Đề tài Môi trường đầu tư với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

Tài liệu Đề tài Môi trường đầu tư với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam: Lời nói đầu Trong những năm qua sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ( DNNVV) có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân: huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội như xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực trong cả nước…Bên cạnh đó chúng ta đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới do đó phải biết tận dụng các các lợi thế so sánh, chính các DNNVV là cơ hội để sử dụng tốt các lợi thế này Tuy nhiên đặc điểm chung của các DNNVV ở tất cả các nước, nhất là trong giai đoạn mới hình thành và phát triển là còn thiếu tiềm lực về vốn, công nghệ, kĩ năng quản lý non kém, khả năng cạnh tranh trên thị trường yếu kém. Trong thời gian qua Chính phủ đã tiến hành nhiều cải tổ, đổi mới để cải thiện môi trường đầu tư, trợ giúp DNNVV phát triển. Tuy vậy môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập : Hệ thống Pháp luật chưa đầy đủ và đồng bộ, thủ tục đầu tư ...

docx84 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1223 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Môi trường đầu tư với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong những năm qua sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ( DNNVV) có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân: huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội như xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực trong cả nước…Bên cạnh đó chúng ta đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới do đó phải biết tận dụng các các lợi thế so sánh, chính các DNNVV là cơ hội để sử dụng tốt các lợi thế này Tuy nhiên đặc điểm chung của các DNNVV ở tất cả các nước, nhất là trong giai đoạn mới hình thành và phát triển là còn thiếu tiềm lực về vốn, công nghệ, kĩ năng quản lý non kém, khả năng cạnh tranh trên thị trường yếu kém. Trong thời gian qua Chính phủ đã tiến hành nhiều cải tổ, đổi mới để cải thiện môi trường đầu tư, trợ giúp DNNVV phát triển. Tuy vậy môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập : Hệ thống Pháp luật chưa đầy đủ và đồng bộ, thủ tục đầu tư còn phức tạp, gây phiền hà cho các nhà đầu tư, cơ sở hạ tầng yếu kém… Với việc nhìn nhận và đánh giá môi trường đầu tư, trong đó DNNVV hoạt động, là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của DNNVV, em đã chọn đề tài “Môi trường đầu tư với sự phát triển của DNNVV Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung chính của luận văn bao gồm ba phần chính sau: Chương 1: Môi trường đầu tư nhân tố quan trọng cho sự phát triển DNNVV ở Việt Nam Chương2 : Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV Chương 3: Một số giải pháp cải thiện môi trường đầu tư phát triển ở Việt Nam Do còn hạn chế về thời gian và kiến thức chuyên môn nên luận văn này còn nhiều thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô. Em chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai và Phòng xúc tiến phát triển DNNVV - Cục phát triển DNNVV - Bộ kế hoạch đầu tư đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn này. Chương 1 : Môi trường đầu tư, nhân tố quan trọng cho sự phát triển các DNNVV ở Việt Nam I.Doanh nghiệp nhỏ vừa trong sự phát triển kinh tế xã hội 1.Khái niệm Theo quy định tại điều 3 Nghị định 90/2001/NĐ-Cp ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNNVV thì: “DNNVV là các cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành,có vốn đănng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người” 2.Đặc điểm hoạt động Hầu hết các nước đều coi DNNVV là một loại hình doanh nghiệp không phân biệt theo hình thức sở hữu mà được phân biệt trên khía cạnh quy mô nhiều hơn. Các DNNVV là các doanh nghiệp có quy mô về hoạt động nhỏ, doanh thu và lợi nhuận không phải là lớn và hầu hết đều hoạt động trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác DNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình thành và phát triển. Loại hình DNNVV có những đặc điểm sau: 2.1. Về điểm mạnh So vói các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế như các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty, các công ty đa quốc gia thì DNNVV có những điểm mạnh sau: Dễ khởi nghiệp: Hầu hết các DNNVV đều dễ dàng bắt đầu ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh và một số ít vốn cũng như lao động nhất định. Loại hình doanh nghiệp này hầu như không đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu và rất nhiều các doanh nghiệp lớn các công ty đa quốc gia được bắt đầu từ những doanh nghiệp nhỏ Linh hoạt : Do hoạt động với quy mô nhỏ nên hầu hết các DNNVV đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi của môi trường.Trong một số trường hợp các DNNVV còn năng động trong việc đón đầu những biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội hay các dao động đột biến trên thị trường. Trên góc độ thương mại thì nhờ tính năng động này mà các DNNVV dễ dàng tìm kiếm những thị trường ngách và gia nhập thị trường này khi thấy việc kinh doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi thị trường này khi công việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả hơn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển Lợi thế so sánh trong cạnh tranh: So với các doanh nghiệp lớn thì DNNVV có lợi thế so sánh trong cạnh tranh đó là khả năng phát huy những nguồn lực đầu vào như lao động hay tài nguyên hoặc nguồn vốn tại chỗ khi khai thác và phát huy các ngành nghề truyền thống của từng địa phương. Bên cạnh đó các DNNVV còn có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp lớn trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, qua đó sáng tạo ra nhiều loại hàng hoá và dịch vụ mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Theo khía cạnh này, DNNVV có lợi thế trong việc định hướng và làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới của người tiêu dùng và, nhờ sự phát triển của các DNNVV mà hiện nay đã có nhiều loại sản phẩm và dịch vụ mới ra đời, cung cấp cho người tiêu dùng. Tạo ra các tác động ngoại lai : Trên góc độ kinh tế thì các DNNVV tạo ra các tác động ngoại lai rất mạnh cả về mặt tích cực và tiêu cực. Với lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có của các địa phương đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều lao động, DNNVV đã có những tác động tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho dân cư tại đại phương hoặc duy trì và bảo vệ các môi trường văn hoá truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó sự phát triển của các DNNVV còn có các lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, qua đó góp phần giúp Chính phủ giảm các tệ nạn xã hội và giúp Chính phủ giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội khác. 2.2.Về các điểm yếu Bên cạnh các điểm mạnh được chỉ ra ở trên thì các DNNVV còn có các điểm yếu nhất định như thiếu các nguòn lực để tiến hành các công trình lớn, hoặc các dự án đầu tư lớn, các dự án đầu tư công cộng. Các DNNVV không có các lợi thế kinh tế theo quy mô và trong một số nước nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thường lép vế trong mối quan hệ với ngân hàng, với Chính phủ và với giới báo chí cũng như thiếu sự ủng hộ của công chúng. Nhiều DNNVV bị phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong quá trình phát triển Dễ gặp rủi ro trong kinh doanh: Kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giói cho thấy rằng càng có nhiều DNNVV ra đời thì cũng có nhiều doanh nghiệp phải phá sản, có những doanh nghiệp bị phá sản sau một thời gian hoạt động rất ngắn. Theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới thì các DNNVV có tỷ lệ phá sản và thất bại cao trong năm hoạt động thứ 4 Bên cạnh các tác động ngoại lai tích cực thì DNNVV cũng gây ra những tác động ngoại lai tiêu cực trong nền kinh tế. Do vốn ít các doanh nghiệp này không quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường hoặc khi doanh nghiệp bị phá sản do hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả gây sự thiếu tin tưởng của dân chúng đối với loại hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho người tiêu dùng khi chọn lựa các sản phẩm tiêu dùng cũng như khi lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ. Điều này làm giảm uy tín của loại hình DNNVV đối vói công chúng và người lao động. 3.Vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển Ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, hoạt động của các DNNVV đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Vai trò của các DNNVV được biết đến như là các cơ sở sản xuất kinh doanh có khả năng: Tạo nhiều việc làm với chi phí thấp Cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hoá dịch vụ và làm tăng GDP cho nền kinh tế Tăng cường kĩ năng quản lý và đổi mới công nghệ Góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập triong xã hội, xóa đói giảm nghèo và tăng sự công bằng trong nền kinh tế Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế với nhau Mức độ đóng góp của DNNVV vào sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia được thể hiện ở mức độ thu hút lao động, VĐT và tạo ra giá trị gia tăng góp phần tăng trưởng kinh tế Bảng 1 : Vai trò của DNNVV ở một số nước N ư ớc % tổng số doanh nghiệp % tổng số lao động % tổng giá trị gia tăng của KV KTTN % Trong xuất khẩu Các nước kinh tế phát triển Mỹ 99,7 52 51 31 Nhật 99,7 72.7 55,6 13,5 Anh 99,8 55,4 51 - Pháp 99 47 46,3 26 Hàn Quốc 99,1 77,4 34,7 43 Singapore 91,5 51,8 50,4 16 Các nước đang phát triển Thái Lan 97,9 70 50,4 50 Indonesia 98 88,3 38,9 18,4 Philippinne 99,48 66,21 68,2 60 Malaysia 84 12,17 19,13 15 Nguồn : Hồ sơ của các DNNVV của APEC- Năm 2004 Như vậy qua bảng trên có thể thấy DNNVV có vai trò hết sức quan trong trong sự phát triển của mỗi quốc gia ngay cả đối với các quốc gia phát triển, DNNVV tạo ra phần lớn các công ăn việc làm và đóng góp đáng kể vào giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia. 4. Điều kiện để phát triển DNNVV ở Việt Nam 4.1 Điều kiện khách quan Cũng như các thành phần khác của nền kinh tế, các DNNVV chịu tác động của môi trường bên ngoài như môi trường đầu tư, môi trường văn hoá xã hội, môi trường công nghệ và môi trường chính trị luật pháp. Các yếu tố môi trường bên ngoài này có thể tạo ra các cơ hội hay các rào cản đối với sự phát triển DNNVV trong từng giai đoạn phát triển nhất định Môi trường chính trị và luật pháp: Đây là điều kiện quan trọng tác động đến sự phát triển của các DNNVV thông qua việc Chính phủ ban hành các cơ chế chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô và các chính sách định hướng phát triển các DNNVV, hạn chế hoặc khuyến khích sự phát triển của DNNVV trong từng thời kì, trong từng ngành nghề nhất định nhằm khai thác tốt hơn các nguồn lực của nền kinh tế . Ngoài ra sự tác động của môi trường chính trị luật pháp còn thể hiện ở thái độ, hành vi của bản thân những người đại diện cho cơ quan hành pháp khi giả quyết các vấn đề của DNNVV. Các yếu tố kinh tế : Tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu ngưòi tăng lên sẽ góp phần tăng thu nhập của các tầng lớp dân cư, tăng sức mua của nền kinh tế từ đó mở rộng thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV. Tiết kiệm nền kinh tế tăng lên sẽ làm tăng nguồn vốn đầu tư của các khu vực kinh tế trong đó có DNNVV nhờ đó mà tiềm lực kinh tế của các DNNVV sẽ được tăng cường, mở rộng các cơ hội đầu tư đổi mới công nghệ cũng như đa dạng hoá sản phẩm, thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Sự phát triển kinh tế cũng tạo ra những thách thức đối với các DNNVV khi mà mức sống của các tầng lớp dân cư ngày càng tăng cao, người dân trở nên khó tính hơn khi lựa chọn sản phẩm tiêu dùng và nơi làm việc, điều này buộc các DNNVV phải kinh doanh ngày càng bài bản hơn, quan tâm nhiều hơn đến khách hàng bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. Các yếu tố Văn hoá xã hội : Ở đây được xem như sự thừa nhận của xã hội với sự tồn tại và phát triển của DNNVV. Nếu người tiêu dùng và các cá nhân trong xã hội ủng hộ DNNVV thì họ sẽ tiêu dùng sản phẩm của DNNVV nhiều hơn, đầu tư cho các DNNVV nhiều hơn và bản thân họ cũng sẵn sàng làm việc cũng như đem lại lợi ích nhiều hơn cho các DNNVV và cho toàn xã hội. Thái độ của dân chúng đối với sự phát triển của DNNVV còn thể hiện ở nhận thức của dân chúng đối với vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế đặc biệt là thái độ đối với các cá nhân chủ doanh nghiệp thành công đã đem lại nhiều việc làm cũng như lợi nhuận cho bản thân chủ doanh nghiệp và cho xã hội. Các yếu tố văn hóa còn tác động đến sự phát triển của DNNVV thông qua việc hình thành và phát triển phong cách quản lý trong các DNNVV qua đó hình thành văn hoá kinh doanh trong DNNVV . Các yếu tố công nghệ : Được tính đến như việc xuất hiện các loại máy móc thiết bị, cách thức sản xuất cũng như nguyên vật liệu mới trên thị trường giúp cho các DNNVV tăng năng suất lao động, nhờ đó mở rộng các cơ hội lựa chọn và áp dụng công nghệ phù hợp vào sản xuất và quản lý nhằm tăng giá trị của sản phẩm và tăng kĩ năng quản lý của bản thân chủ doanh nghiệp. Các yếu tố công nghệ hiện nay còn được xem xét bởi sự phát triển của kinh tế tri thức qua đó nâng cao khả năng làm việc của từng nhân viên và của doanh nghiệp trong các DNNVV. Xu hướng phát triển công nghệ của thế giới và từng quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của loại hình doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, đặc biệt là sự sát nhập của ngành công nghệ thông tin liên lạc và viễn thông. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích như sự tiện lợi và tiết kiệm chi phí thì sự phát triển của công nghệ mới không phải lúc nào cũng là ưu thế cho DNNVV mà nó còn là mối đe doạ của các doanh nghiệp này khi xét đến nguồn chi phí hạn hẹp và khả năng hạn chế của người quản lý khi áp dụng công nghệ vào sản xuất. Điều quan trọng nhất đối với loại hình doanh nghiệp này đó là lựa chọn được các công nghệ phù hợp với quy mô, đặc điểm và năng lực của doanh nghiệp mình. 4.2 Điều kiện chủ quan Ở đây có thể kể đến như sự tác động của môi trường cạnh tranh từng ngành, sức mạnh của đối thủ cạnh tranh, đặc điểm tính chất của ngành thể hiện ở mức độ khó dễ khi gia nhập ngành, quyền thương lượng của các nhà cung cấp và người tiêu dùng cũng như mức độ giới hạn của hàng hoá thay thế. Tất cả các yếu tố này sẽ tạo ra những cơ hội phát triển cho bản thân các DNNVV trong từng thời kì khác nhau. Nhưng bản thân mỗi DNNVV có thể thành công được hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố nội tại của từng doanh nghiệp như kĩ năng quản lý và điều hành kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, số lượng và trình độ nhân công, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ, mô hình tổ chức các hoạt động sản xuất… Đây chính là các yếu tố nội tại bên trong của bản thân mỗi doanh nghiệp, các yếu tố này tạo nên điểm mạnh điểm yếu của mỗi doanh nghiệp. Mặc dù các doanh nghiệp trong cùng ngành có thể có cùng cơ hội phát triển nhưng khả năng nắm bắt các cơ hội khác nhau đã tạo ra sự khác nhau của từng doanh nghiệp và cả cộng đồng DNNVV trong từng thời kì phát triển khác nhau của đất nước. II. Môi trường đầu tư 1.Khái niệm Môi trường đầu tư là tổng hoà các nhân tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội có tác động tới hoạt động đầu tư. Trong một nền kinh tế, các nhân tố trên có thể tác động riêng rẽ hoặc đa chiều tới hoạt động đầu tư. Chính vì vậy các yếu tố quyết định sức hấp dẫn của một môi trường đầu tư chính là ở chính sách và môi trường kinh tế 2.Các yếu tố cơ bản của môi trường đầu tư. 2.1.Các yếu tố tự nhiên và kinh tế Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên Đây là những ưu đãi vốn có của một quốc gia, trong đó tài nguyên thì có thể cạn kiệt và vị trí địa lý có ưu thế lâu dài hơn. Trong lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới,ví dụ như các quốc gia công nghiệp lâu đời Anh, Pháp, Đức, Mỹ đều dựa vào nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú của mình. Trong công cuộc công nghiệp hoá ngày nay các quốc gia Đông Nam Á cũng phải tích cực khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình để tích luỹ vốn trong thời kì đầu của quá trình phát triển. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ như Nhật Bản là một đất nước nghèo tài nguyên nhưng có sức mạnh kinh tế vào bậc nhất thế giới. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhưng không phải là yếu tố sống còn, điều đó càng đúng khi mà nền kinh tế thế giới đang trong quá trình chuyển từ thâm dụng vật liệu sang thâm dụng thông tin. Ưu thế địa lý của một quốc gia còn thể hiện ở chỗ quốc gia đó có nằm trong khu vực phát triển kinh tế sôi động không, có giao lộ của các tuyến giao thông quốc tế không và tại đó có kiểm soát được vùng rộng lớn không.Một quốc gia có vị trí như vậy có nghĩa là quốc gia đó được hưởng lợi từ các dòng thông tin, các trào lưu phát triển mới, thuận lợi cho việc chu chuyển vốn, vận chuyển sản phẩm và hưởng địa tô nếu nằm ở vị trí chiếm lược Đối với các nhà đầu tư thì các ưu đãi thiên nhiên đó là những nơi có cơ hội làm ăn nhiều hơn, mức sinh lợi cao hơn. Phong tục tập quán : Trong một môi trường đầu tư của một quốc gia nếu các nhân tố như hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế là những nhân tố làm yên tâm các nhà đầu tư thì khi nghiên cứu mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư đó người ta không thể không xét đến các yếu tố về phong tục tập quán cũng như lối sống của bộ phận dân cư trong môi trường ấy.Các yếu tố này là những tín hiệu đầu tiên thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trước khi họ quyết định đầu tư. Phong tục tập quán và lối sống là một bộ phận quan trọng trong nghiên cứu Maketing của các công ty khi tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.Hơn nữa ngay cả khi thâm nhập được thị trường thì những phong tục tập quán này vẫn có ảnh hưởng quan trọng, chúng không chỉ liên quan đến sự tồn tại của sản phẩm đó trên thị trường còn là nhân tố giúp công ty củng cố địa vị trên thị trường trước những đối thủ cạnh tranh nếu như sản phẩm của công ty có sự phù hợp nào đó đối với với các phong tục tập quán này. Dân số: Khi xem xét dân số của một quốc gia như là một nhân tố của môi trường đầu tư người ta phải xem xét trên cả hai phương diện đầu vào và đầu ra của dự án Trên phương diện đầu ra, một đất nước với quy mô dân số lớn sẽ là một thị trường tiêu thụ hấp dẫn. Tính hấp dẫn của thị trường như vậy còn thể hiện ở kết cấu dân số theo các tiêu chí khác nhau. Ví dụ một quốc gia có dân số trẻ trong đó tỷ lệ dưới 20 tuổi lớn rõ ràng là một thị trường tiềm năng đối với các ngành sản xuất sữa bột, đồ chơi trẻ em… Trên góc độ đầu vào, một quốc gia có dân số trẻ tức là có một nguồn lao động dồi dào, tuy nhiên chất lượng lao động mới là yếu tố có tính cạnh tranh mạnh mẽ. Đối với các nhà đầu tư thì nguồn nhân lực chất lượng cao đồng nghĩa với năng suất lao động cao, tính sáng tạo đổi mới sản phẩm lớn và có ưu thế cạnh tranh lớn hơn. Còn đối với một nền kinh tế, các nhà kinh tế học đều cho rằng việc phát triển nguồn nhân lực càng mạnh có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng càng nhanh và ngược lại tốc độ tăng trưởng cao có tác dụng chi phối trở lại một cách tích cực đối với hầu như tất cả các nhân tố của môi trường đầu tư. Cơ sở hạ tầng: Bao gồm mạng lưới giao thông, mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp năng lượng. cấp thoát nước, các công trình công cộng phục vụ sản xuất kinh doanh cũng như phục vụ đời sống nhân dân như hệ thống cảng biển, cảng hàng không, trường học… Cơ sở hạ tầng tốt là một trong các yếu tố quan trọng giúp giảm chi phí gián tiếp trong sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư.Thực tế phát triển tại các quốc gia khác nhau cũng như tại các vùng trong một quốc gia cho thấy các dòng vốn đầu tư chỉ đổ vào nơi nào có cơ sở hạ tầng phát triển đủ khả năng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư. Mạng lưới giao thông phục vụ cho việc cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, quan trọng nhất là các đầu mối giao thông tiếp giáp với thế giới như cảng biển, cảng hàng không. Một mạng lưới giao thông đa phương tiện và hiện đại sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được các hao phí chuyên chở không cần thiết. Hệ thống thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng hàng đầu trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, khi mà thông tin về tất cả các biến động trên thị trường ở mọi nơi được truyền tải liên tục trên thế giới. Chậm trễ trong thông tin liên lạc có nghĩa là đánh mất cơ hội làm ăn. Các nhà đầu tư thường đánh giá môi trường đầu tư hấp dẫn là môi trường có hệ thống thông tin liên lạc và cước phí rẻ. Các dịch vụ cung cấp năng lượng và nước sạch đảm bảo cho việc sản xuất quy mô lớn và liên tục, các dịch vụ này bị gián đoạn có nghĩa là chi phí cơ hội cho nhà đầu tư tăng lên 2.2.Môi trường chính trị xã hội Tình hình chính trị xã hội có ảnh hưởng lớn đến các nhà đầu tư. Nền chính trị xã hội tại một quốc gia khi xét dưới góc độ của môi trường đầu tư được xem xét dưới hai khía cạnh: Sự ổn định chính trị và cơ chế vận hành của bộ máy Nhà nước trong nền chính trị xã hội đó Sự ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết cho các hoạt động kinh tế, sự ổn định chính trị trước hết tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư về tài sản và thậm chí là cả tính mạng của họ. Một quốc gia có nội chiến không bao giờ có thể có môi trường đầu tư tốt. Môi trường chính trị xã hội ổn định cũng là điều kiện để một quốc gia thiết lập các mối quan hệ với cộng đồng quốc tế cũng như với các thiết chế tài chính, tín dụng, các tổ chức thương mại trên thế giới Cơ chế vận hành bộ máy nhà nước là kết quả trực tiếp của hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội. Dưới con mắt của các nhà đầu tư thì đó là việc cơ chế vận hành có tạo điều kiện cho họ giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính trong công việc đầu tư của họ hay không. Do nó là kết quả của hệ thống kinh tế chính trị xã hội nên bất kì một sự thay đổi nào trong ba thành tố trên cũng dẫn đến sự thay đổi trong cơ chế vận hành Bộ máy Nhà nước và sự thay đổi này cũng thể hiện mức độ đổi mới tư duy, linh hoạt theo thời của hàng ngũ lãnh đạo cấp cao cũng như trình độ thích ứng của đội ngũ nhân sự làm việc trong các cơ quan Nhà nước nói chung. 2.3.Hệ thống pháp luật Suy cho cùng thì các công cụ điều tiết các thị trường, các chính sách khuyến khích, đãi ngộ hay kìm chế hoạt động sản xuất kinh doanh đều được cụ thể hoá bằng hệ thống chính sách Pháp luật. Vì vậy nhân tố Pháp luật có tính chất bao trùm mọi nhân tố khác trong môi trường đầu tư.Tuy nhiên do nhiệm vụ của nó là quy định và đặc tính của nó là cưỡng chế nên nhân tố Pháp luật phải đặt lên hàng đầu tính nhất quán và minh bạch, sau đó trên góc độ nhà đầu tư người ta mới quan tâm đến tính hấp dẫn và thông thoáng. Môi trường đầu tư tốt xét về mặt pháp luật phải là một môi trường không chỉ hoàn thiện về pháp luật kinh tế mà đây là yêu cầu chung cho luật pháp của tất cả các lĩnh vực khác vì các nhà đầu tư khi tham gia sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ của một quốc gia thì tất yếu bị điều chỉnh bởi các tất cả các Bộ luật khác nhau.Tuy nhiên khi xem xét trên góc độ kinh doanh thuần tuý thì các nhà đầu tư quan tâm đến các vấn đề chính sau: - Các vấn đề mang tính chất hành chính Hệ thống pháp luật kinh doanh phải đầy đủ thống nhất, không chồng chéo và công bằng, một số vấn đề phải được luật hoá và mang tính pháp lý cao.Các văn bản pháp luật khoa học, sát thực tiễn và phù hợp với yêu cầu, cần được điều chỉnh bởi môi trường kinh doanh, tất nhiên việc cho ra đời một văn bản luật có thể đem lại lợi ích cho người này và làm phương hại tới lợi ích của người kia nhưng điều chủ yếu là mức độ gây hại phải được hạn chế ở mức thấp nhất. Các văn bản pháp luật phải có hệ thống văn bản hướng dẫn dưới luật một cách cụ thể và rõ ràng giúp cho các nhà đầu tư hiểu và thực hiện đúng các quy định của luật. Các vấn đề mang tính chất kinh tế Thuế là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư vì nó liên quan tới cả đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Các khoản thuế và các mức thuế phải bao quát được tất cả các nhân tố phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh và phải hợp lý, tận thu nhưng phải nuôi dưỡng nguồn thu, cách tính thuế phải khoa học và xét trong môi trường cạnh tranh thu hút đầu tư thì phải có các quy định về miễn giảm thuế, các mức thuế ưu đãi. Các vấn đề nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc phải có quy định rõ ràng các mặt hàng cấm nhập, các mặt hàng hạn chế nhập với mức thuế suất cao, các mặt hàng được ưu đãi miễn giảm thuế, hạn ngạch… Các vấn đề sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nhưng phải chặt chẽ để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như bảo vệ môi trường sinh thái. Các vấn đề về lao động như tuyển dụng lao động, đào tạo lương tối thiểu, sa thải, thuế thu nhập…Các quy định về vấn đề này vừa phải khuyến khích sử dụng lao động tại địa phương, khuyến khích đào tạo nâng cao trình độ của lực lượng lao động, vừa phải đảm bảo quyền lợi cho họ Ngoài các vấn đề chi phối đầu vào còn các vấn đề chi phối đầu ra như các quy định về xuất khẩu, các quy định về bảo vệ như bản quyền về nhãn mác, tên gọi… Tuy nhiên có một vấn đề vô cùng quan trọng là hệ thống pháp luật phải có tính linh hoạt để kịp thời đưa ra những điều chỉnh phù hợp với các biến động của môi trường kinh doanh. 2.4. Các chính sách kinh tế Chính sách phát triển cơ cấu vùng : Các nhà đầu tư quan tâm chính sách phát triển cơ cấu vùng nhằm đánh giá mức độ thuận lợi trong công việc sản xuất kinh doanh của họ qua các công cụ khuyến khích hay hạn chế phát triển vùng. Chính sách trợ cấp với các khoản hỗ trợ đầu tư, các khoản vay ưu đãi… Các ưu đãi về thuế được khu vực hoá như giảm thuế, giãn thuế đối với các địa điểm nhất định hay các quy định thuận lợi về khấu hao. Chính sách cước giá theo vùng trong đó các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi khi sử dụng các tiện ích công cộng như điện nước sinh hoạt, cước viễn thông… Công cụ thúc đẩy cuối cùng có thể là các đơn đặt hàng theo vùng, tức là Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong vùng thực hiện các đơn đặt hàng với các ưu đãi. Các công cụ thúc đẩy này tuy có tác dụng tức thời và mạnh mẽ tuy nhiên chúng không thể duy trì được lâu vì ngân sách nhà nước không thể bảo trợ cho doanh nghiệp mãi được mà đây chỉ là biện pháp trước tiên thu hút và giúp doanh nghiệp định hướng cũng như bước đầu giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh.Vấn đề quan trọng là các ưu đãi này phải tạo ra được các thuận lợi mang tính chất là kết quả gián tiếp, ví dụ cơ sở hạ tầng được cải thiện, mức sống dân cư trong vùng được nâng cao… Ngoài các chính sách khuyến khích về mặt tài chính nói trên còn có các công cụ có tác dụng dài hạn như chính sách về cơ sở hạ tầng, nó có thể được chia thành chính sách phát triển hạ tầng liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp ví dụ như xây dựng các khu công nghiệp, các công trình phụ trợ ngoài hàng rào hay chính sách phát triển hạ tầng nhằm nâng cao đời sống nhân dân như đưòng sá, trường học…Nhờ chính sách cải thiện cơ sở hạ tầng mà các vùng có thể thu hút thêm các nhà đầu tư cũng như lực lượng lao động có trình độ cao.Tuy nhiên chính sách phát triển cơ sở hạ tầng với tư cách là một công cụ thúc đẩy phát triển cơ cấu vùng gặp phải khó khăn to lớn là nó đòi hỏi các khoản đầu tư lớn, nhưng trong tương lai không biết các công trình này phát huy tác dụng có như mong muốn hoặc việc thu phí tại các công trình hạ tầng này nhằm thu hồi vốn đầu tư cũng khó mà thực hiện được Ngoài các công cụ chính nêu trên còn có các công cụ mang tính chất hỗ trợ như việc tăng cường thông tin hướng dẫn, các hoạt động tư vấn liên quan đến phát triển vùng cho nhà đầu tư. 2.5.Hệ thống ngân hàng tài chính. Hệ thống ngân hàng tài chính được coi là các mạch máu của một môi trường kinh tế, vì vậy không một nhà đầu tư nào có thể bỏ qua hệ thống này khi xem xét mức độ an toàn của môi trường đầu tư. Nhìn chung một hệ thống ngân hàng được đánh giá trên các góc độ sau: Chặt chẽ và khoa học về mặt cơ cấu tổ chức thể hiện ở chỗ cơ chế liên hệ giữa hệ thống các ngân hàng thương mại và ngân hàng Trung ương, giữa các ngân hàng thương mại với nhau và với các trung gian tài chính khác phải tạo điều kiện cho toàn bộ hệ thống hoạt động một cách thuận lợi sao cho ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được hoạt động của các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác nhưng không can thiệp quá sâu vào hoạt động của các tổ chức này.Cơ chế này cũng phải bảo đảm cho các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính có quan hệ tương hỗ với nhau trong các hoạt động nghiệp vụ của mình Đa dạng hoá các kênh chuyển tải vốn thể hiện ở sự có mặt đầy đủ của các tổ chức tín dụng đựoc thành lập dưới các hình thức khác nhau như các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các quỹ tiết kiệm. Hệ thống hỗ trợ về mặt kĩ thuật phải đủ hiện đại đáp ứng được nhu cầu giao dịch với khối lượng lớn và tốc độ cao Cơ chế vận hành phải tạo được sự thông thoáng cho các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nói riêng 2.6. Tình hình phát triển kinh tế Khi nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế người ta có thể căn cứ vào một số chỉ tiêu cơ bản như tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, mức lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hối đoái và cả cán cân thanh toán của quốc gia đó. Các chỉ tiêu trên hoàn toàn được xem xét trên góc độ kinh tế nhằm dự báo một cách chính xác nhất có thể được xu thế biến động của nền kinh tế thị trường và do đó nó tác động thế nào đến công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp có các biện pháp thích hợp và phòng chống rủi ro đối với các các biến động đó. Các chỉ tiêu trên hoàn toàn không hoạt động riêng rẽ mà chúng có sự tác động tưong hỗ rất phức tạp cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều quan trọng khi đánh giá một môi trường kinh tế có hấp dẫn hay không là ở chỗ khi mà doanh nghiệp phải hoạt động trong một nền kinh tế tồn tại cơ hội và nguy cơ thì cơ chế hoạt động của nền kinh tế đó cũng như Chính phủ điều hành nền kinh tế cố gắng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hạn chế nguy cơ và rủi ro hay không. Nói cách khác ở tầm vĩ mô các doanh nghiệp nói chung và các nhà đầu tư nói riêng sợ nhất là chu kì kinh doanh, và các chỉ tiêu trên sẽ cho thấy các phương sách của Chính phủ có đủ hiệu quả để giảm bớt sự thất thường của chu kì kinh doanh hay không.. Khi đánh giá môi trường kinh tế, trên góc độ nhà đầu tư thì về mặt dài hạn nhiệm vụ quan trọng nhất mà Chính phủ phải làm là làm thế nào để chu kì kinh doanh có biên độ nhỏ nhất, tức là các chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất biến động nhỏ nhất để cho các tính toán ban đầu của nhà đầu tư không bị đảo lộn và các kế hoạch dài hạn của họ thành công. Tốc độ tăng trưởng kinh tế : Đây là một chỉ tiêu tổng quát nhất khi đánh giá sức khoẻ của một nền kinh tế. Khi nhìn một quốc gia có mức tăng trưởng cao trong một thời gian dài, rõ ràng đây là một tín hiệu hấp dẫn không chỉ đối với các nhà đầu tư đang mong muốn nhập cuộc mà cả đối với các nhà đầu tư đang hoạt động vì tăng trưởng cao đồng nghĩa với nhu cầu và khả năng thanh toán ngày càng tăng lên. Hơn nữa đối với các nhà đầu tư đang chuẩn bị nhập cuộc thì tốc độ tăng trưởng cao chứng tỏ nền kinh tế này đang được điều chỉnh bởi các giải pháp có hiệu quả và một môi trường như vậy là đáng tin cậy Tăng trưởng cao cũng báo hiệu rằng trong dài hạn quốc gia này đang phải đối mặt với sức ép lạm pháp ngày càng nhích dần lên và đối với nhà đầu tư họ phải đặt ra câu hỏi rằng liệu Chính phủ có khả năng và biện pháp tối ưu để kìm chế sức ép gia tăng lạm phát này hay không, nếu không về dài hạn lạm phát cao có thể làm đảo lộn mọi tính toán ban đầu của họ.. Mức lạm phát: Mức lạm phát cũng chứa đựng nhiều yếu tố mang tính chất dự đoán các động thái của Chính phủ cũng như của thị trường. Tất nhiên một mức lạm phát thấp sẽ là lý tưởng đối với các nhà đầu tư vì nó làm cho tài sản của họ ít bị xói mòn hơn. Một mức lạm phát cao và kéo dài có thể báo hiệu rằng nền kinh tế đang dần đi vào giai đoạn suy thoái của chu kì kinh doanh khi mà giá cả tăng cao làm cho tiền lương thực tế giảm đi và kết quả là giảm sức mua của dân chúng. Các nhà đầu tư đứng ngoài thì cân nhắc có nên nhập cuộc hay không còn các nhà đầu tư đang hoạt động thì tiếp tục dự đoán. Các nhà kinh tế cũng chứng minh được rằng khi mức lạm phát tăng thì cũng kéo theo lãi suất tăng Tỷ giá hối đoái : Các quốc gia có chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá đều mong muốn khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu. Các nhà đầu tư đều mong muốn có một tỷ giá thấp ổn định sao cho có lợi cho hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên cũng như các biến số kinh tế vĩ mô khác thì tỷ giá hối đoái cũng thay đổi theo thời gian, tính hấp dẫn của môi trường đầu tư khi xem xét trên phương diện này là ở chỗ, tỷ giá hối đoái có dễ bị tác động không và khi nó giao động Chính phủ có khả năng can thiệp để giữ ổn định hay không Cán cân thanh toán : Đây cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá mức độ ổn định của môi trường đầu tư. Cán cân thanh toán thâm hụt hay thặng dư quá lớn đều không tốt đối với mỗi nền kinh tế. Bởi vì điều đó có nghĩa là các Chính phủ đều phải tài trợ cho các khoản thặng dư hay thâm hụt đó khiến cho tỷ giá hối đoái lên xuống thất thường. Chương 2: Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV I. Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV Chiếm trên 96% số doanh nghiệp đăng kí và hoạt động theo luật doanh nghiệp và 99% tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, nếu xét riêng từng loại doanh nghiệp thì DNNVV không có được lợi thế về mặt kinh tế như các doanh nghiệp lớn, song về tổng thể các DNNVV đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển và có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực trong cả nước…Do vậy mà việc cải thiện môi trường đầu tư, thu hút đầu tư của khu vực DNNVV đã được thực hiện một cách mạnh mẽ trong thời gian qua,và đã đạt được những thành tựu nhất định.Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những tồn tại đã hạn chế đầu tư của doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.Vị trí địa lý và nguồn tài nguyên thiên nhiên Nước ta có tiềm năng tài nguyên mặt đất, trong lòng đất, dưới mặt nước phong phú đa dạng phù hợp với nhu cầu phát triển KTXH. Việt Nam có bờ biển dài 3200km với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp và nguồn tài nguyên nước dồi dào. Bên cạnh đó chúng ta lại có một lượng đáng kể về dầu mỏ, bôxit, hải sản, là những nhân tố quan trọng thúc đẩy các nhà đầu tư thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy vậy tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam có trữ lượng không lớn và phân bố rải rác. Theo đánh giá chỉ số trữ lượng kim loại của Việt Nam là 0,01 trong khi đó của Thái Lan là 0,47, của Philippin là 0,03 …Đất canh tác chỉ chiếm 21% lãnh thổ và 0,11ha/người, chỉ bằng 33% mức bình quân trên thế giới. Đặc biệt đối với tài nguyên rừng, tuy chiếm 2/3 diện tích đất tự nhiên của toàn quốc nhưng tốc độ mất rừng của Việt Nam cao nhất trong khu vực 2,8%, trong khi đó của Thái Lan là 0,6%, Malaysia là 1,2%… Như vậy Việt Nam có thế mạnh về địa lý và tài nguyên thiên nhiên, song lợi thế này sẽ mất dần đi quá trình phát triển. Do vậy cần tích cực cải thiện môi trường đầu tư khác trong thời gian tới khi mà lợi thế tài nguyên giảm đi. 2. Môi trường chính trị xã hội Các DNNVV Việt Nam đang hoạt động trong một môi trường ổn định về chính trị, đây là một điều hết sức quan trọng đối với các nhà đầu tư vì mỗi sự thay đổi trong hệ thống chính trị sẽ tạo nên các thể chế kinh tế mới nhằm phục vụ cho lợi ích của hệ thống chính trị đó.Trong những năm vừa qua thì Việt Nam được coi là một trong những nước có môi trường chính trị ổn định nhất thế giới Tuy nhiên tình trạng tham nhũng đang đe doạ sự ổn định xã hội và sự phát triển kinh tế nói chung và làm ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của DNNVV nói riêng. Các doanh nghiệp cho rằng đấu tranh chống tham nhũng là hành động cấp bách nhất mà Chính phủ cần tiến hành trong thời gian tới vì tham nhũng có thể làm tăng chi phí kinh doanh cũng như làm méo mó các chính sách phát triển kinh tế. Theo một điều tra của ban nội chính Trung ương thì tham nhũng hiện đang lan tràn ở các lĩnh vực như cung cấp cơ sở hạ tầng, quản lý đất đai, thuế…Một loạt những vụ tham nhũng ở các bộ ngành và Tổng công ty được phát hiện trong năm qua một mặt thể hiện quyết tâm chống tham nhũng của Chính phủ, mặt khác thể hiện mức độ trầm trọng và ảnh hưởng tiêu cực của tệ nạn này tới môi trường đầu tư chung của các doanh nghiệp. DNNVV, đặc biệt là khối doanh nghiệp dân doanh ra đời trong bối cảnh không được sự ủng hộ của các yếu tố văn hoá truyền thống, mặc dù nguồn lao động của Việt Nam rất lớn nhưng nhiều người lao động có tâm lý không thích làm việc ở các DNNVV hoặc chỉ muốn làm việc tại các doanh nghiệp này trong thời gian ngắn làm bước đệm cho sự phát triển nghề nghiệp của mình trước khi đến được với doanh nghiệp lớn hơn, không những thế người tiêu dùng cũng có tâm lý e ngại tiêu dùng những hàng hoá của DNNVV sản xuất do chưa thật tin tưởng vào chất lượng hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp này cung cấp. Sự phát triển văn hoá giáo dục và tốc độ tăng dân số tương đối cao của Việt Nam hiện nay sẽ tạo ra cho các DNNVV nguồn lực lao động dồi dào, có trí thức và một thị trường tiêu thụ sản phẩm tiềm năng lớn.Không những thế mức sống tăng cao làm tăng sức mua của thị trường và tạo ra nhu cầu mới, mở ra cơ hội đầu tư cho các DNNVV trong việc khai thác các thị trường ngách và mở ra các ngành sản xuất dịch vụ mới thoả mãn nhu cầu của người dân. 3. Về khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư Thời gian vừa qua Quốc hội,Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành nhiều cơ chế chính sách mang tính khuyến khích cao, từng bước xoá bỏ rào cản để tăng cường thu hút mọi nguồn vốn đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân. Dưới đây phân tích một số chính sách cơ bản liên quan đến thu hút đầu tư trong nước và một số bất cập của các chính sách này 3.1.Luật Doanh nghiệp 1999 Kể từ khi có hiệu lực, Luật doanh nghiệp được đánh giá là bước đột phá trong cải cách kinh tế nói chung và cải thiện môi trường đầu tư nói riêng ở Việt Nam. Luật doanh nghiệp khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp thông qua quy định không yêu cầu vốn tối thiểu khi thành lập doanh nghiệp ( trừ các công ty trong lĩnh vực tài chính), nhờ đó giảm bớt số lượng thành viên và cổ đông tối thiểu đối với công ty cổ phần, bên cạnh đó luật doanh nghiệp còn thay đổi quan điểm từ việc nhà nước cho phép các doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực sang việc doanh nghiệp có thể hoạt động trong mọi lĩnh vực mà nhà nước không cấm. Điều này giúp nâng cao tính công bằng và bình đẳng trong kinh doanh và thể chế hoá nguyên tắc công dân Việt Nam hoàn toàn được tự do đăng kí kinh doanh phù hợp với pháp luật. Kết quả là nhờ sự đơn giản hoá trong việc cấp giấy phép bằng việc bãi bỏ 150 văn bản và thực hiện hệ thống đăng kí một cửa, giảm các thủ tục đăng kí từ yêu cầu 20 văn bản trong hồ sơ đăng kí kinh doanh xuống 3 văn bản và thời gian tối đa cho việc cấp giấy phép kinh doanh là 15 ngày đã làm nên sự khác biệt trong đời sống kinh tế nhiều mặt như giải phóng tư duy và sức sáng tạo về ý tưởng kinh doanh và phương thức tổ chức kinh doanh, số lượng doanh nghiệp và số vốn đầu tư đã liên tục tăng nhanh. Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thì doanh nghiệp nhỏ và vừa đã phát triển vượt bậc cả về số lượng, chất lượng, tham gia hầu hết vào các ngành lĩnh vực của nền kinh tế, ngày càng huy động nhiều vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động thì Luật doanh nghiệp vẫn còn những tồn tại, và nó đã phần nào cản trở sự phát triển của các DNNVV.Mặc dù Luật doanh nghiệp đã đơn giản hoá quy trình đăng kí đối với doanh nghiệp và thủ tướng Chính phủ đã quyết định bãi bỏ hiệu lực 150 văn bản nhưng còn có nhiều văn bản pháp quy bổ sung được ban hành kể từ năm 2000, trong đó đặt ra các quy định về giấy phép bổ sung, hoặc điều kiện hoạt động…đối với một số lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, bên cạnh đó có một số địa phương còn ban hành những quy định cấm đăng kí kinh doanh đối với một số lĩnh vực như khách sạn, nhà hàng … Thủ tục và chi phí gia nhập thị trường bao gồm chi phí thời gian và tiền bạc vẫn còn cao. Theo quy định hiện hành, ở trường hợp đơn giản nhất, để hoàn thành thủ tục gia nhập thị trường doanh nghiệp phải tiến hành 4 bước tại 3 cơ quan khác nhau ( gồm ĐKKD, khắc dấu, đăng kí mã số thuế và mua hoá đơn tài chính) và để hoàn tất 4 bước nói trên trung bình phải mất 50 ngày với chi phí khoảng gần 2 triệu đồng ( nếu qua các doanh nghiệp dịch vụ thì chi phí này còn cao hơn nhiều). Ngoài ra còn phải đăng báo trên 3 số liên tiếp về những nội dung ĐKKD chủ yếu, với chi phí từ 600-750 nghìn đồng tuỳ thuộc vào địa phương và tờ báo. Như vậy tổng chi phí gia nhập thị trường đối với trường hợp tốt nhất ở nước ta vào khoảng từ gần 3 triệu (chưa kể thuế môn bài). Nhìn chung gia nhập thị trường với chi phí cao, đang có biểu hiện tăng lên đã có tác động không tốt đến môi trường đầu tư của nước ta trong thời gian gần đây. 3.2.Chính sách tài chính. Chính sách tài chính là hệ thống các chính sách nhằm huy động vốn trong nền kinh tế nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, bao gồm: Chính sách thuế,chính sách tài chính công và chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. 3.2.1.Chính sách thuế Đây là một trong những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô quan trọng của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Do đó đồng thời với việc chuyển đổi nền kinh tế trong thời gian qua, Chính phủ đã quan tâm đến việc không ngừng cải thiện chính sách thuế cho phù hợp với sự phát triển kinh tế trong từng thời kì. Nội dung đổi mới chính sách thuế bao gồm: chuyển từ hệ thống thu quốc doanh sang hệ thống thu thuế thống nhất cho tất cả các thành phần kinh tế làm cho thuế thực sự là công cụ điều tiết tác động đến tất cả các thực thể kinh tế có mặt trên thị trường. Chính phủ đã ban hành và áp dụng một số chính sách giảm thuế cho các đối tượng được khuyến khích đầu tư, bên cạnh đó chính phủ còn sử dụng nhiều chính sách ưu đãi thuế để khuyến khích DNNVV phát triển. Tuy vậy chính sách thuế hiện hành còn nhiều bất cập, thể hiện ở một số điểm sau: - Một số quy định về thu thuế không rõ ràng khiến cho cán bộ thuế có thể giải thích vận dụng các khung thuế khác nhau đối với cùng đối tượng nộp thuế. Điều này tạo ra khe hở dẫn đến việc các DNNVV hay trốn thuế. Theo đánh giá của Bộ tài chính thì tình trạng trốn thuế của doanh nghiệp tư nhân là rất nghiêm trọng, còn các doanh nghiệp tư nhân thì cho rằng nếu họ thực hiện nghiêm chỉnh chế độ nộp thuế theo quy định thì sẽ không có doanh nghiệp nào còn tồn tại. - Các quy định về thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn nhiều bất hợp lý, nặng về cơ chế thu, chưa có cơ chế động viên và bồi dưỡng các nguồn thu. Nhà nước đã có nhiều lần sửa đổi chính sách thuế nhưng cho đến nay thuế suất vẫn còn cao và còn có nhiều khoản thu ngoài thuế.Hay nói cách khác chính sách thuế chưa thực sự thể hiện quyền lợi của người nộp thuế mà chỉ nhấn mạnh đến các nghĩa vụ của người nộp thuế,chưa có doanh nghiệp tự giác nộp thuế để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước Một số quy định về thuế gây khó khăn trong kinh doanh,ví dụ như thời hạn nhập khẩu nguyên liệu là 3 tháng nhưng có những nguyên vật liệu nhập về để sản xuất trong 1 năm hoặc 6 tháng, hoặc thuế môn bài áp dụng cho các doanh nghiệp vẫn còn quá cao vì có nhiều doanh nghiệp kinh doanh với quy mô nhỏ Các quy định về thuế vẫn còn rườm rà, rắc rối, đặc biệt là thời gian hoàn thuế VAT chưa phù hợp với từng đối tượng doanh nghiệp và gây khó khăn cho DNNVV vì đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp là khác nhau. Bên cạnh đó các DNNVV cũng gặp thiệt thòi vì các chính sách thuế thường tập trung vào thu hút đầu tư nước ngoài hơn là thu hút đầu tư trong nước. 3.2.2.Chính sách tài chính công Bên cạnh chính sách thuế, chính sách tài chính công cũng là một trong các chính sách cơ bản tác động đến đầu tư của DNNVV. Vai trò của chính sách tài chính công được đánh giá như là một chính sách tài chính nhằm điều chỉnh những sự không công bằng giữa các loại hình kinh tế. Thông qua đầu tư vào các công trình công cộng như cơ sở hạ tầng, đường xá, điện nước, viễn thông…chính phủ sẽ giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí và kinh doanh thuận lợi hơn. Một trong những lĩnh vực mà chính sách tài chính công có thể đầu tư rất hiệu quả là cải thiện bộ máy và hệ thống quản lý hành chính, nâng cao việc cung cấp dịch vụ công ở nước ta. Thái độ của cán bộ nhà nước khi cung cấp các dịch vụ công vẫn cửa quyền và mang nặng tính ban ơn cho doanh nghiệp chứ không phải cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp. Do vậy mà bản thân doanh nghiệp ngại tiếp xúc với cơ quan hành pháp.Trong thời gian tới thì chính sách tài chính công cần có đầu tư thích đáng vào việc nâng cao hiệu quả và hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ công, tạo môi trường hành chính thuận lợi hơn nữa cho Doanh nghiệp 3.2.3 Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. Thực tế những năm qua cho thấy hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trong nước đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế trong đó có DNNVV Luật khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành 1994 và được sửa đổi 1998 đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân. Kể từ năm 1996 cho đến hết năm 2004 số lượng dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đã tăng nhanh một cách đáng kể. Đến năm 2004 cả nước đã có 15443 dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi, với tổng số vốn đầu tư thực hiện lên đến 237720 tỷ đồng, thu hút 1.895.884 lao động. Tính bình quân mỗi dự án có số vốn đầu tư khoảng 15,2 tỷ đồng và thu hút 120 lao động. Bảng 2: Kết quả thực hiện Luật KKĐT trong nước-1996/2004 Năm Dự án ưu đãi Vốn thực hiện Lao động Số lượng Tỷ trọng Tỷ đồng Tỷ trọng (%) Số người Tỷ trọng (%) 1996-1997 1389 8,9 19.051 8,1 57028 3 1998 954 6,2 19389 8,2 156934 8,3 1999 637 4,1 8544 3,6 158785 8,5 2000 1641 10,6 25894 10,9 157766 8,4 2001 2425 15,7 34199 14,4 286883 15,1 2002 2823 18,3 42003 17,7 331404 17,5 2003 2769 17,9 43404 18,2 367746 19,4 2004 2805 18,3 45236 18,9 379428 19,8 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Nhờ thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước mà số lượng dự án ưu đãi đã tăng dần qua các năm, từ 1389 dự án năm 1996-1997 đã tăng lên 2805 dự án năm 2004, về tỷ trọng trong tổng số dự án đã tăng từ 8,9% (1996-1997) lên 18,3% năm 2004. Về số vốn đầu tư năm 2004 đạt 45.236 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,9 % trong khi đó giai đoạn 1996-1997 số vốn đầu tư chỉ có 19.051 tỷ đồng chiếm 8,1% Đánh giá chung, cho đến nay số lượng dự án được cấp GCNƯĐĐT cùng số vốn đầu tư cũng như số lượng lao động đã tăng gấp nhiều lần so với những năm đầu thực hiện Luật. Cụ thể là số lượng dự án tính trung bình đã tăng gấp 9 lần, số vốn đầu tư tăng gấp 9,1 lần và số lao động đã tăng 26,1 lần Điểm nổi bật trong việc cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đó là số lượng dự án thuộc khu vực DNNVV đã tăng nhanh.Giai đoạn 1996-1997 số lượng dự án thuộc khu vực này chỉ là 524 dự án ( chiếm 37,7% số dự án), đến năm 2004 thì con số này đã lên tới 9.773 dự án với số vốn thực hiện lên tới 108.841 tỷ đồng, bình quân một dự án có vốn đầu tư trên 11,1 tỷ đồng và thu hút 125 lao động. Đến nay tỷ trọng đầu tư của khu vực này liên tục tăng và vượt lên hẳn tỷ trọng đầu tư của DNNN, tương ứng là 62% và 38%. Mặt khác trong giai đoạn 1996-2004 số lượng dự án do các địa phương cấp giấy chứng nhận ưu đãi đã tăng lên nhanh chóng, cụ thể số dự án đã tăng 16,7 lần và số vốn đầu tư đã tăng 31,7 lần. Điều này cho thấy khu vực kinh tế tư nhân ngày càng chiếm ưu thế trong nền kinh tế thông qua cơ cấu vốn đầu tư và tạo việc làm của khu vực này. Theo kết quả báo cáo của các địa phương cơ cấu vốn đầu tư trung bình của một dự án thuộc khu vực kinh tế này trong giai đoạn 1996-2004 đã tăng từ 4,5 tỷ lên 11,1 tỷ. Bảng 3: Cơ cấu ưu đãi đầu tư theo loại hình doanh nghiệp do địa phương cấp (1996-2004) Loại hình DN Dự án ưu đãi Số vốn thực hiện Số lao động Số dự án Tỷ trọng (%) Tổng vốn(tỷ.đ) Tỷ trọng ( %) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) DNNN 2584 22,7 45239 37,7 322151 22,9 Công ty TNHH 3992 35,2 51798 43,1 621330 44,1 Công ty cổ phần 903 8 14636 12,2 202077 14,3 DN tư nhân 2776 24,4 6181 5,1 133001 9,4 Hợp tác xã 481 4,2 735 0,6 115532 8,2 Hộ kinh doanh 598 5,3 395 0,3 14987 1,06 Việt Kiều 23 0,2 1096 0,9 503 0,04 Tổng số 11.357 100 120.080 100 1.409572 100 Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư Số lượng dự án của hộ kinh doanh được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đã tăng 12 lần kể từ năm 1996 cho đến cuối năm 2004, cả về quy mô vốn đầu tư cũng như quy mô tạo việc làm. Nhưng nếu so với 2,4 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động trong cả nước thì 598 giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư là quá ít ỏi. Trong giai đoạn 1996-2004 đã có 6996 dự án được hưởng theo ngành nghề ưu đãi đầu tư thuộc danh mục A do địa phương cấp, với số vốn đầu tư là 63.135 tỷ đồng, thu hút 789.069 lao động. Số dự án đầu tư cũng như số vốn đầu tư tập trung nhiều nhất ở các dự án xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện sinh thái và môi trường vệ sinh đô thị đã chiếm 41% tổng vốn đầu tư và 32% tổng số lao động trong ngành nghề ưu đãi đầu tư. Đây là tín hiệu tốt khi các doanh nghiệp dân doanh tự đổi mới nâng cao khả năng cạnh tranh. Số liệu tổng hợp cho thấy hầu hết các dự án được hưởng ưu đãi của các DNNN đầu tư thuộc danh mục A ( chiếm 96% số dự án của các DNNN do Bộ KHĐT xét cấp và 80% dự án của DNNN do địa phương cấp) chỉ có 18% số lượng dự án và vốn đầu tư của DNNN được đầu tư vào địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn, ít hơn nhiều so với khu vực kinh tế dân doanh ( tỷ lệ tương ứng là 1:3 và 1:4). Điều này chỉ ra một thực tế là chính khu vực kinh tế tư nhân chứ không phải là kinh tế nhà nước đang và sẽ là lực lượng chính có khả năng đưa các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn phát triển. Tuy nhiên qua quá trình thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư cho thấy vẫn còn có những bất cập, cản trở DNNVV tiếp cận hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trong nước Hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư còn dàn trải, quá phức tạp,khập khiễng và chồng chéo, thể hiện nhiều loại, nhiều cấp văn bản khác nhau. Chưa thực sự khuyến khích DNNVV đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp.Số lượng doanh nghiệp tập trung đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ đời sống vẫn còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu đầu tư Các quy định về khuyến khích và ưu đãi đầu tư vẫn chưa thực sự đi vào thực tiễn do thủ tục còn phiền hà và vẫn có sự phân biệt đối xử trong cấp ưu đãi đầu tư.Nhiều doanh nghiệp biết đến các quỹ như quỹ hỗ trợ phát triển…nhưng vẫn chưa biết cách tiếp cận các quỹ này như thế nào. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp chỉ vì muốn nhận được vốn hỗ trợ từ các quỹ này đã phải tách doanh nghiệp hoặc thành lập những doanh nghiệp mới gây phân tán nguồn lực doanh nghiệp. Thiếu định hướng phát triển dài hạn cho các ngành công nghiệp, các chính sách thiếu ổn định không nhất quán, không có cơ sở khoa học cho các nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư thuận lợi 3.3.Các chính sách hỗ trợ DNNVV Thành phần kinh tế dân doanh trong đó chủ yếu là các DNNVV ngày càng được đối xử công bằng như các thành phần kinh tế khác và chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong các Nghị quyết, chính sách và pháp luật của Đảng và nhà nước. Xuất phát từ vai trò quan trọng của DNNVV trong phát triển kinh tế quốc dân, chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV trong đó đã xác định các chính sách trợ giúp phát triển DNNVV gồm trợ giúp đầu tư thông qua các biện pháp về tài chính, tín dụng; thành lập quỹ bão lãnh DNNVV để bảo lãnh cho các DNNVV khi không có đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn, các địa phương tạo thuận lợi cho các DNNVV có mặt bằng sản xuất phù hợp, khuyến khích phát triển các khu cụm công nghiệp cho các DNNVV có mặt bằng sản xuất,khuyến khích các hình thức phát triển thị trường và tăng khả năng cạnh tranh của DNNVV; thông qua các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia trợ giúp xúc tiến xuất khẩu cho các DNNVV; Chính phủ trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV; đẩy mạnh việc cung cấp thông tin về sản xuất kinh doanh cho các DNNVV thông qua các ấn phẩm, internet; khuyến khích thành lập các vườn ươm doanh nghiệp. Mặc dù có Nghị định trên là cơ sở pháp lý và định hướng hết sức quan trọng, song việc hỗ trợ DNNVV còn mới mẻ ở nước ta, trong khi nguồn lực đang còn hạn chế, hệ thống pháp luật đang được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn thế nữa là các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân hiện chưa được một số cán bộ công chức các ngành và địa phương nhận thức đầy đủ do đó việc triển khai thực hiện chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Khi tiếp cận vấn đề trợ giúp DNNVV có tính tổng thể như trên hầu như các Bộ, ngành và địa phương không xây dựng lộ trình các chính sách trợ giúp cụ thể và chưa có sự lựa chọn lĩnh vực ưu tiên ( ví dụ về sản xuất, chế tạo, chế biến nông sản, hải sản…rất cần thiết trợ giúp về kĩ thuật, công nghệ, khác với khu vực dịch vụ thương mại), mức độ ưu tiên trợ giúp dàn trải nên việc triển khai thực hiện lúng túng, kém hiệu quả và không đáp ứng được đòi hỏi của DNNVV. Ngoài ra còn hàng loạt các Văn bản pháp luật có liên quan đã được ban hành nhằm khuyến khích phát triển các DNNVV Việt Nam. Đó là : Luật lao động cho phép các doanh nghiệp có quyền tuyển dụng lao động trực tiếp thay cho việc phải thông qua các trung gian Các văn bản pháp luật liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá, cải tiến các thủ tục hải quan Các luật khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà cho thuê Luật và các điều khoản liên quan đến đất đai và thủ tục cấp quyền sử dụng đất, quy hoạch đô thị Luật và các điều khoản liên quan đến các thủ tục chuyển nhượng tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất Các quy định và điều khoản liên quan đến việc miễn giảm thuế và hàng loạt các quy định khác được ban hành bởi các Bộ, ngành liên quan 4. Môi trường kinh tế vĩ mô Với các thành tích đã đạt được trong thời gian qua, Việt Nam được đánh giá là rất thành công trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường với tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh và nền kinh tế vĩ mô tương đối ổn định. Cùng với chủ trương mở cửa nền kinh tế, Việt Nam cũng chủ trương mở rộng thị trường vốn, cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam tạo điều kiện cho các ngân hàng cổ phần phát triển, do đó mà ngày càng có nhiều nguồn vốn hơn cho các Doanh nghiệp vay đầu tư Cân đối tích luỹ - tiêu dùng được cải thiện, tổng quỹ tiêu dùng vẫn tăng trưởng khá, bình quân khoảng 6,2%/ năm, tiêu dùng bình quân theo đầu người tăng gần 6%. Nhờ đó mà tích luỹ của nhân dân được cải thiện đáng kể, Quỹ tiết kiệm và tích luỹ tiếp tục được tăng nhanh để đảm bảo nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển. Tài chính quốc gia có nhiều cải thiện, tổng thu ngân sách nhà nước tăng bình quân trên 15%, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân hàng năm đạt gần 23% GDP. Nguồn thu ổn định từ sản xuất trong nước đã bước đầu tăng, tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%/ năm, tỷ lệ chi bình quân bằng 28% GDP, trong đó chi cho đầu tư phát triển bình quân đạt 30,2%. Cân đối vốn đầu tư phát triển liên tục được cải thiện qua các năm,tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong GDP tăng từ 34% năm 2001 lên 36,5% năm 2005,tổng vốn đầu tư trong 5 năm 2001-2005 tính theo giá năm 2000 vượt khoảng 16% so với kế hoạch đề ra. 5. Kết cấu hạ tầng cho thu hút đầu tư Thời gian vừa qua, Chính phủ đã cố gắng trong việc thiết lập các kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho thu hút đầu tư. Mạng lưới kết cấu hạ tầng đã được phân bổ hợp lý và chia tập trung cho 3 vùng kinh tế trọng điểm, động lực thúc đẩy tăng trưởng cho các vùng lân cận Ngành điện: Đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhiều nhà máy đã được xây dựng và đưa vào sử dụng đáp ứng nhu cầu điện năng cho các doanh nghiệp sản xuất được hiệu quả và không bị gián đoạn. Bảng 4: Sản lượng điện sản xuất theo nguồn Nguồn Sản lượng điện sản xuất ( triệu kWh ) 2003 2004 Tổng điện phát và mua 40.825 46.201 Sản lượng điện của các nhà máy thuộc EVN 39.261 40.175 Nguồn: Tổng công ty điện lực Việt Nam. Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng sản lượng điện sản xuất năm 2004 tăng vượt bâc so với năm trước và đảm bảo nguồn điện sản xuất cho các doanh nghiệp. - Hệ thống giao thông vận tải đường sắt đường bộ đã đảm bảo lưu thông thông suốt an toàn. Nhiều tuyến đường bộ đã được xây dựng mới và nâng cấp hiện đại, đạt tiêu chuẩn kĩ thuật và công nghệ tiên tiến. Hệ thống sân bay, bến cảng được nâng cấp mở rộng, giao thông đường thuỷ được tăng cường khai thông, tăng cường đầu tư trang thiết bị hiện đại trong các hoạt động vận tải bốc dỡ. Việt Nam có một hệ thống giao thông với đầy đủ các phương thức vận tải: 219.192 km đường bộ, 3.143 km đường sắt, 17.139 km đường sông đang khai thác, hơn 90 cảng biển lớn nhỏ và 52 sân bay. Sau 15 năm đổi mới, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, GTVT đã có những bước phát triển đáng kể. Trong giai đoạn 1997-2002, khối lượng hàng hóa vận chuyển được là 851 triệu tấn và 273 tỷ TKm, khối lượng vận tải hành khách là 4,3 tỷ HK và 151 tỷ HK.Km, khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển đạt 447 triệu tấn, tăng bình quân 15%/năm. Chất lượng vận tải và dịch vụ vận tải được nâng lên, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, chấm dứt tình trạng ách tắc vận tải, cung cấp hàng hóa chậm trễ thường diễn ra trong thời kỳ bao cấp. Bằng nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như vay vốn ưu đãi ODA, nhiều công trình giao thông đã được khôi phục, nâng cấp. Trong giai đoạn 1997-2004, với tổng vốn đầu tư XDCB được giao là 57.488,4 tỷ đồng, trong đó Bộ GTVT trực tiếp quản lý 54.051,1 tỷ đồng, ngành GTVT đã hoàn thành xây dựng mới và nâng cấp được 8.924 km quốc lộ, làm mới 61,4 km cầu đường bộ, sửa chữa, đại tu và nâng cấp 1.253 km đường sắt, khôi phục và đại tu 8 km cầu đường sắt, mở rộng và nâng cấp hệ thống cảng tổng hợp quốc gia, các tuyến đường thủy huyết mạch, hệ thống giao thông đô thị đã được cải thiện một bước, giao thông nông thôn có sự phát triển vượt bậc, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Nhiều công trình đã đi vào khai thác và phát huy hiệu quả rõ rệt. Theo phân tích đánh giá của JBIC về các tác động sau khi hoàn thành đường 5, thời gian đi lại giữa Hải Phòng và Hà Nội đã giảm còn ½, số lượng phương tiện tăng gấp 2, hàng hoá qua cảng Hải Phòng tăng lên 1,5 lần thời kì 2001-2002, về tác động sau khi hoàn thành cầu Mỹ Thuận và nâng cấp quốc lộ 1 thời gian đi lại từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Cần Thơ giảm từ 5 giờ xuống còn 3,5 giờ… Hệ thống bưu chính viễn thông được hiện đại hoá, từ thành phố đến tỉnh huyện đã được trang bị tổng đài điện tử và truyền dẫn kĩ thuật số, đảm bảo thông tin thông suốt từ trung ương đến các xã trong mọi điều kiện thời tiết và tình huống phức tạp. Dịch vụ Internet phát triển mạnh, cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết và mở rộng giao lưu quốc tế. Biểu đồ1: Số liệu tăng trưởng số điện thoại theo năm Nguồn: Bộ bưu chính viễn thông. Qua số liệu trên có thể thấy số lượng điện thoại tăng vọt qua từng năm, tăng khối lượng thông tin được truyền tải, và rõ ràng là điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong đó có các DNNVV trong hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó thì ở Việt Nam trong những năm gần đây sự tăng mạnh của dịch vụ internet cả về số lượng và chất lượng, làm cho các hoạt động của DNNVV như tìm kiếm thị trường, giao dịch với các doanh nghiệp nước ngoài…được diễn ra một cách thuận lợi hơn. Dưới đây là biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng của số thuê bao internet : Biểu đồ 2 : Tăng trưởng thuê bao Internet qua các năm Nguồn : Bộ bưu chính viễn thông Hệ thống cung cấp nước sạch được nâng cấp và cải tạo, đầu tư mới đã đảm bảo cung cấp nước cho sản xuất của doanh nghiệp Bên cạnh các thành tựu nói trên thì hệ thống kết cấu hạ tầng của Việt Nam vẫn còn tồn tại như yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và làm cho chi phí đầu vào sản xuất cao hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bảng dưới đây so sánh 3 loại chi phí đầu vào tại Hà Nội và một số thành phố ở Châu Á, qua đó cho thấy Việt Nam có chi phí cao nhất so với các nước trong khu vực: Hà Nội Bangkok Manila Jakarta Thuê văn phòng(USD/m2/tháng) 25 11 7 18 Chi phí giao thông(USD/công ten- nơ) 1300 1200 850 990 Chi phí điện (USD/Kwh) 0.062 0.053 0.056 0.056 Nguồn: JETRO- So sánh chi phí đầu tư tại các thành phố Châu Á- năm 2004 Giá cả dịch vụ cơ sở hạ tầng của Việt Nam cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực,ví dụ so với cước điện thoại quốc tế cao hơn 136%, thuê bao điện thoại cố định cao hơn 91%, phí vận hành đối với tàu 1 vạn tấn tại cảng Sài Gòn là 40.000USD cao gấp đôi cảng ở Bangkok. Tuy giá cả cao nhưng chất lượng phục vụ các dịch vụ còn thấp và trong các ngành dịch vụ này tình trạng độc quyền vẫn duy trì điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đầu tư của các DNNVV. 6. Các nguồn lực đầu vào 6. 1. Vốn Qua hơn 15 năm đổi mới với chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nước ta đã được nhà nước quan tâm hỗ trợ nhiều mặt, trong đó có sự hỗ trợ về mặt tín dụng. Trong 4 năm( 2000-2004), khối lượng tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp dân doanh ( chủ yếu là DNNVV) tăng trưởng với tốc độ cao, khoảng 21-24% năm, dư nợ cuối năm 2004 gấp 2,2 lần so với cuối năm 2000, cho vay trung và dài hạn đã được mở rộng để tạo điều kiện cho các DNNVV mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng. Các tổ chức tín dụng đã có sự điều chỉnh cơ cấu vốn cho vay doanh nghiệp, bằng cách giảm dần tỷ trọng cho vay DNNN mở rộng cho doanh nghiệp dân doanh, làm tỷ trọng dư nợ đối với doanh nghiệp dân doanh tăng lên khoảng 18% vào cuối năm 2004 ( cuối năm 2001 là 12,6%), phù hợp với số lượng doanh nghiệp dân doanh tăng nhanh. Đối với việc vay vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển : đến nay, sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước mới có 2222 dự án được hưởng tín dụng ưu đãi từ quỹ với số tiền được hỗ trợ là 5.076 tỷ đồng. Bảng 5: Tín dụng ưu đãi đầu tư từ quỹ hỗ trợ phát triển 1996-2004 Khu vực kinh tế Tổng số dự án Cho vay ưu đãi Hỗ trợ lãi suất đầu tư Bảo lãnh tín dụng đầu tư Số dự án Số vốn (tỷ. đ) Số dự án Số tiền (tỷ. đ) Số dự án Vốn (tỷ. đ) DNNN 1.145 990 5.047 137 1.084 18 112 % 42,8 46,4 70,7 27,9 58,5 38,2 92,5 DNDD 1.525 1.143 2086 353 767 29 9 % 57,2 53,5 29,3 72,1 41,5 61,8 7,4 Tổng 2.670 2.133 7.133 490 1.851 47 121 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư Ta thấy rằng mặc dù số lượng dự án của khu vực DNDD nhiều hơn khu vực DNNN nhưng tỷ trọng vốn vay ưu đãi vẫn thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước( tỷ lệ là 70,7% và 29,3%). Còn đối với hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư con số cũng rất khiêm tốn với 490 dự án, với số tiền được hỗ trợ 1.851 tỷ đồng. Trong đó mỗi dự án DNNN được hỗ trợ 7,9 tỷ đồng còn DNDD chỉ được hỗ trợ 2,1 tỷ đồng. Như vậy trung bình mỗi dự án của DNNN được hỗ trợ gấp 3,7 lần so với DNDD. Rõ ràng ở đây vẫn có sự phân biệt trong cấp tín dụng từ quỹ đối với 2 thành phần kinh tế này. Về bảo lãnh tín dụng, đã có 47 dự án được bảo lãnh tín dụng, với số tiền được bảo lãnh trên 121 tỷ đồng, như vậy mỗi dự án được bảo lãnh 2,5 tỷ đồng. Con số này cho thấy hình thức bảo lãnh tín dụng chưa được thực hiện tốt, mặc dù nhu cầu về bảo lãnh tín dụng của các doanh nghiệp là rất lớn, nhất là đối với những dự án vay vốn với lãi suất cao từ các ngân hàng thương mại. Thời gian qua việc huy động vốn còn mất cân đối và chưa tương xứng với vị trí của các DNNVV trong nền kinh tế. Nguyên nhân của tình trạng này là mặc dù các DNNVV đã được thừa nhận và khuyến khích phát triển, tuy nhiên vẫn chưa thoát ra khỏi những khó khăn khi tiếp cận với thị trường tín dụng chính thức. Vì vậy hầu hết các DNNVV huy động vốn từ thị trường tín dụng phi chính thức như từ gia đình, bạn bè, các hình thức góp hội..cho dù đôi khi phải trả lãi suất cao. Tất cả những hình thức huy động vốn phi chính thức này nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Nguồn vốn đầu tư của DNNVV bao gồm vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài, trong đó nguồn vốn trong nước là chủ yếu. Thực tế cho thấy hầu hết các DNNVV ở nước ta được hình thành từ nguồn vốn trong nước, còn số lượng DNNVV có vốn đầu tư nước ngoài chiếm một số lượng rất nhỏ. Đối với nguồn vốn trong nước, vốn của DNNVV bao gồm : -Nguồn vốn ngân sách: Ở Việt Nam hiện nay, nguồn vốn này chủ yếu là từ hoạt động thu thuế mang lại. Trong việc đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nguồn vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ (chiếm 23% trong tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước năm 2004) -Nguồn vốn tín dụng: Nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đáp ứng bằng khu vực tiền tệ chính thức và khu vực tiền tệ phi chính thức. Khu vực tiền tệ chính thức bao gồm các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, vốn hỗ trợ phát triển thông qua các ngân hàng phát triển, các quỹ hỗ trợ phát triển như ngân hàng dành cho người nghèo, quỹ phát triển nông thôn, quỹ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ tín dụng nhân dân, các nguồn tín dụng thương mại thông thường. Khu vực tài chính tiền tệ phi chính thức bao gồm các nguồn vốn từ tầng lớp cho vay nặng lãi, người thân, bạn bè…và đây cũng là nguồn vốn chính đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo thống kê 72% doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội chưa vay được vốn của ngân hàng. Nguồn vốn của các doanh nghiệp này là 16% vay vốn của bạn bè, còn lại sử dụng vốn tự có, vốn vay gia đình và vốn vay ngoài tổ chức tín dụng với lãi suất trên 1%/ tháng. Còn các khoản vay của các tổ chức thì: 50% các khoản vay này dành cho doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ nhận được 16,5% tổng số khoản cho vay. Các ngân hàng thương mại quốc doanh dùng khoảng 55% khoản vay để cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước trong khi chỉ cấp cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh 14,7%. Ngân hàng công thương là ngân hàng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay nhiều nhất cũng chỉ đạt 21% các khoản vay (2003). Các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng dành tới 32,5% cho các doanh nghiệp Nhà nước vay và chỉ có 22,6% được dành cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các khoản vay trung hạn và dài hạn của các ngân hàng trong cả nước chiếm 34,5% trong đó phần lớn các khoản vay này dành cho doanh nghiệp Nhà nước (66,2%), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ nhận được một phần ít ỏi là khoảng 5,4%. Nguyên nhân của việc này là do: các thủ tục vay vốn tín dụng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức rất phức tạp làm cho chi phí giao dịch cao làm cho các khoản tín dụng này trở nên quá đắt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa các quy định khắt khe về tài sản thế chấp và về các dự án đầu tư làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể đáp ứng được khi họ muốn vay vốn từ các tổ chưc tài chính. Sự phân biệt đối xử trong cách nhìn nhận của xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân (phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) cũng tác động tiêu cực đến việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp này. Chính vì vậy, nếu doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước cùng có đủ các điều kiện như nhau thì thông thường cán bộ tín dụng sẽ cấp tín dụng cho DNNN và từ chối đối với DNTN. -Vốn tự có của các doanh nghiệp : Vốn này được hình thành từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp bổ sung cho vốn kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đây là nguồn vốn chủ yếu. Các chủ doanh nghiệp trực tiếp bỏ vốn của mình ra đầu tư, có tới 70% số doanh nghiệp được thành lập theo hình thức này. Đối với DNNN thì nguồn vốn tự có của doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 25% tổng số vốn của doanh nghiệp. Vốn tự có của DNNN và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh liên tục tăng qua các năm, tuy nhiên tỷ trọng vốn tự có của các DNNN lại có xu hướng sút giảm do sự sút giảm của việc thành lập các DNNN. -Vốn huy động từ dân cư: Trong những năm gần đây, các loại hình doanh nghiệp đã thu hút một lượng vốn đáng kể của dân cư, đưa nguồn vốn đó vào chu chuyển khắc phục một nghịch lí đã tồn tại nhiều năm là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng trong khi lượng vốn trong dân cư còn nhiều, khả năng tiềm ẩn chưa được khai thác. Trên thực tế, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, vốn trong dân cư được huy động vào đầu tư phát triển ngày càng tăng Kết quả huy động vốn trong dân hàng năm tuy tăng nhanh nhưng cũng chỉ đạt ở mức thấp so với nguồn lực trong dân. Vấn đề đặt ra là tìm cơ chế, chính sách, giải pháp thích hợp nhằm khuyến khích các tầng lớp dân cư yên tâm đầu tư, tạo lòng tin và môi trường đầu tư hấp dẫn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thu hút khá nhiều vốn trong dân cư do tính chất hiệu quả, qui mô phù hợp, lượng vốn đòi hỏi không nhiều…do đó cần có những biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển. -Theo đánh giá mới đây nhất của ngân hàng thế giới về sự kém phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam trong thời gian qua là do sự kém phát triển của hệ thống ngân hàng đã cản trở sự luân chuyển các nguồn tài chính từ người tiết kiệm tới người đầu tư. Sự lệ thuộc của DNNVV vào nguồn vốn phi chính thức cho thấy mức độ ảnh hưởng của chính sách tài chính, tín dụng đối với các doanh nghiệp này là không lớn. Sự phụ thuộc đó gây thiệt hại cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do chúng phải chịu chi phí giao dịch và lãi suất cao hơn nhiều lần. Lãi suất đối với các khoản vay từ khu vực phi chính thức có thể gấp 3 lần so với lãi suất từ khu vực chính thức. Hiện nay các DNNVV tư nhân ít sử dụng các dịch vụ ngân hàng cho các giao dịch mua bán và họ thực sự thấy kém bình đẳng hơn so với khu vực kinh tế nhà nước khi phải đối mặt với các điều khoản vay vốn Chính phủ thường sử dụng chính sách tín dụng như một chính sách điều tiết lượng cung tiền và giúp các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn. Trong thời gian qua tuy chính sách tín dụng của Việt Nam đã và đang dần được cải thiện tuy nhiên tác động của chính sách tín dụng này là không lớn.Trong khi mà các chính sách của chính phủ là khuyến khích các DNNVV vay vốn thông qua các nguồn vốn ưu đãi thì nhiều DNNVV không biết làm thế nào để tiếp cận được với nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước và của các ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp đã tiếp cận được với các thủ tục vay vốn ưu đãi nhưng thấy quá phức tạp và tốn kém cả về chi phí và thời gian. Hầu hết các DNNVV có quy mô nhỏ, vốn ít luôn trong tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh, các DNNVV ở thành phố Hồ Chí Minh có tiềm lực về vốn cao hơn nhiều so với các DNNVV khác trong cả nước, tuy nhiên so với nhu cầu thực tế của quá trình sản xuất kinh doanh thì vẫn còn khoảng cách xa. Số doanh nghiệp có quy mô vốn từ 500 triệu đồng trở xuống chiếm khoảng 45,6%, số có quy mô từ 10-50 tỷ chiếm khoảng 1,6% do đó có thể thấy phần lớn các doanh nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng lớn( 82%). Mặc dù rất thiếu vốn để sản xuất kinh doanh nhưng các DNNVV lại gặp khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, làm cho tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau tăng lên. Hiện tượng các ngân hàng dư thừa vốn trong khi các DNNVV lại thiếu vốn và phải đi vay ở thị trường không chính thức vừa tác động xấu đến hoạt động của ngân hàng lại vừa không hỗ trợ được cho các DNNVV gây thiệt hại cho toàn xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này được cho là có nguồn gốc từ 2 yếu tố đó là đòi hỏi phải có những đảm bảo công khai như tài sản cố định, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…trong khi DNNVV thường thiếu những tài sản thế chấp này và yếu tố thứ 2 là do bảo lãnh ngầm cho doanh nghiệp nhà nước, vì là doanh nghiệp của nhà nước nên nếu làm ăn thua lỗ thì đã có nhà nước trả. Bên cạnh những nguyên nhân trên thì nguyên nhân không kém phần quan trọng xuất phát từ chính các DNNVV. Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến việc tiếp cận vốn tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn rất hạn chế do doanh nghiệp không hiểu về cơ chế tín dụng của ngân hàng thương mại, có tâm lý sợ thủ tục vay vốn của ngân hàng rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay của ngân hàng khó khăn. Phần lớn các DNNVV thiết lập thủ tục vay vốn của ngân hàng không đúng quy định mà ngân hàng yêu cầu. Nhiều doanh nghiệp, nhất là các công ty TNHH, tài sản pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên ngân hàng rất khó thẩm định, đánh giá về năng lực thực sự của khách hàng. Hệ thống sổ sách kế toán, nội dung và phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp thường không đầy đủ, chính xác và thiếu minh bạch. Năng lực tài chính nội tại của doanh nghiệp yếu, các hệ số tài chính không đảm bảo theo yêu cầu của ngân hàng, không xác định rõ ràng được dòng tiền lưu chuyển bởi vậy không tính toán được đúng khả năng trả nợ trong tương lai. Một số lớn các DNNVV lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư còn mang nặng tính chủ quan, áp đặt của lãnh đạo doanh nghiệp, hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần tuý.Nội dung của phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư đôi khi được thiết lập sơ sài, bởi vậy thiếu thuyết phục ngân hàng khi xem xét thẩm định cho vay. Ở một số doanh nghiệp, việc điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo thiếu bài bản, mang nặng tính gia đình. Trong quan hệ với ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm, việc bố trí cán bộ quan hệ giao dịch với ngân hàng không hợp lý, cán bộ có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, khả năng thuyết trình, đàm phán với ngân hàng. Đây chính là những vấn đề mà các DNNVV cần lưu tâm và khắc phục, nếu khắc phục tốt những điểm hạn chế này thì chắc chắn vay vốn ngân hàng dễ dàng hơn nhiều. Các ngân hàng cần đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường và nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, cải tiến thủ tục cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn, tiếp tục cải tiến quy trình cho vay nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay. Đồng thời cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức bảo đảm tín dụng để thích ứng với đặc điểm của các DNNVV, tiếp tục nghiên cứu và triển khai mạnh việc phát triển và hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng mới như dịch vụ tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, bảo quản vật có giá, cung cấp các dịch vụ sản phẩm bảo hiểm, uỷ thác... 6.2 Mặt bằng sản xuất kinh doanh Mặt bằng phục vụ sản xuất kinh doanh hiện nay là vấn đề bức xúc nhất đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV. Tình trạng khá phổ biến trong thời gian qua đó là trong khi nhiều DNNN được giao đất và sử dụng đất không có hiệu quả, đất đai bỏ hoang và sử dụng không đúng mục đích thì các doanh nghiệp tư nhân lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đất đai làm mặt bằng kinh doanh. DNNVV có thể có được mặt bằng sản xuất thông qua các hình thức sau: - Thuê đất của nhà nước: thông thường để thuê được đất của nhà nước phục vụ sản xuất DNNVV phải làm rất nhiều thủ tục ở cả 3 cấp với gần 25 con dấu và chữ kí khác nhau và với rất nhiều thời gian từ 1,5-5 năm, chi phí ( kể cả chi phí đi lại và chi phí tiêu cực ), ngoài ra doanh nghiệp phải thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng kèm theo các khoản chi phí hỗ trợ như hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng…với chi phí cao.Theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp khi hoàn tất các thủ tục này thì cơ hội kinh doanh qua đi và phần lớn vốn tự có của doanh nghiệp đã chi để có đất nên đã hạn chế phần vốn dành cho sản xuất kinh doanh. - Thuê lại diện tích sử dụng đất chưa sử dụng hết của các DNNN. Xuất phát từ lý do trước đây các DNNN được nhà nước giao đất để sản xuất kinh doanh, đến nay chuyển đổi nền kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có sự năng động cao, nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, hoạt động cầm chừng, không sử dụng hết diện tích đất được giao, nhưng không trả lại cho nhà nước và các doanh nghiệp này cho các DNNVV thuê lại một phần để sản xuất kinh doanh Thời hạn thuê đất trong các trường hợp này thông thường là ngắn, do đó doanh nghiệp không yên tâm sản xuất, đầu tư vào công nghệ. Mặt khác việc thuê lại đất chưa sử dụng hết của DNNN là bất hợp pháp, các DNNVV thuê đất không thể mang tài sản này để thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng để có thêm vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ. - Thuê quyền sử dụng đất của các cá nhân : Việc thuê đất của các cá nhân để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng mang tính bất ổn cao.Giống như trường hợp thuê lại đất sử dụng chưa hết của DNNN, thời gian thuê đất của cá nhân ngắn, ngoài ra tính rủi ro cao vì trong nhiều trường hợp chủ đất thấy khi doanh nghiệp làm ăn có lãi đã đòi lại đất để kinh doanh cùng mặt hàng, hoặc đòi tiền thuê đất cao hơn, để cho doanh nghiệp khác thuê nên cũng không khuyến khích đầu tư lâu dài. - Chủ đầu tư sử dụng nhà xưởng hiện có để tiến hành sản xuất kinh doanh, hình thứ này chủ yếu tập trung ở các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại hoặc sản xuất quy mô hộ gia đình. - Thuê đất trong các KCN, cụm công nghiệp: đối với các KCN có cơ sở hạ tầng tốt, chi phí thuê đất thường cao và yêu cầu doanh nghiệp trả tiền một lần, với giá thấp nhất khoảng 20-22USD/m2. Nếu giả sử một DNNVV có vốn đầu tư khoảng 10 tỷ đồng,cần diện tích khoảng 0,5ha và giá thuê đất tại khu công nghiệp là khoảng 20USD/m2 (đây là giá thuê đất thấp nhất và ở các địa phương có điều kiện khó khăn, còn tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội phát triển thì giá cho thuê lại đất trong các KCN cao gấp 2-3 lần), thì chi phí này của doanh nghiệp đã chiếm 1/5 tổng vốn của doanh nghiệp, với số vốn còn lại doanh nghiệp rất khó đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ tiên tiến. Như vậy tiếp cận với quyền sử dụng đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh là vấn đề khó khăn nhất đối với đầu tư mới cũng như đầu tư mở rộng của các DNNVV.Số đất nhà nước để cho thuê là quá ít so với nhu cầu, ví dụ ở Hà Nội từ năm 1994-2000 chỉ có 376 DNDD thuê được đất của nhà nước để phục vụ sản xuất kinh doanh trong khi đó chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2002 đã có 400 doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất. Điều tra của Ban quản lý khu công nghiệp cho thấy 66,7% doanh nghiệp gặp quá nhiều khó khăn trong tìm kiếm mặt bằng kinh doanh, 44,4% không đủ kiên nhẫn vì thủ tục thuê đất quá vòng vèo và không rõ ràng, đùn đẩy trách nhiệm giữa cơ quan này và cơ quan khác.Tình hình này cũng diễn ra ở các địa phương khác nhất là ở các thành phố và vùng đô thị. Để thực hiện đầu tư đại đa số các DNNVV phải tự xoay xở kiếm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp này chi phí đầu tư của doanh nghiệp là rất lớn, nhưng nghịch lý ở chỗ là doanh nghiệp sau khi đã chi ra một khoản tiền lớn để có được mặt bằng kinh doanh thì nó vẫn không thuộc sở hữu của doanh nghiệp, điều này không chỉ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, cho các doanh nghiệp mà nó còn làm tổn hại đến nền kinh tế xã hội, vì đất đai và quyền sử dụng đất đai nói trên đã không trở thành vốn luân chuyển để vốn thu hút thêm vốn và tạo ra vốn mới để phát triển kinh tế xã hội. 6.3.Công nghệ 6.3.1 Tình trạng công nghệ của các DNNVV Thực trạng công nghệ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là kết quả về mặt công nghệ của quá trình hình thành và phát triển trong bối cảnh lịch sử cụ thể và những yếu tố khác. Ở Miền Bắc, các máy móc thiết bị của ta có được đa số do việc trợ giúp từ nước ngoài với mức độ công nghệ là trung bình và lạc hậu. Ở miền Nam, các máy móc thiết bị của chủ doanh nghiệp dựa trên cơ sở kế thừa của các doanh nghiệp thành lập trước năm 1975. Chính vì vậy, hầu hết các máy móc thiết bị miền Nam đều ở trình độ trung bình và thấp. Từ khi có chính sách đổi mới do Đảng ta khởi xướng nhất là trong những năm gần đây do sự thay đổi về cơ chế quản lý, áp lực về đổi mới công nghệ ngày càng gia tăng nên nhiều DNNVV đã bỏ ra những khoản tiền lớn để mua sắm máy móc thiết bị và công nghệ mới. Điều này đã tạo ra một số sản phẩm cạnh tranh, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và một phần cho xuất khẩu. Nhưng nhìn tổng thể, máy móc thiết bị và công nghệ DNNVV còn lạc hậu. Thậm chí cả doanh nghiệp Nhà nước sau khi tổ chức sắp xếp lại phần lớn vẫn là quy mô vừa và nhỏ và trình độ công nghệ thấp, trừ một số ngành mới có công nghệ tương đối hiện đại như năng lượng, viễn thông, điện tử, tin học. Theo điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu dự án về mức độ hiện đại của công nghệ ở hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nói chung phần lớn máy móc thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn lạc hậu. Trình độ công nghệ máy móc thiết bị đang sử dụng trong sản xuất của các ngành công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh thể hiện trong bảng sau: Bảng 6: Trình độ công nghệ của DNNVV ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2005 Ngành công nghiệp Tổng số(%) Trình độ công nghệ so với thế giới Hiện đại(%) Trung bình(%) Lạc hậu (%) Tổng số Trong đó Thực phẩm Thuốc lá Dệt nhuộm May mặc Da và vải da Vật liệu xây dựng In Hoá chất Cao su, nhựa Điện tử 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 10 9,5 4,3 20,4 12,5 1,8 16 15,6 5 28,6 38 25 100 38,3 51 43,7 48,2 56 40,4 40,6 57,1 52 65,5 57,4 28,6 43,8 50 28 44 54,4 14,3 Nguồn: Viện NCQLKTTW Theo đánh giá của Trung tâm nghiên cứu và phát triển DNNVV Đại học Wollongong (Úc) cho rằng các DNNVV Việt Nam sử dụng máy móc thiết bị và kĩ thuật lạc hậu so với mức trung bình thế giới 3-4 thế hệ ( không kể những doanh nghiệp hoàn toàn không sử dụng máy móc chỉ sử dụng cơ bắp). Hơn nữa tốc độ đổi mới quá chậm chỉ có 10% /năm. Các doanh nghiệp Việt Nam không sử dụng hết công suất của mình, hiện nay vẫn còn bộ phận không nhỏ DNNVV chỉ sử dụng dưới 70% công suất các thiết bị. Nguyên nhân trực tiếp là do máy móc được trang bị không đồng bộ và công nghệ lạc hậu. Ngay tại địa bàn Hà Nội là một trong số ít địa phương có trình độ khoa học công nghệ và tốc độ đổi mới khoa học công nghệ cao nhất nước thì tỷ lệ chung về thiết bị hiện đại và tương đối hiện đại cũng chỉ đạt 36-38% tài sản cố định của các doanh nghiệp công nghiệp. Trình độ cơ khí hoá và tự động hoá của DNNVV Việt Nam còn hết sức thấp kém, điều đó được thể hiện ở bảng sau: DNNN DNDD Doanh nghiệp liên doanh Tính chung 1.Trình độ tự động hoá 0% công việc 25,3 31,3 - 21,74 5-10% công việc 1,2 17,24 - 4,35 10-20% công việc 20,48 3,5 15,38 15,94 Trên 20% công việc 38,55 20,69 80,77 42,75 2.Trình độ cơ khí hoá 30-50% công việc 37,35 20,69 80,77 42,03 50-60% công việc 13,25 20,69 - 12,32 Trên 60% công việc 44,58 41,38 3,85 26,23 Nguồn: Điều tra của Jica-2005 Về trình độ công nghệ trong sản xuất các sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp thì do không có khả năng về công nghệ nên mức độ nội địa hoá nguyên liệu đầu vào không cao. Hiện nay điều đáng chú ý là nguyên liệu đầu vào của rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đều có thể sản xuất được trong nước(dạng tự nhiên hoặc sơ chế), tuy nhiên do trình độ công nghệ còn thấp nên chi phí bị dội lên, trong khi sản phẩm cùng loại nhập khẩu có chất lượng cao và rẻ hơn. 6.3.2. Đầu tư cho khoa học công nghệ của nhà nước Đầu tư cho khoa học công nghệ được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước, vốn của doanh nghiệp và từ nước ngoài. Năm 2004 là năm thứ 5 nhà nước thực hiện đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động Khoa học công nghệ, đạt 2% tổng chi của ngân sách nhà nước ( bao gồm cả chi cho đầu tư phát triển trong lĩnh vực môi trường, đầu tư cơ bản và một số lĩnh vực khác) Bảng 7: Đầu tư cho KHCN từ ngân sách nhà nước Nội dung 2003 2004 Tổng chi KH-CN( tỷ. đ) 3.180 3.727 Tăng trưởng (%) 21,3 17,2 Tổng chi NSNN 158.020 182.875 Chi KH-CN/NSNN(%) 2 Nguồn: Bộ KHCNTN&MT Tuy đầu tư cho khoa học công nghệ còn của Việt Nam tăng nhanh qua các năm nhưng vẫn còn mang nặng tính dàn trải và không đúng trọng tâm, thấp hơn nhiều so với các nước công nghiệp mới ở Châu Á. Bảng 8:So sánh về đầu tư cho R&D của Việt Nam và một số nước trong khu vực Tổng chi cho R&D Tỷ trọng chi cho R&D so GDP Đầu tư R&D/người Tỷ trọng chi của NSNN/tổng Chi cho R&D Philippin 51 0,078 0,7 58,8 Việt Nam 150 0,47 1,78 81 Singapore 1489 1,8 384,4 38,3 Malaysia 195 0,2 9,3 40 Indonesia 187 0,092 1,0 53,5 Thái Lan 197 0,175 3,2 78,7 Trung Quốc 6655 0,693 5,3 55,1 Hàn Quốc 8089 2,689 174,2 27,5 Nhật Bản 122275 2,913 969,9 28 Nguồn: Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia-CIEM-UNDP- 2005 Việc chậm đổi mới công nghệ sẽ dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam tới nguy cơ tụt hậu về công nghệ, chất lượng sản phẩm sản xuất ra chất lượng không cao, trong khi giá thành cao, tiêu hao nhiều nguyên liệu và nguy cơ gây ô nhiễm cao, có thể dẫn đến việc hàng hoá của các nước xung quanh có nền công nghiệp cao hơn sẽ dần chiếm lĩnh thị trường nội địa, nguy cơ cao hơn nữa là nền công nghiệp của chúng ta sẽ bị đè bẹp. 6.4 Nguồn nhân lực 6.4.1 Thực trạng của lực lượng lao động Xét về số lượng lao động, Việt Nam có số lao động dồi dào và tỷ lệ lao động trẻ cao. Mức tăng bình quân dân cư trong độ tuổi lao động mỗi năm khoảng 1,4-1,5 triệu người, giá cả sức lao động ở Việt Nam vẫn được coi là tương đối rẻ Tuy nhiên chất lượng và cơ cấu đội ngũ lao động nước ta còn nhiều điều bất cập yếu kém thể hiện qua các chỉ tiêu chính như: tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động xã hội còn rất thấp, ước tính chỉ khoảng 16,5% ; cơ cấu lao động đã qua đào tạo rất bất hợp lý, cụ thể là tỷ lệ giữa đào tạo đại học, trung học và công nhân kĩ thuật theo cơ cấu : 1-1,5-2,5 trong khi ở các nước phát triển trong khu vực là : 1-4-10. Điều đó dẫn đến tổng số lao động qua đào tạo đã ít, số công nhân kĩ thuật lại còn ít hơn so với thực tế. Hơn nữa chất lượng dạy nghề lại yếu, nhiều người tuy có bằng cấp chứng chỉ nhưng không được thị trường lao động chấp nhận, sử dụng. Bảng 9: Cơ cấu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1999 2004 Tổng số lao động Nghìn người 35866 37783 41313 Có chuyên môn Nghìn người 4414 5241 8768 % 12,31 13,87 21,23 Không có chuyên môn Nghìn người 31452 32542 32545 % 87,69 86,13 78,77 Nguồn: Niên giám thống kê - Bộ LĐTB- XH- 2004 Số liệu bảng trên cho thấy đến năm 2004 toàn quốc có 8.768 nghìn lao động có chuyên môn kĩ thuật, gồm các trình độ đào tạo từ sơ cấp đến sau đại học, so với tổng số cả nước chiếm 21,23%, và số lượng lao động không có chuyên môn kĩ thuật chiếm đến 78,77% tổng số lao động cả nước, đây là một thách thức lớn đối với nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn của các DNNVV. Bên cạnh đó trong số hơn 20% lao động có chuyên môn thì chỉ gần 5% lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có trình độ Đại học cũng chỉ khoảng 2%. Về cơ bản, đội ngũ này mới được hình thành những năm 90, còn thiếu kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Quy mô nhỏ lại luôn khó khăn về vốn nên hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động. Đây là một lực cản mà tất cả các doanh nghiệp đều gặp và cần phải quyết tâm vượt qua vì sự tồn tại của bộ phận doanh nghiệp này trong điều kiện hội nhập hiện nay. Về phía các DNNVV, thiếu vốn đã làm họ không thể chủ động giải quyết nguồn nhân lực cho chính mình, ngay cả với những chủ doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Con đường chung mà các doanh nghiệp vẫn thực hiện là tìm lao động qua các Hội chợ việc làm. Thực tế qua các Hội chợ việc làm được tổ chức gần đây cho thấy, mặc dù được tuyển chọn lao động trong điều kiện thị trường đầy ắp các cử nhân đang khát khao tìm việc, thì các doanh nghiệp cũng không phải dễ dàng tìm được những lao động phù hợp cho mình và nếu có tuyển dụng được thì cũng còn phải bỏ thời gian, kinh phí để đào tạo lại cho phù hợp với yêu cầu chuyên môn của doanh nghiệp. Tuy nhiên nhu cầu sử dụng lao động giỏi cũng chưa phải là động lực chính của các DNNVV. Tình trạng các lao động giỏi được đào tạo tốt đổ xô vào các công ty có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra khá phổ biến, tại nhiều doanh nghiệp này còn diễn ra tình trạng những lao động đã tốt nghiệp đại học đảm nhiệm các vị trí lẽ ra bố trí cho các công nhân kĩ thuật trong khi các DNNVV trong nước do công nghệ thấp và để đảm bảo hạ giá thành sản phẩm đã chỉ sử dụng các lao động có tay nghề thấp, lao động phổ thông. 6.4.2 Thực trạng của các chủ DNNVV Về cơ cấu trình độ của các chủ DNNVV theo kết quả điều tra thì 30% chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân viên chức thuộc khu vực kinh tế nhà nước chuyển ra. Đây là đội ngũ phần nào đã có kinh nghiệm trong sản xuất, một số ít có tay nghề và trình độ quản lý.Khoảng 60% đã từng là chủ doanh nghiệp nhỏ hoặc đã hoạt động ở khu vực kinh tế cá thể, tư nhân có nghề truyền thống của gia đình. Đây là lực lượng khá lớn có kinh nghiệm nghề nghiệp nhưng trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, tài chính kế toán…còn thiếu. Về trình độ chuyên môn thì trong số các chủ doanh nghiệp cứ 100 người thì có 1 người có trình độ trên đại học, 14 người có trình độ đại học hoặc tương đương.Hơn nữa trong số chủ doanh nghiệp có trình độ trung học hoặc đại học thì chủ doanh nghiệp có trình độ đào tạo nghề phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh thấp, chỉ khoảng 7%. Khoảng 30% chủ doanh nghiệp đã hoạt động kinh tế tư nhân, mặc dù chưa có nghề nhưng nhờ chính sách chế độ mới đã nắm cơ hội tạo lập cơ sở nâng cao hoặc phát triển doanh nghiệp thừa kế của gia đình. Chủ doanh nghiệp này phần lớn hoạt động ở khu vực dịch vụ, đặc biệt là may mặc, dịch vụ văn hoá, sữa chữa cơ khí, điện tử. Chủ doanh nghiệp có nghề phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp nhưng ở trình độ thấp, chủ yếu dựa vào đào tạo từ cơ sở dạy nghề tư nhân hoặc kèm cặp qua thực tế, hay được gia đình truyền lại. Có một số chủ doanh nghiệp loại này đã làm trong khu vực kinh tế nhà nước, nhưng khi lập doanh nghiệp kiến thức cũ không đáp ứng được mà phải tự học lại, hoặc nâng cao kiến thức qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn. Một số ít các chủ doanh nghiệp đã có quá trình đi làm cho các chủ doanh nghiệp khác từ khi còn ít tuổi, tự học nghề trong thực tế sau đó có vốn và tự đứng ra thành lập doanh nghiệp. Qua tình hình, đặc điểm và trình độ của các chủ doanh nghiệp nói trên có thể thấy rằng đội ngũ các chủ doanh nghiệp có sự bất cập về trình độ. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này trước hết là do sự chuyển đổi về cơ chế quản lý, các DNNVV đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển và do vậy việc đào tạo chưa được chú ý đúng mức. 7.Các yếu tố đầu ra Với trên 80 triệu dân và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra thị trường rộng lớn cho các sản phẩm đầu ra, kể cả các sản phẩm có chất lượng trung bình lẫn các sản phẩm các sản phẩm có chất lượng chưa cao. Đối với thị trường trong nước : Với mức thu nhập bình quân đầu người thấp, đa phần người dân có nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm có chất lượng trung bình đã mở ra khả năng sản xuất đáp ứng nhu cầu nội địa thay thế nhập khẩu. Có nhiều mặt hàng có chất lượng bằng thậm chí cao hơn sản phẩm nhập khẩu mà giá lại rẻ hơn, do tận dụng được ưu thế về giá nhân công rẻ và lợi thế về nguyên vật liệu…Tuy nhiên cũng có không ít mặt hàng các ấn phẩm trong nước đã bị hàng nhập khẩu hạn chế. Mặc dù hàng của nước ngoài nhập sang thị trường Việt Nam qua con đường tiểu ngạch, chưa phải là hàng xuất khẩu chất lượng cao nhưng nhiều mặt hàng của Việt Nam phải chịu mất thị phần trước hàng Trung Quốc, Thái Lan…ngay tại thị trường Việt Nam do chất lượng và mẫu mã không bằng. Bên cạnh đó sản phẩm của các DNNVV chưa đến được tay khách hàng còn là vì hệ thống các kênh lưu thông từ sản xuất đến tiêu dùng chưa được thực hiện hiệu quả. Trong thời gian qua, khâu này chủ yếu vẫn do tư thương làm nhiều mà những DNNVV thương mại tư nhân vẫn buôn bán theo kiểu phi vụ qua nhiều khâu trung gian. Điều đó dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra, tranh mua tranh bán và gây ra tình trạng khan hiếm hoặc dư thừa trên thị trường.Các nghiên cứu, dự báo thị trường, hướng dẫn doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường còn yếu, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu tự phát. Chưa có biện pháp hỗ trợ DNNVV trong trường hợp sản xuất kinh doanh gặp rủi ro, việc quản lý thị trường còn sơ hở, dẫn đến tình trạng hàng lậu tràn lan, hàng giả gia tăng, gây thiệt hại không những cho người tiêu dùng mà còn cho cả người sản xuất. Còn đối với các DN thương mại nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế khác thì có khuynh hướng chú trọng tập trung nguồn lực để dự trữ và tiêu thụ hàng hoá ngoại hơn là tổ chức lưu chuyển hàng hoá trong nước. Vì vậy thị trường tiêu thụ sản phẩm sản xuất trong nước đã không phát triển đúng mức. Đối với thị trường nước ngoài: Trong thời gian qua với nền kinh tế mở cửa, thương mại của Việt Nam đã có sự thay đổi như đa dạng hoá sản phẩm và mặt hàng xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng ngày càng tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu chế biến sâu, giảm tỷ lệ hàng xuất khẩu thô, khai thác tiềm năng sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng truyền thống và nỗ lực tìm kiếm những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao. Tuy nhiên các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng mới chỉ giới hạn ở các sản phẩm như nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ…là những mặt hàng mang tính chất truyền thống. Sản phẩm của Việt Nam còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại, nguyên nhân chủ yếu là do chính sách thiếu khuyến khích và chưa thực sự quan tâm đầu tư đúng mức cho việc nghiên cứu cải tiến mẫu mã, thiết kế tạo mẫu mới phù hợp với thị hiếu nhu cầu của khách hàng. Hoạt động thiết kế mẫu mã đã có trong một số ngành như dệt may,da giày, thủ công mỹ nghệ và cơ khí xuất khẩu nhưng còn nhiều hạn chế. Nhiều DNNVV phải dựa vào mẫu do khách hàng gửi đến thậm chí cả tài liệu kĩ thuật và chỉ nghiên cứu làm theo đúng catalogue, theo cách này giá sản phẩm không cao và doanh nghiệp Việt Nam bị động và yều thế trong đàm phán. Một số doanh nghiệp chủ động hơn cóp nhặt tổng hợp các mẫu mã đã được sử dụng để tạo thành sản phẩm nhưng nó không có giá trị sáng tạo và không đặc sắc. Hiện nay cán bộ thiết kế mẫu mã sản phẩm ở các DNNVV rất thiếu.Bên cạnh đó phương tiện phục vụ cho việc nghiên cứu thiết kế mẫu còn thiếu hơn, đặc biệt trong các doanh nghiệp nhỏ chủ yếu làm bằng thủ công. Sản phẩm xuất khẩu dưới dạng thô và sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao (60-70%) trong tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu trong khi đó lao động ở các DNNVV nói chung đang dư thừa nhiều. Xuất khẩu sản phẩm thô không những có giá trị xuất khẩu thấp mà còn nhanh chóng làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, đặc biệt là hàng nông lâm thổ sản và khoáng sản. Trong những năm gần đây tại các DNNVV việc đầu tư cho công nghiệp chế biến còn chưa tương xứng với tốc độ phát triển của những ngành sản xuất nguyên liệu, nhất là nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu. Thực tế cho thấy xuất khẩu hàng thô và sơ chế thì vốn ít, dễ tìm thị trường nhưng giá trị xuất khẩu thấp, còn xuất khẩu hàng đã qua chế biến thì cần vốn lớn và khó kiếm thị trường, nhiều khi sản phẩm xuất khẩu thô thì lãi nhưng đầu tư chiều sâu để xuất khẩu thì lại bị lỗ, do đó vốn và thị trường là hai khó khăn lớn hạn chế hoạt động của DNNVV hiện nay. Chất lượng sản phẩm của Việt Nam còn kém, lại không ổn định do đó rất dễ bị mất khách hàng hàng.Và một điều đáng lo ngại đối với các DNNVV Việt Nam khi mà nhiều mặt hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam và thị trường quốc tế liên tục thay đổi mẫu mã mà giá cả lại không giảm .Ví dụ tại Cuba giá của xe đạp Việt Nam xuất khẩu từ 35-40USD một chiếc rất khó cạnh tranh với xe đạp Trung Quốc chỉ 30USD một chiếc, trong khi xe đạp của Trung Quốc có kiểu dáng đẹp hơn và tiện dụng hơn. Nhìn chung các DNNVV Việt Nam chưa tìm được cho mình những sản phẩm độc đáo và chỉ mới dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh của mình thì đem chào bán. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do DNNVV yếu kém về năng lực sản xuất và do nhà nước thiếu hệ thống chính sách hỗ trợ nói chung và hỗ trợ thương mại nói riêng đối với DNNVV trong nền kinh tế. II. Kết quả và hiệu quả của môi trường đầu tư với sự phát triển của DNNVV 1.Kết quả Nhờ môi trường đầu tư nói chung được cải thiện, tuy chưa thật mạnh nhưng cũng đã có tác động tích cực đến phát triển của DNNVV các năm qua.Cụ thể : 1.1 Về số lượng doanh nghiệp Theo kết quả tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp của Tổng cục thống kê hiện có trên 2,7 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh trong đó DNNVV chiếm hơn 98% tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và thu hút trên 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp Từ năm 2000 đến hết năm 2004, đã có gần 121 nghìn doanh nghiệp đăng kí thành lập trong đó chủ yếu là DNNVV, đưa tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên cả nước đến nay lên khoảng 170.000 doanh nghiệp, cộng thêm khoảng 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể và khoảng hơn 18 nghìn hợp tác xã. Bảng 10: Số lượng đăng ký doanh nghiệp mới từ 2000-2004 Năm Tổng số DNNN Cty TNHH 1 TV DNDD 2000 14457 16 0 14441 2001 19800 27 0 19773 2002 21535 12 59 21464 2003 27771 20 98 27653 2004 37230 6 125 37099 Tống số 120793 81 282 120430 Nguồn: Trung tâm thông tin doanh nghiệp(Bộ KHĐT),2004 Trong mấy năm gần đây số lượng doanh nghiệp đăng kí hoạt động theo Luật doanh nghiệp tăng nhanh, với tốc độ ngày càng cao. Năm 2002 có 21535 doanh nghiệp tăng 9% so với cùng kì năm trước, năm 2003 tăng 29%, năm 2004 tăng khoảng 40%. Số doanh nghiệp đăng kí trung bình hàng năm tăng khoảng 4 lần so với trung bình của 9 năm trước 1991-1999. Nếu năm 2001 cứ 964 người dân thì có một doanh nghiệp đăng kí kinh doanh thì đến năm 2005 ước tính cứ 500 người dân thì có 1 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh. 1.2.Vốn đầu tư thực hiện và quy mô vốn đầu tư trung bình Tổng vốn đầu tư của DNNVV Trong những năm qua thì do thu hút được đông đảo lực lượng lao động, bên cạnh đó còn thu hút được một lượng vốn nhàn rỗi đáng kể nên DNNVV phát triển nhanh chóng về số lượng tuy nhiên quy mô vốn đầu tư của DNNVV là còn nhỏ. Số lượng vốn huy động được qua đăng kí thành lập mới và mở rộng kinh doanh tăng lên mạnh mẽ và được phân bố rộng khắp cả nước. Nếu như giai đoạn 1991-1999 tổng vốn đăng kí chỉ là 25.742 nghìn tỷ đồng thì trong 4 năm 2000-2004 số vốn đăng kí tăng lên 213.030 nghìn tỷ đồng, đưa tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên đến 229.383.903 tỷ đồng trong đó năm sau luôn cao vượt bậc so với năm trước. Bảng 11: Vốn đầu tư của DNNVV năm 2000-2005 Tổng số Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng vốn đầu tư Tỷ đồng 18.032 27.053 38.530 58.199 73.636 92045 % phát triển liên hoàn 100 150 142 151 131 125 Vốn bình quân cơ sở Triệu đồng 27.331 31.431 35.202 42.243 48.580 69.469 % phát triển liên hoàn 100 115 111 120 115 142 Vốn bình quân đầu người Triệu đồng 171 194 215 241 278 301 % phát triển liên hoàn 100 113 110 112 115 108 Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư Năm 2002, vốn đầu tư của DNNVV là 38.530 nghìn tỷ, tăng 50% so với cùng kì năm trước; năm 2003 là 58.199 nghìn tỷ tăng 51%, năm 2004 là 76.636 nghìn tỷ tăng 31% và năm 2005 là 92.045 tỷ đồng tăng 25%. Số vốn đầu tư thực tế là vấn đề nhiều người quan tâm. Cho đến nay chưa có điều tra thực tế đầy đủ để so sánh số vốn đăng kí với số vốn đầu tư thực hiện, tuy nhiên khảo sát thực tế ở một số khu cụm công nghiệp cho thấy doanh nghiệp tư nhân trong nước đang là các nhà đầu tư chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn, chỉ riêng số vốn đầu tư thực tế của các doanh nghiệp tư nhân thực hiện tại các khu cụm công nghiệp đã cao hơn số vốn đăng kí ở địa phương trong cùng kì. Ví dụ, ở Nam Định số vốn đăng kí của các doanh nghiệp năm 2002 là 84,5 tỷ thì số vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp Hoà Xá đã lên tới gần 700 tỷ trong cùng kì. Còn ở Lào Cai thì trong khi vốn đăng kí kinh doanh năm 2002 chỉ khoảng 93 tỷ thì vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp là 422 tỷ. Vốn đầu tư trung bình Kết quả tổng điều tra cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp năm 2004 cho thấy số vốn đầu tư bình quân đầu người của một doanh nghiệp nhỏ (có 10-49 người) vào khoảng 178 triệu đồng cao hơn mức bình quân chung là 159 triệu đồng, trong khi đó số vốn đầu tư bình quân đầu người của một doanh nghiệp vừa là khoảng 442 triệu đồng, gấp rưỡi mức bình quân chung của các doanh nghiệp lớn. Bên cạnh tổng mức vốn đầu tư của DNNVV liên tục tăng lên thì mức vốn đầu tư trung bình của DNNVV liên tục tăng nhanh qua các năm.Từ mức vốn đầu tư bình quân cơ sở năm 2000 chỉ có 27.331 triệu đồng thì đến năm 2005 đã là 69.469 triệu đồng. Tuy nhiên so với doanh nghiệp lớn thì DNNVV có mức vốn đầu tư bình quân cơ sở thấp hơn, trong khi của doanh nghiệp lớn là 229.157 triệu đồng thì của DNNVV là 48.580 triệu đồng. Sỡ dĩ có mức chênh lệch lớn như vậy là do tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp lớn cao hơn nhiều và số doanh nghiệp lớn cũng chiếm tỷ trọng thấp. 1.3.Vốn đầu tư theo ngành Nếu xét vốn đầu tư theo ngành thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào những ngành cần ít vốn, thu hồi vốn nhanh như các ngành thương mại, dịch vụ, nhà hàng, công nghiệp chế biến. Bảng 12: VĐT của DNNVV phân theo ngành kinh tế (Tính đến 31/12/2004) Đơn vị : Tỷ đồng VĐT %VĐT Số DN % Số DN Tổng số 353.339 100 61.153 100 1.Thương mại dịch vụ 564.288 36,8 28.252 46,2 2.Công nghiệp chế biến 49.682 32,4 4.953 8,1 3.Xây dựng 23.921 15,6 4.158 6,8 4.Khách sạn, nhà hàng 7.974 5,2 2.874 4,7 5.Vận tải, kho bãi, TTLL 7.514 4,9 6.299 10,3 6.HĐKD tài sản và dịch vụ tư vấn 3.527 2,3 1.590 2,6 7.Công nghiệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDT3.docx