Đề tài Quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cho xã Trung Minh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình

Tài liệu Đề tài Quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cho xã Trung Minh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình: Chương 1 đặt vấn đề Trong tiến trình phát triển đi lên của đất nước bước vào thời kỳ CNH- HĐH có sự đóng góp không nhỏ của phát triển kinh tế xã hội các vùng nông thôn đặc biệt là các vùng nông thôn miền núi nước ta hiện nay. Nói đến nông thôn miền núi là nói đến sản xuất lâm nghiệp, sự phát triển kinh tế xã hội nhìn chung là thấp và chậm. hơn các vùng khác. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn miền núi còn thiếu đồng bộ, trình độ kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu, phương thức quản lý lỏng lẻo, công tác quy hoạch sử dụng đất lâm nông nghiệp vẫn còn những bất cập, thiếu chi tiết, cụ thể. Dẫn đến tài nguyên thiên nhiên ngày càng suy thoái cạn kiệt, đất đai bị xói mòn rửa trôi, số chất lượng rừng tăng lên không đáng kể thậm chí còn xu hướng giảm dần. Các sản phẩm thu được từ rừng không đủ đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống của người dân, đặc biệt là ngưòi dân có cuộc sống dựa vào rừng, đời sống vật chất tinh thần của người dân không được cải thiện. Trướ...

doc55 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1131 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cho xã Trung Minh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1 đặt vấn đề Trong tiến trình phát triển đi lên của đất nước bước vào thời kỳ CNH- HĐH có sự đóng góp không nhỏ của phát triển kinh tế xã hội các vùng nông thôn đặc biệt là các vùng nông thôn miền núi nước ta hiện nay. Nói đến nông thôn miền núi là nói đến sản xuất lâm nghiệp, sự phát triển kinh tế xã hội nhìn chung là thấp và chậm. hơn các vùng khác. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn miền núi còn thiếu đồng bộ, trình độ kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu, phương thức quản lý lỏng lẻo, công tác quy hoạch sử dụng đất lâm nông nghiệp vẫn còn những bất cập, thiếu chi tiết, cụ thể. Dẫn đến tài nguyên thiên nhiên ngày càng suy thoái cạn kiệt, đất đai bị xói mòn rửa trôi, số chất lượng rừng tăng lên không đáng kể thậm chí còn xu hướng giảm dần. Các sản phẩm thu được từ rừng không đủ đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống của người dân, đặc biệt là ngưòi dân có cuộc sống dựa vào rừng, đời sống vật chất tinh thần của người dân không được cải thiện. Trước những thực trạng đó, trong nhiều năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật như luật Đất đai sửa đổi năm 2003, luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004… Điều đó đã góp phần ổn định phát triển kinh tế xã hội ở các vùng nông thôn miền núi, đặc biệt là nhằm phát triển sản xuất lâm, nông nghiệp, từ đó mà công tác quy hoạch ngày càng chi tiết, cụ thể đến các xã thậm trí đến cấp thôn bản. Với vai trò là đơn vị nhỏ nhất trong các đơn vị quản lý lãnh thổ hành chính và là đơn vị cơ bản quản lý và sản xuất lâm nghiệp của các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân, cấp xã ngày càng phát huy vai trò thế mạnh của mình trong việc phát triển kinh tế xã hội cũng như phát triển sản xuất nông lâm nghiệp vùng nông thôn miền núi. Công tác quy hoạch sử dụng đất cấp xã đã góp phần phân bổ đất đai một cách hợp lý phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, phù hợp với mục đích sử dụng đất đai một cách bền vững, với mục tiêu, phương hướng phát triển của các cấp quản lý trên cũng như tâm tư nguyện vọng của của người dân, đặc biệt là những người sống trong hoặc gần rừng. Không những thế nó còn góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn, đáp ứng nhu cầu của người dân về lương thực, thực phẩm, gỗ củi, sinh thái môi trường… Như vậy, công tác quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp đã đang và sẽ thu được những thành công to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn miền núi, đóng góp cho sự nghiệp chung của cả nước. Xã Trung Minh là một xã trong nhiều năm qua đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển sản xuất lâm, nông nghiệp, ổn định cuộc sống người dân, đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội chung của cả xã. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, thiếu sót như: tiềm năng đất đai còn bị bỏ phí, chưa có quy hoạch cụ thể, chi tiết cho sản xuất lâm, nông nghiệp, các bản phương hướng quy hoạch khác không đáp ứng được mục tiêu phát triển sản xuất… Chính bởi vai trò to lớn đó của công tác quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp, cũng như qua tình hình thực tế ở địa phương, tôi tiến hành nghiên cứu khoá luận “Quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cho xã Trung Minh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình” nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng đất ổn định bền vững cho xã, đồng thời đóng góp cơ sở lý luận và thực tiễn cho công tác quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cấp xã. Chương 2 Tổng quan vấn đề nghiên cứu 2.1 Trên thế giới Từ thế kỷ XVII quy hoạch sử dụng đất được coi như là một chuyên ngành bắt đầu bằng các quy hoạch vùng. Vào thế kỷ XVIII, quy hoạch đô thị phát triển mạnh ở châu Âu. Đến thế kỷ XIX các lý thuyết về “Phép vi phân địa lý” và “Phép vi phân tự nhiên” đã đề cập đến cơ sở của quy hoạch vùng. Vào đầu thế kỷ XX đã hình thành một số lý thuyết với các khái niệm khác nhau, trong đó tác phẩm “Hình thành các bang hợp lý” bằng lý thuyết tổ chức với cácc khái niệm “Lập địa hợp lý” và “Năng suất sử dụng” được coi là mở đầu cho thời kỳ quy hoạch. Như vậy đến đầu thế kỷ XX thế giới coi quy hoạch sử dụng đất chỉ là quy hoạch thuần tuý mà thôi. Vào những năm 30 và 40 của thế kỷ XX quy hoạch ngành bắt đầu xuất hiện, giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng. Thời kỳ những năm 50 đến 70 trên thế giới nhấn mạnh nhiều đến nghiên cứu và đánh giá đất đai trong quy hoạch sử dụng đất. Năm 1971 và 1975 các chuyên gia tư vấn của FAO họp tại Rome và Geneve thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn. Vào thời kỳ này các thuật ngữ như quy hoạch địa phương, quy hoạch vi mô, quy hoạch thôn bản, quy hoạch cùng tham gia... mới bắt đầu hình thành và đưa vào quy hoạch. Vào năm 1984 Bohlin đề xuất yêu cầu của hệ thống thông tin cho quy hoạch trồng rừng. Các tác giả Soda và Lund (1987) đưa ra hệ thống thông tin cần thiết cho quy hoạch xây dụng rừng. Năm 1975, Vink đã phân 6 nhóm chính về dữ liệu của tài nguyên đất cần thu thập cho quy hoạch sử dụng đất như : khí hậu, độ dốc và địa mạo, thổ nhưỡng gồm cả thuỷ văn, đất, nước, tài nguyên nhân tạo như hệ thống tưới tiêu, thảm thực vật. Hiện nay, về cơ bản thì hệ thống thông tin này vẫn cần cho quy hoạch, nhưng mức độ chi tiết cao hơn. Từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX xuất hiện các phương pháp được sử dụng trong quy hoạch như phương pháp điều tra đánh giá cùng tham gia( RRA, PRA) phương pháp phân tích các hệ thống canh tác, phương pháp LEFSA (phương pháp kết hợp giữa đánh giá đất đai và phân tích hệ thống canh tác). Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng đất với 4 câu hỏi: 1- Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu quy hoạch là gì? 2- Có các phương án sử dụng đất nào? 3- Phương án nào tốt nhất? 4- Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào? Wilkingson (1985) nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất trên khía cạnh luật pháp. Dent(1989) khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng(tỉnh, huyện), cấp cộng đồng (xã, thôn). Maydell(1984) cho rằng 4 điểm chính trong quá trình quy hoạch nông, lâm nghiệp tại các nước nhiệt đới là: 1/Phân tích xu hướng tức là phân tích hiện trạng và phát triển; 2/Xác định mục tiêu và nhiệm vụ; 3/Phân tích phương pháp; 4/Đánh giá. Hudson(1986) đề xuất 5 bước cho quy hoạch sử dụng đất: 1/Thu thập số liệu cần thiết; 2/Phân tích số liệu; 3/Ra quyết định; 4/Quyết định thực hiện; 5/Đánh giá kết quả. Như vậy mặc dù đã có những nghiên cứu, đề xuất và thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất nhưng chưa có một lý thuyết hoàn chỉnh về phương pháp quy hoạch nông, lâm nghiệp cấp vi mô cho các nước. 2.2. Tại Việt Nam. a) Một số chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp Trong hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”(điều18). Luật đất đai (năm 1993) nêu rõ “Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất đai là một trong 7 nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai”. Luật bảo vệ và phát triển rừng(1991) đã phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở cho quy hoạch lâm nghiệp. Luật đất đai và luật bảo vệ và phát triển rừng đều xác định rõ vai trò của địa phương đặc biệt là cấp xã trong quy hoạch và sử dụng đất. Sau khi ban hành hai luật quan trọng trên Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản để quản lý đất đai như: Nghị định 64/CP(1993), Nghị định 02/CP (1994), Nghị định 01/CP(1995), Nghị định 163/1999/NĐ-CP(1999), Quyết định 245/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ. Đặc biệt mới đây nhất Nhà nước ban hành Luật đất đai sửa đổi (12/2003), điều 13 của luật đã phân loại đất đai theo 3 nhóm đó là :Đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, và đất chưa sử dụng. Tiếp theo đó là Luật bảo vệ và phát triển rừng (tháng 3/2004) quy định rõ hơn quyền và trách nhiệm của các đơn vị, hộ gia đình, cá nhân trong công tác bảo vệ, phát triển rừng. b) Các quan điểm về quy hoạch sử dụng đất Các vấn đề quy hoạch sử dụng đất được khởi xướng từ năm 1963, và được hoàn thiện dần theo thời gian. Trước đây, việc quy hoạch sử dụng đất thường dựa vào các đơn vị hành chính ( tỉnh, huyện, xã ), hoặc quy hoạch theo ngành ( nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản ). Giai đoạn trước năm 1993, nhìn chung quy hoạch sử dụng đất được thực hiện bởi các tổ chức chuyên môn, trong từng ngành, căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước, nhiệm vụ phát triển kinh tế của từng địa phương. Người lập quy hoạch sử dụng đất hoàn toàn tuân thủ những quy định, văn bản hướng dẫn của Nhà nước, như quy trình kỹ thuật, luận chứng kinh tế xã hội...Hoạt động quy hoạch sử dụng đất hoàn toàn tách biệt với người dân. Trong đầu những năm 1990, các vấn đề quy hoạch nông, lâm nghiệp cấp vi mô được nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Các nhà khoa học trong và ngoài nước đề cho rằng quan điểm quy hoạch nông, lâm nghiệp cấp địa phương nên đi theo hướng sau: - Tiến hành nghiên cứu khả năng chuyển từ quy hoạch nông, lâm nghiệp chủ yếu dựa trên chức năng sử dụng đất sang dựa trên tiềm năng của đất. - Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích sử dụng đất đai bằng việc đa dạng hoá các hoạt động sản xuất, trong mỗi bản quy hoạch của cộng đồng - Gắn hai quá trình quy hoạch và giao đất và coi là hai bộ phận có quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp ở mỗi địa phương, cộng đồng. - Nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp cùng tham gia trong quy hoạch, xác định và phân tích chủ thể trong quy hoạch nông, lâm nghiệp cấp xã. c) Các nghiên cứu và thử nghiệm liên quan đến quy hoach sử dụng đất nông, lâm nghiệp cấp xã Ngiên cứu và thử nghiêm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp được thực hiện từ năm 1993 tại xã Tử Nê huyện Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai Châu tỉnh Hoà Bình do dự án đổi mới chiến lược lâm nghiệp thực hiện. Tháng 8 năm 1994, Bộ Lâm nghiệp đã tổ chức hội nghị toàn quốc và đã xây dụng được bản hướng dẫn về phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia. Bản hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất và giao đát có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quy trình giao đất và được áp dụng rộng rãi cho các dự án sau này. Theo Nguyễn Văn Tuấn (1996): quy hoạch sử dụng đất được coi là nội dung chính và được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản, chính quyền xã... Chương trình phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 1996 – 2000 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã thử nghiệm quy hoạch phát triển lâm, nông nghiệp cấp xã trên cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cấp thôn và hộ gia đình. Theo Bùi Đình Toái và Nguyễn Văn Nam (1998): tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành quy hoạch sử dụng đất, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất 3 cấp: xã, thôn, hộ gia đình. Năm 1996 Vũ Văn Mễ và Deslofes đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân tại Quảng Ninh và đề xuất 5 nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch cấp xã đóng góp vào phương pháp quy hoạch. Vũ Văn Mễ (1998) cũng cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu nguyện vọng của người dân..., xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử dụng tài nguyên. Cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp. Chương trình hợp tác Việt-Đức dự án phát triển lâm nghiệp xã hội sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại 2 xã trên cơ sở hướng dẫn của Chi cục kiểm lâm đã lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch cho phù hợp với đặc thù vùng cao. Năm 2001, trên cơ sở phân tích đánh giá các cơ sở khoa học và thực tiễn của quy hoạch phát triển lâm, nông nghiệp cấp xã cùng với xu hướng phát triển của vùng miền núi phía bắc, Nguyễn Bá Ngãi đã xác định rõ bộ phận cấu thành và đề xuất được khung trình tự và phương pháp quy hoạch phát triển lâm, nông nghiệp cấp xã. Trong những năm gần đây cũng có những nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp của một số tác giả như: Đinh Văn Đề, Nguyễn Văn Quyết, Lê Sỹ Trung... góp phần từng bước hoàn thiện về phương pháp luận trong quy hoạch. Chương 3 mục tiêu – giới hạn – phạm vi – nội dung và phương pháp nghiên cứu 3.1 Mục tiêu nghiên cứu 3.1.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cho xã Trung Minh ổn định, bền vững đáp ứng cho nhu cầu phát triển trong 10 năm tới. 3.1.2. Mục tiêu cụ thể - Phân tích được những điều kiện tiền đề cho quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cấp xã. - Xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp thích hợp cho xã, giúp xã phát triển kinh tế- xã hội ổn định trong giai đoạn 10 năm tới. - Dự tính hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của phương án quy hoạch. 3.2. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu 3.2.1 Phạm vi Khoá luận nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp trong phạm vi xã Trung Minh đã ổn định về ranh giới, diện tích. 3.2.2 Giới hạn: - Chỉ tiến hành quy hoạch sử dụng hai loại đất chính là đất lâm nghiệp và nông nghiệp, trong phạm vi một xã. -Ước tính hiệu quả kinh tế cho một số loại cây trồng, vật nuôi chính. - Chỉ tiến hành điều tra, tính toán các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật một cách sơ bộ dựa vào việc kế thừa tài liệu và sự tham gia của người dân địa phương là chính. - Sản lượng cây trồng được ước tính theo kinh nghiệm của người dân. - Về nội dung còn bị hạn chế bởi kiến thức về nông nghiệp còn ít. 3.3. Nội dung tiến hành - Điều tra thu thập tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình sản xuất kinh doanh lâm, nông nghiệp của xã làm căn cứ để tiến hành quy hoạch. - Điều tra, phân tích tình hình quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng. - Tiến hành quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cho xã ổn định, bền vững trong 10 năm tới. - Đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng đất lâm, nông nghiệp bền vững trong giai đoạn 10 năm tới. - Tổng hợp vốn đầu tư và ước tính hiệu quả của phương án quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp. 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu - Phương pháp kế thừa có chọn lọc các tài liệu sẵn có của địa phương về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, bản đồ hành chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất... - Phương pháp phỏng vấn bán định hướng, phỏng vấn cán bộ địa phương, cán bộ kỹ thuật và người dân. - Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA). - Điều tra trữ lượng, sản lượng rừng theo phương pháp ô tiêu chuẩn điển hình. 3.4.2. Phương pháp xử lý số liệu - Phân tích, đánh giá điều kiện cơ bản theo phương pháp SWOT. - Xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất theo phương pháp chuyên gia. - Dự tính dân số trong tương lai theo công thức: Trong đó: Ht: Số hộ trong tương lai Ho: Số hộ hiện tại Nt: Dân số trong tương lai No: Dân số hiện tại - Tính toán hiệu quả kinh tế cho một số loài cây trồng chủ yếu theo phương pháp tĩnh và phương pháp động. * Phương pháp tĩnh: Coi các yếu tố kinh tế và kết quả là độc lập tương đối và không chịu tác động của nhân tố thời gian, mục tiêu đầu tư và biến động của giá trị đồng tiền. Các công thức tính: + Tổng lợi nhuận: P = Tn – Cp + Tỷ suất lợi nhuận trên chí phí: Pcp= + Hiệu quả vốn đầu tư: Pv= Trong đó: P: là tổng lợi nhuận trong một năm T: là tổng thu nhập trong một năm. C: là tổng chi phí sản xuất kinh doanh trong một năm. Pcp: là tỷ xuất lợi nhuận trên chi phí. Pv: là hiệu quả vốn đầu tư trong một năm. Vđt: là tổng vốn đầu tư trong một năm. * Phương pháp động: Trong sản xuất kinh doanh, chúng ta coi yếu tố về chi phí và kết quả có mối quan hệ động với mục tiêu đầu tư, thời gian và giá trị đồng tiền. Các chỉ tiêu được tập hợp và tính toán bằng các hàm: NPV, BCR, IRR trong chương trình EXCEL 7.0 + Giá trị hiện tại thuần túy NPV: là hiệu số giữa thu nhập và chi phí thực hiện các hoạt động sản xuất trong các mô hình khi đã tính chiết khấu để quy về thời điểm hiện tại. NPV = Trong đó: NPV là giá trị hiện tại thu nhập ròng (đồng). Bt: là giá trị thu nhập ở năm thứ t(đồng). Ct: là giá trị chi phí ở năm thứ t (đồng) i: là tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất (%). t: là thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm). NPV dùng để đánh giá hiệu qủa kinh tế của các mô hình kinh tế hay các phương thức canh tác. NPV càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao. +Tỷ lệ thu hồi vốn nội bộ IRR: là chỉ tiêu đánh giá thu hồi vồn đầu tư có kể đến yếu tố thời gian thông qua tính chiết khấu. IRR chính là tỷ lệ chiết khấu khi tỷ lệ này làm cho NPV = 0 tức là khi tỷ lệ này làm cho NPV = 0. Công thức như sau: NPV= Tức là khi i=IRR. IRR càng cao thì hiệu quả kinh tế của mô hình càng lớn. + Tỷ lệ thu nhập so với chi phí BCR, BCR là hệ số sinh lãi thực tế phản ánh chất lượng đầu tư và cho biết mức thu nhập trên mọi đơn vị chi phí sản xuất. Công thức: BCR= Trong đó: BCV: Tỷ lệ thu nhập và chi phí. BPV: Giá trị hiện tại của thu nhập. CPV: Giá trị hiện tại của chi phí Nếu mô hình nào hoặc phương thức canh tác nào có BCR>1 thì có hiệu quả kinh tế, BCR càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại. Chương 4 kết quả nghiên cứu 4.1. Điều tra điều kiện cơ bản của xã 4.1.1. Điều kiện tự nhiên 4.1.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới hành chính Trung Minh là một xã miền núi nằm ở phía Đông Bắc của huyện Kỳ Sơn với các đơn vị hành chính giáp ranh bao gồm: Phía Bắc giáp thị trấn Kỳ Sơn trung tâm huyện lỵ. Phía Nam giáp phường Đồng Tiến ( thị xã Hoà Bình ). Phía Đông giáp xã Độc Lập và xã Dân Hạ huyện Kỳ Sơn. Phía Tây giáp sông Đà. Trung Minh nằm ở vị trí giữa thị trấn Kỳ Sơn và thị xã Hoà Bình, cách UBND huyện 1,5 km về phía Nam. Xã có tuyến đường quốc lộ 6 chạy qua từ Hà Nội đi các tỉnh phía Tây Bắc xuyên qua lãnh thổ xã với chiều dài 4,5 km. 4.1.1.2. Địa hình Xã có địa hình tương đối phức tạp, chủ yếu là các đồi núi có độ cao trung bình từ 200m - 300m, độ dốc khá lớn từ 10o - 25o. Ngoài địa hình đồi núi, Trung Minh còn có khoảng 15% diện tích đất ruộng chân vàn, vàn trũng và các bãi nằm xen kẽ nhau tạo nên những cánh đồng và các bãi bồi để sản xuất nông nghiệp. 4.1.1.3. Khí hậu Trung Minh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với chế độ phân mùa rõ rệt. Mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8. Mùa đông kéo dài từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau với chế độ thời tiết lạnh nhưng không khắc nghiệt, vẫn có những ngày xen kẽ nắng, ấm hoặc mưa ẩm. Hai mùa thu và xuân có khí hậu ôn hoà và là thời gian chuyển tiếp của hai mùa hè và đông. Đặc trưng của các yếu tố khí hậu, thời tiết qua một số năm như sau: - Nhiệt độ trung bình dao động từ 21,8oC - 24,7oC. - Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1800-2200mm. Bình quân số ngày mưa trong năm dao động từ 110-120 ngày. - Độ ẩm không khí trung bình là 85%. - Số giờ nắng bình quân hàng năm từ 1400 - 1900 giờ. - Lượng bốc hơi trung bình hàng năm là 1066 mm. - Gió: hàng năm xã Trung Minh chịu ảnh hưởng của hai mùa gió chính, gió mùa Đông Bắc (thổi mùađông ) và gió mùa Đông Nam ( thổi mùa hè ). Như vậy, Trung Minh là một xã có khí hậu đặc trưng của vùng nhiệt đới gió mùa, tính chất khí hậu diễn biến theo mùa tương đối rõ rệt, đặc biệt ở hai yếu tố: nhiệt độ và lượng mưa, biên độ nhiệt giữa các tháng trong năm không lớn, ít gây sự biến đổi đột ngột về thời tiết khí hậu. Tuy nhiên, với lượng mưa lớn và tập trung theo mùa đã gây nên tình trạng úng ngập và hạn hán ở một số nơi làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. 4.1.1.4. Thuỷ văn – nguồn nước Sông Đà là con sông lớn chảy qua địa bàn của xã dài 5km, chiều rộng trung bình 300m-350m, lưu lượng nước lớn phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, hàng năm do việc xả lũ của hồ sông Đà vào tháng 6 đến tháng 8 với bề mặt dòng sông rộng từ 500m-600m, mặt nước chảy xiết thường gây úng ngập và sạt lở ven sông. Hồ Ngọc với diện tích khoảng 6,5 ha là nguồn nước dồi dào đảm bảo việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp thông qua hệ thống kênh mương đã được cứng hoá dài 3,5km. Ngoài hai hệ thống sông, hồ chính nêu trên Trung Minh còn có hệ thống suối tự chảy cũng là nguồn cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong khe núi. 4.1.1.5. Thổ nhưỡng Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng năm 1974, đất đai xã Trung Minh gồm 3 loại đất chính như sau: Biểu 01: Đặc điểm nông hoá, thổ nhưỡng. STT Loại đất Ký hiệu Độ dốc (độ) Tầng dầy (cm) Diện tích (ha) Cơ cấu (%) 1 Đất đỏ vàng trên đá sét Fs >25o >100 376 24,29 2 Đất phù sa được bồi Pb <3o 70-100 300 19,38 3 Đất vàng nhạt trên đá VFq 10o-20o 70-100 872 56,33 Nhìn chung, chất lượng đất của Trung Minh vào loại trung bình, đất chưa bị ô nhiễm và thoái hoá, nhưng do chế độ nước chưa hoàn toàn chủ động nên đã hạn chế việc thâm canh và chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp. 4.1.1.6. Cảnh quan môi trường Trung Minh là nơi hội tụ của núi, rừng, sông, suối, nguồn tài nguyên rừng khá lớn, có dòng sông Đà chảy qua, có khu hồ Ngọc nằm cạnh quốc lộ 6, tạo cho nơi đây có môi trường sinh thái và cảnh quan thiên nhiên đẹp. Trong tương lai, có thể phát triển khu vực này thành khu du lịch sinh thái, kết hợp với du lịch sông Đà và khách nghỉ cuối tuần. 4.1.1.7. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên của xã Qua kết quả điều tra khảo sát thực tế cho thấy, điều kiện tự nhiên của xã có những thuận lợi và khó khăn sau: - Trung Minh có vị trí địa lý rất thuận lợi, có cơ hội để giao lưu kinh tế, văn hoá với nhiều địa phương khác trong và ngoài huyện, đặc biệt với thị xã Hoà Bình, là điều kiện thúc đẩy xã tiếp cận nhanh với nền kinh tế thị trường. - Với nguồn tài nguyên khá phong phú, đặc biệt là nguồn tài nguyên đất rộng lớn, các yếu tố tự nhiên tương đối thuận lợi, giúp cho xã có khả năng phát triển nền sản xuất lâm, nông nghiệp hàng hoá đa dạng. Tuy nhiên, hiện nay việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên đó còn ở mức hạn chế. - Trung Minh có môi trường sinh thái cảnh quan thiên nhiên đẹp, là tiềm năng để phát triển khu vui chơi giải trí và du lịch sinh thái. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề bất cập như: đất trống, đồi núi trọc còn nhiều, chưa có thảm thực vật che phủ, đất đang bị xói mòn, rửa trôi, môi trường sinh thái chưa đảm bảo bền vững. Hàng năm, khi đến mùa lũ và việc xả lũ sông Đà đã gây nên tình trạng xói mòn và sạt lở đất ven sông, gây úng ngập, làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân. 4.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội 4.1.2.1. Dân số, lao động và việc làm Kết quả tổng hợp dân số và lao động giai đoạn 2000 đến 2005 của xã được thể hiện ở biểu sau: Biểu 02: Thực trạng dân số và lao động xã Trung Minh giai đoạn 2000 đến 2005 Stt Các chỉ tiêu đv tính 2000 2002 2005 1 Tổng dân số người 6120 6203 6277 Dân số nông nghiệp người 1964 1993 2015 Dân số phi nông nghiệp người 4156 4210 4262 2 Mật độ dân số ng/km2 407 412 417 3 Tỷ lệ phát triển dân số % 1.23 1,15 1 4 Tổng số lao động l.động 2937 2977 3012 Lao động nông nghiệp l.động 862 880 899 Lao động phi nông nghiệp l.động 2075 2097 2133 5 Tổng số hộ Hộ 1412 1438 1477 Hộ nông nghiệp Hộ 504 513 528 Hộ phi nông nghiệp Hộ 908 925 949 Trung Minh có tổng số dân là 6277 người (1477 hộ gia đình) chiếm 17,9% dân số huyện Kỳ Sơn, bao gồm các dân tộc chủ yếu như: dân tộc Kinh có 3264 người chiếm 52% dân số toàn xã, dân tộc Mường có 2761 người chiếm 44%, còn lại khoảng 4% là các dân tộc khác như: Dao, Thái, Tày... Mật độ trung bình 417 người/km2, trong đó dân số tập trung đông ở 3 phố với 4132 người (chiếm 65,8%). Trong những năm gần đây, tỷ lệ phát triển dân số của xã có chiều hướng giảm tích cực, hiện nay là 1%. Tổng lao động trong toàn xã là 3012 lao động chiếm khoảng 48% dân số. Trong đó, lực lượng lao động nông nghiệp là 899 lao động ( chiếm 29,8%) tập trung nhiều ở 4 xóm, hoạt động chủ yếu sản xuất nông nghiệp không có ngành nghề phụ, nên hàng năm thường thiếu công ăn việc làm lúc nông nhàn. Còn lại 2113 lao động hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp ( chiếm 70,2%) với các ngành nghề đa dạng như: đóng than, làm chổi chít, mành tre, đánh cá, kinh doanh dịch vụ... Nhìn chung, nguồn lao động của xã tương đối dồi dào, lực lượng lao động phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, có mức thu nhập cao hơn lao động nông nghiệp. Tuy nhiên, trình độ lao động chưa cao, chủ yếu là lao động giản đơn. 4.1.2.2. Tăng trưởng kinh tế và mức sống người dân Trong những năm qua nhờ thực hiện tốt chủ trương đường nối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế mà tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã Trung Minh có những chuyển biến khả quan, năm sau cao hơn năm trước, năm 2000 là 6% đến năm 2005 là 8,6%. Tổng thu nhập của xã là 29 tỷ 502 triệu đồng, trong đó thu từ các hoạt động sản xuất lâm, nông nghiệp là 11 tỷ 800 triệu đồng (chiếm 40%), còn từ các hoạt động sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp là 17 tỷ 702 triệu đồng (chiếm 60%). Bình quân thu nhập đầu người là 4,7 triệu đồng/người/năm. Theo kết quả điều tra của các ban quản lý xã thì thực trạng đời sống nhân dân được thể hiện qua biểu sau: Biểu 03: Thực trạng đời sống nhân dân xã Trung Minh STT Phân loại thu nhập Số hộ Tỷ lệ(%) 1 Giầu và khá 337 22,8 2 Trung bình khá 295 20,1 3 Trung bình 732 49,5 4 Nghèo 113 7,6 Qua biểu trên ta thấy, tỷ lệ hộ giầu và khá là tương đối cao (22,8%), tuy nhiên đa số các hộ này hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực phi nông nghiệp, có trình độ khoa học kỹ thuật. Xã vẫn còn 113 hộ nghèo (chiếm 7,6%) chủ yếu là các hộ sản xuất kinh doanh lâm, nông nghiệp, chưa áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong khi đó diện tích canh tác còn manh mún, nhỏ lẻ. Số hộ trung bình và trung bình khá là 1027 hộ chiếm tỷ lệ cao (69,6%). Như vậy, mức sống của đa số người dân còn ở mức trung bình đến trung bình khá. Trong tương lai, cần có những biện pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. 4.1.2.3. Tình hình phát triển cơ sở hạ tầng *) Giao thông: Trung Minh có một hệ thống giao thông khá đầy đủ, có tuyến đường quốc lộ 6 chạy qua địa bàn xã dài 4,5 km nối xã với các khu vực khác trong và ngoài tỉnh, tạo cơ hội tốt để tiếp cận nhanh với thị trường bên ngoài. Đường đê bao quanh khu vực cánh đồng của xã dài 4,5 km đảm bảo việc đi lại nhất là vào mùa lũ. Xã có 4 tuyến đường trục chính nối giữa đê bao và quốc lộ 6 là những tuyến đường nội đồng phục vụ cho đi lại và thu hoạch mùa màng. Hệ thống đường nội xóm, phố có tổng chiều dài là 8,1 km. Trừ quốc lộ 6 còn lại hệ thống đường giao thông trong xã vẫn trong tình trạng chất lượng thấp, mặt đường chưa đảm bảo, thường ngập nước vào mùa mưa, do vậy cần được nâng cấp sửa chữa trong tương lai gần. *) Thuỷ lợi: Do địa hình phức tạp, độ dốc lớn nên việc bố trí các hệ thống kênh mương gặp khó khăn. Hiện tại, chủ yếu là các kênh mương tưới tự chảy từ hồ Ngọc (rộng 6,5ha) và các suối thông qua hệ thống đập tràn và các bai. Hệ thống mương tiêu nước chưa có nên vào mùa lũ việc tiêu nước chưa đáp ứng được dẫn đến ngập úng cục bộ ở một số diện tích. Toàn xã có khoảng 5,7 km kênh mương, trong đó đã cứng hoá được 3,5 km, còn 2,2 km chưa được đầu tư cứng hoá nên khả năng tưới nước còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Hệ thống bai, đập trong xã có 2 cái được xây dựng kiên cố đảm bảo sử dụng nước cho khoảng 70 ha. Trong tương lai, cần xây dựng bai xóm Chu (suối Chu) kết hợp với việc cứng hoá kênh mương nhằm mở rộng diện tích 3 vụ. *) Hệ thống y tế, giáo dục và văn hoá: - Y tế: Trong địa xã có một trung tâm y tế của huyện và một trạm y tế của xã đảm bảo việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. - Giáo dục: Xã đã có trường cấp I, II và hệ thống trường mần non tại các xóm phố. Tuy nhiên cơ sở vật chất chưa cao, cần được mở rộng diện tích, đầu tư nâng cấp nhằm đạt chuẩn quốc gia. - Văn hoá: Các phong trào thể dục, thể thao, văn hoá, văn nghệ trong xã chưa thực sự phát triển do chưa có đầy đủ hệ thống trang thiết bị, sân bãi, nhà văn hoá, vì thế cần được quan tâm đầu tư thích đáng hơn. 4.1.3. Tình hình sản xuất kinh doanh lâm, nông nghiệp và một số ngành nghề khác 4.1.3.1. Sản xuất lâm nghiệp Trong những năm gần đây, Trung Minh đã trồng được 451,94 ha diện tích rừng trong đó có 373,94 ha trồng bạch đàn theo chương trình PAM từ những năm 90 hiện đã cho khai thác và đang kinh doanh rừng chồi. Năm 2004 vừa qua, xã đã trồng thêm được 78 ha Keo lá tràm, với mật độ 2200 cây/ha, qua kiểm kê, nghiệm thu tỷ lệ sống đạt 96% cho thấy công tác trồng rừng đã được chú trọng. Các diện tích trồng rừng kể trên chủ yếu phục vụ cho nguyên liệu giấy của nhà máy giấy Hoà Bình, đồng thời cũng phục vụ cho dự án 5 triệu ha rừng. Ngoài công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ các diện tích rừng trồng các cán bộ chuyên trách cũng như bà con nhân dân đang tiến hành bảo vệ khoanh nuôi rừng tự nhiên với diện tích 155 ha. 4.1.3.2. Sản xuất nông nghiệp Cùng với sự phát triển của nền nông nghiệp nói chung, bước đầu Trung Minh đã thực hiện có kết quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác các ưu thế hiện có, thêm vào đó là sự cần cù chịu khó của người dân, do đó đã mang lại hiệu quả ngày càng cao. *) Trồng trọt: sử dụng các giống lúa có năng suất cao như: khang dân, nhị ưu 838, tẻ thơm, lai Trung Quốc.. các loại cây công nghiệp ngắn ngày có giá trị kinh tế cao như: mía, cây hoa màu và rau đậu các loại, góp phần đưa giá trị ngành trồng trọt lên cao, với tổng sản lượng lương thực quy ra thóc của xã là 1104,1 tấn, bình quân lương thực/khẩu nông nghiệp đạt 548 kg/khẩu/năm. Bên cạnh đó, việc phát triển các loại cây ăn quả trong khu vực vườn nhà và vườn đồi như: cam, nhãn, hồng bì... đã từng bước nâng cao mức thu nhập và đời sống nhân dân. *) Chăn nuôi: Mặc dù cũng được quan tâm phát triển, tuy nhiên chưa có sự phát triển theo mô hình chăn nuôi công nghiệp. Các loài vật nuôi chủ yếu là lợn, trâu, bò, gia cầm, cá… 4.1.3.3. Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ Toàn xã có 948 hộ phi nông nghiệp với 4262 khẩu, chủ yếu nằm trong 3 phố với các ngành nghề hoạt động chủ yếu như: sản xuất tăm, mành, chổi chít (137 hộ), kinh doanh tạp hoá (66 hộ), sản xuất đồ mộc (16 hộ), đóng than tổ ong (11 hộ), ngoài ra còn có các hộ may mặc, làm vôi, xay xát, dịch vụ vận tải... Nhìn chung, các hộ hoạt động sản xuất ngành nghề và dịch vụ đều có mức thu nhập khá cao và ổn định hơn các hộ thuần nông. Đây cũng là một thế mạnh mà xã cần phải tiếp tục phát huy. 4.1.4. Nhận xét chung về điều kiện cơ bản của xã Nhìn chung, Trung Minh có rất nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế. Xã có vị trí địa lý rất thuận lợi nằm trên trục giao thông quan trọng từ Hà Nội đi các tỉnh phía Tây Bắc. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là tài nguyên đất và nước là hai nguồn tài nguyên quan trọng để phát triển sản xuất nhất là sản xuất lâm, nông ngiệp. Ngoài ra, Trung Minh còn có cảnh quan thiên nhiên đẹp có thể phát triển du lịch sinh thái đem lại nguồn thu, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế qua các năm ngày càng tăng, đời sống nhân dân ổn định, văn hoá, xã hội từng bước phát triển, an ninh quốc phòng đảm bảo, ổn định chính trị địa phương. Tuy nhiên, trong những năm qua Trung Minh chưa phát huy hết những lợi thế và tiềm năng sẵn có nêu trên. Sản xuất nông nghiệp chưa thực sự ổn định và vững chắc, diện tích cây vụ đông chưa được mở rộng, đặc biệt là những cây có giá trị kinh tế cao (cây mía, cây hoa màu...) còn chiếm tỷ trọng thấp. Ngành lâm nghiệp chưa phát triển, diện tích đất trống đồi núi trọc còn nhiều, sản phẩm thu hoạch chưa đem lại giá trị kinh tế cao. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chủ yếu vẫn chỉ là phát triển ngành nghề theo mô hình kinh tế hộ gia đình. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng còn thấp, hệ thống thuỷ lợi chưa đáp ứng được nhu cầu tưới tiêu, kênh mương chưa được cứng hoá đồng bộ, còn gây lãng phí đất. Trình độ dân trí của nhân dân còn thấp, các công trình phúc lợi xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu. Quy mô phát triển dân số ngày càng tăng, do vậy trong tương lai sẽ gây áp lực rất lớn đối với tài nguyên đất đai, đặc biệt là đất dân cư, đất nông nghiệp và đất chuyên dùng. 4.2. Tình hình quản lý sử dụng đất đai của xã Trung Minh 4.2.1. Tình hình quản lý đất đai của xã Trong những năm qua, UBND xã đã chỉ đạo chặt chẽ các ban ngành ở địa phương quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các văn bản của Nhà nước về quản lý đất đai. Công tác giao đất cho thuê đất, thu hồi đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được thực hiện dân chủ, công khai đảm bảo tính công bằng nên đã hạn chế những tiêu cực trong quản lý sử dụng đất. Đảm bảo 100% số hộ đã được giao đất đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đầy đủ, điều này đã làm cho các hộ dân thực sự yên tâm, tin tưởng, chủ động trong việc đầu tư phát triển sản xuất. Tổng diện tích đất giao, cho thuê cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân là 1256,39 ha chiếm 83,49% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó nhóm đất nông nghiệp là 840,04 ha, nhóm đất phi nông nghiệp là 119,34 ha, còn lại nhóm đất khác ( đất chưa sử dụng và sông suối ) là 296,96 ha. Còn lại 248,29 ha đất chưa giao, cho thuê sử dụng chiếm 16,51% chủ yếu là đất chưa sử dụng và sông suối. Nhìn chung, công tác quản lý đất đai trên địa bàn xã đã được thực hiện đúng pháp luật, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như: chưa thực hiện được công tác quy hoạch sử dụng đất, tình trạng tranh chấp khiếu nại vẫn còn xảy ra, đất còn sử dụng sai mục đích và bỏ hoang nhiều, chưa đem lại hiệu quả kinh tế cao. 4.2.2. Hiện trạng sử dụng đất đai của xã Qua quá trình điều tra, thu thập số liệu về hiện trạng sử dụng đất của xã Trung Minh kết quả thu được thể hiện ở biểu 04, cụ thể như sau: Biểu 04: Hiện trạng sử dụng đất đai của xã Trung Minh năm 2005 (trang sau ) 4.2.2.1. Hiện trạng sử dụng nhóm đất nông nghiệp 4.2.2.1.1 Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp Xã Trung Minh có diện tích đất lâm nghiệp khá lớn 606,94 ha, chiếm 40,34% diện tích đất tự nhiên toàn xã. Trong đó, đất đã giao cho các hộ gia đình, cá nhân quản lý là 179,37 ha, giao cho lâm trường quản lý sử dụng là 197,42 ha, còn lại 230,15 ha do uỷ ban nhân dân xã quản lý sử dụng. Như vậy toàn bộ diện tích đất lâm nghiệp đã được giao cho các đối tượng quản lý sử dụng, làm cho họ có trách nhiệm hơn trong việc quản lý bảo vệ rừng, đảm bảo số chất lượng rừng, duy trì cảnh quan sinh thái. *) Diện tích rừng tự nhiên là 155 ha, chiếm 25,54% tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng. Theo kết quả điều tra khảo sát thì diện tích rừng phòng hộ trên đều thuộc kiểu trạng thái rừng IIa, IIb, tuy nhiên chất lượng rừng nhìn chung là thấp do sự chặt phá, khai thác bừa bãi trước đây của người dân. Các cây có giá trị còn lại chủ yếu là: Re, Giẻ, Kháo, Chẹo…, cùng một số loài cây tái sinh thưa thớt khác, ngoài ra còn một số loài cây mọc nhanh như: Thành ngạnh, Thôi ba, STT Loại đất Diện tích(ha) Cơ cấu(%) Tổng diện tích tự nhiên 1504,68 100 I Nhóm đất nông nghiệp 840.04 55,83 I.1 Đất lâm nghiệp 606,94 40,34 I.1.1 Rừng tự nhiên 155 25,54 I.1.1.1 Rừng tự nhiên phòng hộ 155 25,54 I.1.2 Rừng trồng 451,94 74,46 I.1.2.1 Rừng trồng sản xuất 451,94 74,46 I.1.2.2 Rừng trồng phòng hộ 0 0 I.1.2.3 Rừng trồng đặc dụng 0 0 I.2 Đất nông nghiệp 233,15 15,49 I.2.1 Đất trồng cây hàng năm 160,93 69,02 I.2.1.1 Đất ruộng lúa, lúa màu 120,04 I.2.1.1.1 Ruộng 3 vụ 0 I.2.1.1.2 Ruộng 2 vụ 43,07 I.2.1.1.3 Ruộng 1 vụ 76,97 I.2.1.2 Đất chuyên màu 40,89 I.2.2 Đất vườn tạp 69,95 30 I.2.3 Đất trồng cây lâu năm 0 0 I.2.3.1 Đất trồng cây ăn quả 0 0 I.2.4 Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 2,27 0,97 II Nhóm đất phi nông nghiệp 119,34 7,93 II.1 Đất thổ cư 50,51 42,32 II.2 Đất chuyên dùng 68,83 57,68 II.2.1 Đất xây dựng 20,47 17,15 II.2.2 Đất giao thông 20,91 17,52 II.2.3 Đất thuỷ lợi 16,46 13,79 II.2.4 Đất an ninh quốc phòng 8,51 7,13 II.2.5 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 2,48 2,08 III Nhóm đất khác 545,25 36,24 III.1 Đất chưa sử dụng 404.31 74,15 III.1.1 Đất bằng chưa sử dụng 9,01 1,65 III.1.2 Đất đồi núi chưa sử dụng 390,32 71,59 III.1.3 Đất có mặt nước chưa sử dụng 4,98 0,91 III.2 Sông suối 140,94 25,85 Ràng ràng…Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dây leo, bụi rậm cũng như tác động không mong muốn của con người nên khả năng tái sinh của các loài trên còn hạn chế. Trong tương lai, cần có biện pháp khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh tự nhiên kết hợp trồng bổ xung một số loài cây bản địa có giá trị khác nhằm nâng cao độ tàn che của rừng, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên môi trường sinh thái. *) Diện tích rừng trồng hiện nay của xã là 451,94 ha, chiếm 74,46% diện tích đất lâm nghiệp. Phần lớn diện tích này do các hộ gia đình và lâm trường quản lý, trồng rừng sản xuất theo các dự án 327, dự án rừng PAM… Các loài cây được trồng là bạch đàn và keo tai tượng. Trong tổng số diện tích rừng trồng trên thì có khoảng 260,5 ha đã cho khai thác từ những năm trước, nhưng sau đó không có kế hoạch trồng lại ngay nên hiện tại người dân đang kinh doanh rừng chồi trên diện tích đất trên. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 90 ha rừng chồi bạch đàn là chất lượng còn khá, do các diện tích này phân bố gần khu dân cư, người dân có điều kiện tác động ở mức độ nào đó. Các diện tích còn lại do ít có điều kiện tác động nên chất lượng không đảm bảo, mật độ không đồng đều. Nhìn chung, trữ lượng rừng chồi chưa hoặc không đáng kể, trong tương lai cần có kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý diện tích này. Diện tích rừng trồng có trữ lượng ( cấp tuổi 2 ) là 113,44 ha. Với diện tích rừng trồng thuần loài trên, tôi tiến hành điều tra, đo đếm trên 2 ô tiêu chuẩn điển hình 1000m2 các chỉ tiêu: loài cây, mật độ, đường kính ngang ngực, chiều cao vút ngọn. Sau khi xử lý, tính toán tôi thu được biểu tổng hợp trữ lượng cho 1 ha như sau: Biểu 05: Tổng hợp trữ lượng rừng trồng STT Loài cây Tuổi N(cây/ha) V(m3) M(m3) 1 Bạch đàn 8 1150 13,47 12,1 0,0851 97,865 2 Keo 9 1020 13,77 10,95 0,098 99,96 Ngoài ra trong năm 2004 vừa qua, xã đã trồng mới được 78 ha keo tai tượng, đạt tỷ lệ sống khá cao (96%), hiện nay đang trong giai đoạn chăm sóc bảo vệ. Qua điều tra khảo sát thực tế, tôi nhận thấy một số khu vực nên chuyển đổi mục đích sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra sắp tới. Khu vực suối Củ có diện tích khoảng 56 ha, hiện đang là rừng trồng keo và bạch đàn, nhưng do đây là nguồn nước tự nhiên cung cấp một phần nhu cầu nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, nên trong thời gian sắp tới khi đến tuổi khai thác cần chuyển mục đích sử dụng khác, cụ thể là trồng rừng phòng hộ, duy trì nguồn nước tự nhiên nói trên. Khu vực rừng trồng gần khu hồ Ngọc sắp tới nên thay thế cây trồng hiện tại bằng loài cây khác vừa kết hợp sản xuất, vừa đáp ứng nhu cầu phòng hộ vừa tạo được môi trường cảnh quan sinh thái đẹp góp phần làm đẹp thêm khu hồ Ngọc, thu hút khách tham quan du lịch. 4.2.2.1.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp Tổng quỹ đất nông nghiệp của xã Trung Minh hiện có là 233,15 ha, chiếm 15,49% diện tích đất tự nhiên. Trong đó diện tích đã giao cho các hộ gia đình cá nhân là 210,76 ha chiếm 90,4% đất nông nghiệp, đất do uỷ ban nhân dân quản lý sử dụng là 22,39 ha. Đất nông nghiệp bao gồm các loại sau: *) Đất trồng cây hàng năm Diện tích đất trồng cây hàng năm là 160,93 ha, chiếm tỷ lệ khá cao 69,02% diện tích đất nông nghiệp. Trong đó chủ yếu là đất ruộng lúa, màu 120,04 ha, chiếm 74,59% đất trồng cây hàng năm, còn lại là đất trồng cây hàng năm khác 40,89 ha ( chủ là trồng các loại cây màu như mía, ngô..). Trong xã chưa có diện tích đất 3 vụ, diện tích đất 2 vụ lúa còn chiếm tỷ lệ thấp (35,88% diện tích đất ruộng lúa, lúa màu), với diện tích là 43,07 ha, còn lại 76,97 ha là đất một vụ lúa ( chiếm 64,12% ). Nhìn chung diện tích đất trồng cây hàng năm của xã nhỏ, hệ số sử dụng đất thấp ( 1,4 lần ), trình độ sản xuất, canh tác chưa đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên vẫn là thiếu đầu tư kỹ thuật, phân bón, nhiều mảnh ruộng chưa được trồng kín. Phần lớn đất canh tác phân bổ dọc quốc lộ 6 ( kẹp giữa đê bao và quốc lộ 6), khu đồng này có diện tích khoảng 100 ha. Trong đó có khoảng trên 40 ha ở khu vực thượng nguồn đã sản xuất được 2 vụ lúa ăn chắc, còn lại khoảng 60 ha khu vực cuối nguồn sản xuất 2 vụ ( một vụ lúa một vụ màu ) nhưng chưa đảm bảo an toàn. Vụ mùa thường bị ngập úng vào mùa lũ ( tháng 6, 7, 8 trong năm ), do vậy trong tương lai nếu giải quyết tốt vấn đề tiêu úng thì phần diện tích này sẽ sản xuất được 2 vụ lúa ăn chắc. Khu vực đồng trong xóm Miều có diện tích khoảng 12 ha chỉ cấy được 1 vụ do chịu ảnh hưởng của việc xả lũ sông Đà. Khu vực này khó khắc phục vì có liên quan tới đất nông nghiệp của thị trấn Kỳ Sơn, đòi hỏi phải có sự giải quyết đồng bộ giữa xã và thị trấn Kỳ Sơn. Các khu vực khác có diện tích ít hơn nằm sâu trong các khe suối, nguồn nước tưới chủ yếu từ các suối tự chảy do vậy có những năm bị hạn hán, năng suất thấp. Phần diện tích ngoài đê được trồng màu và trồng mía, tuy nhiên vẫn bị sạt lở do chịu ảnh hưởng của việc xả lũ sông Đà, do vậy cần có biện pháp khắc phục đảm bảo giữ đất không bị cuốn trôi. *) Đất vườn tạp có diện tích 69,95 ha, chiếm 30% diện tích đất nông nghiệp, loại đất này chủ yếu nằm trong khuôn viên các hộ gia đình trong khu dân cư, được sử dụng trồng cây ăn quả như: vải, nhãn,na, bưởi, mơ, hồng bì…và rau các loại, một số hộ trồng hoa. Tuy nhiên, diện nhỏ hẹp hình thức sử dụng chỉ mới mang tính tự phát, người dân tự kiếm giống về trồng, ít được đầu tư chăm bón nên hiệu quả mang lại còn thấp. Do vậy, trong tương lai cần chuyển đổi mục đích sử dụng và cải tạo vườn tạp thành vườn quả tập trung, thay thế giống cũ bằng những giống mới có năng suất, chất lượng cao hơn. *) Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có diện tích nhỏ 2,27 ha, chủ yếu là các ao hồ gần khu dân cư, trong đó đã giao lâu dài cho các hộ nông dân là 1,1 ha, còn lại 1,17 ha do uỷ ban nhân dân xã quản lý và giao khoán đấu thầu cho các hộ, cá nhân nuôi thả cá. 4.2.2.2. Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp Tổng diện tích đất phi nông nghiệp của xã Trung Minh hiện nay là 119,34 ha, chiếm 7,93% tổng diện tích đất tự nhiên, bao gồm: đất thổ cư 50,51 ha, đất xây dựng 20,47 ha, đất quốc phòng an ninh 8,51 ha, đất công trình công cộng (giao thông, thuỷ lợi ) là 37,37 ha và đất nghĩa trang, nghĩa địa 2,48 ha. Theo xu thế phát triển sắp tới thì một số diện tích đất như: đất thổ cư, đất xây dựng, đất giao thông, thuỷ lợi… sẽ không đáp ứng được nhu cầu đặt ra sắp tới, vì vậy cần phải được đầu tư, nâng cấp mở rộng thêm. 4.2.2.3. Hiện trạng đất chưa sử dụng và sông suối Hiện nay, toàn xã vẫn còn 545,25 ha đất chưa sử dụng và sông suối, chiếm 36,24% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó: - Đất bằng chưa sử dụng có diện tích 9,01 ha, chủ yếu là đất cỏ hoang, phân bố không tập trung, những mảnh có diện tích lớn hơn 90 m2 là 7,06 ha, còn lại đều nhỏ hơn 90 m2. Trong tương lai có thể cải tạo đất này để trồng cây hàng năm. - Đất đồi núi chưa sử dụng có 390,32 ha, chiếm 96,54% đất chưa sử dụng. Trên diện tích này bao gồm các trạng thái Ia( 21,02 ha ), Ib( 213,1 ha ), Ic( 156,2 ha ) phân bố rải rác trên các đồi của xã, trong đó đồi Thờ 174,44 ha, núi Chạc Chò 130,56 ha, núi Lò Rèn 55,25 ha, còn lại phân bố trên đồi Bồ Đội, đồi Cây Đa. Qua điều tra khảo sát, đánh giá cho thấy phần diện tích đồi núi chưa sử dụng của xã đều có khả năng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp. Vì vậy, trong tương lai cần phải có kế hoạch trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, hoặc chuyển sang mục đích sử dụng khác. - Đất mặt nước chưa sử dụng có diện tích là 4,98 ha có khả năng khai thác sử dụng vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản như: Bãi Tăng (0,97 ha ), đồng Tằm Te (0,78 ha ), và một số mặt nước phân bố rải rác khác. - Phần diện tích sông suối còn lại khoảng 140,94 ha không có khả năng đưa vào sản xuất, do vậy xã cần có biện pháp bảo vệ nhằm duy trì nguồn nước, điều tiết chế độ thuỷ văn trong xã. 4.2.3. Nhận xét chung về tình hình quản lý, sử dụng đất đai của xã Trung Minh Nhìn chung, công tác quản lý Nhà nước về đất lâm, nông nghiệp của xã trong những năm gần đây có những tiến triển rõ rệt, các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai đã từng bước được triển khai thực hiện, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại yếu kém. Trong tương lai, xã cần phát huy những mặt mạnh, có kế hoạch khắc phục những hạn chế nhằm đưa công tác này tương xứng với những nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới. Về cơ bản, đất đai trong xã đã được đưa vào sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn được sử dụng vào hoạt động sản xuất lâm, nông nghiệp. Là một xã miền núi nhưng diện tích đất sản xuất lâm, nông nghiệp không thực sự lớn (840,09 ha trong tổng số 1504,68 ha ), diện tích đất chưa sử dụng còn khá nhiều 404,31 ha cho thấy sự mất cân bằng trong việc che phủ đất đai, chưa kể đến việc có những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, như xói mòn, rửa trôi, chế độ thuỷ văn nguồn nước bị xáo trộn, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của người dân. Các diện tích đất trên đồi núi trước đây là rừng tự nhiên, nay còn lại rất ít, chất lượng kém, đã có những diện tích được thay thế bằng rừng trồng cây nguyên liệu giấy, phần còn lại vẫn trong tình trạng bỏ hoang, trong tương lai cần có kế hoạch sử dụng triệt để diện tích này. Diện tích đất nông nghiệp của xã chiếm tỷ lệ ít, hệ số sử dụng đất chưa cao, sản lượng lương thực chỉ đủ đáp ứng nhu cầu lương thực cho các hộ nông nghiệp trong xã. Trên các diện tích đất nông nghiệp việc đầu tư thâm canh tăng vụ chưa có hiệu quả, chưa khai thác hết tiềm năng đất đai. 4.2.4. Tình hình sử dụng lâm sản ngoài gỗ và nhu cầu gỗ củi Trong những năm qua do đời sống ngày càng được nâng lên, nhất là những hộ phi nông nghiệp, cho nên nhu cầu về lâm sản ngoài gỗ cũng như gỗ củi không còn cấp thiết như trước đây. Tuy nhiên, chúng vẫn là những sản phẩm thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày của người dân nơi nông thôn miền núi. 4.2.4.1. Tình hình sử dụng lâm sản ngoài gỗ Với đặc điểm là một xã miền núi nên Trung Minh có một nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ khá lớn, bao gồm nhiều loại khác nhau với những công dụng khác nhau như: tre, bương, măng, chổi chít, cắng cây, sả, mật ong, mộc nhĩ, sa nhân, lá rong, v.v… Người dân chủ yếu khai thác một cách tự phát tre nứa để cắm rào, đan lát, làm tăm tre… phục vụ cho cuộc sống là chính. Phục vụ cho nhu cầu lương thực, thực phẩm chủ yếu là măng, ngoài dùng trong các bữa ăn còn được đem tiêu thụ ngoài thị trường. Hiện nay, có một số hộ tiến hành thử nghiệm phát triển trồng măng tre Bát Độ, bước đầu cho thấy loài cây này khá thích hợp. Ngoài ra, người dân còn thu hái một số loại lâm sản ngoài gỗ khác phục vụ cho nhu cầu lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh nước uống, phục vụ tiểu thủ công nghiệp ( làm chổi chít ), nhưng mức độ không nhiều, chủ yếu là các hộ làm lâm, nông nghiệp. Các loại lâm sản ngoài gỗ trên chủ yếu được khai thác từ rừng tự nhiên, còn lại một số được trồng trong vườn nhà hoặc trồng dưới hình thức nông, lâm kết hợp như: rong, giềng, sả, ngải cứu… Mặc dù hiện nay trong xã đã có quy chế bảo vệ rừng nhưng do nhu cầu cuộc sống, một số người dân vẫn lén lút vào rừng tự nhiên khai thác lâm sản ngoài gỗ, việc khai thác một cách bừa bãi này sẽ ảnh hưởng không tốt đến số, chất lượng tài nguyên rừng. Vì vậy, trong tương lai xã, cần phải quan tâm hơn nữa đến việc bảo vệ và phát triển lâm sản ngoài gỗ. 4.2.4.2. Nhu cầu gỗ củi Nhìn chung, trên địa bàn xã Trung Minh nhu cầu về gỗ củi là không cao. Đa phần người dân đã có nhà xây bằng gạch nên mức độ sử dụng gỗ vào xây dựng không lớn, khi cần dựng nhà họ thường mua gỗ thương phẩm để sử dụng. Nguời dân chỉ sử dụng gỗ làm chuồng trại, đồ dùng thông thường trong gia đình, chủ yếu là các loại gỗ tạp ít giá trị được người dân tận dụng các sản phẩm thừa hoặc từ khai thác, tỉa thưa rừng trồng. Hiện tượng khai thác gỗ trộm từ rừng tự nhiên không còn xảy ra, có được như vậy là do thu nhập của người dân từng bước được cải thiện, số hộ có cuộc sống dựa vào rừng không nhiều, ý thức bảo vệ rừng của người dân được nâng cao. Mức độ sử dụng củi nhiều chủ yếu tập trung ở các hộ sản xuất lâm, nông nghiệp tại các xóm, còn các hộ sống ở hai phố Tân Lập 1 và Tân Lập 2 đa phần không sử dụng củi hoặc có sử dụng nhưng rất ít. Các hộ sống ở các xóm do đời sống thu nhập còn thấp, họ có nhận những diện tích rừng được giao khoán, kết hợp với chăn nuôi trong gia đình nên thường sử dụng nhiều củi cho việc đun nấu hàng ngày, nấu cám, nấu rượu... Người dân kiếm củi ở các diện tích rừng mà mình được giao khoán, từ sản phẩm tận thu rừng trồng, từ các cây mọc lẻ hoặc nhặt nhạnh quanh vườn nhà, chỉ có một số ít người dân vào rừng tự nhiên chặt củi nhưng mức độ không đáng kể. Bình quân mỗi hộ sử dụng 20-25 kg củi/ ngày, ở các hộ chăn nuôi nhiều, kết hợp với nấu rượu thì mức độ sử dụng củi nhiều hơn. Do củi là nguồn nguyên liệu dễ kiếm được lại không mất tiền, ít tốn công sức, đồng thời có thể tranh thủ lúc rỗi rãi, nông nhàn để đi kiếm nên mức độ ưa dùng còn rất cao. Người dân khai thác củi theo hình thức tự phát là chính và thường ít chú ý đến việc sử dụng lâu dài, cũng như những tác động xấu đến môi trường xung quang do khai thác bừa bãi củi gây ra. Vì vậy, sắp tới cần khuyến khích người dân chuyển sang dùng các loại chất đốt khác như: dùng than, ga, điện, đồng thời tích cực trồng rừng để có thể tận dụng sản phẩm tỉa thưa, sản phẩm sau khai thác nhằm đáp ứng nhu cầu củi cho các hộ gia đình, làm giảm sức ép lên tài nguyên rừng. 4.2.5. Thị trường lâm, nông sản Với vị trí thuận lợi, có tuyến đường quốc lộ quan trọng chạy qua nối liền giữa thị trấn Kỳ Sơn và thị xã Hoà Bình đã giúp cho Trung Minh có điều kiện thông thương, trao đổi hàng hoá với các khu vực xung quanh, nhất là hai thị trường đầy tiềm năng nói trên. Mặt khác với số dân khá đông 6277 người, đây cũng là nguồn tiêu thụ sản phẩm lớn nhất là các sản phẩm lâm, nông nghiệp như: thóc, gạo, rau xanh, măng, củ, quả, thịt, cá các loại… Các sản phẩm trên được sản xuất ra ngoài dùng vào cuộc sống hàng ngày, còn phần lớn người sản xuất mang ra các khu chợ ở phố Tân Lập 2, phố Ngọc và chợ trung tâm huyện Kỳ Sơn ( cách trung tâm xã 2 km về phía thị trấn Kỳ Sơn ). Mức độ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá lâm, nông nghiệp ở các chợ này khá cao, do đây là nơi tập trung đông các hộ gia đình mà đa phần là các hộ phi nông nghiệp có thu nhập cao, lương thực, thực phẩm đều phải mua ngoài thị trường, mặt khác do nhu cầu ngày càng cao của người dân cả về số, chất lượng sản phẩm hàng hoá lâm, nông nghiệp. Một số hộ có sản lượng lương thực, thực phẩm nhiều còn đem giao cho các đầu mối tiêu thụ hoặc trực tiếp đi bán trên thị xã Hoà Bình. Do có điều kiện về nhân lực, giao thông lại thuận lợi nên người dân thường trực tiếp mang đi bán, có bán tại nhà thì cũng thuận mua vừa bán nên thường ít bị tư thương ép giá. Với các điều kiện thuận lợi như vậy sản phẩm lâm, nông nghiệp sản xuất ra đến đâu tiêu thụ hết đến đấy, giá cả lại ít bấp bênh, nguồn thu đảm bảo đã góp phần vào việc duy trì sản xuất lâm, nông nghiệp, người dân chú tâm hơn nữa trong việc đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. 4.2.6. Đánh giá tiềm năng đất đai và khả năng thích nghi cây trồng của xã Trung Minh Là một xã miền núi nên Trung Minh có tiềm năng đất đai phục vụ cho sản xuất kinh doanh lâm, nông nghiệp là khá lớn. Đối với đất nông nghiệp còn một số diện tích chưa đưa vào sử dụng, các diện tích đã sử dụng hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân là do việc đầu tư phân bón cho sản xuất còn thấp, công tác thuỷ lợi, hệ thống kênh mương tưới tiêu chưa được hoàn tất đã làm hạn chế rất nhiều năng lực sản xuất của đất. Do vậy, nếu giải quyết tốt công tác thuỷ lợi thì việc thâm canh hoàn toàn có thể thực hiện được. Các loài cây nông nghiệp hiện nay đang được sử dụng như: khang dân, nhị ưu 838, tạp giao, tẻ thơm; các giống ngô như: VN10, BE 9698… và các giống rau đều tỏ ra thích hợp với đất được người dân ưa dùng. Đối với đất đồi núi, ngoài diện tích đất rừng tự nhiên hiện có, các diện tích còn lại đều có khả năng phát triển sản xuất lâm nghiệp. Nhìn chung chất lượng đất vào loại trung bình, độ dầy tầng đất trung bình thích hợp với nhiều loại cây trồng như: Lim, Lát, Sấu, Trám, Keo, Bạch Đàn, Nhãn, Vải, Na, Mận, Mơ, Xoài… Một số diện tích có độ dốc thấp, tầng đất dầy, cạnh các khe suối có thể phát triển trang trại, nông lâm kết hợp. Như vậy trong tương lai khả năng phát triển sản xuất lâm, nông nghiệp của xã Trung Minh là rất lớn, nến thực hiện được điều đó thì không những đời sống người dân từng bước được nâng lên mà môi trường sinh thái ngày càng được bảo vệ, phát triển bền vững. 4.2.7. Phân tích SWOT các vấn đề liên quan đến quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp của xã Trung Minh Qua kết quả tổng hợp điều tra, đánh giá về điều kiện cơ bản cũng như tình hình quản lý, sử dụng đất đai và một số yếu tố khác có liên quan, tôi tiến hành phân tích đánh giá theo phương pháp SWOT, kết quả được thể hiện ở bảng sau: Điểm mạnh ( S ) Cơ hội ( O ) - Toàn bộ diện tích đất đai của xã đã có chủ. - 100% số hộ nhận đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Người dân có kinh nghiệm sản xuất lâu đời. - Vị trí địa lý thuận lợi, có đường quốc lộ chạy qua - Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển Điểm yếu ( W ) Thách thức ( T ) - Xã chưa có quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp. - Chưa có kế hoạch sản xuất lâm, nông nghiệp đến từng xóm - Trình độ nhận thức của người dân chưa cao. - Cơ cấu tổ chức thiếu đồng bộ, chặt chẽ - Một số chính sách còn chậm được triển khai - Vốn đầu tư cho sản xuất lâm, nông nghiệp còn ít, chậm đến tay người dân Từ việc phân tích điểm mạnh ( S ), điểm yếu ( W ), cơ hội ( O ) và thách thức (T) trên sẽ là định hướng tốt hơn cho việc tiến hành quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp tiếp sau. 4.3. Quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp xã Trung Minh giai đoạn 2005-2015 4.3.1. Căn cứ quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp - Căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như những văn bản, nghị quyết có liên quan như: Luật đất đai năm 2003, luật bảo vệ rừng và phát triển rừng (2004)… - Căn cứ vào phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng uỷ, UBND xã trong giai đoạn tới. - Căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của huyện. - Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của xã. - Căn cứ vào hiện trạng sử dụng và tiềm năng đất lâm, nông nghiệp của xã năm 2005. - Căn cứ vào các quy trình, quy phạm có liên quan khác. - Căn cứ vào nhu cầu lương thực, nhu cầu đất ở và các nhu cầu của người dân trong tương lai. 4.3.2. Nguyên tắc phân bổ đất đai Trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh lâm, nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, nhất là đối với các xã miền núi như xã Trung Minh thì tài nguyên đất đai đóng vai trò rất quan trọng, do đó, khi tiến hành quy hoạch phân bổ đất đai cho các mục đích sử dụng khác nhau cần phải tuân theo các nguyên tắc sau: - Phải đảm bảo hợp lý, đúng đối tượng và mục đích sử dụng để đem lại hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở ưu tiên đất cho sản xuất nông nghiệp. - Phải đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng trong giai đoạn trước mắt và lâu dài, phù hợp lợi ích kinh tế nhà nước và các chủ sử dụng khác để khuyến khích sản xuất lâm, nông nghiệp. - Phải đi đôi với việc cải tạo, bảo vệ, bồi dưỡng đất, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái khu vực để sản xuất ổn định và đất đai ngày càng màu mỡ hơn. - Phải tính đến điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của vùng, của xã. 4.3.3. Định hướng sử dụng đất lâm, nông nghiệp Trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội xã Trung Minh để phát huy nội lực của xã, từng bước giải quyết công ăn việc làm để nâng cao đời sống cho nhân dân và đảm bảo môi trường sinh thái thì định hướng sử dụng đất lâm, nông nghiệp như sau: *) Định hướng phát triển, sử dụng đất lâm nghiệp - Bảo vệ tốt diện tích rừng tự nhiên hiện có nhằm phát huy tối đa tác dụng phòng hộ của rừng. - Tiến hành trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc trên địa bàn toàn xã. - Bảo vệ và chăm sóc các diện tích rừng trồng cây nguyên liệu. - Trồng cây phân tán trong các khu dân cư, nơi công cộng nhằm làm đẹp cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái. - Bố trí và khai thác rừng trồng hợp lý để đảm bảo độ che phủ của rừng. *) Định hướng phát triển, sử dụng đất nông nghiệp - Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, đưa giống mới, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp. - Vận động nhân dân chuyển đổi diện tích nông nghiệp từ các thửa nhỏ manh mún, phân tán thành các ô thửa lớn liền bờ, liền khoảnh, tạo nên vùng chuyên canh lớn. - áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, thực hiện cơ giới hoá sản xuất. - Chuyển đất vườn tạp không hiệu quả sang trồng cây ăn quả. 4.3.4. Quy hoạch phân bố sử dụng đất lâm, nông nghiệp Trên cơ sở phân tích hiện trạng, các căn cứ, nguyên tắc phân bổ đất đai và định hướng sử dụng đất lâm, nông nghiệp cũng như phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của xã Trung Minh trong 10 năm tới, tôi đề xuất quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp như sau: 4.3.4.1. Quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp Để đảm bảo cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong địa bàn xã, đồng thời bảo vệ nguồn tài nguyên đất,nước, bảo vệ được môi trường sinh thái, tạo điều kiện cho việc phát triển lâm, nông nghiệp bền vững, tôi tiến hành quy hoạch như sau: Đối với đất rừng tự nhiên cần giữ nguyên diện tích là 155 ha, đồng thời cần có các biện pháp tác động khoanh nuôi tái sinh nhằm nâng cao khả năng phòng hộ của rừng. Đối với các diện tích trồng bạch đàn và Keo tai tượng đã khai thác (260,5 ha ) do chất lượng rừng chồi không đảm bảo cần được khai thác và trồng mới lại, đồng thời tận dụng sản phẩm thu được phục vụ cho nhu cầu gỗ củi của người dân. Trong đó, sẽ bố trí trồng rừng sản xuất kết hợp phòng hộ và tạo cảnh quan sinh thái cho khoảng 60 ha quanh khu hồ Ngọc. Đối với diện tích rừng trồng có trữ lượng (113,44 ha ) tiếp tục bảo vệ, theo kế hoạch thì trong 2 năm tới sẽ tiến hành khai thác phục vụ nguyên liệu giấy, sau khai thác cần được trồng mới lại ngay. Đưa toàn bộ 390,32 ha đất đồi núi chưa sử dụng vào sử dụng phục vụ cho công tác trồng rừng nguyên liệu và trồng rừng phòng hộ. Chuyển một phần diện tích đất rừng trồng cây nguyên liệu sang sử dụng vào mục đích khác cụ thể sang xây dựng mô hình trang trại (14,6 ha ), đất du lịch, dịch vụ (2 ha ), trồng rừng phòng hộ 56 ha (khu vực suối Củ) và sang đất nghĩa trang nghĩa địa 0,5 ha ( do nhu cầu mở rộng diện tích đất này lên ). Như vậy, tổng diện tích đất lâm nghiệp đến năm 2015 là 980,16 ha, chiếm 65,14% tổng diện tích tự nhiên, tăng 373,22 ha so với hiện tại. 4.3.4.2. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp Để thực hiện cho mục đích phát triển hệ thống giao thông, thuỷ lợi và đất ở từ nay đến năm 2015 đã lấy vào đất nông nghiệp 4,23 ha, đồng thời bằng các biện pháp cải tạo đất đưa 9,01 ha đất bằng chưa sử dụng vào trồng cây hàng năm và 4,98 ha đất có mặt nước vào nuôi trồng thuỷ sản, ngoài ra còn được chuyển vào từ đất lâm nghiệp 14,6 ha để xây dựng mô hình trang trại trồng trọt, chăn nuôi. Do đó, tổng diện tích đất nông nghiệp trong kỳ quy hoạch là 257,51 ha, chiếm 17,11% tổng diện tích tự nhiên, tăng 24,36 ha so với năm 2005, được bố trí sử dụng như sau: a) Đất trồng cây hàng năm: Hiện tại trên địa bàn xã chưa có ruộng 3 vụ, tuy nhiên sau khi cải tạo, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, chân ruộng 3 vụ có thể bố trí trên các khu đồng xóm Ngọc, xóm Chu, xóm Trung với diện tích khoảng 40 ha được chuyển từ đất 2 vụ sang, chiếm 15,53% đất nông nghiệp , với công thức luân canh dự kiến là: Lúa xuân + lúa mùa + cây vụ đông. Đất 2 vụ lúa sẽ chuyển sang đất 3 vụ 40 ha, sang đất giao thông 0,03 ha (mở rộng đường xóm Ngọc) và được chuyển vào từ đất 1 vụ 46,96 ha. Như vậy, diện tích đất 2 vụ đến năm 2015 sẽ là 50 ha, chiếm 19,42% đất nông nghiệp, với công thức luân canh dự kiến là: Lúa xuân + lúa mùa Đất 1 vụ lúa sau khi chuyển sang đất 2 vụ 46,96 ha, chuyển sang đất thuỷ lợi 0,21 ha, diện tích còn lại là 29,8 ha, chiếm 11,57% đất nông nghiệp với công thức luân canh dự kiến: Lúa xuân + cây màu Đối với đất trồng cây hàng năm khác ( đất chuyên màu ) sau khi đưa 9,01 ha đất bằng chưa sử dụng vào trồng màu thì diện tích dự kiến là 49,9 ha, chiếm 19,38% đất nông nghiệp. Các loài cây được trồng chủ yếu là ngô, mía. Như vậy, tổng diện tích đất trồng cây hàng năm đến năm 2015 sẽ là 169,7 ha tăng 8,77 ha so với hiện nay. b) Đất vườn tạp Trong kỳ quy hoạch sẽ chuyển 0,65 ha đất vườn tạp sang đất giao thông (nhằm mở rộng các tuyến đường trong các xóm, phố), chuyển sang đất ở 3,34 ha, đất vườn cây ăn quả tập trung 10,2 ha, còn lại 55,76 ha (giảm 14,19 ha) cải tạo để tiếp tục sử dụng vào mục đích trồng cây ăn quả. c) Đất trồng cây lâu năm Sau khi chuyển từ đất lâm nghiệp sang 14,6 ha và từ đất vườn tạp 10,2 ha thì diện tích đất trồng cây ăn quả sẽ là 24,8 ha, chiếm 9,63% đất nông nghiệp, trong đó có 14,6 ha là trồng theo mô hình trang trại, 10,2 ha là vườn cây ăn quả tập trung. d) Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản Đến năm 2015 diện tích đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 7,25 ha, tăng thêm 4,98 ha do khai thác đất mặt nước chưa sử dụng vào nuôi thả cá, nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm tươi sống cho thị truờng. 4.3.4.3. Quy hoạch sử dụng đất phi nông nghiệp 4.3.4.3.1. Quy hoạch sử dụng đất thổ cư 1. Dự báo mức độ gia tăng dân số Qua số liệu điều tra cho thấy tỷ lệ phát triển dân số xã Trung Minh trong những năm gần đây đã có chiều hướng giảm tích cực. Năm 2005 toàn xã có 6277 người với 1474 hộ, tỷ lệ phát triển dân số là 1%. Căn cứ mục tiêu phương hướng phát triển kinh tế – xã hội trong kỳ quy hoạch dự kiến đến năm 2015 tình hình dân số như sau: Biểu 06: Dự tính dân số xã Trung Minh giai đoạn 2005 – 2015 STT Năm Tỷ lệ tăng dân số (%) Số khẩu Số hộ 1 2005 1 6277 1474 2 2006 0.97 6338 1488 3 2007 0.95 6398 1502 4 2008 0.92 6457 1516 5 2009 0.9 6515 1530 6 2010 0.87 6572 1543 7 2011 0.85 6628 1556 8 2012 0.82 6682 1569 9 2013 0.8 6735 1582 10 2014 0.77 6787 1594 11 2015 0.75 6838 1606 2. Dự báo nhu cầu đất ở Số hộ có nhu cầu đất ở được tính trên cơ sở số hộ tồn đọng và số hộ phát sinh trong kỳ quy hoạch. Cụ thể căn cứ vào tập quán chung sống dưới một nóc nhà, tập quán xây dựng gia đình ở địa phương, số hộ có khả năng thừa kế gia sản của bố mẹ, số hộ có khả năng tự dãn trên đất vườn tạp ( đối với những hộ có đất khuôn viên từ 600 m2 trở lên ). Qua biểu 07 ta thấy số hộ của xã đến năm 2015 là 1606 hộ, phát sinh thêm 132 hộ, ngoài ra số hộ còn tồn đọng hiện nay là 65 hộ. Đồng thời, qua điều tra khảo sát thực tế tại địa phương cho thấy diện tích đất khuôn viên ( đất ở cộng vườn tạp ) của các hộ rất lớn, số hộ có khả năng thừa kế đất của bố mẹ có khoảng 30 hộ. Vậy để đảm bảo cho việc sử dụng đất có hiệu quả, tiết kiệm và đảm bảo cho việc tổ chức đời sống của nhân dân được thuận lợi, tôi xác định như sau: Đến năm 2015 toàn xã sẽ có khoảng 167 hộ tự dãn trên đất vườn tạp, không cần cấp mới. Diện tích đất vườn tạp được chuyển sang đất ở là 3,34 ha. Như vậy, diện tích đất thổ cư tính đến năm 2015 là 53,47 ha, chiếm 42,41% đất phi nông nghiệp. 4.3.4.3.2. Quy hoạch sử dụng đất chuyên dùng Quy hoạch phân bổ sử dụng đất chuyên dùng là một trong những nội dung quan trọng của quy hoạch sử dụng đất cấp xã nói chung, nhằm hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong xã. Tuy nhiên, trong nội dung bản quy hoạch này tôi chỉ điểm qua một số công trình quan trọng sau: - Mở rộng, xây mới một số công trình xây dựng cơ bản như trường học (thêm 0,45 ha ), nhà văn hoá (0,07 ha ). - Trung Minh với tiềm năng phát triển du lịch, dịch vụ nhưng chưa được khai thác sử dụng do chưa đủ vốn đầu tư để xây dựng, tôn tạo. Vì vậy, xã cần có kế hoạch nhằm thu hút các tổ chức kinh tế đầu tư phát triển khu du lịch hồ Ngọc, xây dụng khu vui chơi, nhà nghỉ trên diện tích 2 ha lấy từ đất lâm nghiệp. - Tôn tạo, xây dựng mới hệ thống kênh mương tưới tiêu trên các cánh đồng, diện tích mở rộng thêm lấy từ đất nông nghiệp 0,21 ha. - Mở rộng các tuyến đường rộng bình quân thêm 1 m, cụ thể đường vào xóm Ngọc thêm 0,03 ha, đường nội xóm, phố 0,81 ha, mở thêm 733 m đường vào xóm Chu. Tăng diện tích đất nghĩa trang thêm 0,5 ha. Sau khi thực hiện quy hoạch phân bổ đất như trên, đến năm 2015 cơ cấu đất đai xã Trung Minh được thể hiện ở biểu sau: Biểu 08: Biểu quy hoạch sử dụng đất xã Trung Minh giai đoạn 2005 - 2015 STT Loại đất Hiện trạng (ha) Quy hoạch (ha) Cơ cấu (%) So sánh Tổng diện tích tự nhiên 1504,68 1504,68 100 0 I Nhóm đất nông nghiệp 840.04 1237,67 82,25 +397,63 I.1 Đất lâm nghiệp 606,94 980,16 65,14 +373,22 I.1.1 Rừng tự nhiên 155 155 15,81 0 I.1.1.2 Rừng tự nhiên phòng hộ 155 155 15,81 0 I.1.2 Rừng trồng 451,94 825,16 84,19 +373,22 I.1.2.1 Rừng trồng sản xuất 451,94 709,16 72,35 +257,22 I.1.2.2 Rừng trồng phòng hộ 0 56 5,71 +56 I.1.2.3 Rừng trồng đặc dụng 0 60 6,12 +60 I.2 Đất nông nghiệp 233,15 257,51 17,11 +24,36 I.2.1 Đất trồng cây hàng năm 160,93 169,7 65,9 +8,77 I.2.1.1 Đất ruộng lúa, lúa màu 120,04 119,8 46,52 -0,24 I.2.1.1.1 Ruộng 3 vụ 0 40 15,53 +40 I.2.1.1.2 Ruộng 2 vụ 43,07 50 19,42 +6,93 I.2.1.1.3 Ruộng 1 vụ 76,97 29,8 11,57 -47,17 I.2.1.2 Đất chuyên màu 40,89 49,9 19,38 +9,01 I.2.2 Đất vườn tạp 69,95 55,76 21,65 -14,19 I.2.3 Đất trồng cây lâu năm 0 24,8 9,63 +24,8 I.2.3.1 Đất trồng cây ăn quả 0 24,8 9,63 +24,8 I.2.4 Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 2,27 7,25 2,86 +4,98 II Nhóm đất phi nông nghiệp 119.34 126,07 8,38 +6,73 II.1 Đất thổ cư 50,51 53,47 42,41 +2,96 II.2 Đất chuyên dùng 68,83 72,6 57,59 +3,77 II.2.1 Đất xây dựng 20,47 22,47 17,82 +2 II.2.2 Đất giao thông 20,91 21,97 17,43 +1,06 II.2.3 Đất thuỷ lợi 16,46 16,67 13,22 +0,21 II.2.4 Đất an ninh quốc phòng 8,51 8,51 6,75 0 II.2.5 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 2,48 2,98 2,36 +0,5 III Nhóm đất khác 545,25 140,94 9,37 -404,31 III.1 Đất chưa sử dụng 404.31 0 0 -404.31 III.1.1 Đất bằng chưa sử dụng 9,01 0 0 -9,01 III.1.2 Đất đồi núi chưa sử dụng 390,32 0 0 -390,32 III.1.3 Đất có mặt nước chưa sử dụng 4,98 0 0 -4,98 III.2 Sông suối 140,94 140,94 100 0 4.3.4.4. Sơ đồ chu chuyển đất đai Biểu 08: Sơ đồ chu chuyển đất đai của xã Trung Minh giai đoạn 2005 - 2015 Tổng diện tích tự nhiên 1504,68 ha Tổng diện tích tự nhiên 1504,68 ha Đất lâm nghiệp 606,94 ha Đất chuyên dùng 68,83 ha Đất nông nghiệp 257,51 ha Đất lâm nghiệp 980,16 ha Đất chuyên dùng 72,6 ha Đất ở 53,47 ha Đất khác 140,94 ha Đất khác 545,25 ha Đất ở 50,51 ha Hiện trạng 2005 Quy hoạch 2015 Đất nông nghiệp 233,15 ha 1504,68 228,92 604,44 68,83 50,51 140,94 13,99 0,38 2,5 0,89 3,34 390,32 4.3.5. Quy hoạch các biện pháp sản xuất kinh doanh lâm, nông nghiệp 4.3.5.1. Quy hoạch các biện pháp sản xuất kinh doanh lâm nghiệp 4.3.5.1.1. Quy hoạch các biện pháp khoanh nuôi tái sinh rừng Đối với 155 ha rừng tự nhiên phục hồi trạng thái IIa, IIb cần thực hiện tổng hợp các biện pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung trong khoảng 5 năm, nhằm duy trì, ổn định tính bền vững của hệ sinh thái rừng. Các biện pháp tác động cụ thể như sau: - Tăng cường công tác tuần tra, bảo vệ nhằm ngăn chặn những hoạt dộng tiêu cực của người dân tác động vào rừng như: khai thác gỗ củi, đốt nương làm rẫy, chăn thả trâu bò bừa bãi. - Phát luỗng dây leo bụi rậm, loại bỏ cây phi mục đích, xử lý đất tạo điều kiện cho cây non tái sinh phát triển. - Tra dặm hạt hoặc trồng dặm cây con, tỉa chồi đối với các cây có giá trị. 4.3.5.1.2. Quy hoạch các biện pháp trồng rừng 1) Trồng rừng Qua kết quả điều tra đánh giá về điều kiện tự nhiên như: đất đai, khí hậu, địa hình, hiện trạng tài nguyên rừng, khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên, khả năng phòng hộ, giá trị kinh tế, cũng như nhu cầu sản phẩm, tôi mạnh dạn đề xuất một số phương án sau: *) Đối với rừng trồng sản xuất nguyên liệu giấy, loài cây được chọn là Bạch đàn và Keo lai. Bạch đàn là cây đã trồng trước đây vào được đánh giá là khá hiệu quả, cây sinh trưởng tốt, năng suất cao. Keo lai là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm, đây là loài sinh trưởng nhanh vượt lên rõ rệt trên tán rừng, thích hợp với khí hậu nóng ẩm, chịu được sương gió nhẹ. Keo lai là cây ưa sáng từ nhỏ, cho năng suất cao và có khả năng cải tạo đất tốt. Kỹ thuật trồng: - Làm đất, xử lý thực bì, cuốc hố 30x30x30 cm trước khi trồng 15 đến 20 ngày, sau đó lấp hố lại. - Phương thức trồng thuần loài. - Phương pháp trồng bằng cây con có bầu, tiêu chẩn cây con: trên 3 tháng tuổi, chiều cao 25-30 cm, đường kính trên 3mm, không sâu bệnh, cụt ngọn. - Mật độ trồng 2200 cây/ ha. - Thời vụ trồng vào mùa xuân hoặc mùa thu, nên trồng trước hoặc sau khi trời mưa. *) Đối với trồng rừng phòng hộ đầu nguồn Tại khu vực quanh suối Củ yêu cầu phòng hộ là khá cao, vì vậy tôi lựa chọn loài cây trồng là Lát hoa và Trám trắng. Đây là những loài cây không những có khả năng phòng hộ cao mà giá trị kinh tế cũng khá cao. Kỹ thuật trồng: - Làm đất, xử lý thực bì, cuốc hố 40x40x40 cm. công việc này được tiến hành trước khi trồng từ 15 đến 20 ngày. - Phương thức trồng thuần loài. - Phương pháp trồng bằng cây con có bầu. Tiêu chẩn cây con đem trồng: cây sinh trưởng tốt, xanh tốt, không bị sâu bệnh, tuổi từ 4 – 6 tháng, chiều cao từ 30 – 40 cm. - Mật độ trồng: 1000cây/ha. - Thời vụ trồng: trồng vào mùa xuân hoặc mùa thu, nên trồng trước hoặc sau khi trời mưa. *) Đối với rừng trồng đặc dụng kết hợp phòng hộ gần khu hồ Ngọc, loài cây được chọn là Thông nhựa. Thông nhựa là cây lâu năm, vừa có giá trị kinh tế cao, vừa có tác dụng phòng hộ lâu dài, đồng thời vừa có khả năng cải tạo môi trường, làm trong lành không khí rất, tốt nhất là những nơi nghỉ ngơi, du lịch như hồ Ngọc. Đặc điểm của cây Thông nhựa là cây dễ tính, trong tự nhiên mọc trên đất xấu khô kiệt, các cây khác không sống được thì cây này mọc thuần loài và phát triển bình thường, là cây ưa sáng hoàn toàn, khi nhỏ chịu bóng râm nhẹ, xanh quanh năm. Kỹ thuật trồng: - Làm đất, phát dọn thực bì, cuốc hố 40x40x40 cm, công việc này được tiến hành trước khi trồng 1 – 2 tháng. - Phương thức trồng thuần loài. - Phương pháp trồng bằng cây con có bầu, tiêu chuẩn cây con: tuổi từ 12-18 tháng, chiều cao 7-12 cm, đường kính cổ rễ 6-8 mm, không bị sâu bệnh. - Mật độ trồng: 2500 cây/ha. - Thời vụ trồng vào mùa xuân hoặc mùa thu, nên trồng trước hoặc sau cơn mưa. *) Ngoài ra còn có thể trồng cây phân tán ven đường, quanh công sở, nơi công cộng… vừa tạo cảnh quan đẹp, vừa góp phần cải thiện môi trường sinh thái, đồng thời người dân có thể tận dụng gỗ củi phục vụ cho nhu cầu chất đốt hàng ngày. 2. Chăm sóc rừng Tiến hành thực hiện các biện pháp chăm sóc đối với toàn bộ diện tích rừng mới trồng trong 3 năm đầu. - Năm thứ nhất chăm sóc 2 lần vào tháng 4, 5 và tháng 11, 12, với các công việc phát dọn thực bì trên diện tích trồng rừng, làm cỏ kết hợp với xáo đất quanh hố, vun gốc, chú ý tránh làm tổn thương đến cây con, có thể tiến hành bón thúc bằng NPK với định mức 0,1 kg/cây. - Năm thứ 2, 3 công việc tương tự năm thứ nhất nhưng diện tích phát quang tăng dần và vun đất cao hơn. - Sau 3 tháng nếu số cây chết trên 10% thì cần tiến hành trồng dặm ngay hoặc ngay vụ sau đó. Chú ý chọn cây trồng dặm phải cùng một loài cây, cùng kích thước và cùng tuổi với cây đã trồng. 3. Bảo vệ rừng Tiến hành bảo vệ toàn bộ diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng từ khi trồng đến khi khai thác. Công việc chủ yếu là tuần tra kiểm soát, ngăn chặn sự phá hoại của con người, gia súc, đồng thời có biện pháp phòng chống sâu bệnh và lửa rừng. 4. Nuôi dưỡng rừng trồng Đối với các diện tích rừng trồng sau thời gian chăm sóc cần tiến hành các biện pháp chặt nuôi dưỡng, bao gồm các công việc như phát luỗng dây leo, bụi rậm, tỉa cành, tỉa thưa…, nhằm điều chỉnh mật độ và mạng hình phân bố cây, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sản lượng rừng, đồng thời tận dụng sản phẩm trung gian phục vụ cho nhu cầu gỗ củi của người dân. 4.3.5.1.3. Quy hoạch các biện pháp khai thác rừng Với diện tích rừng bạch đàn, keo cấp tuổi II là 113,44 ha sẽ tiến hành khai thác trong 2 năm 2007 và 2008 theo đúng kế hoạch trước đây đề ra. Diện tích trồng keo tai tượng trồng năm 2004 ( 78 ha ) sẽ tiến hành khai thác vào năm 2012. Các diện tích rừng trồng sắp tới sau 7-8 năm mới có thể khai thác, khi cây đã đủ tuổi thành thục phục vụ nguyên liệu giấy. Khi khai thác có thể áp dụng phương thức khai thác trắng, nhưng phải có kế hoạch trồng lại ngay. Trước khi khai thác phải thiết lập được bản phương án khai thác cho phù hợp. 4.3.5.2. Quy hoạch các biện pháp sản xuất nông nghiệp Từ xưa đến nay, hoạt động sản xuất nông nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống người dân, đặc biệt là người dân nông thôn. Nó cung cấp lương thực, thực phẩm thiết yếu cho con người, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, đem lại thu nhập cho người dân để từ đó có thể phục vụ cho các nhu cầu khác. Tuy nhiên, hiện nay do nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp không ngừng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng, mặt khác do áp lực từ các ngành khác mà hoạt động sản xuất nông nghiệp cần có những chuyển biến tích cực hơn nữa. Trong thời gian tới, phải tiếp tục nâng cấp, cải tạo hệ thống thuỷ lợi để luôn luôn chủ động nguồn nước, bố trí cây trồng hợp lý, kết hợp với các biện pháp đầu tư thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, đa dạng hoá sản phẩm. Để không ngừng năng cao năng suất, chất lượng các loại cây trồng cần áp dụng một số biện pháp cơ bản sau: *) Đối với cây hàng năm Tiếp tục sử dụng các giống lúa cho năng suất, chất lượng cao như: nhị ưu 838, khanh dân, Q5…, ngoài ra còn có thể sử dụng các giống lúa có hiệu quả kinh tế cao như nếp na, tẻ thơm. Các giống cây màu được sử dụng như: ngô lai VN10, BE9698…, các giống mía, khoai, sắn, rau xanh các loại. Trước khi trồng cần phải xử lý đất, đây là khâu rất quan trọng do đó phải tiến hành đúng kỹ thuật. Sau khi cày lật đất cần phơi ải từ 5 đến 7 ngày, sau đó bừa kỹ làm cho đất tơi nhỏ, san phẳng mặt ruộng, đồng thời loại bỏ rác vụn cỏ dại. Trước khi cấy bón lót bằng phân chuồng, đạm, lân. Với cây màu sau khi bừa đất loại bỏ cỏ dại cần lên luống và đào rãnh thoát nước. Sau khi trồng cần thường xuyên bảo vệ, chăm sóc nhằm đảm bảo cho cây sinh trưởng, phát triển thuận lợi. Thường xuyên kiểm tra tình hình sâu bệnh, chuột hại để có biện pháp xử lý kịp thời. Đồng thời tiến hành làm cỏ, bón thúc, kích thích sinh trưởng, phát triển của cây. *) Đối với cây ăn quả Với 24,8 ha cây ăn quả được chuyển từ các loại đất khác sang, tiến hành trồng các loại cây ăn quả có giá trị cao như: Vải thiều, Nhãn lồng, Na giai, Xoài… Kỹ thuật trồng: Đất trồng được phát dọn thực bì trên toàn diện tích, đào hố với kích thước 60x60x60 cm. Mật độ trồng chung cho cả 4 loài là 250 cây/ha. Trước khi trồng cần bón lót bằng phân chuồng và phân NPK. Sau khi trồng cần thường xuyên chăm sóc, làm cỏ, xới đất, vun gốc, bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật nhằm duy trì quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng. *) Với đất nuôi trồng thuỷ sản, cùng với việc mở rộng diện tích trong kỳ quy hoạch cần tiếp tục đầu tư cải tạo nâng cấp, đầu tư kỹ thuật, con giống, để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng, cung cấp thực phẩm và nâng cao thu nhập của người dân. 4.3.6. Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển sản xuất lâm, nông nghiệp 4.3.6.1. Giải pháp về chính sách Việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như phát triển sản xuất lâm, nông nghiệp ở các xã miền núi nói riêng đều không nằm ngoài các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, để phát triển lâm, nông nghiệp một cách ổn định, bền vững, đáp ứng được nhu cầu của người dân cần phải có một hệ thống chính sách phù hợp, toàn diện và thiết thực. - Chính sách khuyến nông, khuyến lâm nhằm tạo lập một mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm từ tỉnh, huyện đến xã, thôn. Đảm bảo mỗi xã có một cán bộ chuyên trách khuyến nông, khuyến lâm, đồng thời mỗi xóm cũng có một cán bộ phụ trách khuyến nông, khuyến lâm của thôn. Các cán bộ khuyến nông, khuyến lâm thường xuyên tuyên truyền, chuyển giao kỹ thuật sản xuất thông qua các lớp tập huấn tới từng hộ gia đình, giúp họ từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng các giống mới, tiến bộ khoa học, kỹ thuật, các mô hình canh tác tiên tiến vào sản xuất. Đồng thời, các cán bộ khuyến nông, khuyến lâm phải không ngừng nâng cao trình độ, hiểu biết, thường xuyên tìm tòi các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để chuyển giao cho người dân áp dụng vào sản xuất lâm, nông nghiệp. - Chính sách bảo trợ lâm, nông nghiệp: Nhà nước cần lập các quỹ bảo trợ lâm, nông nghiệp để hỗ trợ cho các hộ nông dân khi có những rủi ro, thất thu, hạn hán, lũ lụt, khi có những biến động về giá… Quỹ này được hình thành từ các nguồn ngân sách Nhà nước cấp, nguồn tài trợ quốc tế, các nguồn do các tổ chức xã hội và cá nhân khác tài trợ, với phương pháp bảo trợ chủ yếu thông qua hệ thống tín dụng. - Chính sách phát triển nông thôn miền núi: Phát triển nông thôn toàn diện theo hướng đa dạng hoá các ngành nghề, phát triển sản xuất lâm, nông nghiệp kết hợp với phát triển du lịch, dịch vụ, và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, nhằm tăng thu nhập tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. Từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường đầu tư thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất sản phẩm hàng hoá, kết hợp với công nghiệp chế biến. 4.3.6.2. Giải pháp về kỹ thuật Yếu tố khoa học kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển sản xuất lâm, nông nghiệp bởi cây trồng vật nuôi ngoài chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, môi trường còn chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các biện pháp tác động của con người. Sản xuất đúng kỹ thuật sẽ phát huy được hết các ưu điểm vốn có của cây trồng, vật nuôi, tận dụng tối đa tiềm năng đất đai, mang lại năng suất, chất lượng cao, góp phần tăng thu nhập cho người dân, cải thiện cuộc sống. *) Đối với sản xuất lâm nghiệp - Tuyên truyền phổ biến các biện pháp kỹ thuật lâm sinh như: kỹ thuật trồng rừng, chăm sóc bảo vệ rừng, các biện pháp nuôi dưỡng, khai thác rừng trồng. - Thường xuyên mở lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho người dân. - Tiến hành các biện pháp kỹ thuật đúng quy trình kỹ thuật. - Khuyến kích phát triển sản xuất nông – lâm kết hợp trong những năm đầu. *) Đối với sản xuất nông nghiệp - Đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, khai hoang mở rộng diện tích, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi. - Cải tạo các giống cây trồng vật nuôi, đưa các giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất. - áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, thực hiện đúng quy trình kỹ thuật đã đặt ra. - Khuyến kích người dân phát triển mô hình VAC, RVAC…, mô hình trang trại, phát triển sản xuất đa dạng hàng hoá lâm, nông sản. 4.3.6.3.Giải pháp về vốn Trong kỳ quy hoạch, do mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó việc đầu tư cho sản xuất lâm, nông nghiệp là rất lớn, ngoài đầu tư cho thâm canh, mở rộng diện tích còn phải đầu tư cho việc sử dụng giống mới, cho công tác chăm sóc, bảo vệ… Chính vì vậy, vấn đề đặt ra không chỉ cho người dân mà cả chính quyền địa phương là làm sao huy động được các nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, phát huy được hết tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Các nguồn vốn có thể huy động được bao gồm: Vốn vay từ ngân sách Nhà nước thông qua ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, vốn dự án trồng 5 triệu ha rừng, dự án trồng rừng phòng hộ đầu nguồn, vốn vay của chương trình 135, vốn tự có của nhân dân. Tuy nhiên, để có thể thu hút được người dân tích cực tham gia vào các hoạt động sản xuất lâm, nông nghiệp thì các ngân hàng cần có cơ chế hoạt động phù hợp hơn nữa như: tăng định mức cho vay, cho vay dài hạn với lãi suất thấp, nhất là đối với vốn đầu tư cho sản xuất lâm nghiệp. Mặt khác, mở rộng phát triển quỹ tín dụng nhân dân do các đoàn thể ( thanh niên, phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội nông dân…) phát động để có thể huy động vốn tại chỗ, đáp ứng nhu cầu sản xuất. Không ngừng hoàn thiện, củng cố mối quan hệ giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các hộ gia đình. Đối với những hộ có điều kiện cần khuyến khích họ tự bỏ vốn ra đầu tư cho sản xuất, để có thể chủ động hơn trong sản xuất. 4.3.6.4. Giải pháp về tổ chức Để có thể đạt được những kết quả mà phương hướng, nhiệm vụ đề ra đối với sản xuất lâm, nông nghiệp, ngoài việc thực hiện các giải pháp trên thì giải pháp về tổ chức cũng đóng vai trò không nhỏ. Vì vậy cần phải: - Tăng cường tổ chức, quản lý chính quyền các cấp, đặc biệt cấp xã, bổ sung hoàn chỉnh hương ước của xã, thôn, xóm về công tác bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng. - Thành lập các tổ đội quản lý bảo vệ rừng ở các xóm, kết hợp với kiểm lâm địa bàn thường xuyên tuần tra bảo vệ rừng. - Tăng cường đội ngũ kỹ sư lâm, nông nghiệp có trình độ, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ chuyên trách lâm, nông nghiệp. - Thường xuyên tổ chức các cuộc họp bàn dân, tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm sản xuất cho người dân. 4.3.6.5. Giải pháp về thị trường lâm, nông sản Với việc mở rộng phát triển sản xuất lâm, nông nghiệp, sản phẩm hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều, đa dạng về chủng loại, chất lượng. Vì vậy, để có thể tiêu thụ được toàn bộ số lượng sản phẩm đó thì cần phải có một hệ thống thị trường tiêu thụ hoạt động một cách linh động có hiệu quả, với năng lực chu chuyển hàng hoá lớn. Để có thể đáp ứng được nhu cầu đặt ra, trong thời gian tới xã cần phải có những định hướng phát triển sau: - Mở rộng và phát triển giao lưu thông thương hàng hoá cũng như các hoạt động thương mại ở nông thôn nhằm từng bước xác lập mối quan hệ lâu dài giữa sản xuất với lưu thông và tiêu dùng, hình thành và ổn định kênh lưu thông, buôn bán ở các khu vực. - Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn để tạo ra nhiều trung tâm thương mại, tạo môi trường tốt cho phát triển, giao lưu, trao đổi hàng hoá. - Thành lập các hội, các nhóm chuyên tiêu thụ các sản phẩm lâm, nông sản cho người dân, cung cấp thông tin về thị trường, giúp cho người dân tiến hành sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. 4.3.7. Tổng hợp vốn đầu tư, nguồn vốn và ước tính hiệu quả 4.3.7.1. Tổng hợp vốn đầu tư 1. Tổng hợp vốn đầu tư cho sản xuất lâm nghiệp Qua biểu 09 ta thấy, vốn đầu tư cho công tác trồng rừng trong kỳ quy hoạch là rất lớn (7582,797 triệu đồng), số vốn này chủ yếu là vốn vay ngân hàng, vốn đầu tư của các dự án. Biểu 09a: Tổng hợp vốn đầu tư trồng rừng sản xuất giai đoạn 2005 – 2015 Đơn vị: triệu đồng STT Hạng mục 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng Khối lượng 78 78 78 78 78 85 85 85 64.16 78 787.16 1 Trồng rừng 369.88 369.88 369.88 369.88 369.88 403.07 403.07 403.07 304.25 369.88 3732.713 2 Chăm sóc 140.40 205.92 205.92 205.92 205.92 218.52 224.40 224.40 186.89 1818.288 3 Bảo vệ 4.68 9.36 14.04 18.72 23.40 28.50 33.60 132.3 4 Khai thác 468 468.00 936 Tổng 369.88 510.28 575.80 580.48 585.16 623.03 640.31 650.87 1025.1 1058.36 6619.301 Biểu 09b: Tổng hợp vốn đầu tư trồng rừng phòng hộ giai đoạn 2005 – 2015 Đơn vị: triệu đồng STT Hạng mục 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng Khối lượng 14 14 14 14 56 1 Trồng rừng 63.01 63.01 63.01 63.01 252.056 2 Chăm sóc 23.94 35.49 35.49 35.49 11.55 141.96 3 Bảo vệ 0.84 1.68 2.52 3.36 3.36 3.36 15.12 Tổng 77.01 101 112.5 113.3 37.17 14.07 3.36 3.36 3.36 465.136 Biểu 09c: Tổng hợp vốn đầu tư trồng rừng đặc dụng giai đoạn 2005 – 2015 Đơn vị: triệu đồng STT Hạng mục 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng Khối lượng 15 15 15 15 60 1 Trồng rừng 67.52 67.52 67.52 67.52 270.06 2 Chăm sóc 25.65 38.03 38.03 38.03 12.38 152.1 3 Bảo vệ 0.9 1.8 2.7 3.6 3.6 3.6 16.2 Tổng 82.52 108.2 120.5 121.4 39.83 15.08 3.6 3.6 3.6 498.36 2. Tổng hợp vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp Đối với sản xuất nông nghiệp chỉ tính toán cho việc trồng cây ăn quả, không xác định cho các cây trồng ngắn ngày. Mặt khác, chỉ xác định vốn đầu tư cho 1ha trồng cây ăn quả. Biểu 10: Tổng hợp vốn đầu tư trồng cây ăn quả sau 10 năm Đơn vị: nghìn đồng Biểu 10: Tổng hợp vốn đầu tư trồng cây ăn quả trong giai đoạn 10 năm Năm Vải thiều Nhãn Na giai Xoài Tổng 2006 5070 4980 4940 5090 20080 2007 900 900 900 900 3600 2008 800 800 800 800 3200 2009 2525 2525 2525 2525 10100 2010 2525 2525 2525 2525 10100 2011 2525 2525 2525 2525 10100 2012 2525 2525 2525 2525 10100 2013 2525 2525 2525 2525 10100 2014 2525 2525 2525 2525 10100 2015 2525 2525 2525 2525 10100 Tổng 24445 24355 24315 24465 97580 Nguồn vốn được đầu tư vào trồng cây ăn quả chủ yếu là vốn vay ngân hàng, ngoài ra những hộ có điều kiện có thể tự bỏ vốn, tuy nhiêu số này rất ít. 4.3.7.2. Ước tính hiệu quả 4.3.7.2.1. Hiệu quả kinh tế 1. Ước tính hiệu quả kinh tế của việc gây trồng rừng Khi ước tính hiệu quả kinh tế của việc gây trồng rừng, tôi chỉ ước tính cho rừng sản xuất nguyên liệu ( Keo lai và Bạch đàn ), chứ không ước tính cho rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Mặt khác, cũng chỉ ước tính cho các diện tích rừng sẽ trồng trong kỳ quy hoạch, còn những diện tích rừng trồng trước đó không được tính đến. Sản lượng bình quân rừng trồng cây nguyên liệu giấy khi đến tuổi khai thác là 120 m3/ ha và 18 ster củi, với giá bán gỗ tại bãi I là 260000đ/ m3, giá bán củi là 70000đ/ ster. Bình quân thu được 32,460 triệu đồng/ ha. Kết quả thu được ở biểu sau: Biểu 11: Dự đoán hiệu quả kinh tế sau 10 năm trồng rừng sản xuất Đơn vị : triệu đồng Biểu 11: Dự đoán hiệu quả kinh tế trồng rừng sản xuất giai đoạn 2005-2015 Năm Chi phí Chi phí + Lãi xuất Thu nhập Cân đối 2006 369.88 727.60 -727.60 2007 510.28 938.12 -938.12 2008 575.80 989.32 -989.32 2009 580.48 932.12 -932.12 2010 585.16 878.16 -878.16 2011 623.03 873.83 -873.83 2012 640.31 839.32 -839.32 2013 650.87 797.34 -797.34 2014 1025.15 1173.69 2531.88 1358.19 2015 1058.36 1132.45 2531.88 1399.43 Tổng 6619.30 9281.96 5063.76 -4218.20 Qua biểu trên ta thấy, sau 10 tiến hành trồng rừng sản xuất, toàn xã vẫn còn nợ 4218,2 triệu đồng, số nợ này sẽ được trả sau các chu kỳ khai thác tiếp theo. 2. Ước tính hiệu quả một số cây nông nghiệp Do quỹ thời gian có hạn, khối lượng đề tài lớn nên tôi chỉ ước tính hiệu quả kinh tế cho một số loài cây ăn quả chủ yếu như: Vải thiều, Nhãn, Xoài, Na giai. Mặt khác, do chưa có kế hoạch trồng cụ thể chi tiết cho từng loài cây ăn quả nói trên nên việc ước tính hiệu quả chỉ tiến hành cho 1 ha cây ăn quả. Với các loài cây ăn quả trên sau khi trồng khoảng 4 năm sẽ cho thu hoạch. Sau khi tính toán các chỉ tiêu cho từng năm (xem phụ biểu 5 đến 11), kết quả tổng hợp được thể hiện ở biểu sau: Biểu 12: Tổng hợp dự tính hiệu quả kinh tế trồng cây ăn quả giai đoan 2005-2015 STT Chỉ tiêu Loài cây Vải thiều Nhãn Na giai Xoài 1 P(nghìn đồng) 64555 51770 61435 82410 2 Pcp (%) 264.08 212.56 353.42 336.85 3 NPV 34502.47 27223.46 32655.03 43990.88 4 NPV/năm 3450.25 2722.35 3265.50 4399.09 5 BCR 3.00 2.58 2.90 3.54 6 IRR 0.416 0.374 0.407 0.445 Qua biểu trên ta thấy bình quân thu 6,5043 triệu đồng/ha/năm ( chưa tính đến lãi suất phải trả ngân hàng ), các chỉ tiêu kinh tế khác có tính đến lãi suất đều cho thấy hiệu quả kinh tế mang lại từ việc trồng cây ăn quả là khá cao, từ đó có thể góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, cải thiện chất lượng cuộc sống. 4.3.7.2.2. Hiệu quả xã hội Cùng với việc phát triển các hoạt động sản xuất lâm, nông nghiệp trên địa bàn xã không những đem lại hiệu quả kinh tế nhất định, đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã, mà còn mang lại những hiệu quả về mặt xã hội một cách rõ rệt. Việc mở rộng diện tích sản xuất lâm, nông nghiệp, tăng cường sử dụng nhiều giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất đã góp phần làm đa dạng sản phẩm hàng hoá, không còn là sản phẩm lâm, nông nghiệp thuần tuý trước đây. Sản phẩm đa dạng sẽ đáp ứng tối đa nhu cầu của thị trường, mang lại thu nhập cao cho người nông dân, từ đó người dân có thể phục vụ cho các nhu cầu khác, góp phần ổn định cuộc sống. Đồng thời, việc mở rộng sản xuất đã tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Với khối lượng công việc khá lớn nhất là các hoạt động sản xuất lâm nghiệp cần phải huy động một lực lượng lao động lớn mới có thể hoàn thành kế hoạch đặt ra. Ngoài các thời vụ sản xuất chính, lúc nông nhàn, người dân có thể tham gia vào các hoạt động chăm sóc, bảo vệ rừng, thu hái, tiêu thụ lâm, nông sản… Bên cạnh đó, việc phát triển, mở rộng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp sẽ góp phần giải quyết được số lao động dư thừa trong xã. Người dân có công ăn, việc làm ổn định, thường xuyên sẽ hạn chế rất nhiều những tiêu cực trong xã hội do nhàn rỗi mang lại như: cờ bạc, rượu chè, trộm cắp… Cùng làm, cùng hưởng sẽ làm cho người dân càng thêm gắn bó, thân thiết, quan hệ cộng đồng, làng xóm ngày càng tốt đẹp. Cũng vì thế, người dân càng chú tâm vào sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xoá đói giảm nghèo, từng bước hướng tới cuộc sống ấm no, sung túc hơn. Không những thế trình độ khoa học kỹ thuật, cũng như trình độ nhận thức của người dân không ngừng được nâng lên, người dân ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với xã hội. Ngoài ra, do nhu cầu của sự phát triển, hệ thống cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội phục vụ cuộc sống nhân dân từng bước được hoàn thiện. Phát triển du lịch sinh thái hồ Ngọc sẽ tạo điều kiện cho Trung Minh có những chuyển biến mới, có điều kiện tiếp cận, giao lưu với các bản sắc văn hoá khác, thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông thôn, đời sống tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện, nâng cao. 4.3.7.2.3.Hiệu quả môi trường sinh thái Sau khi thực hiện phương án quy hoạch trên thì toàn bộ diện tích đất đồi núi của xã hoàn toàn được phủ xanh. Với đa phần là diện tích trồng cây nguyên liệu giấy, khi đến tuổi thành thục phải tiến hành khai thác, nhưng do sau khai thác sẽ tiến hành trồng lại rừng ngay, đồng thời với việc bố trí trồng và khai thác một cánh hợp lý sẽ vẫn luôn luôn duy trì được hoàn cảnh môi trường sinh thái ổn định, bền vững. Là một xã với diện tích đa phần là đồi núi, vấn đề đặt ra cho Trung Minh là làm có thể tạo lập và duy trì một hệ sinh thái ổn định, bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái luôn ở trạng thái cân bằng ổn định là hết sức cần thiết. Chính vì thế mà trong kỳ quy hoạch toàn bộ diện tích đất lâm nghiệp sẽ được phủ xanh hoàn toàn đóng góp một phần đáng kể vào việc phát triển hệ sinh thái bền vững. Nếu thực hiện được điều đó thì điều kiện môi trường sinh thái ngày càng có những chuyển biến tích cực, điều hoà không khí, cải thiện nguồn nước, làm gia tăng mực nước ngầm, hạn chế xói mòn, rửa trôi. Toàn bộ diện tích rừng tự nhiên phòng hộ và rừng trồng phòng hộ bổ sung góp phần ổn định nguồn nước cho các con suối, đặc biệt là hồ Ngọc (nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp ). Trong các loài cây được đưa vào trồng thì Thông và Keo có khả năng cải tạo đất rất tốt, làm tăng độ mùn trong đất, đất đai sẽ ngày càng màu mỡ, thích hợp với nhiều loại cây trồng, từ đó có thể chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang những cây có giá trị cao hơn. Rừng Thông được trồng gần khu hồ Ngọc không những là loài cây có giá trị kinh tế, giá trị phòng hộ mà còn tạo thành khu rừng có cảnh quan sinh thái đẹp, làm trong lành không khí, rất thích hợp với khu du lịch hồ Ngọc. Đối với nông nghiệp, đất đai sẽ không bị thoái hóa, bạc màu khi được áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, chế độ luân canh hợp lý, sử dụng phân bón đúng quy trình, liều lượng…, từ đó góp phần tạo thành một hệ sinh thái lâm, nông nghiệp ổn định,bền vững, nâng cao năng lực sản xuất của đất. 4.4.Kế hoạch thực hiện 4.4.1. Kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp Đối với đất nông nghiệp, do diện tích nhỏ, dễ bị biến động do các nhu cầu khác, mặt khác các loài cây trồng, vật nuôi đa dạng có chu kỳ sản xuất ngắn, có thể bị thay đổi cơ cấu do nhu cầu trước mắt nên rất khó bố trí cho từng năm, từng biện pháp thực hiện. Vì vậy, tôi chỉ lập kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp theo các giai đoạn: giai đoạn I ( 2005-2010 ), giai đoạn II ( 2010-2015 ). Giai đoạn ( 5 năm ) Nội dung Diện tích ( ha ) 2005–2010 - Thâm canh tăng vụ đưa đất 2 vụ lên 3 vụ - Đưa đất 1 vụ lên đất 2 vụ - Chuyển sang đất chuyên dùng - Chuyển sang đất thổ cư - Đưa đất bằng chưa sử dụng vào trồng cây hàng năm - Đưa đất có mặt nước chưa sử dụng vào nuôi trồng thuỷ sản - Chuyển đất vườn tạp sang vườn cây ăn quả tập trung - Xây dụng mô hình trang trại trồng cây ăn quả trên đất lâm nghiệp 30 46,96 0,24 2,12 4 2 10,2 6,8 2010–2015 - Thâm canh tăng vụ đưa thêm đất 2 vụ lên đất 3 vụ - Cải tạo đưa thêm đất bằng chưa sử dụng vào trồng cây hàng năm - Đưa thêm đất có mặt nước vào nuôi trồng thuỷ sản - Phát triển mô hình trang trại trồng cây ăn quả 10 5,01 1,22 7,8 4.4.2. Kế hoạch sử dụng đất lâm nghiệp Toàn bộ diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn xã sẽ được phủ xanh hoàn toàn sau 10 năm, những diện tích rừng sau khai thác sẽ được trồng mới lại vào năm tiếp sau đó. Kế hoạch cụ thể cho từng năm, từng hạng mục như sau: Giai đoạn Năm Nội dung Diện tích Địa điểm 1 2006 - Khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung - Trồng rừng sản xuất - Bảo vệ các diện tích rừng hiện có 155 78 281,44 - Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Miều, đồi Thờ - Xóm Chu, Xóm Miều, Xóm Ngọc, Phố Ngọc 2007 - Khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung - Khai thác rừng trồng hiện có - Trồng rừng sản xuất - Trồng rừng đặc dụng - Trồng rừng phòng hộ - Chăm sóc rừng trồng năm 2006 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 56,72 78 15 14 78 224,72 - Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Miều, Xóm Chu - Xóm Chu, Xóm Trung, núi Chạc Chò - Xóm Ngọc - Phố Ngọc - Xóm Miều, đồi Thờ - Xóm Chu, Xóm Ngọc, Phố Ngọc 2008 - Khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung - Khai thác rừng trồng hiện có - Trồng rừng sản xuất - Trồng rừng đặc dụng - Trồng rừng phòng hộ - Chăm sóc rừng trồng năm 2006, 2007 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 56,72 78 15 14 185 168 - Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Ngọc, Phố Ngọc - Xóm Miều, Xóm Trung, đồi Thờ - Xóm Ngọc, Phố Ngọc - Phố Ngọc - Xóm Miều, Chu, Trung, đồi Thờ, núi Chạc Chò -Xóm Chu, Xóm Ngọc 2009 - Khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung - Trồng rừng sản xuất - Trồng rừng đặc dụng - Trồng rừng phòng hộ - Chăm sóc rừng trồng năm 2007, 2008 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 78 15 14 214 246 - Xóm Ngọc, phố Ngọc -Xóm Chu, Xóm Ngọc - Xóm Ngọc, Phố Ngọc - Phố Ngọc - Xóm Chu, Miều, Trung, núi Chạc Chò, đồi Thờ - Xóm Chu, Xóm Ngọc, Xóm Miều, đồi Thờ 2010  - Khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung - Trồng rừng sản xuất - Trồng rừng đặc dụng - Trồng rừng phòng hộ - Chăm sóc rừng trồng năm 2008, 2009 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 78 14 15 214 353 -Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Chu, Phố Ngọc, núi Chạc Chò - Xóm Ngọc,Phố Ngọc - Phố Ngọc - Xóm Miều, Chu, Trung, Ngọc, đồi Thờ - Các địa điểm đã trồng 2 2011 - Bảo vệ rừng tự nhiên - Khai thác rừng chồi hiện có - Trồng rừng sản xuất - Chăm sóc rừng trồng năm 2009, 2010 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 60 78 214 400 - Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Chu, Xóm Trung - Xóm Miều, Xóm Chu - Xóm Chu, Ngọc, Phố Ngọc, núi Chạc Chò v.v.. - Các địa điểm đã trồng 2012 - Bảo vệ rừng tự nhiên - Khai thác rừng chồi hiện có - Khai thác rừng keo đã trồng năm 2004 - Trồng rừng sản xuất - Chăm sóc rừng trồng năm 2010, 2011 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 30 28 78 185 449 - Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Chu, Xóm Ngọc - Xóm Miều, Xóm Trung - Xóm Ngọc, núi Chạc Chò, núi Lò Rèn - Các xóm, núi Chạc Chò, Phố Ngọc - Các địa điểm đã trồng 2013 - Bảo vệ rừng tự nhiên - Khai thác rừng keo trồng năm 2004 - Trồng rừng sản xuất - Chăm sóc rừng trồng năm 2011, 2012 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 50 78 156 506 - Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Miều, Xóm Trung - Xóm Trung, Xóm Chu, đồi Bồ Đội, - Xóm Miều, Chu, Ngọc, núi Lò Rèn, Chạc Chò - Các địa điểm đã trồng 2014 - Bảo vệ rừng tự nhiên - Khai thác rừng trồng năm 2006 - Trồng rừng sản xuất - Chăm sóc rừng trồng năm 2012, 2013 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 78 85,16 156 506 - Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Miều, đồi Thờ - Xóm Ngọc, Phố Ngọc, đồi Cây Đa - Xóm Ngọc, Chu, núi Lò Rèn, đồi Bồ Đội - Các địa điểm đã trồng 2015 - Bảo vệ rừng tự nhiên - Khai thác rừng trồng năm 2007 - Trồng rừng sản xuất - Chăm sóc rừng trồng năm 2013, 2014 - Bảo vệ các diện tích rừng đã trồng 155 78 78 163,16 506 - Xóm Ngọc, phố Ngọc - Xóm Chu, Xóm Trung, núi Chạc Chò - Đồi Thờ, núi Chạc Chò, Xóm Miều - Xóm Trung, Chu, Ngọc, đồi Bồ Đội, Cây Đa - Các địa điểm đã trồng - Chương 5 kết luận – tồn tại – kiến nghị 5.1 Kết luận Sau thời gian tiến hành khoá luận “ Quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp cho xã Trung Minh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình”, đến nay đã hoàn thành với kết quả đạt được như sau: - Phân tích đánh giá một cách tổng hợp các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng của xã, từ đó tiến hành quy hoạch phân bổ sử dụng đất lâm, nông nghiệp một cách hợp lý, chi tiết trong 10 năm tới. - Phủ xanh được toàn bộ 980,16 ha diện tích đất lâm nghiệp. Công tác trồng rừng mang lại hiệu quả cao, cụ thể trồng rừng sản xuất là 709.16 ha, rừng phòng hộ là 56 ha, rừng đặc dụng là 60 ha. - Tăng cường đầu tư thâm canh, mở rộng thêm 40 ha ruộng 3 vụ, tăng diện tích đất trồng màu lên 49,9 ha, trồng mới được 24,8 ha cây ăn quả, mang lại hiệu quả kinh tế cao. - Đưa toàn bộ diện tích đất chưa sử dụng vào sản xuất lâm, nông nghiệp. - Đề xuất được các giải pháp thực hiện nhằm phát triển ổn định, bền vững sản xuất lâm, nông nghiệp, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. - Đề xuất một số loài cây trồng có giá trị kinh tế cao, phù hợp với nguyện vọng của người dân, yêu cầu của thị trường. - Ước tính được hiệu quả kinh tế mang lại từ một số loài cây trồng chính, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định cuộc sống cho nhân dân. 5.2. Tồn tại Trong quá trình tiến hành khoá luận, do quỹ thời gian có hạn, kinh nghiệm bản thân còn hạn chế, đồng thời do một số yếu tố khách quan khác nên khoá luận vẫn còn một số tồn tại nhất định: - Chưa đánh giá thật sự sâu sắc các điều kiện cơ bản của địa phương có ảnh hưởng đến sử dụng đất lâm, nông nghiệp. - Các tài liều điều tra chuyên đề như: điều tra đánh giá đất, điều tra tái sinh, kiến thức bản địa… còn chưa thực sự đầy đủ, chi tiết. - Bản quy hoạch mới chỉ đề cập đến cây trồng trong lâm, nông nghiệp, còn mảng chăn nuôi trong nông nghiệp chưa được đề cập đến. Mặt khác với thế mạnh tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ của xã nhưng chỉ được phản ánh sơ qua. - Ước tính hiệu quả mang tính dự doán, dựa vào kinh nghiệm của dân là chính, chưa lượng hoá được giá trị về mặt xã hội, môi trường sinh thái. - Trung Minh với hơn một nửa dân số phi nông nghiệp, cuộc sống không hoàn toàn dựa vào sản xuất lâm, nông nghiệp, nên nhiều người dân còn ít quan tâm đến phát triển lâm, nông nghiệp. 5.3. Kiến nghị Bản quy hoạch sử dụng đất lâm, nông nghiệp của xã Trung Minh đã được hoàn thành, nó sẽ là tài liệu quan trọng để có thể sử dụng đất lâm, nông nghiệp một cách hợp lý, đúng mục đích, đem lại hiệu quả cao. Do đó, để quy hoạch trở thành hiện thực, tôi có một số kiến nghị sau: - Đảng uỷ và nhân dân xã cần có quyết tâm thực hiện định hướng phát triển lâm, nông nghiệp, cán bộ và nhân dân trong xa phải được phổ biến các nội dung của phương án quy hoạch để cùng nhau thực hiện. - Hàng năm phải có kế hoạch chi tiết các nội dung và biện pháp thực hiện hơn nữa, thu hú

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16907.DOC