng thời xem xét các chứng từ tài liệu đính kèm. b) Đối với tài khoản 338: Tài khoản này có liên quan tới các khoản trích nộp trên tiền lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn thì kiểm toán viên có thể khảo sát bằng cách so sánh số dư trên các tài khoản chi tiết với số liệu trên bảng tính, trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế , kinh phi công đoàn và với số liệu trên bảng kê khai các khoản phải nộp và đối chiếu với các khoản chi bằng tiền đã phát sinh trên các chứng từ chi tiền mặt. Ngoài ra, kiểm toán viên cần kiểm tra thời hạn tính và trích các khoản trên tiền lương và thời hạn thanh quyết toán các khoản đó. Cuối cùng, kiểm toán viên cần xem xét việc trình bày và khai báo các khoản phải trả công nhân viên trên Báo cáo tài chính có hợp lý và phù hợp với chế độ kế toán hiện hành hay không? c) Đối với tài khoản khác có liên quan: Các tài khoản khác có liên quan như “Chi phí nhân công trực tiếp-622”, “Chi phí quản lý sản xuất chung-627”, “Chi phí bán hàng-641” và “Chi phí quản lý doanh nghiệp-642” thì kiểm toán viên thường chỉ tiến hành bổ sung các thủ tục thử nghiệm cơ bản khi phát hiện các nhược điểm trong cơ cấu kiểm soát nội bộ của đơn vị kiểm tra liên quan tới việc hạch toán và ghi sổ các tài khoản này; các sai sót đáng kể bị phát hiện ở khảo sát các tài khoản “Phải trả công nhân viên”, “Các khoản phải trả, phải nộp khác”; và những biến động lớn không giải thích được phát hiện qua các thủ tục phân tích. Khi khảo sát các tài khoản đó, kiểm toán viên cần so sánh giữa các kỳ kế toán hoặc dùng các thủ tục phân tích để phát hiện những biến động lớn về chi phí lao động được phản ánh trên các tài khoản trên. Trọng tâm của việc thử nghiệm thường được hướng tới tính chính xác trong việc phân bổ chi phí tiền lương vào các đối tượng chịu phí hoặc hướng vào các khoản chi trả về tiền lương, tiền làm thêm giờ, tăng ca, bồi dưỡng cho công nhân sản xuất, cho nhân viên bán hàng hoặc cho nhân viên quản lý. Vì vậy, kiểm toán viên cần phải kiểm tra tổng số tiền làm thêm ca, thêm giờ có phù hợp với thực tế hay không qua việc kiểm tra các bảng kê có xác nhận của những người có trách nhiệm trên bảng kê đó. 2.3- Các thử nghiệm cơ bản đối với các khoản vay a) Yêu cầu đơn vị cung cấp số dư chi tiết các khoản vay, đối chiếu với sổ chi tiết, kiểm tra tổng số và đối chiếu với sổ cái. Thử nghiệm này cũng tương tự như đối với nợ phải trả người bán. b) Gửi thư xác nhận đến các chủ nợ: - Đối với các khoản vay Ngân hàng: công việc xác nhận này được tiến hành đồng thời với việc xin xác nhận về tiền gửi ngân hàng. Tất cả các Ngân hàng mà đơn vị có giao dịch trong kỳ đều phải gửi xác nhận, trong thư xác nhận bao gồm các đề nghị xác nhận tiền gửi ngân hàng, các khoản vay và các giao dịch khác như bảo lãnh, thế chấp… - Đối với các chủ nợ khác: kiểm toán viên đề nghị xác nhận về ngày vay, số dư hiện tại, lãi suất, ngày trả lãi… - Đối với các món nợ có thế chấp: kiểm toán viên đề nghị chủ nợ xác nhận sau đó đối chiếu với sổ sách của đơn vị. Có thể đề nghị chủ nợ cho biết ý kiến về sự tuân thủ của đơn vị đối với hợp đồng thế chấp. - Đối với các trái phiếu do đơn vị phát hành: kiểm toán viên đề nghị người uỷ thác độc lập xác nhận về các thông tin liên quan đến trái phiếu, ngày đáo hạn, lãi suất, trái phiếu đang lưu hành tại thời điểm khoá sổ… c) Kiểm tra chứng từ các nghiệp vụ vay và thanh toán: Bao gồm việc kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ vay và thanh toán nợ vay thông qua các chứng từ nhận tiền (phiếu thu, giấy báo Có ngân hàng…) và các chứng từ liên quan (phiếu chi, giấy báo Nợ ngân hàng…) và kiểm toán viên đối chiếu với các tài liệu liên quan như hợp đồng, các biên bản đối chiếu nợ hoặc bảng sao kê của Ngân hàng. Căn cứ vào sổ chi tiết thưo dõi nợ vay, kiểm toán viên cần kiểm tra chi tiết theo từng khoản vay. d) Áp dụng các thủ tục phân tích: Để xác định tính hợp lý chung của chi phí lãi vay và số dư nợ vay, các thủ tục phân tích sau đây có thể được áp dụng: - So sánh giữa chi phí lãi vay với số dư nợ vay bình quân và với mức lãi suất bình quân. - So sánh chi phí lãi vay năm nay với các năm trước. - So sánh dư nợ vay cuối năm với đầu năm. Nếu phát hiện được sự khác biệt bất thường thì kiểm toán viên đều phải tìm hiểu và giải thích nguyên nhân. e) Kiểm tra việc tính toán chi phí lãi vay: Bao gồm các thủ tục để kiểm tra sự chính xác và đầy đủ trong việc tính chi phí lãi vay của đơn vị. Kiểm toán viên xem xét việc thanh toán các chi phí này và các chi phí lãi vay cuối kỳ chưa được thanh toán. Trường hợp lãi vay phát sinh từ trái phiếu do đơn vị phát hành và giao cho người uỷ thác thực hiện thì kiểm toán viên chỉ cần xin xác nhận trực tiếp của người được uỷ thác. f) Xem xét việc tuân thủ các cam kết trong hợp đồng tín dụng: Như đã trình bày ở những phần trước, những khoản vay lớn hoặc những trường hợp phát hành trái phiếu, đơn vị thường phải thực hiện một số cam kết để bảo đảm tình hình tài chính như duy trì các khoản để dành định kỳ, duy trì vốn lưu chuyển cao hơn mức tối thiểu, giới hạn việc phân chia cổ tức, không được vay thêm nợ dài hạn… Việc vi phạm các cam kết đó của đơn vị có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Thí dụ các khoản nợ này có thể lập tức trở thành nợ đến hạn và phải trả ngay khi được yêu cầu. Điều này có thể làm cho khái niệm đơn vị đang áp dụng bị vi phạm. Do đó, kiểm toán viên phải tìm hiểu các giới hạn đang có hiệu lực đối với đơn vị, xem xét xem có được tuân thủ hay không và có những hành động thích hợp khi có bằng chứng là bị vi phạm hay không. g) Xem xét tính hợp pháp của việc phát hành trái phiếu: Thông thường việc phát hành trái phiếu phải được sự đồng ý của Hội đồng quản trị và phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Để xem xét việc phát hành trái phiếu có được cho phép một cách đúng đắn hay không, kiểm toán viên cần nghiên cứu biên bản họp Hội đồng quản trị hoặc Đại hội cổ đông, kiểm toán viên cũng cần đối chiếu lại với điều lệ công ty về thẩm quyền phát hành trái phiếu. Cuối cùng, kiểm toán viên cần kiểm tra việc trình bày và khai báo đối với các khoản vay. Thường bao gồm những vấn đề sau: - Việc trình bày nợ vay trên Báo cáo tài chính cần phân biệt giữa nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Do đó, kiểm toán viên cần kiểm tra các khoản nợ dài hạn cuối kỳ, nếu khoản nào đến hạn trong năm sau thì cần trình bày trên phần nợ ngắn hạn. - Các khoản vay liên quan đến các bên hữu quan cần được khai báo trên báo cáo tài chính. - Các khoản vay dựa trên thế chấp cần được khai báo. - Các giới hạn bắt buộc trong hợp đồng vay dài hạn cần khai báo. Ba vấn đề sau là căn cứ theo thông lệ quốc tế, còn chế độ kế toán Việt Nam chưa có những quy định này. IV – KẾT THÚC KIỂM TOÁN VÀ LẬP BÁO CÁO KIỂM TOÁN Kết thúc kiểm toán là giai đoạn cuối cùng của kiểm toán khoản mục nợ phải trả. Đây là giai đoạn kiểm toán viên soát xét các thông tin sau ngày lập Báo cáo tài chính, tập hợp các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được khi thực hiện các thủ tục kiểm toán và đưa ra các ý kiến của kiểm toán viên về kiểm toán khoản mục nợ phải trả và các kiến nghị về công tác kế toán khoản mục nợ phải trả. Ý kiến của kiểm toán viên phải nêu được rằng các mục tiêu kiểm toán khoản mục nợ phải trả có được thoả mãn hay không, nợ phải trả trên Báo cáo tài chính có được trình bày trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Kiểm toán viên cũng nêu ra các giới hạn phạm vi kiểm toán và các yếu tố có tính chất tuỳ thuộc có thể ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán khoản mục và ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán Báo cáo tài chính (khi nợ phải trả là khoản mục trọng yếu). - Các yếu tố giới hạn phạm vi kiểm toán nợ phải trả có thể là do kiểm toán viên không thể thực hiện kiểm tra được các nghiệp vụ phát sinh vào thời điểm kết thúc năm tài chính và cũng không thể nhận định được về tính chính xác của nợ phải trả cuối kỳ nhờ các thủ tục bổ sung. Có trường hợp, giới hạn phạm vi kiểm toán là do khách hàng không thể hoặc cố ý không cung cấp đầy đủ chứng từ, sổ sách và các tài liệu có liên quan đến nợ phải trả. - Các yếu tố tuỳ thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn. Ý kiến tuỳ thuộc của kiểm toán viên thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm toán viên. Việc đưa ra ý kiến tuỳ thuộc cho phép kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc Báo cáo tài chính phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra. Nói chung, mức độ ảnh hưởng của kết quả kiểm toán khoản mục nợ phải trả đến kết quả kiểm toán Báo cáo tài chính là khác nhau ở mỗi cuộc kiểm toán. Nhưng khi nợ phải trả có ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính, thì ý kiến của kiểm toán viên tuỳ thuộc vào kết quả kiểm toán của khoản mục sẽ là ý kiến chấp nhận toàn phần, chấp nhận từng phần, bác bỏ hay ý kiến từ chối đưa ra ý kiến. Bên cạnh việc đưa ra ý kiến về khoản mục nợ phải trả, kiểm toán viên cũng nêu ra những kiến nghị về điều chỉnh số liệu nợ phải trả trên Báo cáo tài chính (nếu có), về công tác tổ chức hạch toán, kiểm soát nộ bộ, quản lý hay kế toán nợ phải trả. Các kiến nghị này có thể là nội dung trong thư quản lý khi kết thúc kiểm toán Báo cáo tài chính của khách hàng. Khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán là công việc lập báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán về thực chất là một bản thông báo về kết quả cuộc kiểm toán cho người sử dụng Báo cáo tài chính. Nội dung trình bày của báo cáo kiểm toán có thể khác nhau nhưng phải chuyển đến cho người đọc bản báo cáo kiểm toán những đánh giá của kiểm toán viên về sự phù hợp của những thông tin định lượng của Báo cáo tài chính cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực hoặc chế độ kế toán hiện hành khi lập Báo cáo tài chính này. Hình thức trình bày báo cáo kiểm toán có thể có nhiều hình thức khác nhau, có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng (trong trường hợp đơn giản, khi kiểm toán cho một cá nhân nào đó và họ không cần có kết quả kiểm toán trình bày dưới dạng văn bản). Theo quy định mang tính phổ biến của Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam hoặc Uỷ ban về chuẩn mực kiểm toán (IAPC) của Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) thì báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính được quy định viết dưới dạng văn bản và phải tuân thủ các quy định cả về mặt nội dung và hình thức. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC NỢ PHẢI TRẢ TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ TƯ VẤN (A&C) I – GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ TƯ VẤN (A&C) 1- Đặc điểm chung của Công ty Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C)-gọi tắt là Công ty-được thành lập từ năm 1992, tiền thân là Chi nhánh của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO). Đến năm 1995, Công ty được tách ra thành Công ty độc lập, Giấy phép đăng ký kinh doanh số 102218 được cấp ngày 13/3/1995 của Uỷ ban Kế hoạch Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty có trụ sở giao dịch chính tại 229 Đồng Khởi, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Công ty còn mở các Chi nhánh, Văn phòng đại diện tại Hà Nội, Nha Trang-Khánh Hoà, Thừa Thiên Huế… nhằm tạo điều kiện tiếp cận và tổ chức phục vụ chu đáo khoảng 500 khách hàng thường xuyên trong và ngoài nước. Công ty là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ tài chính, là một trong những công ty hàng đầu Việt Nam chuyên cung cấp dịch vụ kiểm toán, thực hiện các dịch vụ và tư vấn trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, tài chính kế toán, thuế, đầu tư… Công ty có số lượng khách hàng khá lớn và đa dạng, bao gồm nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau: - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hợp đồng hợp tác kinh doanh hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Văn phòng đại diện doanh nhân nước ngoài tại Việt Nam. - Doanh nghiệp Việt Nam thuộc các lĩnh vực ngành nghề và hình thức sở hữu khác nhau. - Ban quản lý dự án công trình đầu tư xây dựng cơ bản. - Các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế có nhu cầu cung cấp dịch vụ. Quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính của Công ty được xây dựng dựa trên cơ sở tuân thủ những Chuẩn mực, Quy chế kiểm toán độc lập và chế độ kế toán hiện hành của Việt Nam, đồng thời lựa chọn và vận dụng những Chuẩn mực, Thông lệ chung của quốc tế trong lĩnh vực nghề nghiệp, trên cơ sở phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh và quản lý kinh tế ở Việt Nam. Quy trình kiểm toán của Công ty luôn gắn liền với việc hỗ trợ thông tin và tư vấn đã góp phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, hoàn thiện công tác tổ chức kế toán, quản lý tài chính của doanh nghiệp và trong nhiều trường hợp, Công ty đã giúp doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình. Công ty đã cung cấp đến khách hàng những dịch vụ đa dạng sau: - Về kế toán: tư vấn tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán, thực hiện dịch vụ kế toán và cài đặt phần mềm kế toán, tổ chức đào tạo tuyển dụng nhân viên kế toán theo yêu cầu của khách hàng. - Về thuế: tư vấn thuế, thực hiện dịch vụ kê khai thuế, khiếu nại thuế và hoàn thuế. - Dịch vụ pháp lý: soạn thảo hồ sơ và thực hiện đăng ký hội thảo kế toán, thành lập doanh nghiệp, điều chỉnh giấy phép đầu tư, xác định tỷ lệ nội địa hoá. - Tư vấn theo yêu cầu của khách hàng trên các phương diện có liên quan Pháp luật, quản trị doanh nghiệp, đầu tư… Hoạt động tư vấn của Công ty được thực hiện dưới nhiều hình thức như trao đổi trực tiếp với từng khách hàng, tổ chức sinh hoạt nghiệp vụ thường kỳ và tổ chức hội thảo chuyên đề hàng năm với khách hàng. Ngoài ra, Công ty còn có bộ phận thẩm định chuyên thực hiện các dịch vụ: - Kiểm toán xác định giá trị dự toán, giá trị quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm: * Công trình dân dụng (như các khu căn hộ, chung cư, khách sạn, văn phòng). * Công trình giao thông vận tải (như cầu đường, sân bay, bến cảng…). * Công trình ngành điện (thuỷ điện, nhiệt điện). * Công trình thuộc các khu công nghiệp. - Đánh giá giá trị tài sản là nhà cửa, đất đai, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải. Các dịch vụ thực hiện dựa trên cơ sở tuân thủ những quy định hiện hành của Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, vốn đầu tư trong nước, tôn trọng tính hiện hữu, hợp lý và tính thị trường. Các báo cáo được kiểm toán sẽ giúp người sử dụng thông tin hoàn tất thủ tục và các bước phê duyệt quyết toán vốn đầu tư, quyết toán giá trị công trình đầu tư xây dựng cơ bản trước khi công trình được đưa vào sử dụng, đồng thời kết quả các dịch vụ nêu trên sẽ cung cấp những thông tin, tài liệu, số liệu đáng tin cậy trong việc lựa chọn đối tác đầu tư, cùng các mục đích thế chấp, chuyển nhượng, cổ phần hoá, giải thể, phá sản doanh nghiệp theo luật. Trong những trường hợp cần thiết, Công ty có khả năng hợp tác tốt với các tổ chức nghề nghiệp quốc tế hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm đạt được yêu cầu về chất lượng và hiệu quả phục vụ khách hàng. Chính phương thức hoạt động đó đã tăng thêm sự tin cậy và hài lòng của khách hàng đối với các dịch vụ mà Công ty đã cung cấp. Với mục tiêu đào tạo để không ngừng nâng cao chất lượng-hiệu quả phục vụ và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng, Công ty luôn coi trọng việc cập nhật công nghệ thông tin, thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng và hợp tác quốc tế nhằn chuyên nghiệp hoá nghề nghiệp và đội ngũ nhân viên, đảm bảo phát triển vững chắc trong cơ chế thị trường và thích ứng với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Với kinh nghiệm giảng dạy và quản lý đào tạo từ nhiều năm tại trường ĐH Tài chính Kế toán, tất cả các nhân viên trong Ban Giám đốc Công ty có khả năng xây dựng các chương trình huấn luyện và tổ chức thành công các khoá học thuộc các chuyên đề kế toán, kiểm toán, phân tích tài chính, thẩm định dự án đầu tư… phục vụ yêu cầu của khách hàng. Trình độ và năng lực nhân viên là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Công ty. Đội ngũ kiểm toán viên và kỹ sư của Công ty đều có ít nhất một bằng Cử nhân hoặc Thạc sỹ, được đào tạo chính quy tại Việt Nam và nước ngoài theo các chuyên ngành tài chính, kế toán, quản trị, ngân hàng, xây dựng, kiến trúc, giao thông, thuỷ lợi, điện, tin học. Qua 10 năm hoạt động (1992 – 2001) Công ty đã xây dựng được đội ngũ gồm 160 nhân viên, trong đó có 60% (tính trên số nhân viên kiểm toán) có Chứng chỉ kiểm toán viên do Bộ Tài chính Việt Nam cấp, gần 70% nhân viên có từ 2 bằng Cử nhân trở lên (trong đó có 58 người có bằng Cử nhân Luật), 12% nhân viên có bằng Thạc sỹ, bằng ACCA hoặc đang được đào tạo theo chương trình ACCA. Hoạt động kiểm toán là một hoạt động chính của Công ty. Công ty là một trong những công ty kiểm toán Việt Nam xây dựng được một hệ thống quy trình, quy chế mẫu cho tất cả các bộ phận công việc. Quy trình với hoạt động kiểm toán được xây dựng cụ thể từ việc lập kế hoạch kiểm toán, lập chương trình, thực hiện chương trình kiểm toán và kết thúc kiểm toán, phát hành báo cáo kiểm toán và việc kiểm tra chất lượng chất lượng công việc của kiểm toán viên. 2- Tổ chức bộ máy của Công ty (Chi nhánh Hà Nội) Công ty Kiểm toán và Tư vấn (Chi nhánh Hà Nội) chính thức ra đời vào tháng 3 năm 2001 bởi Quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Trước đó, vào năm 1999, Công ty Kiểm toán và Tư vấn (Chi nhánh Hà Nội) là Văn phòng đại diện của Công ty Kiểm toán và Tư vấn tại Hà Nội. 2.1- Quyết định chuyển Văn phòng đại diện thành Chi nhánh Quyết định thành lập số 1144/QĐ-UB ngày 01/03/2001 của UBND thành phố Hà Nội chuyển Văn phòng đại diện Công ty Kiểm toán và Tư vấn thành Chi nhánh tại Hà Nội. Trụ sở giao dịch tại 41B - Lý Thái Tổ - Hoàn Kiếm - Hà Nội. Giấy phép đăng ký kinh doanh số 314288 được cấp ngày 16/03/2001 của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội. UBND thành phố HN Số: 1144/QĐ - UB Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 01/03/2001 Quyết định của UBND thành phố V/v chuyển Văn phòng đại diện thành Chi nhánh tại thành phố HàNội - Căn cứ luật tổ chức HĐND và UBND - Căn cứ quyết định số 2146/QĐ-UB ngày 21/05/1999 của UBND thành phố Hà Nội - Căn cứ công văn số 1354/TC-TCCB của Bộ Tài chính - Xét đề nghị của Trưởng ban tổ chức chính quyền thành phố và đơn xin của Giám đốc Công ty Kiểm toán và Tư vấn QUYẾT ĐỊNH Điều I: Cho phép chuyển Văn phòng đại diện của Công ty Kiểm toán và Tư vấn tại Hà Nội thành Chi nhánh Công ty Kiểm toán và Tư vấn tại Hà Nội. Địa điểm Chi nhánh tại số 41B - Lý Thái Tổ - quận Hoàn Kiếm. Điều II: Chi nhánh Công ty Kiểm toán và Tư vấn phải chấp hành đầy đủ mọi quy định quản lý trên địa bàn thành phố theo quy định hiện hành của pháp luật và của thành phố Hà Nội. Điều III: Chánh văn phòng UBND thành phố, Trưởng ban tổ chức chính quyền thành phố, Thủ trưởng các Sở, Ban, Ngành thành phố có liên quan, Chủ tịch UBND quận Hoàn Kiếm và Giám đốc Công ty Kiểm toán và Tư vấn thi hành quyết định này. 2.2-Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý GIÁM ĐỐC Phó giám đốc Phòng nghiệp vụ I Phòng nghiệp vụ II Phòng nghiệp vụ III Phó giám đốc Công ty Kiểm toán và Tư vấn (Chi nhánh Hà Nội) có tất cả gần 30 nhân viên (trong đó có 6 người có chứng chỉ kiểm toán viên). Để tiến hành được các hoạt động của mình, Chi nhánh đã tổ chức bộ máy quản lý đơn giản phù hợp với mục đích hoạt động và quy mô của mình. Bộ máy quản lý của Chi nhánh gồm: Ban giám đốc, phòng Quản trị tổng hợp và các phòng nghiệp vụ (Kiểm toán và Tư vấn). Cụ thể: - Ban giám đốc: Giám đốc và 2 Phó giám đốc, có sự phân công công việc giữa các thành viên trong Ban giám đốc nhưng do tính chất của Chi nhánh có quy mô nhỏ nên sự phân công, phân nhiệm này cũng chỉ có tính chất tương đối. * Giám đốc – Nguyễn Thị Hồng Thanh – Là người điều hành, chỉ đạo mọi hoạt động của Chi nhánh, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty và Công ty về hoạt động của Chi nhánh. * Phó giám đốc – Hoàng Đình Lợi – Chịu trách nhiệm chính về lĩnh vực kiểm toán Báo cáo tài chính. * Phó giám đốc – Nguyễn Thị Tư – Chịu trách nhiệm chính về các lĩnh vực hành chính, kế toán, quản trị nội bộ, quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản. - Phòng Quản trị tổng hợp thực hiện công tác hành chính, kế toán; - Phòng Kiểm toán và phòng Thẩm định trực tiếp tiến hành các hoạt động theo mục đích hoạt động của Chi nhánh. Chi nhánh hoạt động trong các lĩnh vực chung của Công ty bao gồm các dịch vụ về kiểm toán độc lập, các dịch vụ tư vấn về tài chính, kế toán, thuế. Mang đặc điểm chung của một chi nhánh là quy mô nhỏ, số lượng nhân viên không nhiều nên việc phân công phân nhiệm của các bộ phận trong bộ máy quản lý Chi nhánh mang tính chất tương đối. Chi nhánh có sự đi sâu đi sát chỉ đạo hoạt động của Ban giám đốc với các bộ phận, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ về cả nhân lực và nghiệp vụ giữa các phòng của Chi nhánh. 3- Chương trình kiểm toán của Công ty 3.1- Chương trình kiểm toán phải trả người bán I/ Tài liệu yêu cầu khách hàng cần chuẩn bị - Bảng liệt kê chi tiết các khoản phải trả cuối kỳ bao gồm cả gốc nguyên tệ (nếu có); - Hợp đồng mua bán, thanh lý hợp đồng; - Biên bản đối chiếu công nợ, thư xác nhận (nếu có); - Sổ chi tiết; - Sổ cái. II/ Mục tiêu kiểm toán - Tính hữu hiệu: các khoản phải trả là có thực. - Tính đầy đủ: phản ánh toàn bộ các khoản phải trả. - Tính chính xác: ghi nhận các khoản phải trả một cách chính xác. - Quyền và nghĩa vụ: phản ánh toàn bộ các khoản thuộc nghĩa vụ của đơn vị. - Trình bày và công bố: tài khoản phải trả người bán được trình bày và phân loại đúng, công bố một cách thoả đáng. III/ Thủ tục kiểm toán A. Thủ tục phân tích 1. Tìm hiểu tình hình kinh doanh của khách hàng: - Xem xét số lượng các nhà cung cấp, chú trọng các nhà cung cấp thường xuyên. - Tìm hiểu các đặc điểm liên quan đến việc giao nhận hàng: phương thức thanh toán, địa điểm giao hàng, chính sách chiết khấu. - Tìm hiểu xem có sự tranh chấp nào giữa khách hàng và các nhà cung cấp hay không? 2. Thủ tục phân tích - So sánh số dư tài khoản phải trả năm nay so với năm trước. - So sánh tỷ lệ các khoản phải trả trên tổng công nợ và vốn chủ sở hữu của năm nay so với năm trước. B. Thủ tục kiểm tra chi tiết 1. Đối chiếu số liệu: - Đối chiếu giữa số dư trên báo cáo với sổ cái. - Đối chiếu giữa số dư trên sổ chi tiết với danh sách các khoản phải trả. 2. Kiểm tra danh sách các khoản phải trả: - Kiểm tra cộng dồn. - Lướt qua danh sách chi tiết các khoản phải trả, chú ý vào các khoản bất thường như: số dư nợ quá chẵn, số dư nợ quá lâu, số dư nợ quá lớn, các nhà cung cấp vừa là người mua hàng. - Tìm hiểu xem có khoản nợ phải trả nào chưa được ghi nhận hay không? 3. Kiểm tra chọn mẫu một số nghiệp vụ phát sinh trên sổ cái với chứng từ để đảm bảo việc ghi chép được thực hiện chính xác, đầy đủ. 4. Thực hiện việc gửi thư xác nhận đối với các khoản nợ chưa có biên bản đối chiếu công nợ hoặc thư xác nhận nợ và nếu thấy cần thiết. 5. Thực hiện các bước thử nghiệm thay thế đối với các chi tiết không thể gửi thư xác nhận được hoặc đã gửi thư xác nhận nhưng chưa nhận được thư trả lời - Kiểm tra chứng từ thanh toán đã được ghi nhận trên sổ quỹ, sổ ngân hàng các ngày sau ngày kết thúc niên độ. - Kiểm tra các chứng chứng minh cho các khoản nợ phải trả như: hoá đơn mua hàng, hợp đồng mua bán, phiếu nhập kho… 6. Kiểm tra việc chia cắt niên độ: - Kiểm tra các khoản nhập hàng vào các ngày trước và sau ngày kết thúc niên độ để đảm bảo rằng các khoản nhận hàng này được phản ánh vào tài khoản phải trả một cách đúng đắn. - Kiểm tra các khoản phải trả tiền trên sổ quỹ, sổ ngân hàng để đảm bảo rằng các khoản thanh toán được ghi nhận đúng niên độ. 7. Xem xét các khoản phải trả cuối kỳ có gốc ngoại tệ, kiểm tra việc quy đổi các khoản phải trả có gốc ngoại tệ cuối kỳ theo quy định hiện hành. 8. Kiểm tra việc trình bày và công bố các khoản phải trả trên Báo cáo tài chính. C. Các thủ tục bổ sung (nếu có) IV/ Kết luận và kiến nghị A. Kết luận về mục tiêu kiểm toán B. Kiến nghị C. Các vấn đề cần tiếp tục theo dõi trong những đợt kiểm toán sau 3.2- Chương trình kiểm toán phải trả công nhân viên I/ Tài liệu yêu cầu khách hàng cần chuẩn bị - Sổ cái tài khoản tiền lương phải trả, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế; - Bảng lương, chính sách tăng lương hàng năm, bảng tính bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế; - Biên bản quyết toán bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế (nếu có); - Bảng kê nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thuế thu nhập cá nhân và các chứng từ liên quan. II/ Mục tiêu kiểm toán - Tính đầy đủ: các khoản tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn phải trả cuối mỗi kỳ được hạch toán đầy đủ. Chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã được tính đúng và đủ theo quy định và có đảm bảo phù hợp với các cam kết của doanh nghiệp. - Trình bày và công bố: đảm bảo chỉ tiêu tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được trình bày và công bố phù hợp. III/ Thủ tục kiểm toán A. Thủ tục phân tích 1. Tìm hiểu hệ thống trả lương của đơn vị: cách tính lương, trả lương, ghi nhận về hệ thống kiểm soát (các bộ phận tham gia, chứng từ, việc phê duyệt, kiểm tra, thanh toán…). 2. So sánh biến động của chi phí tiền lương và biến động về cơ cấu tiền lương trên tổng chi phí giữa các tháng trong năm, năm trước với năm nay hoặc số năm nay với số kế hoạch. Xem xét các biến động đó có phù hợp với việc tăng giảm số lượng lao động, chính sách lương của đơn vị, tăng giảm khối lượng sản xuất, doanh thu. 3. Kiểm tra tính hợp lý để đảm bảo rằng quỹ tiền lương được xây dựng đúng theo quy định (áp dụng đối với các đơn vị được khoán quỹ lương). 4. So sánh sự biến động của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế có cùng tốc độ biến động với tiền lương hay không? Ước tính bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định và so sánh với thực tế ghi nhận. B. Thủ tục kiểm tra chi tiết Tuỳ theo kết quả của thủ tục phân tích thì mức độ kiểm tra chi tiết sẽ được thực hiện cho phù hợp (mức độ cao hay thấp) 1. Kiểm tra cách trình bày khoản mục tiền lương phải trả trong Bảng cân đối kế toán, đối chiếu giữa chi tiết và tổng hợp. 2. Đối chiếu số liệu kế toán với bảng lương hoặc sổ lương. Chọn các tháng có biến động lớn để kiểm tra một số tính toán (lương cơ bản, làm thêm giờ, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thuế thu nhập…). 3. Kiểm tra cụ thể cho một vài mẫu (từng cá nhân) để thấy mọi chính sách theo thoả thuận của cá nhân và người lao động trong hợp đồng, thoả ước lao động tập thể đã được thực hiện (lương, thưởng…). 4. Đảm bảo việc trả lương trực tiếp cho người được hưởng bằng cách kiểm tra bảng lương ghi nhận, phiếu lãnh lương. 5. Kiểm tra việc trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo đúng quy định. 6. Kiểm tra việc khấu trừ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thuế thu nhập cá nhân có tuân thủ theo những quy định chung hay không? 7. Đảm bảo lương đã được dự phòng đầy đủ và phù hợp với niên độ. C. Các thủ tục bổ sung (nếu có) IV/ Kết luận và kiến nghị A. Kết luận về mục tiêu kiểm toán B. Kiến nghị C. Các vấn đề cần tiếp tục theo dõi trong những đợt kiểm toán sau 3.3- Chương trình kiểm toán các khoản vay I/ Tài liệu yêu cầu khách hàng cần chuẩn bị - Bảng kê chi tiết số dư cuối kỳ và lãi tính dồn; - Sổ cái; - Sổ chi tiết theo dõi từng khoản vay; - Các biên bản đối chiếu số dư nợ vay với ngân hàng và với đối tượng khác; - Các chứng từ gốc: hợp đồng vay, kế hoạch trả nợ, danh sách tài sản thế chấp, chứng từ ngân hàng… II/ Mục tiêu kiểm toán - Tính đầy đủ, chính xác: các khoản vay được hạch toán một cách chính xác và đầy đủ. - Nghĩa vụ: các khoản vay phải thực sự phát sinh và là nghĩa vụ của đơn vị. - Trình bày và công bố: các khoản vay phải được trình bày và công bố hợp lý. III/ Thủ tục kiểm toán A. Thủ tục phân tích 1. Tìm hiểu và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ đối với các khoản vay: - Quy trình vay vốn của đơn vị - Thẩm quyền xét duyệt các khoản vay - Các phương án kinh doanh của các khoản vay - Cách theo dõi và đối chiếu đối với từng khoản vay 2. Thủ tục kiểm toán chi tiết: a) Tóm tắt các khoản vay phát sinh trong niên độ b) So sánh số dư các khoản vay năm trước với năm nay c) So sánh giữa chi phí lãi vay trên dư nợ bình quân với lãi suất bình quân của ngân hàng d) Giải thích sự thay đổi giữa kỳ này với kỳ trước về: - Tổng số chi phí lãi tiền vay - Tỷ lệ % giữa chi phí lãi vay và tổng số tiền vay Kiểm tra tính hợp lý của tổng chi phí lãi vay bằng cách lấy số vay bình quân nhân với tỷ lệ lãi vay bình quân. e) So sánh lãi suất bình quân kỳ này với kỳ trước và so với lãi suất thị trường. B. Thủ tục kiểm tra chi tiết 1. Đối chiếu số liệu đầu năm nay với số dư năm trước. 2. Đối chiếu số liệu giữa sổ cái và Bảng cân đối kế toán với số liệu chi tiết từng khoản vay. 3. Đọc lướt qua sổ sách để phát hiện các nghiệp vụ bất thường. 4. Thảo luận với khách hàng về các khoản vay đã quá hạn và cách thứch giải quyết của khách hàng. 5. Đối chiếu số liệu giữa sổ sách với biên bản đối chiếu số dư nợ vay. 6. Thực hiện kiểm toán thay thế nếu bước 5 chưa thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ: - Gửi thư xác nhận cho tất cả các khoản vay. - Theo dõi việc trả lời thư xác nhận. - Đối chiếu số liệu thư xác nhận với sổ sách kế toán. - Kiểm tra thanh toán kỳ sau. 7. Kiểm tra chi tiết: Đối chiếu sổ sách, hợp đồng, khế ước, kế hoạch trả nợ, chứng từ gốc khác để: - Kiểm tra thủ tục kiểm soát của khoản vay. - Đảm bảo các khoản vay được ghi nhận đúng. - Đảm bảo khoản thanh toán nợ vay, lãi vay chính xác, đúng hạn phù hợp kế hoạch trả nợ. 8. Kiểm tra thủ tục chia cắt niên độ: - Phần vay nợ; - Phần thanh toán. 9. Kiểm tra việc áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái với việc hạch toán các khoản vay có gốc bằng ngoại tệ (thanh toán trong kỳ và số dư cuối kỳ). 10. Kiểm tra cách thức trình bày và phân loại các khoản vay trên Bảng cân đối kế toán. C. Thủ tục bổ sung 1. Kiểm tra việc tính toán các chi phí tài chính liên quan đến các khoản vay. 2. Đối chiếu với tài khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tài sản cố định, hàng tồn kho… để khẳng định tính có thật của các khoản vay. 3. Xem xét vấn đề bảo lãnh cho các đơn vị khác vay. 4. Các thủ tục khác (nếu có). IV/ Kết luận và kiến nghị A. Kết luận về mục tiêu kiểm toán B. Kiến nghị C. Các vấn đề cần tiếp tục theo dõi trong những đợt kiểm toán sau II – TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC NỢ PHẢI TRẢ CỦA CÔNG TY HAL 1- Vài nét sơ bộ về Công ty HAL Công ty HAL được thành lập theo Quyết định số 1404 QĐ/UB ngày 03 tháng 04 năm 1993 của UBND thành phố Hà Nội và hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 108369 ngày 24/04/1993 của trọng tài kinh tế Hà Nội cấp. Công ty HAL bổ sung ngành nghề kinh doanh theo đăng ký khi thay đổi kinh doanh lần thứ nhất ngày 10/09/1996 do Uỷ ban Kế hoạch thành phố Hà Nội cấp và đăng ký khi thay đổi kinh doanh lần thứ hai ngày 21/06/1999 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp. Công ty HAL tăng vốn kinh doanh theo đăng ký khi thay đổi kinh doanh lần thứ nhất do Uỷ ban Kế hoạch thành phố Hà Nội cấp ngày 10/09/1996. Tổ chức hoạt động của Công ty HAL bao gồm: - Ban Giám đốc: * Giám đốc: Bà Trịnh Minh Châu * Phó giám đốc: Ông Trần Ngọc Hằng * Phó giám đốc: Ông Nguyễn Phương Nam - Kế toán trưởng: Ông Đặng Việt Long Các ngành nghề kinh doanh chủ yếu của Công ty: - Các sản phẩm về điện tử, điện (gia đình và công nghiệp), máy tính, tin học và các sản phẩm khoa học, tiêu dùng khác. - Xây dựng, phát triển, kinh doanh và quản lý công trình hạ tầng thuộc khu công nghiệp Sài Đồng. - Kinh doanh nhà và khách sạn, xây dựng tổ chức các trung tâm thương mại, trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật, trung tâm hướng nghiệp và dạy nghề. - Liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước để tổ chức và phát triển sản xuất kinh doanh. - Được đặt chi nhánh, văn phòng của Công ty ở các tỉnh, thành phố làm đại diện, đại lý tiêu thụ sản phẩm theo quy định hiện hành. - Được xuất khẩu và uỷ thác nhập khẩu cho các đơn vị kinh tế khác trên cơ sở được Bộ Thương mại cho phép. - Kinh doanh kho vận, kinh doanh giao nhận xuất nhập khẩu. - Cung ứng vật tư, nguyên liệu nhập khẩu cho khu công nghiệp. - Tư vấn và dịch vụ đầu tư, xây dựng cho khu công nghiệp. Tổ chức hoạt động kinh doanh của Công ty bao gồm: - Trung tâm điện tử công nghiệp và tự động hoá - Trung tâm công nghệ thông tin - Trung tâm cơ khí điện tử - Trung tâm thương mại - Khối văn phòng Công ty - Xí nghiệp điện tử Thành Công - Ban quản lý dự án khu công nghiệp Sài Đồng B - Ban quản lý dự án xây dựng nhà máy công nghệ cao Ngân hàng giao dịch: - Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội - Ngân hàng Công thương Việt Nam Hình thức sở hữu: là doanh nghiệp Nhà nước. Hình thức sổ kế toán: Nhật ký chứng từ. Phương pháp hạch toán hàng tồn kho: kê khai thường xuyên. Phương pháp tính giá hàng tồn kho: bình quân gia quyền. Chế độ kế toán: Công ty áp dụng hệ thống kế toán doanh nghiệp Việt Nam ban hành theo Quyết định số 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Quyết định số 167/2000/QĐ/BTC ngày 25/10/2000 của Bộ Tài chính. Niên độ kế toán của Công ty bắt đầu từ ngày 01/01 và kết thúc ngày 31/12 hàng năm. Đơn vị tiền tệ: Báo cáo tài chính được lập trên cơ sở giá gốc. Đơn vị tiền tệ được sử dụng để lập báo cáo là VNĐ. Các nghiệp vụ phát sinh bằng ngoại tệ trong năm được chuyển đổi sang VNĐ theo tỷ giá thực tế tại ngày phát sinh. Chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ và chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ được xử lý theo hướng dẫn tại Thông tư số 44TC/TCDN ngày 08/07/1997 và Thông tư số 101/2000/TT-BTC ngày 17/10/2000 của Bộ Tài chính. Tài sản cố định và khấu hao tài sản cố định: Giá trị tài sản cố định xác định bằng nguyên giá trừ hao mòn luỹ kế. Tài sản cố định khấu hao theo phương pháp đường thẳng, tỷ lệ khấu hao được xác định phù hợp với Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ quản lý, sử dung và trích khấu hao tài sản cố định. Tỷ lệ khấu hao cho các nhóm tài sản như sau: Nhóm tài sản Nhà cửa, vật kiến trúc Phương tiện vận tải Thiết bị sản xuất Dụng cụ văn phòng Tài sản cố định vô hình Số năm khấu hao 4 – 43 10 8 – 15 8 5 – 40 2- Thực hiện quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải trả của Công ty HAL Công việc kiểm toán khoản mục nợ phải trả theo quy định của Công ty bao gồm: chuẩn bị kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán. 2.1- Chuẩn bị kiểm toán khoản mục nợ phải trả trên Báo cáo tài chính của Công ty HAL Kiểm toán viên xem xét hồ sơ thường trực kiểm toán Công ty HAL để có hiểu biết các thông tin chung liên quan đến nợ phải trả của khách hàng. Đồng thời, kết hợp với việc phỏng vấn nhân viên kế toán đơn vị khách hàng để xác định những thay đổi về kế toán nợ phải trả (nếu có). Các thông tin kiểm toán viên thu thập trong chuẩn bị kiểm toán giúp cho kiểm toán viên hình thành hướng tiến hành công việc khi thực hiện kiểm toán. Các thông tin liên quan đến khách hàng kiểm toán viên cần thu thập đã được trình bày ở phần trên (Mục II.1). Sau khi kết thúc giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, công việc của kiểm toán viên chuyển sang giai đoạn thực hiện chương trình kiểm toán nợ phải trả. 2.2- Thực hiện kiểm toán khoản mục nợ phải trả trên Báo cáo tài chính của Công ty HAL Mục đích của thực hiện kiểm toán nợ phải trả là thu thập các bằng chứng về nợ phải trả của Công ty HAL: nợ phải trả có hiện hữu, có đầy đủ, có thể hiện nghĩa vụ của đơn vị, có được trình bày và công bố. Các bằng chứng này chính là cơ sở để kiểm toán viên đưa ra các nhận định về tính trung thực, hợp lý của khoản mục nợ phải trả và các khoản mục có liên quan trên Báo cáo tài chính của đơn vị. Để thu thập được các bằng chứng kiểm toán về nợ phải trả của Công ty HAL, kiểm toán viên thực hiện chương trình kiểm toán đã dẫn ở trên. Chương trình này bao gồm: thực hiện các thủ tục phân tích và các thủ tục kiểm tra chi tiết với nợ phải trả. 2.2.1- Đối với nợ phải trả người bán a) Thủ tục phân tích Thủ tục phân tích đối với nợ phải trả người bán của Công ty HAL Năm 2002 Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch Phải trả người bán 6.383.327.496 5.514.409.637 -868.917.859 Phải trả người bán Nợ phải trả 19,57% 12,04% -7,53% Phải trả người bán Tổng nguồn vốn 1,97% 1,6% -0,37% Kiểm toán viên nhận định: nợ phải trả người bán chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số nợ phải trả của đơn vị. Nợ phải trả người bán năm 2002 có giảm so với năm trước nhưng không đáng kể do không có sự biến động lớn về số lượng các nhà cung cấp. Sau khi thực hiện thủ tục phân tích, kiểm toán viên thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết khoản phải trả người bán. b) Thủ tục kiểm tra chi tiết Kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết để thu thập bằng chứng về tính trung thực và hợp lý của khoản mục nợ phải trả trên Báo cáo tài chính. Bằng cách thực hiện các phương pháp kiểm toán để kiểm tra tính chính xác, hợp lý của số dư cuối kỳ tài khoản 331. Các thủ tục kiểm tra chi tiết được thực hiện theo chương trình kiểm toán do Công ty quy định. Kiểm toán viên tập hợp số liệu trên sổ chi tiết thanh toán với người bán, tính toán, cộng dồn và đối chiếu với sổ cái và bảng cân đối kế toán. Qua kiểm tra kiểm toán viên nhận thấy số liệu trên sổ chi tiết khớp đúng với Bảng cân đối kế toán: Trả trước người bán Phải trả người bán 01/01/2002 4.142.151.574 6.330.722.015,5 31/12/2002 547.932.707 5.314.302.517 Tiếp theo, kiểm toán viên tiến hành tổng hợp phát sinh Nợ và Có tài khoản 331 trong năm 2002. Tổng hợp phát sinh Nợ TK 331 TK đối ứng Quý I + II Quý III + IV Tổng 1111 1121 1122 113 141 1388 3111 3112 3411 413 515 336 892.167.192,5 3.710.458.668 415.872.199,5 13.390.302.761,5 228.195.806,5 945.000 8.493.888.481,5 1.138.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1204.doc