Đề tài Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Tài liệu Đề tài Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Tổ chức tín dụng (TCTD) là các trung gian tài chính có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Vì vậy việc đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Tuy vậy, hoạt động của các TCTD luôn tiềm ẩn những rủi ro, trong thực tế hoạt động tín dụng của các TCTD Việt Nam trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ nợ không đủ tiêu chuẩn còn cao và chưa có khuynh hướng giảm vững chắc. Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro, một trong những nguyên nhân chính là TCTD thiếu thông tin cần thiết về khách hàng vay, đặc biệt là thông tin xếp hạng doanh nghiệp. Do đó, việc có được những thông tin cần thiết về khách hàng vay có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn cho hoạt động của các TCTD nói riêng và ngành Ngân hang nói chung. Thông tin về xếp hạng doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động của TCTD và các chủ thể kinh tế khác như: tạo thêm một kênh thông tin qua...

docx122 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Tổ chức tín dụng (TCTD) là các trung gian tài chính có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Vì vậy việc đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Tuy vậy, hoạt động của các TCTD luôn tiềm ẩn những rủi ro, trong thực tế hoạt động tín dụng của các TCTD Việt Nam trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ nợ không đủ tiêu chuẩn còn cao và chưa có khuynh hướng giảm vững chắc. Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro, một trong những nguyên nhân chính là TCTD thiếu thông tin cần thiết về khách hàng vay, đặc biệt là thông tin xếp hạng doanh nghiệp. Do đó, việc có được những thông tin cần thiết về khách hàng vay có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn cho hoạt động của các TCTD nói riêng và ngành Ngân hang nói chung. Thông tin về xếp hạng doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động của TCTD và các chủ thể kinh tế khác như: tạo thêm một kênh thông tin quan trọng cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong công tác hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ; một mặt giúp các TCTD lựa chọn những khách hàng tốt, có khả năng trả nợ, mặt khác thông qua định hạng khách hàng hiện có của mình để có những chính sách tín dụng hợp lý, như tăng dự phòng rủi ro hoặc tăng cường giám sát đối với những khoản vay có vấn đề; đồng thời, kết quả xếp hạng doanh nghiệp giúp cho các doanh nghiệp nắm rõ được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của bạn hàng; của chính doanh nghiệp đó để có những phương án sản xuất kinh doanh và đầu tư phù hợp. Vì thế, trên thế giới có nhiều cơ quan, tổ chức chuyên môn cung cấp thông tin về xếp hạng doanh nghiệp để phục vụ cho TCTD và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trung tâm Thông tin tín dụng (có tên tiếng Anh là Credit Information Centre - viết tắt là CIC) hoạt động với mục đích thu thập và cung cấp thông tin chuyên dùng phục vụ cho hệ thống ngân hàng và một số tổ chức kinh tế khác. Tính đến cuối năm 2007, kho dữ liệu CIC thu thập và lưu trữ thông tin của hơn 8,5 triệu khách hàng có quan hệ tín dụng với các TCTD, bao gồm khoảng 120.000 khách hàng là doanh nghiệp, từ đó đã tạo ra trên 30 sản phẩm thông tin tín dụng, trong đó có sản phẩm về xếp hạng doanh nghiệp để cung cấp cho các cơ quan Nhà nước; các TCTD và các tổ chức kinh tế khác khi có nhu cầu. Như vậy, sản phẩm xếp hạng doanh nghiệp còn giúp cho danh mục sản phẩm cung cấp ra của CIC được phong phú và đa dạng nhằm hoàn thiện, uy tín hoạt động của CIC trong môi trường kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, việc xếp hạng doanh nghiệp là một nghiệp vụ mới, có thể nói CIC là một cơ quan đầu tiên tại Việt Nam xây dựng và thực hiện nghiệp vụ này, do đó còn nhiều hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh doanh của các TCTD và của các chủ thể kinh tế khác trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” được chọn, nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống phương pháp cũng như xếp hạng doanh nghiệp trên phương diện lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay đối với CIC. 2. Mục đích nghiên cứu - Khái quát một số vấn đề cơ bản về xếp hạng doanh nghiệp của các tổ chức xếp hạng doanh nghiệp trong nước và trên thế giới. - Phân tích thực trạng về xếp hạng doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay. - Nghiên cứu thực tiễn chất lượng hoạt động xếp hạng doanh nghiệp tại CIC. - Trên cơ sở nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của các nước phát triển để đề xuất các giải pháp hoàn thiện trong hoạt động xếp hạng doanh nghiệp tại CIC ở giai đoạn trước mắt (2008-2015). 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Xếp hạng doanh nghiệp là một lĩnh vực rất rộng, bao hàm nhiều chủ thể nghiên cứu và phạm vi đối tượng khác nhau. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, đề tài này giới hạn: - Đối tượng xếp hạng là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tại Việt Nam, không áp dụng đối với loại thành phần kinh tế là cá nhân. - Chủ thể xếp hạng doanh nghiệp là Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước giai đoạn 2003 - 2008. 4. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ nhận thức về cơ sở lý luận của việc xếp hạng doanh nghiệp đối với hoạt động thông tin tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, tham khảo kinh nghiệm của các cơ quan thông tin tín dụng tại một số nước tiên tiến, kết hợp đánh giá thực trạng hoạt động xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm thông tin tín dụng để đưa ra giải pháp hoàn thiện xếp hạng tín dụng trong hoạt động TTTD của CIC. Luận văn kết hợp một số phương pháp trong nghiên cứu khoa học là: - Phương pháp duy vật biện chứng; - Phương pháp duy vật lịch sử; - Phương pháp tiếp cận hệ thống; - Phương pháp thống kê điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh và phối hợp dùng các bảng biểu, mô hình, sơ đồ để minh hoạ. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương như sau: - Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về xếp hạng doanh nghiệp. - Chương 2: Thực trạng xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP 1.1. Tổng quan về xếp hạng doanh nghiệp đối với các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm xếp hạng doanh nghiệp 1.1.1.1. Xếp hạng doanh nghiệp Xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp là việc so sánh, đối chiếu các thông tin, dữ liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã được phân tích theo một số tiêu chuẩn chung nào đó, để đưa ra vị trí, thứ hạng của doanh nghiệp đó trong tổng thể thứ hạng đã được quy định sẵn. Phân tích hoạt động kinh doanh doanh nghiệp là quá trình nghiên cứu các thông tin, dữ liệu có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình đó được tiến hành từ bước khảo sát thực tế đến tư duy trừu tượng, tức là thong qua việc quan sát thực tế, thu thập thông tin dữ liệu, xử lý phân tích các thông tin dữ liệu đó để tìm nguyên nhân và đề ra các định hướng hoạt động, các giải pháp, biện pháp thực hiện các định hướng đó. Việc xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp bao gồm hai công đoạn độc lập là phân tích và xếp hạng, nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết hữu cơ. Phân tích doanh nghiệp là tiền đề, cơ sở cho việc xếp hạng. Quá trình xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp diễn ra phổ biến và thường xuyên tại các chủ thể kinh tế, chúng mang nhiều tính chất khác nhau và phụ thuộc vào đối tượng cũng như giải pháp quản lý mà chủ thể áp dụng. Do đó, không có một phương pháp xếp hạng cụ thể nào đối với mỗi đối tượng nghiên cứu được quy định chung cho các chủ thể kinh tế [6,7,12]. “CREDIT RATING” là một thuật ngữ bằng tiếng Anh, được dịch sang tiếng Việt bằng nhiều cách khác nhau như: xếp hạng doanh nghiệp, xếp hạng tín nhiệm, xếp hạng tín dụng, định hạng tín dụng, xếp loại tín dụng, xếp hạng rủi ro tín dụng, chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng,... [28,29,30], thực ra bản chất thì đều giống nhau, là một quá trình gồm 2 công đoạn: phân tích và xếp hạng. Để tiện trong việc nghiên cứu, sau đây Luận văn thống nhất tên gọi chung quá trình này là xếp hạng doanh nghiệp. Xếp hạng doanh nghiệp là sử dụng một số các tiêu thức, chỉ tiêu theo mục đích nghiên cứu để phân loại hay xác định doanh nghiệp theo một trật tự nào đó. Xếp hạng thực chất là phân loại, song phân loại một cách liên tục thành trật tự thứ hạng theo một hay nhiều tiêu thức khác nhau. Việc xếp hạng doanh nghiệp là một quá trình từ khi xác định mục đích nghiên cứu đến việc thu thập, xử lý thông tin, đánh giá chất lượng thông tin và đưa ra kết quả về thứ hạng của doanh nghiệp theo một số tiêu chuẩn chung. Bản chất của việc xếp hạng doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng ngân hàng là việc áp dụng các phương pháp, công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó cũng như đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đối với khoản vay nhất định như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn, nhằm xác định rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng doanh nghiệp và được xác định thông qua qui trình xếp hạng bằng thang điểm, tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định và phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp đó tại thời điểm xếp hạng. 1.1.1.2. Mục tiêu của việc xếp hạng doanh nghiệp Trong quá trình thực hiện, tùy theo giác độ nghiên cứu của chủ thể, có thể có mục tiêu khác nhau về xếp hạng doanh nghiệp. Đứng trên giác độ hoạt động ngân hàng thì việc xếp hạng doanh nghiệp có một số mục tiêu chính sau: Thứ nhất, là đánh giá khả năng tin cậy về tài chính của doanh nghiệp khi đứng trên giác độ ngân hàng. Dựa trên cơ sở số liệu, các báo cáo tài chính và báo cáo khác của doanh nghiệp để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng thu hồi vốn và lãi vay. Nói cách khác, mục đích của việc xếp hạng doanh nghiệp là đo lường trước các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng để đưa ra các quyết định hợp lý về lãi suất, hạn mức tín dụng, các quyết định cho vay, không cho vay, hay thu hồi nợ.... Thứ hai, là phục vụ công tác điều hành quản lý của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), giúp NHNN có thêm thông tin hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách tiền tệ tín dụng hợp lý và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, xếp hạng doanh nghiệp còn giúp cho chính các doanh nghiệp biết được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và của bạn hàng để có những quyết định chính xác trong tương lai. 1.1.1.3. Yêu cầu của việc xếp hạng doanh nghiệp Việc xếp hạng doanh nghiệp phải đáp ứng những yêu cầu sau: Tính đầy đủ: thông tin đầu vào phải đảm bảo kịp thời, trung thực, tin cậy, đây là yêu cầu hàng đầu đối với mọi nguồn thông tin nói chung. Tính đầy đủ xác của thông tin được hiểu theo nghĩa là thông tin đó phải xác thực, có nguồn cung cấp rõ ràng, đáng tin cậy và phải thường xuyên được cập nhật. Tính đầy đủ còn thể hiện qua việc tính toán tất cả các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá đúng đối tượng cần nghiên cứu. Tính chính xác: xếp hạng doanh nghiệp và các chỉ tiêu phân tích phải khoa học, được áp dụng rộng rãi, được thừa nhận trong khu vực, quốc tế và phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, phù hợp với khả năng trình độ nhưng phải có tính khả thi cao. Tính khách quan: kết quả xếp hạng doanh nghiệp được công bố rộng rãi và phải do các tổ chức xếp hạng trung gian đứng ra thực hiện để đảm bảo tính khách quan, không có liên quan về lợi trong việc đưa ra kết quả xếp hạng. Tính trung thực: trong quá trình phân tích và xếp hạng, các thông tin, dữ liệu sử dụng để phân tích, cũng như kết quả xếp hạng đối doanh nghiệp phải được đảm bảo trung thực, giữ nguyên bản chất, không được làm sai lệch thông tin theo ý muốn chủ quan của bất kỳ đối tượng nào. 1.1.1.4. Chủ thể trong xếp hạng doanh nghiệp Thực tế hiện nay trên thế giới và các nước trong khu vực thường có 2 loại chủ thể trong xếp hạng doanh nghiệp gồm: các công ty chuyên xếp hạng doanh nghiệp (hoặc công ty thông tin tín dụng) và các Ngân hang thương mại (NHTM). Các công ty xếp hạng tín dụng có thể là các công ty lớn có tính toàn cầu như: Moody’s, Standard and Poor, First Rating, hoặc có thể là những công ty nhỏ hơn ở tại từng nước như Credit Bureau Singapore, Joint Credit Information Center Taipei. Ở Việt Nam, CIC có mô hình hoạt động như các công ty của Singapore hay Taipei. Chủ thể chính được đề cập trong Luận văn là CIC, với mục tiêu phục vụ công tác quản lý, điều hành của Thống đốc NHNN, giúp các TCTD trong công tác quản trị rủi ro tín dụng và giúp các tổ chức khác trong việc đánh giá năng lực hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện tại CIC nhằm đa dạng hoá sản phẩm của CIC, phục vụ các đối tượng sử dụng thông tin. 1.1.1.5. Đối tượng xếp hạng doanh nghiệp Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế độc lập, một tập hợp gồm những bộ phận gắn bó với nhau, có vốn và các phương tiện vật chất, kỹ thuật, hoạt động theo những nguyên tắc và mục tiêu thống nhất, thực hiện hạch toán kinh doanh hoàn chỉnh, có nghĩa vụ và được hệ thống pháp luật thừa nhận cũng như bảo vệ. Vì vậy, đối tượng xếp hạng doanh nghiệp là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đang hoạt động tại Việt Nam. 1.1.2. Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp 1.1.2.1. Đối với tổ chức tín dụng Hoạt động của TCTD trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro. Có thể nói rủi ro được xem như một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của TCTD trên thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi, bởi vì TCTD không những phải hứng chịu những rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra những tổn thất to lớn cho nền kinh tế hơn bất cứ rủi ro của các loại hình doanh nghiệp khác, vì tính chất lây lan của nó có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế của một quốc gia và theo phản ứng dây chuyền nó có thể tác động đến hầu hết tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện nhằm hỗ trợ TCTD trong việc: Ra quyết định cấp tín dụng: xác định hạn mức tín dụng, thời hạn, mức lãi suất, biện pháp bảo đảm tiền vay, phê duyệt hay không phê duyệt. Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư nợ; xếp hạng doanh nghiệp cho phép TCTD lường trước những dấu hiệu cho thấy khoản vay đang có chất lượng xấu đi hay xem khía cạnh tốt lên và có những biện pháp áp dụng kịp thời. Giảm chi phí và tiết kiệm thời gian quyết định một món vay. Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, xếp hạng doanh nghiệp còn nhằm mục đích: phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách hàng có ít rủi ro hơn. Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian khác với tư cách là một nhà đầu tư sử dụng xếp hạng doanh nghiệp làm một tiêu chuẩn quan trọng khi quyết định cho vay, tài trợ dự án, thoả thuận swap… 1.1.2.2. Đối với các doanh nghiệp Nhằm giúp các doanh nghiệp xây dựng hình ảnh và độ tín nhiệm của mình trong sản xuất, kinh doanh nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế của Việt Nam, thì việc xếp hạng tín dụng là rất cấp thiết và cần thiết. Khi các doanh nghiệp tham gia đánh giá tín dụng doanh nghiệp sẽ nhận được những thông tin đánh giá hết sức độc lập, khách quan về tình hình sản xuất kinh doanh của mình, tự mình hiểu được mình về năng lực tài chính, khả năng thanh toán, công nợ... Mặt khác, doanh nghiệp còn nhận được những dịch vụ tư vấn tài chính, quản lý, thị trường... Kết quả xếp hạng doanh nghiệp hàng năm do cơ quan xếp hạng doanh nghiệp đưa ra sẽ tôn vinh các doanh nghiệp có vị trí xếp hạng cao, đồng thời doanh nghiệp cũng phải có giải pháp khi bị tụt hạng. Điều này sẽ góp phần rất lớn trong việc quảng bá và phát triển thực lực của doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như ở nước ngoài. Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh tín dụng ngân hàng (tín dụng giữa các ngân hàng với doanh nghiệp), còn xuất hiện và phát triển hình thức tín dụng thương mại. Đây chính là quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau trong quá trình mua bán hàng hóa. Chính vì thế, thông tin về xếp hạng doanh nghiệp sẽ giúp các doanh nghiệp tìm hiểu rõ hơn đối tác của mình, từ đó quyết định các giao dịch mua bán chịu hàng hoá, hợp tác liên doanh…. 1.1.2.3. Đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán Xếp hạng doanh nghiệp có thể cung cấp cho thị trường chứng khoán một hệ thống xếp hạng các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ, từ đó giúp cho các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo, so sánh, đối chiếu trước khi ra quyết định đầu tư cuối cùng, đầu tư vào những công cụ nào? Vì thế, hệ thống xếp hạng mà các cơ quan xếp hạng đưa ra đóng vai trò bảo vệ các nhà đầu tư, giảm bớt rủi ro khi đầu tư vào chứng khoán. Mặc dù thị trường chứng khoán ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển, nhưng tương lai đó là một thị trường tài chính cao cấp trong nền kinh tế thị trường, nó cũng là công cụ cao cấp nhất của thị trường tài chính. Hệ thống xếp hạng doanh nghiệp không những có lợi cho các nhà đầu tư mà còn mang lại lợi ích cho các công ty chứng khoán. Xếp hạng doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện cho việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán thực hiện được dễ dàng, thuận lợi hơn. Mà còn góp phần quan trọng vào việc giảm bớt chi phí sử dụng vốn cho người phát hành. Xếp hạng doanh nghiệp thúc đẩy nhà phát hành nâng cao hơn trách nhiệm đối với các nhà đầu tư. Việc xếp hạng doanh nghiệp liên quan chặt chẽ đến uy tín với nhà phát hành, điều đó thúc đẩy người phát hành thực hiện tốt hơn các cam kết đối với các nhà đầu tư trong việc đảm bảo thanh toán tiền lãi và tiền vốn vay. Xếp hạng doanh nghiệp là nhân tố quan trọng khi đánh giá mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Nhà đầu tư so sánh đánh giá lợi nhuận – rủi ro giữa các công cụ đầu tư để tìm ra công cụ có lợi nhất vừa có hiệu quả vừa an toàn. 1.1.2.4. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước Thông tin xếp hạng doanh nghiệp giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá được đối tượng quản lý của mình, có cơ sở thông tin để so sánh theo ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp. Là nguồn thông tin tốt giúp cho việc định giá doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá. Bên cạnh vai trò như là một công cụ quản lý, các tổ chức xếp hạng doanh nghiệp còn đóng vai trò như là một tiêu chuẩn quản lý chính thức. Là cơ sở giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đưa ra những giải pháp thích hợp nhất để thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của các doanh nghiệp trong từng ngành kinh tế nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, nhằm bảo đảm một môi trường kinh tế hoạt động lành mạnh. Đối với NHNN việc xếp hạng doanh nghiệp có thể biết được mức độ rủi ro theo từng ngành kinh tế, từ đó có chính sách tiền tệ, tín dụng thích hợp, và tổ chức thanh tra giám sát các TCTD. 1.1.2.5. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các đối tác nước ngoài trước khi vào Việt Nam đầu tư, liên doanh liên kết, họ hầu hết đều phải thông qua một tổ chức nào đó để xác định độ tin cậy của đối tác trong nước. Ở Việt Nam hiện chưa có một tổ chức nào làm được các “cầu nối” quan trọng này. Do vậy, có thể một trong những nguyên nhân mà các nhà đầu tư nước ngoài chưa mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam là họ thiếu những thông tin cơ bản ban đầu về thị trường Việt Nam cũng như thông tin về các doanh nghiệp Việt Nam. Dựa trên kết quả xếp hạng doanh nghiệp, các nhà đầu tư mới có căn cứ để thẩm định, lựa chọn danh mục đầu tư, dự báo tình hình phát triển doanh nghiệp và đưa ra quyết định đầu tư. Thông qua kết quả xếp hạng doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ hiểu rõ hơn về sức mạnh tài chính của các công ty, đánh giá năng lực tổ chức, các mối quan hệ kinh doanh hoặc quan tâm tới việc mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoản của các công ty này. 1.2. Một số nội dung cơ bản của xếp hạng doanh nghiệp 1.2.1. Các phương pháp dùng trong xếp hạng doanh nghiệp 1.2.1.1.Phương pháp phân tích thống kê Phương pháp phân tích thống kê thường được sử dụng bao gồm: Phương pháp so sánh chủ yếu dựa trên sự đối chiếu, so sánh các giá trị của doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác, so sánh các giá trị của cùng một chỉ tiêu tại các thời kỳ khác nhau, hoặc so với các giá trị trung bình của ngành hay thị trường. Phương pháp loại trừ (hay còn gọi là phương pháp thay thế) là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng nghiên cứu bằng cách loại trừ dần ảnh hưởng của các nhân tố khác. Có thể dùng cách thay thế liên hoàn, có thể xác định ảnh hưởng của các nhân tố qua thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Phương pháp liên hệ cân đối, là phương pháp xác định chỉ tiêu kinh tế thông qua xác định mối quan hệ của chúng với các nhân tố khác. Phương pháp phân tích thống kê là phương pháp phân tích các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp căn cứ vào các chỉ tiêu kinh tế được xây dựng dựa vào các số liệu thống kê thu thập trong các kỳ kinh doanh đã qua của doanh nghiệp. 1.2.1.2. Phương pháp chuyên gia Phương pháp này được thực hiện bằng cách thu thập ý kiến của các chuyên gia để đánh giá về một nội dung cần đánh giá nào đó. Phương pháp này gồm 3 bước cơ bản sau: Bước 1 - Chuẩn bị đánh giá bao gồm lập danh sách những chuyên gia được hỏi ý kiến và xây dựng bảng câu hỏi. Bước 2 - tập hợp các ý kiến trả lời, phân tích và hình thành bảng tổng hợp kết quả đánh giá. Bước 3 - Tổng hợp các ý kiến đánh giá lần thứ hai. 1.2.1.3. Phương pháp chi tiết Việc phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế theo những tiêu thức khác nhau như theo yếu tố cấu thành, theo địa điểm phát sinh và theo thời gian nhằm giúp cho việc đánh giá chúng được chính xác và cụ thể, qua đó xác định được nguyên nhân cũng như chỉ ra được trọng điểm của công tác quản lý. Hơn nữa, phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế theo địa điểm phát sinh nhằm phát hiện nguồn gốc hình thành của chúng, do vậy xác định được trọng điểm của công tác quản lý. 1.2.1.4. Phương pháp logic biện chứng Dựa vào thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp qua các thời kỳ kinh doanh mà rút ra quy luật hoạt động của doanh nghiệp, cộng với nghiên cứu các nhân tố tác động, các dự báo kinh tế mà đưa ra những đánh giá, kết luận về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.1.5. Phương pháp khảo sát thực tế Là phương pháp khảo sát thực tế hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh để tạo cơ sở thực tiễn sát thực nhằm giúp củng cố các đánh giá nhận định về tình hình hoạt động kinh doanh của cdoanh nghiệp. 1.2.2. Trình tự xếp hạng doanh nghiệp Qua nghiên cứu những điểm chung nhất, có tính phổ cập, quá trình xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện và tiến hành theo trình tự sau: Sơ đồ 1.01- Các bước tiến hành xếp hạng doanh nghiệp Phê chuẩn và công bố kết quả xếp hạng Đưa ra kết quả phân tích và xếp hạng doanh nghiệp theo tiêu chuẩn nhất định Phân tích các thông tin thu thập được và cho điểm Xác định ngành kinh tế và quy mô doanh nghiệp Thu thập thông tin 1.2.2.1. Thu thập thông tin Thu thập thông tin bao gồm: Nguồn thông tin thu thập, phương pháp, quy trình thu thập thông tin. Nguồn thu nhập: CIC thường xuyên cập nhập thông tin về khách hàng có quan hệ với các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm các NH thương mại, NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài, các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức khác có hoạt động NH…. Nguồn dữ liệu đầu vào còn được bổ sung và cập nhật thông qua việc kết nối và trao đổi thông tin với các kho thông tin dữ liệu của của các bộ ngành như: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Tổng cục thuế, Tổng cục thống kê, Tổng cục hải quan, Uỷ ban chứng khoán, Cục đang ký giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp….. và khai thác trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu về thông tin các doanh nghiệp nước ngoài CIC thương xuyên mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trao đổi với các hãng thông tin quốc tế, mua lại thông tin từ các tổ chức lưu trữ, kinh doanh thông tin quốc tế. Phương pháp thu thập thông tin: để thu thập TTTD được chính xác, kịp thời CIC đã sử dụng một số phương pháp sau: nối mạng máy tính với các TCTD lớn, xây dựng các phần mềm client-sever thực hiện gửii nhận TTTD qua mạng internet theo chuẩn của CIC. Đối với những TCTD khác thu thập qua các thiết bị nhớ như CD, đĩa mềm, file… hoặc bằng các văn bản; bằng văn bản, FAX, điện thoại hoặc điều tra trực tiếp đối với các nguồn thông tin khác; mua thông tin từ các tổ chức như Cục thuế, Sở đầu tư….và các tổ chức kinh doanh thông tin trong và ngoài nước. Quy trình thu thập: một số TCTD có điều kiện (TCTD quốc doanh, TCTD cổ phần) tổng hợp thông tin từ chi nhánh sau đó truyền file trược tiếp vế trung tâm; các TCTD còn lại truyền file qua chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố sau đó chi nhánh NHNN truyền file về Trung tâm thông tin tín dụng. 1.2.2.2. Xác định ngành kinh tế và quy mô của doanh nghiệp Xếp hạng doanh nghiệp dựa trên tiêu chí xác định doanh nghiệp theo ngành kinh tế, do mỗi ngành có những đặc điểm khác nhau như cơ cấu chi phí, mức độ trưởng thành, tính chu kỳ, khả năng sinh lời,... Qui mô doanh nghiệp được phân thành 3 loại: lớn, vừa và nhỏ. Tình hình tài chính doanh nghiệp tại kho dữ liệu CIC cho thấy, doanh nghiệp có qui mô khác nhau có tình hình về vốn, tài sản, lao động... cũng khác nhau và có sự cách biệt tương đối rõ nét. Chính vì vậy, phân loại doanh nghiệp theo qui mô là việc làm không thể thiếu được trước khi tính toán các chỉ tiêu tài chính để có thể đi đến xếp hạng doanh nghiệp. Hay nói cách khác, việc xếp hạng doanh nghiệp là việc so sánh doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác để đưa ra sự phân định thứ hạng chúng về tín dụng, việc so sánh đó phải được đặt trong điều kiện quy mô cùng loại. 1.2.2.3. Phân tích các chỉ tiêu và cho điểm Áp dụng các phương pháp phân tích nêu ở phần trên để phân tích các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp thu thập được. Trên cơ sở đó, dựa vào các tiêu chuẩn được định sẵn nhất định nào đó để cho điểm đối với từng chỉ tiêu đã được phân tích. 1.2.2.4. Đưa ra kết quả xếp hạng Trên cơ sở bảng điểm của các chỉ tiêu, tổ chức xếp hạng đưa ra kết quả xếp hạng đối với doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn được định sẵn nhất định nào đó, tùy theo mục đích của chủ thể đánh giá. 1.2.2.5. Phê chuẩn và công bố kết quả xếp hạng Căn cứ vào kế quả xếp hạng, tổ chức xếp hạng căn cứ vào các tiêu chuẩn xem xét lần cuối và phê chuẩn kết quả xếp hạng và tổ chức công bố theo quy định hoặc theo yêu cầu của chủ thể sử dụng kết quả xếp hạng. 1.2.3. Nguồn thông tin sử dụng trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp 1.2.3.1. Thông tin tài chính của doanh nghiệp Thông tin tài chính của doanh nghiệp bao gồm: Bảng Cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ. 1.2.3.2. Thông tin phi tài chính Thông tin phi tài chính bao gồm: tình hình quan hệ tín dụng của khách hàng; thông tin pháp lý (địa chỉ, số điện thoại, fax, email, web, số đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập doanh nghiệp, ngày cấp, nơi cấp, loại hình doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, thông tin tranh chấp tại tòa án...); thông tin về trụ sở làm việc (đi thuê hay sở hữu, diện tích, địa thế...), thông tin về ban lãnh đạo (họ tên, tuổi, năm kinh nghiệm, trình độ...), thông tin trình độ công nghệ; thông tin sản phẩm; thông tin chi nhánh và công ty con (nếu có); thông tin sở hữu doanh nghiệp; thông tin lao động (số lượng, trình độ...). 1.2.4. Hệ thống chỉ tiêu dùng để xếp hạng doanh nghiệp 1.2.4.1. Chỉ tiêu tài chính Các tỷ số về khả năng thanh toán * Khả năng thanh toán hiện hành Tài sản ngắn hạn thông thường bao gồm tiền các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng (tương đương tiền) các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho) còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn NHTM, các TCTD khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác… Cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn đều có thời gian nhất định tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. * Tỷ số khả năng thanh toán nhanh Là tỷ số giữa tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tài sản ngắn hạn và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy tỷ số khả năng thanh toán cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho) và được xác định bằng cách lấy tài sản ngắn hạn trừ phần dự trữ (tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn. Các tỷ số về khả năng cân đối vốn * Tỷ số nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ các chủ doanh nghiệp vẫn nằm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể. * Tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản Tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản (hệ số nợ) được sử dụng để xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ số nợ quá cao doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. * Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi Thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên lãi vay. Nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản. Các tỷ số về khả năng hoạt động Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ liên quan tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cầu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. * Vòng quay dự trữ (tồn kho) Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩn dở dang, thành phẩm) bình quân. * Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm . Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. * Hiệu suất sử dụng tổng tài sản Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Các tỷ số về khả năng sinh lãi Nếu như các nhóm tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỉ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất – kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. * Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu. Nó được phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm triệu đồng doanh thu. * Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (Doanh lợi vốn chủ sở hữu – ROE) Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng * Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận: là một chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh tốt hay kém một cách rõ nét nhất. Bất kỳ người sử dụng thông tin nào đều xem xét yếu tố lợi nhuận của một doanh nghiệp và so sánh chúng qua các kỳ hạch toán. * Tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu: vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, các quỹ của doanh nghiệp và các phần kinh phí. Việc tăng hay giảm nguồn vốn chủ sở hữu qua các năm là một yếu tố rất quan trọng khi xem xét đánh giá xếp hạng doanh nghiệp. * Tốc độ tăng trưởng doanh thu: doanh thu bán hàng phản ánh toàn bộ doanh thu thực tế của doanh nghiệp trong một kỳ hạch toán. Thực hiện so sánh doanh thu giữa các năm sẽ biết được giá trị sản phẩm mà doanh nghiệp đã bán, đã cung cấp cho khách hàng tăng hay giảm. 1.2.4.2. Chỉ tiêu phi tài chính Những chỉ tiêu phi tài chính về doanh nghiệp chủ yếu là những chỉ tiêu định tính, vì vậy việc phân tích chủ yếu là dùng phương pháp chuyên gia để phân tích đối với từng doanh nghiệp, so sánh giữa các kỳ để thấy được quy luật phát triển. Tuỳ theo từng mục đích của các nhà xếp hạng doanh nghiệp mà việc lựa chọn các chỉ tiêu phi tài chính có thể nhiều hay ít, sau đây là một số chỉ tiêu hay được lựa chọn để phân tích. Chỉ tiêu người điều hành: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức điều hành, tư cách đạo đức, kinh nghiệm điều hành, các cương vị đã trải qua của người điều hành doanh nghiệp,... Các chỉ tiêu này có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là với doanh nghiệp tư nhân và cổ phần. Chỉ tiêu lĩnh vực hoạt động: doanh nghiệp hoạt động trong ngành gì, vị trí của ngành đó trong nền kinh tế như thế nào, sự phát triển của các doanh nghiệp trong ngành có đồng đều không, sự tăng trưởng của ngành đó ra sao, ngành đó đang trong thời kỳ đi lên, đi xuống hay đã phát triển đến đỉnh điểm, tiềm năng hoạt động của ngành này trong tương lai như thế nào, có nhiều dự án mới cạnh tranh không,... Đó đều là những nhân tố tác động đến sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp. Chỉ tiêu uy tín và thị phần: thị trường tiêu thụ sản phẩm, quy mô thị trường tiềm năng và xu thế phát triển của thị trường là mở rộng hay thu hẹp của doanh nghiệp. Điều này rất quan trọng và có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tên tuổi (thương hiệu) hay không, thuộc loại công ty lớn, trung bình hay nhỏ, là doanh nghiệp hàng đầu hay đứng vị trí nào trên thị trường, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khi có sự biến động của thị trường nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm như thế nào. Chỉ tiêu sản phẩm: sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng ra sao, đứng vị trí nào trên thị trường sản phẩm đó, số lượng sản phẩm chiếm bao nhiêu phần trăm trên thị trường hiện tại và tương lai, khả năng tiêu thụ, sản phẩm hướng tới thị trường nào, tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó ở trong nước và ngoài nước, sản phẩm có được hợp đồng bao tiêu không. Chỉ tiêu công nghệ sản xuất: đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hữu hình, công nghệ giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì công nghệ sẽ quyết định việc sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt và giảm giá thành, nó có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh, đến khả năng hoàn trả vốn cho các nhà đầu tư trong đó có ngân hàng. Chỉ tiêu tổ chức quản lý: đánh giá về tổ chức quản lý của một doanh nghiệp dựa trên tính hữu hiệu của mô hình tổ chức và bộ máy quản trị mà người ta có thể áp dụng cho một doanh nghiệp bởi mỗi doanh nghiệp có những đặc trưng đặc thù về ngành nghề sản phẩm, chiến lược kinh doanh, trình độ nhân viên. Chỉ tiêu mối quan hệ: doanh nghiệp có là thành viên của Hiệp hội hay tập đoàn nào không, có được bảo lãnh tài chính, phi tài chính từ công ty mẹ hoặc là thư giới thiệu của công ty có tên tuổi khác không. Quan hệ với các công ty cung cấp hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm thế nào, tình hình của các công ty đó có vững chắc không. Các nhân tố này cũng có ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ tiêu thời gian hoạt động: số năm hoạt động của doanh nghiệp là một chỉ tiêu để đánh giá doanh nghiệp, một doanh nghiệp hoạt động lâu năm trong một ngành sẽ có nhiều kinh nghiệm và cơ hội thành công trong kinh doanh hơn là doanh nghiệp mới thành lập. Chỉ tiêu lịch sử hoạt động: lịch sử hoạt động của doanh nghiệp phản ánh quá trình hoạt động của doanh nghiệp qua các năm. Đứng trên giác độ của các nhà quản lý ngân hàng, một doanh nghiệp có lịch sử hoạt động tốt là doanh nghiệp có lịch sử hoạt động rõ ràng, không có rắc rối gì về pháp luật, vay trả nợ sòng phẳng. 1.3. Các tiêu chí đánh giá xếp hạng doanh nghiệp 1.3.1. Quan niệm về xếp hạng doanh nghiệp Việc xếp hạng doanh nghiệp là rất cần thiết đối với nhiều chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường như giúp ngân hàng với tư cách các nhà đầu tư vốn phân loại khách hàng vay để ngăn ngừa hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng. Đồng thời việc xếp hạng doanh nghiệp cũng cần thiết đối với chính bản thân các doanh nghiệp và đối với nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Chính vì sự cần thiết đó, việc xếp hạng doanh nghiệp phải hết sức coi trọng. Nếu xếp hạng doanh nghiệp không tốt thì kết quả đưa ra sẽ không đảm bảo đúng đắn, khách quan, thậm chí còn sai lệch, khi đó việc ứng dụng nó sẽ gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho hoạt động của các nhà đầu tư, cho doanh nghiệp và cho toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu về xếp hạng doanh nghiệp cùng với các phương pháp, tiêu thức để xếp hạng đối với hoạt động này là rất cần thiết làm cơ sở cho luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp. Quá trình xếp hạng doanh nghiệp có tốt thì tất cả các khâu trong quá trình này phải được tổ chức với nội dung phù hợp và khoa học, đó là nguồn thông tin đầu vào chính xác, đầy đủ; hệ thống chỉ tiêu phân tích phải phong phú, có tính khả thi; phương pháp phân tích phải khoa học, phù hợp với thông lệ quốc tế; kết quả phân tích phải đáp ứng được nhu cầu của đối tượng sử dụng thông tin. Xếp hạng doanh nghiệp được các chủ thể đánh giá coi trọng và quan tâm thì uy tín và năng lực của chủ thể đánh giá sẽ cao. Xếp hạng doanh nghiệp tác động đến tất cả mọi đối tượng từ chủ thể đánh giá, đối tượng phân tích và người sử dụng kết quả. Vì vậy, có thể coi xếp hạng doanh nghiệp là nội hàm của hoạt động thông tin tín dụng. Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tức là nâng cao năng lực, uy tín của chủ thể phân tích, là tìm các giải pháp để hoàn thiện qui trình phân tích, xếp hạng doanh nghiệp sao cho phù hợp với mục đích nghiên cứu và yêu cầu đặt ra của chủ thể đánh giá. Xếp hạng doanh nghiệp còn được thể hiện ở việc phải đặt nghiệp vụ này trong mối quan hệ biện chứng với môi trường kinh doanh, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và khả năng đáp ứng của ngân hàng. Cơ sở của việc xếp hạng doanh nghiệp là các thông tin thu thập được. Với những phương pháp phân tích và các chỉ tiêu phân tích phù hợp với mục đích nghiên cứu, các cơ quan xếp hạng doanh nghiệp có thể làm rõ thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh cả về nguồn lực, tiềm năng, lợi thế kinh doanh cũng như những rủi ro tiềm ẩn về khả năng trả nợ của doanh nghiệp để các nhà đầu tư vốn kịp thời đưa ra những quyết sách phù hợp nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Từ đó, đưa ra thông tin bổ sung cho các cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý, hoạch định, thực thi chính sách kinh tế [30,31]. 1.3.2. Các tiêu chí đánh giá xếp hạng doanh nghiệp 1.3.2.1. Nguồn thông tin Nguồn thông tin đầu vào là cơ sở cho quá trình xếp hạng doanh nghiệp, tuỳ theo mục tiêu phân tích của các cơ quan xếp hạng mà lượng thông tin đầu vào cần phải thu thập nhiều hay ít. Yêu cầu của việc thu thập thông tin đầu vào cho quá trình xếp hạng doanh nghiệp là thông tin phải trung thực và tin cậy, vì nếu có sai sót ngay từ thông tin đầu vào thì dù việc phân tích có chuẩn xác đến đâu cũng đưa ra kết quả sai lệch nghiêm trọng. Nguyên liệu đầu vào của việc xếp hạng doanh nghiệp có ở rất nhiều nơi, nằm rải rác ở các cơ quan đơn vị khác nhau. Để có thể thu thập được nguồn số liệu này đảm bảo tính chính xác cao thì các cơ quan xếp hạng nên thu thập lại từ các NHTM, các cơ quan của Chính phủ và cơ quan thông tin khác được phép thu thập thông tin. 1.3.2.2. Quy trình xếp hạng Như đã trình bày ở trên, các cơ quan xếp hạng tín dụng thường tiến hành việc phân tích, xếp hạng doanh nghiệp qua 5 bước. Quy trình hợp lý là một trong những tiêu thức để đánh giá kết quả của việc xếp hạng doanh nghiệp, sự hợp lý của quy trình được thể hiện ở sự đúng đắn ở từng bước của quy trình. Thu thập tài liệu và xử lý số liệu, đây là bước quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phân tích. Tài liệu thu thập phải đầy đủ, không mâu thuẫn giữa các số liệu thu thập và phải được sưu tầm qua các năm hoạt động, các số liệu kế hoạch dự kiến để làm cơ sở cho việc so sánh, đánh giá phân tích. Xây dựng các biểu bảng, các chỉ tiêu kinh tế phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở các tài liệu và số liệu thu thập, xây dựng các bảng biểu, đồ thị, xác định các chỉ tiêu kinh tế để nêu thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng hoạt động doanh nghiệp, thực chất ở bước này là nhà phân tích nghiên cứu nguyên nhân khách quan và chủ quan ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng xấu đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đến từng khâu, từng giai đoạn của quá trình kinh doanh. Đồng thời, trong bước này nhà phân tích sử dụng phương pháp thích hợp để xác định múc độ ảnh hưởng của từng nhan tố đến đối tượng nghiên cứu. Tổng hợp kết quả phân tích, đưa ra các kết luận đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như ở các bước trên đưa ra các đánh giá cục bộ từng hoạt động hoặc từng khía cạnh khác nhau của quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như tình hình doanh thu; tình hình thị trường tiêu thụ sản phẩm, tình hình lợi nhuận; tình hình sử dụng vốn thì ở bước này, các nhà phân tích tổng hợp lại các kết quả phân tích để dưa ra nhận định chung tổng hợp đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm mặt mạnh, mặt còn tồn tại, nêu các tiềm năng trong hoạt động chưa được khai thác hết. Xây dựng định hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể, trên cơ sở những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp, đề ra những giải pháp khắc phục mặt yếu và phát huy mặt mạnh, xây dựng định hướng phát triển trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 1.3.2.3. Lựa chọn các chỉ tiêu phân tích Kết quả của việc xếp hạng doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào việc lựa chọn các chỉ tiêu phân tích của cơ quan xếp hạng doanh nghiệp. Tuỳ từng mục đích xếp hạng mà các chủ thể xếp hạng lựa chọn các chỉ tiêu phân tích khác nhau. Các chỉ tiêu phân tích thường được chia ra hai loại đó là các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu phi tài chính. Đối với các chỉ tiêu tài chính, phân tích tình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua việc phân tích tình hình tài chính có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai, và triển vọng của doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm đến tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất – kinh doanh, họ cũng cần nghiên cứu tình hình khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng đến tỷ số về cơ cấu vốn thì sự thay đổi tỷ số này ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ. Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô hoạt động của phân tích. Thông tin phi tài chính doanh nghiệp là rất cần thiết trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp, nó khắc phục được nhược điểm của thông tin tài chính, thông tin chưa phản ánh được xu thế phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, điều này rất quan trọng đối với nhà đầu tư trong việc phán đoán tình huống có thể xẩy ra rủi ro dẫn đến không thu hồi được vốn trong tương lai. Các thông tin phi tài chính có rất nhiều loại, vấn đề đặt ra là phải chuẩn hoá và xây dựng một số chỉ tiêu cơ bản để phân tích và đưa ra những phán đoán về diễn biến kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ từng mục đích của các chủ thể phân tích mà lựa chọn các chỉ tiêu nào, nhiều hay ít các chỉ tiêu phi tài chính. 1.3.2.4. Xác định ngành kinh tế và quy mô doanh nghiệp Xác định ngành kinh tế và quy mô doanh nghiệp là một khâu quan trọng và ảnh hưởng lớn đến quá trình xếp hạng doanh nghiệp. Hiện nay, mỗi cơ quan xếp hạng doanh nghiệp đều có cách xác định ngành kinh tế và quy mô hoạt động cho các doanh nghiệp đưa vào phân tích khác nhau. Việc xếp hạng doanh nghiệp được đặt trong bối cảnh ngành do mỗi ngành có những đặc điểm khác nhau như cơ cấu chi phí, mức độ tăng trưởng, tính chu kỳ, khả năng sinh lời, khả năng bị ảnh hưởng do có những sản phẩm thay thế, môi trường pháp lý, cơ sở khách hàng và nhà cung ứng, tính cạnh tranh trong từng ngành. Đặc trưng của mỗi ngành nghề khác nhau về chu kỳ kinh doanh, về triển vọng tăng trưởng, về mức vốn đầu tư, cơ cấu chi phí, khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh, sản phẩm thay thế...Do đó, việc xây dựng một hệ thống phân loại ngành kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, trên cơ sở phân loại ngành để đánh giá, so sánh giữa các doanh nghiệp trong ngành mới thực sự có ý nghĩa. Với những ngành nghề khác nhau thì đặc trưng của từng ngành đó là khác nhau, cho nên đối với các chỉ tiêu tài chính thì mỗi ngành cũng có những mức chuẩn khác nhau, có những ngành coi trọng chỉ tiêu này nhưng lại có những ngành coi trọng chỉ tiêu khác (ví dụ như những ngành công nghiệp thì coi trọng các chỉ tiêu phân tích năng lực tài sản, chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho,... trong khi các ngành thương mại dịch vụ lại coi trọng những chỉ tiêu liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn). Do đó không thể áp dụng chuẩn của ngành nghề này vào ngành nghề khác và trong phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp không thể áp dụng phân tích, chú trọng tất cả các chỉ tiêu như nhau ở mọi ngành nghề. Hệ thống xác định ngành kinh tế dùng để xếp hạng doanh nghiệp phải phù hợp với trình độ phát triển nền kinh tế và môi trường pháp lý của từng quốc gia, tuy nhiên cũng phải gần sát với thông lệ chuẩn quốc tế. Trong thực tế việc xác định ngành kinh tế luôn luôn gặp khó khăn vì những tiêu chuẩn làm căn cứ cho việc xác định không đáp ứng được mọi yêu cầu. Ngoài ra, còn vấn đề ranh giới khi một hoạt động nằm giữa ranh giới hai ngành, cũng như trong trường hợp hoạt động đa ngành. Việc xác định ngành kinh tế là tùy theo điều kiện hoàn cảnh mỗi nước, không thể áp đặt hoặc học tập duy ý chí được. Các cơ quan đánh giá có thể căn cứ theo cách xác định ngành kinh tế của Chính phủ hoặc tự đưa ra một cách xác định riêng cho phù hợp với hoàn cảnh và đặc điểm, điều kiện của mình. Quy mô của doanh nghiệp cũng là một yếu tố cần được xét, bởi doanh nghiệp sẽ khó có thể tiến hành đa dạng hoá hoạt động để giảm rủi ro kinh doanh và nâng cao ưu thế cạnh tranh khi quy mô của nó quá nhỏ, bởi chúng không có những ưu thế về quy mô sản xuất, tiềm năng nhân sự và tiềm lực về mặt tài chính. Những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường chỉ thiên về kinh doanh một loại sản phẩm và đôi khi có những sản phẩm lại mang tính chất thời vụ, nên vị thế doanh nghiệp sẽ có thể bị đánh giá thấp hơn. Việc xác định quy mô thường căn cứ vào các chỉ tiêu như quy mô vốn kinh doanh, doanh thu, tổng số lao động, nộp thuế... 1.4. Kinh nghiệm của một số tổ chức xếp hạng doanh nghiệp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 1.4.1. Kinh nghiệm của một số tổ chức xếp hạng doanh nghiệp 1.4.1.1. Phương pháp xếp hạng tín dụng của công ty KPMG Trong quá trình xếp hạng tín dụng, công ty KPMG đã sử dụng các bước như sau: - Bước 1: xác định các yếu tố xếp hạng - Bước 2: xếp hạng các yếu tố theo các hạng A, B, C, D, E.... - Bước 3: xác định % trọng số - Bước 4: phân bổ và tính điểm xếp hạng cho khách hàng - Bước 5: đưa ra xếp hạng tổng hợp cho khách hàng. Xác định các yếu tố xếp hạng: để tíên hành quá trình xếp hạng tín dụng, công ty KPMG đã đưa ra một số yếu tố cơ bản sau: Một là, phân tích vị trí tài chính Phân tích vị trí tài chính là xem xét tình hình tài chính của khách hàng, vấn đề doanh thu, chất lượng các khoản phải thu hay chất lượng của tài sản có, tỷ lệ phần trăm hàng tồn kho, vấn đề tiền mặt, tính toán được tài sản thực của khách hàng. Loại A: được xếp hạng đối với khách hàng có nhiều tài sản dễ thanh khoản mạnh, hoạt động kinh doanh có lãi, dòng tiền mặt đầy đủ, tỷ lệ nợ thấp, có hai dòng tiền lãi của khách hàng và phần tính khấu hao, khách hàng ít phụ thược vào bình ổn tỷ giá hối đoái và lãi suất. Loại B: các khách hàng có vị trí tài chính xếp hạng B là khách hàng có lãi ít, khả năng thanh toán có thể chấp nhận được, có tỷ lệ nợ tương đối, có hai nguồn trả nợ, chu chuyển tiền mặt nhỏ hơn tổng các chi phí hoạt động cộng với mua sắm tài sản. Các khách hàng này có thể đối phó với những thay đổi nhỏ về tỷ giá hối đoái và lãi suất. Loại C: xếp hạng này đối với khách hàng có lãi thấp, gần bằng 0, khả năng thanh toán kém, có tỷ lệ nợ cao, chỉ có một nguồn trả nợ, dòng tiền mặt kém, dòng tiền nhỏ hơn tổng thanh toán nợ gốc và lãi, tổng số vốn lưu động phải nhỏ hơn các vấn đề phát sinh, rủi ro về ngoại tệ và lãi suất là yếu tố dễ bị tổn thương nhiều. Loại D: được xếp hạng này đối với khách hàng hoạt động lỗ, không có khả năng thanh toán, phải bán tài sản để tồn tại, tỷ lệ nợ quá cao, nguồn trả nợ không tương xứng, che dấu việc tăng vốn lưu động, hoạt động kinh doanh lỗ. Hai là, thanh toán nghĩa vụ nợ và các nghĩa vụ theo hợp đồng Loại A: xếp hạng này đối với khách hàng luôn thực hiện nghĩa vụ nợ và các vụ khách theo hợp đồng đúng hạn, mức độ sử dụng tài khoản cao. Loại B: đối với khách hàng thực hiện các nghĩa vụ thường chậm hơn 90 ngày, đôi khi thấu chi, số dư trung bình cao, mức độ sử dụng tài khoản ở mức trung bình, có vi phạm hợp đồng, có các khoản vay mới hỗ trợ. Loại C: khách hàng có chi trội mang tính định kỳ, mức độ sủ dụng tài khoản thấp, vi phạm hợp đồng lên tới 180 ngày, gia hạn khoản vay nhằm che dấu vấn đề về tài chính, không cân đối tài khoản theo định kỳ, chứng từ kém. Loại D: thường xuyên chi trội, vi phạm hợp đồng lớn hơn 180 ngày, các khoản gia hạn dùng để chi trả lãi vay, chứng từ pháp lý kém (vay hoặc khế ước cầm cố). Loại E: các khoản vay mới để chi trả lỗ hoạt động, chứng từ hoặc thị trường không có khả năng thanh lý tài sản đặt cọc ở mức giá dự đoán. Ba là, chất lượng quản lý, quản trị doanh nghiệp Loại A: là khách hàng có bộ phận quản lý, quản trị doanh nghiệp đủ khả năng, đủ điều kiện, có tầm nhìn chiến lược rõ ràng, có tính chuyên nghiệp cao, hệ thống kiểm soát và hệ thống thông tin quản lý tốt, kiểm toán độc lập tốt. Loại B: là khách hàng có bộ phận quản lý, quản trị doanh nghiệp đủ khả năng, đủ điều kiện, có tầm nhìn chiến lược rõ ràng, có tính chuyên nghiệp cao, hệ thống kiểm soát và hệ thống thông tin quản lý tốt, kiểm toán độc lập tốt. Loại C: là khách hàng có bộ phận quản lý, quản trị doanh nghiệp đủ khả năng, đủ điều kiện không bị nghi ngờ về tính trung thực, có một số vấn đề về chiến lược, hệ thống kiểm soát, hệ thống quản lý thông tin đang được cái thiện. Vốn sỡ hữu và nhà quản lý có những cam kết với doanh nghiệp, kiểm toán độc lập có thể chấp nhận đựợc. Loại D: chất lượng quản lý, quản trị của khách hàng yếu kém, năng lực thấp, kinh nghiệm ít, bị nghi ngờ về tính trung thực, không có tầm nhìn về tính trung thực, không có tầm nhìn chiến lược, hệ thống kiểm soát và hệ thống thông tin quản lý kém, bộ phận quản trị doanh nghiệp có xung đột, kiểm toán độc lập kém. Loại E: chất lượng quản lý, quản trị doanh nghiệp kém, không có năng lực, không hợp tác, có thái độ thù địch, bị nghi ngờ về tính trung thực, thiếu kiểm soát hệ thống quản lý thông tin, có vấn đề về quyền sỡ hữa, không có nguồn vốn mới, kiểm toán độc lập kém. Bốn là, điều kiện ngành kinh tế Loại A: được xếp hạng đối với các loại khách hàng hoạt động trong ngành kinh tế chấp nhận được, có đủ nhu cầu, khả năng sinh lãi đủ, cạnh tranh ở mức tối thiểu. Loại B: được xếp hạng đối với khách hàng hoạt động trong ngành kinh tế có vấn đề, thu nhập giảm cạnh tranh tăng,chi phí hoạt động tăng, trong ngành bất động sản: tỷ lệ sử dụng phòng hoặc năng lực tiếp nhận khách giảm. Loại C: được xếp hạng cho các khách hàng hoạt động trong ngành hay thay đổi, doanh nghiệp yếu đang chịu nhiều áp lực, thu nhập giảm, nhu cầu giảm, rủi ro tự do hoá , rủi ro về nguyên liệu thô, rủi ro mất giá tiền tệ , giá cả chịu sự giám sát. Loại D: được xếp hạng cho các khách hàng hoạt động trong ngành kém, không có lãi, cạnh tranh giá gay gắt, rủi ro tự do hoá cao, giá giảm cần thiết phải tái cơ cấu hoạt động. Loại E: được xếp hạng đối với khách hàng hoạt động trong ngành đang chết dần, nhiều yếu điểm về cơ cấu và bị lỗi thời. Năm là, vị thế của khách hàng trên thị trường Loại A: được xếp hạng đối với loại khách hàng có vị thế trên mức trung bình, có vị thế canh trạnh mạnh, sản phẩm và thị trường tốt, thị phần cao. Loại B: trong mức trung bình của ngành, một số yếu điểm về cạnh tranh. Loại C: dưới mức trung bình, có vấn đề về cạnh tranh được xác định yếu điểm và công nghệ. Loại D: thấp hơn mức trung bình trong ngành, vấn đề cạnh tranh nghiêm trọng, vấn đề công nghệ nghiêm trọng, phải có nhu cầu cấp thiết để hiện đại hoá, đang mất thị trường có vấn đề về sản phẩm. Loại E: có phân mảng thấp, không thể cạnh tranh, công nghệ, lạc hậu, sản phẩm kém, có rủi ro về quốc gia, vai trò hầu như không còn. Sáu là, triển vọng tồn tại Loại A: không có rủi ro nghiêm trọng, động cơ bù đắp thâm hụt trong tài khoản cao. Loại B: sẽ vượt qua các khó khăn, có khả năng dễ đối phó chủ sỡ hữu có thể hỗ trợ, có vốn mới nếu cần, không có vấn đề nghiêm trọng về lao động. Loại C: phụ thuộc vào tài trợ, hỗ trợ của chủ sỡ hữu, cần chính sách tiếp thị mới, rủi ro tiềm tàng trong tương lai, dôi dư lao động thấp, sản phẩm và thị trường có thể phục hồi. Loại D: có vấn đề về hoạt động sản xuất kinh doanh. Loại E: bị nghi ngờ, thanh lý, bị phân đoạn, giá trị dựa vào sự thanh lý, người mua tối thiểu. Xếp hạng các yếu tố theo các hạng A, B, C, D, E Yếu tố Giả định xếp hạng 1. Quản lý và quản trị A = 1 2. Kinh nghiệm thanh toán B = 3 3. Xu hướng và tương lai của ngành D = 4 4. Vị trí của doanh nghiệp trong ngành C = 3 5. Điều kiện tài chính của doanh nghiệp C = 3 6. Triển vọng tồn tại A = 1 Xác định % trọng số Phần này nhằm xác định trọng số có thể của các chỉ tiêu của việc xếp hạng. Xác định mức độ tập trung và mức độ quan trọng cho từng yếu tố cụ thể để đưa ra quyết định xếp hạng toàn diện. Phần phân bổ này do ý kiến chủ quan của từng chuyên gia trong quá trình định hạng tín dụng. Yếu tố Giả định % trọng số 1. Quản lý và quản trị 40% 2. Kinh nghiệm thanh toán 10% 3. Xu hướng và tương lai của ngành 10% 4. Vị trí của doanh nghiệp trong ngành 10% 5. Điều kiện tài chính của doanh nghiệp 20% 6. Triển vọng tồn tại 10% Tính toán xếp hạng cho khách hàng Phần này nhằm áp dụng trọng số của đặc điểm các mức riêng biệt vào việc đánh giá hạng toàn diện của từng khách hàng. Trong phần này sử dụng các phần đánh giá và phân bổ trọng số để tính toán, đưa ra tổng số điểm của khách hàng và đưa ra định hạng tín dụng cho từng khách hàng. Điểm số của các hạng được phân như sau: A = 1 điểm; B = 2 điểm; C = 3 điểm; D = 4 điểm; E = 5 điểm. A là hạng cao nhất, E là hạng thấp nhất. [22] 1.4.1.2. Cách xếp hạng của Moody's và Standar &Poor Moody's và Standar &Poor đã đưa khái niệm về xếp hạng tín dụng như sau: xếp hạng tín dụng là sự đánh giá hiện thời về khả năng và mức độ sẵn sàng trả nợ gốc, lãi của một người đi vay đối với mỗi khoản vay nhất định trong suốt thời hạn hiệu lực của khoản vay đó. Khái niệm trên cho thấy những nét đặc trưng cơ bản của xếp hạng tín dụng là: - Ý kiến đánh giá có tính chất chủ quan của các chuyên gia xếp hạng tín dụng; - Chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian nhất định; - Xếp hạng tín dụng cho một nhà phát hành nhưng phải gắn liền với một khoản vay nợ của nhà phát hành đó; - Đối với những đợt vay nợ được bảo lãnh thanh toán, xếp hạng tín dụng của đợt vay đó là xếp hạng tín dụng của đơn vị bảo lãnh. Các ký hiệu của bảng xếp hạng tín dụng Do bảng ký hiệu xếp hạng tín dụng của ông John Moody được thiết lập từ 3 chữ cái A, B, C rất đơn giản và tiện lợi nên hiện nay bảng ký hiệu xếp hạng tín dụng của ông đã được tất cả các công ty xếp hạng tín dụng trên thế giới sử dụng như một chuẩn mực để xây dựng bảng ký hiệu cho công ty mình. Tuy nhiên, lúc đầu mới chỉ tiến hành xếp hạng tín dụng cho các công cụ nợ dài hạn, ngày nay bảng xếp hạng tín dụng được mở rộng cho cả các công cụ nợ ngắn hạn (theo phụ lục 1.01 - Bảng ký hiệu xếp hạng tín dụng sử dụng cho nợ dài dạn; phụ lục 1.02 - Ký hiệu xếp hạng tín dụng sử dụng cho nợ ngắn hạn; phụ lục 1.03 - Tỷ lệ phá sản của các loại xếp hạng tín dụng theo cách xếp hạng của Moody’s). Quy trình xếp hạng tín dụng Việc xếp hạng tín dụng được tiến hành theo 3 giai đoạn như sau: Sơ đồ 1.02 - Sơ đồ quy trình xếp hạng tín dụng của Moody’s Công bố ra công chúng Phân tích, đánh giá, ấn định xếp hạng tín dụng tạm thời, Phê chuẩn Thu thập thông tin (Nguồn tham khảo từ kinh nghiệm của Moody’s) Giai đoạn 1: Thu thập các thông tin về nhà phát hành thông qua nguồn thông tin công khai, nhà phát hành cung cấp (chủ yếu là Bản cáo bạch) và các nguồn thông tin liên quan khác. Các thông tin được sắp xếp theo hệ thống các chỉ tiêu, bao gồm các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng. Giai đoạn 2: Phân tích, đánh giá, ấn định mức độ tín nhiệm cho nhà phát hành. Mức độ xếp hạng tín dụng này được Hội đồng xếp hạng tín dụng của công ty xem xét và phê chuẩn thông qua lần cuối. Phương pháp phân tích so sánh các chỉ tiêu của nhà phát hành cần xếp hạng với nhóm các nhà phát hành tương tự khác đã được xếp hạng. Giai đoạn 3: Công bố ra công chúng. Sau khi được Hội đồng xếp hạng tín dụng thông qua, kết quả xếp hạng tín dụng được công bố công khai ra công chúng (trường hợp nhà phát hành còn kiến nghị thì phải cung cấp cung cấp thêm thông tin để công ty xếp hạng tín dụng phân tích, đánh giá và có thể đưa ra ý kiến xếp hạng tín dụng mới, khi xếp hạng tín dụng mới này được hai bên chấp nhận nó sẽ được công bố ra công chúng; nếu công ty không đồng ý và không muốn có xếp hạng tín dụng đó thì kết quả sẽ bị huỷ bỏ). Qua việc nghiên cứu trên cho thấy thực tế có rất nhiều cách phân loại khác nhau, có thể cho điểm từng nhân tố riêng rẽ, có thể cho điểm tổng hợp được sắp theo số thứ tự hoặc thứ tự A, B, C…. Tuy nhiên hiện nay cách phân hạng doanh nghiệp theo thứ tự A, B, C… giống như cách phân hạng của Moody’s và Standar & Poor là tương đối phổ biến và phù hợp với thông lệ quốc tế. [28] 1.4.1.3. Qui trình, nội dung, phương pháp xếp hạng doanh nghiệp tại NHTM NN Trong phần kinh nghiệm của một số tổ chức xếp hạng doanh nghiệp này, luận văn đưa thêm nội dung và phương pháp hạng tín dụng của bốn NHTM Nhà nước để giúp cho phần so sánh quá trình xếp hạng tín dụng giữa các cơ quan xếp hạng được đa dang và phong phú hơn. Đồng thời việc nghiên cứu trên giúp cho CIC nắm rõ được nhu cầu về nghiệp vụ này của NHTM để có những giải pháp về hoạt động xếp hạng doanh nghiệp được hoàn chỉnh và phổ cập trong toàn hệ thống. Phân loại xếp hạng doanh nghiệp Phần lớn các NHTM đều thực hiện phân loại doanh nghiệp thành 10 loại có mức độ rủi ro từ thấp lên cao, tuy các NHTM áp dụng các bảng ký hiệu khác nhau nhưng về bản chất và nội dung thì giống nhau, đều dựa trên cơ sở bảng ký hiệu của Moody’s, ví dụ như: - Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sử dụng các ký hiệu phân loại là: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C và D. - Ngân hàng Công thương Việt Nam sử dụng các ký hiệu phân koại là: AA+, AA, AA-, BB+, BB,BB-, CC+, CC, CC-, C. * Tuy nhiên vẫn có một số NHTM phân loại khách hàng thành 7 loại, ví dụ như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ký hiệu các nhóm loại là: A*, A, B, C, D, E, F. Qui trình đánh giá, xếp hạng Qui trình đánh giá, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại các NHTM được chia thành 7 bước, cụ thể các bước như sau: Sơ đồ 1.03 - Qui trình phân tích, xếp hạng doanh nghiệp của NHTM Phân loại doanh nghiệp Chấm điểm chỉ tiêu phân tích Chấm điểm qui mô doanh nghiệp Thu thập thông tin Tổng hợp điểm và xếp hạng Ứng dụng kết quả xếp hạng (Nguồn tham khảo từ sổ tay tín dụng của 4 NHTM Nhà nước) Bước 1- Thu thập thông tin: Các thông tin thu thập để sử dụng trong quá trình phân tích bao gồm: - Hồ sơ do khách hàng cung cấp: Giấy tờ pháp lý và các báo cáo tài chính - Phỏng vấn trực tiếp khách hàng - Đi thăm thực địa khách hàng - Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác - Báo cáo nghiên cứu thị trường của các tổ chức chuyên nghiệp. - Phòng thông tin kinh tế - Tài chính - Trung tâm thông tin tín dụng - NHNN - Các nguồn thông tin khác. Bước 2 - Phân loại doanh nghiệp theo ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Bốn ngành cơ bản sau đã được áp dụng trong quá trình phân tích, xếp hạng doanh nghiệp tại các NHTM, bao gồm: - Nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp - Sản xuất Công nghiệp - Xây dựng cơ bản - Thương mại và Dịch vụ. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề thì phân loại theo ngành nghề, lĩnh vực nào đem lại tỷ trọng doanh thu lớn nhất cho doanh nghiệp. Bước 3 - Chấm điểm doanh nghiệp theo quy mô: Qui mô doanh nghiệp được xác định dựa vào các tiêu chí: nguồn vốn kinh doanh; lao động; doanh thu thuần; nộp ngân sách Nhà nước. Với bốn tiêu thức trên, tổng số điểm của doanh nghiệp được xác định căn cứ vào trị số cụ thể về vốn, lao động, doanh thu, nộp ngân sách nhà nước. Căn cứ vào thang điểm, tính số điểm theo từng tiêu thức. Tổng số điểm quy mô doanh nghiệp bằng các điểm của từng tiêu thức cộng lại, qua đó xác định được qui mô hoạt động doanh nghiệp. Việc tính điểm quy mô doanh nghiệp hoạt động các NHTM được áp dụng tượng tự như cách tính điểm của CIC và sẽ được cụ thể ở chương sau. Bước 4 - Chấm điểm theo các chỉ tiêu phân tích: Chấm điểm theo các chỉ tiêu tài chính: Trên cơ sở xác định qui mô và ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các NHTM sử dụng các chỉ tiêu tài chính như ở phụ lục 1.04- Bảng các chỉ tiêu tài chính của NHTM. Chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính: Các NHTM đã thực hiện lượng hoá các chỉ tiêu phi tài chính thành thang điểm cụ thể để chấm điểm theo 5 nhóm chỉ tiêu phi tài chính, được thể hiện ở phụ lục 1.05- Bảng tổng hợp tỷ trọng các chỉ tiêu phi tài chính của NHTM. Bước 5 - Tổng hợp điểm tín dụng, được thể hiện ở phụ lục 1.06- Bảng tổng hợp tỷ trọng tính điểm các chỉ tiêu của NHTM. Bước 6 - Sau khi xác định được điểm tổng hợp, các NHTM NN tiến hành xếp hạng doanh nghiệp theo phụ lục 1.07 – Bảng tổng hợp tính điểm của NHTM. Bước 7 - Ứng dụng kết quả trong việc ra quyết định cấp tín dụng và giám sát sau khi cho vay. Sau khi hoàn tất và được phê duyệt về kết qủa chấm điểm tín dụng, xếp hạng doanh nghiệp, kết quả được cập nhật vào hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng. Kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp được các NHTM ứng dụng trong việc ra quyết định cấp tín dụng và giám sát sau khi cho vay như hướng dẫn ở phụ lục 1.08 – Ý nghĩa xếp hạng doanh nghiệp của NHTM. [13,14,15,16] 1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Trên đây là những kinh nghiệm xếp hạng doanh nghiệp của một số tổ chức trong và ngoài nước. Kinh nghiệm hoạt động xếp hạng doanh nghiệp đã giúp luận văn đưa ra khái quát một số vấn đề lý luận về xếp hạng doanh nghiệp của cơ quan thông tin tín dụng nói chung. Từ đó góp phần hoàn thiện một bước khâu xử lý thông tin phát triển đa dạng hoá sản phảm thông tin đầu ra của Trung tâm thông tin tín dụng, đồng thời trên cơ sở chắt lọc kinh nghiệm đề xuất một giải pháp tương đối khả thi cho việc xếp hạng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng đối với Trung tâm thông tin tín dụng. Qua những kiến thức từ các tài liệu thu thập được luận văn đã cô đọng lại một số nét lớn, có tính thông lệ, được áp dụng phổ biến đối với quá trình phân tích, xếp hạng tín dụng nhưa sau: Một là, kết quả xếp hạng chỉ có giá trị trong 1 khoảng thời gian nhất định. Hai là, các chỉ tiêu thông tin để đưa vào phân tích phải bao gồm cả chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Việc lựa chọn các chỉ tiêu phân tích tuỳ thuộc vào mục đích của chủ thể xếp hạng doanh nghiệp. Ba là, việc xếp hạng doanh nghiệp đối với một số chỉ tiêu tài chính và phi tài chính phải được đặt trong môi trường ngành kinh tế và qui mô của doanh nghiệp. Bốn là, qui trình xếp loại thường qua 5 giai đoạn chính như sơ đồ 1.01. Năm là, về bảng xếp hạng doanh nghiệp thường chia thành nhiều hạng được ký hiệu bằng các chữ cái A, B, C, D... và được xếp thứ tự từ cao xuống thấp tùy theo độ tín nhiệm được đánh giá. Kết luận chương 1 Chương 1 của luận văn đã khái quát một số vấn đề cơ bản về xếp hạng doanh nghiệp; nghiên cứu nội dung, bản chất, mục đích, ý nghĩa, sự cần thiết và các đặc trưng khác của quá trình xếp hạng doanh nghiệp; phân tích quy trình thu thập thông tin, các bước tiến hành, các chỉ tiêu, các phương pháp dùng trong xếp hạng doanh nghiệp; khái quát một vài vấn đề chung nhất về xếp hạng doanh nghiệp. Đồng thời chương này cũng nghiên cứu cách xếp hạng doanh nghiệp đối với một số cơ quan xếp hạng khác để có thêm những bài học kinh nghiệm củng cố thêm về mặt lý luận và liên hệ với thực tiễn ở Trung tâm thông tin tín dụng sẽ được trình bày ở các chương sau. CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 2.1. Khái quát về CIC (Profile) 2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của CIC 2.1.1.1. Chức năng của CIC Trung tâm Thông tin tín dụng là đơn vị sự nghiệp thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, có chức năng thu nhận, phân tích và dự báo thông tin tín dụng trong ngành Ngân hàng để phục vụ công tác quản lý, điều hành của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cung cấp và làm dịch vụ thông tin về tiền tệ, hoạt động ngân hàng cho các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác. 2.1.1.2. Nhiệm vụ của CIC a) Xây dựng, trình Thống đốc các kế hoạch, chương trình, đề án, dự án và văn bản về hoạt động thông tin tín dụng. b) Hướng dẫn, triển khai thực hiện các kế hoạch, chương trình, đề án, dự án, văn bản sau khi được phê duyệt; theo dõi, kiểm tra, tổng hợp, đánh giá và báo cáo tình hình thực hiện. c) Thu nhận, xử lý và lưu trữ dữ liệu quốc gia về thông tin tín dụng từ các tổ chức tín dụng, tổ chức khác có hoạt động ngân hàng theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. d) Khai thác, thu thập thông tin cần thiết liên quan đến khách hàng vay vốn tổ chức tín dụng từ các phương tiện thông tin đại chúng và các nguồn hợp pháp khác; mua thông tin từ các tổ chức ngoài ngành Ngân hàng và của nước ngoài khi cần thiết để đáp ứng yêu cầu hoạt động thông tin tín dụng. e) Phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp. f) Thiết kế, xây dựng các yêu cầu về bảo mật, quản lý vận hành mạng, vận hành các Website - CIC, kho dữ liệu và hệ thông thông tin tín dụng sau khi thống nhất ý kiến với Cục Công nghệ tin học ngân hàng; kiểm soát việc truy cập, khai thác sử dụng thông tin tín dụng điện tử. g) Cung cấp kịp thời, đầy đủ, trung thực thông tin tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng theo quy định hiện hành. h) Làm dịch vụ thông tin các các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác trong và ngoài nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và pháp luật; tư vấn, hỗ trợ khách hàng tìm kiếm thông tin tín dụng theo yêu cầu. i) Tổ chức các hoạt động nghiên cứu về lĩnh vực thông tin tín dụng; xuất bản và phát hành Bản tin Thông tin tín dụng phục vụ cho công tác chuyên môn được giao. k) Phối hợp với các đơn vị chức năng trong việc thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế thuộc lĩnh vực chuyên môn; tiếp nhận, quản lý các dự án trợ giúp kỹ thuật của nước ngoài về lĩnh vực thông tin tín dụng khi được Thống đốc giao. l) Quản lý tài chính, tài sản và các nguồn lực khác được giao theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và pháp luật. m) Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giao. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ các phòng của CIC 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức 2.1.2.2. Nhiệm vụ của các phòng ban: a) Phòng Xử lý thông tin * Theo dõi, đôn đốc các TCTD thực hiện báo cáo đầy đủ, chính xác, đúng thời hạn các nội dung thông tin theo chỉ tiêu, mẫu biểu thông tin quy định tại Quy chế hoạt động thông tin tín dụng. * Thu nhận đầy đủ các báo cáo thông tin pháp lý, tài chính, dư nợ, tài sản thế chấp, bảo lãnh và các loại báo cáo khác theo quy định của các khách hàng vay vốn tại các TCTD và các tổ chức khác tự nguyện tham gia hoạt động thông tin tín dụng. * Khai thác các nguồn thông tin liên quan đến khách hàng có quan hệ tín dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng và các nguồn hợp pháp khác thông qua việc mua, bán, trao đổi thông tin để bổ sung, cập nhật vào kho dữ liệu của CIC. * Kiểm tra tính đúng đắn, chính xác của các báo cáo thông tin, dữ liệu trước khi cập nhật dữ liệu vào kho của CIC theo quy định. * Tiếp nhận và xử lí kịp thời các yêu cầu tra cứu thông tin của các TCTD và các đối tượng khác. * Tra cứu, biên tập đầy đủ, trung thực, kịp thời các bản báo cáo trả lời tin cho NHNN, các TCTD, các tổ chức khác và cá nhân theo quy định. * Tổ chức theo dõi, lưu trữ các dữ liệu đã được xử lí bao gồm: Các bản báo cáo cảu các TCTD, các thông tin mua và thu thập từ ngoài ngành, các bản báo cáo và trả lời tin đã cung cấp ra. * Chủ trì hướng dẫn, hỗ trợ các TCTD và các đối tượng khác trong việc cung cấp và khai thác dữ liệu từ CIC. * Nghiên cứu, đề xuất cải tiến các hình thức và mẫu biểu thu nhập thông tin tín dụng, các sản phẩm thông tin đầu ra. * Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Trung tâm giao. b) Phòng Phân tích * Nghiên cứu, xây dựng phương pháp phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thu nhập thông tin phục vụ cho việc phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp; phân tích tài chính doanh nghiệp, ngành, vùng kinh tế. * Thực hiện việc xếp hạng doanh nghiệp, phân tích tài chính doanh nghiệp, lập báo cáo cung cấp cho NHNN, cho các TCTD và các tổ chức, cá nhân khác khi có yêu cầu. * Định kì quý, năm tổng hợp kêt quả xếp hạng doanh nghiệp để phân tích, đánh giá theo ngành, vùng kinh tế; tổng công ty trên cơ sở đó đưa ra dự báo, cảnh báo rủi ro tín dụng. * Tham mưu cho Giám đốc về kí hợp đồng mua, bán, trao đổi thông tin liên quan đến phân tích tín dụng doanh nghiệp và tài chính doanh nghiệp. * Tham mưu cho Giám đốc về hợp tác, liên doanh, liên kết với các tổ chức vị trong và ngoài nước về xếp hạng doanh nghiệp, phân tích tài chính doanh nghiệp. * Tổ chức triển khai các Hợp đồng đã được kí kết. Thực hiện giao dịch và trao đổi thông tin với nước ngoài. * Tư vấn cho các TCTD, các tổchức, cá nhân khác trong việc lựa chọn khách hàng. * Tổ chức thực hiện biên tập và phát hành các ấn phẩm thông tin xếp hạng doanh nghiệp. * Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Trung tâm giao. c) Phòng Bản tin * Tham mưu cho giám đốc trong việc xuât bản, phát hành các ấn phẩm thông tin tín dụng phù hợp với hoạt động của CIC và quy định của NHNN. * Tổ chức biên tập nội dung và xuất bản Bản tin phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của CIC theo quy định của NHNN và quy định của pháp luật về xuất bản ấn phẩm thông tin. * Thực hiện tuyên truyền, phổ biến các hoạt động của NHNN, CIC và của các tổ chức tín dụng có liên quan đến thông tin tín dụng trên Bản tin. * Tham mưu cho Giám đốc về việc hợp tác với các cơ quan thông tấn báo chí, các đơn vị trong và ngoài ngành để thực hiện việc xuất bản Bản tin theo quy định của NHNN. * Thiêt kế hình thức bản tin phù hợp với quy định ghi trên Giấy phép xuất bản và tôn chỉ mục đích của CIC. * Tổ chức việc mua tin từ các cơ quan, đơn vị trong và ngoài ngành phục vụ cho việc xuất bản Bản tin. * Xây dựng và sử dụng đội ngũ cộng tác viên, thông tin viên để thực hiện nhiệm vụ xuất bản Bản tin. * Thực hiện công việc về trị sự của Bản tin theo quy định của CIC và của NHNN. * Thực hiện kế hoạch khoán thu nhập, chi phí và số lượng phát hành Bản tin theo mức giao khoán của Giám đốc. * Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. d) Phòng Kỹ thuật * Tham mưu cho Giám đốc hoạch định chiến lược phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động thông tin tín dụng phù hợp với sự phát triển Ngành. * Xây dựng các yêu cầu về bảo mật hệ thống; quản lý vận hành mạng và hệ thống máy chủ của trung tâm đảm bảo hoạt động ổn định, không bị gián đoạn, phục vụ nhu cầu truy nhập khai thác thông tin của các Vụ, Cục NHTW, các chi nhánh NHNN, các TCTD và những người sử dụng đã được cấp quyền khai thác. * Xây dựng, quản trị, vận hành cơ sở dữ liệu và Data WareHouse; đảm bảo cơ sở dữ liệu và Data WareHouse hoạt động ổn định, đáp ứng các yêu cầu xử lý thông tin của các phòng trong trung tâm và nhu cầu khai thác thông tin của người sử dụng. * Xây dựng các yêu cầu kĩ thuật và quy trình nghiệp vụ trên máy tính, đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ của các phòng trong Trung tâm về việc thu nhập xử lý và cung cấp thông tin; hỗ trợ các phòng trong Trung tâm về việc sử dụng chương trình phần mềm nghiệp vụ. * Quản lý và vận hành Website – CIC hoạt động ổn định, không bị gián đoạn và sử dụng thuận tiện. * Theo dõi, kiểm soát và thống kê việc truy cập khai thác sử dụng thông tin tín dụng điện tử của người sử dụng trong và ngoài mạng nội bộ. * Hỗ trợ các Chi nhánh NHNN, các TCTD về mặt kỹ thuật trong việc truy cập khai thác thông tin trên Web – CIC. * Tư vấn và làm dịch vụ công nghệ thông tin cho các TCTD trong lĩnh vực TTTD. * Thực hiện các nhiêm vụ khác do Giám đốc Trung tâm giao. e) Phòng Tổng hợp * Nghiên cứu, dự thảo và trình giám đốc các văn bản về chế độ, nghiệp cụ thông tin tín dụng, công tác hành chính, đối nội, đối ngoại của Trung tâm; xây dựng kế hoạch công tác của Trung tâm. * Tổng hợp và trả lời các câu hỏi liên quan đến chức năng nhiệm vụ của Trung tâm đối với các đơn vị liên quan; Tổng hợp kết quả thực hiện và kế hoạch công tác của các phòng thuộc Trung tâm; xây dựng các báo cáo công tác tháng, quý, năm và báo cáo đột xuất của Trung tâm. * Xây dựng chương trình đào tạo, hội nghị, hội thảo, hướng dẫn và tập huấn về nghiệp vụ thông tin tín dụng, phối hợp với các phòng có liên quan để tổ chức thực hiện. * Nghiên cứu đề xuất với Giám đốc các dịch vụ thông tin, các sản phẩm thông tin tín dụng; phối hợp các phòng trong việc thực hiện các hợp đồng cung cấp và khai thác thông tin; tuyên truyền, quảng bá các sản phẩm thông tin tín dụng. * Nghiên cứu đề xuất với Giám đốc về hình thức, nội dung, số lượng bản ghi Thông tin tín dụng. Biên tập và phát hành Bản tin Thông tin tín dụng. Đưa các bài viết lên trang Web-CIC để giới thiệu về CIC. * Thực hiện công tác văn thư lưu trữ, in ấn tài liệu, ấn phẩm, đặt mua và quản lí báo chí của Trung tâm; quản lý, cấp phát văn phòng phẩm, vật liệu, giấy tờ in. * Quản lí, theo dõi tài sản,công cụ lao động, vật liệu lưu trữ. * Phối hợp với các phòng liên quan trong việc mua sắm tài sản, công cụ lao động, vật liệu, điện nước, điện thoại, sửa chữa nhỏ của cơ quan. * Theo dõi hồ sơ cán bộ, thực hiện công tác tổ chức cán bộ nhân sự, đào tạo, chế độ tiền lương và theo dõi lao động của Trung tâm. * Thường trực công tác thi đua khen thưởng - kỉ luật của Trung tâm. * Thực hiện công tác lễ tân, công vụ, phục vụ các hoạt động của Trung tâm. * Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Trung tâm giao. f) Phòng Tài vụ * Tham mưu cho giám đốc xây dựng các văn bản về chế độ quản lý tài chính, kế toán của Trung tâm: Xây dựng các quy định về chế độ chi tiêu nội bộ phù hợp với cơ chế, quy chế tài chính của Nhà nước và NHNN đối với đơn vị sự nghiệp có thu; Lập Kế hoạch tài chính, Kế hoạch mua sắm - sửa chữa lớn TSCĐ, thiết bị tin học hàng năm. * Theo dõi, quản lý tài sản, vật tư, tiền vốn, thực hiện chế độ thu, chi tài chính, hạch toán kế toán, đảm bảo đúng chế độ, phản ánh kịp thời, đầy đủ diễn biến các loại vốn, tài sản bảo quản tại cơ quan. * Mở đầy đủ sổ sách, tài khoản kế toán nội, ngoại bảng; tổ chức hạch toán đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh; lưu trữ, bảo quảnchứng từ sổ sách theo đúng chế độ quy định. * Tổ chức quản lý, thực hiện Kế hoạch tài chính, Kế hoạch mua sắm, sửa chữa lớn TSCĐ, thiết bị tin học khi được phê duyệt; quyết toán, báo cáo kết quả thực hiện theo quy định. * Quản lý, theo dõi tài khoản mở tại Sở Giao dịch NHNN để tiếp nhận kinh phí do NHNN cấp và thực hiện các giao dịch trong thanh toán. * Quản lý quỹ tiền mặt tại cơ quan. Thực hiện các chế độ về tài chính đối với cán bộ, công chức trong cơ quan và thanh toán dịch vụ thông tin của người khai thác, sử dụng. * Thực hiện chế độ thông tin báo cáo theo quy định của NHNN về chế độ thông tin báo cáo. * Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc trung tâm giao. 2.2. So sánh giữa CIC và các cơ quan xếp hạng doanh nghiệp khác 2.2.1. Đặc điểm chung Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều chủ thể tham gia xếp hạng doanh nghiệp, cho dù với mục đích khác nhau hay sử dụng những phương pháp xếp hạng khác nhau nhưng kết quả của việc xếp hạng doanh nghiệp đều phản ánh được tình hình khái quát về hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó thể hiện như: qui mô, tiềm năng, uy tín, thương hiệu, chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp đó phải được gắn với một thứ hạng nhất định tuỳ theo cách đánh giá và qui định của cơ quan xếp hạng. Đối với việc xếp hạng doanh nghiệp thì bất cứ cơ quan xếp hạng nào của ngân hàng cũng buộc phải tính đến rất nhiều đặc điểm chung của một doanh nghiệp, đó là: tình hình tài chính, cách quản trị tài chính, số lượng cũng như chất lượng tài chính của doanh nghiệp đó. Các nhà phân tích phải xác định được tình trạng tài chính của doanh nghiệp cũng như phải xác định được liệu doanh nghiệp có đủ tiềm lực tài chính để trả nợ hay không. Các nhà phân tích cũng muốn phân tích được chất lượng tài sản của doanh nghiệp cũng như khả năng thanh khoản của tài sản doanh nghiệp đó. Họ cũng rất quan tâm đến chất lượng quản trị doanh nghiệp và mong muốn phát hiện ra được những điểm bất lợi đối với việc quản trị doanh nghiệp của doanh nghiệp đó. Có nghĩa là việc xếp hạng doanh nghiệp nói chung đều phải được thực hiện theo một qui trình cơ bản thống nhất đó là quá trình lượng hoá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp để tính điểm, sau đó đưa ra kết quả cuối cùng bằng cách xếp hạng doanh nghiệp trong một tổng thể chung về khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính gắn với một quan hệ tín dụng nhất định. 2.2.2. Sự khác nhau Như đã trình bày ở Chương 1, phần tham khảo kinh nghiệm của một số tổ chức xếp hạng doanh nghiệp hay xếp hạng tín dụng cho thấy, trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều chủ thể tham gia xếp hạng doanh nghiệp. Tùy theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ và căn cứ vào mục đích tôn chỉ hoạt động mà mục tiêu xếp hạng doanh nghiệp của các cơ quan đánh giá khác nhau. Tuỳ mục đích phân tích mà các cơ quan xếp hạng doanh nghiệp sử dụng các loại chỉ tiêu khác nhau: chỉ tiêu tuyệt đối, chỉ tiêu tương đối, chỉ tiêu bình quân. Tuỳ mục đích và nội dung phân tích có thể dùng các chỉ tiêu hiên vật, chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu thời gian,.... Có những cơ quan xếp hạng doanh nghiệp chỉ đưa ra những kết quả xếp hạng chung nhất, không đi sâu điều tra tỉ mỉ, họ chỉ đánh giá một số vừa phải chỉ tiêu về một doanh nghiệp như Công ty KPMG. Ngược lại, có những cơ quan đánh giá đưa ra bản báo cáo về một doanh nghiệp rất chi tiết, dài hàng trăm trang, có sự đánh giá tỉ mỉ hàng trăm chỉ tiêu, cả về tài chính và phi tài chính. Còn lại hầu hết các cơ quan xếp hạng doanh nghiệp lựa chọn cách xếp hạng nằm giữa hai hình thức trên, tức là việc xếp hạng không quá đi vào chi tiết cụ thể, nhưng cũng không chỉ đưa ra những đánh giá chung. Đối với các NHTM Việt Nam việc đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp cũng có những đặc trưng riêng so với các cơ quan xếp hạng tín dụng khác. Các tiêu chí cũng như thang điểm và cách tính điểm cho từng tiêu chí thể hiện rõ chức năng và mục đích hoạt động của NHTM, đó là đảm bảo cho ngân hàng thu được cả gốc lẫn lãi đúng hạn, giảm rủi ro tín dụng, tránh gây thất thoát vốn cho ngân hàng, hạn chế tình trạng phá sản của các ngân hàng. Ngoài ra, còn giúp ngân hàng xây dựng kế hoạch cho vay trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của mỗi doanh nghiệp, ngân hàng có thể đánh giá nhu cầu vốn ngắn hạn, trung và dài hạn... Từ đó có chiến lược huy động vốn phù hợp, tránh lãng phí và đạt được hiệu quả cao nhất. Đồng thời, ngân hàng có thể biết được xu hướng phát triển của từng giai đoạn, từng lĩnh vực kinh tế, lập kế hoạch cung cấp tín dụng hướng vào lĩnh vực có khả năng phát triển mạnh trong tương lai. Xây dựng kế hoạch tín dụng phù hợp sẽ giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay, đem lại lợi nhuận cao cũng như góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế của nhà nước. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể tư vấn kịp thời cho các doanh nghiệp về các quyết định tài chính nhằm tháo gỡ khó khăn, ổn định và phát triển doanh nghiệp. Do đó, việc xếp hạng doanh nghiệp của các TCTD thường quan tâm đến khả năng thanh toán, đến mức độ hoàn trả tiền vay của các doanh nghiệp trong tương lai,... Đặc biệt là họ chú trọng đến các dự án kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai mà đây chính là những dự án kinh doanh, TCTD bỏ tiền ra để đầu tư. Điều này được thể hiện rõ ở phương pháp xếp hạng doanh nghiệp của các NHTM thường sử dụng mô hình phân tích một cách tỷ mỷ, chi tiết các chỉ tiêu tài chính và đặc biệt là NHTM thường coi trọng và đánh giá cao hơn về các chỉ tiêu phi tài chính so với chỉ tiêu tài chính trong tổng số điểm đánh giá. CIC là một đơn vị thuộc NHNN, tuy hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu nhưng mục tiêu chính vẫn là quản lý nhà nước về lĩnh vực thông tin tín dụng và phòng ngừa rủi ro; CIC là đầu mối cho bộ phận thông tin tín dụng của các NHTM nên việc thu thập, lưu trữ, xử lý và mục tiêu đánh giá, xếp hạng về doanh nghiệp ở tầm khái quát, tổng hợp và bao trùm toàn bộ khách hàng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tại các NHTM, CIC không đi sâu vào thu thập để phân tích tỷ mỷ và chi tiết về từng khách hàng doanh nghiệp. Mặt khác, CIC có ưu thế hơn hẳn các cơ quan khác ở chỗ là kết hợp được mọi nguồn thông tin từ các NHTM, các cơ quan pháp luật, cơ quan quản lý Nhà nước về doanh nghiệp, các cơ quan thông tin khác trong và ngoài nước, hơn thế nữa là do chuyên môn hoá cao, có khả năng chia sẻ thông tin trong toàn hệ thống nên có nhiều thông tin có tính tổng hợp, khái quát có độ tin cậy cao. Trong khi NHTM chỉ có thể thu thập được các thông tin về khách hàng tại chính bản thân ngân hàng đó, do đó, kết quả phân tích, xếp hạng doanh nghiệp của CIC cũng không ở mức độ chỉ là những nhận xét mang tích chất chung chung về doanh nghiệp. Xét ví dụ về cơ cấu điểm đánh giá của CIC để thấy rõ sự khác biệt về tỷ trọng giữa các tiêu chí tài chính và phi tài chính so với các NHTM: CIC có cơ cấu điểm cho các chỉ tiêu phi tài chính chiểm tỷ trọng khoảng 30%. Như vậy, mục tiêu của việc xếp hạng doanh nghiệp tại CIC nhằm đưa ra kết quả xếp hạng doanh nghiệp có tính tiêu chuẩn chung, có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng thông tin của nhiều đối tượng khác nhau. 2.3. Thực trạng về hoạt động xếp hạng doanh nghiệp tại CIC 2.3.1. Phương pháp áp dụng Do đặc điểm hoạt động, Trung tâm Thông tin tín dụng thu thập một lượng thông tin về doanh nghiệp rất lớn chủ yếu là thông tin tài chính, số liệu được tích luỹ qua nhiều năm. Nên việc phân tích chủ yếu dựa vào thông tin tài chính doanh nghiệp, chuyển hoá các yếu tố định lượng đơn thuần thành các yếu tố định lượng có tính khái quát cao hơn, từ đó có thể đưa ra những nhận xét, kết luận về tình hình tài chính doanh nghiệp hoặc xem xét mối tương quan về ngành, qui mô doanh nghiệp trong các điều kiện cụ thể. Với đặc điểm và mục đích như trên để đảm bảo xếp hạng được nhiều doanh nghiệp qua nhiều năm, phản ánh quá trình tích luỹ số liệu lâu dài của Trung tâm Trung tâm Thông tin tín dụng nên hiện nay CIC sử dụng kết hợp chủ yếu ba phương pháp đó là phương pháp so sánh; phương pháp kết hợp; Phương pháp chuyên gia. 2.3.2. Hệ thống chỉ tiêu xếp hạng Các chỉ tiêu thông tin làm cơ sở cho quá trình xếp hạng doanh nghiệp bao gồm: Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán; bảng kết quả hoạt động kinh doanh; các chỉ tiêu về dư nợ ngân hàng; các chỉ tiêu phi tài chính khác. Các chỉ tiêu tài chính thu thập bao gồm chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu chi tiết. Trong quá trình phân tích chỉ sử dụng một số các chỉ tiêu tổng hợp. Tuy nhiên việc thu thập cả những chỉ tiêu chi tiết có tác dụng minh họa cho các chỉ tiêu tổng hợp, mặt khác, giúp cho việc phân tích sâu hơn về doanh nghiệp khi cần thiết. Một là, các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán Các chỉ tiêu trong mục này được lấy trong bảng cân đối kế toán vào thời điểm 31/12 hàng năm (theo phụ lục 2.01 - Bảng cân đối kế toán). Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán làm cơ sở để xác định quy mô doanh nghiệp và dùng để tính toán các tỷ số về thanh khoản, các tỷ số hoạt động, các tỷ số về cân nợ, các tỷ số về thu nhập. Hai là, các chỉ tiêu trong bảng kết quả hoạt động kinh doanh Các chỉ tiêu trong mục này được lấy trong bảng kết quả hoạt động kinh doanh theo năm tài chính (theo phụ lục 2.02- Bảng kết quả hoạt động kinh doanh). Các chỉ tiêu trong bảng kết quả hoạt động kinh doanh làm cơ sở để xác định quy mô doanh nghiệp và tính toán các tỷ số liên quan đến doanh thu và thu nhập. Ba là, dư nợ ngân hàng Chỉ tiêu dư nợ ngân hàng này được lấy trong biểu K03/CIC - Bảng kê quan hệ tín dụng với khách hàng của CIC, gồm các chỉ tiêu: Tổng dư nợ và nợ không đủ tiêu chuẩn. Thời điểm của các chỉ tiêu này được lấy cùng thời điểm với các báo cáo tài chính. Bốn là, các thông tin phi tài chính khác Các chỉ tiêu phi tài chính được lấy trong biểu K01/CIC - Hồ sơ khách hàng (theo phụ lục 2.03- Bảng chỉ tiêu phi tài chính). Các chỉ tiêu này là cơ sở để xác định ngành kinh tế, quy mô doanh nghiệp trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp. Kể từ tháng 08/2006, một số chỉ tiêu phi tài chính này đã được lượng hoá tính điểm trong tổng điểm chung trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp. 2.3.3. Xác định ngành kinh tế và quy mô hoạt động 2.3.3.1. Xác định ngành kinh tế Hiện nay, CIC xếp hạng doanh nghiệp dựa trên tiêu chí phân loại doanh nghiệp theo ngành kinh tế, do mỗi ngành có những đặc điểm khác nhau như cơ cấu chi phí, mức độ trưởng thành, tính chu kỳ, khả năng sinh lời,... Do có những đặc thù riêng, nên Trung tâm Thông tin tín dụng phân loại doanh nghiệp thành 8 ngành kinh tế cơ bản như bảng sau: Bảng 2.02 – Bảng ngành kinh tế của CIC STT Số hiệu ngành Tên ngành 1 01 Trồng trọt, chăn nuôi 2 02 Chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp 3 03 Xây dựng 4 04 Thương mại hàng hoá 5 05 Dịch vụ 6 06 Công nghiệp năng lượng (điện, than, dầu khí) 7 07 Công nghiệp chế tạo 8 08 Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng (Nguồn tham khảo từ Đề án xếp hạng doanh nghiệp năm 2001) Đây là 08 ngành kinh tế cơ bản có tính bao trùm trong nền kinh tế quốc dân, có đặc điểm tương đối cách biệt về vốn, tài sản, doanh thu, chu kỳ sản xuất kinh doanh vv.. xét về đầu tư vốn tín dụng ngân hàng cũng như mức độ rủi ro thì việc phân ngành kể trên và xếp hạng doanh nghiệp theo ngành sẽ giúp cán bộ tín dụng có thông tin tổng hợp về vị thế tài chính của một doanh nghiệp cụ thể trong một ngành, một lĩnh vực kinh tế. Việc xác định ngành kinh doanh của doanh nghiệp dựa vào hoạt động kinh tế chủ yếu của doanh nghiệp (gọi tắt là hoạt động kinh doanh chính). Một doanh nghiệp, có nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau, trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh chính đó là hoạt động tạo ra doanh thu nhiều nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với thu thập thông tin của CIC, việc xác định cơ cấu doanh thu của doanh nghiệp là hết sức khó khăn, vì thế, hiện nay để xác định doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế nào trong 08 ngành kinh tế trên, CIC dựa vào các hoạt động kinh tế được ghi trong ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. 2.3.3.2. Xác định doanh nghiệp theo quy mô hoạt động Quy mô của doanh nghiệp cũng là một yếu tố cần được xét, bởi doanh nghiệp sẽ khó có thể tiến hành đa dạng hoá hoạt động để giảm rủi ro kinh doanh và nâng cao ưu thế cạnh tranh một khi quy mô của nó quá nhỏ, bởi chúng không có những ưu thế về quy mô sản xuất, tiềm năng nhân sự và tiềm lực về mặt tài chính. Những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường chỉ thiên về kinh doanh một loại sản phẩm và đôi khi có những sản phẩm lại mang tính chất thời vụ, nên vị thế tín dụng sẽ có thể bị đánh giá thấp hơn. Dưới đây là 4 tiêu thức cơ bản xác định quy mô doanh nghiệp nhà nước mà CIC đang áp dụng: - Nguồn vốn kinh doanh: chỉ tiêu này được thu thập từ báo cáo tài chính của doanh nghiệp phần "Bảng cân đối kế toán" (Mã 411 - cân đối kế toán) là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ nguồn vốn kinh doanh hiện có và tình hình tăng, giảm vốn kinh doanh của Nhà nước. 7 - Lao động: là số lượng lao động thường xuyên trong danh sách trả lương của doanh nghiệp (không bao gồm lao động hợp đồng theo vụ, việc) - Doanh thu thuần: chỉ tiêu này phản ánh số doanh thu bán hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ đã trừ thuế và các khoản phải trừ, trong kỳ báo cáo, làm căn cứ tính kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (Mã số 10 - Kết quả hoạt động kinh doanh). - Nộp ngân sách Nhà nước: bao gồm các loại thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách theo quy định của Nhà nước. Bốn tiêu thức trên được dùng để xác định quy mô doanh nghiệp. Tổng số điểm của doanh nghiệp được xác định căn cứ vào trị số cụ thể về vốn, lao động, doanh thu, nộp ngân sách nhà nước. Căn cứ vào thang điểm, tính số điểm theo từng tiêu thức. Tổng số điểm quy mô doanh nghiệp bằng các điểm của từng tiêu thức cộng lại, được xây dựng theo 3 loại quy mô. Dựa vào Thông tư số 03/BKH-QLKT ngày 27/02/1996 của Bộ Kế hoạch và đầu tư về hướng dẫn tiêu thức xác định doanh nghiệpNhà nước độc lập quy mô lớn có thành lập Hội đồng quản trị, Trung tâm thông tin tín dụng xây dựng thang điểm tính toán qui mô doanh nghiệp (theo phụ lục 2.04 – Thang điểm tính quy mô hoạt động doanh nghiệp tại CIC). Việc xác định quy mô doanh nghiệp để đưa ra hệ số tài chính phù hợp là rất quan trọng. Qui mô doanh nghiệp được phân thành 3 loại: lớn, vừa và nhỏ. Tình hình tài chính doanh nghiệp tại kho dữ liệu CIC cho thấy, doanh nghiệp có qui mô khác nhau có tình hình về vốn, tài sản, lao động... cũng khác nhau và có sự cách biệt tương đối rõ nét. Chính vì vậy, phân loại doanh nghiệp theo qui mô là việc làm không thể thiếu được trước khi tính toán các chỉ tiêu tài chính để có thể đi đến xếp hạng doanh nghiệp. Hay nói cách khác, việc xếp hạng doanh nghiệp là việc so sánh doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác để đưa ra sự phân định thứ hạng chúng về tín dụng, việc so sánh đó phải được đặt trong điều kiện quy mô cùng loại. 2.3.4. Các chỉ số xếp hạng Phương pháp xếp hạng doanh nghiệp được áp dụng tại Trung tâm Thông tin tín dụng dựa trên hai phương pháp xếp hạng và phương pháp so sánh. Nguồn số liệu để phân tích chủ yếu nằm trong bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình dư nợ tại ngân hàng và một số thông tin phi tài chính khác. Một là, các chỉ số tài chính. Thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính, người đánh giá có thể xác định tình hình tài chính của doanh nghiệp ở các thời điểm khác nhau. Đồng thời, các chỉ tiêu tài chính cũng tạo điều kiện cho việc so sánh khả năng của doanh nghiệp giữa các thời kỳ và so sánh với các doanh nghiệp khác hay giá trị trung bình của ngành. Các chỉ số tài chính bao gồm bốn nhóm (thể hiện cụ thể ở Bảng 2.02- Bảng chỉ số tài chính áp dụng tại CIC). - Nhóm 1: các chỉ tiêu thanh khoản; - Nhóm 2: các chỉ tiêu hoạt động; - Nhóm 3: các chỉ tiêu về cân nợ; - Nhóm 4: các chỉ tiêu về thu nhập. Bảng 2.03 – Bảng các chỉ số tài chính áp dụng tại CIC STT Chỉ số Nội dung Chỉ tiêu thanh khoản 1 Khả năng thanh toán ngắn hạn Tài sản ngắn hạn + Đầu tư tài chính ngắn hạn / Nợ ngắn hạn 2 Khả năng thanh toán nhanh Tài sản có tính lỏng cao / Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu hoạt động 3 Vòng quay hàng tồn kho Giá vốn hàng bán / Hàng tồn kho bỡnh quõn đầu kỳ 4 Kỳ thu tiền bình quân (Giá trị các khoản thu bình quân / Doanh thu thuần) * 365 5 Doanh thu thuần / Tổng tài sản Doanh thu thuần / Tổng tài sản bình quân đầu kỳ và cuối kỳ Chỉ tiêu cân nợ 6 Nợ phải trả / Tổng tài sản Nợ phải trả / Tổng tài sản 7 Nợ phải trả / Nguồn vốn chủ sở hữu Nợ phải trả / Nguồn vốn chủ sở hữu 8 Nợ khụng đủ tiêu chuẩn / Tổng dư nợ NH Nợ quỏ hạn / Tổng dư nợ NH 9 Tổng dư nợ ngân hàng so với NVCSH Tổng dư nợ / nguồn vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu thu nhập 10 Tổng thu nhập trước thuế / Doanh thu thuần Tổng thu nhập trước thuế / Doanh thu thuần 11 Tổng thu nhập trước thuế / Tổng tài sản Tổng thu nhập trước thuế / Tổng tài sản 12 Tổng thu nhập trước thuế / Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng thu nhập trước thuế / Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân 13 Khả năng thanh toán lãi vay (Tổng lợi nhuận trước thuế + Lãi vay) / Lãi vay (Nguồn tham khảo từ Đề án xếp hạng doanh nghiệp năm 2001) Nhóm 1: Các chỉ tiêu thanh khoản Các chỉ tiêu thanh khoản đo lường khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp. Có hai tỷ số thanh khoản quan trọng là tỷ số khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán nhanh. Đây là một cách để xem xét mức độ bảo vệ người cho vay trong trường hợp cho doanh nghiệp vay để tài trợ vốn lưu động. Chỉ số này cho ta thấy mối liên hệ giữa tài sản có ngắn hạn đối với tài sản nợ ngắn hạn trong cố gắng để chỉ ra sự an toàn của những nhà tài trợ ngắn hạn. Có thể đưa ra các nhận định sơ bộ về các giá trị của tỷ số này như sau: - Tỷ lệ này lớn hơn 1 cho biết một doanh nghiệp có đủ tài sản lưu động để đáp ứng những nghĩa vụ nợ ngắn hạn. Trên quan điểm của những người cho vay, tỷ lệ này càng lớn thì khả năng an toàn của nhà cung cấp tín dụng ngắn hạn càng cao. - Tỷ lệ 2:1 là tỷ lệ tương đối tốt cho hầu hết các doanh nghiệp vì tỷ lệ này cho biết tài sản có ngắn hạn đáp ứng ngay được các khoản nợ ngắn hạn và còn cho phép doanh nghiệp tiếp tục sử dụng tài sản có để kinh doanh. Tuy nhiên, nhược điểm của tỷ lệ này, nó đánh giá doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại (tức thời) mà không tính đến tương lai, trong khi các nhà cho vay thường hướng tới tương lai của doanh nghiệp. - Tỷ lệ nhỏ hơn 1 cho biết tài sản có ngắn hạn không đủ để thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn, nó cho biết doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong lĩnh vực thanh toán. Đối với nhà cung cấp tín dụng ngắn hạn thì đây là dấu hiệu không tốt ảnh hưởng đến độ an toàn của các khoản cho vay. Tuy nhiên sự cấu thành và chất lượng của tài sản lưu động là một nhân tố quan trọng trong phân tích tính thanh khoản của doanh nghiệp . Trên một khía cạnh khác, nếu tỷ lệ này cao thì cũng có thể xảy ra trường hợp hoặc là quỹ tiền mặt tồn đọng nhiều, hoặc mức độ hàng tồn kho đã trở nên quá tải so với nhu cầu và việc quản lý tín dụng kém dẫn tới các khoản phải thu lớn. Hơn nữa, doanh nghiệp có thể không tận dụng tốt khoản tiền đã đi vay. Giá trị chỉ tiêu này ở trong khoảng từ 1 đến 4 là chấp nhận được. Nếu chỉ tiêu nhỏ hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp đã dùng vốn ngắn hạn để đầu tư cho các tài sản cố định và sẽ dẫn đến rủi ro trong thanh toán ngắn hạn. Khả năng thanh toán nhanh Tỷ số này cho biết khả năng chuyển đổi các tài sản có của doanh nghiệp thành tiền để đáp ứng yêu cầu thanh toán cấp thiết các khoản nợ. Do loại hàng hoá tồn kho có khả năng thanh khoản thấp do việc biến chúng thành tiền có thể mất khá nhiều thời gian nên không được tính vào tỷ số này. Giá trị của tỷ số này thường được chấp nhận ở mức từ 1 đến 2. Giá trị của tỷ số này càng cao thì mức độ rủi ro về thanh toán của doanh nghiệp càng thấp song nó cho thấy hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp cũng chưa tốt, những tài sản này có tỷ lệ sinh lời thấp đối với doanh nghiệp. Nhóm 2: Các tỷ số hoạt động Vòng quay hàng tồn kho được biểu thị bằng số lần, thể hiện sự luân chuyển hàng tồn kho tại doanh nghiệp. Kỳ thu tiền bình quân thu tiền bình quân phản ánh số ngày bình quân mà tiền bán hàng hoá được thu hồi. Giá trị của tỷ số này càng cao chứng tỏ hiệu quả thu hồi nợ của doanh nghiệp càng thấp và có thể gặp phải những khoản nợ khó đòi. Giá trị có thể chấp nhận được của tỷ số này thường ở mức trong vòng từ 30 ngày đến 60 ngày. Hiệu quả sử dụng tài sản cho thấy hiệu quả sử dụng toàn bộ các loại tài sản của doanh nghiệp thể hiện một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nhóm 3: Các tỷ số về cân nợ Các tỷ số này đánh giá mức độ tối ưu về cơ cấu tài chính và mức độ rủi ro vì phải lệ thuộc tài chính, nó cho biết khả năng an toàn về tài chính của doanh nghiệp. Nợ phải trả so với tổng tài sản phản ánh cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Giá trị của tỷ số này càng cao chứng tỏ mức độ rủi ro phá sản của doanh nghiệp càng lớn. Trên phương diện các chủ nợ, các định chế tài chính thì nếu tỷ số này càng cao thì khả năng thu hồi nợ của họ càng thấp. Tuy nhiên, trên phương diện doanh nghiệp, tỷ số này càng cao chứng tỏ thành tích vay mượn của doanh nghiệp này tốt, nếu doanh nghiệp hiện có tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ lệ lãi vay thì tỷ số này là tích cực. Ngược lại, sẽ có tác dụng tiêu cực nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp thấp hơn tỷ lệ lãi vay.Đối với các chủ nợ, giá trị của tỷ số này thường được chấp nhận ở mức nhỏ hơn 50%. Nợ phải trả so với nguồn vốn chủ sở hữu phản ánh mức độ đảm bảo cho các khoản nợ bằng vốn riêng của doanh nghiệp. Giá trị của tỷ số này càng cao chứng tỏ mức độ rủi ro đối với các chủ nợ càng lớn. Nợ không đủ tiêu chuẩn so với tổng dư nợ NH thể hiện việc hoàn trả vốn vay ngân hàng đúng hạn của doanh nghiệp, qua đó cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không. Xét trên giác độ tín dụng ngân hàng, đây là chỉ tiêu rất quan trọng khi xét duyệt cho vay. Nợ không đủ tiêu chuẩn (bao gồm: nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN Ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng). Doanh nghiệp được xếp hạng tại CIC nếu có phát sinh nợ không đủ tiêu chuẩn theo số liệu được lưu trữ tại CIC sẽ bị trừ điểm trong tổng điểm chung, nếu không phát sinh nợ không đủ tiêu chuẩn sẽ được cộng điểm. Việc cộng điểm và trừ điểm sẽ được tính theo sự xuất hiện nợ không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp đó qua các năm. Nhóm 4: Các chỉ số về lợi tức Lợi tức chính là mục tiêu của doanh nghiệp đồng thời nó thể hiện kết quả điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi tức so với doanh thu phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp, tỷ số này càng cao và doanh thu của doanh nghiệp càng lớn thì tiềm năng sinh lời càng lớn. Lợi tức so với tài sản đo lường khả năng sinh lời của mỗi đơn vị tiền tệ đầu tư vào doanh nghiệp. Dùng tỷ lệ này để so sánh với mức trung bình của ngành, qua đó biết được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên ứng dụng quan trọng nhất của tỷ số này là so sánh với chi phí sử dụng ngân quỹ của doanh nghiệp (chi phí vốn). Nếu tỷ lệ này lớn hơn chi phí vốn thì doanh nghiệp kinh doanh có lời, nếu nhỏ hơn thì doanh nghiệp bị thua lỗ. Tỷ số này thể hiện sức hấp dẫn của doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư tiềm tàng. Lợi tức so với nguồn vốn đo lường tỷ lệ thu nhập trên vốn đầu tư của các chủ sở hữu. Tỷ lệ này rất hữu ích khi so sánh với tỷ lệ sinh lời

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThs5.docx
Tài liệu liên quan