Đề tài Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 số 3 trong thời gian qua

Tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 số 3 trong thời gian qua: Mục lục Mục lục Phần thứ nhất: Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 1. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinhoạt động tế trong các doanh nghiệp…………………………………………………………….…..………...5 Khái niệm về hiệu quả kinh tế. Bản chất của hiệu quả kinh tế. 2. Những quan điểm về hiệu quả kinh tế……………………….…..…....7 3. Những nguyên tắc để xem xét hiệu quả kinh tế……………….………9 Về mặt thời gian. Về mặt không gian. Về mặt định lượng. Về mặt định tính. 4. Mục tiêu và ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế…12 Mục tiêu của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế. ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế. 5. Nội dung chủ yếu của việc xác định hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp…………………………………………………………………….15 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp. 6. Một số kinh nghi...

doc90 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 933 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 số 3 trong thời gian qua, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Mục lục Phần thứ nhất: Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 1. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinhoạt động tế trong các doanh nghiệp…………………………………………………………….…..………...5 Khái niệm về hiệu quả kinh tế. Bản chất của hiệu quả kinh tế. 2. Những quan điểm về hiệu quả kinh tế……………………….…..…....7 3. Những nguyên tắc để xem xét hiệu quả kinh tế……………….………9 Về mặt thời gian. Về mặt không gian. Về mặt định lượng. Về mặt định tính. 4. Mục tiêu và ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế…12 Mục tiêu của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế. ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế. 5. Nội dung chủ yếu của việc xác định hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp…………………………………………………………………….15 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp. 6. Một số kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao và bảo đảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp vận tải ô tô…………………………………………23 Phần thứ hai: Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 trong thời gian qua. I. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của công ty. Quá trình hình thành công ty………………………………………27 Quá trình phát triển………………………………………………….…25 3. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu có liên quan và ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty……………………………..26 3.1 Về tổ chức bộ máy quản trị của công ty. 3.2 Về công tác quản lý lao động tiền lương. 3.3 Về cơ sở vật chất kỹ thuật. 3.4 Về khách hàng của công ty. 3.5 Về địa bàn hoạt động và mặt hàng vận chuyển. II. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty trong thời gian qua. 1. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động của công ty trong thời gian qua…………………………………………………………………………27 Về sản lượng. Về doanh thu. Về nộp ngân sách. Về lợi nhuận. Về thu nhập bình quân. Về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ. 2. Phân tích thực trạng tình hình hiệu quả hoạt động của công ty trong thời gian qua……………………………………………………………………31 Xét hiệu quả kinh doanh theo hiệu quả sử dụng lao động. Xét hiệu quả theo chỉ tiêu sử dụng vốn cố định. Xét hiệu quả theo chỉ tiêu sử dụng vốn lưu động. Xét hiệu quả theo chỉ tiêu tổng hợp. III. Đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 trong thời gian qua. Về mặt hoạt động………………………………………………………38 Những mặt làm được. Những mặt chưa làm được. Về hiệu quả hoạt động………………………………………………...42 a. Những mặt làm được. b. Những mặt chưa làm được. Các nguyên nhân tương ứng……………………………..…………….50 Nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan. Phần thứ ba: Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 trong thời gian tới. Triển vọng phát triển vận tải ô tô Việt Nam và các chính sách của Nhà nước. Triển vọng phát triển vận tải ô tô Việt Nam…………………….……..60 Các chính sách của Nhà nước đối với ngành vận tải ô tô quốc doanh…61 Chính sách giải quyết tổ chức-lao động. Chuyển hướng kinh doanh theo phương châm đa dạng hoá sản phẩm. Đổi mới phương tiện vận chuyển. Chính sách huy động vốn và cấp vốn. Các chính sách về tạo nguồn hàng khai thác. Phương hướng, mục tiêu hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 trong thời gian tới. Mục tiêu………………………………………………………………..63 Mục tiêu chung. Mục tiêu cụ thể. Định hướng khách hàng………………………………………………..64 Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2001……………………….……..65 Lao động Phương tiện vận tải. Hàng hoá. Kế hoạch đầu tư. 4. Phương hướng thực hiện kế hoạch năm 2001…………………………67 Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 trong thời gian tới. Biện pháp 1: Về quản trị nhân sự trong công ty…………………………..68 Biện pháp 2: Về huy động và sử dụng vốn………………………………..75 Biện pháp 3: Về thành lập phòng Marketing……………...………………83 Biện pháp 4: Về đầu tư cho phương tiện vận tải……………………...…...86 Một số kiến nghị…………………………………………………………..89 Tài liệu tham khảo…………………………………………………………95 Lời nói đầu Sau khi nền kinh tế thị trường chính thức được xác lập ở Việt nam, các doanh nghiệp đều gặp những khó khăn găy gắt chưa từng có, làm giảm sút lợi nhuận và có nguy cơ phá sản “hoạt động kém hiệu quả “ là cụm từ quen thuộc đối với các doanh nghiệp. Đâu là nguyên nhân của vấn đề và biện pháp nào cần được thực thi nhằm đưa các doanh nghiệp đến tồn tại và phát triển. Mục đích của bài viết là áp dụng những lý thuyết đã được trang bị để thực tập giải quyết và công ty vận tải ô tô số 3 được lấy làm cơ sở cho việc phân tích. Kết quả của việc phân tích là thực trạng hiệu quả hoạt động của công ty và sau đó là các biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty trong thời gian tới. Nội dung cơ bản và kết cấu của đề tài nghiên cứu gồm ba phần: Phần thứ nhất: Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Phần thứ hai: Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 số 3 trong thời gian qua. Phần thứ ba: Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 số 3 trong thời gian tới. Bài viết khó tránh khỏi những đánh giá chưa sát thực hoặc phiến diện do chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm. Tuy nhiên những vấn đề được nêu và đánh giá trên tinh thần của nguyên tắc khách quan căn cứ vào thực tiễn để tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp. Em xin đặc biệt cảm ơn thầy giáo TS Phạm Văn Dũng vì đã hết sức tận tình giúp em thực hiện chuyên đề trong việc đưa ra những chỉ dẫn về phương pháp và kinh nghiệm. Xin chân thành cảm ơn chú trần phong thuỷ , chú DƯ... và các cô chú trong cơ quan đã nhiệt tình cung cấp các số liệu và trả lời những vướng mắc trong thời gian thực tập. Phần thứ nhất: Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. A 1. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp. s. a. Khái niệm về hiệu quả kinh tế. Từ trước tới nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. -Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra tức giá trị sử dụng của nó( hoặc là doanh thu thuần và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh ). Quan đIểm này lẫn lộn giữa hiệu quả với mục tiêu kinh doanh. -Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiến diện, chỉ đứng trên mức độ biến động của thời gian. -Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế. -Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả và chi phí. Định nghĩa như vậy chỉ muốn nói về cách xác lập các chỉ tiêu, chứ không toát lên ý niệm của vấn đề. -Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của kết quả sản xuất kinh doanh trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của sản xuất kinh doanh. Quan điểm này muốn quy hiệu quả về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó, bởi vậy cần có một khái niệm bao quát hơn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Cụ thể ra hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn ) nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định tức là tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. Bản chất của hiệu quả kinh tế. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm các nguồn lực và sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để các nguồn lực. Để đạt được các mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực hiện có của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm chi phí. Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệi quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua, hay là giá trị của việc hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn. A 2. Những quan điểm về hiệu quả kinh tế -Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong doanh nghiệp -Nếu đứng trên từng yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh. -Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản của lợi ích là “tiền”. Vấn đề cơ bản trong lĩnh vực quản lý là phải biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích trung ương và địa phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước -Hiệu quả kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể vừa là phạm trù trừu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các con số, chỉ tiêu để tính toán so sánh; nếu là phạm trù trừu tượng phải định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Có thể nói rằng phạm trù hiệu quả là kiến thức thường trực của mọi cán bộ quản lý, được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trên các nội vừa phân tích, ta có thể chia hiệu quả làm hai loại: -Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh tế hoặc hiệu quả kinh doanh. -Nếu đứng trên phạm vi xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì có hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Cả hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có điều kiện thực hiện được hai loại hiệu quả trên, còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế. Đứng trên góc độ này mà xem xét thì sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện nay là một tất yếu khách quan Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong các trường hợp sau: -Kết quả tăng, chi phí giảm -Kết quả tăng, chi phí tăng, nhưng tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh. Trường hợp thứ hai diễn ra chậm hơn và trong sản xuất kinh doanh có lúc chúng ta phải chấp nhận: thời gian đầu tốc độ tăng của chi phí lớn hơn tố độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh, nếu không thì doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển được.Trường hợp này diễn ra vào thời điểm khi chúng ta đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng hoặc phát triển thị trường mới.. . Đây chính là bài toán cân nhắc giữa kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thông thường thì mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện tối thiểu nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tạo ra thu nhập về tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ, đủ bù đắp chi phí bỏ ra sản xuất hàng hoá và dịch vụ ấy. Còn mục tiêu phát triển của doanh nghiệp đòi hỏi quá trình sản xuất kinh doanh vừa đảm bảo bù đắp chi phí bỏ ra vừa có tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất. Đây là mục tiêu cơ bản cuả doanh nghiệp. 3. Những thước đo hiệu quả kinh tế a. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụnglao động của doanh nghiệp. Tổng số lao động được sử dụng Tổng số lao động hiện có Hệ số sử dụng lao động = Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp, số lao động của doanh nghiệp đã sử dụng hết chưa, tiết kiệm hay lãng phí nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra biện pháp khắc phục nhằm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lao động của doanh nghiệp. Lao động trong kỳ Doanh thu trong kỳ -Năng suất lao động = Chỉ tiêu này cho thấy với một lao động tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Lao động trong kỳ -Lợi nhuận bình quân/ 1 lao động = Chỉ tiêu này phản ánh với mỗi lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Dựa vào chỉ tiêu này để so sánh mức tăng hiệu quả của mỗi lao động trong kỳ. A b. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Đối với ngành vận tải ô tô ta sử dụng hai chỉ tiêu sau: Doanh thu trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ -Sức sản xuất của vốn cố định = Lợi nhuận ròng trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định bình quân tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Vốn cố định bình quân trong kỳ -Sức sinh lời của vốn cố định = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định bình quân tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Ac. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ -Sức sản xuất của vốn lưu động = Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nếu chỉ tiêu này qua các kỳ tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng. Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ -Sức sinh lời của vốn lưu động = Chỉ tiêu này cho ta biết với một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ số này càng cao càng tốt, chứng tỏ hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn lưu động. -Tốc độ luân chuyển vốn: trong quá trình sản xuất kinh doanh, nguồn vốn lưu động thường xuyên vận động không ngừng, nó tồn tại ở các dạng khác nhau. Có khi là tiền, hàng hoá, vật tư, bán thành phẩm... đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Do đó việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết ách tắc, đình trệ của vốn, giải quyết nhanh nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp. Thông thường sử dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tốc độ luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ +Số vòng quay của vốn lưu động= Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, chứng tỏ vòng quay của vốn lưu động tăng nhanh, điều này thể hiện việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại. 365 ngày Số vòng quay vốn lưu động = +Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay Thời gian này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu trong kỳ +Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = Chỉ tiêu này cho biết phải mất bao nhiêu đồng vốn lưu động để tạo ra được một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. d. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được dùng để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau và so sánh trong doanh nghiệp qua các thời kỳ để xem xét các thời kỳ doanh nghiệp hoạt động có đạt hiệu quả cao hơn hay không. Lợi nhuận trong kỳ Doanh thu trong kỳ -Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng, cho biết hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu. Nó khuyến khích các doanh nghiệp tăng doanh thu giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng doanh thu phải nhỏ hơn tốc độ tăng lợi nhuận. Lợi nhuận ròng Vốn chủ sở hữu -Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh mức độ lợi ích của chủ sở hữu. Lợi nhuận trong kỳ Vốn kinh doanh trong kỳ -Tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất = Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một đồng vốn kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nó phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố vốn kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Lợi nhuận trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ -Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí = Doanh thu trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố chi phí trong sản xuất. Nó cho thấy với một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này có hiệu quả nếu tốc độ tăng lợi nhuận nhanh hơn tốc độ tăng chi phí. Doanh thu trên một đồng chi phí sản xuất = Vốn sản xuất trong kỳ Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. = -Doanh thu trên một đồng Doanh thu trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ vốn sản xuất Chỉ tiêu này cho thấy với một đồng vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Công thức xác định các chỉ tiêu trên được hệ thống theo biểu sau đây: Bảng 1: Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh Tên chỉ tiêu Công thức xác định Lợi nhuận trong kỳ Lao động bình quân trong kỳ Doanh thu trong kỳ Lao động bình quân trong kỳ Tổng số lao động hiện có Tổng số lao động được sử dụng 1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động -Hệ số sử dụng lao động -Năng suất lao động -Lợi nhuận bình quân/1 lao động Vốn cố định bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Doanh thu trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ 2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. -Sức sản xuất của vốn cố định -Sức sinh lời của vốn cố định 3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động -Sức sản xuất của vốn lưu động -Sức sinh lời của vốn lưu động -Số vòng quay của vốn lưu động -Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay -Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Doanh thu trong kỳ Lợi nhuận ròng Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận trong kỳ Vốn kinh doanh trong kỳ Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ 365 ngày Số vòng quay vốn lưu động Doanh thu trong kỳ Doanh thu trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ 4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp -Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu -Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu -Tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất -Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí -Doanh thu trên một đồng chi phí -Doanh thu trên một đồng vốn sản xuất Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Doanh thu trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Doanh thu trong kỳ e. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế-xã hội Các doanh nghiệp ngoài việc hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhằm tồn tại và phát triển còn phải đạt hiệu quả về mặt kinh tế-xã hội. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế xã hội bao gồm các chỉ tiêu sau: -Tăng thu ngân sách: mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức các loại thuế như thuế GTGT, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Nhà nước sử dụng những khoản thu này đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân, lĩnh vực phi sản xuất, xây dựng các công trình công cộng, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. -Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động: để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm và kinh doanh tổng hợp. -Nâng cao đời sống người lao động: xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội. -Tái phân phối lợi tức xã hội: sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng, các lãnh thổ trong nước yêu cầu phải có sự phân phối lợi tức xã hội nhằm giảm sự chênh lệch về mặt kinh tế giữa các vùng Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện nay, hiệu quả kinh tế xã hội còn thể hiện qua chỉ tiêu: bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 4. Một số kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao và bảo đảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp vận tải ô tô. Bên cạnh những vướng mắc còn tồn tại của ngành nói chung và của công ty vận tải ô tô số 3 nói riêng, công ty cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong quá trình thích ứng với cơ chế mới. +Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước được công ty tiếp nhận kịp thời và quán triệt đến từng bộ phận, cán bộ, đảng viên, công nhân. Từ đó thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng bộ cơ quan. +Công ty vận tải ô tô số 3 có truyền thống đoàn kết nhất trí giữa chính quyền đoàn thể dưới sự chỉ đạo của Đảng uỷ và ban Giám đốc, tạo sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn trong quá trình đổi mới. +Khuyến khích mọi người tham gia khai thác hàng hoá kể cả trạm tuyến để không ngừng đạt hiệu quả cao. +Chủ động mở rộng ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm phát huy thế mạnh nội lực của công ty, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên chức trong công ty, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty nhằm duy trì và phát triển công ty lớn mạnh, đứng vững trên thị trường, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. +Tích cực đổi mới phương tiện vận tải gắn liền với sự sắp xếp hợp lý và đào tạo nâng cao nhận thức, trình độ quản lý của cán bộ công nhân viên chức trong công ty để họ chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. +Phát động các phong trào thi đua “ Giữ gìn xe tốt, lái xe an toàn, giao hàng đúng hẹn”. Bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời những xe hư hỏng để đưa vào sử dụng, tăng ngày xe tốt lên, giảm tối đa các vụ tai nạn mà nguyên nhân do lái xe trong tình trạng say rượu, bia, không làm chủ tốc độ. +Xử lý nghiêm khắc các trường hợp lái xe vi phạm hoặc phá vỡ hợp đồng với chủ hàng do thiếu tinh thần trách nhiệm như chở hàng dễ hỏng do tác động của thời tiết mà không che chắn, chở hàng dễ vỡ mà không cẩn thận... phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn. +Giáo dục tinh thần “Nhiệt tình, chu đáo, đáng tin cậy” của lái xe khi nhận hàng cũng như giao hàng để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp. Phần thứ hai : thực trạng hoạt động và Hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 Trong thời gian qua. A I. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của công ty. 1. Quá trình hình thành công ty. Công ty vtot số 3 là một doanh nghiệp nhà nước.Từ năm 1975 về trước công ty phục vụ chiến đấu. Đến tháng 12-1982 công ty VTOT số 3 được thành lập trên cơ sở sát nhập 3 xí nghiệp, đó là: -Xí nghiệp vận tải hàng hoá số 2. -Xí nghiệp vận tải ô tô số 20. -Xí nghiệp vận tải quá cảnh C1. Khi thành lập công ty có khoảng 1000 xe và hơn 2000 công nhân. Ngày 4/3/1993 bộ trưởng Bộ GTVT căn cứ luật tố chức chính phủ ngày 30/9/1992, căn cứ vào quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991 (nay là Chính phủ), căn cứ vào thông báo đồng ý thành lập doanh nghiệp nhà nước số 09/TB ngày 26/01/1993 của văn phòng Chính phủ, quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước: công ty VTOT số 3 trực thuộc Cục đường bộ Việt Nam đặt trụ sở chính tại số 1- Phố Cảm Hội- Phường Đông Mác-Quận Hai Bà Trưng-Hà Nội. -Trạm vận tải, đại lý Vinh. -Trạm vận tải đại lý Mộc Châu. -Trạm vận tải, đại lý Sơn La. -Trạm vận tải, đại lý Điện Biên. -Trạm vận tải, đại lý Tuần Giáo. -Vốn kinh doanh: 5837 triệu đồng. Trong đó: + Vốn cố định : 5584 triệu đồng. + Vốn lưu động : 253 triệu đồng. Bao gồm các nguồn vốn: + Vốn ngân sách nhà nước cấp : 972 triệu đồng. + Vốn doanh nghiệp tự bổ sung : 3913 triệu đồng. + Vốn vay : 952 triệu đồng. -Ngành nghề kinh doanh: + Vận tải hàng hoá đường bộ. + Sửa chữa phương tiện vận tải đường bộ. + Đại lý vận tải hàng hoá. + Kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp phương tiện, vật tư đường bộ, hàng thủ công mỹ nghệ, lâm sản. + Garage trông giữ xe, dịch vụ nhà nghỉ. + Đại lý xăng dầu. 2. Quá trình phát triển - Giai đoạn từ 1983 đến 1986: công ty VTOT số 3 hoạt động theo kế hoạch của nhà nước như hầu hết các doanh nghiệp khác. Các luồng tuyến đã được quy định sẵn, vật tư cho sửa chữa phương tiện, đảm bảo hậu cần cho xe hoạt động như xăng, dầu đã có Nhà nước lo. Do vậy công ty luôn hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao. - Giai đoạn từ năm 1986 đến nay: Cơ chế thị trường được xác lập, bao cấp dần được xoá bỏ. Nhiều khó khăn đặt ra trước công ty VTOT số 3. Cạnh tranh tăng lên rất mạnh bởi các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là tư nhân. Phụ tùng, vật tư, nhiên liệu không còn giá bao cấp nữa. Hậu quả của cơ chế bao cấp để lại cho công ty một cơ cấu hết sức cồng kềnh và kém hiệu quả. Sản lượng vận chuyển giảm, số lái xe trả xe nhiều gây khó khăn cho công ty trong việc duy trì đội ngũ lái xe và nâng cao năng lực vận chuyển. Năm 1991, Nhà nước xoá bỏ hẳn bao cấp đối với ô tô vận tải. công ty phải hạch toán độc lập, đồng thời với việc bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao.Trước những khó khăn đó công ty VTOT số 3 đã thực hiện một số vấn đề sau: + Đầu tư nâng cấp phương tiện để nâng cao chất lượng xe, tăng ngày xe tốt. A + Tinh giảm liên tục bộ máy quản lý. + Thực hiện chế độ khoán quản đến từng lái xe để nâng cao tính chủ động sáng tạo của họ. Với những nỗ lực như vậy, từ năm 1996 đến năm 2000 công ty luôn hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước giao, kế hoạch về doanh thu, tuy nhiên tỷ suất lợi nhuận thấp. Năm 1998, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần.Tiến trình cổ phần hoá được công ty quan tâm. Bước đầu đã triển khai tốt một số nội dung theo nghị định 44/CP của Chính phủ. Năm 2001, công ty tiếp tục thực thi những biện pháp thực hiện trước đó, đồng thời định hướng những vấn đề mới: + Cổ phần hoá công ty theo chủ trương củaNhà nước. + Mở rộng ngành nghề kinh doanh, vận chuyển hành khách. + Triển khai kế hoạch xuất nhập khẩu. + Nâng cao chất lượng người lao động. Ngoài ra còn vấn đề về khắc phục, ngăn chặn sự giảm sút của sản lượng sản phẩm chính là vận tải hàng hoá, tận dụng diện tích đất đai của công ty để trở thành một nguồn thu thông qua cho thuê, góp liên doanh hay mở dịch vụ khác. II. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật có liên quan và ảnh hưởng tới hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty. 1. Về tổ chức bộ máy quản trị của công ty. Trong thời kỳ bao cấp các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và công ty VTOT số 3 nói riêng đều có một cơ cấu bộ máy hết sức cồng kềnh, kém hiệu quả (nhiều phòng ban chức năng, số người trong mỗi phòng lại nhiều, riêng công ty VTOT số 3 có tới 11 phòng, 15 đội xe...) đội ngũ cán bộ quản lý cấp trung gian nhiều song về trình độ lại rất hạn chế, đặc biệt là ít được phân quyền nên khó có thể để hoàn thành nhiệm vụ. Mặt khác hệ thống phòng ban không thống nhất, không gắn bó kết hợp được với nhau. Đứng trước yêu cầu của sự đổi mới. công ty VTOT số 3 cũng như các doanh nghiệp Nhà nước cần thiết phải có sự đổi mới đồng bộ toàn diện. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đã đặt ra hàng loạt yêu cầu mới đòi hỏi cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của công ty vừa phải gọn nhẹ, năng động, linh hoạt, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, nhằm thực hiện tốt những những mục tiêu, kế hoạch của công ty đã đề ra và để thích ứng với những quan hệ thị trường thường xuyên biến động. Đáp ứng những đòi hỏi đó, trong những năm qua công ty vận tải ô tô số 3 đã kiện toàn bộ máy quản lý, kết hợp với việc bố trí lại lao động theo hướng giảm dần nhưng vẫn bảo đảm chất lượng phòng ban. Sơ đồ tổ chức công ty VTOT số 3 đảng uỷ Giám đốc Phó giám đốc kỹ thuật Phó giám đốc kinh doanh B.C.H Công đoàn Các trung tâm bdsc Ban kcs Phòngkỹ thuật Các trạm ĐLVt Các đội xe garage Phòng kế hoạch Phòng hành chính Phòng tài chính kế toán Xí nghiệp KD thương mại Phòng tổ chức lao động Ta biết rằng bộ máy quản trị là trung tâm đầu não chỉ huy mọi hoạt động của công ty và hiệu quả hoạt động của nó hoàn toàn do nó quyết định, mọi phương hướng, kế hoạch hành động, biện pháp cụ thể trong mọi hoàn cảnh, thời gian, lúc thuận lợi cũng như khó khăn công ty phải vượt qua. Điều quan trọng của bộ máy quản trị là biết đưa ra giải pháp đúng đắn, kịp thời, hợp tình, hợp lý trước bất cứ tình huống nào. Có thể nói rằng đường lối mà bộ máy quản trị vạch ra không đơn thuần có tác dụng tức thời mà có ảnh hưởng lâu dài tới hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty, nếu những kế hoach, định hướng đúng sẽ đưa công ty vượt qua những thử thách và phát triển nhanh chóng vượt bậc, ngược lại nếu sai lầm có thể làm công ty phá sản là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Chẳng hạn, hiện tai công ty đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như cạnh tranh quá găy gắt đẩy công ty vào tình thế một mất một còn, thiếu vốn trong khi phương tiện vận tải cũ nát, lạc hậu và không có sức cạnh tranh, thêm vào đó là giá cước giảm, chi phí tăng... nếu bộ máy quản trị không đưa ra được những biện pháp kịp thời, đúng đắn thì hậu quả thật khó lường. Khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bộ máy quản trị để từ đó chúng ta phải có những biện pháp thiết thực để tổ chức một bộ máy quản trị đủ sức để điều hành, quản lý công ty có hiệu quả nhất. Hiệu quả của một bộ máy quản trị thể hiện qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể là qua doanh thu, lợi nhuận, thu nhập của người lao động trong công ty và mức nộp ngân sách. --Phòng tổ chức lao động: Trong lĩnh vực quản lý kinh tế-tài chính. Phòng tổ chức lao động làm tham mưu cho Đảng uỷ, GĐ trong việc tổ chức xây dựng bộ máy quản lý công ty, quản lý nhân sự, xây dựng, bồi dưỡng bộ máy quản lý, tổ chức lao động khoa học cho cán bộ công nhân viên chức, lập kế hoạch và quản lý quỹ lương, thưởng, làm thủ tục đóng và chi trả BHXH, giải quyết bảo hiểm lao động, an toàn giao thông phù hợp với chính sách, chế độ của Nhà nước và đặc điểm của công ty. Phòng tổ chức lao động đặt dưới sự chỉ đạo của Giám đốc công ty. - Phòng kế toán tài chính: Phòng có chức năng phản ánh và giám đốc tất cả hoạt động kinh tế trong toàn công ty. Là phòng giữ vị trí quan trọng trong việc điều hành quản lý kinh tế, thông tin kinh tế trên mọi lĩnh vực kinh doanh vận tải và dịch vụ khác phục vụ trực tiếp cho lãnh đạo công ty điều hành chỉ đạo sản xuất. Phòng có chức năng kiểm tra việc sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn đưa vào sản xuất phải bảo đảm đúng chế độ, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao. -Phòng kỹ thuật: Phòng kỹ thuật làm tham mưu cho ban Giám đốc công ty về bảo dưỡng, sửa chữa xe máy, đầu tư, nâng cấp. Phòng đặt dưới sự chỉ đạo của phó giám đốc phụ trách kỹ thuật. -Phòng kế hoạch: +Xây dựng các định hướng kế hoạch vận tải và dịch vụ theo nhiệm vụ được giao và năng lực thực tế của công ty. +Xây dựng hệ thống định mức kinh tế, kỹ thuật phù hợp với từng thời điểm cụ thể của các lĩnh vực sản xuất vận tải và các ngành kinh tế dịch vụ được giao, trình Giám đốc phê duyệt. -Phòng hành chính: Là phòng nghiệp vụ làm tham mưu cho Giám đốc trong việc quản lý đất đai, hộ khẩu, sức khoẻ và các tài sản khác phục vụ sinh hoạt, đời sống của cán bộ công nhân viên chức. Phòng hành chính đặt dưới sự lãnh đạo của phó Giám đốc kinh doanh. Ngoài ra còn phục vụ tiếp khách, hội họp, tổng kết ngày lễ và các công việc đột xuất khác. 2. Về công tác quản lý lao động-tiền lương. Trong thời kỳ bao cấp đa phần lực lượng lao động đều có trình độ chuyên môn. Hầu hết các lái xe đều được đào tạo chính quy qua các trường đào tạo của Bộ GTVT, Bộ Quốc Phòng... Số cán bộ công nhân viên tốt nghiệp đai học, trung cấp giao thông theo các chuyên ngành cơ khí ô tô, kinh tế vận tải chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng số cán bộ công nhân viên chức của công ty. Dưới thời bao cấp lực lượng lao động của công ty khá lớn nhưng không được sử dụng hết khả năng. Ngày nay lực lượng lao động đã giảm, tuy nhiên công ty vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng và tận dụng hết năng lực của đội ngũ lao động. Thiếu việc làm, dư thừa lao động trong công ty do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chính là do chuyên môn của một số nhân viên không đủ và không phù hợp với nhu cầu công việc trong hoạt động kinh doanh. Vì để tồn tại được công ty không chỉ có vận tải hàng hoá mà còn phải mở rộng ngành nghề kinh doanh. Chẳng hạn ở các trạm bảo dưỡng sửa chữa nhiều xe đưa đến công nhân không sửa được vì chỉ quen với các xe đời cũ. Vấn đề lao động, việc làm, chính sách và đời sống xã hội luôn làm nảy sinh những mâu thuẫn phức tạp đòi hỏi giải quyết từng bước một không thể ngày một ngày hai mà xong. Yêu cầu tinh giảm đội ngũ lao động, chỉ giữ lại những người có khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc quan hệ chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng cũng như đời sống của người lao động vì thế công tác tổ chức lao động phải luôn đi trước một bước trong quá trình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Song đi sâu vào từng việc, từng trường hợp, từng con người cụ thể lại không phải là điều dễ dàng vì nó liên quan đến đời sống, danh dự, chính sách về lao động của từng cán bộ nhất là những người đã từng gắn bó với công ty trong thời kỳ gian khổ mà vinh quang. Chính vì vậy việc giải quyết phải hết sức thận trọng, song không có nghĩa là không giải quyết được.Vì trong điều kiện hiện nay công ty hoạt động theo cơ chế thị trường, hoạch toán kinh tế độc lập thì phải hiệu quả phải đặt lên hàng đầu, thực hiện nó chỉ là vấn đề thời gian. Lao động là nhân tố quan trọng nhất trong ba nhân tố tham gia vào hoạt động sản xuất. Chất lượng lao động, bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc, có cơ chế đãi ngộ hợp lý sẽ là nhân tố quyết định đến việc tăng năng suất lao động. Nói tóm lại con người là yếu tố quan trọng nhất. Chính nó quyết định trình độ sử dụng các nguồn lực khác. Trình độ sử dụng vốn cố định, vốn lưu động tạo ra doanh thu, lợi nhuận bao nhiêu cho công ty, nộp ngân sách cho Nhà nước đúng và đủ, hạ giá thành, tiết kiệm chi phí, bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện vận tải tốt hay xấu đều do nhân tố con người quyết định. Trong những năm qua công ty đã có nhiều thay đổi trong bố trí, sắp xếp công việc cho cán bộ công nhân viên. Bảng1: Tình hình sử dụng lao động. Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Số lượng lao động đầu kì 541 448 473 Tăng trong kỳ 39 93 28 Giảm trong kì, trong đó: 132 68 50 -Nghỉ hưu 15 31 11 -Nghỉ chờ hưu 50 11 -Chấm dứt hợp đồng lao động 64 31 25 -Thuyên chuyển 2 3 -Giảm khác 1 2 3 Tổng số lao động cuối kì trong đó 448 473 451 -Tổng số lđ đang làm việc 406 387 376 - Số chờ giải quyết chế độ 42 57 54 -Số chờ giải quyết việc làm 10 29 21 Nguồn: Phòng tổ chức lao động Hiện nay ở công ty VTOT số 3 còn có gần 100 lao động không trực tiếp làm việc ở công ty mà đóng bảo hiểm. Điều này liên quan chính sách xã hội, chính sách lao động của nhà nước (chủ yếu những người này vẫn còn ở lại thời kì bao cấp). Đây là vấn đề công ty đang xem xét và chờ những chính sánh giải quyết hợp lý từ cấp trên. Để gắn bó trách nhiệm và quyền lợi của người lao động với hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, ban Giám đốc đã ban hành quy chế quản lý quỹ lương và trả lương cho cán bộ công nhân viên (quy chế này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/04/1998). Nguyên tắc chung của công tác tiền lương được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: -Các sản phẩm vận tải, bảo dưỡng, sửa chữa xe ô tô đều phải được xây dựng theo các định mức lao động và đơn giá tiền lương của ngành GTVT. -Kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ đều xây dựng tiền lương trên cơ sở định biên công việc và phụ thuộc vào khối lượng sản phẩm, dịch vụ, năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiền lương, nó chính là thành quả của người lao động tạo ra. Nếu tiền lương tương xứng với sức lao động bỏ ra, tương đương với tính chất công việc sẽ thúc đẩy người lao động hoàn thành công việc một cách sớm nhất và tốt nhất, khuyến khích họ nâng cao năng suất lao động, một người làm việc bằng hai và vì thế có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất. Tóm lại, nếu như cách trả lương phù hợp sẽ nâng cao được năng suất lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động cho công ty. Chính vì vậy công ty đã áp dụng một số hình thức trả lương thích hợp với từng loại lao động. - Trả lương theo thời gian áp dụng đối với đội ngũ cán bộ công nhân viên gián tiếp. - Trả lương theo sản phẩm được áp dụng với công nhân sửa chữa, lái xe. Các hình thức trả lương nói trên được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quy định chi tiết dưới đây: + Đơn vị tính lương cho sản phẩm hàng hoá là đ/1000TKm trong đó sản phẩm vận tải tổng hợp xác định là 1000TKm; nhưng đối với xuất nhập khẩu, dịch vụ thì được tính theo đ/1000 đ doanh thu. + Quỹ lương được xác định từ tổng doanh thu của công ty. + Lương bậc xưởng sửa chữa : công ty giao khoán định mức đối với các trung tâm. Do vậy tiền lương được chi trả theo hợp đồng lao động đã ký kết. + Lái xe điều hành trực tiếp được trả theo sản phẩm, trên cơ sở doanh thu của từng tháng, từng chuyến của lái xe. Công tác nâng bậc lương qua các năm làm khá tốt. Năm 1998 lần đầu tiên công ty áp dụng thi nâng bậc đối với lao động gián tiếp. Qua xét tuyển công ty đã nâng bậc lương cho 43 người. Năm 1999 tổ chức thi nâng bậc lương cho cán bộ công nhân viên được 68 người, trong đó: thợ sửa chữa 21 người, lái xe 12 người, gián tiếp + phục vụ 35 người. Năm 2000 thực hiện tốt chế độ nâng bậc lương cho 40 người. 3. Về cơ sở vật chất kỹ thuật. Là một doanh nghiệp vận tải cho nên cơ sở vật chất-kỹ thuật chủ yếu: phương tiện vận tải, máy móc thiết bị sửa chữa, thay thế. Ngoài ra còn nhà cửa, kho tàng bến bãi và các trạm chu chuyển hàng hoá. -Phương tiện vận tải : Bảng 2: Tình hình về phương tiện vận tải. Mác xe Trọng tải Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Kamaz 9 9 9 7 Hino 7 3 7 3 Cheng long 6 10 6 10 IFA- W50 5 50 45 50 Zil_130 6 63 58 51 Huyndai 11 15 8 11 Huyndai dk 27 - - 2 Tổng số 150 140 130 Nguồn :phòng kỹ thuật công ty VTOT số 3. Phương tiện vận tải có vai trò rất lớn trong việc để đạt được hiệu quả kinh tế hay không. Trước hết nó là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả vì chính nó mang lại doanh thu, lợi nhuận, tiền lương cho người lao động và quyết định mức chi phí qua vận tải hàng hoá. Để làm rõ vấn đề này,trước hết chúng ta xem xét hiệu quả hoạt động của công ty khi mà phương tiện vận tải trong điều kiện cũ, lạc hậu, mức tiêu hao nhiên liệu lớn, chi phí cho sửa chữa bảo dưỡng lớn tức chi phí để cho nó hoạt động là cao, số ngày nằm để sửa lớn tức số ngày vận doanh thấp. Đi cùng với những vấn đề này là sự tin tưởng của khách hàng vào công ty cũng như vào phương tiện là rất thấp và họ sẽ không ký hợp đồng vận chuyển với công ty. Kết cục là xe không có hàng, công nhân không có việc làm cũng như thu nhập. Ngược lại với phương tiện hiện đại thì sức cạnh tranh của công ty tăng lên và hiệu quả tăng lên rõ rệt. Thực trạng hiện nay số xe IFA và Zil 130 đã cũ, đầu tư từ năm 1990 vì vậy chất lượng kém, trọng tải thấp, kinh doanh không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp.với tổng số phương tiện vận tải hiện có tính đến ngày 31/12/2000 là 130 xe. Số xe còn trên 80% là 9 xe, 17 xe còn 50% còn lại dưới 50%. Đa số xe Zil 130 máy ifa đã hết khấu hao. Trong khi yêu cầu thị trường lai cần xe tốt và trọng tải lớn. Vì vậy yêu cầu đầu tư phương tiện mới là chính đáng và cấp bách với công ty hiện nay. -Xưởng bảo dưỡng-sửa chữa : Hiện nay công ty có 2 xưởng bảo dưỡng sửa chữa. Xưởng số một nằm trên quốc lộ 6 thuộc địa phận Chương Mỹ-Hà Tây. Xưởng có 50 cán bộ công nhân viên. Thiết bị máy móc ở đây lạc hậu và rất ít. Xưởng thứ hai đặt tại số 2 xã Hoàng Liệt-thị trấn Văn Điển cũng nằm trong tình trạng chung. -Trụ sở giao dịch và các trạm điều độ, vận tải của công ty. Trụ sở chính là dãy nhà 5 tầng ở số 1 phố Cảm Hội-phường Đông Mác-Quận Hai Bà Trưng. Được đầu tư những trang thiết bị cơ bản để phục vụ quản lý, giao dịch, hội họp. Hiện nay do chưa sử dụng hết công suất nên công ty đã cho trường ĐH Dân lập Quản Lý và Kinh Tế thuê 1/2 khu nhà. Ngoài ra công ty còn có một trạm điều độ và đại lý hàng hoá đặt tại 321 phố Minh Khai. Các trạm vận tải, kho chứa hàng được đặt ở nhiều nơi: Nhật Tân (Tây Hồ), Văn Điển (Thanh Trì), Quán Gánh (Hải Phòng), Điện Biên, Mai Châu, Sơn La...Đây là những địa điểm mà công ty luôn cần và đều nằm ở những nơi mà công ty đến nhận và giao hàng hoá, hơn nữa nó tạo thành những trạm chu chuyển hành hoá, khai thác nguồn hàng và là nơi cho anh em lái xe nghỉ chân. 3.4. Khách hàng của công ty. Trong vài năm gần đây khách hàng chủ yếu của công ty là: *Công ty xi măng Bỉm Sơn *Công ty phân lân Văn Điển *Tổng công ty than Việt Nam *Các công ty lâm sản Lai Châu, Điện Biên, Sơn La *Công ty Honda, Suzuki, Yamaha *Công ty dệt kim Thắng Lợi *Công ty vật tư Vĩnh Phúc Để tăng sản lượng hàng hoá vận chuyển công ty cần mở rộng danh mục khách hàng có quy mô lớn. Công ty cần chú trọng tới những khách hàng truyền thống của mình vì nó sẽ tạo ra nguồn hàng ổn định cho công ty, đồng thời công ty phải tìm những khách hàng mới để tăng sản lượng vận chuyển. Ngoài ra công ty phải chọn lựa khách hàng để nâng cao hiệu quả vận chuyển. Thực tế đã cho thấy cùng một xe chở cùng trọng tải nhưng thu nhập mà nó mang lại hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn vận chuyển hàng công nghiệp như xi măng, sắt thép thì việc giảm chi phí để bảo quản hầu như không có trong khi nếu chở hàng thuỷ sản, lâm sản thì chi phí này tăng, nhiều lúc công ty phải bồi thường do hư hỏng trong khi vận chuyển. Chú ý đến vấn đề khách hàng để nâng cao hiệu quả cũng phải chú ý đến tính cồng kềnh và trọng tải của nó. Nếu cước vận tải tính theo khối lượng vận chuyển như công ty đang áp dụng hiện nay sẽ không có lợi nếu hàng vận chuyển cồng kềnh, chiếm chỗ, trọng tải thấp. 3.5. Địa bàn hoạt động và mặt hàng vận chuyển của công ty. -Vận chuyển tuyến Tây Bắc : +Hàng đi: than, phân bón các loại, muối, xi măng, sắt thép, hàng bách hoá rượu, bia các loại. +Hàng về: ngô, khoai, sắn, mía, lâm sản. -Vận chuyển tuyến Bắc Nam: +Hàng vào : phân bón, hàng thủ công, da thuộc, bao bì. +Hàng ra: thuỷ sản, nước mắm, hoa quả các loại. địa bàn hoạt động có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của công ty. Trước hết ta xem xét vấn đề chi phí trên mỗi luồng, tuyến. Như hiện nay, nêú hoạt động trên quốc lộ 5 thì chi phí cầu đường sẽ rất cao. Cũng xét tới vấn đề chi phí nhưng là chi phí bảo dưỡng, sửa chữa. Nếu hoạt động trên các tuyến đường xấu thì chi phí bảo dưỡng, sửa chữa sẽ tăng. Vì vậy công ty phải xem xét địa bàn hoạt động để áp dụng giá cước linh hoạt và mức khấu hao phù hợp với từng xe hoạt động trên từng tuyến đường để từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của đội xe. II. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty trong thời gian qua. 1. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động của công ty trong thời gian qua. Trong những năm gần đây công ty đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ. công ty không ngừng đổi mới một cách toàn diện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về số lượng lẫn chất lượng, cả về quy mô tổ chức đến phương tiện vận tải. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 3: Kết quả hoạt động của công ty 1998-2000. Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 So sánh (%) 1999/1998 2000/1999 -Tấn hàng v/c Tấn 90555 95712 97380 5,69 1,74 - Tấn hàng l/c TKm 22940874 26860000 25090000 17,08 -6,58 -Tổng doanh thu Tr.đ 44801 19300 47260 -56,92 144,87 +Vận tải - 10716 12700 12747 18,51 0,37 +Xnk+dv - 34085 6600 34513 -80,636 422,92 -Tổng cp - 43831 18980 46935 43,3 247,28 -Tổng nộp NS - 12164 1014 1266 -91,67 24,85 +Vận tải - 512 299 514 -41,6 71,9 +Xnk+dv - 11652 320 752 -93,86 1,05 -Tổng lợi nhuận - 970 320 325 -67 1,56 +Vận tải - 120 -168 20 -140 111,9 +Xnk+dv - 850 488 305 -42,5 -37,5 LĐ BQ năm Người 406 387 376 -4,67 -2,84 Thu nhập BQ Nghìn 452 500 620 10,6 24 Nguồn : Báo cáo tổng kết các năm 1998-2000 Mặc dù hoạt động kinh doanh trong điều kiện hết sức khó khăn, eo hẹp về tài chính, thị trường biến động, cạnh tranh găy gắt nhưng công ty đã năng động trong việc thực hiện đường lối chính sách đúng đắn nên đã đạt được những thành quả nhất định. Qua biểu trên ta thấy trong ba năm 1998-2000 công ty đã phấn đấu thực hiện được các chỉ tiêu kinh doanh như sau: -Về sản lượng : năm 1999 vượt năm 1998 là 5,69 %, năm 2000 vượt năm 1999 là 1,74%. Như vậy tấn hàng vận chuyển của công ty tăng liên tục qua các năm. Trong khi đó phương tiện vận tải tham gia kế hoạch bình quân năm 1998 là 150 xe với tổng trọng tải là 10920 tấn, năm 1999 là 140 xe với tổng trọng tải là 9972 tấn. Điều này chứng tỏ công ty đã thanh lý hết xe cũ, lạc hậu, kém hiệu quả, đầu tư đổi mới phương tiện, bảo dưỡng sửa chữa tăng ngày xe tốt lên, tăng lần chạy của các phương tiện lên và tạo được nguồn hàng ngày càng ổn định.Thêm vào đó công tác điều độ và quản lý các đội xe rất tốt. -Về doanh thu: qua số liệu trên ta thấy tổng doanh thu của công tăng đáng kể trong năm 2000 so với năm 1998, tuy năm 1999 doanh thu là 19,3 tỷ chỉ đạt 49,48% kế hoạch nhưng do nguyên nhân khách quan là cả năm 1999 kinh doanh xuất nhập khẩu không triển khai được do Nhà nước thay đổi chính sách nhập khẩu. Điều đáng mừng là doanh thu về vận tải của các năm đều vượt mức kế hoạch. Năm 1998 là 19,2%, năm 1999 là 28,28% và năm 2000 là 18,02% và tăng liên tục qua các năm. Năm 1999 vượt năm 1998 là 18,51% và năm 2000 vượt năm 1999 là 0,37%. -Trong tổng doanh thu đạt được thì doanh thu về hoạt động xuất nhập khẩu và dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn so với doanh thu về vận tải trong khi vận tải là hoạt động chính của công ty. Điều đó vừa phản ánh những khó khăn của sản xuất vận tải hiện nay vừa đề ra mục tiêu phấn đấu hơn nữa trong lĩnh vực vận tải. Đồng thời qua đó cũng khẳng định chủ trương đa dạng hoá sản phẩm là đúng hướng và phát huy thế mạnh của các đơn vị sản xuất kinh doanh ngoài vận tải. -Về nộp ngân sách: năm 1998 công ty đạt mức nộp ngân sách cao nhất 12,164 tỷ đồng đạt 121,9% kế hoạch trong đó mức nộp của vận tải vượt 112,9% kế hoạch, của xuất nhập khẩu và dịch vụ vượt 19,6% kế hoạch. Năm 1998 công ty hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ nộp ngân sách đối với Nhà nước, tuy nhiên năm 1999 mức nộp ngân sách của công ty là 1,014 tỷ đạt 10,74% kế hoạch, nguyên nhân như đã nói ở trên là do năm 1999 không triển khai được hoạt động xuất nhập khẩu. Năm 2000 tổng nộp ngân sách là 1,226 tỷ trong đó VAT: 752 triệu đồng, công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách theo quy định. -Về lợi nhuận: trong năm 1998 là năm công ty đạt mức lợi nhuận cao nhất 970 triệu đồng đạt 215.5% kế hoạch, tuy nhiên lợi nhuận của vận tải chỉ đạt 80% kế hoạch. Sang năm 1999 do có nhiều khó khăn nên lợi nhuận của công ty giảm sút, chỉ đạt 53,5% kế hoạch. Trầm trọng hơn là hoạt động vận tải lỗ 168 triệu đồng, lợi nhuận chủ yếu do chênh lệch nhượng bán tài sản và hoạt động tài chính đem lại. Năm 2000 tình hình không mấy khả quan, lợi nhuận vận tải đạt thấp: 20 triệu đồng, chủ yếu lợi nhuận kinh doanh khác: 305 triệu đồng. Tuy tình hình được cải thiện song chứng tỏ hoạt động vận tải của công ty gặp rất nhiều khó khăn như phương tiện vận tải cũ, trọng tải thấp, ăn nhiên liệu lớn và phải chịu sự cạnh tranh rất mạnh. Các hoạt động khác đã hỗ trợ cho hoạt động chính của công ty rất nhiều, có thể nói đây là một vấn đề vừa mừng vừa lo cho công ty. Năm 2000 giống như năm 1999, tuy kế hoạch xuất nhập khẩu không triển khai được song công ty đã tập trung cao độ chỉ đạo các đơn vị dịch vụ - đại lý hoạt động tích cực có hiệu quả nên đạt lợi nhuận về vận tải tuy là thấp. -Thu nhập bình quân đầu người lao động trong công ty được cải thiện rõ rệt qua các năm. Năm 1998 là 452000 đồng/tháng, năm 1999 là 500.000 đồng/tháng và năm 2000 là 620.000 đồng /tháng. Như vậy thu nhập bình quân năm 1999/1998 tăng 10,6%, năm 2000/1999 tăng 24%. Công ty không ngừng quan tâm tới lợi ích của cán bộ công nhân viên và đã áp dụng đòn bẩy kinh tế khuyến khích người lao động làm việc hết mình. Qua các phong trào thi đua phát động trong năm như giữ gìn xe tốt, lái xe an toàn...Trong năm 1998 về tập thể có 3 đơn vị được tặng cờ thi đua, xét công nhận 5 tổ đạt danh hiệu tổ lao động xuất sắc, về cá nhân công nhận 37 đồng chí đạt danh hiệu lao động xuất sắc, 45 lái xe đạt danh hiệu lái xe an toàn. Năm 1999 công nhận 5 tổ xuất sắc, về cá nhân xét công nhận 38 đồng chí đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, công nhận 195 lao động đạt danh hiệu lao động giỏi và 46 lái xe đạt danh hiệu lái xe an toàn. Năm 2000 công ty công nhận 5 tổ xuất sắc, xét và đề nghị công nhận 37 đồng chí đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua, 133 đồng chí đạt danh hiệu lao động giỏi, 22 lái xe đạt danh hiệu lái xe an toàn. Tổng tiền thưởng: 20,63 triệu đồng. -Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ tạo ra doanh thu chủ yếu cho công ty: Bảng 4: So sánh kết quả doanh thu của một số lĩnh vực hoạt động. Năm Doanh thu (tỷ) Tỷ trọng (%) Vận tải XNK-Dịch vụ Vận tải XNK-Dịch vụ 1995 8.878 33.556 20,9 79,1 1996 10.325 28.244 26,8 73,2 1997 9.123 49.222 15,5 84,5 1998 10.716 34.085 23,9 76,1 1999 12.700 6.600 65,8 34,2 2000 12.744 34.513 26,97 73,03 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Trong hai năm 1999-2000 công ty không triển khai được hoạt động xuất nhập khẩu. Năm 2001 công ty cố gắng đạt doanh thu về xuất nhập khẩu hỗ trợ cho hoạt động chính của công ty và nâng cao đời sống choi người lao động, giúp công ty đứng vững và phát triển trên thị trường. Mặc dù những chỉ tiêu cơ bản của năm 2000 đều tăng so với năm 1998 nhưng xét về mặt định tính thì ta thấy tốc độ tăng năm2000 chậm hơn so với năm 1998, chứng tỏ năm2000 hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có phần giảm hơn so với năm 1998. Vì vậy công ty cần phải cố gắng hơn nữa để đạt được mức tăng trưởng ổn định qua các năm. 2. Phân tích thực trạng tình hình hiệu quả hoạt động của công ty trong thời gian qua. Năm 1999, công ty gặp rất nhiều khó khăn cả trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu và hoạt động vận tải. Doanh thu về xuất nhập khẩu không có hoạt động vận tải lỗ 168 triệu đồng. Bảng 5: Một số chỉ tiêu cơ bản về doanh thu, lợi nhuận, chi phí. Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Doanh thu 44801 19300 47260 Chi phí 12164 1014 1266 Lợi nhuận 970 320 325 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh. Nhìn vào bảng ta thấy về mặt tuyệt đối các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận của công ty năm 2000 đều tăng hơn so với năm 99. Xét về mặt lượng thì doanh thu năm 2000 cao hơn năm 1999 là 27,96 tỷ, lợi nhuận năm 2000 cao hơn lợi nhuận năm 1999 là 5 triệu. Cả hai chỉ tiêu đều tăng chứng tỏ công ty làm ăn có hiệu quả. Xét về mặt định tính phản ánh chất lượng kinh doanh thì doanh thu năm 2000 tăng 144,87% so với năm 1999 trong khi đó lợi nhuận của năm 2000 chỉ tăng hơn so với lợi nhuận năm 1999 là 1,56%. Nếu xét chung ta thấy năm 2000 công ty làm ăn có hiệu quả hơn so với năm 1999, đặc biệt đã khắc phục được tình trạng thua lỗ về vận tải. Nhưng nếu lấy năm 2000 so với năm 1998 ta có kết quả sau: Về doanh thu: năm 2000 cao hơn năm 1998 là 2,459 tỷ nhưng năm 2000 lợi nhuận giảm 615 triệu đồng so với năm 1998. Điều này chứng tỏ về quy mô sản xuất thì năm 2000 tăng hơn so với năm 1998 nhưng về mặt hiệu quả lại thấp hơn năm 1998. Ta có thể xét hiệu quả theo chỉ tiêu tổng hợp tốc độ tăng doanh thu, tốc độ tăng lợi nhuận và tốc độ tăng chi phí của công ty Bảng 6: Tốc độ tăng một số chỉ tiêu. Chỉ tiêu 99/98 2000/99 Tốc độ tăng doanh thu 0,43 2,44 Tốc độ tăng chi phí 0,41 2,5 Tốc độ tăng lợi nhuận 0,32 1,015 Nguồn: tổng hợp từ báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh Như vậy, tốc độ tăng doanh thu năm 2000 nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí. điều này chứng tỏ công ty hoạt động trong năm 2000 không bằng năm 1999 về hiệu quả. Nhưng tốc độ tăng chi phí cao hơn không đáng kể so với tốc độ tăng doanh thu. Đây là một yếu tố để ta có thể tăng hiệu quả cao hơn nữa. Riêng năm 1999 công ty đã đạt được nhiều kết quả trong việc giảm chi phí. Tốc độ tăng lợi nhuận giảm sút trong năm 1999 và hầu như không tăng trong năm 2000. Nguyên nhân chính của vấn đề là trong năm 1999 cũng như năm 2000 côn ty không triển được hoạt động xuất nhập khẩu và nó chứng tỏ hiệu quả hoạt động của công ty phụ thuộc nhiều vào hoạt động xuất nhập khẩu trong khi hoạt động vận tải là hoạt động chính của công ty. Sự hẫng hụt sẽ xảy ra là điều đương nhiên. Năm 2000 tuy chi phí quản lý doanh nghiệp giảm được 256 triệu so với 1262 triệu của năm 1999 nhưng chi phí nguyên vật liệu lại tăng vọt 701 triệu so với 472 triệu năm 1999. Có thể nói đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tốc độ tăng chi phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu. Ngoài ra, chi phí tăng còn do công ty liên tục đổi mới, bảo dưỡng, sửa chữa các phương tiện vận tải làm chi phí tăng đáng kể, công ty còn chưa sử dụng hết năng lực, công suất của phương tiện là một nguyên nhân làm tăng chi phí, giảm sức sinh lời cũng như sức sản xuất của vốn cố định và làm giamr hiệu quả kinh doanh của công ty. Như vậy, việc tăng chi phí có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của công ty. Đây là vấn đề cần xem xét trong thời gian tới. a. Xét hiệu quả kinh doanh theo hiệu quả sử dụng lao động. Bảng 7: Tình hình sử dụng lao động của công ty Năm Số lao động bình quân Tổng quỹ lương (tr.đ) 1998 406 2202 1999 387 2322 2000 376 2331 Nguồn: Phòng tài chính-kế toán. Bảng 8: Tình hình hiệu quả sử dụng lao động Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 NSLĐbq Tr.đ/ng 110,34 49,87 125,69 Lợi nhuận bq/1Lđ Tr.đ/ng 2,389 0,826 0,93 Kqsx/1đồng tiền lương đ/đ 20,3 8,31 20,27 Hệ số sd lao động % 97 92 91,5 Nguồn: tổng hợp từ các báo cáo lao động tiền lương. Bảng 9: Tốc độ tăng doanh thu, lợi nhuận, chi phí tiền lương. Chỉ tiêu Tốc độ tăng doanh thu Tốc độ tăng lợi nhuận Tốc độ tăng chi phí tiền lương 1999/1998 - 56,92 - 67 1,054 2000/1999 247,36 1,56 1,0238 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh. Năm 1999, công ty đặc biệt gặp khó khăn do không triển khai được hoạt động xuất nhập khẩu, sản xuất vận tải bị thua lỗ do giá cước vận chuyển giảm, chi phí tăng và nguồn hàng không ổn định nên năng suất lao động bình quân, lợi nhuận bình quân tính trên một lao động, kết quả sản xuất trên một đồng tiền lương giảm mạnh so với năm 1998 cũng như với năm 2000 là điều hiển nhiên. Đánh giá chung hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty năm 1999 là kém hiệu quả. Vì vậy khi xác định hiệu quả hoạt động của công ty trong 3 năm qua chúng ta phải so sánh các chỉ tiêu của năm 2000 so với năm 1998 mới phản ánh chính xác thực trạng hiệu quả hoạt động. Năng suất lao động bình quân năm 2000 là 125,69 tr.đ/người cao hơn năm 1998 là 110,34 tr.đ/người chủ yếu là do giảm số lao động dư thừa, tinh giảm bộ máy quản lý, chú trọng về chất lượng lao động, nâng cao thu nhập, đời sống và tạo việc làm. Đây là một yếu tố có thể khai thác để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. Nhưng khi xét về lợi nhuận bình quân trên một lao động thì năm 1998 gấp 2,57 lần năm 2000. Để xét về hiệu quả thì chỉ tiêu lợi nhuận bình quân trên một lao động là có ý nghĩa hơn cả đối với bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường. Trường hợp này chứng tỏ công ty chỉ chú trọng tới vấn đề quy mô mà chưa quan tâm đến vấn đề hiệu quả cũng như vấn đề kiểm soát chi phí và hạ giá thành vận tải, cần phải chú trọng hơn nữa trong thời gian tới. Theo bảng phân tích các chỉ tiêu trên ta thấy cứ một đồng chi phí tiền lương công ty trả cho người lao động đem lại 20,3 đồng doanh thu trong năm 1998; 8,31 đồng năm 1999 và 20,27 đồng năm 2000. Đây là con số khá cao chứng tỏ lao động trong công ty làm việc khá hiệu quả. Có một vấn đề cần xem xét là hiệu quả hoạt động trong năm 1998 khá cao, như là mức kỷ lục mà công ty đạt được, tuy nhiên tiền lương rất thấp, bình quân 452.000 đ/ tháng trong khi năm 1999 và năm 2000 hiệu quả giảm mạnh, tốc độ tăng lợi nhuận cả hai năm so với năm1998 thua xa nhưmg tiền lương bình quân tăng năm 1999, năm 2000 so với năm 1998 là 1,106 và 1,37. Tốc độ tăng lợi nhuận trong cả hai năm 1999 và 2000 nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí tiền lương và nó gây ảnh hưởng xâú tới kết quả kinh doanh. b. Xét hiệu quả theo chỉ tiêu sử dụng vốn cố định. Doanh thu tiêu thụ trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ -Sức sản xuất vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định trong kỳ -Sức sinh lời của vốn cố định = Bảng 10: Tình hình hiệu quả sử dụng vốn cố định. Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Sức sản xuất của VCĐ 3,127 1,562 4,173 Sức sinh lời của VCĐ 0,0677 0,0259 0,0287 Nguồn: tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh. Nhìn bảng, ta thấy rằng doanh thu mà một đồng vốn cố định mang lại năm 2000 là cao nhất: 4,173 đồng. Nhưng lợi nhuận do một đồng yếu tố đầu vào này tạo ra chỉ tăng hơn năm 1999 chút ít và giảm tới 2,35 lần so với năm 1998. Lợi nhuận mới là mục tiêu cuối cùng của mỗi doanh nghiệp. Như thế có thể nói mục tiêu sử dụng hiệu quả tài sản cố định của công ty chưa đạt kết quả tốt. Nguyên nhân là do phương tiện vận tải của công ty quá cũ nát, hoạt động kém hiệu quả, phát sinh nhiều chi phí làm giảm lợi nhuận và tốc độ tăng chi phí lớn hơn tốc độ tăng doanh thu. c. Xét hiệu quả theo chỉ tiêu sử dụng vốn lưu động. Doanh thu tiêu thụ trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ -Sức sản xuất của vốn lưu động = Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động trong kỳ -Mức sinh lời của vốn lưu động = Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động -Số vòng quay của vốn lưu động = 365 ngày = -Số ngày luân chuyển bình quân Số vòng quay của vốn lưu động một vòng quay Vốn lưu động trong kỳ Doanh thu trong kỳ -Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = Bảng 11: Tình hình hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 Sức sản xuất của VLĐ đ/đ 8,745 5,999 13,502 Mức sinh lời của VLĐ đ/đ 0,189 0,0994 0,0928 Số vòng quay của VLĐ Vòng 8,745 5,999 13,502 Số ngày luân chuyển bq một vòng quay Ngày 41,7 60,84 27,03 Hệ số đảm nhiệm VLĐ đ/đ 0,114 0,166 0,074 Nguồn: Tổng hợp từ bảng cân đối kế toán. Sức sản xuất của vốn lưu động trong năm 2000 tăng vọt chứng tỏ tổng số thu nợ của công ty giảm xuống làm tăng vòng quay của vốn lưu động. Chứng tỏ công ty quan hệ tốt với khách hàng, không để nợ đọng kéo dài ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh, áp dụng nhiều hình thức thanh toán tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và cho cả công ty. Tuy hệ số đảm nhiệm vốn lưu động giảm chứng tỏ cần ít vốn lưu động hơn, cụ thể là trong năm 2000 hệ số này là 0,074 tức cần 74 đồng vốn lưu động tạo ra được 1000 đồng doanh thu trong khi năm 1999 cần tới 166 đồng vốn lưu động để tạo ra được 1000 đồng doanh thu. Tuy nhiên, khi đánh giá sức sinh lời của vốn lưu động thì năm 2000 thấp nhất trong ba năm, giảm 2,036 lần so với năm 1998 và 1,07 lần so với năm 1999. Mức sinh lời của vốn lưu động có xu hướng giảm và công ty phải tìm ra nguyên nhân để khắc phục. Xét hiệu quả theo chỉ tiêu tổng hợp. Tổng doanh thu Lợi nhuận -Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = Lợi nhuận Vốn chủ sở hữu -Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận Tổng vốn sản xuất -Tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất = Lợi nhuận Tông chi phí -Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí = Tổng doanh thu Tổng chi phí -Doanh thu trên một đồng chi phí = Bảng 12: Một số chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh. Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 Tỷ suất Ln theo Dt % 2,165 1,658 0,687 Tỷ suất Ln theo vốn CSH % 5,42 2,25 2,42 Tỷ suất Ln theo vốn SX % 4,987 2,055 2,19 Tỷ suất Ln theo chi phí % 2,213 1,68 0,692 Doanh thu trên 1 đồng chi phí đ/đ 1,022 1,016 1,0069 Nguồn: Tổng hợp từ bảng cân đối kế toán. Qua các chỉ tiêu trên so với mặt bằng chung của các doanh nghiệp là khá thấp nhưng cùng so với các doanh nghiệp vận tải và tình hình khó khăn của sản xuất vận tải hiện nay ta đánh giá: công ty duy trì được hoạt động và có lãi là một kết quả khá khả quan. Tuy nhiên, vấn đề đáng quan tâm ở đây là các chỉ tiêu quan trọng như tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu, tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí biểu hiện xu hướng giảm dần qua 3 năm chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của công ty đi xuống, lợi nhuận vận tải rất thấp, thậm chí lỗ, lợi nhuận chủ yếu do chênh lệch nhượng bán tài sản. Bảng 13: Tổng hợp các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. STT Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 1 NSLĐbq Tr.đ/người 110,34 49,87 125,69 2 Lnbq/1Lđ Tr.đ/người 2,389 0,826 0,93 3 Sức sxaVCĐ đ/đ 3,127 1,562 4,173 4 Sức sinh lời VCĐ đ/đ 0,0677 0,0259 0,0287 5 Sức sxa VLĐ đ/đ 8,745 5,999 13,502 6 Mức sinh lời VLĐ đ/đ 0,189 0,0994 0,0928 7 Tỷ suất Ln/Dt % 2,165 1,658 0,687 8 Tỷ suất Ln/VSX % 4,987 2,055 2,19 9 Tỷ suất Ln/CP % 2,213 1,68 0,692 10 Dt/1đ CP đ/đ 1,022 1,016 1,0069 11 Kqsx/1đlương đ/đ 20,3 8,31 20,27 Nguồn: Tổng hợp từ các bảng trên. Qua các chỉ tiêu trên ta có thể rút ra nhận xét sau: xét về mặt lượng thì trong năm qua công ty làm ăn có hiệu quả, nhưng xét về mặt định tính chỉ có một số chỉ tiêu như năng suất lao động bình quân, sức sản xuất vốn cố định...là tăng còn các chỉ tiêu khác phản ánh bản chất của hiệu quả hoạt động kinh doanh khác đều giảm so với năm 1999 và 1998. Điều này chứng tỏ trong năm 2000 công ty mới chỉ mở rộng quy mô sản xuất còn vấn đề hiệu quả vẫn chưa đạt được. Phân tích các chỉ tiêu như mức sinh lời của vốn sản xuất, số vòng quay của vốn, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí....cơ bản năm 2000 đều thấp hơn năm 1999 và 1998. Điều này chứng tỏ công ty đã sử dụng chưa có hiệu quả các nguồn vốn đã có. Hiệu quả hoạt động suy giảm liên tục là do tốc độ tăng chi phí tăng nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu, phương tiện vận tải cũ nát, trọng tải thấp, ăn nhiều nhiên liệu và phải chịu sự cạnh tranh ác liệt. Vì vậy để hoạt động có hiệu quả hơn trong thời gian tới công ty cần khắc phục những yếu kém trước mắt và tồn tại lâu dài, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tìm nguồn hàng ổn định và tăng lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi công ty phải đầu tư đổi mới, bảo dưỡng, sửa chữa các phương tiện vận tải để có đội xe mạnh, trọng tải lớn, tiêu hao ít nhiên liệu. Nâng cao chất lượng lao động và khả năng tổ chức quản lý của bộ máy quản trị công ty. Công ty cần phải đẩy mạnh hơn công tác nghiên cứu thị trường, dự báo khách hàng vì đây là các mặt yếu chung của các công ty vận tải ...nhằm tăng sản lượng vận chuyển, tăng doanh thu, tăng hiệu quả kinh doanh. Các biện pháp này nằm trong khả năng của công ty và được sự nhất trí của ban lãnh đạo để triển khai trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. III. Đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty VTOT số 3 trong thời gian qua. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty VTOT số 3 luôn chủ động đặt ra mục tiêu phù hợp với khả năng của công ty và điều kiện thực tế của thị trường. Huy động mọi nguồn lực để đạt được mục tiêu đề ra. Trong điều kiện như hiện nay để có thể cạnh tranh được công ty thực hiện chủ trương đa dạng hóa sản phẩm, kinh doanh tổng hợp, tăng năng lực vận chuyển bằng cách đầu tư đổi mới phương tiện, đồng thời với nó là hiệu quả hoạt động và nâng cao hiệu quả hoạt động vì đây mới là vấn đề sống còn của công ty. Thực tế qua phân tích kết quả hoạt động của công ty trong thờigian qua ta thấy công ty chỉ thực hiện được mục tiêu mở rộng kinh doanh mà mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động chưa thực hiện được và có xu hướng ngày càng giảm. Ban lãnh đạo công ty đứng trước vấn đề này đã đưa ra nhiều biện pháp thiết thực nhưng kết quả đạt được còn hạn chế. Nguyên nhân là do có nhiều khó khăn cản trở từ môi trường bên ngoài như cạnh tranh khắc nghiệt. Chi phí tăng, cước vận chuyển giảm, cũng như do bản thân công ty đã làm giảm sút hiệu quả hoạt động của công ty. Qua quá trình thực tế nghiên cứu tại công ty VTOT số 3 tôi rút ra được những nhận xét đánh giá sau: 1. Về phần thực trạng hoạt động của công ty. a. Những mặt làm được của công ty. Khó khăn chung của năm 1999 cũng là khó khăn của năm 2000 đều không triển khai được hoạt động xuất nhập khẩu do sự thay đổi chính sách của nhà nước nhưng doanh thu năm 2000 đạt hơn 47,27 tỷ vượt doanh thu năm 1999 là 19,3 tỷ. Tổng lợi nhuận 325 triệu trong đó lợi nhuận vận tải 20 triệu và lợi nhuận kinh doanh khác 305 triệu vượt 8,33 % kế hoạch. Phải nói đây là cố gắng rất lớn của công ty trong việc khắc phục khó khăn vì từ trước tới nay xuất nhập khẩu là hoạt động tạo ra doanh thu cơ bản của công ty, hỗ trợ cho hoạt động chính của công ty. Có được kết quả này chứng tỏ ban giám đốc công ty rất nhanh nhạy trong việc đa dạng hoá sản phẩm để khắc phục khó khăn. Năm 2000 doanh thu đại lý vận tải là 26,413 tỷ, kinh doanh vật tư: 6,5 tỷ, dịch vụ sửa chữa ngoài: 1,6 tỷ và các hoạt động này nhất là đại lý vận tải đóng vai trò rất lớn trong việc tạo ra doanh thu và lợi nhuận cho công ty. -Về công tác kỹ thuật-các đơn vị bảo dưỡng sửa chữa: nhìn chung năm 2000 công tác kỹ thuật đã có một số cố gắng, số phương tiện vận tải giảm song đã duy trì được đầu xe tham gia kế hoạch khá cao gần 95% tổng số xe có. công ty tập trung nâng cấp các xe hư hỏng, chấm dứt tình trạng xe nằm kéo dài, nghiên cứu lắp lẫn một số phụ tụng xe Zil 130 cho xe Cheng Long bước đầu đạt được kết quả tốt, giá thành hạ, chất lượng đảm bảo nên đã khắc phục được mọt số phụ tùng Cheng Long khan hiếm và giá thành rất cao. Do làm tốt công tác quản lý, giám sát, bảo dưỡng, sửa chữa và tăng cường công tác kiểm tra thường xuyên, vì vậy chất lượng xe nhìn chung đảm bảo tốt, ngày xe nằm giảm, ngày xe tốt tăng, ngăn chặn có hiệu quả tai nạn giao thông và không có tai nạn kỹ thuật đáng tiếc xảy ra. -Về công tác kế hoạch và điều độ-đại lý khai thác hàng hoá: Trước rất nhiều khó khăn của sản xuất vận tải là phương tiện giảm, hàng hoá biến động liên tục, giá cước vận chuyển giảm, muốn giữ vững được nhịp độ sản xuất vận tải năm qua công ty đã có rất nhiều cố gắng. Công tác kế hoạch ngay từ cuối năm 1999 đã được xác định một cách chính xác phù hợp với điều kiện thực tế của công ty và được triển khai giao cho từng đơn vị thành viên và các đơn vị sản xuất trực tiếp rất cụ thể sát hợp, có kiểm tra đánh giá và điều chỉnh kịp thời theo đúng quy chế, quy định của công ty. Công tác vận tải đã đưa ra được các đối sách hợp lý về tổ chức và quản lý sản xuất, giá cước được vận dụng rất linh hoạt theo từng thời điểm, hệ thống định mức chi phí sau nhiều lần điều chỉnh đã cơ bản phù hợp góp phần đưa hiệu quả sản xuất vận tải đạt khá, nhất là các xe mà công ty điều hành trực tiếp. -Về kinh doanh thương mại và các dịch vụ: ngoài sản xuất vận tải, sản xuất công nghiệp, công ty đặc biệt quan tâm đến các hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ. Bởi vì đây là hoạt động thu hút khá lớn người lao động và tạo nguồn thu, hỗ trợ đắc lực cho sản xuất chính của công ty. Vì vậy kinh doanh thương mại và các dịch vụ đạt kết quả khá cao với doanh thu là 34,513 tỷ. Thực hiện chương trình củng cố doanh nghiệp năm 2000 công ty đã tiến hành sát nhập phòng vật tư vào xí nghiệp kinh doanh thương mại từ tháng 7. Sau 6 tháng hoạt động bước đầu đã tháo gỡ giải quyết một số tồn tại nhất là vật tư rắn, kinh doanh vật tư lỏng qua các tháng tăng dần về khối lượng bán ra. Song do tỷ lệ hoa hồng thấp vì vậy hiệu quả chưa đẩy lên được. công ty đang nỗ lực tập trung chỉ đạo theo hướng thay đổi phương thức kinh doanh để đạt hiệu quả cao hơn, phấn đấu tiến tới cân bằng thu chi và có lãi trong thời gian tới. -Về công tác lao động tiền lương: Công tác lao động và tiền lương năm 2000 đã xây dựng được kế hoạch tiền lương được Cục ĐBVN phê duyệt với tổng quỹ lương là 3,529 tỷ. Triển khai tốt chế độ tuần làm việc 40 giờ và điều chỉnh mức chi trả tiền lương tối thiểu từ 144.000 đ lên 180.000 đ. Vì vậy, mặc dù hoạt động rất khó khăn song thu nhập và tiền lương của toàn công ty đạt bình quân 620.000 đ/tháng, tuy không cao song là cố gắng lớn của công ty. Với quyết tâm phấn đấu 100% lao động có việc làm, mở rộng ngành nghề dịch vụ giải quyết và thu hút thêm lao động việc làm cho một số con em cán bộ công nhân viên trong công ty trong năm qua đã thực hiện khá tốt. Ngoài ra công ty còn đảm bảo tốt các chế độ bảo hiểm 100% cán bộ công nhân viên chức toàn công ty. Thực hiện tốt các chế độ và quyền lợi khác cho công nhân viên. Thực hiên tốt chế độ nâng bậc lương được 40 người. Phấn đấu sang năm 2001 nâng thu nhập bình quân toàn công ty lên 720.000-750.000đ. -Về công tác tài chính kế toán: Công tác tài chính nhìn chung trong năm 2000 đã có nhiều cố gắng luôn đảm bảo được các yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của cán bộ công nhân viên, không để tình trạng do không có vốn mà làm đình trệ sản xuất kinh doanh và dịch vụ hoặc chi trả tiền lương không đúng kỳ hạn. Thực hiện tốt chế độ tổng kiểm kê ngày 1/1/2000 đúng nội dung và yêu cầu của Cục ĐBVN và Bộ GTVT. Công tác hạch toán, thanh quyết toán đảm bảo tốt đúng chế độ, hạch toán kịp thời hàng tháng, quý và năm đúng theo quy định của Bộ Tài chính, luôn bảo đảm chế độ nộp thuế đầy đủ, đúng hạn. Năm 2000 công tác tài chính đã phối hợp rất chặt chẽ với các phòng ban liên quan, góp phần giải quyết việc hoàn thuế tồn đọng từ năm 1998. Là một năm hoạt động tài chính đạt được các mục tiêu đề ra. Tổng doanh thu vượt: 43,21% kế hoạch. Nộp ngân sách đạt: 1,266 tỷ. Tổng lợi nhuận vượt: 8,33% kế hoạch. Đã tập trung giải quyết tốt việc đốc thu, tính đến ngày 31/12/2000 các đơn vị đều hoàn thành vượt mức kế hoạch. b. Những mặt chưa làm được của công ty. Trong quá trình thích ứng với cơ chế mới của nền kinh tế công ty đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, song bên cạnh đó còn có những khó khăn tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của công ty. -Hiện tại về phương tiện vận tải hầu hết đã cũ và lạc hậu trọng tải thấp, tiêu hao nhiên liệu lớn hiệu quả thấp không thích ứng được với yêu cầu ngày càng đa dạng của sản xuất kinh doanh. Việc thay đổi cơ cấu đoàn xe chậm do một số khó khăn về vốn song cơ bản là giá thành cao, cước phí vận chuyển thấp. Khó khăn lớn nhất là phương tiện vận tải giảm liên tục giảm dần. Năm 1998 có 150 xe, đến cuối năm 2000 chỉ còn 130 xe. Việc đầu tư xe do nhiều lý do không triển khai được vì vậy năng lực vận tải giảm và chậm được đổi mới. Hơn nữa trong 130 xe này số xe của công ty chỉ có 20 chiếc chiếm 15,38% còn lại 110 xe của tư nhân liên doanh chiếm 84,62%. Đây là nguyên nhân làm cho năng lực sản xuất của công ty không ổn định và giảm vì số lái xe trả xe nhiều hoặc không vận chuyển vì giá cước thấp. Nhiều lúc làm giảm niềm tin của khách hàng vào công ty. -Một khó khăn rất lớn ảnh hưởng đến việc triển khai hoạt động kinh doanh của công ty là vấn đề vốn. Năm 2000 do không triển khai được hoạt động xuất nhập khẩu ngoài lý do thay đổi chính sách của nhà nước còn có nguyên nhân thiếu vốn. Đầu tư trong năm 2000 là 2,91 tỷ đạt 60% kế hoạch, việc chậm đổi mới cơ cấu đoàn xe nâng cao năng lực vận chuyển chưa thực hiện được là bao cũng do thiếu vốn. Để giải quyết vấn đề vốn khi lượng vốn nhà nước cấp lại không đảm bảo cho công ty kịp thời đáp ứng những nhu cầu đầu tư và bản thân công ty thực sự chưa có những biện pháp hứu hiệu để thu nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Về lao động: Đa phần lực lượng lao động của công ty đều có trình độ chuyên môn liên quan đến chuyên ngành vận tải ô tô. Hầu hết các lái xe đều được đào tạo chính quy qua các trường đào tạo của Bộ Giao thông, Bộ Quốc phòng... số cán bộ công nhân viên tốt nghiệp đại học, trung cấp giao thông theo các chuyên ngành cơ khí ô tô, kinh tế vận tải chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng số cán bộ công nhân chức của công ty. Dưới thời bao cấp lực lượng lao động của công ty mặc dù khá lớn nhưng không được sử dụng hết khả năng. Ngày nay lực lượng lao động đã giảm nhưng công ty vẫn gặp nhiều khó khăn. Vấn đề dư thừa lao động trong công ty do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chính là do chuyên môn của một số nhân viên không đủ và không phù hợp với yêu cầu của công việc vì để tồn tại và phát triển được công ty không thể chỉ có vận tải hàng hoá. Thừa lao động nhưng thực chất lại là thiếu, chẳng hạn ở các trạm bảo dưỡng và sửa chữa nhiều xe đưa đến nhưng công nhân không sửa được vì chỉ quen sửa các xe đời cũ. Vấn đề lao động việc làm, đời sống và chính sách xã hội luôn làm nảy sinh những mâu thuẫn phức tạp đòi hỏi giải quyết từng bước một, không thể ngày một ngày hai là xong. Yêu cầu tinh giảm đội ngũ lao động, chỉ giữ lại những người có khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc có quan hệ chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng lao động cũng như đời sống của người lao động. Vì thế công tác tổ chức lao động phải luôn đi trước một bước trong quá trình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Song đi sâu vào từng việc, từng trường hợp, từng con người cụ thể lại không phải là điều dễ dàng vì nó liên quan đến tình cảm, đời sống, danh dự, chính sách về lao động của từng cán bộ, công nhân viên nhất la những người đã từng gắn bó với công ty trong những thời kỳ gian khổ mà vinh quang. Chính vì vậy việc giải quyết phải hết sức thận trọng song không có nghĩa là không giải quyết được vì trong điều kiện hiện nay công ty hoạt động theo cơ chế thị trường, hạch toán kinh tế độc lập thì hiệu quả phải đặt lên hàng đầu, thực hiện nó chỉ là vấn đề của thời gian. Trong những năm qua số chờ giải quyết việc làm của công ty khá cao, năm 1998: 10 người, năm 1999: 29 người và năm 2000: 31 người. Gần 100 lao động không trực tiếp làm việc ở công ty mà chỉ đóng bảo hiểm. Điều này liên quan đến chính sách xã hội, chính sách lao động của nhà nước (chủ yếu những người này vẫn còn ở lại từ thời bao cấp) đây là vấn đề tồn đọng mà công ty đang xem xét và chờ những chính sách giải quyết hợp lý từ cấp trên. Việc làm và thu nhập: có thể nói đây là vấn đề bức xúc của công ty trong những năm qua. Dù có nhiều cố gắng song kết quả đạt được là rất thấp. Bảng 7: Lao động-tiền lương Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 Tiền lương bình quân 1000đ 452 500 620 Số lao động nghỉ chờ việc Người 10 29 21 Nguồn: phòng tổ chức lao động công ty VTOT số 3. Vấn đề tiền thưởng trong công ty còn nhiều vấn đề chưa hợp lý. Trước hết đó là thời điểm trả thưởng, công ty gộp trả thưởng một lần trong dịp tổng kết cuối năm, chính điều này không khuyến khích kịp thời người lao động. Hơn nữa tiền thưởng thấp, việc đánh giá để khen thưởng chưa chính xác. ở cả khối văn phòng và các đội xe đều có sự không hài lòng về cơ chế thưởng. Trước hết là ở văn phòng mỗi năm thưởng một lần vào cuối năm, ở đội xe thì bất bình vì dường như thưởng không tới họ, quyền lợi không tương xứng với trách nhiệm. Đi kèm với khen thưởng là kỷ luật lao động chưa được chấp hành nghiêm chỉnh, vẫn có những vụ tai nạn xảy ra do lái xe thiếu ý thức, phóng nhanh vượt ẩu, uống rượu, bia trong khi vận hành, xảy ra hiện tượng cờ bạc trong khi vận hành. Trong vấn đề giao hàng để xảy ra chậm trễ, làm hư hỏng, hao hụt, mất mát, thậm chí có trường hợp lái xe còn bán hàng hoá của chủ hàng. 2. Về phần hiệu quả hoạt động của công ty. Những mặt làm được. Có thể nói hiệu quả hoạt động của công ty trong thời gian qua đạt được một số kết quả sau: -Năng suất lao động bình quân năm 2000 là 155,69 tr.đ/người đạt mức cao nhất trong ba năm, tốc độ tăng năng suất lao động năm 2000 so với năm 1998 tăng 13,91%, so với năm 1999 tăng 256,66%. Phải nói rằng đây là một kết quả đáng kể vì trong năm 2000 công ty gặp rất nhiều khó khăn mà trong năm 1999 chưa vượt qua được. Lợi nhuận bình quân tính trên một lao động năm 2000 là 0,93 tr.đ/người vượt năm 1999 là 0,826 tr.đ/người, kết quả sản xuất trên một đồng tiền lương đạt ở mức khá cao, so với năm 1999 tăng 243,9%. Những con số này chứng tỏ lao động trong công ty làm việc khá hiệu quả. -Về hiệu quả sử dụng vốn cố định, ta thấy doanh thu mà một đồng vốn cố định mang lại trong năm 2000 là cao nhất: 4,173 đ. Nó chứng tỏ công ty đã tận dụng hay nói cách khác là huy động được tối đa phương tiện vận tải tham gia vận chuyển hàng hoá, làm tốt công tác bảo dưỡng, sửa chữa tăng ngày xe tốt lên, đồng thời nó cũng biểu hiện khả năng tìm kiếm nguồn hàng là rất tốt. Sức sinh lời của vốn cố định năm 2000: 0,028 vượt năm 1999: 0,028 đ. Như vậy xét cả hai chỉ tiêu sử dụng vốn cố định ta thấy năm 2000 đạt kết quả khá, điều đặc biệt là vượt qua được khó khăn. Sức sản xuất của vốn lưu động trong năm 2000 là 13,052 tăng nhanh so với năm 1999 và năm 1998. Đẩy số vòng quay vốn lên, rút số ngày luân chuyển bình quân xuống. Tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất năm 2000 có tăng so với năm 1999 nhưng không đáng kể. Những mặt chưa làm được. Đánh giá chung về hiệu quả hoạt động của công ty trong thời gian qua có xu hướng giảm sút đáng lo ngại. Kết quả phân tích cho thấy chỉ có một số chỉ tiêu tăng trưởng về quy mô còn các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm về mặt hiệu quả. Đầu tiên là hiệu quả sử dụng lao động ta thấy lợi nhuận bình quân trên một lao động trong năm 1998 gấp 2,57 lần năm 2000 và đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. Nó đánh giá thực chất của việc sử dụng lao động là như thế nào. Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động cũng không tỏ ra hiệu quả hơn. Lợi nhuận do một đồng vốn cố định năm 2000 tạo ra chỉ tăng hơn năm 1999 không đáng kể nhưng giảm tới 2,35 lần so với năm 1998. Trong kinh doanh thì lợi nhuận là yếu tố quan trọng nhất. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định chưa đạt được kết quả tốt. Cũng có đánh giá như vậy đối với hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì sức sinh lời của vốn lưu động trong năm 2000 là 0,0928 thấp nhất trong 3 năm, giảm 2,036 lần so với năm 1998 và 1,07 lần so với năm 1999. Sử dụng các chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty ta thấy rằng các chỉ tiêu phản ánh về mặt quy mô là tăng còn các chỉ tiêu phản ánh về mặt hiệu quả là suy giảm. Qua các chỉ tiêu như mức sinh lời của vốn sản xuất, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí, tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu...năm 2000 đều giảm mạnh so với năm 1998. Kết quả này phản ánh hiệu quả hoạt động của công ty có xu hướng giảm sút. Công ty cần phải quan tâm tới mặt hiệu quả chứ không phải là vấn đề quy mô. 3. Các nguyên nhân tương ứng. Những nguyên nhân cơ bản sau đây đã làm cho công ty gặp phải những khó khăn trong tổ chức cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nó làm cho hiệu quả hoạt động của công ty bị suy giảm 3.1. Nguyên nhân khách quan. Hàng hoá vận chuyển biến động liên tục cả về khối lượng và giá cước vận chuyển. Tuyến Tây Bắc giá cước giảm mạnh trên 20% trong khi đó chi phí vận tải tăng do giá nguyên liệu tăng. Giá nhiên liệu năm 2000 cao hơn năm 1999 trên 10%, chi phí cầu đường tăng đặc biệt là quốc lộ 1 và quốc lộ 5 trên 10% doanh thu. Cạnh tranh không lành mạnh giữa vận tải tư nhân và quốc doanh làm cho công ty gặp không ít khó khăn. nhà nước lại chưa có biện pháp cụ thể sắp xếp ại lực lượng vận tải ô tô tư nhân có tổ chức, trật tự. Chính việc này đã làm giá cước giảm và chịu thiệt thòi là các doanh nghiệp nhà nước. Thời kì bao cấp kéo dài đã để lại cho công ty khó khăn trong việc giải quyết lao động dư thừa, trong khi đó Nhà nước lại chưa có chế độ, chính sách hợp lý để giải quyết ngay được. Phong cách làm việc, quan điểm và tư tưởng của cán bộ công nhân viên chức chưa thoát khỏi “lề lối cũ”. 3.2. nguyên nhân chủ quan. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan còn phải kể đến những thiếu sót từ phía công ty. -Khi công ty xây dựng chiến lược, kế hoạch vận chuyển bị phụ thuộc quá nhiều vào nhiệm vụ nhà nước giao mà không nghiên cứu bám sát điều kiện thực tế, nhu cầu thực tế và kết quả là công ty phải xin điều chỉnh lại kế hoạch nhiều lần trong ba năm qua do kế hoạch nằm ngoài năng lực của công ty. Ban giám đốc cũng như trưởng các phòng ban còn thiếu sự giám sát, kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ đến từng cơ sở, từng chi nhánh vì địa bàn hoạt động tương đối rộng. -Hơn nữa, tình trạng dư thừa lao động, không sử dụng lao động do không triệt để trong quá trình đổi mới cơ cấu lao động, bố trí lao động không hợp lý. Công ty không có một bộ phận chuyên về marketing và nghiên cứu thị trường để tạo ra nguồn hàng ổn định và tăng mạnh qua các năm, nguyên nhân này là do công ty chưa nhận thức được tầm quan trọng của nó và cần được khắc phục trong thời gian tới. Cụ thể là phải thành lập một phòng marketing. - Trong khi nhu cầu về chủng loại xe có trọng tải lớn hơn và phù hợp hơn với tuyến đường cũng như yêu cầu vận chuyển, đặc biệt lại thiếu nhiều các loại xe như Kamaz, Hino, xe kéo thì công ty công ty lại đầu tư phương tiện không hợp lý, lượng xe Zil 130 quá nhiều. -Công ty yếu kém trong việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường về vật tư lỏng và vật tư rắn, vì vậy mới gây nên dư thừa vật tư lỏng và rắn, ứ đọng vốn và lâu để thu hồi vốn. -Công ty còn nhiều chậm trễ trong quá trình cổ phần hoá dẫn tới nguyên nhân là thiếu vốn và chưa nâng cao được ý thức, trách nhiệm của người lao động đối với công việc và sử dụng các tài sản cũng như nguồn vốn của công ty có hiệu quả. -Công ty còn nhiều lúng túng, bị động trong việc huy động vốn để đầu tư. Phần thứ ba Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ở công ty vận tải ô tô số 3 hà nội. a. Triển vọng phát triển vận tải ô tô Việt Nam và các chính sách của Nhà nước. Trong điều kiện cạnh tranh găy gắt như hiện nay đặc biệt với vận tải ô tô tư nhân, để đứng vững và phát triển công ty phải tìm cho mình một hướng đi phù hợp trong từng giai đoạn, trên cơ sở thực tế về nhân lực, vốn, phương tiện vận tải của công ty cũng như của các đối thủ cạnh tranh. Với những chiến lược đúng đắn bản thân các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình những mục tiêu, kế hoạch và các biện pháp cụ thể mang tính khả thi đảm bảo mang lại hiệu quả kinh doanh cao và đạt được những thắng lợi trong cạnh tranh. 1. Triển vọng phát triển vận tải ô tô Việt Nam Những năm gần đây chúng ta đã đạt đựơc mức tăng trưởng GDP khá cao, đó ổn định được nền kinh tế, chính trị và xã hội. Chính sách mở cửa nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được mở rộng, quan hệ kinh tế với các nước ngày càng phát triển góp phần nâng cao vị trí của nước ta trên trường quốc tế. Hiện nay nước ta có quan hệ kinh tế với hơn một trăm nước trên thế giới. Chính điều này tạo điều kiện cho ngành vận tải ô tô phát triển do có nhiều nguồn hàng vận chuyển kết hợp với các phương thức vận tải khác. Khi Việt Nam ký hiệp định vận tải với các nước trong khối ASEAN thì ngành vận tải nói chung được đặt lên vị trí quan trọng trong công tác đối ngoại, trong khi đó vận tải ô tô có những ưu điểm riêng của mình. Hơn nữa trong những năm tới khi cơ sở hạ tầng từng bước được xây dựng và hoàn thiện thì nhu cầu vận tải chắc chắn sẽ tăng. Trước mắt có những điều kiện hết sức thuận lợi cho vận tải ô tô. Về đường bộ các dự án nâng cấp một số quốc lộ quan trọng đã hoàn thành như quốc lộ 1A xuyên Việt, đường V Hà nội-Hải phòng, đường Láng-Hoà lạc cho phép ô tô có trọng tải lớn hoạt động, đặc biệt là xe kéo, loại hình vận tải sẽ chiếm ưu thế trong tương lai. Càng thuận lợi hơn khi ngành được sự chỉ đạo trực tiếp, sâu sát, kịp thời của Bộ GTVT, Cục ĐBVN. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các địa phương nơi công ty đóng trụ sở và đặt các trạm đại lý, dịch vụ để công ty hoàn thành nhiệm vụ và củng cố, phát triển hoạt động kinh doanh. Đồng thời đội ngũ cán bộ lãnh đạo công ty VTOT số 3 và của toàn ngành đượo đào tạo sâu, có sự gắn bó với ngành, không ngừng học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau và kinh nghiệm của các nước phát triển. công nhân viên chức ngành vận tải ô tô luôn có tinh thần tự chủ, sáng tạo, đoàn kết và tin tưởng vào đưòng lối phát triển của Đảng và Nhà nước. Như vậy, vận tải ô tô ở Việt Nam trong tương lai sẽ là phương thức vận tải phát triển vì những lợi thế riêng phù hợp với điều kiện địa lý cũng như kinh tế xã hội Việt Nam. Khi ngành vận tải ô tô nói chung phát triển thì công ty VTOT số 3 cũng có điều kiện để tự khẳng định mình trên thị trường. 2. Những chính sách của Nhà nước đối với ngành vận tải ô tô quốc doanh. a. Chính sách giải quyết tổ chức-lao động. Nhà nước cho phép các công ty VTOT thành lập các đơn vị thành viên có con dấu riêng, có tài khoản mở ở ngân hàng như các xưởng bảo dưỡng –sửa chữa, trạm vận tải lớn. Đồng thời các đơn vị đó được công ty uỷ quyền quản lý một số lĩnh vực nhất định để tăng thêm tính năng động trong sản xuất, tự chịu trách nhiệm về tài chính, có trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho người lao động và nghĩa vụ với công ty như : Chuyển đội xe, cụm đội xe thành trạm vận tải, vừa làm đại lý vận tải vừa vận tải. -Chuyển các xưởng bảo dưỡng- sửa chữa thành những xí nghiệp cơ khí sửa chữa ô tô liên doanh vận tải, mua bán nhiên liệu. -Lập các xí nghiệp dịch vụ làm nhiệm vụ trông giữ xe, hàng hoá,cho thuê kho hàng, gom hàng để tạo nguồn hàng vận chuyển. -Lập các xí nghiệp vận tải, đại lý quá cảnh vận chuyển theo hợp đồng. Giảm bộ máy lao động gián tiếp: giải quyết nghỉ việc những cán bộ không đủ trình độ năng lực hoặc không có nhu cầu sử dụng. Tạo dựng bộ máy quản lý thống nhất theo chế độ “ một thủ trưởng”. b. Chuyển hướng kinh doanh theo phương châm đa dạng hoá sản phẩm. Để nâng cao tính chủ động sáng tạo, các công ty vận tải được phép chuyển hướng kinh doanh đa dạng hoá sản phẩm chứ không đơn thuần như trước. công ty chuyển hướng kinh doanh đa dạng hoá sản phẩm căn cứ vào thế mạnh nội lực của mình. c. Đổi mới phương tiện vận tải. Công ty đã và đang tiến hành đổi mới đoàn xe của mình dựa trên cơ sở phân loại chất lượng xe.Tập trung vốn để sửa chữa lớn, nâng cấp toàn diện diện trở thành xe tốt. Nhanh chóng thanh lý thay thế cho những xe hoạt động không hiệu quả. Đầu tư mua xe mới trọng tải lớn. Những việc này được sự hỗ trợ nhất định của nhà nước mà trực tiếp là từ Bộ GTVT. d. Chính sách huy động vốn và cấp vốn Hiện nay công ty VTOT số 3 cũng như những công ty VTOT của Nhà nước đang cố gắng huy động nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong công ty. Bên cạnh đó còn có các nguồn vốn vay với lãi suất thấp từ ngân hàng để đầu tư đổi mới phương tiện. Đặc biệt công ty đang tiến hành cổ phần hoá theo chủ trương của Nhà nước nhằm thu hút vốn từ bên ngoài. Vấn đề này được Nhà nước và công ty rất quan tâm. e. Các chính sách về tạo nguồn hàng khai thác. Bộ GTVT và cục ĐBVN đưa ra một số biện pháp tạo nguồn hàng cho các công ty vận tải ô tô quốc doanh như sau: -Xây dựng các quy định về hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh giữa các đơn vị trong ngành. -Tổ chức thêm các địa điểm khai thác nằm trong lĩnh vực khác có liên quan. -Hàng hoá trợ giá cho các tỉnh, vùng gặp khó khăn không để đấu thầu như trước đây mà giao cho công ty vận tải cụ thể nhằm đạt kết quả cao hơn.Tăng cước vận tải để tránh trường hợp tăng giá hàng hoá ở những vùng được trợ giá. B. Mục tiêu và định hướng phát triển của công ty VTOT số 3 trong những năm tới. Công ty VTOT số 3 là một đơn vị sản xuất kinh doanh do đó công ty hoạt động luôn hướng tới lợi nhuận. Muốn vậy công ty phải xác định được các nhân tố khách quan, chủ quan ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận. Để mục tiêu của công ty đạt hiệu quả cao nhất trên cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn, lao động của mình cần phải xác định phương hướng và biện pháp đầu tư, biện pháp sử dụng điều kiện sẵn có làm sao có hiệu quả nhất. 1. Mục tiêu. Mục tiêu chung. Trong quá trình hoạt động công ty đã xây dựng cho mình những mục tiêu chiến lược cụ thể : -Tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, tăng mức sản lượng hàng hoá vận chuyển,tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng nộp ngân sách cho Nhà nước và nâng cao mức sống cho người lao động. -Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh. -Chú trọng hơn trong khâu marketing để tạo nguồn hàng vận chuyển ổn định và tăng trong những năm tới. Nâng cao sức cạnh tranh của công ty, tận dụng quy mô, uy tín của công ty để thu hút và giữ khách hàng. b. Mục tiêu cụ thể. Năm 2001 và những năm tiếp theo công ty tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu đề ra : -Tấn hàng vận chuyển tăng 5% so với năm 2000. -Doanh thu tăng 7%, lợi nhuận tăng 25%so với năm 2000. -Đảm bảo nộp đúng, nộp đủ ngân sách nhà nước giao. -Đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động. -Cố gắng nâng mức thu nhập bình quân từ 620.000 đồng/tháng/người năm 2000 lên 710.000-750.000 đồng/tháng/người năm. 2. Định hướng khách hàng. Trong những năm tới ngoài khách hàng truyền thống công ty có kế hoạch mở rộng danh mục khách hàng nhằm nâng cao sản lượng hàng hoá vận chuyển, tăng doanh thu và lợi nhuận. Khách hàng của công ty tập trung vào những xí nghiệp sản xuất công nghiệp như sau: -Liên doanh TOYOTA của Nhật. -Tổng công ty thiết bị và xây dựng Bưu Điện. -Nhà máy cơ khí Mai Động. -Cáp quang của Hàn Quốc. -Nhà máy xi măng Hoàng Mai đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Dự kiến năm 2001 hàng tháng có từ 500-600 tấn hàng vào phía Nam và trên 600 tấn hàng ra.Đáp ứng nhu cầu hàng hoá vận chuyển sau đầu tư. 3. Kế hoạch sản xuất năm 2001. -Căn cứ vào định hướng phát triển của công ty từ năm 2000 đến năm 2005 -Căn cứ vào năng lực phương tiện vận tải, lao động hiện có và và dự kiến đầu tư phương tiện trong năm. -Căn cứ vào yêu cầu vận chuyển và dự kiến khả năng khai thác của công ty. -Trên tinh thần củng cố phát huy nội lực và phát triển của doanh nghiệp. công ty VTOT số 3 dự kiến xây dựng một số chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2001 như sau : a. Lao động: Số lao động đầu năm 451 Tăng trong kỳ 47 Giảm trong kỳ 50 Lao động bình quân trong năm 448 Trong đó :+ sản xuất vận tải 271 -Lái xe 150 -Thợ sửa chữa 86 -Gián tiếp 35 +Kinh doanh thương mại + dịch vụ 108 +Lao động chờ giải quyết 69 b. Phương tiện vận tải. -Tổng số phương tiện vận tải dự kiến :135 xe -Phương tiện tham gia kế hoạch bình quân :130 xe Trong đó : Thứ tự Mác xe Tổng số xe Trọng tải (tấn) Tổng trọng tải(tấn) 1 Kamaz 7 9 756 2 Hino 3 7 252 3 Chenglong 10 6 720 4 IFA-W50 50 5 3000 5 ZIL-130 51 6 3672 6 Hyundai 7 11 624 7 HyundaiDK 2 27 648 8 Tổng số 130 9972 c. Hàng hoá. -Theo xác báo của chủ hàng và khả năng khai thác hàng hoá trên tuyến Tây Bắc trong năm 2001 khoảng 15000 tấn. Trong đó:+ Vận chuyển cho Sơn La :7000 tấn. +Vận chuyển cho Lai Châu :8000 tấn. -Vì vậy năm 2001 công ty tập trung khai thác hàng hoá trên tuyến Tây Bắc và mở rộng khai thác hàng hoá khu vực đồng bằng nhằm đáp ứng từ 70% đến 80% tổng khối lượng hàng hoá vận chuyển. d. Kế hoạch đầu tư. Năm 2001 công ty dự kiến mua phương tiện vận tải để từng bước củng cố sản xuất kinh doanh vận tải. Dự kiến đầu tư phương tiện vận tải loại mác xe Hyundai trọng tải 11tấn giá 350.000.000 đồng /xe. Số xe mua 2 chiếc, tổng đầu tư là 700.000.000 đồng. Từ những căn cứ và dự kiến trên, công ty xác định kế hoạch sản xuất kinh doanh vận tải năm 2001 như sau : Sản lượng Đơn vị tính +Tấn hàng vận chuyển Tấn 102249 +Tấn hàng luân chuyển TKm 23678715 Tuyến Tây Bắc +Sơn La Tấn 7000 +Lai Châu Tấn 8000 Tổng doanh thu Triệu đồng 13639 Tổng chi phí Triệu đồng 13519 Thuế giá trị gia tăng +Thuế GTGT đầu ra Đồng 562500000 +Thuế GTGT đầu vào Đồng 337500000 Lợi nhuận Triệu đồng 100 Kế hoạch dịch vụ: (Dịch vụ vật tư xăng dầu +sửa chữa +bến bãi...). -Doanh thu : 35984 triệu đồng. -Tổng chi phí : 35844 triệu đồng. -Nộp ngân sách : 575 triệu đồng. -Lợi nhuận : 100 triệu đồng. Tổng hợp kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2001 Sản lượng Đơn vị tính +Tấn hàng vận chuyển 102249 Tấn +Tấn hàng luân chuyển 23678715 TKm Tổng doanh thu 49623 Triêu đồng +Vận tải 13639 Triệu đồng +Kinh doanh dịch vụ khác 35984 Triệu đồng Tổng nộp ngân sách 800 Triệu đồng +Vận tải 225 Triệu đồng +Kinh doanh dịch vụ khác 575 Triệu đồng Tổng thu nhập doanh nghiệp 360 Triệu đồng +Vận tải 100 Triệu đồng +Kinh doanh dịch vụ khác 100 Triệu đồng 4. Phương hướng thực hiện kế hoạch năm 2001. -Về vận tải: Công ty tập trung hoàn thiện cơ chế khoán, mở rộng và chuyển hướng thị trường, giải quyết thủ tục về luồng, tuyến. -Về tổ chức hành chính: Cải tổ mạnh mẽ cơ chế hành chính và giải quyết số lao động dư thừa. -Về cổ phần hoá: Công ty tiếp tục đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá. C. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty vận tải ô tô số 3 trong thời gian tới. Những biện pháp đề xuất được căn cứ vào kết quả phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của công ty trong thời gian qua, những ưu điểm, tồn tại vướng mắc, các thuận lợi và những bài học kinh nghiệm. Bên cạnh đó còn được dựavào triển vọng phát triển của ngành vận tải ô tô cùng với những chính sách của Nhà nước đối với ngành vận tải ô tô quốc doanh và mục tiêu định hướng của công ty đến năm 2005. Biện pháp 1: Về quản trị nhân sự trong công ty. - Tuyển mộ: Công ty hiện nay đang đứng trước một sự dư thừa về lao động trong đó có lao động gián tiếp. Vì thế công ty không có ý định tuyển thêm nhân viên. Quan điểm này có nguy cơ dẫn công ty đến phiến diện nguy hiểm, cản trở sự đổi mới vươn lên. Bởi vì quan niệm như vậy còn quá chung chung, cần cụ thể hơn là thừa ở đâu và thiếu ở vị trí nào, so với tiêu chuẩn gì. Trước hết nếu so với phương pháp làm việc quen thuộc hiện tại thì dư thừa lao động khi có tình trạng là một công việc đang được chia sẽ cho quá nhiều người mà làm lợi ích tăng thêm không đủ bù đắp chi phí số người tăng thêm đó. Ngược lại tình trạng thiếu lao động xảy ra khi khối lượng công việc vượt quá số nhân lực hiện có làm cho công việc không hoàn thành đúng về thời gian và chất lượng. Về mặt này công ty khẳng định thừa lao động gián tiếp là hoàn toàn đúng. Nhưng nếu so với yêu cầu cần phải có bộ phận marketing trong cơ cấu tổ chức, so với phương pháp lập kế hoạch mới, phương pháp quản trị nhân lực mới thì thực tế công ty đang thiếu những nhân lực được trang bị hệ thống kiến thức hiện đại, năng nổ, sáng tạo ở phòng kế hoạch, phòng tổ chức-lao động, thậm chí cần có một người chủ xướng sự đổi mới sâu rộng trong đội ngũ cán bộ khung của công ty. Như vậy sự thừa và thiếu cùng song song tồn tại, do vậy nếu chỉ căn cứ vào sự dư thừa dễ nhận thấy mà vội vã đi đến quyết định không tuyển thêm người thì rõ ràng đã rơi vào sự phiến diện một chiều là giảm biên chế. Trong khi không biết hoặc không muốn biết việc thiếu nhân lực có kiến thức đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế thị trường. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề là công ty chưa thực sự nhận thức được yêu cầu của đổi mới cập nhật phương pháp quản trị, và sau đó là không có bảng phân tích công việc. Để giải quyết vấn đề vừa thừa vừa thiếu lao động công ty cần thực hiện : +Xây dựng bảng phân tích công việc của từng phòng ban. +Giảm biên chế theo định biên có xem xét đến việc giữ lại và đào tạo một số lao động có năng lực. +Trước hết lựa chọn người có kiến thức, có sức trẻ ở các phòng ban đi đào tạo lại. Sau đó căn cứ vào bảng phân tích công việc, cơ cấu tổ chức mới để xem xét từng vị trí làm việc cụ thể để quyết định: vị trí nào đòi hỏi nhân tố mới hoàn toàn, thiên về kiến thức và sự năng động sáng tạo (ví dụ marketing). Chủ đề quan trọng cần đề cập trong tuyển mộ là xây dựng tiêu chuẩn tuyển mộ của ứng viên dựa vào bảng phân tích công việc. Do công ty chưa xây dựng bảng phân tích công việc nên đặt ra các tiêu chuẩn nhiều khi không có căn cứ. Trong phiếu điểm tuyến của công ty có những mục sau: Phiếu điểm tuyển Môn thi Hệ số Điểm Nhận xét -Kinh tế vận tải - - - -Kỹ thuật - - - -Kế toán-tài chính - - - -Vi tính - - - -Ngoại ngữ - - - -Dự thảo công văn - - - -Chuyên môn khác - - - Tiêu chuẩn đầu tiên và cao nhất là kinh tế vận tải nên hầu như chỉ có sinh viên đại học GTVT đáp ứng được. Xã hội ngày nay có sự chuyên môn hoá mạnh, những vị trí nào sẽ đòi hỏi con người có đầy đủ kiến thức và khả năng tương ứng. Trong kinh doanh lao động quản trị được chia thành ba cấp: cơ sở (đốc công, đội trưởng ), trung gian (trưởng phòng ban ), cao cấp (giám đốc, phó giám đốc). Nếu như ở cấp cơ sở kiến thức kỹ thuật được coi trọng hàng đầu sau đó mới đến kỹ năng tổ chức và quan hệ bên ngoài thì càng lên cao kiến thức kỹ thuật đòi hỏi ít đi và chủ yếu là kiến thức kỹ năng tổ chức và quan hệ bên ngoài. ở cấp cao nhất theo tính toán yếu tố kỹ thuật chỉ chiếm 20% kiến thức và tập trung lớn nhất vào quan hệ đối ngoại sau đó đến tổ chức. Vì vậy thứ nhất, tiêu chuẩn rất cần thiết nhưng mức độ đòi hỏi cho từng vị trí làm việc khác nhau là khác nhau do đó cần linh hoạt ; Thứ hai một cá nhân có biểu hiện tốt ở vị trí làm việc nhưng không hẳn cũng làm tốt ở vị trí cao hơn với đòi hỏi mới về kiến thức kỹ năng cần có cho vị trí mới, vì vậy cá nhân đó cũng cần được đào tạo chuẩn bị trước khi đề bạt. Tiêu chuẩn vi tính và ngoại ngữ nhìn qua quả rất cần thiết cho nhân viên nhưng trên thực tế vi tính chỉ được sử dụng như máy đánh chữ, còn ngoại ngữ tỏ ra xa vời hơn bởi vì khách hàng của công ty đều ở trong nước. Các vị trí hiện tại không đòi hỏi trình độ vi tính và ngoại ngữ vì không có điều kiện sử dụng. Hoàn toàn không sai nếu công ty muốn phát triển kinh doanh và cần những nhân viên như vậy nhưng thực tế việc đưa ra tiêu chuẩn này không căn cứ vào chiến lược phát triển của công ty vì vậy nó không phù hợp và không có tính thực tế. Trước yêu cầu của việc mở rộng sản xuấ, đa dạng hoá sản phẩm cần phải tuyển thêm nột vị trí nào đó, căn cứ vào bảng phân tích công việc để xác định tiêu chuẩn ứng viên và các trang bị cần thiết cho nhân lực mới đảm bảo hoàn thành công việc : phòng làm việc, bàn làm việc và các trang bị khác...Ví dụ căn cứ vào chiến lược thấy rằng cần thành lập bộ phận marketing với các chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc đã được xác định, phòng Tổ chức-lao động chính thức đưa ra các tiêu chuẩn lựa chọn ứng viên và thực hiện các quy trình tuyển chonj cụ thể. Tuy nhiên nếu cứ đào tạo, tuyển mộ nhân lực mà không có sự phát triển tương ứng về phương diện làm việc, về điều kiện khách quan của thị trường, khách hàng để áp dụng những kỹ năng đã được đào tạo thì sẽ làm thui chột trình độ nhân viên và việc đào tạo không có hiệu quả và ý nghĩa. Vậy biện pháp cho vấn đề này vẫn là: +Xây dựng bảng phân tích công việc +Cần thiết phải có một quản trị nhân lực được trang bị tốt về kiến thức và kinh nghiệm để đảm trách việc xây dựng chương trình phát triển nhân lực. Người này nên là người mới tuyển mộ. +Phải giải quyết dứt điểm số cán bộ sắp đến tuổi nghỉ hưu , thiếu năng lực trong công tác, không có việc làm, tạo điều kiện để thuyên chuyển, đào tạo lại, hỗ trợ thêm về tài chính cho lao động tình nguyện nghỉ hưu trước tuổi. Khi thực hiện được vấn đề tuyển dụng lao động mới có năng lực thích hợp với yêu cầu mới cũng như việc giảm số lao động dư thừa do không có những kiến thức kỹ năng cần thiết, công ty sẽ tạo ra cho mình một đội ngũ nhân viên có sức trẻ, năng động, nhanh chóng tiếp thu và dễ dàng thích nghi những kiến thức, kỹ năng mới trong điều kiện cạnh tranh găy gắt như hiện nay, chấp nhận cạnh tranh, có năng lực đủ sức đáp ứng được công việc một cách tốt nhất, với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24234.DOC
Tài liệu liên quan