Đề tài Những vấn đề kinh tế chủ yếu để phát triển nông nghiệp Đông Mỹ – Thanh Trì - Hà Nội theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch

Tài liệu Đề tài Những vấn đề kinh tế chủ yếu để phát triển nông nghiệp Đông Mỹ – Thanh Trì - Hà Nội theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch: Lời nói đầu. 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hiện nay, trong hoạt động kinh tế- xã hội ở hầu hết các quốc gia đều coi trọng việc xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội thông qua các dự án cụ thể nhằm đầu tư phát triển nền kinh tế. Việt Nam đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục đạt ở mức cao và ổn định. Bình quân hàng năm thời kì 1991-1997 GDP tăng 8,2%. Hai năm 1998, 1999 do ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, tốc độ tăng trưởng của nước ta tuy có chậm lại (1998: 5,8%, 1999: 4,8%) xong vẫn thuộc loại cao so với khu vực. Nhờ đó qui mô kinh tế Việt Nam không ngừng lớn mạnh. So với năm 1990, năm 1997 qui mô kinh tế nước ta gấp 1,76 lần và năm 1998 gấp 1,8 lần. Kinh tế phát triển đã tạo ra những tiền đề hết sức cơ bản cho việc giải quyết các vấn đề xã hội đặc biệt là từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất...

doc75 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1114 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những vấn đề kinh tế chủ yếu để phát triển nông nghiệp Đông Mỹ – Thanh Trì - Hà Nội theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu. 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hiện nay, trong hoạt động kinh tế- xã hội ở hầu hết các quốc gia đều coi trọng việc xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội thông qua các dự án cụ thể nhằm đầu tư phát triển nền kinh tế. Việt Nam đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục đạt ở mức cao và ổn định. Bình quân hàng năm thời kì 1991-1997 GDP tăng 8,2%. Hai năm 1998, 1999 do ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, tốc độ tăng trưởng của nước ta tuy có chậm lại (1998: 5,8%, 1999: 4,8%) xong vẫn thuộc loại cao so với khu vực. Nhờ đó qui mô kinh tế Việt Nam không ngừng lớn mạnh. So với năm 1990, năm 1997 qui mô kinh tế nước ta gấp 1,76 lần và năm 1998 gấp 1,8 lần. Kinh tế phát triển đã tạo ra những tiền đề hết sức cơ bản cho việc giải quyết các vấn đề xã hội đặc biệt là từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào về xây dựng phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân thì vấn đề môi trường- yếu tố cực kì quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước lại chưa được sự quan tâm thích đáng. Hà Nội là trung tâm, là thủ đô của cả nước nên quá trình đô thị hoá diễn ra rất mạnh, rất nhanh chóng. Nhận thức được những tác động tiêu cực của đô thị hoá ảnh hưởng, tác động đến môi trường sinh thái ở khu vực nông nghiệp nông thôn ven đô (ngoại thành ), thành phố Hà Nội đã có chủ trương xây dựng và triển khai các dự án nhằm bảo về và phát triển bền vững môi trường sinh thái nông nghiệp, nông thôn trong các khu vực này. Như hiện nay, có rất nhiều các dự án phát triển và bảo vệ môi trường sinh thái nông nghiệp, nông thôn ở khu vực ngoại thành đang được triển khai thực hiện, đặc biệt là trong các dự án được triển khai thực hiện thành phố và các cấp chính quyền rất coi trọng vấn đề phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch, cụ thể một số dự án đang được triể khai theo hướng kết hợp trên như ở: Đông Mỹ - Thanh Trì, Phú Diễn - Từ Liêm, Minh Phú - Sóc Sơn, Phù Đổng – Gia Lâm... Tuy thời gian triển khai, thực hiện các dự án trên mới được một vài năm gần đây (từ năm 2001 ), nhưng việc tổng kết đánh giá kịp thời đúng thực trạng những kết quả đạt được của sự kết hợp, đồng thời làm rõ những tồn tại, nguyên nhân của nó trong quá trình thực hiện nhằm phát huy tối đa các ưu điểm và thành quả đã có, rút kinh nghiệm khắc phục các hạn chế, hoàn thiện, bổ sung các giải pháp nâng cao hiệu quả của sự kết hợp nông nghiệp với du lịch trong dự án là cần thiết và cấp bách. Do vậy em xin chọn đề tài: “Những vấn đề kinh tế chủ yếu để phát triển nông nghiệp Đông Mỹ – Thanh Trì - Hà Nội theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu. - Đánh giá tổng quát tình hình thực hiện dự án, kết quả thực hiện dự án dưới góc độ kinh tế về phát triển nông nghiệp tại Đông Mỹ- Thanh Trì theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch, rút được ra những mặt mạnh và mặt yếu, thiếu xót trong quá trình thực hiện. - Đề suất các giải pháp kinh tế - kĩ thuật, một số chỉ tiêu kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả của dự án. 3. Phạm vi nghiên cứu. - Về không gian chuyên đề nghiên cứu các vấn đề chính của dự án đang diễn ra trên toàn xã Đông Mỹ- Thanh Trì- Hà Nội. - Về thời gian: nghiên cứu toàn bộ quá trình triển khai dự án giai đoạn 1 và các bước chuẩn bị cho dự án từ năm 2001 - 2005. 4. Kết cấu chuyên đề. Ngoài lời mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề có kết cấu chính gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Đông Mỹ - Thanh Trì theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch. Chương 3: Quan điểm, phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm phát triển nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch. 1.1. Sự cần thiết phải kết hợp giữa nông nghiệp với các ngành kinh tế quốc dân. 1.1.1. Các xu hướng phát triển của nông nghiệp hiện đại. Sang thế kỉ XXI nền nông nghiệp thế giới nói chung, cần tiết kiệm để nâng cao hiệu quả trong sử dụng năng lượng, cho đến nay năng lượng sử dụng trong nông nghiệp thế giới còn rất khiêm tốn. Theo tài liệu của FAO năm 1972- 1973 nông nghiệp toàn thế giới mới sử dụng 3,5% tổng năng lượng hoá thạch, giai đoạn 1985- 1986 tăng nên 4,1% và đến năm 2001 nông nghiệp thế giới sử dụng khoảng 5,3% tổng năng lượng hoá thạch hàng hoá của thế giới. Sự phân bố sử dụng năng lượng hoá thạch cũng không đều: một lao đông nông nghiệp ở các nước phát triển sử dụng năng lượng nhiều gấp 30 lần 1 lao độmg nông nghiệp ở các nước đang phát triển; về vật tư kĩ thuật nông nghiệp, các nước phát triển sử dụng 60% tổng số phân hoá học, trên 50% tổng số thuốc trừ sâu, trừ cỏ, 75% tổng số máy kéo 70% tổng sổ thức ăn gia xúc của thế giới. Sang thế kỉ XXI, nông nghiệp thế giới có thể phải sử dụng năng lượng nhiều hơn thế kỉ XX để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp. Nhưng để sử dụng năng lượng trong nông nghiệp có hiệu quả phải điều chỉnh hợp lí giữa các khu vực: theo hướng giảm năng lượng và vật tư kĩ thuật ở các nước phát triển, tăng ở các nước đang phát triển. Năm 1979 tổng giấm đốc FAO đã nêu ý kiến: “ các nước nghèo phải được sử dụng thêm phân khoáng và hoá chất trừ sâu bệnh nhưng không nên sao chép phương pháp đang dùng ở các nước giàu”. nếu hạn chế sử dụng năng lượng trong nông nghiệp thì ở những nước đang phát triển sản xuất lương thực sẽ giảm sút dẫn đến thiếu đói. Vì vậy mô hình nông nghiệp của các nước phát triển sẽ điều chỉnh theo hướng giảm chi phí năng lượng, giảm nội dung, mức độ công nghiệp hoá để tăng hiệu suất sử dụng năng lượng và hạn chế ô nhiễm môi trường, mô hình nông nghiệp của các nước đang phát triển sẽ điều chỉnh theo hướng tăng chi phí năng lượng hợp lí, không dập theo khuôn mẫu của các nước công nghiệp phát triển trước đây nhằm đảm bảo hiệu suất sử dụng năng lượng khá và chống gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác như chúng ta biết con người là thành viên quan trọng bậc nhất của tất cả các hệ sinh thái, hệ sinh thái nông nghiệp, của tất cả các nền sản xuất nông nghiệp, con người luôn giữ vai trò chủ động. Với chí tuệ của mình con người có thể lựa chọn con đường duy nhất đúng, phù hợp với lợi ích của mình; có thể điều khiển các hệ sinh thái theo hướng có lợi nhất. Trong sản xuất nông nghiệp, con người không chỉ giới hạn mục tiêu của mình trong việc tạo ra các sản phẩm có ích cho mình trong giai đoạn trước mắt mà còn phải nghĩ đến lợi ích của nhiều thế hệ mai sau. Tối ưu hoá sản xuất nông nghiệp là một yêu cầu cơ bản của nền nông nghiệp tiên tiến. Tối ưu hoá là chọn một phương thức sản xuất hợp lí, tốt nhất trong từng điều kiện cụ thể. Trong sản xuất nông nghiệp cũng vậy cần tối ưu hoá các nôi dung cơ bản sau: - Thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người về sản phẩm nông nghiệp, nghĩa là phải đạt năng xuất cây trồng và vật nuôi cao, sản lượng nông nghiệp cao, phẩm chất nông sản phải tương ứng với mức đầu tư vật chất đạt hiệu quả kinh tế cao. - Thoả mãn nhu cầu hiện tại nhưng không làm phương hại đến nhu cầu của các thế hệ tương lai. - Thảo mãn nhu cầu hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến các nhu cầu khác của con người. Con người là một bộ phận tích cực của thiên nhiên và mãi mãi hoà nhập với thiên nhiên, đứng trên các quan điểm này thì việc có một nền nông nghiệp sinh thái bền vững mới kết hợp hài hoà giữa những cái tích cực, những cái đúng đắn, những cái hợp lí của nền nông nghiệp công nghiệp hoá và sinh học nông nghiệp. Ngoài những yêu cầu, đòi hỏi trên thì vấn đề ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường nói riêng hiện nay đang ở mức báo động đỏ. Vấn đề ô nhiễm không khí, tiếng ồn, đất đai, nguồn nước, đa dạng sinh học... có liên quan trực tiếp đến môi trường sản xuất nông nghiệp. Tóm lại trước những yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển theo qui luật tiến hoá của con người, của một nền nông nghiệp hiện đại và của những yêu cầu của hiện tại, con người cần tiến tới phát triển một nền nông nghiệp sao cho có thể kết hợp tổng hoà giữa tự nhiên và con người, nhằm khai thác tối đa những lợi thế của từg vùng, từng khu vực. Vì vậy, đòi hỏi hay sự cần thiết cần có một mô hình sản xuất nông nghiệp hợp lí là rất cần thiết. Trong một vài thập kỷ gần đây sự thay đổi các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thế giới diễn ra rất phức tạp, trong nó chứa đựng nhiều yếu tố thuận lợi, đồng thời cũng có nhiều khó khăn thách thức đối với việc phát triển nông nghiệp nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung. Đó là do quá trình công nghiệp hoá và thị trường hoá, nông nghiệp các nước đang chuyển dần từ chế độ thâm canh truyền thống lên thâm canh hiện đại. Mặt khác, với áp lực về dân số tăng quá nhanh 2-3%/năm, với động lực lợi nhuận trong cơ chế thị trường, nhất là động lực lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản, nông nghiệp đã phát triển theo kiểu khai thác tước đoạt thiên nhiên dẫn tới những hiện tượng phổ biến: nông nghiệp "hầm mỏ" bóc lột đất, tốc độ phá rừng lấy đất trồng trọt vượt quá tốc độ tái sinh của nó. Việc áp dụng cơ giới hoá, hoá học hoá và thuỷ lợi hoá chưa lấy công nghệ sinh học và cải thiện tầng thổ nhỡng làm trung tâm. Những hành động khai thác mang tính tước đoạt thiên nhiên trong nông nghiệp cùng tới quy mô và tốc độ khai thác tài nguyên quá lớn, quá nhanh, và lượng chất thải quá nhiều trong công nghiệp hoá đang làm cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng. Trước những thực tế đó, con người đã nhận thức ra được vấn đề này rất sớm. Năm 1972 hội nghị liên hợp quốc về môi trường ở Stockhom đã và tuyên bố kêu gọi:” bảo vệ và cải thiện môi trường của con người là một vấn đề lớn có ảnh hưởng tới phúc lợi của con người và phát triển kinh tế toàn thế giới”. đó là khát khao khẩn cấp của các dân tộc trên thế giới và là nhiệm vụ của mỗi chính phủ. 20 năm sau hội nghị Rio 1992 ở Braxin đã ra tuyên bố mang tính đòi hỏi thông qua “ chương trình hành động Agenda 21” đối với mỗi quốc gia và chính phủ. Với tuyên bố Rio 1992 và chương trình hành động 21 đánh giấu việc phát triển kinh tế bền vững nhằm nhu cầu lợi ích không chỉ cho thế hệ ngày nay mà cho cả thế hệ mai sau phát triển kinh tế đi liền với bảo tồn môi trường sinh thái, phát triển hiệu quả đi đôi với việc thực hiện công bằng xẫ hội, xoá đói giảm nghèo. Riêng trong nền nông nghiệp thì đó là phát triển nền nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái bền vững trên cơ sở thu hút lôi cuốn nông dân thực hiện và tham gia tổ chức, quản lí việc thực hiên. Thực tế đây là một mô hình nông nghiệp không loại trừ phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, mà sử dụng chúng một cách hợp lí hơn có hiệu qủa hơn, tránh ô nhiễm môi trường, đồng thời tăng sử dụng các loại phân bón hữu cơ, phân bón vi sinh, cũng như các chế phẩm vi sinh vật và đưa các loại giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất cao đã tạo được đưa vào sản xuất đại trà, để nhằm bảo vệ chính môi trường sản xuất nông nghiệp, cũng như bảo vệ môi trường sống nói chung. Hay chính là việc người ta chú trọng tới mối quan hệ hài hoà giữa sinh vật và môi trường. Mặt khác ở các quốc gia trên thế giới hiện nay, qúa lạm dụng việc sử dụng phân bón hoá học, thuốc phòng trừ sâu bệnh hoá học và các chất kích thích hoá học trong sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi, mà không quan tâm đến tác hại của việc quá lạm dụng nó. Mặc dù, việc sử dụng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu bệnh là chìa khoá của sự thành công trong cách mạng xanh và đảm bảo nhu cầu lương thực. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh trong thời gian qua do con người không quan tâm tới việc sử dụng các sản phẩm hoá học vào sản xuất nông nghiệp làm cho có rất nhiều vấn đề về môi trường trong sản xuất nông nghiệp nảy sinh, như: - Gây độc hại cho môi trường nước, môi trường đất bởi thuốc trừ sâu và nitrat (NO3-) và do đó, tác động xấu đến sức khoẻ còn người, các động vật hoang dã và làm suy thoái các hệ sinh thái. - Gây độc hại cho lương thực, thực phẩm, thức ăn cho gia súc bởi dư lượng thuốc trừ sâu, hàm lượng nitrat và các chất kích thích sinh trưởng vượt qua mức cho phép. - Gây tổn hại cho các nông trại và các nguồn tài nguyên thiên nhiên do thuốc trừ sâu, ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động, tới cộng đồng. - Gây độc hạI cho bầu khí quyển bởi khí amôniac (NH3); nitơ ôxit; mêtan và nhiều chất khác sinh ra từ quá trình đốt, làm suy giảm tầng ôzôn, làm TráI đất nóng lên và gây ô nhiễm bầu khí quyển. - Sử dụng quá mức các tài nguyên thiên nhiên gây suy thoáI nước ngầm, mất dần các loài động vật và các nguồn năng lượng ntự nhiên, làm mất khả năng hấp thụ phế thảI của chúng, dẫn đến lụt lội và mặn hoá. Có thể chỉ ra những vấn đề nảy sinh trong ô nhiễm do hoạt động sản xuất nông nghiệp như trong bảng sau: Chất gây độc Hoặc chất gây ô nhiễm Hậu quả Gây độc hại cho nguồn nước - Thuốc trừ sâu - Gây độc hại cho nước mưa, nước bề mặt và nước ngầm, gây độc co động vật hoang dạI và vượt ngưỡng chuẩn đối với nước uống. - Nitrat - Nitrat, phôtphat - Phế thải hữu cơ nguồn gốc động vật. - Nước thảI từ quá trình thức ăn động vật. - Chế biến phế thải từ các đồn điền (cao su, dầu dừa,…) - Hội chứng trẻ xanh ở trẻ em và có thể gây ung thư. - Sinh trưởng tảo và phú dưỡng gây ra mùi hôI thối, tắc bgẽn nước mặt, cá chết, phá huỷ bãI san hô, phát triển kém do các độc tố của tảo. - Sinh trưởng của tảo, cộng với việc khử ôxy của nước và làm cho cá chết. - Khử ôxy của nước và cá chết, mùi khó chịu. - Khử ôxy của nước và cá chết, mùi khó chịu. Gây độc hại thức ăn cho người và gia súc - Thuốc trừ sâu - Nitrat - Tồn dư thuốc trừ sâu trong thức ăn. - Gia tăng nitrat trong thức ăn, bệnh hội chứng trẻ xanh ở động vật. Gây độc hại cho môi trường tự nhiên và nông trạI - Thuốc trừ sâu. - Nitrat - Amôniac sinh ra từ phân động vật và ruộng lúa. - Kim loại từ phế thải động vật. - Mầm bệnh từ phế thải động vật. - Độc hại cho người, mùi khó chịu. - Độc hại cho người và động vật. - Hạn chế sự phát triển của quần xã thực vật, có thể có vai trò làm chết cây. - Làm tăng hàm lượng kim loại nặng trong đất. - Độc hại cho sức khoẻ của người và động vật. Gây hại cho khí quyển - Amôniac sinh ra từ phân động vật và ruộng lúa. - Nitơ ôxit từ phân bón hoá học. - Mêtan từ động vật và ruộng lúa. - Sản phẩm đốt sinh khối (rơm, rạ,…). Mùi: đóng vai trò trong việc tạo ra mưa axit. - Đóng vai trò làm suy thoáI tầng ôzôn và sự nóng lên của khí hậu toàn cầu. - Đóng vai trò làm khí hậu toàn cầu nóng lên. - Làm tăng ô nhiễm ôzôn cục bộ của tầng đối lưu, tạo mưa axit. Suy thoái tầng ôzôn và làm khí hậu toàn cầu nóng lên, mùi khó chịu. Tóm lại, trước những nảy sinh các tác động của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền nông nghiệp và việc quá lạm dụng các chế phẩm hoá học trong sản xuất nông nghiệp đã làm cho môi trườn sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng, nó đe doạ tới sức khoẻ của con người. Trước thực tế này các nước đã tự tìm hướng phát triển cho mình, để phát triển đất nước, cung như phát triển nông nghiệp một cách toàn diện tránh các tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững trong tương lai. Do vậy, nông nghiệp của các nước hiện nay đang chuyển theo hướng nông nghiệp sinh thái bền vững, nông nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao (sản phẩm sạch) và nông nghiệp kết hợp với sự phát triển bền vững của môi trường. 1.1.2. Sự cần thiết kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch. Trong xu thế phát triển của nông nghiệp thế giới như hiện nay, hoạt động sản xuất nông nghiệp không còn chỉ giới hạn trong việc tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư sinh sống trong khu vực nông nghiệp, nông thôn nữa mà trở thành phương thức tồn tại của toàn xã hội. Chính vì vậy, có một nền nông nghiệp thật sự vững mạnh đã và đang trở thành vấn đề quan tâm của nhiều quốc gia. Bên cạnh quá trình phát triển của nền nông nghiệp thế giới thì các ngành kinh tế khác cũng phát triển không ngừng, đã tác động qua lại với ngành nông nghiệp làm xuất hiện nhiều mô hình nông nghiệp ngoài vai trò chính là cung cấp các nhu cầu lương thực, thực phẩm cho dân cư, thì cũng xuất hiện một số vai trò mới mà sự cần thiết của nó với đời sống dân cư cũng không phải là không quan trọng, đó là nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm có chất lượng cao, nhu cầu tiêu dùng các dịch vụ du lịch, vui chơi, giải trí và hưởng thụ bầu không khí trong lành ở khu vực nông nghiệp, nông thôn mà điều này chỉ có được do đặc điểm của khu vực nông nghiệp, nông thôn mang lại mà cũng chỉ có nó mới có thể đáp ứng được. Do hiện nay quá trình đô thị hoá ngày càng mở rộng, khu vực dân cư đô thị có thu nhập ngày càng tăng, đời sống ngày càng cao, mặt khác dưới sức ép của tính chất công việc căng thẳng nên thường xuất hiện nhu cầu nghỉ ngơi cuối tuần tận hưởng không khí trong lành của thiên nhiên. Chính những đòi hỏi này đã thúc đẩy phải phát triển và xuất hiện một sự kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch. Sự kết hợp này là một điều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn, nó phù hợp với xu hướng phát triển chung của quy luật phát triển (có cầu đ cung), đó là trước những nhu cầu của xã hội ngày càng tăng về các dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí bởi thu nhập cũng như mức sống của người dân ngày càng được cải thiện và càng tăng cao. Có thể nói sự kết hợp giữa ngành nông nghiệp với ngành du lịch là một sự kết hợp đúng đắn nếu như sự kết hợp này tuân thủ các mối quan hệ kinh tế – xã hội nhưng đồng thời cũng phải tuân thủ các mối quan hệ với các điều kiện tự nhiên. Khi đó nó sẽ không ngừng thúc đẩy nhau phát triển Mặt khác, khi mà tất cả các ngành kinh tế đều không ngừng phát triển và mở rộng với tốc độ cao thì sự phát triển đó đã thúc đẩy nhau cùng phát triển là một điều tất yếu. Nông nghiệp sẽ phát triển bền vững hơn bằng việc có thêm các nguồn thu nhập do các hoạt động dịch vụ du lịch mang lại, cơ hội tái đầu tư mở rộng sản xuất nông nghiệp bằng các nguồn thu này sẽ tăng. Khi đó nông nghiệp có thể tận dụng tối đa các nguồn lực của mình trong qua trình sản xuất, bởi nông nghiệp khi đó ngoài việc có những nguồn thu bằng trực tiếp sản xuất thì có thể có thêm những nguồn thu khác do ngành du lịch đem lại. Nhưng cũng có thể thấy ngược lại nông nghiệp cũng mở ra cho ngành du lịch một cơ hội rất lớn để phát triển các dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng tăng như hiện nay. Bởi nông nghiệp bước sang thế kỷ XXI phát triển theo xu hướng nông nghiệp sinh thái bền vững, khi đó nông nghiệp sẽ có rất nhiều tiềm năng về du lịch sinh thái. Có thể thấy rằng sự kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch là một điều rất cần thiết cho việc phát triển một nền nông nghiệp sinh thái bền vững phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền nông nghiệp thế giới. Phù hợp với việc có thể tận dụng các tiềm năng rất lớn, tiềm ẩn của nông nghiệp vào trong ngành du lịch- dịch vụ. Mặt khác, nông nghiệp là một ngành có vai trò quan trọng đối với đời sống con người. Nó là ngành cung cấp nông sản phục vụ nhu cầu thiếy yếu của đời sống con người. đồng thời góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên , vai trò trên chỉ phát huy tác dụng khi nông nghiệp được phát triển theo hướng của nông nghiệp sinh thái bền vững không chi tạo ra một lượng nông sản phục vụ nhu cầu hiện tại mà nó còn hướng tới sự bảo vệ nguồn lực đáp ứng nhu cầu tăng lên của tương lai. Nó không chỉ khai thác nguồn lực mà còn bảo vệ và nâng cao chất lượng các nguồn lực. 1.1.3. Nội dung của sự kết hợp. Muốn có được một sự kết hợp tốt cần tuân thủ nguyên lý kinh tế nông nghiệp đó là: sự kết hợp phải dựa trên cơ sở chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá các ngành sản xuất. Mà muốn có được điều này thì phải điều tra, đánh giá và xác định được tiềm năng và lợi thế so sánh của từng vùng. Vậy thực chất của việc kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch đã đòi hỏi và cho phép có một sự kết hợp nhất định trong việc bố trí và sử dụng các yếu tố trong hoạt động sản xuất của từng vùng và từng giai đoạn. Nhưng khi xem xét nội dung của việc phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững ta không chỉ dừng lại xem xét vấn đề ở góc độ tổ chức mà cần phải xem xét vấn đề ở các hoạt động quản trị kinh doanh. Những vấn đề trên cần đặt quá trình tổ chức sản xuất nông nghiệp trên từng vùng và nắm chắc các mối quan hệ ngành và yếu tố sản xuất trên phương diện tự nhiên và phương diện kinh tế kĩ thuật. Các ngành sản xuất nông nghiệp dù trong nền nông nghiệp cổ truyền hay hiện đại đều có 2 mối quan hệ mà không ai có thể phủ nhận nó là mối quan hệ với các điều kiện tự nhiên và mối quan hệ với các điều kiện kinh tế xã hội. Như đã biết đối tượng của sản xuất nông nghiệp là một cơ thể sống nếu xem xét trên phương diện mối quan hệ về các điều kiện tự nhiên, chúng ta phải phải biết được mối quan hệ giữa các đối tượng của sản xuất nông nghiệp sinh thái bền vững đó, tác động nên nhau như thế nào? tác động hạn chế, ngược nhau hay tác động hỗ trợ thúc đẩy phát triển mà có thể nói quyết định của các mối quan hệ ấy chính là tạo nên mối quan hệ giữa động vật và thực vật, tạo nên mối quan hệ ngành giữa trồng trọt và chăn nuôi. Nếu xét trên phương diện mối quan hệ về các diều kiện tự nhiên kinh tế xã hội thì chúng ta phải biết được mối quan hệ giữa tự nhiên với nhau trong chu trình tái sản xuất, tự nhiên đã chi phói các mối quan hệ về kinh tế. Bởi vì trong sản xuất nông nghiệp quá trình tái sản xuất tự nhiên luôn ăn khớp với quá trình tái sản xuất kinh tế. Mối quan hệ này cũng là mối quan hệ có sự chi phối lẫn nhau tức là có thể theo chiều hướng thúc đẩy hỗ trợ nhau nhưng cũng có thể theo chiều hướng đối nghịch nhau, kiềm chế lẫn nhau hay triêt tiêu nhau. Do đó khi xây dựng bất kể một mô hình nông nghiệp nào người ta phải đặt nó ở 2 phương diện, 2 góc độ tự nhiên và kinh tế xã hộ để xem xét các mối quan hệ. Cũng do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, thứ nhất là đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp: tươi sống, cồng kềnh... đã đặt ra yêu cầu có sự kết hơp chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản giữa khai thác các sản phẩm chính và tận dụng các phế phẩm để nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo vệ môi trường. Thứ 2 là đặc điểm địa bàn sản xuất cũng đặt ra đòi hỏi phải có hệ thống vận chuyển và bảo quản sản phẩm nong sản thật tốt, làm giảm tỉ lệ hao hụt do hỏng gây ảnh hưởng tới năng suất thu nhập và môi trường sản xuất tại chỗ... ngoài đặc điểm của sản xuất nông nghiệp thì đảm bảo cho việc kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch phát triẻn tốt nhất và đúng theo mục tiêu đề ra, cần tuân thủ đúng theo qyi hoạch để cho đảm bảo các mục tiêu sẽ được thực hiện đúng, đầy đủ, ngiêm túc. Khoa học công nghệ phải được áp dụng và đưa vào nhiều trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt là công nghệ sinh học và các khoa học kỹ thuật mới. Bởi vì, như hiện nay nông nghiệp có xu hướng phát triển theo hướng nông nghiệp sinh thái bền vững, đặc biệt là phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch. Cho nên, trước xu hướng đó đòi hỏi phải áp dụng kỹ thuật và khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp để có thể phù hợp với các yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại (nông nghiệp bền vững) phát triển theo hướng sản xuất các sản phẩm sạch, hàm lượng các hoá học trong các sản phẩm nông nghiệp ở mức không làm nguy hại và ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng cũng như chính những người tham gia trực tiếp vào sản xuất nông nghiệp, nhằm thu hút và hấp dẫn khách du lịch bởi cảnh quan của khu vực nông nghiệp, nông thôn hiện đại. Mặt khác, bằng việc phát triển các dịch vụ du lịch trong khu vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn sẽ góp phần làm tăng thu nhập cho người sản xuất nông nghiệp giúp người sản xuất nông nghiệp có thể bằng các nguồn thu này đưa vào tái đầu tư sản xuất theo hướng phát triển nông nghiệp hiện đại có sự quan tâm thoả đáng đến bảo vệ môi trường. 1.1.4. ý nghĩa của sự kết hợp. Trong tình hình phát triển của các nền nông nghiệp như hiện nay việc phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch có ý nghĩa quan trọng như một nhân tố không thể không công nhận nếu như muốn phát triển mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững, bởi vì nó là xu hướng tất yếu của xã hội, của một nền nông nghiệp hiện đại. Mặt khác, nếu như chúng ta xét ý nghĩa của việc phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch dưới các góc độ cụ thể về kinh tế và quản lý hay xã hội nó còn có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Cụ thể: - Dưới góc độ xã hội: nếu như phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch sẽ góp phần làm đảm bảo sự phát triển một nền sản xuất nông nghiệp không những vững mạnh mà còn phát triển một nền nông nghiệp bình đẳng, một nền nông nghiệp có tính văn hoá nhân văn cao hay một nền văn mà trong đó người lao động trong nông nghiệp có thể tự tăng thêm kiến thức, sự hiểu biết về văn hoá dân tộc, văn hoá của nhiều nơi khác. Ngoài ra trong nền nông nghiệp phát triển theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch sẽ tạo ra một môi trường sinh thái bền mà ở đó người lao động sẽ có thể tự hưởng thụ được những thành quả của mình dưới góc độ sinh thái du lịch. - Dưới góc độ kinh tế và quản lí: có thể nói cái đầu tiên mà người lao động có thể nhận thấy được đó là khả năng tăng cao mức sống, mức thu nhập của người lao động trong nông nghiệp, người lao động và người dân. Còn dưới tầm vĩ mô thì nếu như việc phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch mà thực hiện tốt thì cáI đầu tiên phảI nói tới đó là có một nền nông nghiệp với một môi trường sinh thái nông nghiệp rất bền vững, mặt khác khi đó việc sử dụng và khai thác các điều kiện thuận lợi cũng như khắc phụ những khó khăn sẽ tiến hành thuận lợi, bởi vì khi đó sự kết hợp giữa sự phát triển một nền nông nghiệp phát triển bền vững lâu dài với việc khai thác các ưu điểm của nền nông nghiệp bền vững đó phục vụ cho chính người tham ra hoạt động sản xuất nông nghiệp có thể tăng thêm nguồn thu thông qua khai thác lợi thế của mình. Khi đó khả năng táI đầu tư và phát triển sản xuất cũng được quan tâm kịp thời hơn và đúng mức hơn đảm bảo sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp hiện đại đó là nên nông nghiệp sinh thái bền vững. Tóm lại có thể thấy ý nghĩa của sự chon lựa khi phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch trong phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững là một điều hết sức có ý nghĩa dù dưới góc độ kinh tế quản lí hay dưới góc độ xã hội. 1.2. Kinh nghiệm kết hợp. 1.2.1. Kinh nghiệm của một số vùng trong cả nước: Việt nam là một nước đang phát triển trong khu vực đông Nam á có đặc điểm đất ít người đông. Năm 1995 Việt Nam có dân số 73,962 triệu người, trong đố dân số nông nghiệp là 58,342 triệu người chiém 79,5% tổng dân số cả nước. Mật độ dân số là 223 người/km2. cũng trong thời gian trên, diện tích đất canh tác ở Việt Nam là 6,985 triệu ha, bìng quân diện tích đất canh tác trên nhân khẩu là 1400m2, lao động nông nghiệp có 26,110 triệu người, chiếm 71% lao động toàn xã hội. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, thuận lợi đối với phát triển nông nghiẹp, nhưng lại thường có bão lụt gây thiệt hại cho môi trường. Nền nông nghiệp nước ta hiện là nền nông nghiệp hữu cơ với những giống cây trồng địa phương và phân bón chủ yếu là phân bón hữu cơ như phân xanh, phân chuồng, phân nước. Làm đất thì vẫn dùng các công cụ thô sơ lạc hậu. Chủ yếu là dựa vào chất đất, giàu chất dinh dưỡng mà có thể tiến hành thâm canh tăng năng suất cây trồng. Xu thế về phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững thực chất đã được nước ta chú ý từ rất lâu ngay từ nghị quyết đại hội VIII đã được Đảng đưa ra nhưng nó chỉ được khẳng định rõ ràng lại một lần nữa trong nghị quyết đại hội IX. Chính vì vậy, nền nông nghiệp sinh thái bền của nước ta một số năm gần đây tuy có phát triển nhưng phát triển còn chậm chưa đáp ứng yêu cầu của cân bằng sinh thái ở khu vực nông nghiệp, nông thôn đã bị mất cân bằng sinh thái và chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao thâm canh trong nông nghiệp. Vì suy cho cùng thì mọi hoạt động mang tính nhân bản của con người đều nhằm bồi dưỡng và hoàn thiện đời sống con người. Mục đích cuối cùng của sản xuất nông nghiệp cũng vậy, thật là sai lầm khi cho rằng sản xuất nông nghiệp có nhiệm vụ sản xuất lương thực, thực phẩm và các sản phẩm khác nhằm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người, bên cạnh đó nó cũng quan tâm bối dưỡng và bảo vệ môi trường sản xuất. Do hoạt động sản xuất nông nghiệp chính là hoạt động khai thác các tài nguyên thiên và một điều nữa phải thấy được đó là chúng ta hiện nay không chỉ sử dụng các tài nguyên của chúng ta mà chúng ta còn đang vay mượn tài nguyên của con cháu chúng ta nữa. ở nước ta, do có nền nông nghiệp lâu đời nên sự tồn tại về phương thức canh tác thâm canh cũ vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức người dân, mặt khác nước ta cũng vẫn còn rất nghèo. Làm cho trình độ canh tác ở một số địa phương còn lạc hậu, kéo dài như nạn phá rừng, đốt rẫy, làm nương, chăn nuôi gia súc thả rông nên năng suất cây trồng, vật nuôi tăng chậm. Mặt độ che phủ của thảm thực vật ở hầu hết các vùng sản xuất nông nghiệp trong cả nước hiện nay đang giảm xuống nghiêm trọng, do đó cái đầu tiên là không đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm cho người dân sinh sống, sau đó là các điều kiện môi trường sống của người dân. Những hệ thống canh tác truyền thống với các phương pháp canh tác của mình đã bộc lộ những hạn chế về mặt nông học và không cạnh tranh được về năng suất so với các phương pháp canh tác hiện đại được đầu tư nhiều. Như phương pháp canh tác truyền thống thì sử dụng các loại phân xanh, phân hữu cơ nhưng phương pháp canh tác hiện đại hiẹn nay lại quá lạm dụng trong việc sử dụng hoá chất, làm cho đất bị thái hoá. Vì vậy hiện nay cần phải có phương pháp canh tác để làm sao tận dụng được ưu điểm của phương pháp canh tác truyền thống và phương pháp canh tác hiện đại, đó là lấy tính đa dạng sinh học trong phương pháp truyền thống và tính quy trình trong phương pháp canh tác hiện đại. Nông nghiệp bền vững, nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái thực tế đã phần nào biết tận dụng được các ưu điểm trên của phương pháp canh tác truyền thống và hiện đại. Những khái niệm trên còn được phổ biến nhiều trong nước ta vài năm gần đây và trên thực tế không phải nước ta không có những kinh nghiệm và hiểu biết trong lĩnh vực này. Người nông dân nước ta đã từng thực hiện phương thức canh tác nhiều loài, luân canh và xen canh. Chẳng hạn như mô hình VAC là một kiểu hệ sinh thái bao gồm vườn cây, ao cá và chăn nuôi kết hợp chặt chẽ với nhau, vừa tăng cường hiệu quả kinh tế vừa góp phần bảo vệ môi trường, đã được nước ta sử dụng, triển khai từ rất lâu. Chúng đã đem lại những kết quả và hiệu quả lớn cho người sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên đối với nền nông nghiệp sinh thái bền vững vừa phải biết khai thác tối ưu đồng thời bảo vệ và phát triển tài nguyên sinh vật tại chỗ. Theo phương diện này thì nông nghiệp sinh thái cần những công nghệ cụ thể sau: - Xen canh: gieo trồng hai hoặc nhiều cây trồng cùng một lúc trên một mảnh đất. Lợi ích khi đó tăng lên do các cây trồng sẽ khai thác những nguồn khai thác khác nhau hoặc tác động tương hỗ một cách tự nhiên với nhau. Nếu một cây là cây họ đậu có thể cung cấp dinh dưỡng cho các cây khác. Các tác động tương hỗ có thể sử dụng để kiểm soát sâu hại và cỏ dại. - Luân canh: gieo trồng hai hoặc nhiều cây trồng luân phiên nhau trên cùng một mảnh đất. - Nông lâm kết hợp: là một dạng xen canh mà trong đó cây cối hàng năm được trồng xen theo không gian với cây trồng lâu năm hoặc cây bụi. Những cây này có bộ rễ ăn sâu xuống đất trong đất có thể dễ dàng thu hút nước và các chất dinh dưỡng mà cây bụi không thể hút được. Các cây cao cũng có thể cung cấp bóng mát và vật lực che phủ đất trong lúc cây họ lúa giảm thiểu cỏ dại và chống xói mòn. - Làm cỏ kết hợp: giống như nông lâm kết hợp, nhưng là sự phối hợp giữa cây dài ngày với đồng cỏ và các loài làm thức ăn gia súc khác mà trên đó động vật được chăn thả. Sự hỗn giao của chồi non, cỏ và các loại cây họ lúa sẽ hỗ trợ cho chăn nuôi gia súc tổng hợp. - Phân xanh gieo trồng các cây họ đậu và các cây trồng khác để cố định nitơ và sau đó vùi lấp vào trong đất cho cây trồng sau. Thường dùng là điền thanh, cốt khí,... - Làm đất bảo vệ: các hệ thống làm đất tối thiểu hoặc làm đất mà trong đó hạt giống trực tiếp vào đất với việc chuẩn bị canh tác rất ít hoặc không chuẩn bị. Điều này sẽ làm giảm lượng đất bị xáo trộn và giảm rửa trôi đất và dinh dưỡng. - Kiểm soát sinh học: việc sử dụng các thiên địch tự nhiên ký sinh để kiểm soát sâu bệnh. Nếu sâu bọ là kẻ ngoại lai thì những thiên địch có thể nhập khẩu từ những nước có nguồn gốc của sâu bệnh, nếu là bản địa, cần sử dụng những kỹ thuật khác nhau để tăng thêm các thiên địch tự nhiên hiện có. - Phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) là việc áp dụng quan điểm sinh thái vào việc phòng chống sâu bệnh hay cụ thể hơn là sử dụng tất cả những kỹ thuật hợp lý để kiểm soát sâu bệnh trong một phương thức tổng hợp cho phép vừa phòng ngừa vừa điều hoà các mối quan hệ. Công nghệ này hiện nay đang được rất chú ý quan tâm áp dụng, do khi đó sẽ coi đồng ruộng là một hệ sinh thái mà con người sẽ sử dụng một hệ thống các biện pháp để có thể dung hoà với nhau như sinh học, hoá học, canh tác và giống chống chịu sâu bệnh để ngăn ngừa sâu bệnh IPM không loại trừ hoàn toàn việc dùng thuốc hoá học, nhưng dùng một cách có chọn lọc để giảm độc đối với các nhân tố sinh học, các biện pháp này lại ít tốn kém, phù hợp với trình độ kinh tế, xã hội của các hệ sinh thái. Mục đích của IPM là hạn chế các sinh vật gây hại dưới ngưỡng kinh tế, nghĩa là chi phí các biện pháp phòng chống sâu bệnh gây hại cho cây trồng tối đa bằng thiệt hại do sâu bệnh gây nên. Ngoài ra trong nông nghiệp sinh thái như chọn cây gì, con gì trong một hệ sinh thái tương ứng không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan mà phải điều tra, nghiên cứu để hiểu biết thiên nhiên, nhằm tận dụng các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế, xã hội. Không ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp ở một vùng bằng chính những người đã sinh ra và lớn lên ở đó qua nhiều thế hệ. Do vậy, để có thể xây dựng được một mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững lâu dài và có hiệu quả, sự cần thiết phải có sự tham gia của các cơ quan ban ngành có liên quan và kết hợp với sử dụng các phương pháp thực nghiệm, so sánh,... hiện nay biện pháp này đã được nhiều địa phương quan tâm thực hiện. Nhiều mô hình luân canh cây trồng hiện đang được lựa chọn và áp dụng. Tuỳ vào điều kiện tự nhiên và hệ sinh thái nông nghiệp của mỗi địa phương, mỗi vùng mà có các mô hình luân canh, xen canh, tăng vụ phù hợp. Cụ thể: * Một mô hình phát triển nông nghiệp sinh thái đặc trưng của vùng cửa sông Bạch Đằng mà nhiều người biết tới đó là xã Liên Vi, thành phố Hải Phòng. Đây là mô hình nông nghiệp sinh thái trên khu vực đất thấp (đất ven cửa sông ) được viện kinh tế sinh thái xây dựng. Trước đây, dân xã Liên Vi sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, không có ngành nghề thủ công truyền thống, ít chú ý tới đánh bắt hải sản. Chỉ có một số năm gần đây nuôi trồng và đánh bắt hải sản mới được quan tâm và phát triển. Hiện nay, hầu hết lao động của Liên Vi phục vụ trồng lúa và nuôi trồng thuỷ sản. Trong 1600 hộgia đình ở Liên Vi, có 90% số hộ làm ruộng kết hợp đầm nuôi tôm, chỉ có 10% hộ làm nghề biển. Với ưu điểm là vùng đầm ven biển có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nên Liên Vi đã tận dụng tối đa ưu điểm của mình để xây dựng mô hình nuôi trồng thuỷ sản năng xuất ổn định. Tuy nuôi trồng thuỷ sản ở đây chưa phát triển nhưng cũng đã có một thời gian dài nhân dân sinh sống ở đây nên đã tích luỹ được một số kinh nghiệm quý báu. Trong mô hình nuôi trồng thuỷ sản người ta vẫn chú trọng phát triển hình thức nuôi quảng canh để duy trì thảm vùng ngập mặn, thiết kế và xây dựng hệ thống cống và đê bao hợp lý nhằm khai thác lâu bền vùng này.Ngoài các nguồn thu chính từ phát triển nuôi trồng thuỷ sản thì ở Liên Vi cũng đã có thêm các nguồn thu từ các dịch vụ du lịch, mà hiện nay nó đã mang lạI cho vung một nguồn thu đáng kể đảm bao rcuộc sống cho người dân ngày càng ổn định. Huyện Phú Mỹ tỉnh Bình Định đã rất phát triển trên vùng cồn cát ven biển miền trung nước ta, nhờ xây dựng mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững dưới hình thức mô hình kinh tế – sinh thái vùng cát có quy mô nông hộ tức là mô hình kinh tế vườn nhà, trong đó có sự bảo đảm có tính chất cơ bản như ổn định, năng suất, chống chịu và đa dạng. Mô hình kinh tế vườn nhà được xây dựng trên diện tích khoảng 2 ha ( 100 x200m ) đến 4ha với các yếu tố cấu thành giữ chức năng nhất định như: - Giếng nước để phục vụ sinh hoạt và tưới cây. - Chuồng trại để chăn nuôi và lấy phân bón. - Trồng dừa quanh nhà vừa tạo bóng mát, vừa cho năng suất cao. - Trồng phi lao xung quanh khu đất và dọc đường bờ phân rõ vừa có tác dụng rừng phòng hộ, vừa lấy củi đun. - Cây điều trồng theo khoảnh để kinh doanh dài ngày, ngoài ra còn tập chung vào điều kiện cụ thể mà có thể lựa chọn tập đoàn cây trồng phù hợp. Với việc bố trí xây dựng mô hình kinh tế vườn nhà trong mô hình kinh tế – sinh thái như trên đã biến vùng cồn cát hoang hoá, hầu như không có cây cối, một kiểu hoang mạc bên bờ biển thành vùng đất có thảm thực vật xanh tươi, biến đất cồn cát thành đất canh tác và đất thổ cư. Ngoài ra mô hình còn giải quyết việc làm cho khoảng 1400 lao động tạo ra đất canh tác cho cuộc sống ổn định cho 600 hộ gia đình với khoảng 8000 nhân khẩu. * Mô hình trồnh lúa đạt hiệu quả cao, bền vững ở nông trường sông hậu, nông trường Cờ Đỏ Viễn Hoá ở đồng bằng sông Cửu Long ở Ô Môn tỉnh Cần Thơ đã có những biện pháp làm giảm chi phí sản xuất lúa dưới góc độ tiếp cận theo hướng phát triển bền vững hệ thống sinh thái như sau: sử dụng giống xác nhận ( giống chuẩn) tăng năng suất từ 5- 7% áp dụng biện pháp phòng trừ dịch bệnh tổng hợp (IPM) bón phân đạm bảo đảm theo bảng so màu lá lúa, tiết kiệm khoảng 100.000đ/ha, với mô hình này đã giảm được chi phí 20- 30%. Phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch đang được thực hiện ở rất nhiều vùng trên cả nước, bước đầu đã khẳng định được tính hiệu quả và sự phù hợp đối với các điều kiện khác nhau. Đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng... hướng phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch cũng đang từng bước khẳng định vai trò của mình, bằng thực tế hiện nay và nó cũng tự mình khẳng định tính đúng đắn của nó phù hợp với nhu cầu phát triển thế giới. 1.2.2 Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới. * Inđônêxia: Inđônêxia, đặc biệt là thành phố Java có một truyền thống phát triển nông nghiệp giống như phương pháp cổ điển được áp dụng ở Trung Quốc từ mấy thế kỉ trước, trong đó nông nghiệp phát triển theo mô hình nông nghiệp trang trại. trong mô hình này cây trồng vật nuôi được phát triển trên nền sinh thái ẩm của đất và nước với công nghệ sản xuất kết hợp giữa phương pháp cổ truyền của người Java và phương pháp thâm canh theo chiều sâu có từ thời kì thuộc địa của Hà Lan. Cũng như xu hướng phát triển chung của nông nghiệp thế giới hiện nay, Inđônêxia ngày nay có vận dụng phương pháp kết hợp công nghệ truyền thống và hiện đại để phù hợp với đặc điểm phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch.Với sự quan tâm trợ giúp của chính phủ trung ương và địa phương trong việc đào tạo, nâng cấp kiến thức cho người dân và cho người dân vay vốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp ở Inđônêxia đã phát triển tương đối mạnh. Hiện nay, Inđônêxia đã thu được rất nhiều thành tựu trong phát triển nông nghiệp nhưng có một thành tựu rất quan trọng đó là đã tăng được hàm lượng các chất dinh dưỡng trong sản xuất lương thực từ 3-6 lần so với 5 năm qua, đồng thời các nguồn lực cho sản xuất nông nghiệp như chất đất cũng được bảo vệ và ngày càng được cải thiện. *Trung Quốc. Trung Quốc là một quốc gia cũng đi theo đường lối xã hội chủ nghĩa như Việt Nam. Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn với 932.641 km2 diện tích đất tự nhiên, nhưng diện tích đất canh tác chỉ chiếm 7% diện tích đất canh tác của thế giới, khi đó dân số chiếm tới 22% dân số thế giới có thể thấy là đất ít người đông. Cho nên yêu cầu tiêu dùng nông sản rất cao, muốn vậy phải nâng cao khả năng quay vóng của đất, chỉ có thể phối hợp sử dụng và bồi dưỡng đất , sử dụng nhiều loại sinh vật cùng sinh trưởng cộng sinh bổ sung hỗ trợ cho nhau sinh trưởng phát triển tốt, kết hợp cả trồng trọt, nuôi cá, trồng nấm..., tăng nhiều loại cây trồng, đồng thời tiến hành luân canh cạn- nước nâng cao năng lực của đất. Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng phát triển nông nghiệp tập thể- là kiểu sản xuất nông nghiệp mà trong đó có nhiều loại cây trồng nhiều loại sinh vât cùng sinh sống, lợi dụng một cách tối đa các diều kiện tự nhiên như ánh sáng, nhiệt độ, không khí, nước, đất, thời gian và không gian nhằm cho một sản lượng chất lượng năng xuất các loại sinh vật cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, những năm gần đây phong trào làm nông nghiệp cụ thể đã rất mở rộng. Đẩy mạnh tốc độ tăng từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại. Mặt khác, chính phủ Trung Quốc cũng rất coi trọng đẩy mạnh , nhanh đưa khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ( 3/1986 đã phê duyệt chương trình công nghệ cao là chương trình High-Tech-86-3). Nhờ đó mà nền nông nghiệp Trung Quốc hiện nay rất phát triển và phát triển bền vững. Các thành tựu mà Trung Quốc có được mô hình nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch theo đúng nghĩa của nó. Ví dụ như mô hình nông nghiệp kết hợp với du lịch ở thành phố Chu Hải đã có hơn 1,0 triệu lượt người đến thăm quan. Khu công nghệ hoa cây cảnh Côn Minh đã trở thành một trọng tâm quốc tế về hoa cây cảnh với hàng triệu lượt người từ khắp trên thế giới và trong nước thăm quan. Mô hình nông nghiệp sinh thái Angi Hangctor có 6 chi, 44 loài mọc tre hoang dại và 26 chi với 195 loài tre trồng trong vườn, thu nhập 130 triệu và 18,0 triệu tệ/ năm. tổng thu của công nghiệp tre là 1,6 tỉ tệ. Riêng năm 1999 có hơn 500.000 du khách tới thăm quan. Có thể thấy răng ở Trung Quốc vai trò của chính phủ trong sự phát triển nông nghiệp là rất lớn và rõ ràng. Sự chỉ đạo của Trung Quốc cũng rất tập trung và có qui hoạch kế hoạch cụ thể. * Ixrael: Ixrael nằm ở khu vực Tây á (Trung Cận Đông) tiếp giáp với ĐịaTrung Hải và các nước Xiri, Libang, Gioocdani,Palextin. Diện tích tự nhiên của Ixrael là 20.770 km2, Ixrael có diện tích canh tác không nhiều, đất đai khô cằn, hiếm nước. Nền sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. về dân số có 5,863triệu người, mật độ dân số cao 265người/km2 (1997). Mặc dù điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp nhưng trong những năm qua Ixrael đã xây dựng được một nền nông nghiệp rất bền vững. Chính do sự hạn chế này mà Ixrael đã có những tìm tòi sáng tạo ra một cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích hợp với đặc điểm đất đai, tận dụng điều kiện khí hậu ít mưa, nắng nhiều đưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Do ưu thế về sản phẩm nông nghiệp của Ixrael là trái cây, rau, hoa, thịt, sữa nên có thể nói Ixrael là một quốc gia phát triển mạnh mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững dưới góc độ các qui trình sản xuất như: công nghệ canh tác và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, công nghệ sản xuất rau quả tươi và giống rau quả, công nghệ sản xuất hoa xuất khẩu,... cho nên nguồn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của họ rất cao so với tiềm năng của họ, như tổng thu nhập sản xuất nông nghiệp là 3000 triêu USD sản xuất động vật 1000 triệuUSD, sản xuất sản phẩm tươi 740 triệu USD (năm 2000). Và hiện nay nền nông nghiệp của họ vẫn ngày càng phát triển càng khẳng định tính đúng đắn của mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững trong sản xuất nông nghiệp dưới hướng kết hợp, biết tận dụng tối đa những điều kiện và sử dụng hợp lí Tóm lại, có thể thấy nông nghiệp thế giới hiện nay đã ít nhiều vận dụng và phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái bền vững và cũng thu được không ít những kết quả nhất định trong việc phát triển theo hướng này. Nước ta là một nước đi nên sau có rất nhiều thuận lợi trong việc học hỏi và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu mà các nước khác đã từng gặt hái được cũng như đã phải trải qua. Điều này còn có thể khẳng định và chứng minh tính đúng đắn của xu hướng phát triển này là hoàn toàn đúng đắn mà chúng ta phải theo. Có thể phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch ở Việt Nam hiện nay còn quá mới, nhưng đầy là một điều tất yếu mà chúng ta phải làm bởi vì đúng theo tư tưởng phát triển thì chúng ta cần phải phát triển theo hướng tiếp thu những cái cần học hỏi của thế giới, của các nước đi trước nhưng không được dập khuôn mà phải áp dụng phù hợp và phát triển theo hướng cao hơn, thích hợp hơn với các điều kiện thuận lợi của Việt Nam. Đó là một điều mà Việt Nam cần phải làm và phải làm cho thất tốt. Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp ở xã Đông Mỹ – Thanh Trì theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch. 2.1. Khái quát về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp 2.1.1.Điều kiện tự nhiên. * Vị trí địa lí: Đông Mỹ là một xã thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành phố 15 km về phía Nam. Phía Bắc giáp với xã Duyên Hà, phía Đông giáp với xã Vạn Phúc, phía Tây giáp với xã Ngũ Hiệp và xã Liên Ninh, phía Nam giáp với xã Ninh Sở và xã Duyên Thái của tỉnh Hà Tây. Đông Mỹ nằm trọn vẹn trong đê, cách sông Hồng nơi gần nhất khoảng 800 m. Đông Mỹ là một xã rất có bề dày lịch sử, truyền thống cách mạng, Đông Mỹ đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lịch sử cũng như các khách du lịch tham quan. Đông Mỹ đã từng là trung tâm của huỵện Thanh Trì, cho nên cơ sở hạ tầng ở đây đã được quan tâm xây dựng. * Khí hậu, thời tiết: Đông Mỹ thuộc vùng khí hậu của thành phố Hà Nội, chịu ảnh hưởng của khí hậu thời tiết nhiệt đới gió mùa, chia thành hai mùa rõ rệt, mùa nóng ẩm (mùa mưa) từ tháng 4 đến tháng 9 và mùa khô lạnh từ tháng 10 đến tháng3 năm sau. Nhiệt độ bình quân là 23,40C, độ ẩm trung bình là 84%, lượng mưa bình quân 1700 – 1900 mm được tập trung chủ yếu vào mùa mưa nóng chiếm trên 80%. Về chế độ thuỷ văn, Đông Mỹ nằm cạnh sông Hồng, chịu chế độ thuỷ văn của sông Hồng rất rõ rệt, mực nước ngầm khá cao vào mùa mưa dao động trên dưới 800 cm và thấp vào mùa khô hanh, thường dao động trong khoảng 300 cm. Biểu 1: Khí hậu, thời tiết và chế độ thuỷ văn của thành phố Hà Nội. Chỉ tiêu ĐVT 1995 1997 1999 2000 2001 Nhiệt độ bình quân 0C 23,6 24,3 24,3 24,2 24,1 Lượng mưa cả năm Mm 1245 1871,6 15576 1278 2411 Số giờ nắng cả năm Giờ 1408 1277,6 1429,3 1400,3 2247 Độ ẩm trung bình năm % 79 80 79 80 81 Nguồn: Niên giám thống kê * Địa hình, đất đai: Đông Mỹ hiện nay có tổng diên tích đất tự nhiên là 273,67 ha, trong đó đất nông nghiệp là 158,79 ha chiếm 58,02%; đất thổ cư là 46,74 ha chiếm 17,08%; đất chuyên dùng 59,37 ha chiếm 21,09%; còn lai là đất chưa sử dụn, bao gồm: ao , hồ, mô, gò và sông hồ chưa sử dụng. Đông Mỹ là một xã có quy mô diện tích đất tự nhiên tương đối nhỏ, bình quân diện tích tự nhiên 482,4 m2/người, đất nông nghiệp 280 m2/ngưòi, đất ở 267 m2/hộ (không kể đất ở do dân ở xã Duyên Hà xâm cư). Đất canh tác giao cho các hộ gia đình theo NĐ 64, bình quân 360 m2/khẩu. NgoàI ra, Đông Mỹ àon là một xã có địa hình không bằng phẳng, diện tíchao hồ, diện tích gò nhiều gây không ít khó khăn trong việc tưới tiêu nước hục vụ nông nghiệp. Biểu 2: Hiện trạng đất đai và quản lí sử dụng Đơn vị tính: ha Chỉ tiêu 1997 1998 2000 2000/1997 +,- Tổng diện tich đất tự nhiên 272,17 272,17 273,67 +1,5 I. Chia theo loạI đất 1.Đất nông nghiệp 155,61 155,61 158,79 + 3,18 - Đất trồng cây hàng năm 137,16 137,16 137,16 - - Đất vườn tạp 1,30 1,30 1,31 - - Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 17,15 17,15 20,32 +3,18 2. Đất chuyên dùng 62,55 62,55 59,37 - 3,18 - Đất xây dựng 8,62 8,62 7,09 - 1,53 - Đấtgiao thông 14,30 14,30 14,36 + 0,06 - Đất thuỷ lợi 23,83 23,83 23,83 - - Đất di tích văn hoá 0,96 0,96 1,00 + 0,04 - Đất an ninh, quốc phòng 5,40 5,40 5,40 - - Đất nghĩa địa 6,26 6,26 7,69 + 1,43 - Đất chuyên dùng khác 3,18 3,18 - - 3,18 3. Đất ở 45,25 45,25 46,75 + 1,50 4. Đất chưa sử dụng 8,76 8,76 8,76 - - Đất bằng chưa sủ dụng 2,90 2,90 2,90 - - Đất mặt nước ao hồ 2,96 2,96 2,96 - - Sông hồ 2,90 2,90 2,90 - II. Chia theo quản lí sửb dụng - Hộ gia đình 175,66 175,66 175,66 - - Các tổ chức kinh tế 2,35 2,35 2,35 - - UBND xã 72,15 72,15 73,63 + 1,48 - Các tổ chức khác 13,25 13,25 13,27 + 0,02 - Chưa giao 8,76 8,76 8,76 - Nguồn thống kê của xã 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội * Dân số và lao động: Theo tài liệu thống kê năm 2001, tổng số nhân khẩu của Đông Mỹ là 5.763 người với 1.508 hộ, trong đó nữ là 2.982 người chiếm hơn 50%. Tỷ lệ sinh trung bình 3 năm là 1,54%, tỷ lệ chết là 0,49%, tỷ lệ tăng tự nhiên trung bình là 1,05%. Tỷ lệ số người chuyển đến là 0,67%, tỷ lệ người chuyển đi là 0,48%, tỷ lệ tăng cơ học trung bình của 3 năm là 0,19%. Tốc độ tăng dân số trung bình là 2,4%/năm. Với 1.508 hộ thì trong đó số hộ sản xuất phi nông nghiệp chiếm gần 37,3%, chủ yếu là thủ công nghiệp với các ngành nghề thủ công như: thêu, đan lát, sơn mài. Mặt khác, theo số liệu năm 2001 thì tổng số lao động trong độ tuổi lao động của Đông Mỹ là 3.647 lao động, trong đó lao động tham gia trong lĩnh vực nông lâm thuỷ sản chiếm 55,36%; số lao động tham gia trong lĩnh vực CN – TTCN và XD chiếm 7,94%; trong lĩnh vực thương mạI, dịch vụ, chiếm 26,93% và còn lạI là số lao động chưa có việc làm, đang đào tạo. Trong tổng số lao động trên, lao động có trình độ đạI học chiếm 0,04%; lao động có trình độ trung cấp chiếm 9,33%; lao động được đào tạo nghề chiếm 11,76%; lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao 78,87%. Những điều trên có thể cho thấy, ở Đông Mỹ có rất nhiều hạn chế như : diện tích không lớn, địa hình không thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp, cho nên các đã ảnh hưởng không nhỏ đến trình độ lao động của Đông Mỹ, cũng như cơ cấu lao đông của xã. * Văn hóa xã hội: Đông Mỹ là một xã giàu truyền thống văn hoá, điều này được chứng minh bằng việc ở đây không chỉ còn lưu giữ nhiề công trình kiến trúc, di tích lịch sử văn hoá, mà còn lưu giữ nhiều truyền thống, truyền thuyết… Đông Mỹ còn là một xã có truyền thống hiếu học, dưới chế độ cũ Đông Mỹ đã có nhiều người học hành thành đạt. Trước và sau cách mạn tháng 8 cho đến nay, Đông Mỹ cũng dã có không ít người thành đạt. Để thấy rõ hơn, dưới đây là cụ thể một số vấn đề cho thấy văn hoá xã hội của Đông Mỹ: + Giáo dục: ở Đông Mỹ mức độ phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở toàn xã đạt 100%, trung học phổ thông đạt 70% (trong độ tuổi đi học), đạI học và sau đạI học hơn 3%. + Văn hoá: Đông Mỹ là một xã có tổ chức cộng đồng tốt, có lịch sử truyền thống văn hoá lâu đời và đã xây dựng được một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hiên nay còn lưu giữ được một số công trình văn hoá như: chùa Hưng Long - được xây dựng năm Thuận Thiên thứ 2, đình Đông phù, chùa Mỹ ả, đình Mỹ ả, chợ Đông Mỹ. Măt khác, đời sống văn hoá tinh thần cũng được nâng lên đáng kể, như xã hiện nay có 3 cau lạc bộ sinh hoạt văn hoá (câu lạc bộ thơ ca, câu lạc bộ dưỡng sinh, câu lạc bộ kế hoạch hoá gia đình); 1 sân vận động; 1 bể bơI và một thư viện với hơn 300 đầu sách. + Đời sông nhân dân: Từ xa xưa, thu nhập của nhân dân Đông Mỹ không đơn thuần chỉ có từ các sản phẩm nông nghiệp mà còn từ nhiều nguồn thu khác trong đó có từ sản phẩm của nghề thủ công và các hoạt đông dịch vụ thương mại. Ngày nay, thu nhập của người dân Đông Mỹ cũng có từ nhiều nguồn thu như: thương mạI dịch vụ; nông nghiệp; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Nhất là từ 10 năm trở lại đây thu nhập của nhân dân Đông Mỹ đã tăng đáng kể làm cho tình hình đói nghèo của các hộ trong xã giảm đáng kể. Như năm 1990 số hộ đói nghèo chiếm 13% tổng số hộ thì đến năm 2000 chỉ còn 2% (theo tiêu chuẩn mới). * Cơ sở hạ tầng: Đông Mỹ trước kia từng là trung tâm của huyện Thanh Trì nên cở sở hạ tầng cũng đã được chú ý và quan tâm xây dựng, nên hiện nay cũng có hệ thống cơ sỏ hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, cụ thể: + Hệ thống thuỷ lợi: Hệ thống tưới: Nguồn nước tưới phục vụ sản xuất của Đông Mỹ được cung cấp bởi trạm bơm Ma Vang, có công suất 2.000 m3/h, lấy nước từ kênh tiêu sông Tô Lịch. Nguồn nước này bị ô nhiễm, không đảm bảo cho sản xuất nông sản phẩm an toàn. Hệ thống kênh tưới: hiện nay Đông Mỹ đã và đang dần dần cứng hoá hệ thống kênh tưới, như năm 2001 đã cứmg hoá được 4 km kênh tưới. Hệ thống tiêu nước đều đổ về kênh tiêu sông Tô Lịch, trạm bơm Đông Mỹ bơm nước vượt qua đê đổ ra sônh Hồng khi bị ngập úng. Toàn bộ 124 ha đất canh tác đã được tưới chủ động. Diện tích đất canh tác được tiêu chủ động chỉ có 84 ha, do toàn xã có hơn 5 km kênh tiêu nước chưa được kiên cố hoá, bờ kênh sạt lở nhiều, làng kênh bồi lắng chưa được nạo vét. + Hệ thống giao thông: Đông Mỹ có hệ thống giao thông khá hoàn thiện, tổ chức mạng giao thông khá hợp lý. Hệ thống đường giao thông của xã Đông Mỹ gồm có: - 17,5 km đường ngõ xóm, trong đó có 0,5 km mặt đường đổ bê tông; 16 km đường lát gạch mặt đường; đương đất còn 1 km - 15,7 km đường giao thông nội đồng vẫn còn là đường đất. + Hệ thống điện: Toàn xã có 10 trạm hạ áp, tổng công suất hạ áp 1.720KVA. Tổng công suất hạ áp tính bình quân cho mỗi hộ mới đạt 1,14 KW; có 11,81 km đương dây tải điện hạ thế, cung cấp đủ và ổn định cho 100% hộ gia đình phục vụ sinh hoạt và đời sống với công suất tiêu thụ bình quân đạt 90 KWh/tháng/hộ, công suất tiêu thụ bình quân 1 tháng của cả xã là 134.720 KWh. Nhưng hệ thống cột điện và đương dây tải điện mới chỉ ở mức cung cấp điện tiêu dùng là chủ yếu, chưa có hệ thống điện chiếu sáng trong xóm. + Trường học: Đông Mỹ có 1 trường tiểu học có khuôn viên diện tích là 7.200 m2, trường được xây dựng 3 tầng kiên cố với 16 phòng học và hiện nay đang xây thêm một số phòng chức năng theo tiêu chuẩn quốc gia. Một trường trung học cơ sở có diện tích khuôn viên là 4.579 m2, cũng được xây dựng 3 tầng kiên cố trên diện tích xây dựng là 900 m2 , được bố trí thành 15 phòng học và 10 phòng học chức năng. NgoàI ra, Đông Mỹ còn có 2 trường mầm non, 1 trường công lâp có diện tích khuôn viên 1.000 m2 và diện tích xây dựng là 120 m2 , có 4 phòng. Trường dân lập có diện tích khuôn viên 300 m2 , cạnh nhà văn hoá thôn, diện tích xây dựng 60 m2 có 1 phòng học. + Y tế: xã có một trạm y tế chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, khuôn viên của trạm có diện tích 3.806 m2 , diện tích xây dựng 405 m2 với 14 phòng , 6 giường bệnh và 1 phòng hộ sinh rộng 18 m2 , xây dựng năm 2000. Tổng số 24 y bác sĩ, đáp ứng được vấn đề sơ cấp cứu và chữa cácn bênh đơn giản thông thương cho người dân. 2.1.3. Đánh giá chung về các ảnh hưởng của các điều kiện đến phát triển phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch. Đông Mỹ nằm cách xa thành phố, không nằm gần các khu công nghiệp tập trung và đường giao thông huyết mạch, nên lượng khói bụi không lớn, môi trường ít bị ô nhiễm. Hiện tại trạm bơm thoát nước Yên Sở đã được đưa vào hoạt động nên phần lớn nước thải của thành phố được bơm trực tiếp đẩy qua sông Hồng, làm cho lượng nước chảy qua kênh tiêu sông Tô Lịch giảm đáng kể. Ô nhiễm mặt nước của Đông Mỹ ở các ao hồ chủ yếu là nguồn nước thải sinh hoạt và chăn nuôi gia đình ở khu vực dân cư thải ra. Về cây xanh của Đông Mỹ hiện nay có rất nhiều loại cây ăn quả năm xen kẽ trong khu dân cư. Diện tích cây xanh phân tán trồng dọc theo các trục đường giao thông, kênh mương khoảng 5,5 ha, tổng diện tích cây xanh toàn xã đạt 25,8 ha, binh quân đầu người đạt xấp xỉ 45 m2. Qua phân tích các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Đông Mỹ – Thanh Trì - Hà Nội tác động đến phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch có thể rút ra những thuận lợi và khó khăn sau: + Thuận lợi: Đông Mỹ là xã thuộc vùng ven ngoại thành Hà Nội, nên có điều kiện tự nhiên rất phong phú, các điều kiện về kinh tế- xã hội khá thuận lợi để phát triển nông nghiệp kết hợp với du lịch, cụ thể như: - Đông Mỹ có điều kiện địa hình trũng (khoảng 60 ha), với đất đai có tính chất là đất thịt và thịt nặng phù hợp với việc chuyển đổi từ đất nông nghiệp vùng trũng sang nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài ra, Đông Mỹ còn với điều kiện tự nhiên của mình khá thuận lợi cho việc chuyển sang trồng cây ăn quả chất lượng cao, tạo ra vùng vườn cây phục vụ du lịch, cộng với Đông Mỹ có nhiều di tích lịch sử văn hoá như chùa, đình và khu dân cư kiểu làng phố khá thuận lợi trong việc hấp dẫn khách cho du lịch trong tương lai. Đồng thời, Đông Mỹ năm gần sát với sông Hồng, có tiềm năng trở thành một điểm trong tua du lịch Hà Nội – Bát Tràng – Đông Mỹ – Phố Hiến… - Đông Mỹ là một xã mà người dân và cán bộ địa phương có trình độ nhận thức, trình độ dân trí khá cao có thể đáp ứng các yêu cầu về phát triển nông nghiệp kết hợp với du lịch ở trình độ cao. - Có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh tương đối hoàn chỉnh, hệ thống giao thông thuận tiện. - Điều kiện về đất đai, về hệ thống sông và kênh, hồ đầm còn cho phép xây dựng các mô hình sinh thái- đô thị – du lịch của huyện ven đô, vừa đáp ứng nhu cầu về nông sản cao cấp, vừa góp phần giải quyết những vấn đề môi trường do sự phát triển của công nghiệp và sự tập trung dân cư gây ra. - Vấn đề phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch tại xã Đông Mỹ hiện nay là một ý tưởng rất mới, rất táo bạo nên đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, đầu tư của Thành uỷ và các cấp chính quyền Thành phố về nhận thức và về đầu tư triển khai thực hiện dự án. - Thương mại và dịch vụ của Đông Mỹ khá thịnh vượng, đó cũng là thế mạnh để Đông Mỹ phát triển thương mại – dịch vụ – du lịch. - Hệ thống tổ chức chính trị xã hội của Đông Mỹ vững mạnh, đoàn kết và nhiệt tình với nhân dân. Nhân dân giàu truyền thống cách mạng và yêu nước, có lịch sử văn hoá lâu đời có truyền thồng hiếu học. + Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, quá trình phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp kết hợp với du lịch cũng gặp những khó khăn sau: - Thiếu vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư vào các cơ sở hạ tầng và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý để phát huy những lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động. Ngoài ra, do thu nhập của người dân còn thấp, tích luỹ ít nên nguồn vốn huy động trong dân còn hạn chế. - Trong sản xuất nông nghiệp, chuyển từ sản xuất lúa sang nuôi trồng thuỷ sản gắn với trồng cây ăn quả, nông dân chưa có kinh nghiệm cả về kỹ thuật và thị trường tiêu thụ. - Quá trình đô thị hoá vừa thu hẹp diện tích sản xuất nông nghiệp, vừa tạo mức độ tập trung cao dân cư, vừa tiềm ẩn khả năng ô nhiễm do hoạt động của công nghiệp và dân cư. Điều đó vừa hạn chế khả năng phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái bền vững, vừa gây sức ép về yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng du lịch. - Hạ tầng cơ sở tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn dàn trải và thiếu sự đồng bộ, từ hệ thống giao thông, thoát nước thải, hệ thống điện sinh hoạt và hệ thống điện chiếu sáng công cộng - Đông Mỹ là một vùng đất có nhiều di tích lịch sử văn hoá, nhưng hiện tại đang bị xuống cấp chưa được quan tâm và điều kiện tôn tạo , khôi phục sửa chữa. - Chưa có sự chú ý quan tâm đúng mức đến bảo vệ môi trường sinh thái ở các cơ sở sản xuất trong thôn, ngõ xóm,… - Dưới tác động của cơ chế thị trường, một bộ phận nông dân chạy theo lợi nhuận đã sử dụng nhiều hoá chất độc hại vào sản xuất nông nghiệp vừa gây ô nhiễm môi trường vừa không tạo các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của nông nghiệp sinh thái bền vững (nông nghiệp sạch). - Hệ thống tổ chức phân phối hiện nay còn nhiều bất cập nên các sản phẩm gắn với nền nông nghiệp sinh thái bền vững (nông nghiệp sạch) chưa có sự phân định rõ với nông nghiệp thông thường, vì vậy chưa gắn được lợi ích của người sản xuất với chất lượng sản phẩm. Các hoạt động triển khai trong mô hình nông nghiệp kết hợp với du lịch sẽ gặp rất nhiều những khó khăn. Tóm lại có thể thấy Đông Mỹ có rất nhiều thuận lợi để có thể phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch ở mức độ cao nếu như trong tương lai Đông Mỹ có thể khắc phục được các hạn chế của mình, đồng thời có được sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ đầy đủ kịp thời của Thành phố, Huyện. Khi đó, Đông Mỹ hoàn toàn có thể xứng đáng với vị trí là nền nông nghiệp thủ đô của cả nước. 2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch tại Đông Mỹ – Thanh Trì. 2.2.1.Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 1997 - 2002 Đông Mỹ là một xã nằm phía Đông Nam của huyện Thanh Trì, với số dân hơn 5.500 người và diện tích hơn 274 ha. Đây là vùng đất đã được phát triển cách đây hàng ngàn năm, còn để lại nhiều dấu ấn và di tích lịch sử. Trong những năm qua, Đông Mỹ đã phát triển kinh tế – xã hội theo hướng tiến bộ. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn tồn tại rất nhiều khó khăn, hạn chế: trong sản xuất nông nghiệp đất đai thì nằm trong khu vực trũng, bị ngập úng vào mùa mưa, hiệu quả kinh tế thấp, sản phẩm hàng hoá nông sản ít, giá trị thấp…Tích luỹ chưa cao, cho nên các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, kinh tế xã hội – văn hoá chưa được cải thiện. Mặt khác, Đông Mỹ lại là một xã có tiềm năng trở thành một điểm phát triển kinh tế- xã hội gắn với môi trường sinh thái, tạo cảnh quan du lịch, có điều kiện phát triển kinh tế, có truyền thống văn hoá, có lịch sử lâu đời và có vị trí thuận lợi. Đông Mỹ không phải là một làng nghề truyền thống nhưng có rất nhiều ngành nghề thủ công đã phát triển từ khá lâu và đang ngày càng phát triển, như: sơn dầu, sơn mài, đồ mộc, đồ mây tre đan… Có thể nói nông nghiệp là ngành có vai trò quan trọng không chỉ đối với đời sống của người dân trong xã Đông Mỹ, mà còn là một hoạt động đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp các sản phẩm thực phẩm tươi sống như: thịt, rau, hoa, quả, cá, trứng ... cho đời sống hàng ngày của người dân Thủ đô. Trong những năm qua, mặc dù do sự tác động mạnh mẽ của quá trình đô thị hoá và việc chuyển đổi làm diện tích đất nông nghiệp của Đông Mỹ ngày càng bị thu hẹp dần, song sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã vẫn liên tục tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ 1997 đến 2002 đạt 4,52%/năm. Đó là do, việc thâm canh sản xuất lúa ở cánh đồng Sóc Đa Kô, Bìm Bìm, Ao Khoai, Ma Vang và đồng Nội tăng năng suất và chất lượng. Ngoài ra, do việc chuyển đổi toàn bộ diện tích 18,28 ha ở cánh đồng Vạn, đồng Hoa giáp với vùng nuôi trồng thuỷ sản sang trồng rau, hoa chất lượng cao và thâm canh vườn quả ở khu vực nuôi trồng thuỷ sản tập trung và tạo vườn tập trung trong dân cư. Kết quả đạt được 904,2 triệu đồng giá trị ngành trồng trọt. Biểu 3: Kết quả phát triển sản xuất nông nghiệp tại Đông Mỹ giai đoạn 1997-2002 Các chỉ tiêu 1997 1998 1999 2001 2002 GTSX N – TS 6.541,4 6.823,2 7.245,6 8.588,8 9.243,6 1-Nông nghiệp 4887,4 5074.2 5382,6 6546,8 6781,2 -Trồng trọt 1321 1330,2 1403 1846,4 904,2 - Chăn nuôI 1473,4 1547 1642 2026 2315 - Dịch vụ NN 2093 2197 2337,6 2674,4 3.562 2-Thuỷ sản 1654 1749 1863 2042 2462,4 Trong 2 ngành Nông nghiệp và Thuỷ sản thì Nông nghiệp vẫn đựơc coi là ngành chiếm chủ yếu trong ngành nông nghiệp của Đông Mỹ. Trong điều kiện diện tích đất đai bị thu hẹp và chuyển đổi, song giá trị sản xuất vẫn tăng chứng tỏ sản xuất nông nghiệp của Đông Mỹ vẫn đang phát triển theo xu hớng đặc trưng của nền nông nghiệp đô thị có chất lượng và giá trị cao. Trong nông nghiệp của Đông Mỹ , ngành trồng trọt đột biến giảm do có sự chuyển đổi diện tích đất trồng trọt sang nuôi trồng thuỷ sản. Trong giai đoạn từ 1997 đến 2002, có nhiều sụ đột biến xảy rá với Đông Mỹ, đó là ngành trồng trọt giảm rất nhiều , còn ngành dịch vụ nông nghiệp lạI tăn rất nhiều. Điều này chứng tỏ Đông Mỹ đã rất quan tâm chú trọng phát triển theo xu hướng của một nền nông nghiệp sinh thái - đô thị - du lịch. Ngành chăn nuôi cũng phát triển qua một số năm nhưng tốc độ phát triển vẫn chưa cao chưa tương xứng với tiềm năng của Đông Mỹ. Đặc biệt ngành Thuỷ sản phát triển mạnh. Điều này cũng khảng định tính dúng đắn của việc chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp không hiệu quả trên các chân ruộng trungx sang nuôi trồng thuỷ sản. Các hoạt động dịch vụ nông nghiệp phát triển rất nhanh, nhất là từ giai đoạn sau năm 1999 đến năm 2002 , giá trị đem lại của ngành chiếm một tỷ trọng đáng kể trong ngành nông nghiệp của Đông Mỹ. Sự gia tăng mạnh mẽ của dịch vụ tham gia vào quá trình sản xuất trong nông nghiệp một mặt cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, sự can thiệp của công nghiệp và các hoạt động phi nôngn ghiệp vào trong quá trình phát triển nông nghiệp làm cho nền nông nghiệp của Đông Mỹ mang dần màu sắc của các hoạt động sản xuất nông nghiệp gắn bó với sự thay đổi và phát triển của đô thị. 2.2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Đông Mỹ theo hướng kết hợp. Đông Mỹ là một xã đã được sự quan tâm của thành phố trong việc phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch, chính vì vậy trong các dự án phát triển tại Đông Mỹ thời gian gần đây vấn đề này đã được chú ý quan tâm rất nhiều, cụ thể đã có một số dự án được triển khai sau: 2.2.2.1. Sự kết hợp nuôi trồng thuỷ sản với du lịch. Trong dự án đưa nông nghiệp Đông Mỹ chuyển đổi theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch đã rất quan tâm và chú trọng đến việc chuyển đổi những khu vực đất trũng trước kia trồng lúa cho năng suất không cao và không ổn định sang nuôi trông thuỷ sản, để có thể biến những cái không thuận lợi trong ngành này sang lợi thế của ngành khác, cụ thể là tận dụng tối đa sự trũng thấp của 60 ha đất trồng lúa chuyển đổi sang nuôi trông thuỷ đặc sản chất lượng cao. Năm 1996, thực hiện theo Nghị định 64 CP của Chính phủ, xã Đông Mỹ đã tiến hành giao đất ổn định lâu dàI (20 năm) cho các hộ nông dân, với mức bình quân 360 m2 /khẩu. Phương châm giao đất khi đó là có gần có xa, có tốt có xấu, có cao có thấp, binh quân một hộ có từ 3 đến 5 mảnh. Do vậy, khi chuyển đổi 60 ha khu vùng trũng sản xuất lúa sang nuôi trồng thuỷ sản thuộc quyền sử dụng của gần 1.400 hộ, thuộc cả 6 thôn trong xã, diện tích binh quân một hộ đạt 435 m2 xã đã gặp phải không ít khó khăn khi tiến hành. Trước năm 2001, vùng trũng thuộc 60 ha chỉ độc canh 2 vụ lúa (vụ chiêm xuân và vụ mùa ), diện tích manh mún, úng ngập cục bộ nên năng suất lúa rất thấp: vụ chiêm xuân đạtbinh quân 150 kg/sào/vụ (41 tạ/ha ), còn vụ mùa chỉ đạt 125 kg/sào/vụ (35 tạ/ha ). Cả năm chỉ đạt trên 7,6 tấn/1ha. Chính vì thu nhấp thấp và rất bấp bênh, không đản bảo cuộc sống cho nhân dân. Nên xã Đông Mỹ đã được sự chỉ đạo của Thành phố chuyển đổi 60 ha đất nông nghiệp trong khu vực trũng sang nuôi trồng thuỷ sản. Năm 2001, cùng với chủ trương của Huyện và sự vận động tích cức của xã, đặc biệt vơí sự năng động đột phá của một số hộ nông dân, đã chuyển 1,253 ha đất lúa sang nuôi tôm cá đạt hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa. Phong trào chuyển đổi thuê mướn ruộng để chuyển từ đất trồng lúa sang nuôI tôm cá diễn ra một cách rất mạnh mẽ. Nhiều hộ nông dân đã tình nguyện chuyển quyền sử dụng đất của mình cho một hộ khác để có diện tích liền khoảnh, thực hiện đào ao thả cá theo đề án phát triển nuôi trồng thuỷ sản của xã. Biểu 4: Tình hình chuyển đổi, thuê mướn, nhượng nuôi tôm cá năm 2001 Thôn Số hộ nuôI tôm cá (hộ ) Diện tích đổi, thuê, nhượng (m2 ) Số hộ cho đổi, thuê, nhượng (hộ) 1A 4 59.506 94 1B 4 323.750 62 2 6 44.391 136 3 5 66.815 182 4 8 48.205 121 5 11 68.207 138 Tổng 38 321.874 733 Nguồn số liệu thống kê của xã Đông Mỹ. Nhìn vào bảng có thể nhận thấy, năm 2001 có 38 hộ đã đổi, thuê, nhượng của 733 hộ, tổng diện tích chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản là 32,1874 ha. Bình quân 1 hộ có diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 0,847 ha, phả đổi và thuê của khoảng 19 hộ. Hộ có quy mô đất cao nhất là 3,64 ha thuê đổi của 108 hộ, hộ thấp nhất có 0,26 ha là đất tự có của riêng mình. Quy mô trên 1 ha có 11 hộ, với diện tích bình quân 1,5876 ha/hộ. Quy mô từ 0,5 - 1 ha có 13 hộ, với diện tích bình quân 0,7325 ha/hộ. Quy mô dưới 0,5 ha có 14 hộ, với diện tích bình quân là 0,3714 ha/hộ nuôi trồng thuỷ sản. Biểu 5: Tình hình chuyển đổi, thuê mướn, nhượng nuôI tôm cá năm 2002. Thôn Số hộ nuôI tôm cá (hộ ) Diện tích đổi, thuê, nhượng (m2 ) Số hộ cho đổi, thuê, nhượng (hộ) 1B 5 30.023 73 2 3 19.175 49 3 7 49.739 120 4 6 22.095 46 5 19 91.967 220 Tổng 40 212.999 508 Nguồn số liệu thống kê của xã Đông Mỹ. Năm 2002 có 40 hộ đổi, thuê, nhượng của 508 hộ với tổng diện tích 21,3 ha; bình quân một hộ có quy mô 0.55 ha; phải thuê đổi bình quân cho 13 hộ khác. Hộ có diện tích cao nhất với quy mô 2,9 ha, đổi thuê sang nhượng cho 78 hộ, hộ có diện tích thấp nhất với quy mô là 0,3133 ha cũng phải đổi thuê sang nhượng cho 10 hộ khác. Quy mô hộ có diện tích trên 1 ha có 2 hộ, với diện tích bình quân đạt là 1,99 ha/hộ, phải đổi, thuê bình quân của 54 hộ khác. Quy mô hộ có diện tích từ 0,5 - 1 ha có 14 hộ, với diện tích bình quân đạt là 0,62 ha/hộ, phải đổi và thuê bình quân của khoảng 15 hộ khác. Quy mô hộ có diện tích dưới 0,5 ha có 24 hộ, với diện tích bình quân đạt là 0,36 ha/hộ, phải đổi và thuê bình quân của khoảng 8 hộ khác. Có thể thấy hiện nay, toàn xã đã có 78 hộ đào ao nuôI tôm cá với tổng diện tích 53,4873 ha và đã phảI dồn đổi, thuê, nhượng của khoảng 1241 hộ, diện tích bình quân 1 hộ nuôI tôm cá đạt 0,68 ha. Quy mô hộ có diện tích trên 1 ha có 13 hộ, với tổng diện tích là 21,4449 ha, diện tích bình quân là 1,65 ha/hộ. Quy mô hộ có diện tích từ 0,5 - 1 ha có 27 hộ, với tổng diện tích là 18,204 ha và diện tích bình quân mỗi hộ là 0,67 ha. Quy mô hộ có diện tích dưới 0,5 ha có 38 hộ, với tổng diện tích là 13,8384 ha và diện tích bình quân đạt là 0,36 ha/hộ. Những hộ nhận được quyền sử dụng đất đai phải trả tiền thuê đất hàng năm cho các hộ cho thuê và chuyển nhượng mỗi năm là 64,8 tạ/ha – 75,6 tạ/ha với gia theo giá thóc nộp thuế nông nghiệp. Các hộ gia đinh cho thuê có trách nhiệm phải trả tiền thuế và các khoản dịch vụ cho HTX. Trong 78 hộ nuôi tôm cá đã có 64 hộ đã đăng ký nuôi các loại cá truyền thống như: trắm cỏ, chép, mè, trôi…, còn lại 14 hộ đăng ký nuôi tôm càng xanh. Có thể thấy về cơ bản thực hiện việc chuyển đổi 60 ha ruộng cấy lúa trong khu vực đất trũng sang nuôi trồng thuỷ sản theo quy hoạch của đề án đã xong. Trong quá trình thực hiện đã cho thấy được một số thuận lợi và khó khăn, cung một số tồn tại cần giải quyết, cụ thể: + Thuận lợi: - Vùng đất trũng 60 ha có kết cấu đất với tính chất là đất thịt và đất thịt nặng rất phù hợp với nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt. - Đã hình thành vung nuôI tôm cá tập trung đạt trên 50 ha mặt nước với quy mô từng ao khá thuận lợi đối với việc nuôI tôm cá thâm canh công nghiệp. - Đã có một số hộ nông dân nuôI tôm cá đạt hiệu quả kinh tế khá. - Có sự chỉ đạo hỗ trợ vốn của Thành phố, huyện cho vùng chuyển đổi và chỉ đạo vân động tích cưc của Chính quyền xã. + Khó khăn: - Rất khó khăn trong nguồn nước cung cấp cho nuôI tôm cá có giá trị cao và nuôi thâm canh dạng công nghiệp. Hiện tạI vẫn phảI dùng nước của sông Tô Lịch ảnh hưởng đến việc nuôi tròng thuỷ sản sạch, thiếu nước vào màu khô. - Quy hoạch thiết kế vùng nuôi trồng thuỷ sản tiến hành sau tự phát của các hộ dân, do đó rất khó khăn trong việc lựa chọn phương án tối ưu về quy hoạch, thiết kế. -Hạ tầng cơ sở chưa có gì, phảI đầu tư đồng bộ từ đầu. Có như vậy, mới có thể đáp ứng yêu cấu nuôi trồng thuỷ sản chất lượng cao. Cho nên, với diện tích 60 ha, thực hiện trên cơ sở thuê mướn, nhượng đất đai của hơn 1.400 hộ có diện tích manh mún xen kẽ cho gần 80 hộ nuôi trồng thuỷ sản, bình quân diện tích nuôi trồng thuỷ sản 0,6 ha, được hình thành từ 1 – 2 ao nuôi trồng. Trên bờ ao được trồng cây ăn quả và có một nhà làm kho chứa thức ăn, công cụ để sản xuất và trông nom không quá 30 m2, với kiến trúc đẹp mang tính chất nhà truyền thống, hài hoa cảnh quan với khu du lịch sinh thái. Để phục vụ cho khu nuôi trồng thuỷ sản chất lượng cao cần phải có cơ sở hạ tầng phù hợp cho việc nuôi trồng thuỷ sản theo hướng thâm canh, bán công nghiệp. Trong thời gian tới, dự kiến xây dựng cơ sở hạ tầng sau: Hệ thống cấp nước, hệ thống mương tiêu, tưới, hệ thống giao thông, điện, khu chế biến, cây xanh, nhà điều hành. Về cơ bản có thể thấy việc chuyển đổi các vùng đất trũng trồng lúa của Đông Mỹ sang nuôi trồng thuỷ sản đã hoàn thành giai đoạn chuẩn bị đây là một lợi thé rất lớn cho phát triển kinh tế nông nghiệp Đông Mỹ thời gian tới. Đặc biệt, nếu Đông Mỹ phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch thì cũng không thể phủ nhận đây là một lợi thế mà Đông Mỹ đã có nếu như muốn phát triển các ngành dịch vụ du lịch vui chơi giải trí cuối tuần như: câu cá, du lịch sinh thái, picnic,…và các dịch vụ nghỉ ngơi giải trí khác. 2.2.2.2. Sự kết hợp giữa trồng cây ăn quả, hoa với du lịch Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đông Mỹ hiện nay cũng chuyển dịch theo xu hướng chung của thành phố, song tốc độ chuyển dịch còn chậm, sản xuất nông nghiệp vẫn còn dựa vào trồng trọt là chủ yếu, thuỷ sản là một trong các sản phẩm mũi nhọn của nông nghiệp tại Đông Mỹ song vẫn chưa khẳng định rõ vị trí của mình trong cơ cấu giá trị sản xuất; các hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp đã xuất hiện song còn chưa tương xứng với tiềm năng của mình. Mặc dù ngành trồng trọt có vị trí quan trọng trong việc cung cấp các sản phẩm rau, hoa, quả thực phẩm tươi cho khu vực nội thành, song cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt chuyển dịch còn rất chậm. Trong ngành trồng trọt, ba loại sản phẩm: Rau, Hoa và Cây ăn quả được xác định là sản phẩm mũi nhọn của nông nghiệp Đông Mỹ song tỷ trọng giá trị sản phẩm các cây trồng này vẫn chiếm tỷ trọng thấp và tăng chậm, trong khi đó tỷ trọng giá trị cây lương thực tuy có giảm xuống song giảm chậm và vẫn còn chiếm tỷ trọng cao gần 54% giá trị sản phẩm ngành trồng trọt. Các sản phẩm của ngành trồng trọt ở Đông Mỹ, cũng như khu vực ngoại thành đều có thiên hướng vào phục vụ thị trường đô thị Hà nội, song các sản phẩm lương thực của nông nghiệp Đông Mỹ lại không phải là sản phẩm đòi hỏi tất yếu cuả nền nông nghiệp Thủ đô. Trong khi đó các sản phẩm rau hoa quả, thực phẩm và các sản phẩm hoa lại là các sản phẩm gắn liền với nhu cầu và điều kiện phát triển của khu vực nội thành. Do vậy nền nông nghiệp Đông Mỹ phải hướng vào các sản phẩm này là chính. Sự chuyển biến chậm về cơ cấu sản xuất trong ngành trồng trọt cho thấy xu hướng phát triển ngành trồng trọt ngoại thành theo xu hướng nông nghiệp đô thị nhìn chung chưa rõ nét. Tuy nhiên, sự gia tăng của tỷ trọng sản phẩm cây thực phẩm, nhất là sự gia tăng nhanh của tỷ trọng sản phẩm hoa chứng tỏ ngành trồng trọt đã bắt đầu chuyển dịch theo hướng phát triển nền nông nghiệp ven đô. Trồng hoa ở Đông Mỹ hiện nay chủ yếu được duy trì ở quy mô sản xuất của các hộ gia đình song mức độ chuyên môn hoá trong các hộ trồng hoa đã đạt đến trình độ khá cao. Sự phát triển và tồn tại của các hoạt động sản xuất hoa dựa vào lợi nhuận thu lại trực tiếp từ các hoạt động sản xuất hoa mang lại. Mặc dù rằng sản xuất hoa là một hoạt động không phai truyền thống và có lợi thế của Đông Mỹ song do cơ chế thị trường đem lại lợi ích trực tiếp cho người sản xuất hoa. Do vậy, người dân ở đây cũng đã quan tâm phát triển nhưng mới chỉ ở hinh thức tự phát chứ chưa có được quy hoạch cụ thể của xã Đông Mỹ, trong thời gian tới xã mới cho triển khai cho nên trong thời gian hiện nay diện tích trông hoa vẫ chưa có quy hoạch phát triển thành khu vực tập trung. Do đó, trong thời gian tới cần phải có các cơ chế chính sách khuyến khích để người sản xuất hoa có được quy mô sản xuất đủ lớn (tạo thành vùng chuyên môn hoá) để có thể tiếp tục tồn tại, phát triển cao hơn nữa trong tương lai, cho nên cần phải tiếp tục được chú trọng đầu tư quy hoạch phát triển cụ thể hơn nữa. Về sản xuất rau cũng được Đông Mỹ xác định là một trong các cây trồng quan trọng trong qua trình phát triển nông nghiệp của mình vì rau xanh cũng là một sản phẩm tối cần thiết trong đời sống tiêu dùng hàng ngày của người dân. Do nhu cầu tiêu dùng rau xanh ngày càng cao, nhưng đòi hỏi của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm cung rất gay gắt nên khi đI vào sản xuất rau Đông Mỹ phảI chú ý tới chất lượng của sản phẩm mới có thể có chỗ đứng trên thị trường,.Mặt khác, do quá trình đô thị hoá đã và đang diễn ra mạnh đã lấy đi rất nhiều diện tích trồng rau của Đông Mỹ, tuy nhiên có thể khẳng định rằng diện tích trồng rau cua Đông Mỹ có thể không tăng nhưng trong thời gian tới khi có sự quy hoạch chi tiết cụ thể, sản lượng rau cũng như chất lượng rau của Đông Mỹ sẽ tăng đáng kể. Cây ăn quả hiện nay ở Đông Mỹ không phải là sản phẩm chính của nông nghiệp Đông Mỹ, song cũng là một sản phẩm có tiềm năng phát triển và dễ thích ứng với đặc điểm, điều kiện sản xuất của nền nông nghiệp phát triển theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch. Hiện nay Đông Mỹ đã chuyển đổi gần xong 60 ha nuôi trồng thuỷ sản, bên cạnh đó còn khoảng hơn 10 ha tồn tại dưới dạng bờ ao và các khoản đất chưa sử dụng rất có nhiều tiềm năng cho phát triển các vườn cây ăn quả hoặc cây ăn quả kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản hoặc chăn nuôi. Một số giống cây ăn quả có chất lượng cao là mà hiện nay Đông Mỹ đang đưa vào trồng như: Hồng xiêm, táo, ổi, cam,…đây là một hình thức để Đông Mỹ có thể tự làm tăng diện tích cây xanh cho mình nhưng đồng thời cũng tạo sức thu hút khách tham quan giúp triển kinh tế Đông Mỹ theo hướng sản xuất nông nghiệp kết hợp với các hoạt động du lịch dịch vụ. Đây là một tiềm năng phát triển nền nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch, nhưng hiện nay các mô hình kinh doanh tổng hợp: nông nghiệp dịch vụ du lịch sinh thái như trồng cây ăn quả kết hợp nuôi thuỷ sản và kinh doanh du lịch dịch vụ… mới chỉ dừng lại trên quy hoạch định hướng mà cha trở thành hoạt động sản xuất thực tế. 2.2.2.3.Sự triển khai dự án hiện nay Trong dự án đưa nông nghiệp Đông Mỹ chuyển đổi theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch đã rất quan tâm và chú trọng đến việc chuyển đổi những khu vực đất trũng trước kia trồng lúa cho năng suất không cao và không ổn định sang nuôi trông thuỷ sản, để có thể biến những cái không thuận lợi trong ngành này sang lợi thế của ngành khác, cụ thể là tận dụng tối đa sự trũng thấp của 60 ha đất trồng lúa chuyển đổi sang nuôi trông thuỷ đặc sản chất lượng cao. Mặt khác, tận dụng tối đa các diện tích đất còn lại để trồng các loại cây ăn quả đặc sản cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn của thị trường thành phố. Chuyển đổi ruộng trồng lúa sang trồng rau. Như vậy Đông Mỹ hiện nay đã triển khai được một số dựa án và vẫn đang tiếp tục theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch được thực hiện triển khai, những dự án này hoàn toàn có tính khả thi cao. 2.2.3. Đánh giá chung. Những thành tựu bước đầu trong việc triển khai các công trình sản xuất tiến tiến trong dự án đang mở ra tiền đề và hướng đi cho việc hình thành và phát triển các mô hình và các hoạt động sản xuất nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch, ở Đông Mỹ trong tương lai. Nền nông nghiệp Đông Mỹ trong những năm qua đã phát triển và mang lại nhiều thành tựu trên mọi phương diện, đã tạo ra tiền đề cho quá trình chuyển đổi và phát triển nông nghiệp Đông Mỹ theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch. Những thành tựu bước đầu đạt được là: - Huyện Thanh Trì đã sớm nhận thức được xu hướng vận động phát triển của nền nông nghiệp, đã đề ra những chủ trương, đúng đắn và thực thi các chính sách biện pháp chỉ đạo để thúc đẩy quá trình chuyển đổi và hình thành các tiền đề phát triển nền nông nghiệp sinh thái. Những chủ trương chính sách cơ bản mà huyện đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn là: chính sách thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đầu tiên là chương trình chuyển đổi ruộng ở khu vực chũng sang nuôi trồng thuỷ đặc sản kết hợp trồng cây ăn quả và kinh doanh du lịch dịch vụ, chương trình chuyển đổi sang sản xuất rau, cây ăn quả. Huyện Thanh Trì cũng đã có các chính sách khuyến khích và xã cũng tích cực vận động quá trình tập trụng ruộng đất để khuyến khích phát triển các mô hình sản xuất tập trung thông qua các hình thức dồn thửa, đổi ruộng, khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ nông dân thực hiện các quan hệ cho thuê, chuyển nhượng ruộng đất ở các thôn, các loại hình sản xuất cần khuyến khích phát triển tập trung chuyên môn hoá. Huyện cũng đã hỗ trợ vốn cho những hộ chuyển đổi theo mô hình, như: các hộ chuyển đổi từ ruộng trũng sang nuôi trồng thuỷ sản với diện tích từ 1 ha trở lên thì được hỗ trợ 50% vốn đầu tư đào ao thả cá, còn với diện tích dưới 1 ha thì có những hỗ trợ thoả đáng. Ngoài ra, huyện còn có khối lợng tiền vốn đầu tư lớn cho phát triển các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ việc chuyển đổi theo mô hình, sản xuất nông nghiệp và đảm bảo việc bảo vệ môI trường sinh thái khi tiến hành chuyển đổi sản xuất theo dự án; đầu tư hỗ trợ cho những người tham gia chuyển đổi tiếp thu khoa học kỹ thuật và nâng cao trình độ của họ, khuyến khích các hộ thực hiện các theo các chương trình chuyển giao khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. - Hoạt động sản xuất nông nghiệp của Đông Mỹ đã bước đầu có các tiền đề phát triển, vì đã cơ bản xây dựng xong cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như: đã hoàn thành việc chuyển đổi 60 ha đất ruộng trũng cấy lúa 2 vụ bấp bênh sang nuôi trồng thuỷ đặc sản; xây dựng và bê tông hoá hơn 6,2 km kênh mương tưới tiêu nước,… phục vụ cho chuyển đổi nông nghiệp của Đông Mỹ theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch, các hoạt động sản xuất nông nghiệp của xã cũng đã hướng tới đáp ứng các nhu cầu sản phẩm tiêu dùng cao cấp theo yêu cầu đòi hỏi của thị trường Thủ đô, các hoạt động sản xuất phát triển gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; các hoạt động sản xuất theo hướng sinh thái hữu cơ đã được chú trọng phát triển, một số vùng sản xuất, hoạt động sản xuất chuyên môn hoá, tập trung hoá với trình độ kỹ thuật và công nghệ tiến tiến đã bắt đầu hình thành và phát triển; mô hình phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch đã bắt đầu khẳng, chứng minh định tính đúng đắn của nó trong quy luật phát triển và có nhiều triển vọng phát triển cao hơn nữa trong tương lai. 2.2.4. Kết quả và những tồn tại cần giải quyết - Việc chuyển đổi nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch diễn ra ở Đông Mỹ thời gian qua cũng thu được một số kết quả nhất định như: + Kết quả của ngành trồng trọt: Diện tích đất nông nghiệp của Đông Mỹ có 158,79 ha, trong đó đất trồng cây hàng năm 137,16 ha. Cây trồng chính chủ yếu là lúa , cây rau màu và cây thuốc, cây ăn quả có 1,31 ha nằm rảI rác trong khu vực đất ở với đủ loạI cây ăn quả như: hồng xiêm, táo, ổi,vải,…Năm 2002, vùng đất trũng đã chuyển gần 60 ha sản xuất lúa bấp bênh vụ mùa sang cấy lúa vụ xuân và nuôI cấ mùa vụ. Hệ số sử dụng ruộng đất đạt 2,4 lần. + Kết quả chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản: Chăn nuôi của Đông Mỹ chủ yếu là con lợn, tổng số đầu lợn năm 2001 là có 3366 con nhưng đến năm 2002 đã tăng lên 4.159 con. Đàn gia cầm 25.342 trong đó đàn ngan vịt là 5.699 con, chủ yếu là vịt đẻ trứng. Đã xuất hiện những trang trại chăn nuôi lợn có quy mô khá lớn. Nuôi trồng thuỷ sản, năm 2002, diện tích ao hồ thả cá có 20,33 ha và chuyển đổi 60 ha ruộng trũng sang cấy lúa vụ đông xuân và nuôI cá mùa vụ, kết quả chăn nuôI và nuôi trồng thuỷ sản như sau: Tổng giá trị sản lượng nông sản, thuỷ sản đã đạt 9.243,6 triệu đồng. - Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch ở Đông Mỹ – Thanh Trì đang còn gặp nhiều khó khăn trở ngại cần được khắc phục và tháo gỡ. Trước hết, phần lớn các hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn còn trong tình trạng sản xuất thâm canh cơ giới bằng việc sử dụng quá mức các yếu tố phân bón, thuốc phòng trừ dịch bệnh và thức ăn có các chất kích thích tăng trọng không đảm bảo vê sinh và an toàn sản phẩm thực phẩm đồng thời tiếp tục góp thêm phần làm ô nhiễm, phá vỡ cân bàng môi trờng sinh thái. Tiếp đó, nguồn nước thải của Thành Phố và các yếu tố ô nhiễm của vùng đô thị đang tác động trực tiếp đến các hoạt động sản xuất nông nhiệp của Đông Mỹ, đặc biệt là việc nuôi trồng thuỷ đặc sản chất lượng cao, mặc dù trạm bơm Yên Sở đã đi vào hoạt động làm giảm lượng nước thải qua hệ thống kênh tiêu của xã. Các hộ sản xuất nông nghiệp của Đông Mỹ vẫn phát triển dựa trên cơ sở của một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, phân tán manh mún với quy mô diện tích đất đai bình quân mỗi hộ rất thấp lại chia cắt phân tán ở nhiều địa điểm khác nhau, do năm 1996 xã đã thực hiiện theo NĐ 64-CP của chính phủ trong việc giao đất lâu dài cho các hộ nông dân. Mặt khác, quá trình đô thị hoá tiếp tục diễn ra làm giảm quy mô diện tích đất canh tác của các hộ, đồng thời tạo ra sức cản tâm lý chờ đợi quy hoạch, giải toả làm cho người dân không yên tâm đầu tư sản xuất, không muốn dồn bờ đổi thửa, không muốn chuyển nhượng tập trung ruộng đất. Sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp của Đông Mỹ cũng còn thiếu tính đồng bộ và thấp so với yêu cầu của một mô hình nông nghiệp sinh thái - đô thị – du lịch, trước hết là hệ thống thuỷ lợi chưa đảm bảo chủ động trong việc cung cấp nước sạch không ô nhiễm cho sản xuấ và tiêu thoát nước thải; hệ thống giao thông, nhất là giao thông nội đồng ( 15,7 km) chưa đáp ứng yêu cầu giao thông dễ dàng thuận tiện đến tận từng nơi sản xuất để kết hợp phát triển các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch kết hợp. Giá trị kết quả sản xuất mang lại trên mỗi ha canh tác chưa cao, chưa đủ sức cạnh tranh với các hoạt động kinh doanh khác nên dễ tạo ra sự mất ổn định trong sản xuất nông nghiệp. Thêm vào đó, các hoạt động chế biến và tổ chức khâu tiêu thụ sản phẩm chưa chú ý quan tâm phát triển làm cho các sản phẩm nông sản vẫn tiêu thụ dưới dạng sản phẩm thô là chủ yếu, chưa vươn tới yêu cầu của thị trường tiêu dùng khu vực đô thị phát triển cao là tiêu dùng các sản phẩm nông sản, thuỷ sản có chất lượng cao được chế biến phù hợp. - Để có thể thúc đẩy quá trình triển khai dự án phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch, trong thời gian tới huyện Thanh Trì cùn với xã Đông Mỹ cần tập trung thực hiện một số yêu cầu sau đây: + Tiếp tục đẩy thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, phù hợp với nhu cầu cao cấp của thị trường Thủ Đô; chuyển đổi dần quá trình sản xuất phân tán, đan xen hình thành các vùng sản xuất tập trung hoá, chuyên môn hoá kết hợp phát triển kinh doanh tổng hợp các hoạt động sản xuất nông nghiệp và dịch vụ, du lịch như: mô hình nuôi trồng thuỷ đặc sản chất lượng cao; sản xuất rau, hoa quả đặc sản: vừa sản xuất vừa tiêu thụ tại chỗ và vuă thu hút khách nhằm kết hợp thăm quan du lịch dịch vụ; mô hình nuôi trồng thuỷ sản kết hợp vườn cây ăn quả và du lịch; mô hình cây ăn quả kết hợp trang trại chăn nuôi sinh thái và du lịch sinh thái. + Phải đẩy mạnh công tác tổ chức chế biến, bảo quản và tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm nông sản, thuỷ sản. Để các sản phẩm nông sản, thuỷ sản có thể tiếp cận người tiêu dùng đô thị khi đó công tác chế biến, bảo quản và tổ chức mạng lưới tiêu thụ đóng vai trò rất quan trọng. Mạng lưới chế biến bảo quản và tiêu thụ không chỉ đóng vai trò tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất mà đồng thời phải đóng vai trò hướng dẫn và đảm bảo các quyền lợi và tạo cơ hội lựa chọn một cách bình đẳng cho ngời tiêu dùng. Thông qua hệ thống tiêu thụ có tổ chức, các sản phẩm nông sản hàng hoá được sản xuất ở Đông Mỹ sẽ được , kiểm tra, kiểm soát và xác định được rõ nguồn gốc, tính chất và các điều kiện kỹ thuật sản xuất, mức độ đảm bảo về chất lượng và mức độ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đó là cơ sở để người tiêu dùng có thể tiếp cận đến đúng các sản phẩm của nền nông nghiệp sinh thái - đô thị tại Đông Mỹ sản xuất. + Tăng cường đầu tư giúp các hộ nông dân có sự chuyển giao khoa học kỹ thuật và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra các sản phẩm sạch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng; phát triển các sản phẩm chăn nuôi có năng suất chất lượng cao phù hợp với thị hiếu và nhu cầu người tiêu dùng của Thủ đô. Để đạt được các yêu cầu trên cần tăng cường đầu tư nâng cao trình độ cho người sản xuât thông qua việc đào tạo họ, để họ nắm vững kiến thức khoa học kỹ thuật nhằm tiến hành chuyển giao khoa học kỹ thuật thì họ có thể tiếp thu áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Cũng như cần có các chính sách khuyến khích thu hút các đơn vị tổ chức cá nhân trong và ngoài nước tham gia chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. + Cần tăng cường công tác đầu tư cho xây dựng cơ bản và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng có kết cấu mang tính đồng bộ và hoàn chỉnh không chỉ đến các vùng dân cư nông thôn mà đến từng khu vực sản xuất các sản phẩm nông nghiệp để tạo lập các hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ động với trình độ kỹ thuật cao đáp ứng các yêu cầu của một nền nông nghiệp sinh thái - đô thị, đồng thời tạo cơ sở để tất cả các hoạt động sản xuất và kinh doanh dễ dàng tiếp cận đến tận từng vùng sản xuất nhằm phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh tổng hợp nông nghiệp, công nghiệp và du lịch - dịch vụ. + Huyện và xã phải tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho các hộ sản xuất trong đầu tư phát triển và chuyển đổi các hoạt động sản xuất theo mô hình nông nghiệp sinh thái - đô thị – du lịch hai phương diện: để tăng lượng vốn đầu tư trên mỗi đơn vị diện tích, đơn vị sản xuất đồng thời tăng giá trị sản xuất mang lại và lợi ích tạo ra cho người sản xuất từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp sinh tháI và khẳng định vị thế của các sản phẩm nông nghiệp sinh thái trong thị trường, chứng minh sự tồn tại của các nông sản hang hoá sạch trước sự canh tranh hiện nay. + Ban lãnh đạo xã cần thực hiện nhanh, thông thoáng trong việc chuyển quyền sở hữu giữa các hộ nông dân tham gia chuyển đổi nhượng, thuê, mướn…hay ban lãnh đạo xã cần thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc đóng vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất tại địa phương tham gia vào việc chỉ đạo, lãnh đạo việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của xã. Nhưng cũng không vì thế mà áp đặt cho người nông dân làm giảm tinh tự quyết, tính sang tạo của họ trong sản xuât…giúp họ gắn chặt cuộc sồng của mình với công việc của mình, mặt khác tạo cho họ niềm tin để họ có thể tự tích luỹ đưa tái đầu tư mở rộng. Nếu giải quyết tốt những, đòi hỏi, những yêu cầu đặt ra này sẽ góp phần hạn chế những tồn tại, vướng mắc, trở ngại đang cản trở quá trình thực hiện dự án chuyển đổi nông nghiệp Đông Mỹ theo mô hình nông nghiệp sinh thái - đô thị – du lịch và tạo cở sở thúc đẩy nền kinh tế của xã ngày càng đi lên tương xứng với nền nông nghiệp Thủ đô đang trên đà phát triển cùng cả nước. Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch tại Đông Mỹ- Thanh Trì. 3.1. Quan điểm phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp. 3.1.1. Căn cứ phát triển. Đông Mỹ là một xã thuộc ngoại thành Hà Nội nên có ưu điểm là gần thị trường tiêu thụ, có yêu cầu quan trọng về các sản phẩm nông nghiệp, về dịch vụ nghỉ ngơi, giải trí. Giao thông liên lạc thuận tiện, có sự giao lưu hỗ trợ của các cơ quan, đơn vị, trung ương,các sở, ban, ngành của thành phố về việc chuyển giao cônh nghệ, trang bị kĩ thuật. Diện tích đất nông nghiệp không nhiều, dân cư đông đúc, trên 50% sống bằng nghề nông nên có thể ảnh hưởng tiêu cực vè các tệ nạn xã hội và ô nhiễm môI trường. 3.1.2. Quan điểm phát triển. Dựa vào những chủ chương, dự án quy hoạch của thành uỷ Hà Nội; dựa vào tình hình kinh tế xã hội nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng của xã Đông Mỹ. Để đảm bảo sự phát triển của xã tương xứng với sự phát triển của thành phố. Xã đã đưa ra các quan điểm phát triển như sau: Quan điểm 1: Nông nghiệp xã Đông Mỹ là nông nghiệp đô thị bởi nó có đặc điểm là đất ít người đông. Trong những năm tới diện tích đất nông nghiệp có thể tiếp tục giảm mạnh do quá trình đô thị hoá. Vì vậy, cần phải phát triển nông nghiệp theo hướng cao cấp hoá sản phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân thủ đô về các sản phẩm nông nghiệp là ăn ngon và an toàn, tăng nhanh thu nhập cho nông dân trong xã để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao về vật chất, tinh thần, đáp ứng vai trò là trung tâm của huyện Thanh Trì, một khu vực kinh tế đô thị đang tăng trưởng cao. Vấn đề dư thừa lao động là sức ép lớn, là lực cản trở của tăng năng suất và hiệu quả sản xuất, cải thiện đời sống. Vấn đề sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của thị trường nhằm tạo ra giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp là cao nhất là mục tiêu của sản xuất nông nghiệp. Quan đIểm 2: Phát triển nông nghiệp của xã Đông Mỹ gắn với việc xây dựng nông thôn mới phù hợp với hướng phát triển nông nghiệp kết hợp với du lịch, phải đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đô thị hoá đồng thời giữ gìn nét đẹp truyền thống, tinh hoa văn hoá, lịch sử của xã, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, đường điện, cấp thoát nước, các cơ sở y tế, văn hoá, giáo dục, các công trình thuỷ lợi,... nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế đa dạng trong xã trong những năm tới và nhu cầu văn hoá xã hội nhanh chóng giảm dần chênh lệch về mức sống kinh tế – văn hoá giữa nông dân trong xã với các xã khác 3.2. Phương hướng phát triển nông nghiệp xã Đông Mỹ theo hướng nông nghiệp với du lịch. 3.2.1. Phương hướng chung. Trong những năn tới, nông nghiệp kinh tế ngoại thành phát triển theo tinh thần Nghị Quyết 15 NQ/ TW của bộ chính trị (khoá IX), pháp lệnh thủ đô Hà Nội của uỷ ban thường vụ quốc hội (khoá X), chương trình 12 CTr-TU và đề án “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn” của thành uỷ Hà Nội. Do đó mà quy hoạch phát triển nông nghiệp năm 2010 đã chỉ rõ: - Phát triển nông nghiệp theo hướng nông sản thực phẩm hàng hoá: rau, hoa quả, thịt, trứng, sữa, cá,... Thực hiện đầu tư thâm camh, ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật hiện đại, nhất là công nghệ sinh học để nâng cao năng xuất chất lượng, tạo ra những sản phẩm cao cấp có chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh trên thị thị trường trong nước và ngoài nước. - Phát triển nông nghiệp gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế xã hội, để thực hiện nhanh chóng hiện đại hoá nông nghiệp. Hình thành những vùng sản xuất tập trung, những sản phẩm mũi nhọn, phát triển nhanh công nghiệp chế biến với hệ thống dịch vụ nông nghiệp đa dạng trong mối liên hệ chặt chẽ của kinh tế nông nghiệp Hà Nội với nông nghiệp của các vùng đồng bằng Bắc Bộ và các tỉnh phía Bắc. - Nhận thức sâu sắc phát triển nông nghiệp gắn liền với phát triển kinh tế – xã hội nông thôn của xã, do vậy thúc đẩy nhanh, đồng bộ, lâu bền, gắn hiệu quả kinh tế với hiệu quả kinh tế xã hội, có thêm nhiều việc làm và thu hút nhiều lao động. - Phát triển nông nghiệp trên cơ sở huy động mọi nguồn lực trong vùng và ngoài vùng, trong nước và ngoài nước, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư vốn cho khoa học công nghệ để phát triển một cơ cấu hợp lý. Trên đây là những phương hướng mà UBND thành phố Hà Nội đã đề ra nhằm định hướng cho sự phát triển nông nghiệp của xã, huyện ngoại thành Hà Nội trong đó có Đông Mỹ – Thanh Trì- Hà Nội theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch. Với phương hướng này yêu cầu phát triển nển nông nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tạo ra các sản phẩm cao cấp, an toàn và các sản phẩm có tính nhân văn cao, đạc biệt là sản xuất nông nghiệp và các sản phẩm nông nghiệp góp phần làm sạch môi trường, tạo cảnh quan du lịch trong lành hấp dẫn và thu hút khách du lịch. 3.2.2. Phương hướng cụ thể của Đông Mỹ. Từ phương hướng chung nêu trên; căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kimh tế – xã hội của xã Đông Mỹ; khả năng đầu tư của thành phố, huyện uỷ; nhịp độ phát triển nông nghiệp của xã, có một số phương hướng nhằm phát triển nông nghiệp của xã theo hướng kết hợp nông nghiệp với du lịch như sau: - Khai thác lợi thế của vùng kết hợp với phát triển tổng hợp: Theo nội dung này, xã Đông Mỹ cần chỉ rõ lợi thế của mình và hướng khai thác lợi thế đó. Với lợi thế của mình là một xã có diện tích ao hồ nhiều, sản xuất nông nghiệp trên đất đai ở vùng trũng, bị úng vào mùa mưa nên xã cần tập trung vào đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản trên diện tích ao hồ sẵn có và trên diện tích ruộng trũng (do chuyển đổi đất trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản) kết hợp với trồng cây ăn quả trên những diện tích chưa sử dụng hoặc không sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản, coi đó là thế mạnh của mình so với các vùng khác. Đồng thời kết hợp việc trồng lúa, phát triển trồng rau màu trên những diện tích thuận lợi. Bên cạnh đó, đẩy mạnh chăn nuôi lợn, gia cầm theo hướng vừa tập trung vừa phân tán nhằm tận dụng các sản phẩm phụ cho nuôi trồng thuỷ sản và ngành trồng lúa, hoa màu. - Hình thành các mô hình sản xuất kết hợp vừa tạo mối liên kết hữu cơ giữa các ngành, vừa tận dụng các điều kiện về nguồn lực và các phế phụ phẩm của nhau trong từng ngành sản xuất kinh doanh. Xã Đông Mỹ cần có những biện pháp tạo điều kiện để các hộ nông dân tạo ra các mô hình sản xuất kết hợp: nuôi trồng thuỷ sản - trồng cây ăn quả - trồng lúa, rau màu – chăn nuôi lợn, gia cầm để một mặt vừa tận dụng các phế phẩm của nhau, mặt khác góp phần đưa nông nghiệp phát triển theo hướng kết hợp. - áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp một mặt đáp ứng các yêu cầu sinh học của sản xuấtt nông nghiệp. Mặt khác đáp ứng yêu cầu tạo ra các sản phẩm sạch, an toàn phục vụ nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư và hướng ra xuất khẩu. Theo yêu cầu này, xã cần phải xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp với công nghệ sạch như: mô hình sản xuất rau an toàn với việc sở dụng 100%phân chuồng đã hoai mục kỹ, phân hữu cơ vi sinh, các chế phẩm sinh học, chế phẩm thảo mộc, phòng trừ sâu bệnh theo phương pháp IPM,...; mô hình chăn nuôi có sự kết hợp trồng trọt và công nghệ xử lý chất thải bằng bể khí bioga,... - Đặc biệt, cần chú trọng tới hướng phát triển kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch, bằng cách thực hiện các biện pháp sản xuất sạch theo quy trình công nghệ, đồng thời quan tâm cảI tạo và phát triển các cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc phát triển ngành thương mại – dịch vụ – du lịch phục vụ khách tham quan. 3.3. Các giải pháp cơ bản để phát triển nông nghiệp theo hướng kết hợp ở Đông Mỹ. 3.3.1. Quy hoạch và bố trí sản xuất nông nghiệp ở Đông Mỹ theo hướng kết hợp. Hà Nội đã xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp đến năm 2010 theo hướng kêt hợp nông nghiệp với du lịch. Tuy nhiên, đề án này mới chỉ xây dựng ở những vùng có tính chất đặc thù và phần nhiều có tính chất xây dựng thí điểm như ở Phú Minh – Sóc Sơn, Phú Diễn – Từ Liêm, .. nó chưa được triển khai rộng. Cần tiếp tục triển khai quy hoạch các mô hình trên theo phạm vi không gian từng xã.cụ thể. Xã Đông Mỹ là một xã có bề dày truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng, có lợi thế về trình độ nhận thức của nhân dân cũng như các cán bộ địa phương, có cơ sử hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, giao thông thuận tiện, lại được sự quan tâm của thành phố về đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Bởi vậy, huyện Thanh Trì, UBND thành phố Hà Nội đã chọn Đông Mỹ là nơi phát triển nông nghiệp kết hợp với du lịch. Trên cơ sở kế hoạch và định hướng phát triển kinh tế xã của huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, căn cứ vào thực trạng và tiềm năng kinh tế tự nhiên của xã Đông Mỹ, cơ cấu kinh tế của xã Đông Mỹ đến năm 2020 như sau Thương Mại và dịch vụ chiếm 52,43% tổng thu nhập toàn xã; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm 28,53%; nông – lâm- thuỷ sản chiếm 19,04% tổng giá trị thu nhẩp trên địa bàn. Xã Đông Mỹ cần quy hoạch, bố trí các khu sản xuất nông nghiệp như sau: * Trồng trọt: - Giai đoạn 2002 – 2005. Thâm canh sản xuất lúa ở cánh đồng Sóc Đa Kô, Bìm Bìm, Ao Khoai, Ma Vang và Đồng Nội tăng năng suất và chất lượng. Chuyển đổi toàn bộ diện tích 18,28 ha ở cánh đồng Vạn, đồng Hoa giáp với vùng nuôi trồng thuỷ sản sang trồng rau hoa chất lượng cao, thâm canh vườn quả ở khu nuôi trồng thuỷ sản tập trung và cải tạo vườn tạp trong khu dân cư. Kết quả đạt được 2.172 triệu đồng giá trị ngành trồng trọt. - Giai đoạn 2006 –2010. Chuyển 18,28 ha vùng rau màu ở Đồng Hoa và Đồng Vạn sang trồng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16680.DOC
Tài liệu liên quan