Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Quảng Bình

Tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Quảng Bình: PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Đặc biệt trong những năm qua, ngành ngân hàng còn là công cụ đắc lực hỗ trợ Nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định đồng tiền, giá cả hàng hoá. Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại, tín dụng là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản của các ngân hàng. Tín dụng là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu và cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro lâu đời và quan trọng nhất mà ngân hàng thương mại cũng như các tổ chức tài chính trung gian khác phải đối mặt. Hậu quả của rủi ro trong hoạt động tín dụng luôn có tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng nói riêng và cả nền kinh tế xã hội nói chung. Do đó, bất cứ lúc nào rủi ro tín dụng cũng luôn mang tính thời sự...

doc132 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1164 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Quảng Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Đặc biệt trong những năm qua, ngành ngân hàng còn là công cụ đắc lực hỗ trợ Nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định đồng tiền, giá cả hàng hoá. Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại, tín dụng là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản của các ngân hàng. Tín dụng là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu và cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro lâu đời và quan trọng nhất mà ngân hàng thương mại cũng như các tổ chức tài chính trung gian khác phải đối mặt. Hậu quả của rủi ro trong hoạt động tín dụng luôn có tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng nói riêng và cả nền kinh tế xã hội nói chung. Do đó, bất cứ lúc nào rủi ro tín dụng cũng luôn mang tính thời sự và việc nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng là vấn đề sống còn được quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Với truyền thống hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, trong những năm qua Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình đã không ngừng phấn đấu vươn lên, khẳng định được vị thế là ngân hàng thương mại dẫn đầu trên địa bàn tỉnh. Bằng việc tham gia đầu tư vốn cho tất cả các công trình trọng điểm của tỉnh, Chi nhánh đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tỉnh nhà. Để thực hiện mục tiêu phát triển an toàn - bền vững, trong hoạt động của mình Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình cũng luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng, hạn chế rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động tín dụng của Chi nhánh vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cần sớm được khắc phục, điều chỉnh để phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro. Từ nhận thức được yêu cầu của thực tiễn, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Mục tiêu chung Chất lượng tín dụng có quan hệ mật thiết đến rủi ro trong hoạt động tín dụng, nó ảnh hưởng quyết định tới tài sản có của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng cũng là góp phần quan trọng làm giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Do đó, mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình và tìm các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và phòng ngừa rủi ro phát sinh. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hoá và bổ sung lý luận về chất lượng tín dụng của NHTM. - Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. - Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình đến năm 2015. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Là chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Chất lượng tín dụng là một khái niệm rất rộng được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, từ phía ngân hàng thương mại, từ phía khách hàng và từ phía Nhà nước. Trong phạm vi đề tài này chỉ tập trung xem xét từ hai góc độ chính đó là: thực trạng chất lượng dư nợ tín dụng của ngân hàng và sự đánh giá của khách hàng về chất lượng sản phẩm tín dụng do ngân hàng cung cấp. Đề tài chọn địa điểm nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. Về mặt thời gian đề tài sẽ phân tích đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến 2008 và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng giai đoạn 2009 – 2015. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp thu thập tài liệu Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng hệ thống các phương pháp thống kê kinh tế thích hợp để tiến hành điều tra, thu thập số liệu, tổng hợp và phân tích số liệu một cách khoa học nhằm đánh giá tình hình, phân tích các mối quan hệ và tìm giải pháp cho quá trình nghiên cứu. Việc khảo sát điều tra thu thập số liệu được tiến hành đồng thời ở hai cấp độ, có tính chất hỗ trợ và bổ sung cho nhau trong quá trình nghiên cứu đó là số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp. Đối với số liệu thứ cấp: tác giả tổng hợp thông tin chủ yếu từ các báo cáo thống kê trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là bảng cân đối kế toán, các báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình, Ngân hàng Nhà nước Quảng Bình, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Các tài liệu này chủ yếu được sử dụng để phân tích đặc điểm chung và thực trạng chất lượng tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. Đối với số liệu sơ cấp: tác giả tiến hành điều tra chọn mẫu những khách hàng đang có quan hệ tín dụng với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. Quá trình điều tra tập trung vào việc tìm hiểu đánh giá, cảm nhận của khách hàng đối với chất lượng các sản phẩm tín dụng mà ngân hàng cung cấp. Những vấn đề cần nghiên cứu được tập hợp trong phiếu điều tra. Công tác điều tra được tiến hành thông qua phát phiếu thăm dò gửi đến 150 khách hàng và thu về 130 mẫu phiếu đạt yêu cầu. 4.2. Phương pháp phân tích số liệu 4.2.1. Phương pháp phân tích thống kê Trên cơ sở các tài liệu đã được tổng hợp, vận dụng một số phương pháp phân tích thống kê để phân tích tình hình hoạt động tín dụng, các cơ cấu tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình từ đó rút ra nhận xét về chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh. 4.2.2. Phương pháp toán kinh tế Dùng phương pháp tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu trên cơ sở phần mềm chương trình SPSS 17.0 Mô hình được sử dụng trong việc phân tích xử lý số liệu thu được qua điều tra là sử dụng phương pháp phân tích nhân tố. Phương pháp này dùng mối liên hệ qua lại giữa nhiều biến và giải thích những biến này dưới hình thức các khía cạnh chung (gọi là nhân tố - factor) nhằm tìm ra một cách cô đọng các nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng. Từ thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình, tham khảo thêm tài liệu, sách, báo có liên quan đến chất lượng tín dụng để đề xuất những giải pháp và đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. 5. KẾT CẤU LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo kết cấu luận văn có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại NHTM ra đời cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Với chức năng là nhà trung gian tài chính, làm cầu nối giữa người gửi tiền và người vay tiền nên hệ thống ngân hàng đã trở thành một ngành kinh tế huyết mạch, là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Đứng trên nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta có các định nghĩa khác nhau về NHTM. Xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, Giáo sư Peter S.Rose định nghĩa: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [19]. Xét trên các hoạt động chủ yếu của NHTM, theo luật các tổ chức tín dụng năm 1997 (được sữa đổi bổ sung năm 2004) quy định: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Các loại hình ngân hàng chủ yếu bao gồm: NHTM, ngân hàng Phát triển, ngân hàng Đầu tư, ngân hàng Chính sách, ngân hàng Hợp tác và các loại hình ngân hàng khác” [20]. Như vậy, từ các định nghĩa trên có thể thấy ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ với các nghiệp vụ chủ yếu là huy động vốn và cho vay. Ngoài ra NHTM còn thực hiện chức năng thanh toán và cung cấp nhiều dịch vụ khác. Ngày nay, trên thị trường tài chính, tiền tệ các loại hình tổ chức tham gia hoạt động đan xen một cách đa dạng và phong phú, một số loại hình tổ chức tín dụng khác (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) cũng thực hiện một số nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, các tổ chức này không nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch vụ thanh toán. Đó chính là tiêu chí để phân biệt NHTM với các tổ chức tín dụng khác. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu, quan trọng nhất của NHTM. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng thường huy động vốn từ: - Nguồn vốn tự có: Đây là nguồn hình thành ban đầu từ mỗi ngân hàng, tuỳ theo loại hình ngân hàng mà nguồn hình thành khác nhau. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng sẽ gia tăng vốn theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể như: nguồn từ lợi nhuận không chia, nguồn bổ sung từ phát hành cổ phiếu... - Nguồn vốn từ huy động tiền gửi: “Nguồn vốn quan trọng nhất của một ngân hàng- tài sản nợ của nó là từ tiền gửi của khách hàng” [1]. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động thì nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán cho khách hàng, cũng nhờ đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng trả lãi tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh tiêu dùng trước mắt để cho ngân hàng sử dụng tạm thời nguồn vốn để kinh doanh. 1.1.2.2. Hoạt động đầu tư vốn Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là tìm kiếm các khoản vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, việc sử dụng chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng trong đó chủ yếu là dùng cho hoạt động tín dụng và hoạt động đầu tư. - Hoạt động tín dụng: Đây là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng là cho vay và hoạt động này cũng mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. - Hoạt động đầu tư: Các ngân hàng cũng đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận như góp vốn vào doanh nghiệp, mua bán chứng khoán trên thị trường hay cho vay trên thị trường liên ngân hàng để tận dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. 1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ ngân hàng Ngoài hai hoạt động chính là huy động và đầu tư vốn thì NHTM còn là tổ chức cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ mua bán ngoại tệ, dịch vụ ngân quỹ… Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng ngày càng phong phú và đa dạng, cộng với các cuộc cách mạng về công nghệ thông tin đã giúp các ngân hàng phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Chính sự đa dạng của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đã tạo cho ngân hàng một nguồn thu đáng kể và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng thu nhập của ngân hàng. 1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ra đời là một tất yếu, khách quan của nền kinh tế xã hội. Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời rất lâu nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa thống nhất khi định nghĩa về tín dụng. Theo Các Mác thì: “ Tín dụng dưới hình thái biểu hiện của nó là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến cho người này giao cho người khác một số tư bản nào đó dưới hình thái hàng hoá hoặc được đánh giá thành một số tiền nhất định. Số tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời gian đã được ấn định” [8]. Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì: “Tín dụng là một phạm trù kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay. Trong quan hệ này người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho vay cho người đi vay trong một thời gian nhất định. Đến kỳ hạn trả nợ người đi vay có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ số tiền hoặc hàng hoá đã vay, có kèm hoặc không kèm một khoản lãi” [25]. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu kinh tế, tín dụng được coi là quan hệ lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: số tiền hoàn trả (gốc và lãi), thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi… Còn “Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định” [7]. Khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng không cung cấp tín dụng dưới hình thức hàng hoá. Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được bổ sung, sữa đổi năm 2004 quy định cụ thể về hoạt động tín dụng và cấp tín dụng của TCTD như sau: “Hoạt động tín dụng là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác” [21] . Như vậy, tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các TCTD với các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. 1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có phạm vi hoạt động rộng và đa dạng, việc phân loại chỉ có tính chất tương đối. Trên cơ sở các căn cứ phân loại khác nhau ta có các hình thức tín dụng khác nhau. 1.2.2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng Căn cứ theo tiêu thức này người ta chia tín dụng thành 3 loại: - Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại hình tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì trong một thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và ngân hàng thường luôn dự tính được những biến động đó. Tín dụng ngắn hạn bao gồm chiết khấu, thấu chi, tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động. - Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn lớn hơn 5 năm được sử dụng để cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các nhà máy mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay…). Loại tín dụng này thường có mức độ rủi ro lớn do khó lường trước được những biến động có thể xảy ra. 1.2.2.2. Căn cứ vào mục đích tín dụng Căn cứ theo tiêu thức này người ta chia tín dụng thành hai loại: - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức cấp tín dụng phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh, nó được áp dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. - Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu mua sắm nhà cửa, các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống. Với hình thức cấp tín dụng này ngân hàng chỉ quan tâm đến nguồn trả nợ và thu nhập của khách hàng mà ít quan tâm đến việc sử dụng khoản tín dụng có hiệu quả hay không do đó loại tín dụng này có mức độ rủi ro cao hơn. 1.2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng Căn cứ theo tiêu thức này tín dụng được chia thành hai loại: - Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. - Cho vay không có bảo đảm (tín chấp): là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. 1.2.2.4. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng Căn cứ theo tiêu thức này có thể chia tín dụng thành 4 loại: - Chiết khấu thương phiếu. Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng thường ký với khách hàng hợp đồng chiết khấu. Khi cần chiết khấu khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của chiết khấu thương phiếu tương đối cao (trừ trường hợp ngân hàng thực hiện chiết khấu miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, NHTM có thể tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp. - Cho vay: là loại hình thông dụng nhất trong hoạt động tín dụng, nó có nghĩa là ngân hàng cho khách hàng vay tiền để phục vụ cho những mục đích khác nhau của khách hàng. Cho vay có các loại sau: + Thấu chi: “là một kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống” [2]. + Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. + Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tín dụng tối đa mà ngân hàng cấp cho khách hàng. + Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng cho doanh nghiệp vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp thu tiền bán hàng. + Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả làm nhiều lần gốc và lãi trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán phù hợp với khả năng trả nợ. + Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Phần lớn các ngân hàng áp dụng hình thức cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển thêm hình thức này. - Cho thuê tài sản (thuê- mua): Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay để khách hàng mua tài sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ (hoặc chưa đủ điều kiện) để vay vốn. Để mở rộng tín dụng, NHTM đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng và cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả được nợ, điều này sẽ giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng. - Bảo lãnh: là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh có 3 bên: bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng là bên được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh là bên thứ ba. 1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Hoạt động tín dụng có chất lượng sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra sự ổn định trong lưu thông tiền tệ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của tín dụng ngân hàng cũng ngày một tăng lên, thể hiện: Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế các doanh nghiệp hoạt động SXKD dựa trên nguồn vốn tự có và vốn tài trợ từ bên ngoài như: ngân hàng, doanh nghiệp khác. Trong đó vốn tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả, bởi vì nó thoả mãn nhu cầu về số lượng và thời hạn, đồng thời chi phí sử dụng vốn tín dụng ngân hàng thường thấp hơn chi phí sử dụng các nguồn vốn khác. Thứ hai, tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Vì ngân hàng luôn thu hút tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt động đó, ngân hàng thu được lợi tức từ hoạt động cho vay để duy trì phát triển hoạt động của chính bản thân mình. Tuy vậy, trong cơ chế thị trường hiện nay, huy động và cho vay bao nhiêu, có đáp ứng được hay không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, thu hồi vốn có đúng hạn hay không là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do đó, mỗi ngân hàng cần phải có nghệ thuật trong kinh doanh, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn với chi phí thấp nhất để cho vay. Có thể nói, tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội. Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ để tái sản xuất, mở rộng hoạt động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu bằng tiền và kết thúc bằng tiền. Do đó, để tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới...Tất cả những công việc trên đòi hỏi phải có nhiều vốn mà tín dụng ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó một cách đầy đủ và kịp thời nhất. Mặt khác, vốn ngân hàng cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với đều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn quy định. Vì vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay của vốn, trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Chính quá trình này đã góp phần tạo cho nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển. Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước phải luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong đó, đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác thông dụng và phổ biến giữa các nước.Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một nhà kinh doanh nào cũng đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động tín dụng sẽ là “nhà tài trợ” đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Thứ năm, tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, kiểm soát tiền vào kênh lưu thông qua kênh tín dụng. Bởi vì, ngân hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi ngân hàng mở rộng hoặc thắt chặt tín dụng sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông. Do đó, khi Nhà nước muốn tăng khối lượng tiền trong lưu thông thì NHNN có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM đối với nền kinh tế và ngược lại. Thứ sáu, tín dụng ngân hàng góp phần thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế. Qua việc cung ứng vốn sẽ góp phần mở rộng đầu tư bằng việc cấp vốn cho các doanh nghiệp đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh tế, tiết kiệm trong hoạt động kinh doanh. Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nó giải quyết mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, để tín dụng ngân hàng phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý ngân hàng, các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người vay và người đi vay trong nền kinh tế. 1.3. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG 1.3.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ được hiểu là toàn bộ tính năng của sản phẩm, dịch vụ phù hợp với điều kiện quy định nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu xã hội. Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các doanh nghiệp, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì trước hết cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Chất lượng tín dụng được hiểu một cách khái quát nhất đó là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của tổ chức tín dụng cung cấp sản phẩm tín dụng đó. Theo từ điển Weekipedia thì: “Chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh mức độ rủi ro trong bảng tổng hợp cho vay của một tổ chức tín dụng. Để phản ánh về chất lượng tín dụng, có rất nhiều chỉ tiêu nhưng nói chung người ta thường quan tâm đến: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo”[25] . Trong thực tế, xuất phát từ bản chất của tín dụng là mối quan hệ giữa người vay và người cho vay, liên quan đến nhiều chủ thể kinh tế và có vai trò cực kỳ to lớn trong nền kinh tế nên chất lượng tín dụng được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau: - Đối với nền kinh tế: Tín dụng có chất lượng nghĩa là phải huy động được tối đa lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và thực hiện cho vay đầu tư phát triển nền kinh tế theo định hướng của Nhà nước một cách có hiệu quả nhất. Tức là việc đầu tư tín dụng sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo ra các sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, giá thành hạ. Đồng thời, thông qua đó sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ kinh tế vĩ mô của Nhà nước như: hợp lý hoá cơ cấu nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện cuộc sống người dân, củng cố quan hệ kinh tế đối ngoại quốc gia, đặc biệt là góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Đối với khách hàng vay vốn: Chất lượng tín dụng chính là chất lượng sản phẩm tín dụng do ngân hàng cung cấp. Chất lượng tín dụng cao đồng nghĩa với với việc vốn vay được cung ứng đủ về số lượng, đúng thời hạn và lãi suất hợp lý với thời gian xét duyệt nhanh chóng, thái độ tận tình, chu đáo. Từ đó, tạo điều kiện cho khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có nguồn thu nhập ổn định để trả nợ vay ngân hàng, giúp khách hàng và ngân hàng phát triển hoạt động kinh doanh của mình. - Đối với ngân hàng: Nguyên tắc cơ bản nhất đối với hoạt động tín dụng ngân hàng đó là vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn. Nên nói đến chất lượng tín dụng là nói đến khoản tín dụng được bảo đảm an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường, làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển. Như vậy, chất lượng tín dụng là mức độ thoả mãn nhu cầu và hiệu quả của nền kinh tế, của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng. 1.3.2. Đặc điểm của chất lượng tín dụng Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân hàng và khách hàng. Bởi vậy chất lượng tín dụng ngân hàng không những phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng. Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn…), vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế…). Chất lượng tín dụng vừa chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ, đạo đức của cán bộ ngân hàng và khách hàng…) và khách quan (sự thay đổi của môi trường kinh tế xã hội như khuynh hướng phát triển kinh tế, môi trường pháp lý…). Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. 1.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của NHTM Các nhà kinh tế, các nhà phân tích ngân hàng, các cơ quan quản lý, các nhà quản lý ngân hàng khi đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng đã sử dụng rất nhiều các chỉ tiêu khác nhau. Nhìn chung, khi đánh giá chất lượng tín dụng người ta thường dùng các chỉ tiêu định tính và định lượng. 1.3.3.1. Chỉ tiêu định tính Là những chỉ tiêu mang tính tương đối, rất khó xác định thường được dùng để đánh giá chất lượng tín dụng một cách khái quát. Các chỉ tiêu định tính thường bao gồm: Thứ nhất, đó là việc đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc cho vay nhằm hạn chế đến mức tối đa rủi ro cho ngân hàng và thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ. Thứ hai, đó là uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, sự hài lòng của khách hàng đối với các sản phẩm tín dụng mà ngân hàng cung cấp về quy mô, lãi suất, phí, thời gian phục vụ… Thứ ba, là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, khả năng ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong quá trình cung cấp tín dụng nhằm rút ngắn thời gian phục vụ nhưng vẫn đảm bảo thu thập, lưu trữ đầy đủ thông tin để giúp ngân hàng có thể khai thác, phát hiện và ngăn ngừa rủi ro. Thứ tư, là việc phối hợp tốt với các cơ quan chức năng như: công chứng, trung tâm giao dịch đảm bảo, các tổ chức, đoàn thể để làm tốt công tác cho vay. Các chỉ tiêu định tính rất khó xác định và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng và người quản lý cũng như các mối quan hệ của họ với khách hàng vì vậy trên thực tế khi nói đến chất lượng tín dụng thường người ta chú ý nhiều đến các chỉ tiêu mang tính định lượng. 1.3.3.2. Chỉ tiêu định lượng - Doanh số cho vay Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế, là chỉ tiêu phản ánh chính xác tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một khoảng thời gian. Do đó, nếu kết hợp doanh số cho vay của các thời kỳ liên tiếp thì có thể thấy được xu hướng hoạt động tín dụng của NHTM. - Tổng dư nợ Chỉ tiêu này cũng tương tự như chỉ tiêu doanh số cho vay, tuy nhiên nó là chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm nhất định. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ ngân hàng không có khả năng mở rộng được mạng lưới khách hàng, hoạt động tín dụng yếu kém, khả năng tiếp thị khách hàng chưa tốt. Tuy nhiên không phải chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng tốt bởi lẽ khi ngân hàng cho vay vượt quá mức giới hạn cũng là lúc ngân hàng bắt đầu chấp nhận những rủi ro về tín dụng. Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô tín dụng đồng thời cũng phản ánh uy tín của ngân hàng. Khi so sánh tổng dư nợ của ngân hàng với thị phần tín dụng của ngân hàng sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của ngân hàng là cao hay thấp. - Tỷ lệ nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm nhất định thường là cuối tháng, cuối quí, cuối năm. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của một NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng có độ an toàn cao tức là mức độ rủi ro thấp. Tuy vậy, trên thực tế để đánh giá chính xác hơn chất lượng hoạt động tín dụng của một ngân hàng thì người ta chia tỷ lệ nợ quá hạn thành hai loại: tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi và tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng trong đó bao nhiêu phần trăm là nợ có khả năng thu hồi và bao nhiêu phần trăm là nợ không có khả năng thu hồi, khi đó ta mới có thể đánh giá chính xác được chất lượng tín dụng của ngân hàng. - Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Theo quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì: “ Trong thời hạn tối đa 3 năm kể từ ngày quy định này có hiệu lực, tổ chức tín dụng phải xây dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế của tổ chức tín dụng”[17]. Quyết định 493 cũng quy định về việc phân loại nợ đối với các tổ chức tín dụng thực hiện theo điều 7 (các tổ chức tín dụng đã có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ) như sau: + Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn. + Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. + Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. + Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất cao. + Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Trong đó các khoản nợ từ nhóm 3 trở lên được xem là các khoản nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ - Thu nhập từ hoạt động cho vay Hoạt động tín dụng tuy chứa nhiều rủi ro nhưng là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng. Do vậy, chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động cho vay là chỉ tiêu cần thiết để đo khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Chính vì vậy, ngoài việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng còn phải tăng được thu nhập từ hoạt động cho vay. - Hiệu suất sử dụng vốn Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ vốn cho vay trong tổng nguồn vốn huy động. Nó xem xét, đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng về vốn của bản thân ngân hàng cũng như của nền kinh tế hay chưa. Hiệu suất sử dụng vốn = tổng dư nợ/ tổng vốn huy động. Tỷ lệ này trên thực tế giao động từ 30% đến 100%. Thông thường vào khoảng trên 80% là tốt, còn nếu dưới hoặc trên mức đó, thậm chí xấp xỉ 100% có thể sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới ngân hàng. Lúc đó tính thanh khoản của ngân hàng sẽ bị đe dọa do khối lượng dự trữ không được đảm bảo. 1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng Có rất nhiều nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng nhưng chung quy lại có thể phân thành 3 nhóm nhân tố chủ yếu là: các nhân tố về môi trường hoạt động, các nhân tố từ phía khách hàng vay vốn và các nhân tố từ ngân hàng. 1.3.4.1. Các nhân tố về môi trường hoạt động - Môi trường kinh tế Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền kinh tế, từng giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt động của ngân hàng. Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp, không có khủng hoảng, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả, doanh nghiệp sẽ hoàn trả được vốn vay ngân hàng đúng hạn cả gốc và lãi tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của ngân hàng phát triển, chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngược lại trong thời kỳ suy thoái kinh tế, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút, lạm phát cao, nhu cầu tín dụng giảm, vốn tín dụng không được đầu tư hiệu quả, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng giảm sút về quy mô và chất lượng. Sự phù hợp giữa lãi suất cho vay của ngân hàng với mức lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng ngân hàng. Với mức lãi suất cao, chi phí trả lãi lớn sẽ là yếu tố làm cho giá thành sản phẩm dịch vụ tăng cao (nhất là đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều vốn vay ngân hàng), trong khi đó giá bán thì lại phụ thuộc vào cung cầu trên thị trường nên rất khó tăng theo, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh nên sẽ khó khăn trong việc trả nợ vay ngân hàng do đó mà chất lượng tín dụng cũng giảm sút. - Môi trường pháp lý và cơ chế chính sách Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, pháp luật có vai trò quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế vận hành một cách trôi chảy. Với vai trò đảm bảo cho việc chuyển từ một nền kinh tế thị trường tự phát, kém tổ chức sang một nền kinh tế thị trường văn minh, pháp luật chính là hàng rào pháp lý tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế. Vì vậy pháp luật có ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Một hệ thống pháp luật đồng bộ cộng với ý thức tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng chính là cơ sở đảm bảo cho chất lượng tín dụng được nâng cao. Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách khuyến khích, hạn chế đầu tư đều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của ngân hàng và từ đó tác động đến chất lượng tín dụng. 1.3.4.2. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng Khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay ngân hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu đời sống của mình do vậy mà chất lượng tín dụng ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng lớn từ phía khách hàng. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập ổn định sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vốn vay của ngân hàng khi đến hạn, qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng. Các khách hàng lớn của ngân hàng thông thường là các doanh nghiệp. Những nhân tố thuộc về phía khách hàng tác động đến chất lượng tín dụng bao gồm: - Vốn và khả năng tài chính của khách hàng Vốn và khả năng tài chính của khách hàng là cơ sở nền tảng cho hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nguồn vốn lớn, có sự tự chủ, ít phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng sẽ có khả năng trả nợ ngân hàng cao hơn doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng. - Trình độ khả năng của đội ngũ lãnh đạo và cán bộ của các doanh nghiệp là khách hàng vay vốn Đây là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường để doanh nghiệp đứng vững được đòi hỏi phải giải quyết tốt 3 vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Trong điều kiện trình độ sản xuất phát triển nhu cầu tiêu dùng thường xuyên thay đổi, môi trường cạnh tranh gay gắt với những nguồn lực hạn chế thì quyết định trong kinh doanh càng khó, nó đòi hỏi tập thể người lao động mà đặc biệt là cán bộ lãnh đạo phải có kiến thức, kinh nghiệm và trình độ để có thể đưa ra được quyết định đúng đắn, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp Trên cơ sở nhận định một cách khách quan, chính xác khả năng phát triển sản xuất của doanh nghiệp, thị hiếu của người tiêu dùng với sản phẩm của doanh nghiệp mình cùng với những yếu tố thuận lợi, khó khăn của môi trường, doanh nghiệp sẽ quyết định kế hoạch chiến lược mở rộng, thu hẹp hay ổn định sản xuất, từ đó xây dựng các kế hoạch cụ thể về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh đúng đắn quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. - Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và hoạt động marketing Doanh nghiệp tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh khoa học sẽ nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Sản phẩm sẽ được nhiều người biết đến và đến tay người tiêu dùng một cách dễ dàng là cơ sở nền tảng để doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch đã đề ra giúp sản phẩm của doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường. Khi đó doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng vòng quay và hiệu quả sử dụng vốn. - Tư cách, đạo đức của người vay Tư cách đạo đức xét trên phương diện ý muốn hoàn trả khoản nợ vay. Trong nhiều trường hợp người vay có ý muốn chiếm đoạt vốn, không hoàn trả nợ vay mặc dù có khả năng trả nợ, điều này đã gây ra những rủi ro không nhỏ cho ngân hàng. 1.3.4.3. Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng Đây là những nhân tố thuộc về bản thân, nội tại ngân hàng liên quan đến sự phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng gồm: chiến lược phát triển, chính sách tín dụng, mô hình tổ chức quản lý, năng lực, đạo đức cán bộ, quy trình nghiệp vụ, quy trình kiểm tra, kiểm soát và trang thiết bị. - Chiến lược phát triển của ngân hàng Chiến lược phát triển của ngân hàng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Một chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp sẽ đảm bảo cho ngân hàng phát triển một cách bền vững. Ngược lại một chiến lược không phù hợp sẽ làm chậm tiến độ phát triển hoặc có thể dẫn đến khó khăn như kinh doanh thua lỗ, phá sản… - Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng của một ngân hàng là hệ thống các biện pháp liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, định hướng tín dụng theo ngành nghề…Chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Bất cứ ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng cao đều phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của mình và xu hướng của thị trường. - Mô hình tổ chức quản lý của ngân hàng Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ, nhân viên, các phòng ban trong ngân hàng, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn bộ hệ thống cũng như với các cơ quan liên quan khác, tạo điều kiện cho ngân hàng đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng đồng thời giúp ngân hàng theo dõi, quản lý tốt các khoản vốn huy động cũng như các khoản cho vay từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng. - Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt thì yêu cầu trình độ của người lao động ngày càng cao. Đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức, có năng lực trong việc quản lý đơn xin vay, thẩm định, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền vay và có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi nợ vay của ngân hàng sẽ giúp ngân hàng ngăn ngừa được những rủi ro khi thực hiện cấp tín dụng. - Quy trình tín dụng Đây là trình tự những giai đoạn, những bước công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ. Bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng đảm bảo tính khoa học và việc thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước. Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính: + Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Trong giai đoạn này chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng, thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh và việc chấp hành các quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng. + Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay: Việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp kiểm tra sẽ giúp ngân hàng giám sát được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng từ đó hạn chế các khoản vay không sử dụng đúng mục đích - là những khoản vay tiềm ẩn nhiều rủi ro. + Thu nợ và thanh lý: Sự linh hoạt của Ngân hàng trong khâu thu nợ sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro, hạn chế những khoản nợ quá hạn, bảo toàn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng. - Thông tin tín dụng Trong hoạt động ngân hàng thông tin tín dụng hết sức cần thiết và là cơ sở để xem xét, quyết định cho vay hay không cho vay và theo dõi, quản lý khoản cho vay với mục đích đảm bảo an toàn và hiệu quả. Thông tin tín dụng có thể thu được từ nhiều nguồn: hồ sơ vay vốn, phỏng vấn khách hàng, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Thông tin càng đầy đủ, chính xác và kịp thời, toàn diện thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao. - Kiểm soát nội bộ Thông qua kiểm tra kiểm soát giúp lãnh đạo ngân hàng nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, những thuận lợi, khó khăn trong việc chấp hành những quy định pháp luật, nội quy, quy chế, chính sách, thủ tục tín dụng từ đó giúp lãnh đạo ngân hàng có đường lối, chủ trương phù hợp để giải quyết những khó khăn, vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi để nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh. - Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng Trang thiết bị tuy không phải là yếu tố cơ bản nhưng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin hiện nay, các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng thu nhận và xử lý thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác, trên cơ sở đó có quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh, giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện nhanh chóng. Tóm lại, qua việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cho thấy rằng tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện về pháp lý của từng nước mà những nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau đến chất lượng tín dụng của các NHTM. Vấn đề là phải nắm vững những nhân tố ảnh hưởng và vận dụng sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể thì sẽ tìm được giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.3.5. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng Quá trình ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa đã làm nẩy sinh quan hệ tín dụng bắt đầu từ cho vay nặng lãi, tín dụng thương mại và đến tín dụng ngân hàng. Đó là quy luật mang tính tất yếu và khách quan. Khi tín dụng ngân hàng hoạt động có hiệu quả sẽ tác động trở lại đối với sản xuất hàng hóa, làm cho lưu thông hàng hóa không bị ách tắc, chu kỳ sản xuất được rút ngắn, tăng vòng quay vốn, tiết kiệm được vốn và chi phí, giá cả hàng hóa giảm, hàng hóa được tiêu thụ nhiều hơn và từ đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như lợi ích của toàn xã hội. Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại thì huy động vốn và cho vay là hai hoạt động cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ở các nước trên thế giới hoạt động tín dụng thường mang lại khoảng trên 50% nguồn thu cho ngân hàng, trong khi đó ở Việt Nam con số này chiếm khoảng trên 70%. Điều đó cho thấy nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn là nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn nhất của các ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đã trở thành vấn đề sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Sự yếu kém về chất lượng tín dụng luôn trở thành nguy cơ gây nên sự phá sản của ngân hàng, thậm chí gây cản trở cả hệ thống ngân hàng do hiệu ứng dây chuyền. Chính vì vậy trong hoạt động của mình, các NHTM luôn lấy chất lượng tín dụng làm tiêu thức quan tâm hàng đầu sau đó mới đến các tiêu chí khác. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng thể hiện qua một số điểm sau: Thứ nhất, nâng cao chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho các ngân hàng đảm bảo an toàn vốn, tài sản của mình cũng như của khách hàng gửi tiền. Có như vậy thì ngân hàng mới bảo toàn và phát triển được nguồn vốn, đồng thời có đảm bảo được an toàn thì ngân hàng mới thu hút được khách hàng gửi tiền, từ đó mới có đủ vốn để phát triển tín dụng. Thứ hai, nâng cao chất lượng tín dụng thì mới nâng cao được hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nếu không nâng cao chất lượng tín dụng sẽ dẫn đến phát sinh các khoản nợ quá hạn hoặc các khoản nợ không thu hồi được và ngân hàng phải lấy từ nguồn dự phòng rủi ro để bù đắp cho các khoản tín dụng này. Chất lượng tín dụng càng thấp thì ngân hàng càng phải trích và sử dụng nhiều dự phòng rủi ro do đó mà lợi nhuận giảm, dẫn đến hiệu quả kinh doanh sẽ giảm. Thứ ba, nâng cao chất lượng tín dụng là để đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế và thực hiện đầy đủ chức năng, vai trò của ngân hàng thương mại. Nếu việc nâng cao chất lượng tín dụng không được coi trọng, xuất hiện rủi ro thì sẽ dẫn đến việc luân chuyển vốn trong nền kinh tế trì trệ, từ đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. 1.4. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRONG NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI 1.4.1. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 Năm 2008, nước Mỹ đã rung chuyển trong cuộc đại suy thoái kinh tế khiến cho toàn bộ nền kinh tế thế giới phải một phen chao đảo. Theo các chuyên gia kinh tế thế giới thì nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng trên bắt nguồn từ việc các ngân hàng thương mại ở Mỹ chưa chú trọng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng, quá dễ dãi, tùy tiện khi cho khách hàng vay tiền để mua bất động sản qua các hợp đồng cho vay không đạt chuẩn. Trong vòng 10 năm trở lại đây thị trường nhà đất ở Mỹ phát triển mạnh nên các ngân hàng, tổ chức cho vay đã phát triển mạnh việc cho vay để đầu tư bất động sản kể cả thực hiện các hợp đồng cho vay không đạt chuẩn và khuyến khích cả những người không đủ khả năng tài chính để chi trả cũng vay tiền để mua nhà. Ngoài ra, để thu hút khách hàng các tổ chức cho vay còn tạo ra những hợp đồng với lãi suất thấp trong những năm đầu và sau đó điều chỉnh lại theo lãi suất thị trường nên hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay không đòi được nợ. Trong khi đó các tổ chức tài chính phố Wall lại gom các hợp đồng cho vay đầu tư bất động sản lại để làm tài sản đảm bảo phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính thế giới. Các trái phiếu này đã được các ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư trên toàn thế giới mua mà không biết rằng các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm là không đủ tiêu chuẩn. Trong vài năm trở lại đây, thị trường bất động sản liên tiếp hạ nhiệt, người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại khó bán bất động sản, thậm chí kể cả bán được thì giá trị của bất động sản cũng rất thấp, không đủ để thanh toán các khoản nợ vay. Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các trái phiếu là nợ khó đòi, các trái phiếu mất giá trên thị trường thứ cấp, thậm chí không còn mua bán được trên thị trường khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm trái phiếu này bị lỗ nặng và mất khả năng thanh toán, làm cho các ngân hàng này sụp đổ kéo theo cuộc khủng hoảng tài chính. Từ nguyên nhân của cuộc khủng hoảng trên chúng ta thấy rằng việc nâng cao chất lượng tín dụng luôn luôn là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu bởi vì nếu không quan tâm đến chất lượng tín dụng thì rất dễ dẫn đến rủi ro tín dụng mà tác động của rủi ro tín dụng là rất lớn, không những đối với kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn cả đối với nền kinh tế. 1.4.2. Nâng cao chất lượng tín dụng tại một số nước Đông Á và Đông Nam Á Tại một số nước Đông Á và Đông Nam Á, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 các khoản nợ khó đòi đã tăng lên nhanh chóng và phá vỡ sự cân bằng trong bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng thương mại khiến các ngân hàng này không thể đạt mức chuẩn (8%) về tỷ lệ vốn trên tài sản có rủi ro của ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS). Các khoản cho vay khó đòi trong khu vực không những lớn về giá trị tuyệt đối như trên 700 tỷ USD ở Nhật Bản hay 200 tỷ USD ở Trung Quốc mà còn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng dư nợ tín dụng của các quốc gia như khoảng 70% ở Indonesia, 36% ở Thái Lan, 17% ở Malaixia và 16% ở Philipin, trong khi mức cho phép theo thông lệ quốc tế là 5%. Gánh nặng nợ khó đòi chồng chất đã dẫn ngân hàng thương mại đến bờ vực phá sản. Vì vậy Chính phủ cũng như các ngân hàng đã phải đề ra nhiều biện pháp để cải thiện chất lượng tín dụng của mình. - Về phía Chính phủ Chính phủ thắt chặt quản lý các khoản nợ khó đòi của các ngân hàng bằng cách áp dụng tiêu chuẩn kế toán tiên tiến trên thế giới để phân loại, xác định lại các khoản cho vay khó đòi là những khoản cho vay không trả được lãi trong vòng 3 tháng trở lên thay vì 6 tháng như trước đây. Chính phủ cũng đã thúc đẩy việc thành lập các tổ chức tài chính đảm trách việc xử lý có hiệu quả các khoản cho vay khó đòi như các công ty mua bán nợ, công ty quản lý nợ ngân hàng, công ty mua bán tài sản thế chấp. Để tăng năng lực tài chính cho các ngân hàng, Chính phủ đã đầu tư tái tạo vốn cho hệ thống ngân hàng. Nguồn tiền để tái tạo vốn được lấy từ ngân sách, từ phát hành trái phiếu hoặc vay các tổ chức tài chính quốc tế. Ngoài ra Chính phủ còn giành một phần tiền để mua lại các khoản nợ xấu của các ngân hàng. Trong khi Chính phủ Thái Lan chú trọng nới lỏng các giới hạn về quyền sở hữu nước ngoài với các ngân hàng, cho phép người nước ngoài nắm giữ tối đa các cổ phần trong thời hạn 10 năm thì Chính phủ Nhật lại ban hành luật mới về quản lý ngoại hối, cho phép các tổ chức và cá nhân được mở tài khoản JPY tại các ngân hàng nước ngoài cũng như cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép mở tài khoản bằng USD tại các ngân hàng Nhật. Chính phủ cũng đã thực hiện giải thể, sát nhập hoặc quốc hữu hóa một số ngân hàng thương mại. - Về phía các ngân hàng Các ngân hàng đã thực hiện việc xử lý mạnh các khoản nợ khó đòi bằng các giải pháp như xoá nợ, bán hoặc cơ cấu lại nợ. Tại Hàn Quốc 15 ngân hàng cỡ quốc gia đã phải xoá 2.000 tỷ won các khoản nợ khó đòi. Các ngân hàng thương mại Nhật Bản đã bán được các khoản nợ vay khó đòi trị giá khoảng 4.000 tỷ JPY. Đồng thời ngân hàng cũng đã thắt chặt các thủ tục cho vay như quy định số lượng tối đa các tổ chức, cá nhân có thể vay tiền cùng một lúc, nghiêm khắc đánh giá tình trạng tín dụng của mình và ngừng cho vay các khách hàng không đảm bảo. Ngoài ra các ngân hàng còn chú trọng đến việc tổ chức, cũng cố, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định tín dụng. Từ đó chúng ta thấy rằng, nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại phải là vấn đề được quan tâm thường xuyên chứ không phải đợi đến khi phát sinh các khoản nợ xấu rồi mới tập trung xử lý vì khi đó để xử lý các khoản nợ xấu này sẽ rất tốn kém và đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ từ phía Chính phủ và cả bản thân các ngân hàng thương mại. 1.4.3. Nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Cách đây vài năm VPbank là một trong số các NHTM hoạt động yếu kém, hiệu quả thấp, quy mô nhỏ. Đặc biệt là hoạt động tín dụng rơi vào tình trạng xấu, có dấu hiệu rủi ro cao, nợ quá hạn tăng đột biến, khả năng thanh toán kém vì vậy được xếp vào tình trạng quản lý đặc biệt của NHNN. Dưới sự chỉ đạo của NHNN, ban lãnh đạo VPbank đã sắp xếp cải tổ lại toàn bộ hoạt động của mình, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Sau 2 năm, hoạt động của VPbank đã có nhiều khởi sắc, dần đi vào ổn định và hiệu quả, quy mô ngày càng được mở rộng, thoát khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt, nợ xấu giảm xuống dưới 1%. Để đạt được kết quả đó, VPbank đã tích cực trong việc tìm giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng. Trong đó, việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro đã được VPbank đặc biệt chú trọng, thể hiện ở một số điểm: - Ban hành sổ tay tín dụng Sổ tay tín dụng là cuốn cẩm nang hệ thống và tổng hợp các quy định chung, các bước cơ bản mà mỗi cán bộ tín dụng cần thực hiện trong quy trình tác nghiệp. Sổ tay tín dụng được xây dựng với mục đích trở thành công cụ hỗ trợ quan trọng cho mỗi cán bộ tín dụng tra cứu để thực hiện phần hành công việc của mình một cách nhuần nhuyễn. Bên cạnh đó sổ tay tín dụng còn đề cập đến nội dung quản lý rủi ro tín dụng để các nhà quản lý có thể điều hành tín dụng trong khuôn khổ pháp lý và để kiểm soát, loại trừ các rủi ro tín dụng đã được lường trước. - Xây dựng quy trình kiểm tra, giám sát vốn vay Các nhân viên phòng nghiệp vụ trực tiếp giải quyết và quản lý hồ sơ các khoản vay có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay, việc trả nợ, kiểm tra tình hình tài sản đảm bảo của khách hàng để hạn chế các rủi ro nhằm đảm bảo an toàn vốn vay. Đánh giá mức độ tín nhiệm và phân loại khách hàng, kịp thời phát hiện và xử lý những vi phạm để đảm bảo hoạt động tín dụng luôn an toàn, hiệu quả. Việc kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay phù hợp với VPbank và đặc điểm kinh doanh, sử dụng vốn của khách hàng. - Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của VPbank được xây dựng cho đối tượng khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân. Thông qua hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để tiến hành chấm điểm, xếp loại khách hàng từ đó xây dựng các chính sách khách hàng phù hợp với từng nhóm khách hàng. Mục tiêu của chính sách khách hàng nhằm tăng cường quan hệ, có chính sách ưu tiên về lãi suất, phí, điều kiện tài sản đảm bảo với các nhóm khách hàng xếp hạng cao và ngược lại, hạn chế quan hệ tín dụng, tăng cường các biện pháp đảm bảo với các nhóm khách hàng xếp hạng thấp hơn. Từ việc nâng cao chất lượng tín dụng của VPbank chúng ta thấy rằng: để chất lượng tín dụng được nâng cao thì đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, thực hiện chính sách khách hàng và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, quản trị rủi ro là những giải pháp quan trọng nhất. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH QUẢNG BÌNH 2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH QUẢNG BÌNH 2.1.1. Tổng quan về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (tiền thân là Ngân hàng kiến thiết Việt Nam) được thành lập chính thức vào ngày 26/04/1957 theo quyết định số 177/TTg của Thủ tướng Chính phủ, cơ quan chủ quản là Bộ Tài chính với mục đích chính khi thành lập là cấp phát vốn cho sự nghiệp tái thiết và xây dựng lại đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Năm 1983, theo chủ trương chuyển dịch ngân hàng sang cơ chế thương mại, Ngân hàng Đầu tư chuyển từ Bộ Tài chính sang trực thuộc sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bắt đầu từ đó Ngân hàng Đầu tư hoạt động như một ngân hàng thương mại với nhiều nghiệp vụ mới được mở ra như: cho vay, huy động vốn, thanh toán. Đặc biệt từ năm 1995, khi nhiệm vụ cấp phát vốn được chuyển sang Tổng cục Đầu tư (thuộc Bộ Tài chính) thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã hoàn toàn trở thành một ngân hàng thương mại. Từ khi thành lập đến nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những tên gọi: - Từ ngày 26/4/1957 đến ngày 25/4/1981: Ngân hàng kiến thiết Việt Nam. - Từ ngày 26/4/1981 đến ngày 13/11/1990: Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. - Từ ngày 14/11/1990 đến nay: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Hiện nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong bốn Ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam, là Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước mang tính hệ thống thống nhất bao gồm hơn 110 Chi nhánh cấp 1, hàng nghìn Phòng giao dịch và Điểm giao dịch, 5 công ty trực thuộc trong toàn quốc, có 5 đơn vị liên doanh với nước ngoài, góp vốn với 5 tổ chức tín dụng. 2.1.2. Đặc điểm của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình 2.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển Tiền thân của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình là tổ cấp phát xây dựng cơ bản của ngành Tài chính chỉ gồm 3 cán bộ được thành lập từ năm 1957, ngay sau khi thành lập Ngân hàng kiến thiết Việt Nam. Trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, tên gọi, chức năng nhiệm vụ của Chi nhánh luôn gắn liền với tên gọi, chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Dù mang tên gọi nào, với mô hình hoạt động nào thì Chi nhánh vẫn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình. Trong đó, 37 năm (từ 1957 – 1994) làm nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách cho XDCB, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình đã hoàn thành xuất sắc không những nhiệm vụ cung ứng vốn mà còn kiểm tra, giám sát, tham gia chủ trương đầu tư, thẩm tra dự toán, kiểm tra, nghiệm thu khối lượng hoàn thành và quyết toán công trình, góp phần đưa nhanh công trình vào sử dụng, tiết kiệm, chống lãng phí, hạ thấp giá thành, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Từ năm 1995, khi chuyển hoàn toàn sang hoạt động kinh doanh thương mại, Chi nhánh đã đổi mới mạnh mẽ từ tổ chức, cán bộ, phạm vi, hình thức hoạt động để góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu chính sách tiền tệ phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện CNH-HĐH đất nước. Đặc biệt là chuyển sang hoạt động kinh doanh phục vụ chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư phát triển và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế theo cơ chế thị trường, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng, quy mô hoạt động của Chi nhánh đã tăng lên nhanh chóng, hoạt động kinh doanh luôn đảm bảo an toàn, chất lượng và hiệu quả, 15 năm liên tục Chi nhánh luôn được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam công nhận là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. 2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1. Mô hình tổ chức hoạt động của BIDV Quảng Bình BAN GIÁM ĐỐC Khối trực thuộc Khối quản lý nội bộ Khối tác nghiệp Khối quản lý rủi ro Khối Quan hệ khách hàng Phòng GD Đồng Hới Phòng TC kế toán Phòng quản trị tín dụng Phòng QLRR Phòng QH KH 1 Phòng GD Nguyễn Trãi Phòng TC hành chính Phòng Dịch vụ KH DN Phòng QH KH 2 Phòng GD Bắc Lý Phòng KH tổng hợp Phòng Dịch vụ KH CN Phòng GD Bố Trạch Phòng Điện toán Phòng tiền tệ kho quỹ Từ tháng 9/2008 Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình thực hiện việc chuyển đổi mô hình tổ chức và hoạt động theo dự án TA2, theo đó mô hình tổ chức của Chi nhánh gồm có Ban giám đốc và 15 phòng được chia thành 5 khối. - Ban giám đốc Ban giám đốc của Chi nhánh gồm có Giám đốc và một Phó giám đốc. Trong đó, Giám đốc Chi nhánh là người điều hành chung và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về toàn bộ hoạt động, kết quả kinh doanh của Chi nhánh. Phó giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc theo sự phân công và ủy quyền, chịu trách nhiệm trước Giám đốc về các công việc được phân công, ủy quyền đó. - Khối quan hệ khách hàng Gồm có 2 phòng Quan hệ khách hàng với chức năng cơ bản là đầu mối thiết lập quan hệ với khách hàng, duy trì và không ngừng mở rộng mối quan hệ đối với khách hàng trên tất cả các mặt hoạt động, tất cả các sản phẩm ngân hàng nhằm đạt được mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh một cách an toàn, hiệu quả và tăng thị phần của BIDV Quảng Bình. - Khối quản lý rủi ro Phòng Quản lý rủi ro chịu trách nhiệm kiểm soát tất cả rủi ro tín dụng và các rủi ro khác của Ngân hàng, là người kiểm soát thứ hai đối với các giao dịch được đề xuất bởi khối quan hệ khách hàng và các đơn vị trực thuộc. Ngoài ra phòng Quản lý rủi ro còn thực hiện chức năng duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 và chức năng kiểm tra nội bộ. - Khối tác nghiệp Khối tác nghiệp gồm có 4 phòng: phòng Quản trị tín dụng; phòng Dịch vụ khách hàng doanh nghiệp; phòng Dịch vụ khách hàng cá nhân và phòng Tiền tệ kho quỹ. Các phòng thuộc khối tác nghiệp là nơi hoàn tất các giao dịch do các phòng Quan hệ khách hàng đã thực hiện, đề xuất và được phê duyệt, là bộ phận chịu trách nhiệm tác nghiệp cho các nghiệp vụ của ngân hàng như thanh toán, tiền vay, kinh doanh tiền tệ, tài trợ thương mại. Khối tác nghiệp chính là nơi hoàn thiện hồ sơ, xử lý giao dịch và lưu trữ chứng từ. - Khối quản lý nội bộ Gồm các phòng: Tài chính kế toán; Tổ chức hành chính; Kế hoạch tổng hợp và Điện toán. Các phòng thuộc khối quản lý nội bộ sẽ thực hiện các chức năng quản lý nội bộ như: xây dựng và theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch của Chi nhánh và các đơn vị trực thuộc; quản lý và thực hiện công tác hạch toán kế toán, thực hiện công tác hậu kiểm; thực hiện công tác tổ chức cán bộ và công tác hành chính. - Khối trực thuộc Khối trực thuộc gồm có bốn phòng Giao dịch, là các đơn vị trực thuộc Chi nhánh và là đại diện theo ủy quyền của Chi nhánh để thực hiện các hoạt động kinh doanh như: huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán và các hoạt động khác. 2.1.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh Mặc dù hoạt động trên địa bàn còn có nhiều khó khăn nhưng với truyền thống hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, trong những năm qua Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình đã luôn phấn đấu vươn lên bằng nhiều biện pháp, giải pháp tích cực, năng động sáng tạo đổi mới toàn diện trên mọi phương diện hoạt động nên hàng năm các chỉ tiêu chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh đều đạt mức tăng trưởng khá ổn định, hoàn thành xuất sắc kế hoạch kinh doanh được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao. Bảng 2.1. Kết quả một số chỉ tiêu chủ yếu của hoạt động kinh doanh Đơn vị tính: tỷ đồng TT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 So sánh (%) 07/06 08/07 1 Tổng tài sản 2.730 2.900 3.120 106,2 107,6 2 Nguồn vốn huy động 1.055 1.120 1.372 106,2 122,5 3 Dư nợ cho vay 2.496 2.692 2.891 107,9 107,4 4 Thu dịch vụ ròng 7 6 14 85,7 233,3 5 Lợi nhuận trước thuế 33 55 60 166,7 109,1 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006, 2007, 2008) - Hoạt động huy động vốn Huy động vốn luôn đóng vai trò then chốt trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại bởi vì đó là bước khởi đầu, là cơ sở cho các hoạt động khác. Do đó, công tác huy động vốn luôn được Chi nhánh chú trọng và xem là một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của mình. Trong những năm qua mặc dù hoạt động trên địa bàn còn có nhiều khó khăn do nền kinh tế tỉnh nhà chưa phát triển nên nguồn vốn tích lũy trong cộng đồng dân cư cũng như trong các doanh nghiệp không nhiều, trong khi đó trên địa bàn lại có nhiều ngân hàng hoạt động đã tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt trong công tác huy động vốn. Đặc biệt trong năm 2008, để kiềm chế lạm phát Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt bằng các biện pháp như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín chỉ bắt buộc ... làm cho nguồn vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại giảm. Do đó các ngân hàng thương mại đã tìm mọi biện pháp để đẩy mạnh nguồn vốn huy động làm cho sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, tạo nên một cuộc đua về lãi suất và các chính sách khuyến mại giữa các NHTM. Trong bối cảnh đó với trách nhiệm của một NHTM Nhà nước lớn trên địa bàn, Chi nhánh đã tiên phong trong việc can thiệp và hỗ trợ thị trường một cách toàn diện trên các mặt: tăng, giảm lãi suất phù hợp với chuyển biến của nền kinh tế; sử dụng linh hoạt các chính sách thu hút, chăm sóc khách hàng hợp lý, kết hợp với việc nghiên cứu, triển khai có kết quả nhiều sản phẩm huy động vốn mới nhằm đa dạng các hình thức huy động vốn để thích ứng với nhu cầu của khách hàng; tích cực tìm kiếm, phát triển khách hàng là các tổ chức kinh tế, các định chế tài chính ngoài địa bàn có lượng tiền gửi lớn, ổn định. Vì vậy, Chi nhánh đã duy trì và đạt được tốc độ tăng trưởng huy động vốn cao: Huy động vốn cuối kỳ đạt 1.372 tỷ đồng, tăng 22,5% so với đầu năm, đạt 109% kế hoạch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao. Trong đó, huy động vốn từ các tổ chức đạt 461 tỷ đồng, tăng 41% so với đầu năm; huy động vốn từ dân cư đạt 911 tỷ đồng, tăng 15% so với đầu năm; huy động vốn ngoại tệ đạt 305 tỷ đồng; huy động vốn VND đạt 1.067 tỷ đồng, tăng 31%. - Hoạt động tín dụng Trong hoạt động tín dụng Chi nhánh luôn bám sát mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và mục tiêu, nhiệm vụ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để đầu tư tín dụng, tạo bước đột phá góp phần thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà phát triển. Tham gia đầu tư vốn với tỷ trọng lớn vào các công trình quan trọng trên địa bàn tỉnh, thực hiện mạnh mẽ việc cơ cấu lại nền khách hàng, khoản vay, tiến tới minh bạch hoạt động tín dụng. Năm 2008, Chi nhánh đã thể hiện được vai trò tiên phong trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, góp phần bình ổn thị trường tiền tệ, tuân thủ và thực hiện tốt các giải pháp của Chính phủ, NHNN, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Hoạt động tín dụng được điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, đảm bảo tuân thủ việc thực hiện chính sách tiền tệ, đồng thời phù hợp với diễn biến thị trường và tình hình nguồn vốn. Tăng trưởng tín dụng được kiểm soát chặt chẽ trong 3 quý đầu năm nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và điều chỉnh kịp thời trong quý 4, đáp ứng vốn cho sản xuất, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Đến 31/12/2008, dư nợ tín dụng đạt 2.892 tỷ đồng, tăng 7,4% so với đầu năm, đảm bảo trong giới hạn tín dụng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao. Các chỉ tiêu về chất lượng tín dụng, cơ cấu tín dụng đều đạt và vượt kế hoạch đề ra: tỷ trọng dư nợ trung dài hạn trên tổng dư nợ 62%; tỷ trọng dư nợ cho vay ngoài quốc doanh trên tổng dư nợ 54%; tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ 86,4%; tỷ lệ nợ xấu 0,3%; Chi nhánh không có nợ quá hạn. - Hoạt động dịch vụ Năm 2008, trong điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn, Chi nhánh đã có các giải pháp, biện pháp điều hành hoạt động dịch vụ chặt chẽ, bài bản, chủ động, sáng tạo, triển khai nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ tích cực cho việc phát triển dịch vụ như: ban hành chính sách giá phí cho từng đối tượng khách hàng, cơ chế chia sẻ phí dịch vụ, cơ chế phối hợp... nên hoạt động kinh doanh dịch vụ đã có bước phát triển vượt bậc, trở thành ngân hàng có mức thu dịch vụ cao nhất trong hệ thống ngân hàng trên địa bàn. Thu dịch vụ ròng năm 2008 đạt 14,2 tỷ đồng, tăng 133,3% so với năm 2007, đạt 161% kế hoạch và chiếm 55% thị phần thu dịch vụ trên địa bàn. Đây cũng là năm đánh dấu bước tăng trưởng mạnh mẽ của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống, kể cả về doanh thu và chất lượng sản phẩm. Các dịch vụ thế mạnh của Chi nhánh như bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ tiếp tục phát huy lợi thế với mức tăng trưởng đạt 158% so với năm 2007. Các dịch vụ ngân hàng điện tử cũng có bước phát triển cao với số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ ngày càng tăng: đã có trên 1.500 khách hàng sử dụng dịch vụ BSMS, 120 doanh nghiệp, tổ chức sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản. Hoạt động kinh doanh thẻ có sự phát triển đáng kể về chất lượng dịch vụ và thu hút khối lượng khách hàng sử dụng thẻ khá lớn. Đến 31/12/2008, Chi nhánh đã phát hành được trên 13.000 thẻ ATM, đứng thứ hai trên địa bàn về số lượng thẻ phát hành và chiếm 22% thị phần hoạt động kinh doanh thẻ trên thị trường Quảng Bình. 2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH QUẢNG BÌNH Hoạt động tín dụng là một trong những thế mạnh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. Với việc đầu tư vốn tín dụng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hơn 70% doanh nghiệp trên địa bàn và tham gia đầu tư vào hầu hết các công trình, dự án trọng điểm như: dự án Cầu Quán Hàu, dự án cầu Sông Gianh, dự án BOT xây dựng đường tránh thành phố Đồng Hới và đặc biệt là dự án xây dựng nhà máy xi măng Sông Gianh (công suất 1,4 triệu tấn/năm với tổng mức đầu tư trên 3.000 tỷ đồng), trong những năm qua hoạt động tín dụng của Chi nhánh đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình. 2.2.1. Qui mô tín dụng Để hiểu rõ hơn về thực trạng tín dụng tại Chi nhánh, chúng ta sẽ xem xét qui mô tín dụng qua các năm. Bảng 2.2. Doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ của BIDV Quảng Bình Đơn vị: tỷ đồng TT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 So sánh (%) 07/06 08/07 1 Doanh số cho vay 1.391 1.343 1.381 96,5 102,8 2 Doanh số thu nợ 1.148 1.147 1.182 99,9 103,1 3 Dư nợ 2.496 2.692 2.891 107,9 107,4 ( Nguồn: Báo có cho vay thu nợ 2006, 2007, 2008) Tuy hoạt động trên địa bàn còn nhiều khó khăn song quy mô hoạt động tín dụng của Chi nhánh khá lớn, điều đó thể hiện qua doanh số cho vay, thu nợ và dư nợ tín dụng cuối kỳ. Mặc dù trên địa bàn tỉnh có đến 10 ngân hàng và tổ chức có hoạt động tín dụng nhưng năm 2006 thị phần tín dụng của Chi nhánh chiếm đến gần 50% tổng dư nợ toàn tỉnh. Sang năm 2007 và năm 2008, do số lượng các Ngân hàng tăng lên nên thị phần tín dụng của Chi nhánh đã giảm dần nhưng Chi nhánh vẫn duy trì vị trí là đơn vị có thị phần tín dụng lớn nhất (35%). Bảng 2.3. Tình hình tăng trưởng dư nợ của các ngân hàng trên địa bàn Đơn vị tính: tỷ đồng TT Ngân hàng Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 So sánh (%) 07/06 08/07 1 BIDV Quảng Bình 2.496 2.692 2.892 107,9 107,4 2 NHNo&PTNT 1.119 1.491 1.973 133,2 132,3 3 NHNT 261 216 482 82,8 223,1 4 NHCT 312 454 494 145,5 108,8 5 Sacombank 8 210 264 2.625,0 125,7 6 VPbank 175 261 149,1 7 NHCS 453 667 1.006 147,2 150,8 8 QTDTW 95 147 226 154,7 153,7 9 QTDCS 148 199 232 134,5 116,6 10 BIDV Bắc Quảng Bình 163 245 443 150,3 180,8 Tổng cộng 5.055 6.496 8.272 128,5 127,3 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động NHNN năm 2006, 2007, 2008) Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng trong hai năm gần đây tốc độ tăng trưởng tín dụng của Chi nhánh là khá chậm so với mức tăng trưởng tín dụng chung của toàn hệ thống BIDV (25%) và mức tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn (27%). Trong khi phần lớn các ngân hàng khác đều có mức tăng trưởng tín dụng hàng năm trên 30%, đặc biệt một số đơn vị như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Quảng Bình, Quỹ tín dụng TW có mức tăng trưởng tín dụng cả hai năm đều trên 50% thì tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân hai năm của Chi nhánh chỉ đạt 7,5%, điều đó đã làm cho thị phần tín dụng của Chi nhánh ngày càng thu hẹp. 2.2.2. Cơ cấu tín dụng Cơ cấu tín dụng cũng có ý nghĩa đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng bởi vì: một cơ cấu tín dụng hợp lý, phù hợp với cơ cấu nguồn vốn huy động và định hướng phát triển tín dụng của ngành sẽ là điều kiện đảm bảo cho hoạt động tín dụng của Chi nhánh phát triển một cách an toàn – hiệu quả và bền vững Từ năm 2001, thực hiện đề án cơ cấu lại toàn ngành ngân hàng, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình cũng đã xây dựng đề án tái cơ cấu theo sự chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong đó đặc biệt chú trọng đến việc cơ cấu toàn bộ hoạt động tín dụng theo hướng ngày càng hợp lý hơn, cụ thể: - Tách bạch hoạt động cho vay thương mại và cho vay theo kế hoạch Nhà nước. Đẩy mạnh việc thu nợ, giảm nhanh dư nợ vay theo kế hoạch Nhà nước theo kiến nghị của WB. - Chuyển dịch cơ cấu dư nợ vay theo các hướng: tăng tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh, giảm dần tỷ trọng dư nợ vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước và tỷ trọng dư nợ của các khách hàng lớn; tăng tỷ trọng dư nợ ngắn hạn để đảm bảo sự cân đối với nguồn vốn huy động; tăng tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Sau gần 10 năm thực hiện đề án tái cơ cấu, cơ cấu tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình đã có sự thay đổi tích cực. Bảng 2.4. Cơ cấu tín dụng của BIDV Quảng Bình Đơn vị tính: tỷ đồng TT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 So sánh (%) 07/06 08/07 Tổng dư nợ 2.496 2.692 2.892 107,9 107,4 1 Theo loại hình - Dư nợ theo KHNN 121 63 33 52,1 52,4 - Dư nợ thương mại 2.375 2.629 2.859 110,7 108,7 2 Theo loại tiền - Dư nợ bằng VND 1.424 1.481 1.685 104,0 113,8 - Dư nợ ngoại tệ(quy đổi) 1.072 1.211 1.207 113,0 99,7 3 Theo thời hạn vay - Dư nợ ngắn hạn 1.011 953 1.096 94,3 115,0 - Dư nợ trung dài hạn 1.485 1.739 1.796 117,1 103,3 4 Theo đối tượng vay - Dư nợ DNNN 1.711 1.553 1.677 90,8 108,0 - Dư nợ DNNQD 684 1.077 1.094 157,5 101,6 - Dư nợ vay tư nhân 101 62 121 61,4 195,2 5 Theo TS đảm bảo - Dư nợ vay có TSĐB 2.246 2.315 2.499 103,1 107,9 - Dư nợ không có TSĐB 250 377 393 150,8 104,2 (Nguồn báo cáo tổng hợp nguồn vốn, sử dụng vốn năm 2006, 2007, 2008) 2.2.2.1. Cơ cấu tín dụng theo loại hình cho vay Trước năm 1995, hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được giao thực hiện cho vay các dự án đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước. Đến năm 1995 các khoản vay này mới được giao cho Cục Đầu tư và Phát triển (nay là Ngân hàng phát triển) thực hiện. Tuy nhiên, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam vẫn tiếp tục theo dõi, thu nợ vay đối với các dự án đã được phê duyệt và giải ngân trước đó. Do đó mục tiêu của toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là tập trung thu hồi các khoản nợ vay theo kế hoạch Nhà nước để chuyển hẳn thành ngân hàng thương mại theo cam kết với WB. Thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong những năm qua Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình đã luôn làm tốt việc thu nợ theo kế hoạch Nhà nước, do đó các khoản nợ này đã giảm dần và đến năm 2008 chỉ còn 33 tỷ đồng (tương đương 1% dư nợ). 2.2.2.2. Cơ cấu theo loại tiền tệ Theo biểu đồ 2.1 dưới đây chúng ta thấy rằng nguồn vốn huy động cả VND và ngoại tệ đều nhỏ hơn dư nợ vay điều đó cho thấy nguồn vốn huy động tại chỗ của Chi nhánh không đủ để đáp ứng cho nhu cầu tín dụng nên để bù đắp nguồn vốn thiếu hụt Chi nhánh đã phải vay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Biểu đồ 2.1. Cơ cấu nguồn vốn huy động và cho vay theo loại tiền CƠ CẤU HUY ĐỘNG VỐN CƠ CẤU CHO VAY Trong ba năm qua, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ có xu hướng giảm dần trong khi dư nợ cho vay bằng VNĐ đã tăng khá nhanh làm cho tỷ trọng dư nợ bằng VNĐ ngày càng tăng, điều đó làm cho cơ cấu nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng theo loại tiền tệ của Chi nhánh đã có phần hợp lý hơn. Tuy nhiên so với nguồn vốn huy động được thì dư nợ cho vay bằng ngoại tệ của Chi nhánh vẫn quá lớn. Nguyên nhân chính là do Chi nhánh thực hiện cho vay đồng tài trợ dự án Nhà máy xi măng Sông Gianh bằng USD theo sự ủy nhiệm của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam với tổng số vốn vay quy đổi tương đương 1.200 tỷ đồng. 2.2.2.3. Cơ cấu tín dụng theo kỳ hạn cho vay Biểu đồ 2.2. Cơ cấu huy động và cho vay theo kỳ hạn CƠ CẤU HUY ĐỘNG VỐN CƠ CẤU DƯ NỢ VAY Một trong những đặc điểm chung của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đó là có sự mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và cho vay. Trong khi nguồn vốn huy động ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn hơn thì dư nợ vay ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng nhỏ hơn. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và Chi nhánh Quảng Bình vẫn ở trong tình trạng đó. Với mục tiêu nhằm tạo sự cân bằng về kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và dư nợ vay, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã thực hiện chủ trương tăng dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn và giảm dần tỷ trọng cho vay trung dài hạn. Thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, trong thời gian qua Chi nhánh Quảng Bình đã có nhiều cố gắng trong việc đẩy mạnh cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên, do những năm qua Chi nhánh được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ủy nhiệm cho vay 2 dự án lớn trên địa bàn là dự án Nhà máy xi măng Sông Gianh (mức cho vay hơn 1.200 tỷ đồng) và dự án BOT đường tránh thành phố Đồng Hới (mức cho vay hơn 400 tỷ đồng) nên dư nợ trung dài hạn của Chi nhánh vẫn tăng khá nhanh. Đến cuối năm 2008, dư nợ trung dài hạn của Chi nhánh đạt 1.796 tỷ đồng, tăng 149 tỷ đồng so với năm 2006 và chiếm tỷ trọng 62% trên tổng dư nợ - cao hơn tỷ trọng chung của toàn hệ thống BIDV. 2.2.2.4. Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế Biểu đồ 2.3. Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế Theo khuyến nghị của WB, trong đề án cơ cấu lại dư nợ tín dụng, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã thực hiện giảm dần tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước và tăng dần tỷ trọng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là chú trọng phát triển tín dụng bán lẽ (cho vay tư nhân cá thể) nhằm mục tiêu đưa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trở thành ngân hàng bán lẽ hàng đầu tại Việt Nam. Trong thời gian qua Chi nhánh Quảng Bình cũng đã cố gắng để thay đổi cơ cấu tín dụng theo chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nên tỷ trọng dư nợ đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, dư nợ bán lẽ của Chi nhánh đã tăng lên. Nếu năm 2006 dư nợ vay ngoài quốc doanh chỉ chiếm 36% thì đến năm 2008 tỷ trọng này đã tăng lên 42%. Tuy nhiên tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh của Chi nhánh vẫn còn thấp hơn so với tỷ trọng chung của toàn ngành (năm 2008 tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh của toàn hệ thống BIDV là 62%). Hơn nữa mặc dù tỷ trọng dư nợ đối với DNNN có giảm song về số tuyệt đối thì so với năm 2007, dư nợ cho vay đối với DNNN năm 2008 vẫn tăng 124 tỷ đồng. 2.2.2.5.Cơ cấu tín dụng theo quy mô khách hàng Một thực trạng về tình hình dư nợ của Chi nhánh Quảng Bình đó là dư nợ quá tập trung vào một số khách hàng lớn, thể hiện tổng dư nợ của 10 khách hàng lớn chiếm tỷ trọng quá cao và có xu hướng tăng lên. Năm 2006 dư nợ của 10 khách hàng lớn nhất đạt 2.040 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 77% thì đến năm 2008 dư nợ của 10 khách hàng lớn đạt 2.341 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 81% trên tổng dư nợ. Như vậy so với năm 2006 thì dư nợ của các khách hàng nhỏ của chi nhánh đã giảm cả số lượng lẫn tỷ trọng. Việc quá tập trung dư nợ vào một số khách hàng lớn trong hoạt động tín dụng được xem như là việc “bỏ trứng vào một giỏ” do đó sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Biểu đồ 2.4. Cơ cấu cho vay theo quy mô khách hàng 2.2.2.6. Cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo Dư nợ cho vay có tài sản đảm bảo của Chi nhánh chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng dư nợ. Điều này cho thấy Chi nhánh đã rất cố gắng trong việc tăng cường các biện pháp đảm bảo để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng. Tỷ trọng dư nợ vay có tài sản đảm bảo năm 2007, 2008 có giảm so với năm 2006 là do hiện tại Chi nhánh giải ngân một số dự án đang trong giai đoạn thi công, chưa hoàn thành nên các tài sản này chưa được đưa vào làm tài sản đảm bảo tiền vay . 2.2.3. Phân nhóm nợ và Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ Một trong những công cụ quan trọng nhất để đo lường chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại đó là việc phân nhóm nợ tức là phân chia các khoản nợ vay theo từng nhóm tương ứng với mức độ rủi ro của các khoản nợ để từ đó có sự “ứng xử” thích hợp tương ứng với từng khách hàng, từng khoản nợ vay. Để thực hiện điều đó các ngân hàng thường xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. 2.2.3.1. Giới thiệu Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình Do Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình là đơn vị trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách khách hàng của Chi nhánh cũng thực hiện theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách khách hàng chung của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Với mục tiêu xây dựng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trở thành tập đoàn tài chính đa năng, áp dụng thông lệ quốc tế tốt nhất vào hoạt động Ngân hàng để nâng cao hiệu quả, tối đa hóa lợi nhuận, kiểm soát được rủi ro đồng thời thực hiện đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã ban hành hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để làm cơ sở cho việc phân loại khách hàng và từ đó ban hành chính sách khách hàng phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Việc phân loại khách hàng của BIDV được xây dựng dựa trên 2 nhóm chỉ tiêu chính là nhóm chỉ tiêu tài chính và nhóm chỉ tiêu phi tài chính, dựa trên số điểm của từng khách mà xếp thành 10 loại khách hàng khác nhau và từ 10 loại khách hàng lại phân thành 5 nhóm khách hàng tương ứng với 5 nhóm nợ theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN như sau: (xem phụ lục 2) - Nhóm khách hàng xếp hạng AAA và AA được xếp vào nợ nhóm 1 - Nhóm khách hàng xếp hạng A và BBB được xếp vào nợ nhóm 2 - Nhóm khách hàng xếp hạng BB và B được xếp vào nợ nhóm 3 - Nhóm khách hàng xếp hạng CCC và CC được xếp vào nợ nhóm 4 - Nhóm khách hàng xếp hạng C và D được xếp vào nợ nhóm 5 2.2.3.2. Đánh giá chất lượng tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình thông qua việc phân nhóm nợ - Cơ cấu dư nợ theo nhóm nợ Nhìn vào bảng 2.5 có thể thấy rằng chất lượng tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình là khá tốt và đang được cải thiện theo hướng tích cực, điều đó được thể hiện: Bảng 2.5. Cơ cấu dư nợ theo nhóm nợ Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ 2.496 100,0 2.692 100,0 2.892 100,0 - Nợ đủ tiêu chuẩn 834 33,0 838 31,1 1.171 40,0 - Nợ cần chú ý 1.609 64,0 1.804 67,0 1.712 59,0 - Nợ dưới tiêu chuẩn 53 2,1 50 1,9 9 0,31 - Nợ nghi ngờ 0  0 0 - Nợ có khả năng mất vốn 0  0 0 Nợ xấu 53 2,1 50 1,9 9 0,31 (Nguồn: Báo cáo phân loại nợ năm 2006,2007,2008) + Tỷ lệ nợ xấu của Chi nhánh khá thấp so với mức cho phép cũng như tỷ lệ nợ xấu chung của toàn hệ thống BIDV và tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Nếu như tỷ lệ nợ xấu cho phép (theo thông lệ của các ngân hàng trên thế giới) là nhỏ hơn 5%, tỷ lệ nợ xấu năm 2008 của toàn hệ thống BIDV là 2,05% và của các ngân hàng trên địa bàn tỉnh là 2,2% thì nợ xấu của Chi nhánh năm 2008 chỉ còn 9 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,31%. + Không những có tỷ lệ nợ xấu thấp mà nợ xấu của Chi nhánh còn có xu hướng giảm dần cả số lượng lẫn tỷ trọng. Đặc biệt trong năm 2008, trong bối cảnh nền kinh tế của đất nước còn có nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới, phần lớn các doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh dẫn đến suy giảm khả năng trả nợ ngân hàng làm cho tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng đang có xu hướng tăng lên. Trong khi một số ngân hàng trên địa bàn có mức tăng nợ xấu khá lớn như: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, VPbank…và tỷ lệ nợ xấu toàn tỉnh cũng tăng từ 1,7% lên 2,2% (bảng 2.6) thì nợ xấu của Chi nhánh đã giảm từ 1,9% xuống chỉ còn 0,31%, từ chỗ số dư nợ xấu 53 tỷ đồng ở thời điểm năm 2006 thì đến cuối năm 2008 dư nợ xấu chỉ còn 9 tỷ đồng. Điều đó cho thấy Chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, tích cực thu hồi các khoản nợ xấu, nợ tiềm ẩn rủi ro để tập trung phát triển tín dụng đối với những vùng, những khách hàng an toàn hơn. Bảng 2.6. Tình hình nợ xấu của các ngân hàng trên địa bàn Đơn vị tính: tỷ đồng TT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số dư nợ xấu Tỷ trọng (%) Số dư nợ xấu Tỷ trọng (%) Số dư nợ xấu Tỷ trọng (%) 1 BIDV Quảng Bình 53,0 2,1 50,0 1,9 8,9 0,3 2 NHNo&PTNT 41,0 3,7 44,5 3,0 75,5 3,8 3 NHNT 87,1 33,4 1,7 0,8 0,8 0,2 4 NHCT 0,9 0,3 0,9 0,2 4,9 1,0 5 Sacombank 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 6 VPbank 0,0 0,0 0,0 0,0 82,1 31,5 7 NHCS 5,4 1,2 6,3 0,9 8,3 0,8 8 QTDTW 4,6 4,8 3,4 2,3 4,3 1,9 9 QTDCS 0,7 0,5 1,2 0,6 0,5 0,2 10 BIDV Bắc Quảng Bình 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 Tổng cộng 192,7 3,8 107,9 1,7 185,3 2,2 (Nguồn: Báo cáo tổng kết NHNN Quảng Bình năm 2006,2007,2008) + Tỷ trọng các khoản nợ có mức độ rủi ro thấp ngày càng tăng lên trong khi tỷ trọng các khoản nợ có mức độ rủi ro cao hơn ngày càng giảm dần. Năm 2006 tỷ lệ nợ nhóm 1 chỉ đạt 33% trong khi tỷ lệ nợ nhóm 2 chiếm đến 64% tổng dư nợ thì đến năm 2008 tỷ lệ nợ nhóm 1 đã tăng lên 40%, tỷ lệ nợ nhóm 2 giảm xuống còn 59%. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy rằng mặc dù tỷ lệ nợ xấu thấp song tỷ lệ nhóm 2 - Nợ cần chú ý của Chi nhánh vẫn đang còn chiếm tỷ lệ khá cao (năm 2007 nợ nhóm 2 chiếm tỷ lệ 67%, năm 2008 nợ nhóm 2 chiếm tỷ lệ 59%). Do đó vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ tăng nợ xấu mỗi khi các khách hàng thuộc nhóm 2 bị chuyển nhóm nợ sang nhóm có mức độ rủi ro cao hơn. - Cơ cấu khách hàng theo nhóm nợ Bảng 2.7. Cơ cấu khách hàng theo nhóm nợ Đơn vị tính: khách hàng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số khách hàng Tỷ trọng (%) Số khách hàng Tỷ trọng (%) Số khách hàng Tỷ trọng (%) Tổng cộng  533 100 616 100 928 100 - Nợ đủ tiêu chuẩn 511 95,9 584 94,8 887 95,6 - Nợ cần chú ý 21 3,9 30 4,9 40 4,3 - Nợ dưới tiêu chuẩn 1 0,2 2 0,3 1 0,1 - Nợ nghi ngờ - Nợ có khả năng mất vốn Nợ xấu 1 0,2 2 0,3 1 0,1 (Nguồn: Báo cáo phân loại nợ năm 2006,2007,2008) Từ bảng 2.7 chúng ta thấy rằng năm 2008, trong tổng số 928 khách hàng có quan hệ tín dụng tại Chi nhánh thì có 887 khách hàng được xếp nhóm 1 (chiếm tỷ lệ 95,6%), 40 khách hàng xếp nhóm 2 (chiếm tỷ lệ 4,3%) và chỉ có 1 khách hàng xếp nhóm 3 (chiếm tỷ lệ 0,1%). Khách hàng có nợ xấu của Chi nhánh cũng đã có biến động. Nếu như năm 2006 Chi nhánh chỉ có 1 khách hàng có nợ xấu là Công ty cổ phần du lịch và nước khoáng COSEVCO với dư nợ 53 tỷ đồng, năm 2007 Chi nhánh có phát sinh thêm 1 khách hàng có nợ xấu nữa là Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng công trình 405 với dư nợ 9,1 tỷ đồng thì đến cuối năm 2008 Chi nhánh chỉ còn 1 khách hàng có nợ xấu là Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng công trình 405 với dư nợ 8,9 tỷ đồng. Công ty cổ phần du lịch và nước khoáng COSEVCO tuy đến cuối năm 2008 vẫn còn dư nợ 36 tỷ đồng nhưng do tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của Công ty có nhiều chuyển biến tích cực nên đã được chuyển nhóm nợ từ nhóm 3 lên nhóm 2. Như vậy có thể thấy rằng số khách hàng có nợ xấu của Chi nhánh là rất ít (chỉ có từ 1 đến 2 khách hàng). Tuy nhiên đây đều là những khách hàng có dư nợ khá lớn. 2.3. ĐÁNH GIÁ CỦA KHÁCH HÀNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH QUẢNG BÌNH 2.3.1. Điều tra khảo sát các khách hàng vay vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình Việc thu thập số liệu sơ cấp được thực hiện thông qua phiếu điều tra do người được phỏng vấn tự điền thông tin. Đối với các đơn vị vay vốn, phiếu điều tra được gửi đến một trong hai cán bộ chủ chốt có liên quan đến việc vay và sử dụng vốn vay là Giám đốc hoặc Kế toán trưởng. Tổng số phiếu điều tra phát ra đến các đơn vị vay vốn là 50 phiếu. Đối với khách hàng vay là cá nhân, phiếu điều tra được gửi đến trực tiếp cho khách hàng. Số phiếu điều tra phát ra đến các khách hàng cá nhân là 100 phiếu. Tổng số phiếu điều tra được phát ra là 150 phiếu. Số phiếu điều tra đã được điền thông tin một cách đầy đủ và được gửi trả là 130 phiếu, đạt tỷ lệ 87%, vì vậy hoàn toàn thích hợp cho phân tích trong nghiên cứu này. Phiếu thu thập thông tin từ các khách hàng được chia làm 03 phần: - Phần thứ nhất là những câu hỏi đưa ra nhằm thu thập những thông tin cơ bản về tình hình vay vốn của người được điều tra hoặc doanh nghiệp của người được điều tra như: số lần vay vốn, số tổ chức tín dụng có quan hệ, mục đích vay vốn, biện pháp đảm bảo… - Phần thứ hai có 17 chủ đề quan trọng liên quan đến chất lượng tín dụng của BIDV Quảng Bình. Phần này sử dụng thang điểm Likert từ 1 đến 5 điểm, trong đó điểm 1 là điểm số thấp nhất thể hiện sự hoàn toàn không đồng ý với nhận định đưa ra và điểm 5 là điểm số cao nhất thể hiện sự hoàn toàn đồng ý với nhận định. Người được điều tra sẽ cho biết ý kiến của mình về các chủ đề đó bằng cách khoanh tròn vào số điểm mà họ cho là thích hợp. Bằng cách này sẽ giúp lượng hóa được ý kiến của người được điều tra, sử dụng điểm số Likert này trong phân tích số liệu đa biến và kiểm định thống kê sau này. - Phần thứ ba là những câu hỏi đưa ra nhằm thu thập thông tin về người được điều tra như tuổi, giới tính, trình độ. 2.3.2. Phân tích và xử lý số liệu Như đã trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu, trong luận văn này các phương pháp phân tích, xử lý số liệu thống kê được áp dụng để tính toán và so sánh với các chỉ tiêu kinh tế được thực hiện nhờ vào công cụ tin học. Toàn bộ việc xử lý số liệu được tiến hành trên chương trình SPSS for Windows 1.7. Sử dụng phương pháp phân tích nhân tố để xác định mức độ ảnh hưởng và sau đó sử dụng kiểm định independent samles t-test để kiểm định sự đánh giá khác nhau giữa hai nhóm khách hàng doanh nghiệp và khách hàng nhân đối với từng nhân tố. 2.3.3. Kết quả phân tích Số liệu được phân tích trên phần mềm SPSS for Windows. Sử dụng các công cụ phân tích được định dạng sẵn trong SPSS. Các công cụ phân tích này bao gồm các phép kiểm định thống kê, phân tích nhân tố, thống kê mô tả và kiểm định independent samles t-test nhằm có được những kết luận chắc chắn có ý nghĩa về mặt thống kê những vấn đề liên quan đến chất lượng các sản phẩm tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng Bình. Kết quả cụ thể được trình bày ở các phần sau. 2.3.3.1. Thông tin chung về người được phỏng vấn - Đối tượng khách hàng Trong tổng số 130 phiếu hợp lệ thu được thì số lượng khách hàng cá nhân là 84 chiếm tỷ lệ 64,6%, khách hàng doanh nghiệp là 46, chiếm tỷ lệ 35,5%. Trong số khách hàng doanh nghiệp thì số lượng Công ty trách nhiệm hữu hạn lớn nhất (31 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 23% trên tổng số khách hàng điều tra), sau đó đến công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước và cuối cùng là doanh nghiệp tư nhân. Điều này cũng phù hợp với thực tế các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Do thực hiện chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nên phần lớn doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển thành Công ty cổ phần. Trong khi đó phần lớn các doanh nghiệp mới thành lập và đăng ký kinh doanh đều chọn mô hình là công ty trách nhiệm hữu hạn. - Giới tính và độ tuổi của khách hàng Qua phân tích cho thấy đặc điểm chung của người được phỏng vấn là tỷ lệ nam giới khá cao (94 khách hàng chiếm tỷ lệ 72,3%). Trong khi đó khách hàng có độ tuổi từ 31- 40 tuổi chiếm tỷ lệ lớn nhất (40%) và khách hàng có độ tuổi trên 50 chiếm tỷ lệ thấp nhất (17,7%). Bởi vì trên thực tế trong chính sách cho vay đối với khách hàng cá nhân, BIDV luôn có chủ trương hạn chế cho vay đối với khách hàng có độ tuổi cao để giảm bớt rủi ro. Bảng 2.8. Thông tin chung về khách hàng điều tra TT Chỉ tiêu nghiên cứu Số quan sát Cơ cấu (%) 1 Đối tượng khách hàng Khách hàng cá nhân 84 64,6 Khách hàng doanh nghiệp 46 35,4 Trong đó: - DNNN 4 3,1 - Công ty TNHH 31 23,8 - Công ty cổ phần 8 6,2 - DNTN 3 2,3 2 Giới tính Nam 94 72,3 Nữ 36 27,7 3 Tuổi Từ 20 - 30 tuổi 24 18,5 Từ 31 - 40 tuổi 52 40,0 Từ 41 - 50 tuổi 31 23,8 Trên 50 tuổi 23 17,7 4 Biện pháp đảm bảo Thế chấp 100% 119 91,6 Vừa thế chấp vừa tín chấp 6 4,6 Hoàn toàn tín chấp 5 3,8 5 Tổng cộng 130 100 (Nguồn : Số liệu điều tra) - Biện pháp bảo đảm Phần lớn khách hàng vay vốn tại BIDV Quảng Bình đều phải có 100% tài sản thế chấp cầm cố (119 khách hàng, chiếm tỷ lệ 91,5%). Trong khi tỷ lệ khách hàng phỏng vấn được cho vay tín chấp rất thấp (chỉ 3,9%). Bởi vì chiếm phần lớn trong tổng số khách hàng được điều tra là khách hàng cá nhân, trong khi đó tại BIDV Quảng Bình việc cho vay đối với khách hàng cá nhân hầu hết phải có tài sản đảm bảo, chỉ trừ một số khách hàng thuộc các đơn vị có thanh toán lương qua tài khoản tại BIDV thì mới được xem xét cho vay tín chấp. - Số lần vay vốn tại BIDV Quảng Bình Bảng 2.9. Thông tin về số lần vay vốn tại BIDV Quảng Bình Số lần vay vốn tại BIDV Quảng Bình Đối tượng khách hàng Tổng cộng Cá nhân Doanh nghiệp Số quan sát Tỷ lệ Số quan sát Tỷ lệ Số quan sát Tỷ lệ 1 lần 70 83,3 8 17,4 78 60,0 2 lần 14 16,7 2 4,3 16 12,3 3 lần 0 4 8,7 4 3,1 Nhiều hơn 3 lần 0 32 69,6 32 24,6 Tổng cộng 84 100 46 100 130 100 ( Nguồn: Số liệu điều tra) Trong tổng số 130 khách hàng được phỏng vấn có 78 khách hàng, chiếm tỷ lệ 60% là khách hàng mới lần đầu tiên vay vốn tại BIDV Quảng Bình, trong khi đó số khách hàng đã vay 2 lần là 16 khách chiếm tỷ trọng 12,3%, số khách vay nhiều hơn 3 lần là 32 khách chiếm tỷ trọng 24,62%. Nếu so sánh với từng đối tượng khách hàng thì hầu hết khách hàng cá nhân đều vay vốn BIDV Quảng Bình lần đầu tiên, không có khách hàng cá nhân nào vay nhiều hơn 3 lần. Trong khi đó có đến 32 khách hàng doanh nghiệp (chiếm tỷ lệ 69% trên tổng số khách hàng doanh nghiệp) đều vay vốn tại BIDV Quảng Bình nhiều hơn 3 lần. 2.3.3.2. Đánh giá độ tin cậy của thang đo Để có được thông tin từ người phỏng vấn, trong luận văn này đã dùng thang chia độ Likert gồm có 5 mức độ để người phỏng vấn tự lựa chọn và biểu thị ý kiến của mình, các mức được thể hiện như sau: - 1 nghĩa là “hoàn toàn bất đồng”. - 2 nghĩa là “nói chung là bất đồng”. - 3 nghĩa là “không đồng ý cũng không bất đồng”. - 4 nghĩa là “nói chung là đồng ý”. - 5 nghĩa là “hoàn toàn đồng ý”. Việc kiểm tra độ tin cậy của thang đo được thực hiện thông qua phân tích hệ số tin cậy Cronbranch’s Alpha. Hệ số Cronbranch’s Alpha là một phép kiểm định thống kê về mức độ chặt chẽ mà các mục hỏi trong thang đo tương quan với nhau. “Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng khi Cronbranch’s Alpha từ 0,8 trở lên đến gần 1 thì thang đo lường là tốt, từ 0,7 đến 0,8 là sử dụng được. Đối với các trường hợp khái niệm thang đo lường là mới hoặc mới đối với người trả lời thì Cronbranch’s Alpha từ 0,6 trở lên là có thể sử dụng được” [22]. Trong bảng 2.10 ở dưới ta thấy hệ số Cronbranch’s Alpha bằng 0,86 là khá cao do đó thang đo trên là sử dụng được. Các chỉ số trong cột cuối cùng của bảng 2.10 (Cronbach’s Alpha if item Deleted – tức hệ số Cronbach’s Alpha nếu bỏ mục hỏi) đều nhỏ hơn 0,86 do vậy tất cả các mục hỏi đều có thể được sử dụng để nghiên cứu, chúng ta không nên bỏ mục hỏi nào. Như vậy, với độ tin cậy tổng thể của các đối tượng phỏng vấn đều cho kết quả kiểm định đạt trên 0,8 nên có thể kết luận được một cách chắc chắn rằng các đánh giá của các đối tượng trên là đầy đủ, đáng tin cậy để sử dụng cho nghiên cứu. Bảng 2.10. Thang đo các yếu tố tác động đến chất lượng tín dụng Reliability Statistics Cronbach's Alpha Cronbach's Alpha Based on Standardized Items N of Items ,860 ,862 17 Item-Total Statistics Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc05 Nng cao ch7845t l4327907ng tn d7909ng t7841i Chi nhnh Ngamp22.doc