Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng dứa tại tổng công ty rau quả Việt Nam

Tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng dứa tại tổng công ty rau quả Việt Nam: Lời mở đầu Toàn cầu hoá là xu thế của quá trình phát triển kinh tế thế giới. Lịch sử đã chứng minh rằng, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa lại phát triển nền kinh tế trong nước. Với thời kỳ bùng nổ thông tin như hiện nay thì sự hội nhập là cần thiết. Mỗi một quốc gia muốn phát triển nhanh, mạnh thì phải hội nhập với nền kinh tế thế giới để có thể tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu khoa học kỹ thuật của loài người đã đạt được. Đồng thời sự phân công lao động sẽ giúp mỗi nước phân bổ nguồn lực một cách có lợi nhất. Việt Nam, với chính sách đổi mới mở cửa, đã tạo ra những cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó là sự cạnh tranh cũng ngày gay gắt và khóc liệt. Trong cơ chế thị trường, sự đào thải là rất lớn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay khi bước vào cơ chế thị trường đã gặp không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đã có không ít các doanh nghiệp đã phải giải thể, phá sản do làm ăn thua lỗ. Trong bối cảnh đó, Tổn...

doc88 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1026 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng dứa tại tổng công ty rau quả Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Toàn cầu hoá là xu thế của quá trình phát triển kinh tế thế giới. Lịch sử đã chứng minh rằng, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa lại phát triển nền kinh tế trong nước. Với thời kỳ bùng nổ thông tin như hiện nay thì sự hội nhập là cần thiết. Mỗi một quốc gia muốn phát triển nhanh, mạnh thì phải hội nhập với nền kinh tế thế giới để có thể tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu khoa học kỹ thuật của loài người đã đạt được. Đồng thời sự phân công lao động sẽ giúp mỗi nước phân bổ nguồn lực một cách có lợi nhất. Việt Nam, với chính sách đổi mới mở cửa, đã tạo ra những cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó là sự cạnh tranh cũng ngày gay gắt và khóc liệt. Trong cơ chế thị trường, sự đào thải là rất lớn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay khi bước vào cơ chế thị trường đã gặp không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đã có không ít các doanh nghiệp đã phải giải thể, phá sản do làm ăn thua lỗ. Trong bối cảnh đó, Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu. Biết khai thác mở rộng quy mô thị trường xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, từng bước đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, xuất khẩu... Trong thời gian qua, Tổng công ty đã đạt được những kết quả nhất định, làm ăn ngày càng có lãi và hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày một nâng cao. Tuy nhiên, Tổng công ty đã gặp không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu mặt hàng dứa-một mặt hàng chủ đạo và chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Sau gần 3 tháng thực tập tại Tổng công ty Rau quả Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của mặt hàng dứa. Do vậy em chọn đề tài: “giai phap day manh xuat khau mat hang dua tai tong cong ty rau qua viet nam ” Mục đích nghiên cứu: Dựa vào kết quả phân tích về thực trạng xuất khẩu mặt hàng dứa của Tổng công ty, đưa ra những giải pháp cũng như những kiến nghị nhằm đưa hoạt động xuất khẩu dứa của Tổng công ty ngày càng nâng cao và có hiệu quả hơn. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mặt hàng dứa xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Là hoạt động xuất khẩu mặt hàng dứa của Tổng công ty Rau quả Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu dứa của Tổgn công ty Rau quả Việt Nam. Thời gian nghiên cứu: 15 tuần thực tập tại Tổng công ty Rau quả Việt Nam Chuyên đề của em được chia làm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu dứa của tổng công ty rau quả việt nam Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả việt nam Em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Thừa Lộc, Ths Nguyễn Anh Tuấn cùng các cô chú tại phòng XNK I đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Chương i lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I. xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu 1. Khái niệm Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hóa, dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ để thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất nhập khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế, và khi trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia là có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia vào hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về không gian lẫn thời gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn, song nó cũng có thể kéo dài hàng năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các nước tham gia. Hoạt động xuất khẩu là một hình thức cơ bản của thương mại quốc tế, đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức đầu tiên chỉ là hàng đổi hàng song ngày nay xuất khẩu được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: xuất khẩu trực tiếp,xuất khẩu qua trung gian, buôn bán đối lưu, xuất khẩu ủy thác, xuất khẩu theo nghị định thư... 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 2.1 Đối với doanh nghiệp Mục tiêu của các doanh nghiệp là bán được hàng và thu lợi nhuận và thị trường thế giới là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng cho việc tiêu thụ hàng. Thông qua xuất khẩu doanh nghiệp có thể đem lại những lợi ích như: Các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng sản phẩm - những yếu tố đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đồng thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình sản xuất không những về chiều rộng mà cả về chiều sâu. Do đó doanh nghiệp có thể đạt được các mục tiêu trong hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là mục tiêu lợi nhuận. Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo thu nhập ổn định cho người lao động, tạo ra ngoại tệ để nhập máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và đem lại lợi nhuận cao. Thông qua các hợp đồng kinh tế các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán với các khách hàng nước ngoại trên cơ sở hai bên cùng có lợi, đồng thời có thể tăng uy tín và vị thế trong thị trường quốc tế 2.2 Đối với quốc gia xuất khẩu Thực tiễn cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu, một nước và đặc biệt là các nước đang phát triển có thể sử dụng các nguồn vốn chính như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ và thu từ hoạt động xuất khẩu. Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ thì không ai có thể phủ nhận được. Nhưng khi sử dụng những nguồn vốn này thì những nước đi vay phải chấp nhận những thiệt thòi nhất định và dù bằng cách này hay cách khác cũng phải hoàn lại vốn cho nước ngoài. Bởi vậy, nguồn vốn quan trọng nhất mà mỗi quốc gia có thể trông chờ là vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, xuất khẩu là hoạt động chính tạo tiền đề cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô và tăng trưởng của nhập khẩu. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải có bốn điều kiện: nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật. Song không phải quốc gia nào cũng có đủ bốn điều kiện đó. Để giải quyết tình trạng này buộc họ phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng. Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý và phát triển sản xuất trong nước. Các nước sẽ sản xuất nhiều hơn và đi vào chuyên môn hoá những sản phẩm hàng hoá mà sẽ đem lại lợi nhuận khi xuất khẩu, khi nền sản xuất trong nước phát triển đã thoả mãn được những nhu cầu tiêu dùng trong nước còn những sản phẩm thừa có thể đem xuất khẩu tới các quốc gia khác không co lợi thế đối với sản phẩm đó. Xuất khẩu là một động lực phát triển nền kinh tế xã hội do đó cúng lam chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo một xu hướng chung từ nền nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước kém phát triển (như Việt nam) chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới. 2.3 Đối với nền kinh tế thế giới Do những điều kiện khác nhau nên một quốc gia có thể mạnh về lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Vì vậy, để có thể khai thác được lợi thế, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo. Ông nói rằng: " Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích của chính mình" . Và khi tham gia vào thương mại quốc tế thì "quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất các loại hàng hóa sẽ tiến hành chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi nhất và nhập khẩu những loại mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng có bất lợi lớn hơn". Nói cách khác, mọi quốc gia đều có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Chuyên môn hóa làm cho mỗi quốc gia đều khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất, giúp tiết kiệm được nguồn lực như vốn, kỹ thuật, nhân lực... trong quá trình sản xuất hàng hóa và từ đó có thể thu được lợi ích từ hoạt động xuất khẩu. Do đó, tổng sản phẩm trên quy mô toàn thế giới cũng sẽ được gia tăng, xét về tổng thể thì nền kinh tế thế giới vẫn có sự tăng trưởng. 3. Các hình thức xuất khẩu hàng hóa 3.1 Xuất khẩu trực tiếp Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất, nhà xuất khẩu và các cá nhân, tổ chức nước ngoài trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thỏa thuận một cách tự nguyện. Nội dung thỏa thuận không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn liền với việc bán. Trong giao dịch, người ta làm một loạt các công việc như nghiên cứu tiếp cận thị trường, người mua hỏi giá và đặt hàng, người bán chào giá. Sau đó, hai bên hoàn giá chào (mặc cả) và chấp nhận giá, cuối cùng là ký kết hợp đồng. 3.2 Xuất khẩu qua trung gian Giao dịch qua trung gian là hình thức mà trong đó bên mua và bên bán thông qua người thứ ba đứng ra thiết lập mối quan hệ và quy định các điều kiện mua bán và người trung gian được hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất đã được thỏa thuận. Giao dịch qua trung gian hiện nay chiếm khoảng 52% kim nghạch buôn bán trên thế giới Giao dịch qua trung gian có các lợi ích như: Người trung gian thường có nhiều hiểu biết về thị trường, thủ tục pháp lý và họ cũng có cơ sở vật chất tốt Có lợi khi sử dụng người trung gian nếu năng lực và nghiệp vụ của bên xuất khẩu hoặc nhập khẩu còn kém. Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm là lợi nhuận bị chia sẻ, hoặc doanh nghiệp không thể chắc chắn tin cậy vào người trung gian. 3.3 Xuất khẩu gia công uỷ thác Trong hình thức này, một bên nhận gia công nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm, sau đó giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao gọi là phí gia công. Như vậy trong hoạt động này hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất. Hình thức này bao gồm các bước: - Ký hợp đồng với bên nước ngoài và nhập nguyên liệu. - Ký hợp đồng gia công ủy thác với đơn vị trong nước. - Giao nguyên vật liệu gia công theo định mức. - Thanh toán phí gia công cho đơn vị sản xuất và nhận phí ủy thác gia công được hưởng. Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ nhiều vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được nhiều lợi nhuận, rủi ro ít, tận dụng được nguồn lao động ở các nước khác, việc thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Nhưng nó cũng đòi hỏi phải có các cán bộ dày dạn kinh nghiệm và phải làm nhiều thủ tục xuất khẩu. 3.4 Hình thức mua bán đối lưu Đây là một phương thức giao dịch trong đó kết hợp chặt chẽ giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Người bán đồng thời là người mua và lượng hàng trao đổi phải có giá trị tương đương, nghĩa là hàng hóa hai bên phải được cân bằng cả về mặt hàng, giá cả, tổng giá trị và điều kiện giao hàng. Ví dụ, mặt hàng quý đổi lấy mặt hàng quý, hàng tồn kho đổi lấy hàng tồn kho, nhập hàng với gía CIF thì xuất hàng cũng phải với giá CIF... Buôn bán đối lưu có hai nghiệp vụ chủ yếu là hàng đổi hàng và nghiệp vụ bù trừ: - Nghiệp vụ hàng đổi hàng: hai bên trực tiếp trao đổi với nhau những hàng hóa có giá trị tương đương và việc giao hàng gần như diễn ra đồng thời. - Nghiệp vụ bù trừ: hai bên trao đổi hàng hóa với nhau trên cơ sở quan hệ giá trị hàng giao. Đến cuối kỳ hạn, hai bên mới so sổ sách đối chiếu giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của chủ nợ. Nghiệp vụ này là hình thức phát triển nhanh nhất của buôn bán đối lưu. - Ngoài ra, trong buôn bán đối lưu còn một số nghiệp vụ khác như nghiệp vụ mua đối lưu, nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ hoặc giao dịch bồi hoàn. 3.5 Hình thức tạm nhập tái xuất Đây là hình thức xuất khẩu những hàng hóa đã nhập khẩu trước đây nhưng chưa qua chế biến nhằm mục đích thu lợi nhuận chứ không phải để phục vụ tiêu dùng trong nước. Để tiến hành được hoạt động nay cần phải có ít nhất ba chủ thể thuộc ba quốc gia khác nhau: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Hàng hóa đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất rồi sang nước nhập khẩu. Còn tiền sẽ được nước tái xuất thu từ nước nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu. Trong trường hợp này, nước tái xuất sẽ thu được một khoản chênh lệch giữa khoản tiền bỏ ra để nhập khẩu và số tiền thu được sau khi xuất khẩu. Ngoài ra họ có thể hưởng thu nhập do sử dụng đồng tiền chiếm dụng vì đã thu của nước nhập khẩu nhưng chưa trả cho nước xuất khẩu. II. hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp 1. Nghiên cứu thị trường quốc tế, xác định mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu * Nghiên cứu thị trường tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hóa đó trên thị trường, giúp họ giải quyết được những vấn đề của thực tiễn kinh doanh theo yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ và khả năng cạnh tranh hàng hóa. Công việc này bao gồm: 1.1 Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường. Khi nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới ta phải nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là nghiên cứu cả ở lĩnh vực sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Nghiên cứu thị trường hàng hóa nhằm đem lại sự hiểu biết về quy luật hoạt động của chúng. Những quy luật này được thể hiện thông qua những biến đổi về nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hóa trên thị trường. Nắm chắc được các quy luật này ta có thể vận dụng để giải quyết hàng loạt các vấn đề của thực tiễn kinh doanh, đáp ứng được nhu cầu của thị trường và có những biện pháp thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường. 1.2 Thị trường và các yếu tố ảnh hưởng Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định. Nhưng nó không xác định mà thay đổi do những nhân tố tổng hợp trong những giai đoạn nhất định. Có thể chia làm ba nhóm nhân tố ảnh hưởng tới dung lượng thị trường: - Nhóm 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phương tây, tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa... - Nhóm 2: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường như tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp, chính sách của Nhà nước, tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, ảnh hưởng của hàng hóa thay thế... - Nhóm 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường. Nó bao gồm: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra những biến đổi về cung cầu, bão lụt, hạn hán... Như vậy, khi nghiên cứu thị trường hàng hóa khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, xác định được nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định đến xu hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt trong quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng, nắm vững dung lượng thị trường giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc để đề ra những quyết định kịp thời, chính xác và nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. 1.3 Nghiên cứu giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế như quan hệ cung cầu hàng hóa, tích lũy tiêu dùng... Giá cả luôn gắn với thị trường và chịu tác động của nhiều nhân tố. Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường rất phức tạp do việc buôn bán diễn ra ở các khu vực khác nhau và trong một thời gian dài. Mặt khác, hàng hóa được vận chuyển qua nhiều nước có các chính sách thuế khác nhau nên giá cả cũng khác nhau. Do vậy, để thích ứng với sự biến động của thị trường các nhà kinh doanh phải thực hiện việc định giá linh hoạt và phù hợp với mục đích cơ bản của doanh nghiệp. Thông thường việc định giá dựa vào giá thành và các chi phí khác ( chi phí vận tải, bảo hiểm...), sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng cũng như giá cả của hàng hóa cạnh tranh khác. Khi định giá cần tuân thủ các bước sau: - Bước 1: phân tích chi phí. - Bước 2: phân tích và dự đoán thị trường. - Bước 3: vùng giá và các mức giá dự kiến. - Bước 4: lựa chọn giá tối đa. - Bước 5: xác định cơ cấu giá. - Bước 6: báo giá cho khách hàng. Nghiên cứu giá cả được coi là vấn đề chiến lược ưu tiên vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức tiêu thụ lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng sẽ đem lại thắng lợi cho nhà xuất khẩu, tránh cho họ những rủi ro và thua lỗ. *Xác định mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu Từ kết quả nghiên cứu thị trường quốc tế và các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường hàng xuất khẩu và dựa vào tiềm lực của doanh nghiệp, doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng xuất khẩu sao cho phù hợp. Lựa chọn mặt hàng còn phụ thuộc chủ yếu vào công tác tạo nguồn hàng, và khả năng tạo ra lợi ích từ hoạt động xuất khẩu mặt hàng đó. Đồng thời lựa chọn bạn hàng sao cho công tác kinh doanh an toàn và có lợi cũng rất quan trọng. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối tác bao gồm: - Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó. - Lĩnh vực kinh doanh của họ. - Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ. - Những người được ủy quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với nghĩa vụ của công ty. Lựa chọn đối tác để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những người nhập khẩu trực tiếp, hạn chế hoạt động trung gian vì nó chỉ thích hợp khi ta thâm nhập thị trường mới, mặt hàng mới mà cần phải nắm bắt các thông tin về thị trường. Có thể nói, việc lựa chọn đối tác kinh doanh có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong thương mại quốc tế. Song việc lựa chọn các đối tác kinh doanh cũng tùy thuộc một phần vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua bán của mình. 2. Giao dịch đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu 2.1 Giao dịch đàm phán Đàm phán là việc bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau nhất trí và thoả hiệp giải quyết về các điều kiện mua bán giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các hình thức: đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp, đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại... Quá trình đàm phán thường được tiến hành theo các bước sau: - Bước 1: Chào hàng: đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng. - Bước 2: Hoàn giá: khi khách hàng nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp nhận hoàn toàn các điều kiện trong đơn chào hàng đó mà đưa ra một lời đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn giá. - Bước 3: Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng mà phía bên kia đưa ra. Sau đó tiến hành ký kết hợp đồng. - Bước 4: Xác nhận: sau khi hai bên thỏa thuận với nhau về điều kiện giao dịch, có thể ghi lại tất cả các thỏa thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện có chữ ký của cả hai bên. Quá trình đàm phán kết thúc. 2.2 Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hóa Nếu quá trình đàm phán thành công thì các bên tiến hành kí kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng xuất khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện xuất khẩu hàng hoá, và quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hoạt động xuất khẩu đó. Đối với các đơn vị xuất khẩu hợp đồng là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Khi ký kết hợp đồng cần chú ý những điểm sau: - Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã thỏa thuận, không để tình trạng mập mờ và tránh suy luận. - Hợp đồng cần đề cập đầy đủ mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để giải quyết những vấn đề bên kia không đề cập đến. Trong hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người xuất khẩu và nhập khẩu. Ký kết hợp đồng phải là người thực sự có thẩm quyền ký kết. Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là ngôn ngữ phổ biến mà hai bên đều thông thạo. Hợp đồng phải có đầy đủ các điều khoản cơ bản sau: - Điều khoản tên hàng - Điều khoản phẩm chất - Điều khoản về số lượng - Điều khoản giá cả - Điều kiện giao hàng - Điều kiện về thanh toán Ngoài ra trong hợp đồng còn có các điều khoản phụ như: - Điều kiện về bao bì - Điều kiện về khiếu nại - Điều kiện bảo hành - Điều kiện trọng tài - Điều kiện vận tải - Điều kiện trường hợp miễn trách 3. Tạo nguồn hàng xuất khẩu Chúng ta đều biết rằng, việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ góp phần đáp ứng kịp thời, chính xác nhu cầu thị trường và thực hiện đúng thời hạn cũng như các điều khoản trong hợp đồng đã và sẽ kí kết. Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hóa của một cá nhân, một doanh nghiệp hay một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được. Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, hay có thể là thu gom hoặc ký hợp đồng với các đơn vị sản xuất khác. Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là công tác rất quan trọng. Thông thường người ta tìm nguồn hàng cho xuất khẩu thông qua việc nắm bắt khả năng cung ứng hàng xuất khẩu của các đơn vị trong và ngoài ngành và trên cơ sở nhu cầu của khách hàng. 4. Lập phương án xuất khẩu Dựa vào những kết quả phân tích được trong quá trình nghiên cứu thị trường, kết hợp với mục tiêu kinh doanh cũng như tiềm lực của chính doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh xuất khẩu cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn cũng như dài hạn nhằm đạt tới những mục tiêu xác định. Việc xây dựng phương án xuất khẩu bao gồm các nội dung sau: - Đánh giá tình hình thị trường, về cạnh tranh, về giá cả và môi trường kinh doanh để có thể nhận biết một cách tổng quát về những khó khăn, thuận lợi trong quá trình kinh doanh. - Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục dựa trên cơ sở phân tích tình hình thực tế. - Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá bán và thị trường xuất khẩu. - Đưa ra các biện pháp để thực hiện các mục tiêu đó bằng các biện pháp xúc tiến thương mại, đầu tư vào nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó có thể tiến tới kí kết các hợp đồng kinh tế. - Cuối cùng là đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ tiêu chủ yếu như: lợi nhuận thu về, tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, điểm hòa vốn... 5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi hợp đồng được ký kết thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải thực hiện theo các quy định ghi trong hợp đồng, các bên phải có trách nhiệm thực hiện hợp đồng theo các điều khoản đã được ký. Trước đây mọi đơn vị khi tham gia xuất khẩu hàng ra nước ngoài đều phải xin giấy phép do cơ quan quản lý cấp, sau khi có Nghị định 57 CP thì các doanh nghiệp đã được tạo thuận lợi hơn rất nhiều, các doanh nghiệp chỉ cần đăng kí mã số xuất khẩu với Bộ thương mại và có thể xuất khẩu trực tiệp các mặt hàng chỉ trừ những mặt hàng thuộc danh mục hàng cấm xuất khẩu hoặc bị hạn chế xuất khẩu. Hợp đồng xuất khẩu được thực hiện qua nhiều bước khác nhau không thể phải theo một mẫu nhất định mà việc tổ chức thực hiện hợp đồng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: hình thức xuất khẩu, phương thức quản lý của Nhà nước, phương thức thanh toán, phương thức vận chuyển giao hàng... Xin giấy phép xuất khẩu, đăng kí mã Hải quan Kiểm nghiệm hàng hóa Giải quyết khiếu nại Ký kết hợp đồng xuất khẩu Giao hàng lên tàu Mua bảo hiểm Kiểm tra L/C Làm thủ tục hải quan Làm thủ tục thanh toán Chuẩn bị hàng hóa Thuê tàu Thanh lý hợp đồng Nhưng nói chung trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu thường có các bước như sau: 6. Giải quyết khiếu nại (nếu có) và đánh giá việc thực hiện HĐXK Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu một trong hai bên xảy ra những vi phạm hoặc những tranh chấp thì phía bên kia có quyền khiếu lại với trọng tài kinh tế để đảm bảo quyền lợi của mình. Sau khi hợp đồng đã được thực hiện các chủ thể tham gia kinh doanh xuất khẩu thường tiến hành một bước là đánh giá việc thực hiện hợp đồng một cách tổng thể như; thương vụ kinh doanh này đã đem lại bao nhiêu lợi nhuận hay thu được những kết quả gì và còn tồn tại hạn chế, khó khăn ra sao và nguyên nhân của những khó khăn trên. Từ đó có thể phân tích những khó khăn, thuận lợi và rút ra những kinh nghiệm làm tiền đề thực hiện tốt những hợp đồng tiếp theo. Iii. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu và CáC chỉ tiêu đánh giá 1. Các nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh 1.1 Môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế Trong điều kiện kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hoá hiện nay thì cạnh tranh là một hiện tượng tất yếu. Cạnh tranh là một khó khăn thách thức nhưng đồng thời cạnh tranh cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy, cạnh tranh vừa mở ra cơ hội cho doanh nghiệp thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình, vừa đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải vươn lên phía trước để có thể vượt qua đối thủ với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn thoả mãn nhu cầu khách hàng hiệu quả hơn thì người đó sẽ thắng, tồn tại và phát triển. Đối với mọi doanh nghiệp kinh doanh trong nước cũng như xuất khẩu hàng sang các nước khác đều phải đối mặt với cạnh tranh. Vì vậy muốn thành công trong kinh doanh thì mỗi doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình những chiến lược cạnh tranh để có thể đương đầu với các đối thủ khác cũng như có khả năng thích nghi với môi trường cạnh tranh mà mình đang kinh doanh. Hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nước ta đang phải đương đầu với sự cạnh tranh của chính các đối thủ trong nước, và khó khăn hơn nữa là sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ nước ngoài, mà cuối cùng thường thì các doanh nghiệp Việt Nam chịu thiệt. Lý do một phần cũng là chúng ta thường yếu thế hơn về: chất lượng hàng không cao, quá trình giao nhận thủ tục phức tạp, giá cả chưa đủ hấp dẫn, thị phần rất nhỏ, khả năng thâm nhập thị trường và thông tin ít, ... 1.2 Môi trường văn hoá - xã hội Đây là một trong những yếu tố tạo nên đặc điểm thị trường xuất khẩu, nó tạo nên đặc điểm nhu cầu khách hàng ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực, mỗi dân tộc khác nhau. Chính vì thế, khi xuất khẩu hàng sang một quốc gia nào đó thì trước tiên phải hiểu được phong tục, tập quán và văn hoá của họ để từ đó mới có thể đưa ra những sách lược kinh doanh, phong cách giao tiếp, tạo lâp mối quan hệ lâu dài. 1.3 Môi trường chính trị - luật pháp và chính sách kinh tế của Nhà nước Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị và luật pháp chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội thương mại và sự hấp dẫn của thị trường. Mỗi quốc gia có một chế độ chính trị khác nhau và đất nước được quản lý điều hành bởi bộ máy Nhà nước riêng, luật pháp riêng. khi hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp không còn sự lựa chọn nào hơn là thích nghi với môi trường chính trị luật pháp ở đó. Sự ổn định của môi trường chính trị và pháp luật được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mức độ hoàn thiện, thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến kế hoạch kinh doanh cung như sự thuận lợi trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu doanh nghiệp thường chịu ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như: a. Công cụ thuế quan Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu, việc đánh thuế xuất khẩu làm tăng tương đối mức giá cả của hàng xuất khẩu so với mức giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho sản xuất kinh doanh trong nước. Nhìn chung, công cụ này chỉ được áp dụng đối với một số ít các mặt hàng xuất khẩu bổ xung cho nguồn thu của ngân sách đất nước. b. Các công cụ phi thuế quan Hạn ngạch được áp dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong nước xuất khẩu hàng hóa. Hạn ngạch được hiểu như quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hoặc một nhóm hàng được phép xuất, nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định thông qua các hình thức cấp giấy phép. Mục đích của Chính phủ khi sử dụng công cụ hạn ngạch xuất khẩu là nhằm quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu qủa và điều chỉnh loại hàng hóa xuất khẩu. Hơn thế nữa có thể bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. Hạn ngạch mang tính cứng nhắc, cố định lượng hàng hóa xuất khẩu trong khi thuế quan lại rất linh hoạt. Ngoài ra, các quốc gia còn áp dụng một số biện pháp phi thuế quan khác như tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm, giấy phép xuất khẩu... c. Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất khẩu Đây là những nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Một số chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì giá tương đối ổn định ở mức thấp. Còn ngược lại sẽ chỉ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước. Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ cho việc mở rộng xuất khẩu các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này được nhiều nước áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài thì rủi ro cao hơn nhiều so với thị trường trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu có thể thể hiện dưới các hình thức miễn, giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất cho vốn vay sản xuất hàng xuất khẩu... Bên cạnh đó, nếu Chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh trong nước hướng ra thị trường nước ngoài thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối trong việc sản xuất cho thị trường nội địa. Mặt khác, lợi nhuận sản xuất hàng thay thế nhập khẩu cũng phải giữ ở mức độ phù hợp với mức lợi nhuận xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và phải thống nhất với tất cả các mặt hàng. d. Chính sách cân đối cán cân thanh toán và thương mại Trong hoạt động kinh tế thương mại nói chung, giữ vững được cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Đương nhiên, biện pháp để cân bằng không phải là phải hạn chế xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn mà là phải có chính sách khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Song song với việc đó là mở rộng xuất khẩu, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu. Có như vậy, một quốc gia mới có thể giảm dần nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất khẩu. 1.4 Môi trường kinh tế - công nghệ Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến đã ra đời, thúc đẩy sự phát triển các ngành nghề nói chung và các đơn vị sản xuất, kinh doanh mặt hàng xuất nhập khẩu nói riêng. Đối với lĩnh vực sản xuất hàng hóa xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng công nghệ mới sẽ giúp các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, gía thành thấp. Nhờ đó, chu kỳ sống của sản phẩm sẽ được kéo dài và thu được lợi nhuận cao. 1.5 Các quan hệ kinh tế quốc tế Quan hệ kinh tế quốc tế có tác dụng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Khi xuất khẩu hàng hóa sang một nước nào đó họ thường phải đối mặt với các rào cản như thuế quan thu nhập, thuế quan bảo hộ, sự phân biệt đối xử với các nhà kinh doanh nước ngoài... và đặc biệt là hạn ngạch nhập khẩu. Các rào cản này chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa các nước. Trong khi đó, với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành và nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương giữa các nước cũng đã được ký kết. Mục đích của các công việc này là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả và thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Tóm lại, có được mối quan hệ kinh tế quốc tế rộng mở, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của một quốc gia. 2. Các nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp 2.1 Nguồn nhân lực của doanh nghiệp Trong kinh doanh đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại nhân tố con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo sự thành công của các doanh nghiệp. Con người là chủ thể trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi lỗ lực đưa khoa học kỹ thuật trang thiết bị máy móc hiện đại vào sản xuất đều do con người sáng tạo ra và thực hiện chúng, chính con người với năng lực thực sự mới có thể khai thác một cách hiệu quả các yếu tố trong sản xuất : vốn, tài sản, kỹ thuật công nghệ.... Để nguồn nhân lực có khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và lao đồng có năng suất, có khả năng phân tích và sáng tạo đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố: tố chất - kiến thức - kinh nghiệm. Như vậy, lực lượng lao động của doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh và phải đáp ứng được các công việc như: - Bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc, nguyên liệu mới...có hiệu quả hơn trước hoặc cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất hiệu quả so với trước. - Trực tiếp điều khiển thiết bị máy móc tạo ra kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả của quá trình này thể hiện ở việc tận dụng nguyên liệu trong sản xuất trực tiếp tăng năng suất, tăng hiệu quả từng nơi làm việc. - Lao động có kỷ luật, chấp hành đúng mọi nội quy về thời gian, về quy trình kỹ thuật, sản xuất sản phẩm, quy trình bảo dưỡng máy móc dẫn đến không những tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả mà còn tăng độ bền, giảm chi phí sửa chữa máy móc thiết bị, góp phần giảm chi phí kinh doanh. Ngoài ra ý thức tinh thần trách nhiệm, khả năng thích ứng của người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. 2.2 Tiềm lực về tài chính Là yếu tố phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng tài sản và nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng đầu tư các nguồn vốn có hiệu quả và khả năng quản lý nó. Các chỉ tiêu phản ánh tiềm lực tài chính của doanh nghiệp là: + Nếu xét về hình thức sở hữu Vốn chủ sở hữu: là nhân tố chủ chốt quyết định đến quy mô và tiềm lực của doanh nghiệp, đó chính là nội lực của doanh nghiệp. Vốn huy động: phản ánh khả năng thu hút các nguồn đầu tư. Tỷ lệ tái đầu tư Khả năng sinh lời Các nguồn nợ ngằn hạn và dài hạn + Nếu xét về phương thức sử dụng nguồn vốn Tài sản cố định Tài sản lưu động 2.3 Nguồn tài sản hữu hình và trình độ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với sự phát triển của tư liệu lao động. Sự phát triển tư liệu lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng hiệu quả sản xuất. Nếu xét trong mối quan hệ với lao động thì cơ sở vật chất kỹ thuật vừa là công cụ vừa là môi trường tốt để nâng cao năng lực của đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động có năng lực, có trình độ kết hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại thì hiệu quả kinh doanh sẽ rất cao. Và cơ cấu nguyên liệu vật liệu hợp lý cả về số lượng, chất lượng là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự liên tục của qúa trình sản xuất kinh doanh, giúp cho quá trình sử dụng nguyên liệu có hiệu quả và do đó quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Rõ ràng, mức độ chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp bị tác động rất mạnh mẽ bởi trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị và việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên liệu . Đặc biệt là những doanh nghiệp mà tính chất sản xuất hàng loạt theo dây truyền tự động hoá cao. Đối với doanh nghiệp này, nhân tố khoa học kỹ thuật có tính chất quyết định tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm quyết định tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã thực sự đưa khoa học công nghệ có vai trò quyết định đối với nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta, phù hợp với xu thế đó, hầu hết các doanh nghiệp đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư, ngày càng cải tiến và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, cải thiện và nâng cao trình độ trang thiết bị cho mình. Điều này được minh chứng trong thực tế ở nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay, với cơ sở trang thiết bị còn hết sức yếu kém, thiết bị máy móc lạc hậu không đồng bộ đã thực sự làm khó khăn cho các doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Sản phẩm làm ra chất lượng kém, sức cạnh tranh kém. Đó là những thách thức lớn đối với doanh nghiệp nước ta hiện nay. 2.4 Trình độ quản trị doanh nghiệp Khả năng quản trị doanh nghiệp tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng như quá trình quản lý điều hành, tổ chức mọi hoạt đồng có hệ thống và phát huy được tính đoàn kết thống nhất trong doanh nghiệp. Nó tác động tới hoạt động kinh doanh thông qua một loạt các nhân tố, nhân tố nội tại doanh nghiệp như cơ cấu lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật...Công tác quản trị doanh nghiệp được tiến hành tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp một hướng đi đúng, định hướng các mục tiêu kinh doanh ngắn và dài hạn hợp lý. Từ đó làm cơ sở đầu tiên đem lại hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Với một cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp hợp lý không những giúp điều hành hoạt động kinh doanh tốt mà còn giảm tối thiểu các chi phí quản lý và xây dựng một cơ cấu lao động tối ưu. Góp phần xây dựng và lựa chọn một cách hợp lý các phương án huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào và phục vụ cho mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể tạo dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp được đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có kiến thức khoa học và nghệ thuật kinh doanh. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam 3.1 Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu == Tổng doanh thu (bằng ngoại tệ) Tổng chi phí (bằng nội tệ) Nếu chỉ tiêu này thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì xuất khẩu có hiệu quả. 3.2. Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp , nó phản ánh kết quả cuối cùng các tác động của tất cả các yếu tố vào hoạt động xuất khẩu. Lợi nhuận là phần dôi ra của doanh thu (DT) so với chi phí (CP) L = DT – CP 3.3. Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn T tính theo công thức T = S B + A + I Trong đó : S : tổng số tiền (tự có + đi vay ) bỏ ra để kinh doanh B : lãi I : khoản trả tiền lợi tức và tiền vay. 3.4. Chỉ tiêu tỉ suất doanh lợi Rb được tính theo công thức : Rb = B + A X 100% S 3.5. Chỉ tiêu điểm hoà vốn (Break even point) Nếu gọi Xi là số lượng hàng hoá xuất khẩu để thu hồi vốn d : là những chi phí cố định P : là giá bán một đơn vị hàng V : Là chi phí khả biến để sản xuất thu mua một đơn vị hàng hoá. Thì : Tổng số thu về khi bán Xi hàng là P x Xi, tổng số chi khi bán Xi hàng là : d + V x Xi. Tại điểm hoà vốn ta có : P x Xi = d + V x Xi Từ đó : Xi = d P - V Gọi S là tổng doanh thu bán hàng trong kỳ, tức S = P*x và V là tổng chi phí khả biến, tức : V = v *x, ta có công thức sau đây để tính toán doanh thu ở điểm hoà vốn S0. Gọi t là thời gian trong kỳ hoạt động, to là thời gian đạt hoà vốn ta có chương ii thực trạng hoạt động xuất khẩu dứa của tổng công ty rau quả việt nam I. khái quát về Tổng công ty Rau quả việt nam-vegetexco 1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Rau quả Việt Nam Tên doanh nghiệp: Tổng công ty Rau quả Việt Nam Tên giao dịch quốc tế: Viet Nam Vegetable and fruit Corporation Tên giao dịch quốc tế: VEGETEXCO Địa chỉ trụ sở chính: Số 2 - Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa - Hà Nội Tổng công ty Rau quả Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 63 NNTCCB/QĐ ngày 11-2-1988 của Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) trên cơ sở hợp nhất Tổng công ty XNK Rau quả Trung ương và Liên hiệp các xí nghiệp nông-công nghiệp Phú Quỳ, đến nay đã vừa tròn 15 năm. Trong 15 năm qua, hoạt động của Tổng công ty được chia làm 3 thời kỳ: 1, Từ 1988 đến 1990 là thời kỳ hoạt động theo cơ chế bao cấp. Sản xuất kinh doanh rau quả thời gian này đang nằm trong chương trình hợp tác rau quả Việt Nam-Liên Xô(1986-1990) mà Tổng công ty được chính phủ giao cho làm đầu mối. Vật tư chủ yếu phục vụ cho sản xuất nông-công nghiệp đều do Liên Xô cấp. Sản phẩm rau quả tươi và rau quả chế biến được xuất khẩu sang Liên Xô là chính (chiếm 97% kim ngạch XK). 2, Từ năm 1991 đến năm 1995 là thời kỳ cả nước bước vào hoạt động theo cơ chế thị trường. Hàng loạt các chính sách mới của nhà nước ra đời và tiếp tục được hoàn thiện. Nền kinh tế của đất nước bắt đầu tăng trưởng từ nông nghiệp, công nghiệp, kinh doanh XNK và đầu tư phát triển, tạo cơ hội và môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát trĩn của Tổng công ty. Nhưng trong thời kỳ này Tổng công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn: - Trước đây, Tổng công ty được Nhà nước giao làm đầu mối tổ chức nghiên cứu, sản xuất, chế biến và xuất khẩu rau quả, nay do cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng đã tích cực đầu tư và kinh doanh XNK rau qủa. Hơn nữa, nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng đầu tư 100% vốn vào lĩnh vực sản xuất và chế biến rau quả tạo thế cạnh tranh quyết liệt với Tổng công ty. - Sự hẫng hụt đột ngột về thị trường Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan vỡ đã ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu của Tổng công ty. Cùng với việc chuyển hoạt động từ bao cấp sang cơ chế thị trường đã gây cho chúng ta nhiều bỡ ngỡ lúng túng. Trong bối cảnh đó, toàn Tổng công ty đã ngày đêm suy nghĩ, dồn hết tâm sức(thậm chí là phải trả giá đắt) tìm những giải pháp, những bước đi thích hợp đễ trụ lại, ổn định và từng bước phát triển. 3, Từ năm 1996 đến năm 2002 là thời kỳ hoạt động theo mô hình “Tổng công ty 90” Bước vào thời kỳ này Tổng công ty có một số thuận lợi cơ bản sau: - Từ những bài học khởi đầu của 5 năm chập chững bước vào kinh tế thị trường, từ những thành công và cả những thất bại trong sản xuất kinh doanh, Tổng công ty đã tìm được cho mình một hướng đi vững chắc hơn. Hoạt động trong mô hình mới, lại được Bộ NN&PTNT quan tâm chỉ đạo xây dựng và phê duyệt hướng phát triển Tổng công ty giai đoạn 1998-2000 và 2010. Chính phủ phê duyệt đề án phát triển rau quả và hoa cây cảnh thời kỳ 1999-2010, đã tạo cho Tổng công ty cơ hội mới về chất Tuy vậy, thời kỳ này Tổng công ty cũng gặp không ít khó khăn: - Khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực, sự giảm giá liên tục hàng nông sản trên thị trường thế giới đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh, đặc biệt là xuất khẩu của Tổng công ty. - Hết năm 1999, Chính phủ chấm dứt giao kế hoạch trả nợ Nga cho Tổng công ty, điều đó cũng có nghĩa là sự bao cấp cuối cùng về thị trường không còn nữa. - Sự không cân đối trong đầu tư cùng với thời tiết thất thường, thiên tai liên tục, lại bị cạnh tranh ngày càng quyết liệt của các đơn vị khác, làm cho Tổng công ty không đủ nguyên liệu sản xuất, đẩy giá nguyên liệu lên cao, tăng giá thành chế biến, giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế Nắm bắt cơ hội, đẩy mạnh đầu tư, mở rộng thị trường, từng bước tháo gỡ những khó khăn, Tổng công ty cơ bản hoàn thành giai đoạn I của dự án đầu tư (1998-2000) đưa Tổng công ty phát triển lên một tầm cao mới. 2. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Rau quả Việt Nam Tổng công ty Rau quả Việt Nam là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tổng công ty có 1 doanh nghiệp hoạt động công ích và 17 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh (không kể 3 doanh nghiệp liên doanh). * Văn phòng tổng công ty gồm: Phòng hành chính, Phòng tổ chức, Phòng kế hoạch, Phòng kế toán tài vụ, Phòng kiểm tra chất lượng, các phòng kinh doanh. * Doanh nghiệp hoạt động công ích: Công ty giống rau quả * 17 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hạch toán độc lập gồm: - Công ty xuất nhập khẩu rau quả I - Công ty xuất nhập khẩu rau qủa II - Công ty xuất nhập khẩu rau quả III - Công ty vật tư và xuất nhập khẩu - Công ty giao nhận và xuất khẩu Hải Phòng - Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu rau quả Sài Gòn - Nhà máy thực phẩm xuất khẩu Nam Hà - Công ty chế biến thực phẩm khẩu Quãng Ngãi - Công ty thực phẩm xuất khẩu Tân Bình - Công ty thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao - Công ty chế biến thực phẩm xuất khẩu Kiên Giang - Nông trường Đồng Giao II - Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang - Công ty rau quả Sa Pa - Công ty rau quả Hà Tĩnh - Công ty giao nhận kho vận rau quả - Công ty thực phẩm xuất khẩu Hưng Yên Ngoài ra Tổng công ty còn có 3 công ty liên doanh: + Công ty DONA + Công ty TOVECAN + Công ty LUVECO Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Tổng giám đốc Phó Tổng giám đốc I Phó Tổng giám đốc II Phó Tổng giám đốc III Khối quản lý - Văn phòng - Phòng TCKT - Trung tâm KCS - Phòng Đầu tư và Phát triển - Phòng Quản lý sản xuất kinh doanh - Phòng xúc tiến thương mại Khối kinh doanh - Phòng XNK I - Phòng XNK II - Phòng XNK III - Phòng KDTH IV - Phòng KD V - Phòng KDTH VI - Phòng KDTH VII 17 đơn vị kinh doanh hạch toán độc lập Các đơn vị thành viên và các công ty liên doanh biểu 1: Bộ máy tổ chức của Tổng công ty Rau quả Việt Nam 3. Chức năng nhiệm vụ của Tổng công ty Rau quả Việt Nam. *) Tổ chức sản xuất kinh doanh của Tổng công ty + Công ty giống rau quả là một doanh nghiệp hoạt động công ích, ngoài ra còn có các văn phòng mang tính chất chủ yếu về nghiệp vụ và quản lý như: văn phòng, phòng tổ chức cán bộ, phòng kế toán tài chính, phòng quản lý sản xuất kinh doanh phòng tư vấn đầu tư, trung tâm KCS, chịu trách nhiệp phục vụ và lãnh đạo Tổng công ty quản lý các hoạt động chung của tất cả các công ty thành viên của Tông công ty. + 7 phòng xuất nhập khẩu, kinh doanh tổng hợp và một xí nghiệp gia công chế biến rau quả mang tính chất sản xuất kinh doanh như các công ty thành viên khác nhưng trực thuộc và hạch toán phụ thuộc vào công ty. + 17 công ty thành viên hạch toán kinh doanh độc lập (trong đó có công ty trước đây là nông trường lớn như nông trường Đồng Giao, nông trường Lục Ngạn... quản lý cả một số diện tích đất nông nghiệp hàng trăm ha cây hàng năm - nhất là dứa và cây ăn quả ... tự đáp ứng nguyên liệu chế biến của mình). Và 3 công ty khác đã góp vốn với nước ngoài thành lập các liên doanh * Chức năng của Tổng công ty Rau quả Việt nam: Tổng công ty Rau quả Việt Nam là một doanh nghiệp liên ngành do đó có chức năng theo từng ngành đó là: + Chức năng sản xuất nông nghiệp: đây là chức năng đầu tiên đảm nhiệm tạo nguyên liệu chính cho quá trình hoạt động của Tổng công ty Rau quả Việt Nam. Chức năng này hoạt động có hiệu quả thì mới tạo điều kiện cho các chức năng tiếp theo có nguyên liệu để chế biến và cung cấp cho khách hàng. Sản phẩm đưa ra thị thường có chất lượng cao hay thấp thì nguyên liệu chính này cần được đảm bảo. Chức năng sản xuất sản phẩm nông nghiệp là chức năng cơ bản nhất của Tổng công ty Rau quả Việt Nam, do đó Tổng công ty luôn thay đổi giống mới, có những áp dụng khoa học mới vào ngành nông nghiệp để không ngừng nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, để có khả năng cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. + Chức năng chế biến: Chức năng này có nhiệm vụ chế biến những sản phẩm nông nghiệp tươi thành những sản phẩm đồ hộp, sản phẩm khô nguyên chất để xuất khẩu ra nước ngoài. Chức năng này được Tổng công ty rất quan tâm, thường xuyên đổi mới trang thiết bị nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng để đảm bảo cho chức năng xuất khẩu ngày càng mở rộng thị trường cũng như tăng khối lượng xuất khẩu. + Chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu: Đây là chức năng quyết định của Tổng công ty Rau quả Việt Nam. Chức năng này phản ánh thực chất kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng công ty. * Nhiệm vụ của Tổng công ty Rau quả Việt Nam . Căn cứ Quyết định số 395 NN-TCCB/QĐ ngày 29/12/1995 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng công ty Rau quả Việt Nam được giao nhiệm vụ sản xuất kinh doanh rất rộng, trong đó có các nghành nghề chủ yếu sau đây : - Sản xuất giống rau quả, rau quả và các loại nông lâm sản khác, chăn nuôi gia súc . - Chế biến rau quả, đồ uống (nước quả các loại, nước uống có hoặc không có cồn) - Dịch vụ trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng . - Sản xuất bao bì (gỗ, giấy, thuỷ tinh, hộp sắt ...). - Bán buôn, bán lẻ, đại lý giống, sản phẩm của ngành rau quả làm ra, nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị chuyên dùng. - Kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả tươi, rau quả chế biến, hoa và cây cảnh, gia vị giống rau quả. Thực hiện nhiệm vụ này, hàng năm Tổng công ty tự sản xuất và thu mua nguyên liệu ở các địa phương để chế biến thành các loại sản phẩm (chủ yếu cho xuất khẩu) khác nhau, bao gồm các nhóm hàng chính sau Rau quả tươi và rau quả đông lạnh - Rau quả đóng hộp - Sản phẩm nước quả cô đặc - Rau quả muối - Rau quả, gia vị sấy khô Sản phẩm cụ thể của Tổng công ty sản xuất và chế biến rất đa dạng như: dứa, vải quả, cam quả, rau đậu đỗ các loại, mía đường, chè búp tươi, hạt điều, lương thực ... Ngoài ra Tổng công ty còn kinh doanh giống rau, quả (như giống hoa phong lan các loại, giống ớt, cà chua, dưa chuột bao tử ...). Tổng công ty cũng là doanh nghiệp đầu tiên sản xuất và kinh doanh rau quả sạch ở nước ta. Tận dụng khả năng thiết bị đồng thời đáp ứng nhu cầu thị trường, một số công ty thành viên còn tiến hành sản xuất một số sản phảm phụ khác như: bao bì nhãn mác cho các doanh nghiệp khác. II. đánh giá chung về Tình hình hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Rau quả Việt Nam trong những năm qua Mỗi một doanh nghiệp, một công ty khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên thương trường đều nhằm đạt được mục tiêu cơ bản đó là doanh thu và lợi nhuận. Doanh thu càng cao, lợi nhuận càng nhiều thì doanh nghiệp, công ty đó càng được đánh giá là thành công trong sản xuất kinh doanh. Tổng công ty Rau quả Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu trong chuyên ngành rau quả trên thị trường cả nước nên mục tiêu cuối cùng cũng không nằm ngoài mục tiêu chung đó. Tổng công ty Rau quả Việt Nam kể từ khi thành lập đến nay, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do những tác động của cơ chế thị trường, thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Tổng công ty trước đây là Liên Xô cũ không còn nữa, việc tìm kiếm thâm nhập các thị trường mới càng không phải là dễ trong điều kiện Ngành rau quả Việt Nam còn hết sức non yếu, chất lượng sản phẩm chưa cao do khâu chọn giống rau quả chưa được thay đổi, năng suất thấp, các nhà máy chế biến rau quả của chúng ta được đầu tư từ những năm 1960-1970. Thêm vào đó là cuộc cạnh tranh không cân sức với khá nhiều các công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp thiết lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và hàng loạt các đơn vị tư nhân tỏ ra hoạt động linh hoạt, có hiệu quả trên thị trường rau quả Việt Nam. Song bằng những nỗ lực của mình, Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong 15 năm hoạt động: - Sản xuất nông-công nghiệp từng bước được đổi mới từ khâu chọn giống, chăm sóc nuôi trồng tới khâu bảo quản, chế biến sau thu hoạch. Năm 2002, kim ngạch nhập khẩu đạt 44,2 triệu USD và kim ngạch xuất khẩu đạt 25,8 triệu USD (Theo báo cáo tổng kết 15 năm hoạt động của Tổng công ty Rau quả Việt Nam). Nhìn vào cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu cho thấy Tổng công ty đã tích cực đầu tư cho việc nhập khẩu giống, phân bón, máy móc thiết bị, dây chuyền chế biến tạo điều kiện phát triển sản xuất, tăng giá trị tổng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm. -Hoạt động xuất khẩu rau quả đã có nhiều tiến bộ: cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng, thị trường xuất khẩu được mở rộng. Từ năm 1988-1989, Tổng công ty mới chỉ thiết lập quan hệ buôn bán với 18 nước thì tới năm 1990 là 21 nước và cho tới nay là 46 nước trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên: thời kỳ 1988-1990 kim ngạch xuất khẩu đạt 51,6 triệu RCN-USD, tới năm 1998 đạt 21.128.600 USD và năm 2002 đạt 25,8 triệu USD. - Công tác nghiên cứu khoa học, công tác hợp tác đầu tư xây dựng cơ bản và công tác tổ chức, đào tạo cán bộ những năm gần đây đã được Tổng công ty Rau quả Việt Nam quan tâm thích đáng, coi đó là yếu tố nền tảng cho việc phát triển, đẩy mạnh sản xuất-kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả trong giai đoạn hiện nay. - Việc phát triển nền sản xuất rau quả quy mô lớn góp phần làm chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, tạo việc là cho một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp và công nghiệp chế biến, tạo nguồn thu ngoại tệ, góp phần quan trọng trong việc thực hiện dự án phủ xanh đất trống, đồi trọc, cải thiện môi trường sinh thái. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong hoạt động sản xuất, xuất khẩu tại Tổng công ty Rau quả Việt Nam thời gian qua vẫn còn tồn tại một số vấn đề đáng quan tâm: - Quy mô nông hộ, đất đai sản xuất nông nghiệp ở một số vùng còn quá nhỏ, sản xuất phân tán, manh mún. - Thị trường tiêu thụ không ổn định khiến cho các đơn vị trực thuộc Tổng công ty lúng túng trong việc định ra một kế hoạch sản xuất khả thi dẫn đến tình trạng khi tìm được thị trường tiêu thụ thì lại thiếu nguyên liệu cho sản xuất, phải mua với giá trôi nổi trên thị trường, làm cho giá thành sản phẩm bị đẩy lên, sản xuất kém hiệu quả hoặc tình trạng các nhà máy chế biến không sử dụng hết công suất, công nhân thiếu việc làm. Ví dụ năm 1997, khách hàng Nhật yêu cầu mua 20 container vải hộp, xấp xỉ 360 tấn sản phẩm nhưng tổng công ty chỉ đáp ứng được 12 container, xấp xỉ 210 tấn sản phẩm. Sang đến năm 1998, tổng công ty vẫn hy vọng vào thị trường này để sản xuất khối lượng lớn sản phẩm nhưng mãi tới gần vụ thu hoạch vải khách hàng Nhật trả lời chính thức là không mua nữa. Như vậy, công tác sản xuất còn thụ động, hiệu quả kinh tế thấp khiên cho đời sống bấp bênh, không ổn định. Biểu số 2: Kết quả kinh doanh của Tổng công ty Rau quả Việt Nam qua các năm Đơn vị: Triệu đồng. Các chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 So sánh 2001/2000 2002/2001 Chênh lệch Tỷ lệ (%) Chênh Lệch Tỷ lệ (%) 1.Tổng doanh thu 580.000 719.000 1.023.538 1.149.000 304.53 42,36 125.462 29,5 2. Tổng chi phí 533.700 666.300 965.172 1.020.500 298.872 30,97 55.328 5,7 3. Tổng lợi nhuận 9.200 10.700 12.733 25.500 2.033 19,0 12.767 10,8 4. Các khoản nộp ngân sách 37.100 42.000 45.095 103.000 3.095 7,37 57.905 22,7 5. Thu nhập bình quân 1 người / tháng 550.000 590.000 624.000 703.000 3.400 5,76 79.000 12,7 6. Tổng kim ngạch XNK (USD) 39.128.554 43.041.410 60.478.714 70.000.000 7.437.304 40,5 9.522 15,7 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác sản xuất kinh doanh qua các năm 1999, 2000, 2001, 2002 III. Tình hình hoạt động xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả việt nam 1. Vị trí của sản phẩm dứa trong Tổng công ty Rau quả Việt nam Dứa là một mặt hàng chủ lực có vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này hàng năm chiếm tới 60% - 70% trong các sản phẩm chế biến và đóng hộp và gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty. Nhìn chung tổng diện tích và sản lượng rất cao, với năng suất bình quân cả nước thì vượt mức được 1482kg/ha trong thời kỳ 1986 - 1992 ( là thời kỳ thực hiện hiệp định rau quả Việt - Xô ký ngày 20/11/1985 xác định cơ cấu dứa chế biến dưới dạng đóng hộp sắt và dứa đông lạnh cho từng năm cụ thể, nhu cầu cho nguyên liệu dứa được tính sẵn mỗi năm được tăng, sản xuất ổn định, đầu ra sẵn sàng).. Tổng diện tích và sản lượng dứa giảm nhiều trong thời kỳ 1993 – 1998 do từ năm 1989 do có biến động về kinh tế, chính trị ở Liên xô và Đông âu thị trường dứa bị co hẹp. Hơn nữa, do Tổng công ty chưa quan tâm đầu tư đổi mới giống dứa Cayen cho năng suất và sản lượng cao mà vẫn giữ mãi giống dứa hiện nay cho năng suất và sản lượng thấp (năng suất bình quân là 9,782 tấn) nên một mặt không cạnh tranh được với xuất khẩu của Thái lan, mặt khác dẫn đến giá thành nguyên liệu cao cho đầu vào của các nhà máy chế biến nên không thể cạnh tranh nổi với giá thị trường thế giới nên cây dứa rất khó phát triển. Năm 1993-1997, dứa của các nông trường miền Bắc sản xuất ra cho xuất khẩu và chế biến đồ hộp xuất khẩu không đáng kể mà chủ yếu là tiêu thụ trong nước. Nhưng một vài năm gần đây, do cải tiến về giống mới, về kỹ thuật trồng cho năng suất cao hơn đồng thời Tổng công ty đã chú trọng đầu tư vào máy móc thiết bị và dây chuyền chế biến các loại dứa đã là một mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở nước ta. Đến năm 2001 thì sản lượng dứa mức sản lượng 19775 tấn dứa quả và đến năm 2002 sản lượng dự tính là 41770 tấn và chở thành loại rau quả có diện tích trồng và sản lượng lớn nhất Tổng công ty. Tuy nhiên khối lượng dứa nguyên liệu đưa vào chế biến mới chỉ chiếm khoảng 50% so với lượng sản xuất ra (Đồng Giao, Hà Tĩnh) Biểu 3: Sản lượng, diện tích thu hoạch qua các năm của Tổng công ty 1992 1993 1994 1995 1997 2000 2001 2002 Sản lượng (Tấn) 14.640 12.850 11.660 11.162 4.705 10.150 19.775 41.770 Diện tích thu hoạch (ha) 1.402 2.167 1.109 846 481 1.691 2.976 4.186 Năng suất (Kg/ha) 10.442 11.101 10.514 13.194 9.782 12.124 6.644 9.978 (Nguồn: Tổng công ty Rau quả Việt Nam) Các đơn vị có sản lượng dứa lớn là Công ty Đồng Giao sản xuất 2.397 tấn sản phẩm chiếm 55,4% tổng sản lượng của Tổng công ty, Công ty Kiên Giang chiếm 20,2% và Công ty Tân Bình chiếm 23,1%. Năm 2001-2002 Tổng công ty đã đầu tư dây chuyền đồ hộp 10.000 tấn, hai dây chuyền đông lạnh IQF, dây chuyền nước dứa cô đặc 5000 tấn/năm tại nông trường Đồng Giao, dây chuyền nước dứa cô đặc tại Kiên Giang. Thực hiện các dự án phát triển các trung tâm nhân giống dứa tại Đồng Giao, Kiên Giang, Hà Tĩnh. 2. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả Việt nam 2.1 Nguồn hàng xuất khẩu Nguồn hàng sản phẩm dứa cho xuất khẩu của Tổng công ty là do các đơn vị thành viên cung cấp, trong đó các khu vực cung cấp chủ yếu là Nông trường Đồng giao,và Hà Tĩnh, Kiên Giang. Trong những năm qua Tổng công ty đã tích cực đầu tư vào công tác giống: Đưa giống có dứa Cayen có năng suất cao, chất lượng phù hợp với yêu cầu thị trường thay thế dần giống dứa Queen. Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, với quyết tâm cao của các đơn vị, diện tích và sản lượng dứa đã không ngừng tăng lên qua các năm đáp ứng nhu cầu chế biến xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. biểu 4: diện tích và năng suất dứa của Tổng công ty qua các năm 2000 2001 2002 - Diện tích (ha) + Dứa Cayen + Dứa Queen - Sản lượng (tấn) 2.053 1.000 1.053 10.153 2.976 1.328 1.648 19.775 3.479 1.537 1.942 27.583 Nguồn: Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Rau quả các năm 2000, 2001, 2002 2.2 Mặt hàng xuất khẩu Dứa là một loại quả được ưa chuộng tại nhiều nước trên thế giới. Rau quả nói chung, dứa nói riêng cung cấp các loại vitamin, các nguyên tố vi lượng cần thiết cho con người tồn tại và phát triển bình thường. Ngày nay, với mức sống của người dân ngày càng tăng. Do đó, đòi hỏi sản phẩm cũng phải đa dạng và phong phú bên cạnh những yêu cầu về chất lượng cũng như các điều kiện vệ sinh khác. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Tổng công ty đã không ngừng cải tiến và chế biến ra nhiều sản phẩm từ rau quả trong đó có dứa. Một số mặt hàng xuất khẩu từ sản phẩm dứa đã được Tổng công ty chế biến đó là: + Dứa hộp: Dứa miếng, Dứa rẻ quạt, Dứa khúc, nước dứa cô đặc, Dứa nghiền, Dứa trụ, Dứa khoanh. + Sản phẩm dứa đông lạnh biểu 5: kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm từ dứa qua một số thị trường Đơn vị: USD 2000 2001 2002 * Dứa hộp các loại 2.509.210 2.118.690 5.196.170 - Dứa miếng + Đức + Anh + Nga + Bỉ 839.614 22.114 227.150 517.944 19.035 876.666 22.980 253.200 579.754 20.565 1.961.174 23.428 266.600 1.390.006 40.708 - Dứa rẻ quạt + Mỹ + Đức + Hàn Quốc 119.259 100.440 11.368 7.451 412.900 412.900 0.000 0.000 364.830 341.280 23.550 0.000 - Dứa khúc (Mỹ) 116.990 110.228 151.298 - Nước dứa cô đặc (Nga) 3.856 2.568 1.494.350 - Dứa nghiền + Mỹ + Đức 93.173 85.173 8.000 93.554 89.580 3.974 90.521 90.521 0.000 - Dứa khoanh + Mỹ + Đức + Pháp +Thuỵ Sỹ + Nhật + Anh + Tây Ban Nha 1.339.353 101.807 598.343 178.234 116.303 116.000 44.942 34.800 892.437 190.385 131.015 194.897 90.814 160.000 81.789 35.730 1.133.704 155.261 243.587 201.548 90.597 150.000 17.200 39.357 * Sản phẩm dứa đông lạnh 240.249 335.360 470.800 - Dứa đông lạnh + Nga + Bỉ 39.129 10.512 28.617 60.550 0.00 60.550 72.568 8.524 64.044 - Dứa khoanh ĐL (Đức) 15.796 16.630 58.745 - Dứa miếng nhỏ ĐL (Đức) 185.324 258.180 293.153 Nguồn: Báo cáo hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty các năm 2000, 2001, 2002 2.3 Về kim ngạch xuất khẩu Dứa là một mặt hàng chủ lực có vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt nam, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này hàng năm chiếm tới 60% - 70% trong các sản phẩm chế biến và đóng hộp và gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty. Giá trị xuất khẩu các sản phẩm từ dứa ngày càng thể hiện đúng tiềm năng phát triển vốn có của nó, và đóng góp một phần rất lớn vào sự phát triển của Tổng công ty. Biểu 6: Kết quả xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty Đơn vị tính: RCN - USD Thời kỳ 1988-1998 1999 2000 2001 2002 Tổng kim ngạch XK 307.698.259 22.141.553 22.431.704 25.176.378 25.880.251 Kim ngạch xuất khẩu dứa 56.325.654 4.256.354 3.546.785 2.501.204 5.666.970 Nguồn: Tổng công ty Rau quả Việt Nam 2.4 Về thị trường Thị trường tiêu thụ sản phẩm dứa của Tổng công ty ngày càng được mở rộng do nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng. trong thời gian qua sản phẩm dứa của Tổng công ty được tiêu thụ chủ yếu ở các thị trường như EU, Mỹ, Trung Quốc, Nga Nhật, Hàn Quốc... Đặc biệt đối với thị trường Mỹ sản phẩm dứa của Tổng công ty đã tạo được uy tín và thương hiệu khá tốt, luôn tăng và Tổng công ty đã lập kế hoạch coi sản phẩm dứa là sản phẩm quan trọng để tạo tiền đề cho các sản phẩm chế biến khác xâm nhập vào thị trường Mỹ Biểu 7: Tình hình xuất khẩu dứa chế biến sang Mỹ Năm 1999 2000 2001 2002 Số lượng(Tấn) 5.308 6.230 6.958 7.215 Kim ngạch XK(USD) 2.424.564 2.345.241 3.542.326 3.958.256 Tỷ trọng (%) 56,9 51,6 58,5 54,2 Nguồn: Báo cáo hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty qua các năm Qua bảng số liệu trên ta thấy mặt hàng dứa chế biến (bao gồm các loại dứa hộp và nước dứa) của Tổng công ty có vai trò quan trọng, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu dứa của TCT và nó làm tăng nhanh kim ngạch khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực. Do vậy trong thời gian qua Tổng công ty không ngừng đầu tư, đổi mới công nghệ chế biến dứa tại các đơn vị trực thuộc nhằm nâng cao chất lượng, tăng số lượng hơn nữa và giảm giá thành sản phẩm đẻ có thể đưa mặt hàng này trở thành một mặt hang chủ lực thật sự quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Bên cạnh đó một thị trường không kém phần quan trọng là Châu Âu trong đó Nga là thị trường truyền thống của Tổng công ty. Trong thời kỳ đầu 1988 – 1993 khối lượng xuất khẩu dứa sang Liên Xô chiếm hơn 70% tổng khối lượnh xuất khẩu của nước ta, sau đó do những biến động chính trị kim ngạch xuất khẩu dưa sang Nga đã giẩm liên tục và đến năm 1998 thì đã có dấu hiệu phục hồi, đen năm 2001 kim ngạch xuất khẩu dứa sang Nga chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu dứa của Tổng công ty. biểu 8: kim ngạch xuất khẩu dứa sang nga Đơn vị: USD 1999 2000 2001 2002 So sánh(%) 01/00 02/01 - Kim ngạch XK rau quả 1.236.451 1.539.791 2.707.850 4.087.352 175,9 150,9 - Kim ngạch XH dứa +Dứa miếng +Dứa khoanh 415.213 385.567 29.646 551.095 517.944 33.151 856.543 822.110 34.433 1.695.197 1.390.436 30.476 155,4 179,9 - Tỷ trọng(%) 33,6 35,8 31,6 41,5 Nguồn: Báo cáo hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty các năm 1999, 2000, 2001, 2002 Những năm gần đây EU đã dần vươn lên là thị trường tiêu thụ dứa lớn thứ hai (sau Mỹ) về các sản phẩm dứa của Tổng công ty trong đó dứa hộp là chủ yếu, các nước nhập khẩu chủ yếu thuộc liên minh Châu Âu là: Đức, Pháp, Hà Lan, Bỉ Trong thời kỳ gần đây các sản phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã thâm nhập và thị trường đầy tiềm năng Trung Quốc với một tốc độ tăng rất nhanh khoảng 150 – 250%/năm, các sản phẩm xuất là dứa hộp và đặc biệt là dưa đông lạnh. Thới gian tới Tổng công ty có các chiến lược xâm nhập một thị trường hoàn toàn mới và nhiều triển vọng là Australia. biểu 9: Kết quả xuất khẩu dứa sang một số nước EU và trung quốc Đơn vị: USD 1999 2000 2001 2002 Đức 378.612 420.836 489..222 603.437 Pháp 143.562 178.234 198.926 242.255 Hà Lan 40.326 85.397 97.437 162.648 Bỉ 33.274 47.652 70.726 101.757 Trung Quốc 71.576 197.266 327.649 693.958 Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của Tổng công ty các năm 1999, 2000, 2001, 2002 2.5 Đối thủ cạnh tranh và giá cạnh tranh trong xuất khẩu sản phẩm dứa Đối thủ cạnh tranh của Tổng công ty trong xuất khẩu sản phẩm dứa chủ yếu là các nước sản xuất và xuất khẩu dứa lớn trên thế giới và trong khu vực như: Thái Lan, Phillipines, Indonesia, Trung Quốc... còn đối thủ cạnh tranh trong nước hầu như không có. Thái Lan là nước đứng đầu về sản lượng dứa (2.200.000MT) tiếp đến là Phillipines (1.400.000MT), Indonesia cũng có sản lượng khá cao (450.000MT). Như vậy so với sản lượng 250.000 MT của Việt Nam, tuy không phải là nhỏ nhưng không bằng các nước trong khu vực. Tiềm năng của ta đã thua kém như vậy, trong quan hệ với bạn hàng, đặc biệt là Mỹ (thị trường xuất khẩu dứa lớn nhất của Việt Nam) lại khó khăn hơn nhiều lần. ở thị trường Mỹ, sản phẩm dứa của họ đã có từ lâu còn chúng ta chỉ mới được vài năm gần đây. Do vậy thị phần của Việt Nam ở thị trường Mỹ là rất nhỏ bé, hầu như không đáng kể. Bảng so sánh kim ngạch xuất khẩu dứa sang Mỹ của 4 nước sau đây sẽ làm rõ sự khác biệt đó. biểu 10: sản lượng xuất khẩu dứa của Thái Lan, Phillipnes, Indonesia, Việt Nam Tên nước Số lượng xuất khẩu (MT) Tỷ lệ (%) Tổng Kim ngạch 233.000 100 Thái Lan 150.000 64,3 Phillipines 50.000 21,4 Indonesia 30.000 13 Việt Nam 3.000 1,3 Nguồn: FAO year boook Về giá cả Giá chào của Tổng công ty là 889 USD/tấn, khá cao so với mức giá trung bình là 680 USD/tấn. Do đó ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm dứa của Tổng công ty. Bên cạnh đó, các nước trong khu vục lại có mức giá chào thấp hơn mức giá trung bình làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu dứa của Tổng công ty. Biểu 11: giá xuất khẩu dứa sang mỹ của việt nam, Thái lan, indonesia, phillipines Nước xuất khẩu Giá (USD/tấn) Phillipines 550 Indonesia 560 Thái Lan 650 Việt Nam 889 Nguồn: FAO year book Những năm gần đây, Tổng công ty đã đầu tư đổi mới công nghệ chế biến dứa vì thế chất lượng của sản phẩm dứa ngày càng được củng cố, tạo uy tín tốt với một số khách hàng truyền thống và giá cả luôn có xu hướng mềm dẻo hơn lên sản phẩm dứa vấn giữ được thị phận của mình và ngày càng mở rộng quy mô thị trường xuất khẩu. 3. Hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam Để có một hợp đồng xuất khẩu và thực hiện hợp đồng đó phải qua các bước sau: * Chuẩn bị giao dịch * Đàm phán ký kết hợp đồng * Thực hiện hợp đồng Các công việc chuẩn bị giao dịch bao gồm việc nghiên cứu thị trường và lập phương án kinh doanh. Sau khi đánh giá sơ bộ khả năng về lợi nhuận đạt được, phòng XK bước vào giai đoạn đàm phán ký kết hợp đồng XK. Trước hết, để đàm phán ký kết hợp đồng, Tổng công ty phải lựa chọn hình thức giao dịch ký kết hợp đồng bằng thư tín, điện thoại hoặc gặp gỡ trực tiếp. Nếu bằng điện thoại, chi phí rất tốn kém, nội dung không đầy đủ và dễ có tranh chấp; qua gặp gỡ trực tiếp, cả hai bên đều khó khăn do khoảng cách. Đối với mặt hàng dứa cũng như hầu hết các hàng hoá khác, Tổng công ty chọn hình thức đàm phán ký kết hợp đồng bằng thư tín dong thương mại. Trình tự ký kết được tiến hành như sau: Chào hàng: Về mặt pháp lý, là lời đề nghị ký kết hợp đồng của bên chào hàng (người bán) và người được chào hàng (bên mua). Có thể chào tự do hoặc cố định. Chào tự do không ràng buộc trách nhiệm của người chào, chủ yếu là để quảng cáo, thăm dò thị trường, duy trì bạn hàng... Hình thức này được Tổng công ty sử dong trong thời gian đầu chưa có bạn hàng. Sau này khi đã có bạn hàng thường xuyên, Tổng công ty phát chủ yếu những đơn chào cố định, là chào ràng buộc trách nhiệm của người phát đơn chào. Trong đơn chào chứa đựng những nội dung tối thiểu của hợp đồng và người chào chỉ có thể huỷ lời cam kết nếu làm bản tuyên bố gửi đến trước hoặc cùng với đề nghị ký kết hợp đồng. Chấp nhận chào hàng: Là thể hiện ý muốn ký kết hợp đồng của người được chào với người chào. Trong trường hợp phía bạn chấp nhận có sửa đổi một số điểm, Tổng công ty phải thông báo cho phía bạn lời chấp nhận sửa đổi đó, lúc này đơn chào hàng cố định lúc đầu mới trở thành hợp đồng. Những điểm cần lưu ý khi ký kết hợp đồng: - Đối tượng hợp đồng: Tên hàng: phải ghi rõ dứa khoanh, dứa miếng... Số lượng: ghi rõ đơn vị MT và ghi dung sai thường là ±5% Chất lượng: vì dễ gây tranh chất nên phải mô tả rõ. Ví dụ: kích cỡ hộp, mùi vị, màu... Bao bì: ghi rõ cách đóng bao, kiện. Ví dụ: Hộp có giấy thiếc, đóng 20 hộp một kiện bằng gỗ chắc chắn. - Giá cả, điều kiện thanh toán: Giá cả: ghi rõ đơn giá, tổng giá trị, đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán. Điều kiện thanh toán: Tổng công ty thường lựa chọn điều kiện thanh toán bằng phương thức tính dụng chứng từ. - Giao hàng: ghi rõ thời hạn giao hàng và điều kiện giao hàng. Giai đoạn ba là thực hiện hợp đồng xuất khẩu gồm các bước sau: Chuẩn bị hàng để xuất khẩu: Tổng công ty là đầu mối cuối cùng tập trung hàng từ các xí nghiệp chế biến, vì vậy phải kiểm tra hàng kỹ để làm các thao tác xuất khẩu tiếp theo. Ví dụ kiểm tra độ an toàn của kiện, độ thưa cách của các thanh gỗ, các nút đinh, kẻ ký mã hiệu, lập phiếu đóng gói theo mẫu riêng của Tổng công ty. Kiểm nghiệp, kiểm dịch, xin giấy chứng nhận vệ sinh: Trước khi giao hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá về phẩm chất, số lượng , trọng lượng, bao bì. Việc kiểm dịch vệ sinh là một khâu bắt buộc tiến hành ngay ở đơn vị sản xuất hay ở nơi thu mua như nông trường, trạm hoặc tại cửa khẩu. ở Việt Nam, Tổng công ty xin giấy vệ sinh ở Bộ y tế. Các giấy tờ này chỉ có giá trị không quá 7 ngày nếu hàng không xuất khẩu được. Thuê phương tiện vận chuyển-mua bảo hiểm: Việc Tổng công ty có phải thuê phương tiện vận chuyển và mua bảo hiểm hay không là phụ thuộc vào phương thức bán hàng quy định trong hợp đồng theo điều kiện FOB hay CIF. Trước đây do điều kiện bảo hiểm và vận tải trong nước kém phát triển nên Tổng công ty chủ yếu bán hàng theo điều kiện FOB, do đó không chịu trách nhiện mua bỏ hiểm và thuê tàu. Hiện nay, do điều kiện thay đổi, Tổng công ty đã bán hàng theo điều kiện CIF. Công ty bảo hiểm thường xuyên của Tổng công ty là Bảo Việt. Đối với mặt hàng dứa, Tổng công ty thường mua theo điều kiện C. Hãng tàu thường xuyên của Tổng công ty là VIETRANS. Do có quan hệ làm ăn từ lâu, các thủ tục thuê tàu diễn ra đơn giản, thuận lợi. Làm thủ tục hải quan: được thực hiện qua 3 bước sau: - Khai báo hải quan: Phải kê khai chính xác, chuẩn bị một số giấy tờ như hóa đơn, phiếu đóng gói, giấy phép kinh doanh XNK, bảng kê chi tiết... -Kiểm tra hàng hoá: Tổng công ty có bộ phận sắp xếp sẵn hàng hoá theo trật tự để thuận tiện việc kiểm tra và chịu chi phí nhân công về mở và đóng các kiện hàng. - Thực hiện quyết định của Hải quan: Theo quyết định của Hải quan, hàng hoá sẽ được phép thông quan, thông quan có điều kiện hoặc không được thông quan. Tổng công ty trước hết phải chấp hành những quyết định này, sau đó tìm hiểu nguyên nhân để khắc phục. Giao hàng: Tổng công ty có thể giao hàng trực tiếp lên tàu hoặc thông qua VIETRANS. Vì mặt hàng dứa xuất khẩu bằng container, Tổng công ty có trách nhiệm thuê container, đóng vào container và lập bảng kê khai hàng trong container. Trong những trường hợp không đủ container, Tổng công ty phải lập “bản đăng ký hàng chuyên chở”, sau khi được chấp nhận Tổng công ty mới giao hàng đến ga container cho người vận tải. Thanh toán và giải quyết khiếu nại: Sau khi giao hàng, Tổng công ty lập bộ chứng từ thanh toán gồm hoá đơn, vận đơn, các loại giấy chứng nhận, đơn bảo hiểu và một số chứng từ khác. Nếu có khiếu nại xãy ra thì hai bên sẽ giải quyết theo tinh thần hợp tác. 4. Đánh giá hoạt động xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả Việt Nam 4.1. Những thành tựu đạt được Trong quá trình hoạt động, Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài với nhiều mặt hàng mới như : hỗn hợp chôm chôm và dứa, Dứa nguyên quả, Dứa khoanh, Dứa lát cắt nửa rẻ quạt, Dứa lát cắt gãy, Dứa miếng nhỏ, Dạng cắt khúc, Dạng quân cờ, Dứa nghiền nhỏ, nước dứa đông lạnh, Nước dứa được đóng trong nước đường nhạt, Nước dứa tự nhiên, Nước dứa cô đặc (Queen), Nước dứa cô đặc (Cayen)... Chất lượng của các sản phẩm cũng ngày được nâng cao. Do vậy, Tổng công ty đã đáp ứng được phần lớn các yêu cầu về chất lượng nêu trong hợp đồng. Để đạt được kết quả nói trên, ngoài việc phấn đấu để nâng cao chất lượng cảm quan (màu sắc, hương vị, hình thái) của sản phẩm, Tổng công ty cũng tích cực đổi mới và nâng cao chất lượng bao bì, nhãn hiệu. Bao bì hộp sắt kiểu cũ (hàn thiếc) đã được thay bằng kiểu mới (hàn điện), các nhãn hiệu được nâng cao về kỹ thuật in ấn và chất lượng giấy in nền đẹp hơn so với trước kia. Trong quan hệ ngoại thương những năm vừa qua, Việt nam đã mở rộng quan hàng hàng hệ với nhiều nước, trong đó có một số thị trường kim ngạch ngày càng tăng với các loại mặt hàng phong phú và đa dạng như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc.... Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tổng công ty trong việc mở rộng thị trường và không ngừng nâng cao chất lượng mặt hàng cho phù hợp với sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng. Tổng công ty đã chú ý xây dựng những mặt hàng mang tính chiến lược như dứa và chú trọng đầu tư vào các xí nghiệp chế biến dứa. Do vậy, doanh số và kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, thu nhập và đời sống của cán bộ của công nhân viên được nâng lên. Bên cạnh những thành tựu được, Tổng công ty vẫn còn các hạn chế và khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình. Vì vậy, Tổng công ty cần phải sớm đề ra các biện pháp để khắc phục các khó khăn và hạn chế này. 4.2. Những khó khăn gặp phải Về mặt hàng - sản phẩm dứa Sản phẩm rau dứa là sản phẩm mang tính thời vụ, cần được tập trung khai thác triệt để mới có hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, căn cứ vào thời vụ, đặc tính của dứa, cần được xác định rõ kế hoạch thu hoạch, vận chuyển, kho tàng, chế biến và xuất khẩu... sao cho phù hợp. Muốn xuất khẩu, với các sản phẩm dứa chúng ta cần phải biết bảo quản và chế biến một cách hợp lý, vệ sinh đảm bảo được chất lượng của hàng hoá. Đây lầ một trong những khâu mà tổng công ty rất là yếu kém. Thị trường tiêu thụ - sản phẩm dứa Kể từ khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, Tổng công ty mất dần đi các thị trường bạn hàng truyền thống. Vì thế, Tổng công ty không có được sự trợ giúp về vốn, giống cây từ bạn hàng nước ngoài để phát triển sản xuất trong nước. Thị trường thế giới đã được phân chia, mặc dù là tự do gia nhập, nhưng Tổng công ty vẫn vấp phải bức tường cạnh tranh quyết liệt của các đối thủ. Trong bối cạnh đó Tổng công ty hoàn toàn phải vươn lên bằng chính nội lực của mình mà không có sự hỗ trợ của Nhà nước, Tổng công ty phải tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm của mình trong đó có sản phẩm dứa. Mặt khác, chất lượng hàng hóa bảo đảm là vấn đề khó khăn của hàng xuất khẩu, hệ thống chỉ tiêu hóa sản phẩm ở trong nước vẫn chưa ổn định và thống nhất. Tổng công ty lại ít chú ý đến các tiêu chuẩn khác cần thiết của sản phẩm như: ký hiệu, mẫu mã, nhãn mác, biểu tượng, hình thức bao gói... Nên sản phẩm dứa đã gặp không ít khó khăn khi thâm nhập và tồn tại ở các thị trường khó tính như : Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản. Thông tin, giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng Khả năng nắm bắt và khai thác thông tin về nhu cầu thị trường còn yếu nên khó khăn trong hoạt động tim kiếm khách hàng và nhiều khi đánh mất khách hàng chỉ vì thông tin chậm hơn so với đối thủ cạnh tranh. Tổng công ty con chậm trong hoạt động chào hàng và quảng cáo các sản phẩm dứa tại các thị trường mới và khả năng chiếm lĩnh thị trường của các đối thủ khác như Thái Lan. Bên cạnh đó sự ít hiểu biết về văn hoá, luật pháp và điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu đã dẫn đến những vi phạm đáng tiếc và gây thiệt hại trong hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, Công việc giao dịch thường không gặp trực tiếp, mà chủ yếu là qua thư từ, điện tín, Fax và việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu còn chậm, thường diễn ra bằng thời gian qui định trong hợp đồng.. Do vậy không nắm chắc được hàng hóa và thị trường, điều này sẽ đưa ra các quyết định không sát thực làm cho việc đàm phán phải thực hiện lại nhiều lần gây ra những lãng phí. Chương iii một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuấtkhẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả việt nam I định hướng của Tổng công ty Rau quả việt nam giai đoạn 2002-2010 1. Định hướng Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã khẳng định sự tiến bộ của xuất khẩu đồng thời nêu rõ: “Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, tạo thêm các mặt hàng chủ lực, nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường... có chính sách bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước”. Cần phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến để tăng giá trị thành phẩm của sản phẩm công nghiệp. Mau chngs phát triễn sản xuất rau quả trở thành một ngành sản xuất quan trọng của nông nghiệp cả nước, tạo cơ sở chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tăng thu nhập, cải thiện chế dộu dinh dưỡng cho nhân dân, góp phần cải thiện môi sinh, môi trường, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn và công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn Nhận thức được tầm quan trọng của Ngành rau quả trong quá trình phát triễn và hội nhập của đất nước, Tổng công ty Rau quả Việt Nam với vai trò đầu ngành để đề ra chiến lược phát triễn giai đoạn 2002-2010 làm kim chỉ nam cho hoạt động của mình Đối với mặt hàng dứa, Tổng công ty đã đề ra một số định hướng chủ yếu sau: 1.1 Về sản xuất nông nghiệp Năm 2005, cả nước cần trên 1 triệu tấn dứa quả để làm nguyên liệu chế biến ra 220.000 đến 260.000 tấn sản phẩm dứa các loại cho nên phải xây dung các vùng trồng dứa chuyên canh cung cấp dứa cho các nhà máy chế biến với năng suất bình quân 50 tấn/ha (giống dứa Cayen) thì chỉ cần 20.000 ha dứa kinh doanh. Do đó, cần phải thay đổi giống dứa Victoria năng suet thấp bằng dứa Cayen. Theo điều kiện địa lý, khí hậu... diện tích trồng dứa nêu trên sẽ được quu hoạch thành 5 vùng chuyên canh: + Vùng Đồng Giao: 5.000 ha + Vùng Quảng Nam-Đà Nẵng: 3.000 ha + Vùng Đồng Nai: 4.000 ha + Vùng Sông Bé Tây Ninh: 4.00 ha Biểu 6:Mục tiêu phát triễn năng suất, sản lượng dứa của Tổng công ty Rau quả Việt Nam Hạng mục Năm 2002 Năm 2005 Năm 2010 - Diện tích (ha) - Năng suất (Tấn/ha) - Sản lượng (Tấn) 4.274 6,5 27.583 10.000 10,6 106.000 15.000 16 248.000 1.2 Về sản xuất công nghiệp Năm 2010 cần đạt 300.00 tấn rau quả trong đó dứa là 150.000 tấn dứa hộp. Vì vậy Tổng công ty Rau quả Việt Nam cần đầu tư mở rộng các nhà máy hiện có, xây dung mới 6 trung tâm chế biến rau quả, 3 nhà máy bao bì hộp sắt, 2 nhà máy bao bì thuỷ tinh, 2 nhà máy bao bì giấy carton và một nhà máy cơ khí rau quả. Các nhà máy sẽ hoạt động với công suet 50.000 tấn/năm. Các nhà máy bao bì sẽ được bố trí khắp 3 miền trong cả nước để đảm bảo nhu cầu đóng hộp. 1.3 Về kim ngạch xuất khẩu Từ năm 2002-2010, Tổng lượng dứa xuất khẩu của Tổng công ty đạt bình quân 100.000 tấn/năm, kim ngạch từ 100-120 triệu USD trong đó dứa xuất khẩu đi Mỹ phải đạt 30.000 tấn/năm, tương đương với 27 triệu USD. 2. Mục tiêu chủ yếu của Tổng công ty trong năm 2003 - Sản xuất nông nghiệp: + Giá trị tổng sản lượng đạt: 43 tỷ đồng + Tổng diện tích gieo trồng: 11.595 ha + Sản phẩm chủ yếu gồm: Dứa, nhãn, vải, lương thực quy thóc, nhựa thông. Trong đó, Dứa quả đạt: 51.800 tấn, tăng 88% so với năm 2002 - Sản xuất công nghiệp: + Giá trị tổng sản lượng: 500 tỷ đồng + Sản phẩm sản xuất chủ yếu: Sản phẩm dứa hộp: 9.000 tấn(tăng 75% so với năm 2002), Đồ hộp khác, sản phẩm cô đặt và Pure quả, nước uống các loại, Rau quả đông lạnh, Rau quả sấy muối, Sản phẩm khác... - Kim ngạch xuất khẩu: 42 triệu USD(tăng 63% so với năm 2002) + Dứa và các sản phẩm từ dứa: 9,2 triệu USD(tăng 62% so với năm 2002) II. một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả việt naM Đối với Việt Nam trong những năm tới, xuất khẩu sản phẩm dứa là hoạt động khá quan trọng và là hoạt động chính của Tổng công ty, góp phần tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế. Song với tình hình sản xuất và xuất khẩu sản phẩm dứa như hiện nay vẫn chưa phát huy hết tiềm năng của Tổng công ty, do đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực từ phía Nhà nước, Tổng công ty và các đơn vị tham gia xuất khẩu rau quả. Để hoạt động kinh doanh xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty có hiệu quả, tôi xin đưa ra một số kiến nghị và biện pháp sau: 1. Về mặt hàng Tổng công ty muốn xuất khẩu được nhiều hàng hóa thì trước hết phải tạo ra một khối lượng hàng có chất lượng tốt với giá cả hợp lý. Vì vậy, Tổng công ty cần phải chú ý đến một số vấn đề sau: 1.1 Tổ chức tốt nguồn cung cấp dứa quả, chuẩn bị chu đáo chế biến và xuất khẩu Mặc dù hiện nay nguồn cung cấp tương đối dồi dào, nhưng để tránh những biến động về nguồn hàng do diện tích gieo trồng bị thu hẹp, nhiều đơn vị được phép kinh doanh mặt hàng này... Do vậy, các công ty thành viên cần phải kết hợp chặt chẽ với bộ phận sản xuất. Trong trường hợp dự báo khả năng xuất khẩu sản phẩm dứa có nhiều thuận lợi, giá cả tăng trên thị trường quốc tế ngoài việc kết hợp ký kết hợp đồng xuất khẩu với người sản xuất, Tổng công ty cũng nên cấp vốn cho đơn vị sản xuất mở rộng diện tích gieo trồng để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Mặt khác, cần giám định sản phẩm một cách nghiêm túc trong khâu thu hoạch. Vì đây là yếu tố quyết định đến chất lượng xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty. Các hoạt động chế biến, bao bì sản phẩm cũng phải được tiến hành khẩn trương để chuẩn bị sẵn sàng cho xuất khẩu. Khi tiến hành sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm dứa thì Tổng công ty cần phải nắm rõ các vấn đề như: bán cho ai ? giá bán như thế nào ? lợi nhuận thu về được bao nhiêu ?... Ngoài ra, Tổng công ty cần tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu để phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng dứa quả. 1.2 Tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm và công tác chế biến hàng xuất khẩu Nâng cao chất lượng sản phẩm là vấn đề rất quan trọng nhằm quyết định xem sản phẩm của mình có thể thâm nhập, thích nghi và có thể đáp ứng được nhu cầu thị trượng hay không. Vì chỉ có những sản phẩm có chất lượng cao mới có thể đứng vững trên thị trường. Hiện nay sản phẩm dứa của Tổng công ty được tiêu thụ ở những thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật ... Do đó Tổng công ty cần phải chú ý đến những điểm sau để nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. - Để đảm bảo yêu cầu chất lượng cũng như yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm Tổng công ty cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật như cải tạo, phổ biến giống tốt, xây dựng quy trình thâm canh thích hợp cho loại cây dứa, mỗi vùng, áp dụng phổ biến khoa học kỹ thuật vào các khâu sản xuất và chế biến... Hướng dẫn sử dụng và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất như: sử dụng chất kích thích hoặc kìm hãm sinh trưởng, dần thay thế giống cây dứa Cayene có chất lượng hiệu quả kinh tế cao. Tóm lại để nâng cao chất lượng sản phẩm dứa cẩn phải đảm bảo từ khâu đầu tiên của quá trình sản xuất. - Chế biến rau quả ở nước ta có vị trí rất quan trọng trong đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp chế biến nông sản nói chung và chế biến sản phẩm dứa nói riêng còn nhằm mục đích tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng tích lũy cho ngân sách nhà nước, tăng kim ngạch xuất khẩu và thúc đẩy phát triển nông nghiệp. Hiện nay Tổng công ty đã và sẽ cần phải đầu tư vốn để nâng cao và mở rộng dây chuyền chế biến sản phẩm dứa hơn nữa một phần nâng cao hiệu quả trồng trọt, sản xuất và chế biến dứa mặt khác có thể đáp ứng được nhu cầu đa dạng cũng như yêu cầu về chất lượng sản phẩm. - Về công tác bảo quản: Nâng cao công tác bảo quản là hoạt động rất quan trọng để đảm bảo chất lượng hàng hóa và hoạt động xuất khẩu sản phẩm dứa. Vì về công tác bảo quản Tổng công ty vẫn có nhiều hạn chế trong thời gian qua do đó làm giảm doanh thu và gây thiệt hại không nhỏ. - Các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ ẩm tương đối... cũng ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. đặc biệt trng cơ cấu sản phẩm dứa xuất khẩu của Tổng công ty có sản phẩm dứa hộp đông lạnh yêu cầu điều kiện bảo quản cao. Do vậy, cần phải có thiết bị làm lạnh để xử lý nhiệt độ từ lúc chế biến đến lúc tiêu thụ. Điều đáng quan tâm là việc lập thời gian biểu và việc tối ưu hóa việc sử dụng thiết bị bảo quản với chi phí thấp. 2. Về thị trường Để đạt được mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thị phần của mình, Tổng công ty cần phải có chiến lược đa dạng hóa thị trường xuất khẩu với những biện pháp sau: - Giữ vững các thị trường quen thuộc và truyền thống như thị trường Nga và các nước Đông Âu. Tổng công ty phải tìm biện pháp nhằm chiếm lại thị phần đối với một số thị trường đã mất đi và không ngừng lấy lại uy tín ở thị trường cũ, mở rộng thị trường mới có triển vọng. - Đối với thị trường tiêu thụ dứa mới và đầy tiềm năng như Mỹ, EU, Nhật... thì cần phải mở rộng quy mô, tạo uy tín và sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. - Tổng công ty cần chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và công tác xúc tiến bán hàng cho các sản phẩm trong đó có sản phẩm dứa nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. Đối với Tổng công ty Rau quả Việt Nam, đây chính là điểm yếu căn bản làm cho các hoạt động xuất khẩu dứa diễn ra một cách thụ động và phải qua một nước thứ ba làm ảnh hưởng tới lợi ích của Tổng công ty, hạn chế tính linh hoạt ứng phó với sự biến động của các thị trường của Tổng công ty. Để khắc phục điểm yếu này đòi hỏi phải có chiến lược đúng đắn trong xúc tiến xuất khẩu. Bên cạnh đó, Tổng công ty cũng cần cập nhật những thông tin mới về tình hình giá cả, cung cầu trên thị trường cạnh tranh. Để thực hiện tốt vấn đề về thị trường, Tổng công ty cần có phòng nghiên cứu và điều tra thị trường, tổng hợp tin tức và xử lý thông tin để đưa ra các định hướng sản xuất cũng như các quyết định kinh doanh kịp thời, chính xác và đạt hiệu quả cao. Muốn vậy, Tổng công ty phải chú ý đến các vấn đề sau: 2.1 Điều tra thị trường Hoạt động này đòi hỏi phải nắm bắt được những thông tin về quy mô thị trường, về chất lượng, về yêu cầu chủng loại sản phẩm, mùa vụ, tính thường xuyên của nhu cầu, cơ cấu giá cả, các kênh buôn bán và những trở ngại trong buôn bán. Ngoài ra, còn phải xem xét, đánh giá tình hình cạnh tranh của các nhà cung cấp, nghiên cứu so sánh, xem xét điều kiện để có thể thâm nhập vào một thị trường nào đó. 2.2 Thông tin thị trường Thông tin có vai trò quan trọng giúp cho nhà quản lý có những quyết định tối ưu để điều hành hoạt động kinh doanh của Tổng công ty. Trong công tác nghiên cứu mở rộng thị trường thì thông tin có vai trò vô cùng quan trọng, khả năng thu thập và chiếm giữ thông tin tạo nên một chỗ đứng vững chắc cho Tổng công ty trên thị trường trong nước và thế giới. Do đó, Tổng công ty cần phải có những thông tin chính xác về các tình hình: Thị trường có triển vọng nhất đối với xuất khẩu sản phẩm dứa cùng với các điều kiện về số lượng, chất lượng, giá cả... (giảm bớt thị trường kém hấp dẫn để tìm thị trường mục tiêu). Tình hình cạnh tranh giữa các đối tác hiện tại và tương lai. Tình hình sản xuất, đầu tư, áp dụng công nghệ mới cũng như trình độ tổ chức quản lý các phương thức, điều kiện mua bán, chiến lược kinh doanh của bạn hàng. Biến động chính trị, kinh tế, xã hội của các nước có ảnh hưởng không nhỏ tới sự vận động của thị trường (cung, cầu và giá cả mà Tổng công ty quan tâm). -Chính sách hải quan, thuế xuất nhập khẩu, chế độ quản lý ngoại thương của thị trường. Những thông tin này giúp cho Tổng công ty có thể xác lập được kế hoạch sản xuất, chiến lược kinh doanh, lựa chọn đối tác và thị trường thích hợp cho việc xuất khẩu rau quả của mình. Đây là một thứ tài sản vô hình mà không phải bất cứ công ty nào cũng có được. Để có thể thu thập được thông tin, Tổng công ty nên chú trọng các điểm sau: Tổng công ty phải có đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có khả năng chọn lọc, tập hợp, phân tích thông tin qua: các báo cáo kết quả kinh doanh của Tổng công ty, báo cáo của các cơ quan quản lý cấp trên, các tài liệu chuyên ngành, tạp chí... Tổng công ty nên tổ chức nhân viên xuống tiếp xúc trực tiếp với các bạn hàng có quan hệ với mình, đi khảo sát thị trường đang và sẽ xuất khẩu sản phẩm dứa như Mỹ,EU, Singapore, Nhật... Tham gia triển lãm quốc tế, các hội nghị chuyên đề do nước ngoài tổ chức hay thu thập thông tin qua các bạn hàng ở tại nước mình. Các thông tin thực tế sẽ bổ xung và làm chính xác thêm các thông tin ở văn phòng. Tiếp đó Tổng công ty cần phải biết xử lý thông tin. Có như vậy, Tổng công ty mới có được quyết định chính xác về thị trường, bạn hàng, nhu cầu giá cả, phương thức giao dịch và điều kiện thanh toán. Trên cơ sở giới hạn điều tra, lựa chọn một số thị trường, bạn hàng, phân loại để xác định những thị trường bán hàng có triển vọng, loại bỏ những thị trường kém hấp dẫn và sắp xếp thứ tự thị trường đã lựa chọn theo cấp bậc ưu tiên. Trong qúa trình này, Tổng công ty nên quan tâm nhiều về điều kiện tài chính, khả năng tiêu thụ, uy tín địa vị trên thị trường, thái độ chính trị và pháp luật... để so sánh và rút ra quyết định về việc đặt quan hệ với thị trường và bạn hàng nào. 3. Về vốn 3.1 Việc huy động vốn trong kinh doanh Vốn luôn luôn là vấn đề cực kỳ khó khăn đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản nói chung và hàng rau quả tươi nói riêng. Để giải quyết vấn đề này, Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã chủ động tạo vốn kinh doanh cho mình từ các nguồn trong nước và ngoài nước thông qua một số nguồn sau: Huy động từ các ngân hàng thông qua hình thức vay. Mặc dù có rất nhiều khó khăn tiếp cận với nguồn vốn này nhưng Tổng công ty phải coi là nguồn vốn quan trọng cần khai thác. Chính phủ ta luôn có các chính sách hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp Nhà nước xuất khẩu nên rất lợi cho Tổng công ty vay vốn trực tiếp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của mình. Huy động vốn từ cán bộ, công nhân viên trong Tổng công ty. Mặc dù phải trả lãi cao hơn nhưng khi tận dụng nguồn vốn này Tổng công ty lại thu được lời về nhiều mặt. Khi cán bộ công nhân viên bỏ vốn ra cho Tổng công ty vay họ sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm với hoạt động kinh doanh của Tổng công ty. Việc được hưởng lãi suất cao cũng thúc đẩy họ làm việc có hiệu quả hơn, mang lại nhiều lợi nhuận cho Tổng công ty hơn. Do vậy, để có thể huy động vốn từ nguồn này, biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay đang được Nhà nước khuyến khích áp dụng, thông qua việc cổ phần hóa, Tổng công ty được quyền phát hành cổ phiếu và bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty để mở rộng thêm nguồn vốn của mình. Huy động vốn từ chính lợi nhuận tích lũy của Tổng công ty. Đây là nguồn cơ bản và lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh. Ngoài việc huy động nguồn vốn từ trong nước, Tổng công ty còn có thể huy động vốn từ nước ngoài. Đây là một giải pháp hữu hiệu và quan trọng. Việc huy động nguồn vốn này có thể thực hiện thông qua các hình thức như: Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập khẩu hàng hoặc xin ứng trước vốn khi xuất hàng. Hình thức này không mất khoản tiền lãi vốn vay, song chỉ áp dụng được với doanh nghiệp có uy tín cao, nguồn hàng ổn định và có chất lượng cao. Tăng cường hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là các đối tác có các máy móc công nghệ hiện đại. Trong tình trạng vừa thiếu vốn, vừa thiếu máy móc thiệt bị công nghệ thì đây là giải pháp hữu hiệu giúp cho Tổng công ty mở rộng trung tâm chế biến rau quả xuất khẩu. Tóm lại, dù hợp tác với các đối tác trong hay ngoài nước, Tổng công ty đều phải tỉnh táo lựa chọn đối tác tin cậy để vừa giải quyết khó khăn, vừa bảo vệ được lợi ích của mình. Có như vậy, Tổng công ty mới có thể xây dựng được mô hình công nghiệp rau quả khép kín đủ sức cạnh tranh và có thể xâm nhập vào thị trường quốc tế. 3.2 Nâng cao hiệu quả trong quản lý chi phí, vốn và lợi nhuận Qua việc phân tích hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả nói chung và việc xuất khẩu sản phẩm dứa nói riêng, chúng ta có thể đưa ra một số biện pháp về quản lý chi phí, vốn, lợi nhuận và các chỉ tiêu hiệu quả khác để nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty. Thứ nhất, tiếp tục phát huy những thành tựu mà Tổng công ty đã đạt được trong những năm qua làm tiền đề, động lực cho các chỉ tiêu hiệu quả khác cùng vận động theo xu hướng tích cực đảm bảo cho toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu của Tổng công ty có hiệu quả, nên cần phải: Nâng cao tỉ lệ vốn bằng tiền trên tổng tài sản để tạo điều kiện cho hoạt động trao đổi của Tổng công ty diễn ra nhanh chóng, linh hoạt, đồng thời có khả năng hỗ trợ cho các hoạt động khác như giúp đỡ người sản xuất, đảm bảo cho nguồn thu của mình. Tích cực giảm các khoản thu vốn tồn đọng trong tay khách hàng. Muốn như vậy, trước khi ký kết hợp đồng, Tổng công ty phải nắm rõ tình hình tài chính của khách hàng để tránh những rủi ro có thể xảy ra từ các khoản tiền trên Giảm đến mức phù hợp mức tồn kho, chỉ để lại một lượng phòng những trường hợp thị trường có đột biến. Việc này giúp Tổng công ty giảm được chi phí lưu kho và bảo quản hàng hóa. Vòng quay vốn lưu động cũng cần tiếp tục nâng cao để Tổng công ty tăng lợi nhuận, thu được cả về chất lẫn lượng. Có như vậy thì hiệu quả kinh doanh mới cao và toàn diện. Thứ hai, Tổng công ty cần giải quyết những hạn chế còn tồn tại. Mặc dù một số chỉ tiêu vận động theo chiều hướng tích cực. Song thời gian qua do tình hình kinh tế, chính trị trong nước và khu vực có nhiều biến động nên ảnh hưởng tới tỷ lệ doanh lợi trên vốn chủ sở hữu, doanh lợi trên doanh thu, doanh lợi trên vốn, làm cho những chỉ tiêu này giảm xuống trong năm 1999 - 2000. Nhưng đến năm 2001 các chỉ tiêu này đã phục hồi và tăng cao trong thời gian tới. Điều đó chứng tỏ Tổng công ty vẫn có khả năng vực dậy và tiếp tục phát triển, nâng cao tỷ lệ doanh lợi của mình. 4. Về phương thức kinh doanh và thanh toán Có rất nhiều phương thức kinh doanh, tùy thuộc vào từng khách hàng và tiềm lực của mình mà Tổng công ty ký kết hợp đồng theo phương thức nào cho phù hợp nhất. Mặt khác, cũng phải dựa vào thời điểm mà Tổng công ty áp dụng cho mình phương thức kinh doanh tốt nhất chứ không đặt ra một phương thức nhất định luôn áp dụng một cách cứng nhắc. Bằng việc nghiên cứu các ưu điểm và nhược điểm của từng phương thức cộng với tình hình thực trạng hiện nay của Tổng công ty cho thấy: vốn của Tổng công ty còn hạn chế do đó có thể áp dụng hình thức trả trước, tức là Tổng công ty nhận tiền của nước nhập khẩu, sau một khoảng thời gian nhất định đã thỏa thuận, Tổng công ty trả hàng cho nước nhập khẩu. Với hình thức này, Tổng công ty có thuận lợi là giảm bớt được rủi ro vì chắc chắn đã có đầu mối tiêu thụ hàng lựa chọn được hàng xuất khẩu theo đúng yêu cầu của nước nhập khẩu. Ngoài ra, Tổng công ty có thể áp dụng phương thức xuất khẩu ủy thác, phương thức xuất khẩu trực tiếp, buôn bán đối lưu... Về phương thức thanh toán, đây là một vấn đề hiện nay gây nhiều tranh cãi trong Tổng công ty. Trước đây, Tổng công ty chủ yếu thanh toán theo hình thức mở L/C hay đảm bảo sẽ thanh toán với điều kiện hiện có một bên ràng buộc. Các hình thức này đảm bảo an toàn cho Tổng công ty nhưng cũng hạn chế một số khách hàng đến với Tổng công ty. Do đó, Tổng công ty cần đưa ra một số phương thức thanh toán khác tạo ra sự đa dạng cho khách hàng có khả năng lựa chọn. 5. Về công tác lập phương án giao dịch và thực hiện hợp đồng 5.1 Công tác lập phương án giao dịch đàm phán Đối với khách hàng có quan hệ làm ăn lần đầu thì Tổng công ty nên tiến hành việc giao dịch đàm phán tại trụ sở của mình. Còn đối với bạn hàng quen thuộc thì nên tiến hành giao dịch đàm phán qua thư từ, telex, fax để giảm chi phí giao dịch, tăng hiệu quả kinh doanh. Để việc lập phương án giao dịch đàm phán đạt kết quả tốt, Tổng công ty phải phân tích tỉ mỉ, đặc biệt chú ý tới đặc điểm kinh tế, xã hội mà đối tác chịu ảnh hưởng như thời gian, không gian, ngôn ngữ, hệ thống pháp luật... 5.2 Công tác thực hiện hợp đồng Việc tăng cường các nghiệp vụ thực hiện hợp đồng không những làm cho hợp đồng ngoại thương được thực hiện có hiệu quả mà còn tăng số hợp đồng thực hiện trong mỗi tháng, mỗi quý và mỗi năm. Từ đó làm tăng doanh thu và lợi nhuận. Việc thực hiện hợp đồng phải linh hoạt sáng tạo, không nên quá máy móc dẫn đến các vi phạm hợp đồng. Việc ký kết hợp đồng phải xuất phát từ yêu cầu thị trường, hàng hóa xuất khẩu phải đạt tiêu chuẩn như đã ghi trong hợp đồng. 6. Hoạt động hỗ trợ tiêu thụ Đối với bất kỳ hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp nào thì hoạt động Marketing Mix cũng rất quan trọng, đối với hoạt động xuất khẩu sản phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả cũng vậy: Trước hết là chính sách sản phẩm Tổng công ty đã và đang thực hiện nâng cao chất lượng sản phẩm làm tăng khả năng thâm nhập những thị trường mới và đầy tiềm năng, sản phẩm được đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, và đáp ứng được những nhu cầu của khách hàng, sản phẩm dứa được xuất khẩu trực tiếp có chất lượng cao và có thương hiệu của Tổng công ty kết hợp với nhãn hiệu của nhà nhập khẩu và nhà phân phối. Về chiến lược giá cả, Tổng công ty trong thời gian qua chủ yếu xuất khẩu theo giá FOB. Nhưng trong thời gian tới để tránh tình trạng ép giá Tổng công ty nên xây dựng khung giá cho sản phẩm dứa xuất khẩu trên cơ sở nghiên cứu phân tích chi phí giá cả thị trường quốc tế và giá cả sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, Tổng công ty cũng phấn đấu sẽ xuất khẩu trực tiếp theo khung giá CIF. Về mạng lưới phân phối bán hàng, trong nước thì Tổng công ty có mạng lưới tiêu thụ trên toàn lãnh thổ Việt Nam nhưng lượng tiêu thụ sản phẩm dứa trong nước vẫn còn rất ít. Hiện tại Tổng công ty đã mở nhiều văn phòng đại diện ở nước ngoài, nhưng so với khả năng sản xuất và xuất khẩu vẫn còn ít mà chủ yếu sản phẩm được xuất khẩu qua trung gian. Do vậy trong thời gian tới Tổng công ty cần phải đẩy mạnh hình thức xuất khẩu trực tiếp. Về công tác xúc tiến hỗn hợp, Tổng công ty sẽ nên đặc biệt quan tâm đến các hình thức xúc tiến khác nhau như quảng cáo, tuyên truyền khuyến mại ... Ngoài ra hoạt động tham gia các hội trợ triển lãm cũng sẽ mang lại những hiệu quả bán hàng và xuất khẩu lớn hoặc Tổng công ty có thể dùng thư chào hàng tới những khách hàng tiềm năng... 7. Các biện pháp khác 7.1 Giữ vững và nâng cao uy tín của Tổng công ty Trong quá trình xuất khẩu, Tổng công ty phải quan tâm công tác chăm sóc tạo niềm tin cho khách hàng sau khi xuất khẩu được lô hàng cho khách nước ngoài, gây ra sự lãng phí rất lớn trong việc tích lũy tài sản vô hình của Tổng công ty. Đó là việc giữ vững và nâng cao uy tín, sự tin tưởng và tín nhiệm của khách hàng sau khi họ đã m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100731.doc
Tài liệu liên quan