Đề tài Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam

Tài liệu Đề tài Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam: Phần mở đầu Lý do chọn đề tài Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất trong hệ thống bảo đảm xã hội. Bảo hiểm xã hội có bản chất nhân văn sâu sắc nhằm mục đích ổn định cuộc sống của người lao động. Nó luôn theo suốt cả cuộc đời người lao động từ khi còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ thai sản đến khi trưởng thành người lao động được hưởng các chế độ ốm đau, tai nạn lao động (TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN), khi về già được hưởng chế độ hưu trí và khi qua đời được hưởng chế độ mai táng phí. Thông qua phương tiện đồng tiền, bảo hiểm xã hội thực hiện các hoạt động thu, chi bảo hiểm xã hội - đây là nội dung chính của chính sách tài chính bảo hiểm xã hội. Các hoạt động bảo hiểm xã hội cần phải có nguồn tài chính làm phương tiện, song mục tiêu của các hoạt động tài chính bảo hiểm xã hội không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục đích an sinh xã hội. Xuất phát từ bản chất tốt đẹp của bảo hiểm xã hội nên ngay từ khi mới thành lập nước Đảng và Nhà nước ta đã rất qu...

doc90 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu Lý do chọn đề tài Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất trong hệ thống bảo đảm xã hội. Bảo hiểm xã hội có bản chất nhân văn sâu sắc nhằm mục đích ổn định cuộc sống của người lao động. Nó luôn theo suốt cả cuộc đời người lao động từ khi còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ thai sản đến khi trưởng thành người lao động được hưởng các chế độ ốm đau, tai nạn lao động (TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN), khi về già được hưởng chế độ hưu trí và khi qua đời được hưởng chế độ mai táng phí. Thông qua phương tiện đồng tiền, bảo hiểm xã hội thực hiện các hoạt động thu, chi bảo hiểm xã hội - đây là nội dung chính của chính sách tài chính bảo hiểm xã hội. Các hoạt động bảo hiểm xã hội cần phải có nguồn tài chính làm phương tiện, song mục tiêu của các hoạt động tài chính bảo hiểm xã hội không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục đích an sinh xã hội. Xuất phát từ bản chất tốt đẹp của bảo hiểm xã hội nên ngay từ khi mới thành lập nước Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến hoạt động này. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, chính sách bảo hiểm xã hội luôn gắn liền và phát triển cùng với các thời kỳ phát triển của đất nước. Trong thời kỳ bao cấp, chính sách tài chính bảo hiểm xã hội cũng mang nặng tính bao cấp. Bước sang thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chính sách tài chính bảo hiểm xã hội nói riêng đã được Nhà nước điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên trong việc thực hiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội đã bộc lộ một số nội dung cần phải được nghiên cứu để hoàn chỉnh tiếp như: Nhận thức về tài chính bảo hiểm xã hội như thế nào cho đúng, quỹ bảo hiểm xã hội có độc lập với ngân sách hay không, tài chính bảo hiểm xã hội có phải là tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu hay không... Và theo nội dung đổi mới thì việc thực hiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội có gì thuận lợi, khó khăn, và còn những tồn tại gì cần giải quyết? Đây chính là những vấn đề thời sự cần phải được nghiên cứu một cách có hệ thống. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi lựa chọn đề tài “Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam” làm luận văn Thạc sỹ của mình. Mục đích nghiên cứu -Tổng hợp và hệ thống hoá những vấn đề lý luận về bản chất của tài chính bảo hiểm xã hội. -Đánh giá thực trạng về tài chính bảo hiểm xã hội, thực tế quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam trong thời gian qua. -Đề xuất phương hướng nhằm hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta trong thời gian tới. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính sách của Đảng được đề ra trong các kỳ đại hội VI,VII,VIII và IX về lĩnh vực kinh tế xã hội. Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống, khái quát, tổng hợp, thống kê và phân tích. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài làm rõ thêm những nội dung liên quan đến chính sách tài chính bảo hiểm xã hội như nhận thức về tài chính của bảo hiểm xã hội như thế nào cho đúng, quỹ bảo hiểm xã hội có độc lập với ngân sách hay không, tài chính bảo hiểm xã hội có phải là tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu hay không... Đánh giá thực trạng về tài chính bảo hiểm xã hội, thực tế quản lý tài chính BHXH ở Việt nam trong thời gian qua. Trình bày một cách hệ thống nội dung chính sách tài chính trong thời kỳ đổi mới. Nêu lên phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu chính sách tài chính bảo hiểm xã hội mà chủ yếu là chính sách thu, chi của 5 chế độ bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội Việt nam quản lý còn chính sách bảo hiểm y tế do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài chưa đề cập đến. Tuy nhiên Bảo hiểm y tế đã sát nhập vào bảo hiểm xã hội nên phần điều kiện tổ chức thực hiện đề tài có đề cập một số phần nhỏ để đảm bảo tính thống nhất trong việc tổ chức thực hiện. 6. Kết cấu của luận văn Để làm rõ mục đích nghiên cứu nên trên ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài có cấu trúc 3 chương chính như sau: Chương 1- Cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội và tài chính bảo hiểm xã hội. Chương 2-Thực trạng chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam. Chương 3-Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta trong những năm tới. Chương 1- Cơ sở lý luận về Bảo Hiểm Xã Hội và tài chính Bảo Hiểm Xã Hội 1.1. Những vấn đề cơ bản về BHXH và tài chính Bảo Hiểm Xã Hội 1.1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của Bảo hiểm xã hội 1.1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời và phát triển từ khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở Châu âu. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp cộng đồng để đối phó với những khó khăn về kinh tế - xã hội do bị ngừng hoặc giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, chết đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Bảo hiểm xã hội là một nội dung lớn nhất và ổn định nhất của an sinh xã hội. Trong bất cứ xã hội nào có nền kinh tế thị trường, nhu cầu bảo hiểm xã hội luôn luôn là yêu cầu thiết yếu của cuộc sống của cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động (sau đây gọi tắt là người lao động). ở hầu hết các nước trên thế giới, dưới các hình thức khác nhau, bảo hiểm xã hội đã ra đời và phát triển hàng trăm năm nay, từ tự phát đến tự giác, từ tự nguyện đến bắt buộc, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, tùy theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội của từng quốc gia. Đến giữa thế kỷ 20, bảo hiểm xã hội đã được thừa nhận trong bản Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Trong bản Tuyên ngôn có đoạn viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thỏa mãn các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người...”. Năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra Công ước số 102 về chế độ BHXH để khuyến cáo các nước thành viên Liên hiệp quốc thực hiện. Theo quy định của tổ chức ILO, Bảo hiểm xã hội có 9 chế độ trợ cấp: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thai sản Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Trợ cấp hưu trí Trợ cấp tử tuất Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp tàn tật (mất sức lao động) Ngày nay, bảo hiểm xã hội đã phát triển rộng khắp các nước trên thế giới với các hình thức phong phú đa dạng nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. ở nước ta, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, chỉ có công nhân viên chức và lực lượng vũ trang mới là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, Nhà nước đảm bảo đối tượng này những trợ cấp khác nhau bằng tiền hoặc hiện vật. Nguồn chi trả bảo hiểm xã hội do ngân sách Nhà nước cấp trên cơ sở đóng góp của các xí nghiệp và của Nhà nước, người lao động không phải trực tiếp đóng góp. Chuyển sang cơ chế thị trường, người lao động trong mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. Khi đó bảo hiểm xã hội không phải chỉ có sự đảm bảo, sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với công nhân viên chức mà là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của mọi người lao động khi họ giảm hoặc mất khả năng lao động. Theo Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành. Bao gồm các chế độ sau: Chế độ trợ cấp ốm đau Chế độ trợ cấp thai sản Chế độ trợ cấp tai nạn lao động Chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp Chế độ trợ cấp hưu trí Chế độ trợ cấp tử tuất Ngoài ra, theo Quyết định số 37/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/3/2001 thì bảo hiểm xã hội còn thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. 1.1.1.2.Bản chất BHXH, phân biệt BHXH và bảo hiểm thương mại Bảo hiểm xã hội là một hệ thống các chế độ trợ cấp nhằm góp phần thay thế thu nhập (tiền lương hoặc tiền công) của người lao động khi gặp phải những trường hợp rủi ro bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí hoặc tử tuất để đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ bằng cách hình thành một quỹ tài chính để trợ cấp do các bên liên quan đến việc sử dụng lao động và bản thân người lao động đóng góp. Bảo hiểm xã hội ra đời là yêu cầu khách quan đối với người lao động và xã hội. Xét từ phía người lao động, trong quá trình lao động sản xuất, kinh doanh, người lao động luôn gặp phải những trường hợp rủi ro khách quan như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu... làm cho họ bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công để đảm bảo cuộc sống; hoặc người lao động bị chết mà con cái ở tuổi vị thành niên, bố mẹ già yếu mất nơi nương tựa. Vì thế để có nguồn tài chính thay thế cho thu nhập từ tiền lương, tiền công nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình người lao động khi gặp rủi ro hoặc già yếu tất yếu khách quan phải tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội. Xét từ phía xã hội, quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lực lượng lao động cho tương lai của xã hội, những người lao động nữ trong quá trình sản xuất công tác họ còn phải làm nhiệm vụ người mẹ sinh đẻ, nuôi con, chăm sóc con lúc ốm đau... Trong thời gian thai sản, nuôi con nhỏ, chăm sóc con lúc ốm đau họ phải nghỉ lao động nên mất nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công. Để đảm bảo nguồn tài chính cho các nhu cầu đó tất yếu khách quan phải tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội thích hợp. Mặt khác, do sự vận động của các quy luật nội tại của nền kinh tế thị trường đặc biệt là quy luật cạnh tranh nên trong quá trình sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp gặp phải rủi ro khách quan hoặc chủ quan dẫn đến sản xuất kinh doanh đình trệ, phá sản, người lao động có thể bị thất nghiệp, mất thu nhập không đảm bảo cuộc sống, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, đời sống, trật tự, an ninh xã hội. Vì thế để đảm bảo nền kinh tế-xã hội phát triển cân bằng, ổn định, bền vững, cuộc sống của người lao động ổn định trước những rủi ro khách quan Nhà nước phải có những biện pháp. Một trong những biện pháp đó là tạo dựng quỹ bảo hiểm xã hội. Nhà nước có thể thông qua phân phối lại Ngân sách Nhà nước để đóng góp một phần vào quỹ bảo hiểm xã hội hoặc Nhà nước bắt buộc các doanh nghiệp cũng phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Số tiền các doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội được hạch toán vào giá thành sản phẩm và được người tiêu dùng chấp nhận thông qua việc chấp nhận giá sản phẩm. Chính vì tính chất xã hội, tính chất cộng đồng này nên quỹ bảo hiểm cho người lao động mới có tên là quỹ bảo hiểm xã hội. Thực chất người sử dụng lao động nộp phí vào quỹ bảo hiểm xã hội là nộp thay cho người tiêu dùng sản phẩm để đảm bảo an toàn cho xã hội. Người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội không phải chỉ do chính bản thân người lao động đóng góp theo quy định mà cả chủ sử dụng lao động và Nhà nước cũng góp phần. Tuy nhiên bảo hiểm xã hội cũng là một loại hình bảo hiểm tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị trường, giữa bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại có nhiều điểm giống và khác nhau, nhưng có một số điểm giống và khác nhau cơ bản đó là: Giống nhau: Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại đều hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù cho số ít. Nghĩa là số đông người tham gia đóng bảo hiểm để bảo hiểm cho số ít người không may bị rủi ro. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại chủ yếu do các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đóng góp. Khác nhau: Hoạt động của bảo hiểm xã hội là những hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà vì an sinh xã hội. Thu của bảo hiểm xã hội dùng để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội. Nếu thu không đủ chi, Ngân sách Nhà nước trợ cấp. Hầu hết các nước trên thế giới, Ngân sách Nhà nước đều cấp bù cho quỹ bảo hiểm xã hội một khối lượng rất lớn như: Đan mạch Nhà nước cấp hỗ trợ 81%, Ai len là 66%..., ở nước ta, theo chính sách bảo hiểm xã hội hiện hành, người lao động và chủ sử dụng lao động đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội 20% tiền lương. Trong quãng thời gian người lao động nghỉ hưu, quỹ bảo hiểm xã hội chỉ đủ chi trả cho 8 năm, từ năm thứ 9 Ngân sách Nhà nước cấp bù. Nhưng mục đích của loại hình bảo hiểm thương mại là lợi nhuận. Các hoạt động bảo hiểm thương mại được thực hiện theo Luật Công ty và Luật doanh nghiệp, phải hạch toán kinh doanh, phải đóng thuế cho Nhà nước và nếu thua lỗ không được Nhà nước cấp bù. Đó là những điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm xã hội và các loại bảo hiểm thương mại. 1.1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội Hoạt động bảo hiểm xã hội là loại hoạt động dịch vụ công mang tính xã hội cao lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động của bảo hiểm xã hội có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị xã hội. -Bảo hiểm xã hội tạo ra mạng lưới an toàn xã hội cho những đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, góp phần ổn định an ninh chính trị xã hội. Trong cuộc sống hoạt động của con người, họ luôn phải đối mặt với những rủi ro như ốm đau, tai nạn, tuổi già... làm giảm khả năng lao động dẫn đến tình trạng thu nhập thấp hoặc mất khả năng lao động, dưới hình thức huy động các nguồn vốn đóng góp từ người lao động, chủ sử dụng lao động, Nhà nước bảo hiểm xã hội trợ cấp và khắc phục những khó khăn về kinh tế cho người lao động. Nếu không có nguồn tài chính đảm bảo cho người lao động khi mất thu nhập thì họ có thể đi vào con đường xấu của tệ nạn xã hội. Tệ nạn đó sẽ làm cho xã hội trở nên rối ren, nền kinh tế-chính trị-xã hội mất ổn định. Trên giác độ đó bảo hiểm xã hội góp phần tạo lập hệ thống an toàn chính trị-xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội. - Bảo hiểm xã hội góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất. Hoạt động mạnh mẽ và rộng khắp của bảo hiểm xã hội giúp người lao động yên tâm làm việc, tạo tâm lý ổn định thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, khả năng lao động cao của người lao động. Sự an tâm làm việc góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội. - Bảo hiểm xã hội làm tăng sự gắn bó mật thiết giữa người lao động, chủ sử dụng lao động và Nhà nước. Khi chủ sử dụng lao động thực hiện trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội để người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội thì họ đã tạo được sự tin tưởng của người lao động đối với chủ sử dụng lao động, khuyến khích người lao động toàn tâm toàn ý, phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình công tác, gắn bó lâu dài với chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó nếu trong quá trình sản xuất, người lao động gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn... họ không thể tham gia sản xuất được doanh nghiệp vẫn phải trả thu nhập cho người lao động, nhưng sản xuất của doanh nghiệp bị đình trệ. Điều này là một gánh nặng tài chính đối với doanh nghiệp, lợi ích của doanh nghiệp bị đe dọa nếu không có bảo hiểm xã hội đứng ra gánh chịu cho họ. Thông qua việc tổ chức, duy trì hoạt động bảo hiểm xã hội, Nhà nước đã đảm bảo cho mọi người, mọi tổ chức, mọi đơn vị bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần đảm bảo cho ổn định kinh tế chính trị xã hội. - Bảo hiểm xã hội góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế. Trong quá trình hoạt động, bảo hiểm xã hội thực hiện thu các khoản đóng góp và giải quyết các chế độ cho người lao động. Với nguyên tắc hoạt động lấy số đông bù cho số ít, trong những khoảng thời gian nhất định quỹ bảo hiểm xã hội tạm thời có những khoản tiền nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội góp phần tăng trưởng quỹ và tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước. - Bảo hiểm xã hội thực hiện tái phân phối thu nhập giữa những người lao động. Biểu hiện cụ thể là thực hiện tái phân phối thu nhập giữa những người lao động có thu nhập cao với những người lao động có thu nhập thấp, giữa những người lao động đang lao động với những người lao động đang nghỉ việc vì nhiều lý do khác nhau qua đó BHXH đã trở thành một công cụ quan trọng trong việc tái phân phối thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH, thực hiện điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì và bảo vệ công bằng xã hội. Một số nội dung về tài chính Bảo hiểm xã hội 1.1.2.1.Bản chất tài chính bảo hiểm xã hội, phân biệt quỹ bảo hiểm xã hội và Ngân sách nhà nước Để hiểu rõ bản chất tài chính của bảo hiểm xã hội ta tìm hiểu tài chính bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm xã hội. Tài chính được đặc trưng bởi sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế-xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể (pháp nhân hay thể nhân) trong xã hội. Tài chính bảo hiểm xã hội là thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính, là một khâu trong hệ thống tài chính quốc gia (tài chính bảo hiểm gồm các khâu: tài chính bảo hiểm xã hội và tài chính bảo hiểm thương mại) tham gia vào quá trình phân phối, sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động khi gặp rủi ro, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chúng ta có thể thấy rõ qua sơ đồ sau: (Giáo trình Tài chính học,Trang23, ĐH Tài chính-Kế toán HN, 1998) Quỹ bảo hiểm xã hội là một thuật ngữ chỉ nội dung vật chất của tài chính bảo hiểm xã hội, nó chỉ số lượng bằng tiền nhiều hay ít, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và được dùng để chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định. Về mặt lý luận, để hình thành một khâu tài chính phải xuất phát từ các lý do: -Mỗi khâu tài chính phải là một quỹ tiền tệ được tạo lập và sử dụng cho một mục đích nhất định. -Mỗi khâu tài chính phải gắn với một chủ thể cụ thể. -Các quan hệ tài chính xếp vào một khâu tài chính nếu hoạt động tài chính có cùng tính chất, đặc điểm, vai trò và đồng nhất về các hình thức; quan hệ tài chính phù hợp với mục đích sử dụng của tiền tệ. Như vậy, tài chính bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm xã hội là hai thuật ngữ khác nhau nhưng lại có nhiều nội dung đồng nghĩa với nhau nên trên thực tế nói đến tài chính bảo hiểm xã hội thì thực chất cũng là nói đến các mối quan hệ trong sự tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. Vì thế để hiểu bản chất của quỹ bảo hiểm xã hội cũng như hiểu bản chất của tài chính bảo hiểm xã hội phải đi sâu phân tích các mối quan hệ kinh tế-xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tiền tệ bao gồm nhiều nội dung, mỗi nội dung được hình thành từ một chế độ, chính sách cụ thể. Để phân tích bản chất tài chính bảo hiểm xã hội trước hết phải phân loại nội dung quỹ bảo hiểm xã hội theo các tiêu thức. Có nhiều cách phân loại nội dung quỹ bảo hiểm xã hội, mỗi tiêu thức phân loại lại có những ý nghĩa nhất định. Để nghiên cứu bản chất tài chính bảo hiểm xã hội nên tiêu thức phân loại nội dung của quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu phân theo nguồn hình thành và nội dung chi của quỹ vì trong các nội dung kinh tế-xã hội của quỹ bảo hiểm xã hội thì thu và chi là những nội dung chủ yếu của quỹ. Nguồn hình thành quỹ BHXH (thu của quỹ BHXH) Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nhiều nguồn, trong đó có hai nguồn chính là nguồn đóng góp của các đối tượng thuộc diện bắt buộc (gọi tắt là nguồn bắt buộc) theo quy định và nguồn đóng góp của các đối tượng tự nguyện (gọi tắt là nguồn tự nguyện). Về mặt hình thức, hai nguồn này tuy có khác nhau về phạm vi, đối tượng và mức độ đóng góp, song nội dung kinh tế-xã hội lại tương đối đồng nhất với nhau ở những điểm sau: -Cả hai nguồn này đều có chung một mục đích là hình thành quỹ bảo hiểm xã hội để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành do các bên tham gia đóng góp, là quỹ tài chính trung gian độc lập với ngân sách nhà nước. -Mức thu bảo hiểm xã hội từ hai nguồn này và cơ chế chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội đều do Nhà nước quy định. Quỹ bảo hiểm xã hội được hạch toán độc lập theo nguyên tắc có thu mới có chi, thu trước chi sau vì vậy quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang nội dung kinh tế vừa mang nội dung xã hội rất đậm nét. Quỹ bảo hiểm xã hội luôn luôn phải được bảo tồn và phát triển để đảm bảo đủ lượng tiền tệ cần thiết chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội đúng thời gian, đúng đối tượng và đủ số lượng. Phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được phép đầu tư phát triển và các hoạt động đầu tư này đều theo quy định của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh. Như vậy, dù quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nguồn bắt buộc hay tự nguyện và mục đích chi trả cho các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nào thì đều có chung những nội dung kinh tế-xã hội nêu trên. Chi của quỹ Bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành để chi cho các chế độ BHXH theo nguyên tắc có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy quỹ bảo hiểm xã hội chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi nguồn thu của bảo hiểm xã hội. Hiện nay bảo hiểm xã hội nước ta đang áp dụng cho năm chế độ. Cả năm chế độ này đều có nguồn thu để chi trả trong đó thu 15% để chi trả cho hai chế độ là hưu trí và tử tuất, thu 5% để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Năm chế độ cụ thể mà quỹ bảo hiểm xã hội Việt nam chi trả là: Các chế độ hưu trí, tử tuất (thường gọi là các chế độ dài hạn): Chế độ trợ cấp hưu trí có được khi người lao động đủ thời gian tham gia bảo hiểm xã hội và đủ tuổi đời thì được hưởng trợ cấp hưu trí hàng tháng. Trường hợp người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi đời thì được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần. Chế độ trợ cấp tử tuất gồm tiền mai táng phí cho thân nhân của đối tượng khi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bị chết, tiền trợ cấp tuất hàng tháng được chi trả cho thân nhân đối tượng hoặc giao tiền trợ cấp một lần cho gia đình họ (nếu không có người hưởng định xuất hàng tháng). Chế độ trợ cấp hưu trí và tử tuất bắt nguồn từ việc bảo hiểm nguồn thu nhập cho người lao động khi đã già yếu, hết tuổi lao động, mất sức lao động vĩnh viễn và qua đời mà bất kỳ người lao động nào cũng phải trải qua. Trách nghiệm đóng bảo hiểm hưu trí, tử tuất thuộc về người lao động và người sử dụng lao động vì khi còn khoẻ, người lao động làm việc cho người sử dụng lao động thì khi về già, người sử dụng lao động phải có một phần trách nhiệm bảo đảm cuộc sống cho họ. Việc tiến hành bảo hiểm hưu trí và tử tuất nếu không có tổ chức bảo hiểm bắt buộc của xã hội, của Nhà nước thì bản thân người lao động cũng phải tìm một hình thức nào đó để tự lo cho mình nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống lúc già yếu, lúc qua đời. Đặc điểm của bảo hiểm hưu trí và tử tuất là nó thực hiện sau quá trình lao động, quan hệ phân phối có tính chất hoàn trả, lợi ích được hưởng tương ứng với nghĩa vụ đóng góp. Bản chất kinh tế-xã hội của quỹ bảo hiểm xã hội chi cho chế độ hưu trí và tử tuất phản ánh quan hệ kinh tế (quan hệ lợi ích) giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động và người sử dụng lao động đóng bảo hiểm hưu trí, tử tuất nhằm mục đích đảm bảo lâu dài, ổn định cuộc sống cho bản thân người lao động và gia đình họ khi già yếu không có khoản thu nhập từ lao động. Mức hưởng trợ cấp hưu trí phụ thuộc vào mức đóng góp và thời gian đóng phí bảo hiểm ít hay nhiều còn thời gian hưởng hưu trí là không có giới hạn, hưởng đến khi chết mà tuổi thọ của từng người lao động lại khác nhau nên tính hoàn trả không đồng đều, cùng thời gian đóng như nhau nhưng người nào sống lâu hơn thì được hưởng hưu trí nhiều hơn, thậm chí hưởng nhiều hơn cả mức đóng góp. Phần hưởng nhiều hơn đó được quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo, đó chính là tính chất xã hội, tính cộng đồng của bảo hiểm xã hội. Chế độ hưu trí và tử tuất thường được gọi là chế độ dài hạn vì từ khi người lao động tham gia bảo hiểm đến khi nghỉ hưu được hưởng chế độ hưu trí phải trải qua một thời gian dài 30 năm. Số dư của quỹ bảo hiểm xã hội thực chất là số tiền ứng trước của người lao động và người sử dụng lao động cho mục đích bảo hiểm hưu trí. Trong suốt 30 năm đó, quỹ vẫn thuộc sở hữu của người lao động có tham gia đóng góp. Như vậy ta có thể thấy điều kiện tồn tại và phát triển của quỹ bảo hiểm xã hội chi cho chế độ hưu trí và tử tuất là: -Muốn được hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí và tử tuất thì người lao động, người sử dụng lao động phải tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Quyền lợi được hưởng bảo hiểm xã hội tương ứng với mức đóng góp và thời gian đóng góp bảo hiểm của từng người lao động. -Số dư tạm thời nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm xã hội thuộc về sở hữu của người lao động, có tính chất dài hạn nên có thể đầu tư phát triển kinh tế-xã hội nhằm bảo toàn, phát triển quỹ và nó phải được tồn tích mà không được sử dụng vào mục đích khác. -Mức đóng góp bảo hiểm hưu trí, tử tuất phải được cơ cấu vào tiền lương, tiền công và được hạch toán vào giá thành sản phẩm để tạo nguồn tài chính cho người lao động và người sử dụng lao động đóng góp phí bảo hiểm. -Phải có cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm đến từng người lao động thuộc các đối tượng khác nhau để tạo điều kiện cho người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều được quyền tham gia bảo hiểm hưu trí và tử tuất phù hợp với khả năng của họ. Các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Trong quá trình lao động, người lao động thường gặp phải rủi ro bất ngờ không lường trước được như ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp làm giảm hoặc mất khả năng lao động tạm thời đối với những trường hợp nhẹ hoặc mất khả năng lao động vĩnh viễn, chết người đối với những trường hợp nặng. Nguyên nhân dẫn đến những rủi ro bất ngờ đối với người lao động có thể bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan và khách quan của người lao động và người sử dụng lao động gây ra. Ví dụ như tai nạn lao động có thể do nguyên nhân chủ quan từ người lao động không tôn trọng kỷ luật lao động, an toàn lao động để xảy ra tai nạn lao động; cũng có thể do nguyên nhân khách quan như nồi hơi bị nổ, sự cố về điện, máy móc... gây ra tai nạn; cũng có thể do công tác an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, phòng chống độc hại không tốt dẫn đến người lao động bị ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Hậu quả khi xảy ra các rủi ro đó người lao động không những mất nguồn thu nhập từ lao động mà còn phải tăng thêm chi phí cho việc chăm sóc y tế nếu bị nặng thì tàn phế suốt đời hoặc chết người. Bên cạnh đó những lao động nữ còn có một thiên chức đó là làm mẹ. Trong thời gian sinh và nuôi con nhỏ, lao động nữ phải nghỉ làm việc dẫn đến giảm một phần thu nhập do lao động. Đối với người sử dụng lao động, thì khi người lao động bị rủi ro đó không những ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh mà còn phải bỏ ra nhiều chi phí để khắc phục hậu quả đột xuất cho các rủi ro đó gây ra dẫn đến tình hình tài chính của đơn vị càng gặp khó khăn hơn. Để có nguồn thu nhập ổn định cuộc sống cho người lao động trong khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, ổn định kinh tế tài chính cho người sử dụng lao động tất yếu phải có quỹ bảo hiểm, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm trích nộp phần thu nhập để đóng góp vào quỹ BHXH cho các mục đích trên. Thông thường, để ổn định kinh tế cho doanh nghiệp nguồn đóng góp để tạo lập quỹ bảo hiểm cho các rủi ro này được Nhà nước cho phép hạch toán vào giá thành sản phẩm để người tiêu dùng trong xã hội gánh chịu. Tính chất độc hại, không an toàn trong sản xuất kinh doanh gây ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động xảy ra khác nhau ở các ngành, các doanh nghiệp nhưng do nhu cầu của các sản phẩm phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng cuộc sống mang tính chất xã hội vì thế mọi doanh nghiệp, mọi thành viên xã hội tiêu dùng sản phẩm đều phải có nghĩa vụ bảo hiểm cho người lao động khi xảy ra rủi ro ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Như vậy bản chất kinh tế-xã hội của các chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối với người lao động phản ánh mối quan hệ kinh tế-xã hội giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước thông qua việc tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội nhằm ổn định cuộc sống cho người lao động và ổn định sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động và xã hội. Từ đó ta có thể rút ra điều kiện tồn tại và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là: -Để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và ổn định kinh tế cho người sử dụng lao động khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp tất yếu phải có quỹ bảo hiểm. Trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp vào quỹ bảo hiểm thuộc về người lao động và người sử dụng lao động. Số chi phí này được hạch toán đầy đủ vào giá thành để tạo nguồn tài chính cho người sử dụng lao động nộp phí bảo hiểm. -Hình thức tổ chức và quản lý quỹ bảo hiểm cho mục đích này có thể để một phần nhất định ở đơn vị sử dụng lao động để giải quyết kịp thời nhu cầu phát sinh ở đơn vị khi người lao động bất ngờ bị ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp và một phần nộp vào quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định. -Phân phối mang tính chất bồi hoàn cho các chế độ này thường được diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định để đảm bảo kịp thời cho người lao động nếu bị rủi ro. Với tính chất đó, quỹ bảo hiểm xã hội dùng để chi trả cho các chế độ này là phải được cân đối trong một thời gian nhất định thường là 1 năm theo nguyên tắc thu bảo hiểm xã hội đủ bù đắp chi trả cho các chế độ đó trong năm. Qua sự phân tích trên đây, ta có thể rút ra tổng quát về bản chất tài chính bảo hiểm xã hội như sau: Tài chính bảo hiểm xã hội là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành một quỹ bảo hiểm xã hội tập trung, thống nhất do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước theo pháp luật quy định, phân phối sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp các rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động (tiền lương, tiền công); phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được tham gia đầu tư phát triển, góp phần ổn định kinh tế-xã hội của đất nước. Chủ thể nguồn tài chính bảo hiểm xã hội là những người sở hữu quỹ bảo hiểm xã hội, đó là các bên tham gia đóng bảo hiểm xã hội mà đại diện của nó là Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt nam. Như vậy, đặc điểm tạo lập và sử dụng quỹ BHXH thể hiện như sau: -Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời, tồn tại và gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. -Phân phối quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính chất hoàn trả, vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả và không hoàn trả lớn hơn so với mức phí đóng góp thể hiện tính chất xã hội của các hoạt động bảo hiểm xã hội. -Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Trình độ kinh tế-xã hội càng phát triển thì các chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng càng mở rộng, nhu cầu thoả mãn về bảo hiểm xã hội đối với người lao động càng được nâng cao và khi kinh tế phát triển người lao động có thu nhập cao càng có điều kiện tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính bảo hiểm xã hội ta cần phân biệt sự giống và khác nhau giữa quỹ bảo hiểm xã hội và Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội theo kế hoạch của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Từ khái niệm Ngân sách Nhà nước ta rút ra đặc điểm phân phối của Ngân sách Nhà nước như sau: -Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung, là khâu tài chính giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và hoạt động gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, Ngân sách Nhà nước gắn với chủ thể duy nhất là Nhà nước. -Ngân sách Nhà nước mang tính pháp lý cao. Hoạt động thu-chi của Ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước và được tiến hành trên cơ sở pháp luật quy định -Phân phối của Ngân sách Nhà nước chủ yếu là phân phối lại và không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. -Các quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước phản ánh lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia (lợi ích chung) và nó chi phối các lợi ích khác nhằm đảm bảo cho nền kinh tế-xã hội của đất nước ổn định, phát triển với tốc độ cao. Từ đây ta có thể thấy những điểm giống và khác nhau của quỹ bảo hiểm xã hội và Ngân sách Nhà nước. Những điểm giống nhau: -Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia, chúng có mối quan hệ hữu cơ trong quá trình tạo lập và sử dụng cho mục đích hoạt động của từng quỹ. -Hoạt động của Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội đều không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời mà hoạt động của chúng nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người lao động tuỳ theo mục đích sử dụng của mỗi quỹ. -Việc tạo lập và sử dụng Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội đều biểu hiện dưới hình thức tiền tệ (giá trị), thu-chi của Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội đều được quy định bằng pháp luật và quản lý quỹ theo nguyên tắc cân đối thu và chi. Những điểm khác nhau: -Điều kiện ra đời và phát triển của Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội khác nhau. Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước càng lớn, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước càng mở rộng thì thu-chi quỹ Ngân sách Nhà nước càng lớn. Quỹ bảo hiểm xã hội ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá với quan hệ thuê mướn nhân công. Khi kinh tế phát triển, thu nhập tiền lương càng cao thì phạm vi các chế độ bảo hiểm xã hội càng mở rộng, mức độ thoả mãn cho người lao động của bảo hiểm càng cao. Đây là cơ sở khách quan cho sự ra đời, phát triển của bảo hiểm xã hội, cũng là cơ sở cho định hướng phát triển bảo hiểm xã hội trong thực tiễn. -Quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước chủ yếu là phân phối lại và không mang tính chất hoàn trả. Chủ thể đóng góp và hưởng thụ Ngân sách Nhà nước tách rời nhau (trừ quan hệ tín dụng Nhà nước). Các chủ thể có nghĩa vụ đóng góp các khoản thu vào Ngân sách Nhà nước do pháp luật quy định không được Nhà nước hoàn trả trực tiếp. Ngược lại các chủ thể được hưởng thụ các khoản chi Ngân sách Nhà nước cũng không phải hoàn trả lại số tiền mà Nhà nước đã chi. Đây là cơ sở khách quan cho hiện tượng trốn lậu các khoản thu nộp Ngân sách Nhà nước và thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước mà trong quản lý Ngân sách Nhà nước phải có biện pháp khắc phục. Quan hệ phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính chất hoàn trả, vừa mang tính chất không hoàn trả. Việc hoàn trả không biết trước chính xác về quy mô, thời gian và không gian, thường mức hoàn trả lớn hơn nhiều lần so với phí bảo hiểm đóng góp (nó mang tính chất xã hội, tính chất cộng đồng). Đặc điểm này đã chi phối đến quá trình quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội. -Quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước phản ánh quan hệ lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia và chi phối các quan hệ lợi ích bộ phận, lợi ích cá nhân, nhằm đảm bảo cho nền kinh tế-xã hội của đất nước tăng trưởng và phát triển ổn định. Còn quan hệ phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội trước hết là vì lợi ích của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội sau đó mới đến lợi ích của đơn vị, lợi ích của xã hội. Như vậy, quỹ bảo hiểm xã hội không thuộc nội dung thu-chi của Ngân sách Nhà nước, nó tồn tại độc lập với Ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội và Ngân sách Nhà nước đều là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Mỗi khâu tài chính đều có một chủ thể riêng trong đó Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính giữ vị trí chủ đạo phản ánh lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia còn quỹ bảo hiểm xã hội chỉ phản ánh lợi ích của các bên tham gia đóng bảo hiểm xã hội. 1.1.2.2.Phân biệt tài chính BHXH và tài chính doanh nghiệp Trước hết, ta phải hiểu khái niệm, đặc điểm của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục đích doanh lợi trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Tài chính doanh nghiệp là khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp có những đặc điểm cơ bản sau: -Tính chất đa sở hữu là nét đặc trưng của tài chính doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh chủ doanh nghiệp phải có một số vốn kinh doanh bằng hoặc lớn hơn vốn pháp định của Nhà nước quy định. Mặt khác, doanh nghiệp muốn có kỹ thuật hiện đại để sản xuất ra sản phẩm có thể đứng vững trong cạnh tranh thì phải có số vốn kinh doanh lớn. Điều đó dẫn đến sự đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau vì thế trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp mang tính chất đa sở hữu là phổ biến. -Tài chính doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ: luôn thay đổi hình thái biểu hiện vì quá trình tạo lập và sử dụng vốn kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố sản xuất; được sử dụng cho mục đích tích luỹ là chính chứ không phải cho mục đích tiêu dùng; nó luôn hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tài chính doanh nghiệp ngoài tạo lập ban đầu chúng còn được bổ sung hay rút bớt tuỳ theo nhu cầu mở rộng hoặc thu hẹp quá trình sản xuất kinh doanh. -Các quan hệ tài chính nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng tài chính doanh nghiệp đều gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nghĩa là mọi hoạt động thu chi của tài chính doanh nghiệp đều nhằm mục đích doanh lợi. Từ bản chất của tài chính bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp ta có thể thấy những điểm giống nhau và khác nhau giữa tài chính bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp. Những điểm giống nhau: -Tài chính bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp đều là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Chúng ra đời, tồn tại và phát triển đều do mục đích của chủ thể trong xã hội đòi hỏi. -Việc tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp đều biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và theo Pháp luật quy định. Những điểm khác nhau; -Điểm khác nhau đầu tiên của quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp là mục đích hoạt động của hai loại hình này. Quỹ bảo hiểm xã hội hoạt động không nhằm mục đích doanh lợi. Hoạt động thu, chi của quỹ bảo hiểm xã hội nhằm ổn định cuộc sống của người lao động khi gặp rủi ro khi giảm hoặc mất thu nhập. Mọi hoạt động của tài chính doanh nghiệp chủ yếu kinh doanh kiếm lời. Hay nói cách khác lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu chi phối hoạt động của tài chính doanh nghiệp, lợi nhuận quyết định sự ra đời tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. -Quan hệ phân phối quỹ BHXH và tài chính doanh nghiệp cũng khác nhau. Quan hệ phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Quan hệ phân phối của tài chính doanh nghiệp mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Nghĩa là việc đóng góp vốn để tạo lập quỹ tài chính doanh nghiệp là do các chủ doanh nghiệp đóng góp vốn đó vẫn thuộc quyền sở hữu của các chủ doanh nghiệp. Sau quá trình kinh doanh, việc phân phối lại lợi nhuận hoặc lỗ của doanh nghiệp phải dựa vào tỷ lệ góp vốn của từng chủ sở hữu để phân chia. Tính chất phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp khác nhau nên cơ chế quản lý quỹ của chúng cũng khác nhau. -Nội dung vật chất của quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp đều là những quỹ tiền tệ nhưng tài chính doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt dùng cho kinh doanh không dùng cho mục đích tiêu dùng. Trong quá trình kinh doanh hoạt động vốn kinh doanh phải được bảo toàn và phát triển. Ngược lại quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tiền tệ nhằm mục đích tiêu dùng để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động tham gia khi gặp rủi ro. Mức tiêu dùng của quỹ bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào khả năng nguồn thu tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội và chi quỹ bảo hiểm xã hội không được vượt quá số thu của quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo nguyên tắc cân đối thu chi của quỹ bảo hiểm xã hội. Vì thế, trong quá trình quản lý quỹ bảo hiểm xã hội phải luôn luôn xem xét tính cân đối của quỹ đặc biệt là các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn, không chỉ có biện pháp bảo toàn và phát triển số vốn tam thời nhàn rỗi mà còn phải dự báo, dự phòng được các biến cố thay đổi trong tương lai làm mất cân đối thu, chi quỹ bảo hiểm xã hội. Hoạt động của quỹ chủ yếu là theo nguyên tắc tương hỗ bảo hiểm xã hội lấy số đông bù số ít. -Bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp cũng khác nhau. Tính chất đa sở hữu tạo ra cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp chặt chẽ và hiệu quả với sự điều hành và quản lý của hội đồng quản trị và sự kiểm soát của ban kiểm soát doanh nghiệp. Bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội là Bảo hiểm xã hội Việt nam trực thuộc Thủ tướng Chính phủ có chức năng thực hiện sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt nam không phải là chủ sở hữu quỹ bảo hiểm xã hội mà các bên tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội mới là chủ sở hữu quỹ. Đại diện các bên tham gia đóng bảo hiểm xã hội là Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt nam có chức năng chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc thực hiện thu chi quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Cơ chế tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm xã hội trình bày trên đây mang tính chất của cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước mà không bị ràng buộc bởi quan hệ kinh tế như cơ chế quản lý doanh nghiệp. Thực ra cơ quan bảo hiểm xã hội là một tổ chức công quyền do Nhà nước lập ra để thực hiện sự nghiệp bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước giao cho. Giữa quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp có một mối quan hệ. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu do chủ sử dụng lao động và người lao động đóng góp trong đó có một nguồn không nhỏ từ tài chính doanh nghiệp. Do vậy sự cân đối và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội luôn gắn liền với sự phát triển của tài chính doanh nghiệp. 1.2. Kinh nghiệm về tài chính BHXH ở một số nước trên thế giới Trên thế giới, nhất là những nước có nền kinh tế phát triển, hoạt động bảo hiểm xã hội đã có từ rất lâu và rất đa dạng, phong phú. Sau đây ta nghiên cứu về kinh nghiệm tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội và chi quỹ bảo hiểm xã hội. 1.2.1.Kinh nghiệm về tạo lập quỹ Bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội ở các nước được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Tuy nhiên tỷ lệ đóng góp của các đối tượng ở mỗi nước không giống nhau mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, chính sách xã hội và quan điểm của mỗi Nhà nước. Phần đóng góp của người sử dụng lao động thường được tính trên cơ sở số lượng lao động thuê mướn trong doanh nghiệp. Tỷ lệ này được tính một mức trên tổng quỹ lương và theo pháp luật quy định. Phần đóng góp của người sử dụng lao động được hạch toán vào chi phí kinh doanh của người sử dụng lao động. Người lao động cũng phải đóng góp một phần với tư cách là đối tượng được thụ hưởng sự phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội. Khoản đóng góp của người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội ở các nước cũng được xác định theo tỷ lệ phần trăm trên mức tiền lương hoặc tiền công mà họ được hưởng. Bên cạnh sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội thì Nhà nước cũng luôn luôn hỗ trợ quỹ khi các khoản đóng góp của hai đối tượng trên không đủ đáp ứng chi tiêu của quỹ hoặc khi có sự biến động khủng hoảng làm cho quỹ bị thâm hụt. Sự can thiệp này tuỳ thuộc vào nền kinh tế-xã hội của mỗi nước. Trong ba nguồn đóng góp trên thì nguồn đóng góp từ người sử dụng lao động là chủ yếu. Tuy nhiên tỷ lệ đóng góp ở mỗi nước có sự khác nhau, các tỷ lệ đó có thể thích hợp ở nước này nhưng có thể không được chấp nhận ở nước khác. Việc xây dựng các tỷ lệ đóng góp của mỗi bên tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội, lịch sử của từng nước từ đó cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội ở mỗi nước cũng khác nhau. Nói chung ở các nước đã có nền kinh tế phát triển như: Đức, ý, Mỹ... thì áp dụng cơ chế toại thu, toại chi, thu trong năm chủ yếu chi hết trong năm. Còn các nước có kinh tế đang phát triển thì nói chung áp dụng cơ chế tạo lập quỹ tích luỹ, số dư hàng năm được sử dụng đầu tư tăng trưởng. Có thể xem xét ở một số quốc gia tiêu biểu sau: Cộng hoà Pháp: Từ thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của cứu trợ công cộng và tương hỗ BHXH đã ra đời. Năm 1910 đã có luật về hưu trí cho công nhân. Năm 1930 luật về bảo hiểm xã hội đã được ban hành, luật này quy định 5 chế độ bảo hiểm bắt buộc gồm bảo hiểm bệnh tật, thai sản, thương tật, tuổi già và tử tuất. Nguồn đóng góp quỹ từ người lao động và người sử dụng lao động trong đó người sử dụng lao động đóng 4% và người lao động đóng 4% trên mức lương và chế độ bảo hiểm này chỉ áp dụng đối với những người lao động có mức lương thấp hơn quy định. Ngày nay, ở Pháp các chế độ bảo hiểm xã hội gồm tất cả các chế độ theo quy định của ILO. Nguồn tài trợ hết sức phức tạp. Cụ thể: -Quỹ bảo hiểm y tế, thai sản, thương tật, chết. Sự đóng góp vào quỹ này được tách biệt ra hai khoản là đóng góp cho rủi ro phi nghề nghiệp và đóng góp cho rủi ro nghề nghiệp. Đối với rủi ro nghề nghiệp, nguồn tài trợ chính là các khoản đóng góp trên lương trong đó người lao động đóng 6,8% và người sử dụng lao động đóng 12,8%. Đối với rủi ro phi nghề nghiệp như tai nạn lao động, tai nạn đi lại (từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại) khoản đóng góp được thu trên lương do người sử dụng lao động đóng toàn bộ, tỷ lệ đóng góp được xác định tuỳ theo số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp. -Quỹ trợ cấp hưu trí, goá bụa, trợ cấp gia đình. Đối với trợ cấp hưu trí người sử dụng lao động phải đóng 9,8% còn người lao động đóng 6,55% trên mức lương của người lao động. Đối với trợ cấp goá bụa người lao động còn phải đóng góp 0,1% tiền lương. Đối với trợ cấp gia đình người lao động, người sử dụng lao động phải đóng góp toàn bộ với tỷ lệ là 5,4% lương của người lao động. Như vậy nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội ở Pháp từ người sử dụng lao động và người lao động tương đối đa dạng và khá cao. Theo thống kê bình quân hàng năm nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội ở Pháp từ người sử dụng lao động chiếm đến 50% trong tổng số còn người lao động khoảng 30%, Nhà nước 18% còn từ nguồn khác 2%. Tỷ lệ đóng góp của người lao động cũng khá cao, nếu tính tổng cộng các chế độ mà người lao động phải nộp là 13,45% lương hàng tháng. Cơ chế thu cao là một gánh nặng cho người lao động và người sử dụng lao động nhưng cũng là điều kiện tốt cho hệ thống bảo hiểm xã hội ở Pháp trở thành một trong những hệ thống tốt nhất thế giới. Mỹ: Các chế độ bảo hiểm xã hội ở Mỹ bao gồm: trợ cấp hưu trí, tử tuất, trợ cấp y tế, trợ cấp thương tật. Nguồn tài trợ cho các chế độ trợ cấp này là từ thuế phúc lợi xã hội mà chính quyền liên bang thu. Trong số tiền lương của người lao động chính quyền sẽ khấu trừ bớt số thuế cố định sau đó đưa khoản thu này vào các quỹ bảo hiểm xã hội với mức khấu trừ là người sử dụng lao động : 13,65%; người lao động : 7,65%. Để được hưởng trợ cấp, người đóng bảo hiểm xã hội phải nộp đến một mức nào đó. Một người đóng bảo hiểm xã hội nếu nộp đủ 590USD thì được 1 điểm thụ hưởng, mỗi người phải có đủ 40 điểm và đóng trong 10 năm trước khi nghỉ hưu. Như vậy cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở Mỹ vừa theo tỷ lệ trích nộp vừa phải thu đến một “ngưỡng” do chính quyền quy định. Tỷ lệ này không quá cao như ở Pháp. Cộng hoà Liên bang Nga: Đây là quốc gia xã hội chủ nghĩa cũ nay trở thành nước tư bản ở Đông âu. Các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ở Nga cũng bao gồm: trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí... Nguồn hình thành quỹ BHXH được tài trợ chủ yếu từ các nguồn: -Người sử dụng lao động đóng góp: là 35,4% trên tổng quỹ lương. - Người lao động đóng góp: là 1% trên mức lương. - Nhà nước: Nếu quỹ bảo hiểm xã hội thâm hụt thì Ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ để đảm bảo việc chi trả các chế độ trợ cấp. Tại một số nước Đông á: ở Thái lan chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội bao gồm: trợ cấp thương tật, ốm đau, thai sản, mất khả năng lao động, tử tuất, tuổi già, thất nghiệp. Nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội từ người lao động đóng góp 1/3, giới chủ đóng góp 1/3 và Nhà nước đóng góp 1/3. Ví dụ như chế độ trợ cấp thất nghiệp thì tất cả người lao động đóng góp 5% trên mức lương của mình, giới chủ đóng góp 5% trên tổng quỹ lương và Nhà nước đóng góp 5% trên tổng quỹ lương. ở Nhật bản sự đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội cũng tương đối cao. Người lao động đóng góp từ 3,5% đến 4,6% trên mức lương của mình, giới chủ đóng góp từ 25,5% đến 30,5% còn Nhà nước trợ cấp cho quỹ bảo hiểm xã hội theo nhu cầu thiếu hụt. ở Philipine người lao động đóng góp 6,55% trên mức lương của mình, người sử dụng lao động đóng góp từ 7,35% còn Nhà nước trợ cấp phần thiếu hụt của quỹ bảo hiểm xã hội. Ngoài những nguồn thu chủ yếu từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước thì quỹ bảo hiểm xã hội của các nước còn được bổ sung thêm từ các nguồn khác như lãi đầu tư quỹ, tiền phạt vi phạm luật, thủ tục phí, bán ấn phẩm... Nhưng tỷ trọng từ thu các nguồn khác rất thấp trong tổng nguồn thu của quỹ. Ta có thể tham khảo cơ cấu các nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội ở một số nước có nền kinh tế phát triển từ bảng sau: Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn thu của quỹ BHXH (trang 30) Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn thu của quỹ BHXH Quốc gia Người sử dụng lao động đóng góp Người lao động đóng góp Nhà nước tài trợ Nguồn khác Đức 40,1 19,8 26,3 3,8 Bỉ 41,8 26,7 21,6 9,9 Đan mạch 6,9 5,1 87,6 6,4 Tây ban nha 52,9 17,3 27,8 2,0 Pháp 51,0 28,8 17,7 2,5 Hy lạp 48,1 27,4 15,7 8,8 Italia 50,5 15,9 30,6 3,0 Hà lan 19,9 41,7 22,6 15,8 Bồ đào nha 41,8 20,8 32,4 5,0 Anh 26,1 15,8 42,8 15,3 (Nguồn: Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH Việt nam) Ta có thể thấy, tuy quỹ bảo hiểm xã hội hoạt động tương đối độc lập nhưng lại gắn bó chặt chẽ với Ngân sách Nhà nước. 1.2.2.Kinh nghiệm về chi Bảo hiểm xã hội : Quỹ BHXH được sử dụng để chi vào các nội dung quan trọng sau: -Trợ cấp bảo hiểm xã hội theo các chế độ -Quản lý hành chính -Đầu tư tăng trưởng quỹ. Trong đó chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội chiếm tỷ trọng lớn nhất, quan trọng nhất thường chiếm trên 80% tổng số chi của quỹ. Các khoản chi quản lý hành chính, chi đầu tư tăng trưởng không cố định, phụ thuộc vào quy mô tổ chức, cách quản lý của mỗi hệ thống bảo hiểm xã hội ở từng nước. *Chi các chế độ Bảo hiểm xã hội Ta sẽ đi vào xem xét một số cơ chế chi trả chế độ bảo hiểm xã hội ở một số nước có nền kinh tế thị trường. Việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội này được tiến hành theo luật định ở từng nước và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống bảo hiểm xã hội. Chi trợ cấp hưu trí Có nhiều phương thức chi trả trợ cấp hưu trí. Một số nước chi trả theo mức đồng nhất, là mức tối thiểu thích hợp với mặt bằng chung của quốc gia. Một số nước lại định mức trợ cấp theo mức lương đã từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu . Một số nước khác lại kết hợp cả hai cách: Trong phần trợ cấp có phần cơ bản là mức đồng nhất cộng thêm phần tỷ lệ theo mức lương đã từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu . Tuy nhiên, xu hướng chung là trợ cấp theo mức thu nhập đã từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu phù hợp với đa số trường hợp là đóng bảo hiểm xã hội theo thu nhập. Mức trợ cấp hưu trí của một số nước có nền kinh tế thị trường như sau: ở Mỹ mức trợ cấp hưu trí đồng nhất tối thiểu là 122 USD/tháng tính trên thu nhập được bảo hiểm cho tới khi nghỉ hưu. ở Anh mức trợ cấp hưu trí là 32,85 bảng/tuần cộng thêm 1,25% thu nhập được bảo hiểm trong năm. ở Pháp mức trợ cấp hưu trí là 50% thu nhập bình quân (mức bình quân của 10 năm có thu nhập cao nhất). ở Indonexia mức trợ cấp hưu trí được trả một lần tương ứng với số đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động đã đóng góp trong suốt quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cộng với khoản lãi tăng thêm. ở Philippine mức trợ cấp hưu trí được nhận là 1,5% lương bình quân của 120 tháng cuối cộng với mức từ 42% đến 102% tiền lương bình quân của 10 tháng lương. Chi trợ cấp ốm đau ở các nước, chi trợ cấp ốm đau của quỹ bảo hiểm xã hội nhằm bù đắp các chi phí y tế và thu nhập cho người lao động khi gặp rủi ro ốm đau phải nghỉ việc. Để được nhận khoản trợ cấp này, người lao động phải có thời gian đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. Mức cụ thể ở một số nước như sau: ở Pháp mức trợ cấp ốm đau tương đương một phần tiền lương (về nguyên tắc là bằng 1/2 tháng lương), từ ngày nghỉ ốm thứ 31 trở đi người đóng bảo hiểm được trợ cấp 2/3 tháng lương, số ngày được trợ cấp không quá 6 tháng. Trợ cấp chi phí khám chữa bệnh theo cơ chế trợ cấp toàn bộ chi phí khám bệnh và một phần chi phí chữa bệnh (30% chi phí y tế và phẫu thuật, từ 0% đến 60% chi phí thuốc men, 40% chi phí xét nghiệm) theo phiếu chữa bệnh. ở Nga mức trợ cấp ốm đau do tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp được chi bằng 100% mức lương tháng. Nếu ốm đau không do tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp tỷ lệ trợ cấp có thể là 100%, 80%, 60% hoặc 50% phụ thuộc vào số năm công tác. ở Thái lan người lao động được hưởng trợ cấp thương tật hoặc ốm đau không do công việc xảy ra, khi đã đóng bảo hiểm xã hội không dưới 3 năm và phải đang trong thời kỳ 15 tháng trước ngày nhận dịch vụ y tế. Mức trợ cấp là 50% tiền lương trong thời gian nghỉ việc. Thời gian được hưởng trợ cấp không quá 90 ngày một lần ốm và không quá 180 ngày trong năm dương lịch. Trợ cấp thai sản Trợ cấp thai sản được áp dụng khác nhau ở mỗi nước tuỳ thuộc theo điều kiện kinh tế-xã hội. Ví dụ như: ở Thụy điển trợ cấp thai sản cho người lao động khi sinh đẻ được chi trong vòng 12 tháng kể từ khi sinh con và trong 4 năm đầu tiên của đứa trẻ. Mức trợ cấp bằng 90% tiền lương nhưng không quá 60 cuaron/ người. Ngoài ra quỹ bảo hiểm xã hội còn trợ cấp 10 ngày nghỉ cho người bố và 60 ngày nghỉ cho mỗi gia đình trong 1 năm để chăm sóc đứa trẻ. Điều kiện để được hưởng trợ cấp là phải đăng ký ở quỹ ít nhất là trước 8 tháng khi sinh. ở Pháp người lao động nữ được trợ cấp 100% chi phí khi sinh đẻ, chi phí y tế trong 4 tháng trước khi sinh con. Khi sinh, người được bảo hiểm được trợ cấp thu nhập 16 tuần nghỉ (6 tuần trước và 10 tuần sau khi sinh), nếu sinh đôi thì được nghỉ 26 tuần hưởng trợ cấp (8 tuần trước và 18 tuần sau khi sinh). ở Đức người lao động nữ sinh con được nghỉ 6 tuần trước khi sinh hưởng nguyên lương, sau khi sinh con được nghỉ 1 năm hưởng 50%-60% lương. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Tại hầu hết các nước đều quy định trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp phụ thuộc vào mức độ thương tật với phương thức trợ cấp có thể là chi một lần hoặc dài hạn. ở Pháp người lao động bị tai nạn dẫn đến thương tật được trợ cấp dài hạn. Nếu người được bảo hiểm vẫn còn thực hiện được một hoạt động kiếm sống thì được hưởng trợ cấp là 30% mức lương bình quân (bình quân của 10 năm lương cao nhất). Nếu người được bảo hiểm không còn thực hiện được một hoạt động kiếm sống thì được hưởng trợ cấp là 50% mức lương bình quân. ở Anh người lao động bị tai nạn lao động tạm thời được hưởng 8 tuần như trợ cấp ốm đau. Kể từ tuần thứ 8 trở đi mức đồng đều được hưởng là 25 bảng/tuần cộng với 15,45 bảng cho vợ và 0,3 bảng cho con. Đối với trợ cấp dài hạn tối đa là 53,6 bảng/tuần cho mức thương tật là 100%. ở Thái lan mức trợ cấp ngắn hạn là 60% lương, tối thiểu là 2000 bạt/tháng, tối đa là 9000 bạt/tháng. Người lao động được nhận trợ cấp tai nạn lao động ngắn hạn phải nghỉ việc từ 3 ngày trở lên, thời hạn hưởng tối đa là 52 tuần. Trợ cấp tử tuất Trợ cấp tử tuất là chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng ở hầu hết các nước có hệ thống bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp tử tuất được thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất là trợ cấp một mức đồng nhất. Cách thứ hai là trợ cấp theo mức thu nhập của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trước khi chết, có thể là bằng 50% mức lương hưu hoặc bằng 40% đến 100% mức thu nhập khi còn sống. *Chi quản lý hành chính quỹ: Để vận hành tốt guồng máy của hệ thống bảo hiểm xã hội cần phải có chi phí quản lý hành chính quỹ bảo hiểm xã hội. Có hai hình thức chi cho chi phí quản lý hành chính. Một là được chính phủ tài trợ. Điều này thường có ở những nước mà Nhà nước bảo hộ phần lớn việc chi trả trợ cấp xã hội. Hai là khoản chi quản lý hành chính được xác định theo một tỷ lệ nhất định trên phần đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động hoặc tính bằng một tỷ lệ phần trăm trên tổng nguồn thu, thông thường khoảng từ 5%-10% tổng thu quỹ bảo hiểm xã hội. Tỷ lệ này ở các nước cũng hoàn toàn khác nhau phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức, cách quản lý của từng hệ thống bảo hiểm xã hội . *Chi đầu tư tăng trưởng quỹ: ở bất kỳ nước nào quỹ bảo hiểm xã hội nhàn rỗi cũng được dùng để đầu tư tăng trưởng, hoạt động đầu tư này đã làm cho quỹ bảo hiểm xã hội trở thành các trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế nhiều nước. Các khoản chi cho đầu tư bao gồm: chi mua chứng khoán, chi phí cho hoạt động cho vay, chi quản lý hoạt động đầu tư, tổn thất trong quá trình đầu tư... Khoản chi này không được bù đắp từ nguồn đóng góp bảo hiểm xã hội do người lao động, người sử dụng lao động mà được bù đắp bởi nguồn lợi nhuận do chính hoạt động đầu tư đem lại. Chính vì vậy đối với các khoản chi cho đầu tư được kiểm soát chặt chẽ và luôn tính đến hiệu quả mang lại. Mặc dù nguyên tắc hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội ở các nước là cân bằng thu chi, vô vị lợi, những khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động không để bù đắp mọi nguồn chi của quỹ nhưng việc cân đối thu chi quỹ bảo hiểm xã hội luôn phải có sự can thiệp của Chính phủ và được bù đắp thêm từ các nguồn khác. Sự cân đối thu chi quỹ bảo hiểm xã hội được thể hiện như sau: Tổng các khoản chi (chi trợ cấp chế độ, chi quản lý, chi đầu tư...) = Thu từ sự đóng góp của người lao động + Thu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động + Tài trợ của Ngân sách Nhà nước + Thu từ nguồn khác (lãi đầu tư, thủ tục phí...) Với phương thức cân đối thu chi, quỹ bảo hiểm xã hội ở một số nước thuộc khu vực Nhà nước cụ thể là thuộc khu vực tài chính công đã khắc phục những thất bại, khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường bảo đảm quyền lợi của người lao động trong xã hội. Chương 2-Thực trạng chính sách tài chính bảo Hiểm Xã Hội ở Việt nam 2.1. Thực trạng chính sách tài chính BHXH trước năm 1995 2.1.1. Thực trạng chính sách tài chính BHXH trước năm 1961 Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ ta đã sớm tiếp thu chính sách bảo hiểm xã hội đang áp dụng hiện hành ở Pháp và được vận dụng thực hiện ở Việt nam đối với viên chức, công chức làm việc cho chính quyền cũ. Chính sách này đã hình thành một quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu dựa vào sự đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động. Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp quy quy định một số chính sách về bảo hiểm xã hội nhằm ổn định tình hình kinh tế-xã hội. Trong số đó Sắc lệnh số 54/SL ngày 1/1/1945, Sắc lệnh số 105/SL ngày 14/6/1946 quy định công chức phải đóng bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ từ 6-10% tiền lương; cơ quan, đơn vị (công quỹ) cũng phải nộp theo tỷ lệ từ 7-10% quỹ tiền lương. Như vậy người lao động và chủ sử dụng lao động phải nộp từ 13-20% tiền lương. Các chế độ bảo hiểm xã hội người lao động được hưởng là hưu trí và tử tuất. Về chế độ hưu trí: hàng tháng người lao động đã nghỉ hưu được hưởng không quá 50% tiền lương trước khi nghỉ hưu. Về chế độ tử tuất: Thân nhân người đóng bảo hiểm xã hội được nhận tiền mai táng phí và một khoản trợ cấp có giá trị tương đương với 50 kg thóc. Các chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội chỉ mới được ban hành chưa được triển khai thực hiện thì đất nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy nhiên những chính sách bảo hiểm xã hội ở giai đoạn này đã đặt nền móng, đưa bảo hiểm xã hội vào hệ thống các chính sách kinh tế-xã hội quan trọng của Nhà nước. 2.1.2. Thực trạng chính sách tài chính BHXH từ năm 1960 đến năm 1995 Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, thi hành Điều 23 của Hiến pháp năm 1960, Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hoà đã ra Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công chức viên chức Nhà nước. Có thể nói ở thời điểm này, đây là chính sách bảo hiểm xã hội đầu tiên ở khu vực Đông nam á và châu á có tính bao quát nhất. Nội dung chủ yếu của chính sách tài chính quy định, đơn vị sử dụng lao động phải trích nộp bảo hiểm xã hội 4,7% quỹ lương trong đó: -1% để chi cho chế độ hưu trí, mất sức lao động, trợ cấp tuất do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý. -3,7% để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, nghỉ mát, dưỡng sức do Tổng liên đoàn lao động Việt nam quản lý. Quỹ bảo hiểm xã hội do hai cơ quan quản lý là Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam nhưng thực chất quỹ trực thuộc Ngân sách Nhà nước là những nội dung thu-chi quỹ của Ngân sách Nhà nước. Nhìn chung trong suốt một thời gian dài số thu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quản lý không đủ để chi cho các chế độ chính sách nên Ngân sách Nhà nước phải chi thêm một khoản tương đối lớn. Người lao động được hưởng 6 chế độ bảo hiểm xã hội là: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hưu trí, trợ cấp tử tuất. Đối tượng trên chủ yếu là những người lao động thuộc khu vực Nhà nước, lực lượng vũ trang, các đoàn thể hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước. Riêng chăm sóc y tế do Bộ Y tế quản lý thực hiện khám chữa bệnh không mất tiền. Điều đó nói lên sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người lao động trong điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển. Tuy nhiên, việc quy định chế độ thu bảo hiểm xã hội này mang nặng tính bao cấp, ỷ lại vào Ngân sách Nhà nước, cơ chế thu, công tác tổ chức thu không thống nhất, phân tán , công tác kiểm tra thu bị buông lỏng, không có biện pháp chế tài đối với những cơ quan, đơn vị không làm nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội đầy đủ khiến cho Ngân sách Nhà nước phải bù đắp một tỷ lệ lớn và có xu hướng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể như sau: Bảng 2.1: Tỷ lệ % Ngân sách Nhà nước hỗ trợ phần quỹ BHXH do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý Giai đoạn 1964-1987 Năm Tỷ lệ % Ngân sách Nhà nước hỗ trợ qua các năm Ghi chú 1964 4,70% 1965 37,40% 1966 41,60% 1968 54,80% 1970 70,30% 1971 80,10% 1972 84,40% 1976 83,20% 1981 89,20% 1982 91,90% 1983 93,90% 1985 97,00% 1987 97,67% (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam) Trước tình hình Ngân sách Nhà nước chi cho các chế độ bảo hiểm xã hội do hai cơ quan này quản lý đều có xu hướng ngày càng tăng, tháng 10/1986, Chính phủ đã ra quyết định số 236/HĐBT sửa đổi một số nội dung về bảo hiểm xã hội Việt nam. -Tháng 10/1986, nâng mức nộp quỹ bảo hiểm xã hội thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam quản lý từ 3,7% lên 5% trên tổng quỹ lương. -Tháng 3/1988, nâng mức nộp quỹ bảo hiểm xã hội thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý từ 1% lên 10% trên tổng quỹ lương. Như vậy mức thu đã được nâng lên từ 4,7% lên 15% quỹ tiền lương và do người sử dụng lao động đóng còn người lao động vẫn không phải đóng. Chính sách bảo hiểm xã hội theo Nghị định số 236/HĐBT nhằm mục tiêu góp phần giảm biên chế tại các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước nhưng lại trở thành gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước phải bao cấp thêm về bảo hiểm xã hội. Chi của Ngân sách Nhà nước vẫn chiếm phần lớn trong tổng số chi bảo hiểm xã hội, cụ thể tình hình chi bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý như sau: Bảng 2.2: Tỷ lệ % Ngân sách Nhà nước hỗ trợ phần quỹ BHXH do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý Giai đoạn 1988-1992 Năm Tỷ lệ % Ngân sách Nhà nước hỗ trợ qua các năm Ghi chú 1988 70,95% 1989 67,41% 1990 73,82% 1992 85,85% (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam) Nhưng số thu bảo hiểm xã hội hàng năm cũng không đảm bảo theo chỉ tiêu kế hoạch, bình quân trong cả thời gian dài từ năm 1962 đến tháng 9/1995, số thu thực tế chỉ bằng khoảng 86% kế hoạch đề ra ở cả quỹ bảo hiểm xã hội do Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và Bộ Lao động Thương binh và xã hội quản lý. Thậm chí có những năm chỉ đạt 70-75% kế hoạch. Về số tuyệt đối, cả thời kỳ từ năm 1962 đến tháng 9/1995 tổng số thu thực tế của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam là 958.371.371.943 đồng, Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ 5.476.900.000 đồng. Từ thực tế thu không đủ chi Ngân sách Nhà nước phải cấp bù nên Chính phủ phải tiến hành cải cách chính sách chế độ bảo hiểm xã hội trong đó có chính sách tài chính bảo hiểm xã hội. Từ những năm đầu của thập kỷ 90, để thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đưa chủ trương đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội để từng bước hình thành quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với Ngân sách Nhà nước, giảm bớt bao cấp. Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 quy định tạm thời về chế độ bảo hiểm xã hội. Trong Nghị định 43/CP quy định rõ cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tham gia đóng bảo bảo hiểm xã hội, người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội gồm trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Quỹ bảo hiểm xã hội được hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Chính phủ thành lập bảo hiểm xã hội Việt nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức bảo hiểm xã hội ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và Bộ Lao động Thương binh và xã hội để quản lý quỹ và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội theo pháp luật của Nhà nước. Thành lập Hội đồng quản lý là cơ quan chỉ đạo cao nhất của tổ chức bảo hiểm xã hội Việt nam. 2.2. Thực trạng chính sách tài chính Bảo hiểm xã hội trong thời kỳ đổi mới (1995 – nay) Sau khi Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994, Nghị định 43/CP quy định tạm thời về chê độ bảo hiểm xã hội được thay thế bằng Nghị định 12/CP của Chính phủ ngày 26/1/1995 ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội, Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập bảo hiểm xã hội Việt nam, Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân, Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt nam và một số văn bản bổ sung hướng dẫn của các ngành, các cấp có liên quan. Những văn bản trên quy định đổi mới một cách toàn diện về bảo hiểm xã hội. Riêng về chính sách tài chính có một số nội dung đổi mới chủ yếu sau: 2.2.1. Đổi mới về chức năng quản lý Bảo hiểm xã hội Nội dung chính là phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về Bảo hiểm xã hội và chức năng hoạt động sự nghiệp Bảo hiểm xã hội. Điều 41, Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định rõ: “Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội là cơ quan thực hiện quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội”. Nội dung quản lý Nhà nước của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về bảo hiểm xã hội: -Xây dựng pháp luật và trình Chính phủ ban hành pháp luật về BHXH. -Ban hành các văn bản pháp luật quy định về bảo hiểm xã hội thuộc thẩm quyền hướng dẫn của Bộ. -Kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội. Tổ chức bộ máy của Bảo hiểm xã hôi Việt nam bao gồm: Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam là cơ quan quản lý cao nhất của Bảo hiểm xã hội Việt nam. Thành viên của Hội đồng quản lý bao gồm: Đại diện có thẩm quyền của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn lao động Việt nam. Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành viên do Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Trưởng ban Tổ chức Chính phủ. Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam có 7 nhiệm vụ được quy định tại Điều 7, Điều lệ Bảo hiểm xã hội như sau: -Chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc thực hiện thu, chi, quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội Việt nam. -Quyết định các biện pháp để bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH theo phương án trình của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt nam. -Thông qua dự toán hàng năm về thu, chi Bảo hiểm xã hội, chi phí quản lý, định mức lệ phí thu, chi quỹ Bảo hiểm xã hội và thẩm tra quyết toán Bảo hiểm xã hội theo đề nghị của Tổng giám đốc trước khi gửi Bộ tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và các cơ quan khác có liên quan. -Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có liên quan bổ sung, sửa đổi những chính sách, chế độ Bảo hiểm xã hội. -Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt nam. -Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành, bổ sung, sửa dổi quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam. -Xem xét, giải quyết các khiếu nại của người tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của Pháp luật. Bảo hiểm xã hội Việt nam là cơ quan thực thi chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội được tổ chức thành ngành dọc 3 cấp từ Trung ương đến cấp quận, huyện. ở Trung ương là Bảo hiểm xã hội Việt nam có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản, có trụ sở đặt tại Hà nội. ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) là Bảo hiểm xã hội tỉnh trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt nam. Bảo hiểm xã hội tỉnh cũng có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản, có trụ sở đặt tại tỉnh. ở các huyện, quận, thị xã (gọi chung là huyện) là trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh. Bảo hiểm xã hội huyện cũng có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản, có trụ sở đặt tại huyện. Tổng giám đốc phân cấp quản lý cho Bảo hiểm xã hội các cấp. Đây là nội dung đổi mới có tính chất cơ bản trong việc quản lý tài chính bảo hiểm xã hội, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Trước đây một thời gian dài, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội vừa là cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội vừa là cơ quan thực thi chính sách về bảo hiểm xã hội, như vậy là vừa đá bóng vừa thổi còi. 2.2.2. Đổi mới về nguyên tắc quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội Nguyên tắc quản lý quỹ bảo hiểm xã hội được quy định cụ thể như sau: -Quỹ bảo hiểm xã hội được hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước. -Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo hộ trong những trường hợp cần thiết như: thay đổi chế độ chính sách, quỹ thâm hụt... -Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước do bảo hiểm xã hội Việt nam trực tiếp quản lý dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. -Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng theo quy định của Chính phủ. Đây là những nội dung rất cơ bản trong quản lý quỹ, bảo đảm nguyên tắc lấy số đông bù số ít, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng tham gia BHXH. Trước đây, quỹ bảo hiểm xã hội do hai cơ quan là Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt nam quản lý. Suốt một thời gian dài việc quản lý quỹ gặp nhiều khó khăn, không đảm bảo cân đối quỹ, quỹ bảo hiểm xã hội luôn bị thâm hụt. Mặt khác, quỹ do hai cơ quan quản lý nên gây khó khăn cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội như: phải đóng bảo hiểm xã hội cho hai nơi, khi nhận chế độ cũng qua nhiều cửa, mỗi chế độ nhận ở một cơ quan khác nhau gây lãng phí lao động xã hội và cho người lao động. Từ khi quỹ được quản lý tập trung thống nhất đã hạn chế được những tồn tại trên, nâng cao hiệu quả công việc, người lao động thuận tiện trong tham gia bảo hiểm xã hội . 2.2.3. Đổi mới chính sách thu Bảo hiểm xã hội Thu bảo hiểm xã hội là nội dung đổi mới cơ bản của chính sách tài chính bảo hiểm xã hội. Nội dung đổi mới của chính sách thu bảo hiểm xã hội được thể hiện rõ: Thực hiện nguyên tắc có đóng có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, người lao động và người sử dụng lao động không tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì người lao động không được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Đây là nội dung đổi mới có tính chất quyết định nhất trong công cuộc cải cách chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta. Những nội dung cụ thề về đổi mới chính sách thu bảo hiểm xã hội như sau: 2.2.3.1. Mở rộng đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội Trước năm 1995, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chủ yếu là những người làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước (bao gồm cả các đoàn thể, tổ chức xã hội hưởng thụ từ nguồn Ngân sách Nhà nước), lực lượng vũ trang (cả bộ đội và công an). Vì vậy, số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội rất ít, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến số thu bảo hiểm xã hội thấp. Trước thực trạng đó, thực hiện chương XII Bộ Luật lao động, Chính phủ đã quyết định mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Điều 3, Điều lệ bảo hiểm xã hội quy định các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc như sau: -Người làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. -Người làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên. -Người Lao động Việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế suất, khu công nghiệp, trong các cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam ký kết hoặc tham gia có quy định riêng. -Người làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể. -Người làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang -Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể. Việc đối tượng quy định tại Điều 3, Điều lệ Bảo hiểm xã hội được mở rộng cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên là một điểm rất mới mà hơn nửa thế kỷ qua, bảo hiểm xã hội nước ta chưa thực hiện được. Từ tháng 10 năm 1998, Chính phủ lại ban hành Nghị định 09/1998/NĐ-CP bổ sung một số đối tượng thuộc cán bộ xã, phường được tham gia bảo hiểm xã hội bao gồm: Bí thư Đảng uỷ xã, Phó Bí thư Đảng uỷ xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Chủ tịch UBND xã, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Phó Chủ tịch UBND xã, Chủ tịch mặt trận, Trưởng các đoàn thể (Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên, xã đội trưởng, trưởng công an), uỷ viên UBND xã, 4 chức danh chuyên môn: địa chính, tư pháp, tài chính kế toán, văn phòng UBND xã. Năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 73/1999/NĐ-CP trong đó nội dung mở rộng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với khu vực ngoài công lập thuộc các ngành: giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao. Nhìn chung, từ năm 1995 đến nay, Chính phủ đã từng bước mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội nên hàng năm số người tham gia bảo hiểm xã hội đều tăng. Đến năm 2001, số người tham gia bảo hiểm xã hội đã lên tới khoảng 4 triệu người, chiếm 10% số người trong độ tuổi lao động. Việc mở rộng các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đã động viên người lao động yên tâm làm việc ở các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, đồng thời cũng tạo nên sự công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế. 2.2.3.2. Đổi mới nguồn thu Bảo hiểm xã hội Điều 36, Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn sau: -Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia bảo hiểm xã hội trong đơn vị. -Người lao động đóng 5% tiền lương. -Ngân sách Nhà nước chuyển sang để: +Chi trả cho các đối tượng đang hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội trước ngày ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội. +Đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động sau ngày ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội. +Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. -Nguồn thu khác. Hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội là 15% và trích từ tiền lương của người lao động 5% để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội. Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội gồm lương theo ngạch, bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên. Điều mới trong chính sách tài chính bảo hiểm xã hội được quy định là: Người sử dụng lao động và người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội thì người lao động mới được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Đây là điểm khác nhau căn bản so với chính sách tài chính bảo hiểm xã hội thời bao cấp. Những nội dung đổi mới trong chính sách thu chi tài chính bảo hiểm xã hội phù hợp với tình hình thực tê của đất nước, phù hợp với các thông lệ quốc tế nên đã được người lao động và người sử dụng lao động chấp hành nghiêm chỉnh. Số thu bảo hiểm xã hội ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể như sau: Bảng 2.3: Thu Bảo hiểm xã hội qua các năm Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm Số thu Ghi chú 1995 (6 tháng) 788 1996 2569 1997 3.445 1998 3.875 1999 4.186 2000 5.198 2001 6.348 2002 7.153 (Nguồn: BHXH Việt nam) 2.2.4. Đổi mới chính sách chi Bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội thực hiện những nội dung chi sau: -Chi thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội cho người tham gia BHXH. -Nộp bảo hiểm y tế theo quy định tại Điều lệ Bảo hiểm xã hội. -Chi hoa hồng, đại lý, trả lệ phí thu, chi bảo hiểm xã hội. -Chi khác. Trong những nội dung chi ở trên thì nội dung đổi mới trong chính sách chi bảo hiểm xã hội thể hiện rõ nét ở: 2.2.4.1. Chi cho các chế độ Bảo hiểm xã hội Đây là nội dung chi chủ yếu của quỹ bảo hiểm xã hội, chiếm trên 80% tổng số chi của quỹ. Hiện nay theo Điều lệ hiện hành quỹ bảo hiểm xã hội được chi cho các chế độ sau: -Chế độ trợ cấp ốm đau. -Chế độ trợ cấp thai sản. -Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. -Chế độ trợ cấp hưu trí. -Chế độ trợ cấp tử tuất. -Chế độ nghỉ dưỡng sức. Riêng chế độ chăm sóc y tế (bảo hiểm y tế được thực hiện theo Nghị định 58/1998/NĐ-CP). Tại Công ước 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) quy định có 9 chế độ BHXH. Hiện nay nước ta chỉ còn 2 chế độ chưa được áp dụng, đó là: Chế độ trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp khó khăn gia đình. Thực ra chế độ trợ cấp khó khăn gia đình đã có từ thời bao cấp, được áp dụng cho các gia đình có từ con thứ ba trở lên. Nhưng hiện nay, thực hiện chế độ kế hoạch hoá gia đình nên chế độ trợ cấp khó khăn gia đình không được thực hiện. Về điều kiện hưởng và mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội được quy định chặt chẽ hơn ví dụ chế độ trợ cấp hưu trí chỉ bằng 75% tiền lương, ốm đau bằng 75% tiền lương. Các chế độ này trong thời kỳ bao cấp được hưởng rất cao: ốm đau bằng 100% tiền lương, hưu trí được hưởng từ 80-90%, cá biệt có trường hợp được hưởng 100% tiền lương. Kinh phí để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội từ hai nguồn: -Nguồn từ Ngân sách Nhà nước dùng để chi trả các đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trước ngày 1/1/1995. Hiện nay số người hưởng trợ cấp từ nguồn Ngân sách Nhà nước khoảng 1,7 triệu người, khối lượng tiền chi trả năm 2001 khoảng trên 7.000 tỷ đồng. -Nguồn từ quỹ bảo hiểm xã hội dùng để chi trả các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội sau ngày 1/1/1995. Nhìn chung số người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội từ nguồn quỹ bảo hiểm xã hội chưa nhiều, chủ yếu là các đối tượng hưởng các chế độ ngắn hạn. Số tiền chi cụ thể như sau: Bảng 2.4: Chi BHXH cho các chế độ qua các năm Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm Quỹ BHXH Ngân sách Nhà nước 1995 (6 tháng) 42 1996 327 4.387 1997 505 5.162 1998 674 5.128 1999 849 5.015 2000 1.319 6.149 2001 1.980 7.092 (Nguồn: BHXH Việt nam) Nhìn chung từ khi đổi mới chính sách tài chính, công tác chi trả cho các đối tượng đã có nhiều tiến bộ, đảm bảo chi đúng đối tượng, chi đủ số lượng, đúng thời gian. Suốt một thời gian dài từ tháng 1/1995 đến nay, ngành Bảo hiểm xã hội Việt nam chưa để xảy ra hiện tượng sai sót, chưa có trường hợp nào phải nợ lương hưu hàng tháng như thời bao cấp. Tất cả các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đều yên tâm. 2.2.4.2. Chi cho bộ máy quản lý Khi mới thành lập, kinh phí hoạt động của cả hệ thống bảo hiểm xã hội Việt nam do Ngân sách Nhà nước cấp. Điều 4, Quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam ban hành kèm theo Quyết định 606/TTg ngày 26/9/1995 của Chính phủ có quy định rõ: “Biên chế và kinh phí hoạt động của bảo hiểm xã hội Việt nam trong thời gian đầu do Nhà nước cấp. Về kinh phí hoạt động bảo hiểm xã hội thống nhất với Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định trong một văn bản riêng”. Ngày 26/1/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ban hành Quy chế Quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt nam. Đây là văn bản quy định những nội dung về tài chính thuộc thẩm quyền của Bảo hiểm xã hội Việt nam. Trong đó có các nội dung chính như: Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội Việt nam trong việc quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định 12/CP, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Ngoài các nội dung trên, Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng. Chính phủ còn quy định nội dung quan trọng đó là quy định một tỷ lệ khoán chi quản lý bộ máy cho toàn ngành bảo hiểm xã hội. Điều 14, Quyết định số 20/1998/CP-TTg quy định: -Chi phí quản lý thường xuyên của Bảo hiểm xã hội Việt nam lấy từ quỹ bảo hiểm xã hội được tính bằng tỷ lệ % theo số thực thu bảo hiểm xã hội hàng năm (do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp). Trước mắt chi phí quản lý được tính bằng 6% trong 5 năm (1998-2003). -Chi phí quản lý của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt nam được thực hiện theo định mức, tiêu chuẩn hiện hành của Nhà nước ; ngoài ra, những khoản chi tiêu đặc thù của ngành do Hội đồng quản lý BHXH Việt nam quyết định. - Bảo hiểm xã hội Việt nam có trách nhiệm phân bổ chi phí quản lý bộ máy cho Bảo hiểm xã hội các cấp theo đúng định mức tiêu chuẩn chế độ chi tiêu và nhiệm vụ được giao đảm bảo nguyên tắc kinh phí phân bổ cho bảo hiểm xã hội các cấp không được vượt quá so với tổng định mức. Thực hiện chính sách chi cho bộ máy quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam đã đạt được một số thành tựu: -Tách chi phí quản lý bộ máy của ngành Bảo hiểm xã hội Việt nam ra khỏi Ngân sách Nhà nước. Từ năm 1998 trở đi, Ngân sách Nhà nước không phải chi cho bộ máy quản lý của ngành Bảo hiểm xã hội Việt nam. Toàn bộ chi phí thường xuyên của ngành Bảo hiểm xã hội Việt nam được lấy từ quỹ Bảo hiểm xã hội (do người lao động và người sử dụng lao động đóng). -Mức khoán chi thường xuyên bằng tỷ lệ 6% trên tổng số thu sẽ khuyến khích ngành Bảo hiểm xã hội tăng thu. Số thu tuyệt đối hàng năm tăng thì số tiền tuyệt đối được dùng chi cho bộ máy cũng tăng lên, đây thực sự là một đòn bảy kinh tế kích thích tăng thu của ngành bảo hiểm xã hội. -Mức khoán chi thường xuyên bằng tỷ lệ 6% trên tổng số thu là giới hạn trên (mức trần), ngành Bảo hiểm xã hội Việt nam không được chi vượt. Tuy nhiên việc thực hiện chính sách chi cho bộ máy quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam cũng bộc lộ một số mặt hạn chế: -Chính phủ khoán tỷ lệ 6% trên tổng số thu hàng năm, nhưng tất cả các khoản mục chi tiêu phải thực hiện theo định mức tài chính của Nhà nước. Việc xây dựng dự toán, thanh, quyết toán được thực hiện theo quy định như một đơn vị hành chính (định mức chi tiêu Ngân sách), nên không khuyến khích tăng thu. Nhiều chi phí phát sinh trong quá trình thu bảo hiểm xã hội, như ở các tỉnh miền núi phải có xe máy, các tỉnh Nam bộ phải có ghe để đốc thu bảo hiểm xã hội nhưng không được chi dẫn đến số chi thực tế rất thấp chỉ bằng 4% số tổng thu. -Số tiền tiết kiệm được (2% còn lại) Nhà nước lại không cho ngành bảo hiểm xã hội được bổ sung vào các quỹ như khen thưởng, phúc lợi nên cũng không khuyến khích cán bộ, công chức trong ngành bảo hiểm xã hội tiết kiệm chi tiêu. -Nhà nước khoán chi quản lý bộ máy những vẫn giao chỉ tiêu biên chế hàng năm, nghĩa là việc khoán chi quản lý bộ máy không tạo nên sự đồng bộ với khoán quỹ lương, không khuyến khích ngành Bảo hiểm xã hội Việt nam tự giảm biên chế, tăng năng suất lao động, tăng chất lượng hiệu quả công tác. Từ những mặt hạn chế đó, Chính phủ đã có Quyết định số 100/2001/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt nam. Những nội dung chính được sửa đổi, bổ sung là: -Chi phí quản lý thường xuyên của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt nam bao gồm các khoản chi (kể cả chi nghiên cứu khoa học, chi đào tạo, đào tạo lại) để phục vụ cho hoạt động của toàn ngành; không bao gồm các khoản chi sửa chữa lớn tài sản cố định, chi mua sắm và trang bị tài sản lớn theo các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. -Nhà nước quản lý biên chế đối với số cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý khung của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt nam. Bảo hiểm xã hội Việt nam chủ động sắp xếp, tổ chức và tuyển dụng lao động theo quy định của Bộ Luật Lao động để đáp ứng yêu cầu của công việc. -Nguồn kinh phí chi quản lý thường xuyên của Bảo hiểm xã hội Việt nam được lấy từ lãi thu được do thực hiện các hoạt động đầu tư, tăng trưởng quỹ và được tính bằng 4% trên số thực thu BHXH hàng năm. Tỷ lệ này được áp dụng trong hai năm 2001 và 2002. -Nếu Bảo hiểm xã hội Việt nam hoàn thành nhiệm vụ, tiết kiệm quản lý thường xuyên thì số dôi ra được bổ sung các khoản chi như sau: +Bổ sung tiền lương, tiền công cho người lao động toàn ngành theo mức độ hoàn thành công việc, nhưng mức thu nhập tối đa không quá 2 lần theo quỹ tiền lương theo quy định hiện hành của Nhà nước. +Chi lương cho lao động hợp đồng trong trường hợp cần thiết để đảm bảo hoàn thành công việc. +Bổ sung hai quỹ khen thưởng và phúc lợi không quá 3 tháng lương thực tế bình quân toàn ngành. +Bổ sung thêm trợ cấp cho người lao động trong hệ thống khi thực hiện chính sách sắp xếp lao động, tinh giản biên chế theo chế độ Nhà nước quy định. +Phần còn lại (nếu có) sau khi chi 4 nội dung trên được chuyển sang năm sau sử dụng tiếp. Đây là Quyết định của Thủ thướng Chính phủ phù hợp với điều kiện thực tế của ngành Bảo hiểm xã hội Việt nam đã khuyến khích toàn ngành bảo hiểm xã hội bằng mọi biện pháp tăng thu đồng thời tiết kiệm chi phí quản lý bộ máy. Điều này đã gắn quyền lợi tập thể, quyền lợi của ngành với quyền lợi của từng thành viên trong ngành. Vì vậy số thu bảo hiểm xã hội năm 2001 đã vượt chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao (đạt 103,3% kế hoạch), đời sống cán bộ, công chức trong ngành được cải thiện, mọi người thi đua lao động, cải tiến lề lối làm việc, tăng năng suất lao động và tiết kiệm. 2.2.5. Đổi mới hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Thông thường, mục chi bảo hiểm xã hội cho các chế dộ hưu trí, tử tuất thường gọi là chế độ dài hạn, quỹ bảo hiểm xã hội luôn luôn có số kết dư hàng năm. Số tiền tạm thời nhàn rỗi này được Chính phủ cho phép đầu tư tăng trưởng quỹ. Điều 17, Quyết định 20/1998QĐ-TT của Thủ tướng Chính phủ quy định như sau: Bảo hiểm xã hội Việt nam được sử dụng tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm xã hội để thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng. Việc dùng quỹ BHXH để đầu tư phải đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro đển mức thấp nhất, bảo toàn được giá trị và có hiệu quả kinh tế-xã hội. Bảo hiểm xã hội Việt nam được thực hiện các biện pháp đầu tư như sau: -Mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước. -Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước. -Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng chính phủ cho phép và bảo trợ. Tiền sinh lời do hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội được sử dụng như sau: -Trích 50% bổ sung vào quỹ bảo hiểm xã hội để bảo toàn và tăng trưởng. -Trích kinh phí để chi quản lý thường xuyên hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt nam. -Trích 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi bằng 3 tháng lương thực tế bình quân toàn ngành. -Phần còn lại để bổ sung nguồn vốn đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất của toàn hệ thống bảo hiểm xã hội Việt nam. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, B1ảo hiểm xã hội Việt nam đã tiến hành các hoạt động đầu tư tăng trưởng. Tính đến 31/12/2001, số dư của quỹ đã được đầu tư trên 20.000 tỷ đồng, số lãi thu được trên 3.000 tỷ đồng, riêng lãi của năm 2001 là 990 tỷ đồng. Lãi đầu tư được bảo hiểm xã hội Việt nam sử dụng theo đúng quy định của Chính phủ. Những hạn chế của chính sách tài chính BHXH hiện hành: Nhìn chung, chính sách tài chính bảo hiểm xã hội trong thời kỳ đổi mới đã được Nhà nước quan tâm, sửa đổi, bổ sung ngày càng hoàn thiện. Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự thay đổi của nền kinh tế-xã hội thì chính sách tài chính bảo hiểm xã hội cũng còn một số tồn tại đòi hỏi cần phải nghiên cứu hoàn thiện tiếp, cụ thể: -Mức thu bảo hiểm xã hội còn thấp so với các nước và so với quy định trong Công ước 102 của ILO. Trong điều kiện thực tế ở nước ta, kinh tế chưa phát triển, thu nhập và mức sống của người lao động còn thấp nên ta chưa thể tăng mức đóng bảo hiểm xã hội. Nhưng khi muốn bổ sung thêm chế độ trợ cấp nào thì phải quy định thêm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội và phải tìm nguồn thu để có kinh phí chi trả cho các chế độ mới. Với mức đóng và mức hưởng các chế độ trợ cấp như hiện nay, quỹ bảo hiểm xã hội sẽ cân đối không vững chắc, Ngân sách Nhà nước phải trợ cấp hoặc điều chỉnh lại mức đóng, mức hưởng. -Theo Công ước 102 của ILO và kinh nghiệm của các nước, để được hưởng các chế độ trợ cấp, người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội trong một thời gian nhất định (gọi là thời gian dự bị). Nhưng đối với nước ta, có một số chế độ chưa có thời gian dự bị như: chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, người lao động đóng BHXH là được hưởng ngay trợ cấp nếu bị rủi ro. Đây là vấn đề cần phải nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện. -Hiện nay, nước ta còn một số chế độ chưa được áp dụng như: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình khó khăn. Bước vào cơ chế thị trường, thị trường lao động nước ta ngày càng phát triển, sự chuyển dịch lao động từ nơi thừa đến nơi thiếu là quá trình tất yếu diễn ra thường xuyên. Trong tình hình đó, có một bộ phận lao động tất yếu sẽ bị đào thải do nhiều nguyên nhân như: các doanh nghiệp bị thua lỗ, doanh nghiệp bị phá sản, doanh nghiệp dư thừa lao động... Tình hình thực tế đó cần thiết phải có chế độ trợ cấp thất nghiệp. Chế độ trợ cấp gia đình khó khăn là vấn đề xã hội gắn liền đồng bộ với việc thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội khác. -Hạn chế rõ nét nhất trong các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ là văn bản pháp quy hiện hành chưa quy định rõ ràng các nguyên tắc đầu tư tăng trưởng quỹ, chưa đưa ra được hạn mức tối đa của các dự án đầu tư để đảm bảo an toàn quỹ cũng như chưa đưa ra được các lĩnh vực đầu tư: Đầu tư vào đâu? Đầu tư vào lĩnh vực nào để đảm bảo an toàn và có hiệu quả? -Về chi phí quản lý, theo Quyết định 100/2001/QĐ-TTg ngày 28/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ thì bảo hiểm xã hội Việt nam được trích 4% trên tổng số thu để chi quản lý bộ máy trong toàn ngành. Quyết định này được thực hiện trong 2 năm (2001 và 2002), thu nhập của cán bộ công chức trong ngành BHXH Việt nam dù có tiết kiệm chi quản lý bộ máy cũng chỉ tối đa không quá 2 lần mức tiền lương tối thiểu. Trong khi đó, từ 24/1/2002, Thủ tướng Chính phủ chuyển BHYT sang BHXH Việt nam, chi phí quản lý bộ máy của ngành BHYT lại được tính bằng 8,5% trên tổng số thu nhập. Đây là những vấn đề bất cập trong việc quản lý vì khi BHYT sáp nhập vào BHXH Việt nam thì cùng một ngành nhưng lại có hai cơ chế tài chính khác nhau. Trên đây là những vấn đề đặt ra cần phải được nghiên cứu hoàn thiện chính sách tài chính BHXH Việt nam trong thời gian tới. Chương 3 - Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính BHXH ở nước ta trong những năm tới 3.1. Định hướng phát triển của BHXH Việt nam đến năm 2010 3.1.1. Quan điểm phát triển Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội lớn của Nhà nước, đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong hệ thống an sinh quốc gia. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội, bảo hiểm xã hội nói chung và các chính sách tài chính bảo hiểm xã hội nói riêng cũng phải ngày càng hoàn thiện, phát triển trong tổng thể phát triển của cả hệ thống các chính sách xã hội của Nhà nước. Hệ thống bảo hiểm xã hội cần từng bước xây dựng và thực hiện hạch toán theo hướng tự quản, xã hội hoá toàn ngành, thực hiện chức năng đảm bảo sản xuất và đời sống, bảo vệ cuộc sống của các thành viên trong xã hội khi gặp rủi ro, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội. 3.1.2. Chiến lược phát triển của BHXH Việt nam đến năm 2010 Theo Dự thảo Chiến lược phát triển ngành Bảo hiểm xã hội Việt nam đến năm 2010: “Từ năm 1995 đến nay, quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung thống nhất, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ được thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng theo quy định của Chính phủ. Việc quản lý quỹ thống nhất để chi trả cho các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội là bước ngoặt trong hoạt động của bảo hiểm xã hội ở Việt nam, mang lại hiệu quả cao, phù hợp với xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Từ thực tế đó, khẳng định giai đoạn từ nay đến năm 2010 quỹ cần phải được tiếp tục quản lý theo mô hình tập trung thống nhất, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, không thành lập các quỹ thành phần, không chia nhỏ các quỹ bảo hiểm xã hội theo loại hình lao động hoặc theo chế độ trợ cấp. Quỹ do ba bên đóng góp (Nhà nước, người lao động, người sử dụng lao động) thì do ba bên quản lý thông qua một Hội đồng gọi là Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Thủ tướng Chính phủ. Mức đóng bảo hiểm xã hội phải được tính toán trên cơ sở thu nhập (tiền lương và tiền công) của người lao động và tỷ lệ thu phải được điều chỉnh dần từ thấp đến cao theo mức tăng của tiền lương, tiền công, vừa đảm bảo cuộc sống hiện tại của người lao động, vừa đảm bảo mục tiêu cân đối quỹ đồng thời phải phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn từ nay đến năm 2010. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, nước ta cũng cần thiết phải mở rộng thêm các chế độ bảo hiểm xã hội, song việc mở rộng thêm chế độ nào phải tuỳ thuộc vào nhu cầu về bảo hiểm xã hội và khả năng phát triển kinh tế-xã hội chung của đất nước. Phải mở rộng các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Các đối tượng là công chức, người làm việc trong các tổ chức đoàn thể, hiệp hội... thụ hưởng kinh phí từ Ngân sách Nhà nước, lực lượng an ninh quốc phòng và các đối tượng có quan hệ chủ-thợ đều thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Ngoài ra, cần phải áp dụng bảo hiểm xã hội tự nguyện cho một số đối tượng lao động tự do hoặc những đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng có nhu cầu tăng thêm về mức trợ cấp. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, tăng bình quân mỗi năm khoảng 90 vạn người tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng 50 vạn người/ năm, bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng 40 vạn người/năm. Đưa số người tham gia bảo hiểm xã hội đến năm 2010 là 12,4 triệu người, bằng khoảng 23% tổng số người trong độ tuổi lao động”. Trên đây là những định hướng cơ bản về hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội giai đoạn từ nay đến năm 2010. Có thể tóm tắt các nội dung chính về định hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội giai đoạn từ nay đến năm 2010 như sau: -Quỹ bảo hiểm xã hội tiếp tục được quản lý theo mô hình tập trung thống nhất, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, không thành lập các quỹ thành phần, không chia nhỏ quỹ theo loại hình lao động hoặc theo chế độ trợ cấp. -Mức đóng bảo hiểm xã hội được điều chỉnh dần từ thấp đến cao theo mức tăng của thu nhập để đảm bảo cuộc sống của người lao động. -Quỹ bảo hiểm xã hội phải được cân đối thu-chi. Giai đoạn từ nay đến năm 2010, quỹ bảo hiểm xã hội không thể để thâm hụt, thu của quỹ phải đủ chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội. Nhà nước chỉ hỗ trợ cho quỹ giai đoạn từ nay đến năm 2010 trong các trường hợp sau: +Đối với đơn vị trả lương cho người lao động từ nguồn Ngân sách Nhà nước thì hàng tháng với tư cách là người sử dụng lao động Bộ Tài chính chuyển tiền về cho các đơn vị để các đơn vị đó đóng theo quy định. +Nhà nước chỉ có trách nhiệm trả lương hưu cho các đối tượng về hưu trước ngày 1/1/1995. +Nhà nước hỗ trợ cho các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước có thời gian công tác trước ngày 1/1/1995 vì số người này cơ bản chưa đóng bảo hiểm xã hội trong thời gian trước ngày 1/1/1995. Mức hỗ trợ cụ thể sẽ do Bảo hiểm xã hội Việt nam và Bộ Tài chính tính toán thống nhất trình Chính phủ. -Mở rộng dần các chế độ bảo hiểm xã hội. -Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. -Thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện. -Thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ. 3.2. Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính BHXH 3.2.1. Hoàn thiện chính sách thu Bảo hiểm xã hội 3.2.1.1. Cơ sở hoàn thiện *Dự báo nhu cầu bảo hiểm xã hội Để duy trì sự tồn tại và phát triển, con người phát sinh nhiều loại nhu cầu khác nhau. Khi thu nhập thấp, mức sống chưa cao thì nhu cầu cấp thiết nhất là thoả mãn các điều kiện ăn, ở, mặc, học hành và dành dụm một phần thu nhập để đảm bảo cuộc sống khi ốm đau, thai sản, tuổi già. Khi thu nhập được nâng cao, mức sống được nâng lên, lúc đó con người phát sinh nhiều nhu cầu mới, đa dạng và phong phú hơn. Mức độ dành dụm để bảo đảm cuộc sống khi ốm đau, tai nạn, tuổi già cũng tăng càng nhiều hơn và thường xuyên hơn. Đó là nhu cầu về bảo hiểm xã hội. Nhu cầu về bảo hiểm xã hội của người lao động luôn luôn phát sinh gắn liền với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm xã hội cũng ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú hơn. Nhu cầu bảo hiểm xã hội có thể chia thành hai loại là nhu cầu chung về bảo hiểm xã hội và nhu cầu nội tại của bảo hiểm xã hội. -Nhu cầu chung về bảo hiểm xã hội gồm: +Nhu cầu về tiềm năng của bảo hiểm xã hội: Loại nhu cầu này có liên quan đến phạm trù nhân khẩu học bao gồm số lượng và cơ cấu dân số có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội. Số đó gọi là nhu cầu tiềm năng bởi vì trong một thời điểm nào đó có một số nhóm dân cư này hay một nhóm dân cư khác có thể trực tiếp tham gia bảo hiểm xã hội (nộp và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội) trở thành đối tượng của bảo hiểm xã hội. Các nước có bề dày lịch sử phát triển bảo hiểm xã hội từ đầu thế kỷ 19 thì nhu cầu tiềm năng về bảo hiểm xã hội đã trở thành nhu cầu hiện thực vì các nước này đã thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động. Đối với bảo hiểm xã hội, xác định được nhu cầu tiềm năng có một ý nghĩa rất lớn trong việc dự đoán số người tham gia bảo hiểm xã hội, cân dối được nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội để từ đó cân đối thu-chi, đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm xã hội. +Nhu cầu hiện có của bảo hiểm xã hội: đó là những nhu cầu có liên quan đến đặc điểm lao động và người lao động, bao gồm: số lượng, cơ cấu lao động theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, đặc biệt là điều kiện thu nhập của người lao động có khả năng đóng bảo hiểm xã hội tạo nguồn tài chính để đảm các nhu cầu đó. Xác định nhu cầu hiện có của bảo hiểm xã hội có một ý nghĩa rất quan trọng trong dự báo quy mô, cơ cấu nguồn thu của quỹ, xác định được phương thức hoạt động của bảo hiểm xã hội. -Nhu cầu nội tại: là các nhu cầu của người lao động đã và đang tham gia đóng và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Xác định được các loại nhu cầu nội tại nhằm điều chỉnh, bổ sung chính sách chế độ bảo hiểm xã hội, cân đố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24965.DOC