Đề tài Đánh giá được thực trạng phát triển của kinh tế trang trại ở Sơn la hiện nay

Tài liệu Đề tài Đánh giá được thực trạng phát triển của kinh tế trang trại ở Sơn la hiện nay: Mục lục Lời nói đầu. chương I: cơ sở lý luận chung về kinh tế trang trại. 1.Khái niệm và bản chất của kinh tế trang trại. 2.Căn cứ để xác định kinh tế trang trại. 3.Đặc trưng của kinh tế trang trại. 4.Điều kiện ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. 5.Các loại hình kinh tế trang trại. 6.Kinh tế trang trại ở một số nước và ở nước ta. 7.Các chỉ tiêu phân tích. Chương II: thực trang phát triển kinh tế trang trại của tỉnh sơn la. I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại của tỉnh. 1. Đặc điểm tự nhiên. 2. Đặc điểm kinh tế xã hội. II. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Sơn la. 1. Vài nét về tình hình phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh. 2. Tình hình về chủ trang trại. 3. Các yếu tố sản xuất của trang trại. III. Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại. 1. Kết quả sản xuất của trang trại. 2. Hiệu quả sản xuất của trang trại. IV. Kết luận chung về thực trạng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh. Chương II...

doc78 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá được thực trạng phát triển của kinh tế trang trại ở Sơn la hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời nói đầu. chương I: cơ sở lý luận chung về kinh tế trang trại. 1.Khái niệm và bản chất của kinh tế trang trại. 2.Căn cứ để xác định kinh tế trang trại. 3.Đặc trưng của kinh tế trang trại. 4.Điều kiện ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. 5.Các loại hình kinh tế trang trại. 6.Kinh tế trang trại ở một số nước và ở nước ta. 7.Các chỉ tiêu phân tích. Chương II: thực trang phát triển kinh tế trang trại của tỉnh sơn la. I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại của tỉnh. 1. Đặc điểm tự nhiên. 2. Đặc điểm kinh tế xã hội. II. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Sơn la. 1. Vài nét về tình hình phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh. 2. Tình hình về chủ trang trại. 3. Các yếu tố sản xuất của trang trại. III. Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại. 1. Kết quả sản xuất của trang trại. 2. Hiệu quả sản xuất của trang trại. IV. Kết luận chung về thực trạng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh. Chương III: phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại của tỉnh trong thời gian tới. I. Phương hướng phát triển. 1. Phương hướng chung phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp nước ta. 2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh Sơn la. II. Các giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế trang trại ở Sơn la trong thời gian tới. 1. Giải pháp về đất đai. 2. Giải pháp về lao động. 3. Giải pháp về đầu tư tín dụng. 4. Giải pháp về khoa học công nghệ. 5. Giải pháp về thị trường và phát triển công nghệ chế biến. 6. Giải pháp về thuế. 7. Giải pháp về bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại. 8. Giải pháp về đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn. 9. Nâng cao trình độ dân trí và trình độ chuyên môn cho các chủ trang trại. Kết luận và kiến nghị. Tài liệu tham khảo Lời nói đầu Trải qua các thời kỳ cách mạng Đảng ta luôn khẳng định vai trò to lớn và vị trí quan trọng của vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp - nôngthôn. Cong cuộc đổi mới của Đảng ta trong những năm qua cũng lấy nông nghiệp - nông thôn làm địa bàn trọng điểm, là khâu đột phá và đã dành được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế nhiều thành phần được phát triển với nhiều hình thức phong phú, đa dạng khơi dậy nhiều nguồn lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển năng động hơn. Bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Kinh tế trang trại được khẳng định là cơ sở kinh doanh nôn- lâm - ngư nghiệp, là hình thức kinh doanh nhỏ trực tiếp sản xuất ra nông sản hàng hoá cho xã hội, là đối tượng để tổ chức lại nền nông nghiệp - nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Kinh tế trang trại được coi là một kiểu tổ chức sản xuất phù hợp với đặc thù kinh tế nông thôn miền núi là một hướng đi mới đúng đắn của quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn Sơn la hiện nay. Phát triển kinh tế trang trại đã đưa lại những thành tựu đáng khích lệ về kinh tế xã hội, đã đưa bộ mặt nông thôn Sơn la lên một bước phát triển mới. Song kinh tế trang trại vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ, cần được nghiên cứu, tổng kết nhằm cung cấp thêm những tư liệu cần thiết để từ đó có thể tìm ra được một hướng đi đúng đắn hơn trong việc phát triển kinh tế trang trại ở Sơn la hiện nay. Mục đích nghiên cứu: Tập cho mình một phương pháp nghiên cứu khoa học nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn bằng lý luận mà nhà trường đã trang bị. Đánh giá được thực trạng phát triển của kinh tế trang trại ở Sơn la hiện nay để từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế trang trại tiếp tục phát triển. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp chuyên khảo. - Phương pháp chuyên gia. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại của Sơn la về quy mô, số lượng, loại hình sản xuất của trang trại. - Phạm vi đề tài nghiên cứu kinh tế trang trại trên 10 Huyện thị của Sơn la. Kết cấu của đề tài: Đề tài bao gồm 3 chương Chương I: Lý luận chung về kinh tế trang trại. Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Sơn la. Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy nhanh phát triển kinh tế trang trại của tỉnh thời gian tới. Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các thầy, các bạn trong khoa, được chỉ dẫn nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn - Thầy Hoàng Văn Định, đượ sự giúp đỡ của các phòng ban sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Sơn la. Do thời gian có hạn, trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên nội dung của luận văn này không tránh khỏi những sai sót. Vậy kính mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để luận văn này được hoàn chỉnh hơn. Chương I. cơ sở lý luận chung về kinh tế trang trại 1. Khái niệm và bản chất của kinh tế trang trại. Trên thế giới, trang trại đã có quá trình hình thành và phát triển trên 200 năm. Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng trang trại là loại hình sản xuất chuyển từ tự cấp tự túc khép kín của hộ tiểu nông vươn lên sản xuất hàng hoá, tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với kinh tế thị trường cạnh tranh. Sự hình thành kinh tế trang trại gắn liền với quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp. Mô hình kinh tế trang trại được coi là phù hợp và đạt hiệu quả kinh tế cao tronh sản xuất nông nghiệ. Chính C Mác đã kết luận ở tác phẩm cuối cùng của mình " Ngay ở nước Anh có nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có thuận lợi không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê"... Kinh tế trang trại là vấn đề không còn mới mẻ với các nước tư bản phát triển và đang phát triển. Song đối với nước ta đây vẫn còn là vấn đề rất mới, do nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên việc nhận thức chưa đầy đủ về kinh tế trang trại là điều không thể tránh khỏi. Cho tới nay ở mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương hay đứng trên các phương diện khác nhau các nhà khoa học đưa ra các khái niệm khác nhau về kinh tế trang trại. Trong thời gian qua những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường đã được các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn nghiên cứu trao đổi trên các diễn đàn và các phương tiện thông tin đại chúng. Cho đến nay một số vấn đề cơ bản vẫn tiếp tục được nghiên cứu, trao đổi và hoàn thiện. ở đây các nhà nghiên cứu đã đề cập đến các quan điển sau: Quan điểm 1: "kinh tế trang trại ( hay kinh tế nông trại, lâm trại, ngư trại... ) là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hiệp tác và phân công lao động xã hội bao gồm một số người lao động nhất định, được chủ trang trại tổ chức trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành hoạt động kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và được nhà nước bảo hộ ". Quan điểm trên khẳng định trang trại là một đơn vị sản xuất hàng hoá cho nền kinh tế thị trường và vai trò của người chủ nông trại trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng chưa thấy được vai trò của các hộ gia đình trong các hoạt động kinh tế và sự phân biệt giữa người chủ với người lao độnh khác. Quan điểm 2 Cho rằng: " kinh tế trang trại là kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá ở mức độ cao". Quan điểm này cho thấy đặc trưng cơ bản quyết định của kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá nhưng chưa thấy ddược vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường và chưa thấy được vai trò của người chủ trang trại trong quá trình sản xuất kinmh doanh. Quan điểm 3 cho rằng: " kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác ở nông thôn, có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, có phương thức tạo ra tỷ xuất sinh lời cao trên đông vốn bỏ ra,có trinh độ đưa thành tựu khoa học cong nghệ mới kết tinh trong hàng hoá tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường ,mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao ". Quan điểm trên khẳng đinh nền kinh tế thị trường là tiền đề chủ yếu cho việc phát triển kinh tế trang trại. Đồng thời khẳng định vị trí vai trò của chủ trang trại trong quá trình quản lý kinh doanh của trang trại . Trong Nghi quyết TW số 06/NQ -TW 10/11/1998 cũng đã khẳng định "trang trại gia đình, thực chất là kinh tế sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình chủ yếu là để sảu suất kinh doanh có hiệu quả. Qua các quan điểm trên có thể rút ra nhận xét về kinh tế trang trại như sau: -Bản chất của kinh tế trang trại là kinh tế hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp (kể cả lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản ).Hành hoá, trang trại có quy mô (về đất đai ,vốn,lao động,thu nhập ...)Tương đối lớn so với mức trung bình của kinh tế hộ tại địa phương ,tương ứng với từng nghành sản xuất cụ thể. Hình thức huy động các nguồn lực (đất đai,lao động,vốn,..) Không nên đề cập trong khi đưa ra khái niệm trang trại nhưng việc huy động và sử dụng các nguồn lực đó phải đảm bảo tính hợp pháp,đươc nhà nước bảo hộ và chủ trang trại phải chịu trách nhiệm huy động và sử dung các nguồn lực đó. Ngoài hoạt động nông nghiệp,các hoạt động nghàng nghề dịch vụ cũng cần được phải tính vào lĩnh vực và phạm vi hoat động của trang trại để đảm bảo tính hệ thống của mô hình kinh tế này. Xuất phát từ những quan điểm trên, theo khái niệm chung nhất về kinh tế trang trại là : kinh tế trang trại là một hình thức sản xuất tổ chức sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp có mục đích chính là sản xuất hành hoá, có tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ trang trại độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất khác tập chung đủ lớn với phương thức tổ chức qủan lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, kế hoạch sản xuất kinh doanh tự chủ luôn gắn với thị trường. 2. Căn cứ để xác định trang trại. Cho đến nay tiêu chuẩn để xác định thế nào là mội trang trại vẫn là vấn đề còn nhiều tranh cãi, thiếu thống nhất. Thực tế cho thấy, giữa các địa phương còn có sự khác biệt rất lớn trong việc xác định tiêu chuẩn trang trại Theo kết quả tổng hợp số liệu của các địa phương tính đến ngày01/7/1999 cả nước ta có 90.160 trang trại (theo khái niệm trang trại của các địa phương), nhưng theo quy định của tổng cục thống kê cả nước có 45.372 trang trại. Theo quy định của tổng cục thống kê thì một trang trại phải hội tụ đủ 4 yếu tố sau: - Diện tích trang trại phải trên 2ha (đối với khu vực Bắc trung bộ );3ha (đối với khu vực Nam bộ ), đối với trang trại trồng cây ăn quả, đối với trang trại lâm nghiệp diện tích từ 10ha trở lên, đối với trang trại thuỷ sản diện tích từ 2 ha trở lên. - Có sử dụng lao động làm thuê từ hai lao động/năm trở lên. - Chủ trang trại có kiến thức nông lâm ngư nghiệp. - Lấy sản suất hàng hoá làm hướng chính và có thu nhập vượt trội hẳn so với mức trung bình. Theo ban kinh tế TW thì kinh tế trang trại không thể căn cứ vaò diện tích mà nên căn cứ vào. - Giá trị tài sản mà chủ trang trại dựa vaò quá trình sản xuất kinh doanh (thường lớn hơn 100 triệu đồng Việt nam ). - Số lượng công nhân mà chủ trang trại thuê mướn thường xuyên (lớn hơn 10 người). - Giá trị hàng hoá và xuất sinh lờido trang trại tạo ra trong một thời gian nhất định, trong một năm cao hơn 30% so với mức bình quân của hộ nông dân trong vùng. - Chủ trang trại là người quản lý ,điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, ở tỉnh Sơn la hiện nay chưa có tiêu chí thống nhất để xác định kinh tế trang trại, mỗi cơ quan, mỗiđịa phương dựa trên tiêu chí xác định trang trại khác nhau, theo Hội nông dân, hội làm vườn, người ta xác định kinh tế trang trại theo các tiêu chí sau: - Là hội viên hội nông dân tỉnh - Thu nhập bình quân 10triệu/năm (đã trừ chi phí). Gần đây nhất (tháng3/1999)theo thống kê của sở nông nghiệp và phát triển nông thôn thì cứ hộ nông dân nào có đủ 2 điều kiện sau thì được coi là trang trại . - Diện tích canh tác lớn hơn 1ha. - Thu nhập bình quân lớn hơn 10triệu đồng/trang trại (sau khi đã trừ chi phí), theo tiêu thức trên, Sơnla hiện nay có 4.705 trang trại Từ những tiêu chí xác định trang trại của các tác giả, các cơ quan ban nghành, các địa phương ở trên, quan điểm của em vè vấn đề này là việc sớm hình thành một hệ thống tiêu thức đảm bảo tính khoa học trong việc xác định mô hình kinh tế trang trại là hết sức cần thiết và cấp bách, nhưng hệ thống đó phải phù hợp với từng vùng, từng địa phương, từng loại nghành nghề, bởi lẽ kinh tế trang trại thường bcó tính mềm rẻo, có khả năng dung nặp các quy mô khác nhau (tư nhỏ đến vừa và lớn), các hình thức sở hữu khác nhau (từ cá đến tập thể quốc doanh ), các trình độ khoa học và công nghệ, kế đến là tiêu chí về quy mô năng lực sản xuất (đất đai,lao động ,vốn) và kết quả sản xuất (giá trị sản xuất, thu nhập ..), tuy nhiên về quy mô năng lực sản xuất và kết quả sản xuất của trang trại không nên áp dụng cứng nhắc mà phải phù hợp với từng vùng sinh thái, loại hình sản xuất của trang trại, từng địa phương mà cần phải đáp ứng sự phù hợp với yếu tố thời gian. Bởi cùng với thời gian khoa học pháttriển không ngừng thì trình độ sản xuất kinh doanh của trang trại được nâng lên. Do vậy, theo thời gian tiêu chí xác định trang trại cũng phải thay đổi cho phù hợp từ những quan điểm khác nhau nêu trên, đồng thời xuất phát từ bản chất của kinh tế trang trại nông nghiệp mang tính chất là sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường, vì vậy tiêu chí trực tiếpư nhất để nhận dạng trang trại là: giá trị sản lượng và giá trị sản lượng hàng hoá tính chung và tính trên đơn vị diện tích. Bên cạnh tiêu chí trực tiếp còn có các tiêu chí gián tiếp để nhận dạng trang trại sau: - Quy mô diện tích của trang trại. - Quy mô vốn của trang trại. - Quy mô về đàn gia súc - Số lượng lao động. Các tiêu chí trên có thể xét trên phạm vi cả nước hoặc từng vùng cụ thể cho phù hợp. 3. Đặc trưng của kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại thực chất là một cấp độ trong quá trình phát triển của kinh tế hộ từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Tuy vậy giữa chúng có những đặc trưng cơ bản sau đây: Bảng 1: So sánh sự khác nhau về một số đặc trưng cơ bản giữa kinh tế trang trại và kinh tế hộ tiểu nông tự cấp, tự túc. stt Tiêu thức Kinh tế trang trại Kinh tế tiểu nông 1 Mục đích sản xuất. Chủ yếu sản xuất để bán. Chủ yếu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. 2 Quy mô diện tích. Trên diện tích tập trung đủ lớn. Manh mún, phân tán. 3 Quy mô vốn. Yêu cầu tích luỹ vốn lớn. yêu cầu vốn ít. 4 Trình độ sản xuất. Cao, có khả năng áp dụng phương tiện máy móc, kỹ thuật công nghệ hiện đại. Thấp, mang nặng tính thủ công. 5 Khả năng tích luỹ sản xuất. Nhiều. ít. 6 Lao động. Vừa sử dụng lao động vừa sử dụng lao động thuê ngoài Chủ yếu sử dụng lao động gia đình. C.Mác đã phân biệt chủ trang trại với tiểu nông : 'Người chủ trang trại bán ra thị trường hầu hết sán phẩm làm ra, còn người chủ hộ gia đình tiêu dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt'. Quy mô sản xuất hàng hoá được thể hiện qua tỷ xuất hàng hoá là đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế trang trại. Đây là tiêu chuẩn hàng đầu và quan trọng nhất để phân biệt hộ nông dân sản xuất tiểu nông với hệ nông dân sản xuất theo kinh tế trang trại. Từ sự phân tích trên, ta thấy kinh tế trang trại có những đặc trưng sau: - Mục đich sản xuất là tạo ra các sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường nhằm thu lợi nhuận cao. - Có sự tập chung tích tụ cao hơn dõ rệt so với mức bình quân của các hộ kinh tế gia đình trong vùng về các điều kiện sản xuất như đất đai ,vốn ,lao động. - Người chủ trong trang trại cũng là người trực tiếp lao động sản xuất. - Sản xuất đi vaò chuyên môn hoá cao hơn,áp dung nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật nên giá trị sản phẩm thu nhập và giá trị sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng. Một số tác giả cho rằng :sở hữu tài sản gia đình và quản lý điều hành trực tiếp của chủ trang trại cũnh là đặc điểm chung của kinh tế trang trại. Những đặc điểm này có thể phần nào phù hợp với các mô hình kinh tế trang trại ở Việt nam hiện nay. Nhưng qua nghiên cứu cho thấy vẫn có những chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà đi thuê toàn bộ các cơ sở của một trang trại khác để sản xuất, từ đất đai, mặt nước rừng cây, kho tàng,bến bãi, máy móc, thiết bị... (ở Mỹ, năm 1998 giá thuê hàng năm toàn bộ trang trại bằng 0,5-0,8% tổng giá trị tài sản của trang trại theo giá thị trường). 4. điều kiện ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. Chúng ta đã biết trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, Anh là nước tiến hành công nghiệp hoá sớm nhất. Lúc bấy giờ người ta quan niệm một cách đơn giản rằng trong nền kinh tế hàng hoá, nông nghiệp cũng phải xây dựng như công nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn. vì vậy, ruộng đất được tích tụ tập trung, xí nghiệp nông nghiệp tư bản được xây dựng, nhiều trang trại gia đình bị phá sản hoặc phân tán và người ta hy vọng với mô hình này, số lượng nông sản tạo ra nhiều hơn với giá rẻ hơn so với gia đình phân tán. Nhưng người ta quên mất một đặc điểm cơ bản của nông nghiệp khác với công nghiệp là nó tác động vào sinh vật, vào cây trồng cũng như vật nuôi, điều đó không phù hợp với sản xuất tập trung quy mô lớn và việc sử dụng lao động làm thuê tập trung chỉ đêm lại hiệu quả kinh tế thấp. Chính C.Mác lúc đầu cũng nghĩ rằng trong công trình tư bản chủ nghĩa, xây dựng các xí nghiệp chứa nước theo hướng quy mô lớn tập trung là tất yếu. Nhưng về cuối đời chính C. Mác chứ không phải ai khác đã nhận định lại: "ngay ở nước Anh với nghành công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê". Cho đến cuối thế kỷ XIX, trang trại gia đình trở thành mô hình sản xuất phổ biến nhất trong nền nông nghiệp thế giới. Loại hình kinh doanh này gồmb có người chủ cùng với gia đình hoặc có khi có một vài công làm thuê ít nhiều có tham gia sinh hoat với gia đình. Loại hình kinh doanh nay có sứ chống đỡ lớn trong các cuộc khủng hoảng. Trang trại gia đình được hình thành, phát triển từ các hộ tiểu nông. Một khi đã hội tụ được các điều kiện như vốn, kỹ thuật, thị trường thì tiểu nông tự phá vỡ cái vỏ ốc tự cấp, tự túc của mình để dần dần đi vào quỹ đạo của sản xuất hàng hoá. Sản xuất chính là đặc điểm cơ bản đánh dắu sự khác biệt giữa trang trại với tiểu nông: trong khi người chủ trang trại bán toàn bộ hay phần lớn sản phẩm của mình làm ra thì người tiểu nông tiêu dùng đại bộ phận nông sản do mình sản xuất và đối vơí anh ta mua bán càng ít càng tốt. Sau gần hai thế kỷ tồn tại và phát triển,vị trí của kinh tế trang trại gia đình với quy mô nhỏ bé, phân tán sẽ khônh phù hợp với phương thức sản xuất tư bản và sớm muộn cũng bị các xí nghiệp nông nghiệp tư bản đào thải dưới sức ép của quy luật thị trường. Song trên thực tế, không những kinh tế trang trại gia đình trụ lại được mà nó còn trở thành lực lượng nông nghiệp chủ yếu ngay ở các nước nông nghiệp phát triển. ở nước ta những loại hình sản xuất kinh doanh giống như trang trại gia đình hiện nay đã được ra đời từ rất sớm. Ngay từ thế kỷ XIII nhà Trần đã khuyến khích phát triển những thái ấp, điền trang của các vương tôn quý tộc. Năm 1266, nhà trần quyết định: " Cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần triệu tập những người tiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang lập điền trang" - Đại việt sử ký toàn thư, Hà nội 1967 tập II trang 33. Như vậy việc tổ chức đồn điền có từ thời nhà trần, nhưng đến triều Lê Thánh Tông mới chính thức mở rộng quy mô, thành lập các sở đồn điền nhằm mục đích phát triển sản xuất nông nghiệp và tăng cường việc cung cấp lương thực. Theo sách cương mục, từ năm 1481, 43 đồn điền đã được xây dựng dưới thời nhà Lê. Các sở đồn điền đều có chánh phó đồn điền sứ trông coi, có thể mộ dân hay dùng lực lượng tù binh, người bị tội để khai khẩn đất hoang thành ruộng đất và thành lập làng xóm. Ruộng đất ở các sở đồn điền thuộc sở hữu và quản lý trực tiếp của Nhà nước trung ương, không ban cấp đồn điền cho quan lại. Đến khi thực dân Pháp chiếm song nước ta, chúng lại cho phép tư bản thực dân phát triển đồn điền. Các công ty tài chính và bọn thực dân có quyền thế đua nhau lập đồn điền. Năm 1927, chỉ riêng ở Bắc kỳ đã có 155 đồn điền rộng từ 200 ha đến 8500 ha. ở Nam kỳ và cao nguyên Trung kỳ nhiều tên thực dân đã có đồn điền rộng hàng vạn ha. Đến năm 1930, số ruộng đất do thực dân chiếm đoạt để lập đồn là 1,2 triệu ha bằng 1/4 tổng diện tích đất canh tác nước ta lúc bấy giờ. Đồn điền được phân chia làm 2 loại: loại trồng lúa và loại trồng cây công nghiệp. Đến sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988 ),nông thôn nước ta đã có sự phát triển mới. Mỗi hộ nông dân trở thành một đơn vị tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Cái lồng bao cấp được tháo gỡ từng phần, sản xýt hàng hoá dần dần chiếm lĩnh trận địa tự cấp, tự túc mà từ bao đời nay người nông dân đã dẫm chân tại chỗ. Tiếp sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị là Luật đất đai (1993 ), luật này giao quyền sử dụng ổn định lâu dài cho người nông dân với các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê thừa kế và thế chấp. Cùng với Nghị quyết 10 và Luật đất đai, các chính sách thuế khoá, tín dụng, khuyến nông đã là chỗ dựa vững chắc để các hộ tiểu nông chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hình thành các trang trại không chỉ ở những vùng đã quen sản xuất hàng hoá, mà ở cả những vùng chỉ quanh quẩn sau hàng rào tự cấp,tự túc,tỷ xuất ha ngf hoá được nâng lên không chỉ ở những nơi có bình quân ruộng đất caomà cả nhưng nơi đất chật, người đông.sự tăng trưởng kinh tế nổi bật trong nông nghiệp nước ta những năm qua không chỉ là hệ quả của sự gia tăng các yếu tố sản xuất mà phần lớn là do sự thay đổi thể chế trong các hợp tác xã. 5. Các loại hình kinh tế trang trại. a. Phân loại theo hình thức tổ chức quản lý. Theo cách phân loại này có trang trại gia đình, trang trại liên doanh và trang trại hợp doanh kiểu cổ phần: Trang trại gia đình là loại hình có tính phổ biến nhất trong cả nước. Đó là kiểu trang trại độc lập sản xuất kinh doanh do người chủ hộ hay một người thay mặt gia đình đứng ra quản lý. Thông thường mỗi trang trại là của một hộ gia đình,nhưng có những nơi quan hệ huyết thống còn đậm nét thì có khi mấy gia đình cùng tham gia quản lý kinh doanh một cơ sở. Trang trại liên doanh do 2-3 trang trại gia đình hợp thành một trang trại lớn với năng lực sản xuất lớn hơn, đủ sức cạnh tranh với các trang trại lớn, tuy nhiên mỗi trang trại thành viên vẫn có sức tự chủ điều hành sản xuất. đối tượng liên doanh đều là anh em, họ hàng hay bạn bè thân thiết, ở các nước chău á do quy mô trang trại nhỏ nên loại trang trại liên doanh rất có ít, ở Mỹ trang trại liên doanh có nhiều hơn, nhưng chỉ chiếm 10% tổng số trang trại và 16% đất đai. Trang trại hợp doanh tổ chức theo nguyên tắc một công ty cổ phần hoạtđộng trong lĩnh vực sản xuất, chế biến ,tiêu thụ nông sản. Loại trang trại này thường có quy mô lớn, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao động làm thuêl à chủ yếu, ở Mỹ năm 1982, bình quân một hợp doanh nông nghiệp có 1 triệu 52 ngàn USD giá trị đất đai và công trình, 144 ngàn USD máy móc và thiết bị, 4 ôtô vận tải ,1,3 máy gặt đập liên hợp, 9 công nhân thường xuyên và 18 công nhân thời vụ . Trong trang trại hợp doanh nông nghiệp được chia làm 2 loại : Hợp doanh gia đình và hợp doanh phi gia đình. b. Phân loại theo cơ cấu sản xuất. Cơ cấu này được xác định căn cứ vào điều kiiện tự nhiên, trình độ sản xuất và đặc điểm thị trường của từng vùng. Nhiều trang trại kinh doanh tổng hợp kết hợp nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp như các nước Chău á, kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp như các nước Bắc ău, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi ở nhiều nước khác. ở những nước mà nông nghiệp phát triển như mỹ, Canađa, Tây ău thì cơ cấu sản xuất theo hướng chuyên môn hoá như nuôi gà, vỗ béo lợn, nuôi bò thịt hoặc bò sữa, chuyên trồng cây ăn quả hay trồng rau, trồng hoa và cây cảnh..., lại có những trang trại chuyên sản xuất nông sản hay lâm sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, có khi kết hợp sản xuất với chế biến nông, lâm sản ở trình độ sơ chế hoặc tiến lên tinh chế. c. Phân loại theo cơ cấu thu nhập. Lâu nay, phân loại theo cơ cắu thu nhập là hình thức phổ biến, ở những nước nông nghiệp kém phát triển, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp thì đương nhiên cơ cấu thu nhập của trang trại là dựa vào hoàn toàn hay phần lớn là nông nghiệp. Người ta gọi đó là những "trang trại thuần nông". Theo đà phát triển của công nghiệp, số trang trại thuần nông ngày một giảm (ở Đài loan năm 1960 49,3% số trang trại là thuần nông, đến năm 1980 tỷ lệ này còn 9%, ở Nhật bản năm 1950, số trang trại thuần nông chiếm 50%, đến 1985 tỷ lệ này còn giảm xuống 15%). Ngược lại số trang trại có thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp ngày càng tăng. Những trang trại có nguồn thu nhập chính từ nông nghiệp thường là cơ sở sản xuất nông nghiệp quy mô vừa và lớn,thu nhập từ nông nghiệp đủ sức trang trải nhu cằu sinh hoạt và tái sản xuất. Các trang trại có từ thu nhập nông nghiệp và ngoài nông nghiệp thường có quy mô nhỏ, thu nhập từ nông nghiệp không đủ đáp ứng các nhu cầu nên phải đi làm thêm ngoài trang trại trên địa bàn noong thôn, có khi cả ở thành phố để tăng thêm thu thập, không ít các trang trại loại này bị lỗ, nhưng không bị xoá sổ, vì đã có thu nhập ngoài nông nghiệp bù đắp. d. Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Trường hợp phổ biến là người chủ trang trại có sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất từ đất đai,công cụ máy moc đén chuồng trại , kho bãi. Riêng về sở hữu ruộng đấ, ở nhiều nước 70-80% số chủ trang trại có ruộng đất riêng, ở Mỹ năm 1982, số chủ trang trại có sỡ hữu hoàn toàn về đất đai chiếm 59%, sở hữu một phần là 29,3% và thuê hoàn toàn ruộng đất là 11,7%. Chủ trang trại chỉ có sở hữu một phần tư liệu sản xuất,còn một phần đi thuê người khác. Trường hợp không phải là cá biệt tuy trang trại có đất đai nhưng phải đi thuê máy móc, chuồng trại, kho bãi. Chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà đi thuê toàn bộ cơ sở của một trang trại hoặc của nhà nước để sản xuất, không chỉ máy móc, thiết bị, kho tàng, chuồng trại mà cả đất đai, mặt nước, rừng căy, ở Mỹ năm1988, giá thuê hàng năm toàn bộ một trang trại bằng 1-8,8% tổng giá trị tài sản của trang trại ấy. Theo giá thị trường tuỳ từng vùng và loại hình trang trại . Thực tế các nước phát triển cho thấy sở hữu tư liệu sản xuất không phải là yếu tố quyết định thành bại của trang trại, ở mỹ, không ít nhưỡng chủ trang trại đi thuê tư liệu sản xuất để kinh doanh có lợi nhuận cao không kém các chủ trang trại có quyên sở hữu về tư liệu sản xuất. 6. Kinh tế trang trại ở một số nước và ở nước ta. 6.1 Sự phát triển kinh tế trang trại ở một số nước trên thế giới. Trải qua hơn hai thế kỷ tồn tại và phát triển, kinh tế trang trại được khẳng định là mô hình kinh tế phù hợp đạt hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông lâm nghiệp ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia có điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau cho nên các mô hình trang trại khác nhau. Có những chủ trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp như: Kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, nông nghiệp với lâm nghiệp (ở các nước Bắc ău), kết hợp nông nghiệp với các nghành nghề khác ở nông thôn (ở các nước châu á), cũng có những trang trại sản xuất cao như trang trại chuyên sản xuất ngũ cốc ở Mỹ hay Tây ău . Về quy mô trang trại cũng có sự thay đổi tuỳ theo từng nước. Cao nhất là các trang trại ở Bắc mỹ và Mỹ, quy mô bình quân một trang trại khoảng 180 ha, thấp nhất là các nước Chău á, quy mô diện tích bình quân từ 0,9-4,5 ha. Quy mô về số lượng trang trại cũng có sự thay đổi qua từng thời kỳ, từng giai đoạn gắn liền với qúa trình hiện đại hoá. ở pháp, 1802 có 5.6720.000 trang trại, đến năm 1892 có 5703.000 trang trại, tăng 31000 trang trại, nhưng từ đó số lượng các trang trại liên tục giảm.đến 1987 chỉ còn 893000 trang trại. Trongkhi đó quy mô diện tích liên tục tăng, năm 1802 quy mô trung bình một trang trại chỉ có 5,9 ha đến năm 1929 là 11,6 và đến năm 1987 tăng lên 29ha/1 trang trại. (xem biểu 3) ở Tây đức cũng vậy, năm có 5.276.000 trang trại đến năm 1907 là 5.736.000 trang trại, tăng 46.000 trang trại, nhưng từ năm 1907 đến 1985 số lượng các trang trại lại liên tục giảm, đến năm 1985 chỉ còn 83.000 trang trại, ngược lại, quy mô diện tích của một trang trại lại có xu hướng tăng lên. Năm 1882 là 6ha/1 trang trại đến năm 1949 là 11ha và năm 1985 là 15ha/1 trang trại (xem biểu 2) Biểu 2: sự phát triển trang trại ở Tây đức. 1882 1895 1907 1949 1960 1971 1985 1.Số lượng trang trại (1000.trang trại ) 5276 5558 5736 2051 1709 1075 938 2.Diện tích bình quân (ha/trang trại ) 6,0 5,8 5,7 11 13 14 15 Nguồn:-Nguyễn Điền ,Trần Đức- Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và chău á, Hà Nội 1993. - Đào Thế Tuấn- Quá trình phát triển trang trại gia đình- Tạp chí thông tin lý luận 6/1992. Biểu 3 : Sự phát triển trang trại ở Pháp 1802 1892 1908 1928 1950 1960 1970 1987 1.Số lượng TT (1000 TT) 5672 5703 5505 3966 2285 1588 1263 982 2.Diện tích BQ (Ha/TT) 5,9 5,8 6,0 11,6 14,0 19,0 23,0 29,0 Nguồn: Như biểu 2. ở Mỹ tình hình phát triển trang trại cũng theo xu thế các nước Chău ău nhưng chậm hơn 3-4 thập kỷ (xem biểu 4). Biểu 4: sự phát triển trang trại ở Mỹ 1900 1910 1930 1940 1950 1960 1970 1980 1985 1990 1.Số lượng TT ( 1000 TT ) 5737 6404 6546 6350 5530 3960 2630 2300 2220 2140 2.diện tích BQ ( Ha/TT) 24,0 39,0 61,0 72,0 86,0 120,0 151,1 173,0 182,0 190,0 Nguồn: Như biểu số 2. Đối với một số nước công nghiệp mới như Đài loan và Hàn quốc, tình hình phát triển trang trại cũng theo quy luật chung: khi bước vào công nghiệp hoá thì trang trại phát triển mạnh, khi công nghiệp hoá đã phát triển thì trang trại giảm về số lượng (xem biểu 5 ,6 ). Biểu số 5: Sự phát triển trang trại ở Đài loan 1955 1960 1970 1988 1. Số lượng trang trại (1000 trang trại ) 714 808 916 730 2. Diện tích bình quân (ha/trang trại ) 1,1 0,91 0,83 1,2 Biểu số 6: Sự phát triển trang trại ở Hàn Quốc 1953 1965 1975 1980 1. Số lượng trang trại (1000 TT ) 2249 2507 2379 1772 2. diện tích bình quân (ha/TT) 0,86 0,9 0,95 1,2 Như vậy lúc đầu công nghiệp hoá tác động tích cực đến sản xuất nông - lâm nghiệp cho nên số lượng trang trại tăng nhanh. khi công nghiệp hoá đạt đến mức độ cao thì một mặt công nghiệp thu hút lao động từ nông nghiệp, mặt khác nó lại tác động làm tăng năng lực sản xuất của các trang trại bằng việc trang bị máy móc thay thế lao động thủ công. Do vậy số lượng các trang trại giảm nhưng quy mô diện tích và giá trị tổng sản lượng được cung cấp từ trang trại lại tăng lên. * Các yếu tố sản xuất của trang trại: - Ruộng đất: phần lớn trang trại sản xuất trên ruộng đất thuộc sở hữu của gia đình. Nhưng cũng có trang trại phải đi thuê một phần hoặc toàn bộ ruộng đất tuỳ vào từng nước. ở Anh, Năm 1985 có 60% trang trại có ruộng đất riêng, 22% thuê một phần và 18% thuê toàn bộ. Năm 1990 có 70% trang trại gia đình có ruộng đất riêng, 30% trang trại phải đi thuê một phần hay toàn bộ ruộng đất. ở Đài Loan, Năm 1981 có 84% trang trại có ruộng đất riêng, 9% đi thuê một phần và 7% thuê toàn bộ ruộng đất để sản xuất kinh doanh. - Vốn sản xuất: Nhìn chung, để mở rộng sản xuất kinh doanh các trang trại ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều vốn vay từ bên ngoài. ở Mĩ, năm 1960 tổng số vốn vay của trang trại là 10 tỷ USD, năm 1970 là 54,5 tỷ USD, năm 1985 là 88,5 tỷ USD. ở Nhật Bản năm 1970 là nước có khoản đầu tư lớn nhất cho nông nghiệp, quỹ tài trợ sản xuất lúa gạo chiếm 44% ngân sách cho đầu tư nông nghiệp. - Máy móc thiết bị phục vụ sản xuất: ở các trang trại công cụ sản xuất bao gồm súc vật cày kéo, máy móc động lực cơ điện, công cụ máy nông nghiệp và các chuồng trại nhà kho. Đến nay ở các nước phát triển đã tăng cường sử dụng máy móc hiện đại với mức độ cơ giới hoá ngày càng cao, từng bước tự động hoá tin học hoá trong sản xuất. Hình thức sử dụng máy móc do một hiệp hội đứng ra quản lý đang ngày càng phổ biến. ở Nhật Bản năm 1985, 67% trang trại có máy kéo nhỏ, 20% trang trại có máy kéo lớn. - Sử dụng lao động trong các trang trại: Số lượng lao động trong các trang trại ở mỗi nước không còn phụ thuộc vào quy mô sản xuất mà chủ yếu phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất nông nghiệp. Một trang trại có quy mô 25- 30 ha chỉ sử dụng 1- 2 lao động gia đình và từ 1- 2 lao động làm thuê thời vụ. Thậm trí ở Mĩ trang trại lớn hơn 100 ha chỉ sử dụng 2 lao động chính. ở một số nước Châu á như Nhật Bản năm 1990 mỗi trang trại có khoảng 3 lao động, nhưng chỉ có 1,3 lao động làm nông nghiệp. Từ quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên thế giới nên ta có thể rút ra một số nhận xét sau: - Phát triển kinh tế trang trại là thích hợp và đạt hiệu quả kinh tế cao. - Quy mô trang trại ở mỗi nước là khác nhau, nhưng có xu hướng ngày càng tăng lên. - Đất đai của trang trại thuộc nhiều loại sở hữu khác nhau, trong đó chủ yếu là đất thuộc sở hữu của hộ gia đình. Người chủ trang trại có toàn quyền quyết định phương hướng sản xuất kinh doanh của trang trại sao cho đạt hiệu qủa cao nhất. - Cơ cấu thu nhập của trang trại thay đổi theo chiều hướng giảm thu từ nông nghiệp, trong khi đó thu từ các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng. - Các chủ trang trại ngày càng chú trọng hơn vào việc đầu tư ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý của trang trại nhằm đáp ứng tốt hơn mục tiêu sản xuất hàng hoá của loại hình tổ chức sản xuất hàng hoá này. - Trong chính sách của Chính phủ các nước đều có xu hướng thống nhất là kích thích, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để kinh tế trang trại thực sự phát huy được nội lực và ưu thế của nó trong quá trình phát triển hướng tới một nền nông nghiệp văn minh. 6.2. Tình hình chung về phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam. Mặc dù đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng kinh tế trang trại ở Việt nam chỉ phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, có thể xem thực hiện chỉ thị 100 Ban bí thư TW khoá IV, NQ10 của Bộ chính trị về phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân và đặc biệt sau khi luật đất đai ra đời năm 1993 thì kinh tế trang trại thực sự có bước phát triển khá nhanh và đa dạng. Nếu theo quy định của tổng cục thống kê về tiêu chuẩn trang trại ( Quyết định số 359/1998/QĐ - TCTK ngày 01/07/1998 ) thì cả nước có 45.372 trang trại. Trong đó chia theo hướng sản xuất có 37.949 trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm và cây hàng năm, chiếm 83,6%; 1306 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 3,8%; 2559 trang trại kinh doanh tổng hợp đa nghành, chiếm 5,6%. Chia theo vùng kinh tế: Vùng Đông Bắc có 3.491 trang trại, chiếm 7,7%; Vùng Tây Bắc có 238 trang trại chiếm 0,5%; Vùng Đồng Bằng Sông Hồng có 1394 trang trại chiếm 9,2%; Vùng Duyên Hải Miền Trung có 2.706 trang trại, chiếm 4,6%; Vùng Tây Nguyên có 6.333 t, chiếm 4,6%; Vùng Tây Nguyên có 6.333 trang trại, chiếm 13,6%; Vùng Đông Nam Bộ có 8402 trang trại, chiếm 18,5%; Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có 19259 trang trại, chiếm 42,4%. Số LĐ bình quân/ trang trại là 2,8 người, lao động thuê ngoài theo thời vụ 11,5 người. Bình quân 1 trang trại trồng trọt có 5,3 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp có 26,8ha nuôi trồng thuỷ sản có 10,7ha. chăn nuôi có 528 con trâu,bò; 530 con gia cầm. Vốn sản xuất bình quân của 1 trang trại là 60,2 triệu đồng; thu nhập bình quân 1 trang trại là 22,6 triệu đồng (thu nhập đã trừ chi phí ). Về quy mô diện tích của mỗi trang trại ở nước ta theo điều tra của cục thống kê cho thấy: trang trại < 1ha chiếm 15%; từ 1 - 5 ha chiếm 28%; từ 5- 10 ha chiếm 34%; từ 10- 20 ha chiếm 16%; từ 20 - 50 ha chiếm 4% và trên 50 ha chiếm 3%. Ngoài việc góp phần làm giàu cho các chủ trang trại, phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam trong những năm qua đã giải quyết việc làm tại chỗ cho hơn 50.000 lao động làm thuê thường xuyên và 520.000 lao động làm thuê theo thời vụ tạm thời ở nông thôn. Tổng số vốn huy động đâu tư phát triển kinh tế trang trại ước tính là 2.730,8 tỷ đồng, thu nhập hàng năm từ các hoạt động kinh tế của trang trại là 1.023,6tỷ đồng. Ngoài ra các trang trại còn đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao độ che phủ của rừng từ 22% lên 28%. kinh tế trang trại đã tự khẳng định vai trò của mình trên hầu khắp các vùng kinh tế: đồi núi, đồng bằng, ven biển. Vùng đồi núi nước ta từ Bắc Bộ đến Trung Bộ, Tây nguyên và Đông Nam Bộ có lợi thế về quỹ đất phát triển nông - lâm nghiệp với 9,3 triệu ha đất rừng và 9,6 triệu ha đất trống đồi núi trọc, có thời tiếta khí hậu thuận lợi cho phát triển trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc theo mô hình kinh tế trang trại. Trong những năm gần đây đã xuất hiên ngày càng nhiều các mô hình kinh tế trang trại của các hộ gia đình từ miền xuôi lên trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây cà phê, chè, hạt tiêu, điều,cao su...., chăn nuôi trâu bòvới quy mô nhỏ, vừa và lớn. Vùng ven biển: nước ta có triều dài bờ biển trên 2000km với các eo biển, bãi biển, đầm phà, rừng ngập mặn. Diện tích của vung địa lý này ước tính vào khoảng 400.000ha là vùng lãnh hải rộng lớn có điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng, khai thác thuỷ hải sản. ở các vùng ven biển từ Bắc đến Nam đã xuất hiện các mô hình trang trại nuôi tôm, cua, cá, ngao..... với đủ mọi quy mô. Đến năm 1997, vùng ven biển có15.666 trang trại có quy mô từ 5 - 20 ha. Vùng Đồng Bằng: Đồng bằng là nơi sản xuất ra 70 - 80% sản lượng lương thực, thực phẩm của cả nước và là nơi xuất khẩu toan bộ lúa gạo. Đồng bằng là nơi đát trật, người đông, lao động dồi dào, cơ sở hạ tầng phát triển, gần thị trường, có điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Đồng Bằng Sông Cửu Long có quỹ đất tương đối dồi dàonên nhiều hộ nông dân đã thực hiện sản xuất theo mô hình trang trại với đủ môị quy môtừ 1 - 30 ha. Có trên 50% tổng số 1,8 triệu hộ nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long sản xuất nông sản hàng hoá, trong đó khoảng 400.000 hộ nông dân là trang trại gia đình với nhiều dạng khác nhau thông qua đấu thầu đất đai, mặt nước hoang hoá, nhận khoán thâm canh, phát triển chăn nuôi, kinh doanh tổng hợp, nuôi trồng các loại cây con đặc sản như: hoa, cây cảnh, ba ba, rùa. ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng hiện nay có ít nhất 10 - 12% số hộ nông dân sản xuất kinh doanh hàng hoá. * Nhận xét về tình hình và xu thế phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam hiện nay: - Mô hình kinh tế trang trại ngày nay phát triển rộng khắp trên mọi vùng kinh tế của đất nước và ngày càng chứng tỏ là loại hình sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn. - kinh tế trang trại khá đa dạng về quy mô, loại hình sản xuất,cơ cấu nghành nghề, thành phần của chủ thể ... Nhưng đều đem lại hiệu quả kinh tế xã hội, môi trường sinh thái rõ rệt nhờ phát huy tốt nội lực, khai thácmọi nguồn tiềm năn, cơ hội của mình. - Kết quả và hiệu quả kinh tế xã hội - môi trường lớn nhất là kinh tế trang trại đã góp phần biến những vùng đất hoang hoá, khô cằn hoặc ngập nước quanh năm thành những vùng kinh tế trù phú, toạ thêm việc làm, tăng của cải vật chất cho cộng đồng và xã hội. Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tế phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam trong những năm qua đã đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi Nhà nước, các cấp, các nghành và trước hết là các chủ trang trại quan tam nhằm: Một mặt phát huy tốt nội lực của trang trại, mặt khác hạn chế những mặt trái của quá trình phát triển kinh tế trang trại gây ra như vấn đề công ăn việc làm ở nông thôn do tích tụ ruộng đất, tranh chấp đất đai, phá rừng nguyên sinh, rừng ngập mặn..,làm ảnh hưởng tới lợi ích của người nông dân, của cộng đồng, của xã hội trước mắt cũng như trong tương lai. 7. Các chỉ tiêu phân tích. Căn cứ vào đặc điểm cụ thể của kinh tế trang trại tỉnh Sơn La, em xác định hệ thống chỉ tiêu sau để phản ánh và đánh giá thực trạng kinh tế trang trại của tỉnh trong quá trình nghiên cứu. a. các chỉ tiêu phản ánh các yêú tố sản xuất của trang trại. - Đất đai bình quân 1 trang trại . - Vốn sản xuất bình quân một trang trại . - Lao động bình quân một trang trại. Cơ cấu lao động theo lao động( lao động gia đình, lao động thuê ngoài ). b. các chỉ tiêu phản ánh kết quả , chi phí hiệu quả và tình hình sản xuất hàng hoá của trang trại. *các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Tổng doanh thu của trang trại là tổng là tổng trang trại tính bằng tiền của các loại sản phẩm được sản xuất ra ở trang trại bao gồm phần giá trị để lại tiêu dùng (tiêu dùng cho sinh hoạt và cho tái sản xuất) và giá trị sản phẩm bán ra trên thị trường. - Tổng chi phí: Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất bao gồm các khoản chi phínguyên vật liệu: giống, phân bón, thuốc trừ sâu, lao động và các khoản chi phí dịch vụ bên ngoài:Bảo vệ thực vật, dịch vụ thuỷ lợi. - Lợi nhuộn : Là giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ do các nghành sản xuất tạo ra trong một năm hay một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Lợi nhuộn được tính theo công thức : TN=TR-CT Trong đó: TN: Lợi nhuận. TR: Tổng doanh thu . TC: Tổng chi phí. * Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế. Doanh thu / Chi phí = Tổng doanh thu / Tổng chi phí. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chí bỏ ra cho sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu đồng thu. Lợi nhuận / Chi phí = Tổng lợi nhuận / Tổng chi phí. chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi bỏ ra cho sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Doanh thu / lao động = Tổng doanh thu / Tổng số lao động . Trong đó: Tổng ssố lao động bao gồm cả lao động gia đình và lao động thuê ngoài. Chỉ tiêu này cho biết cứ một lao động tham gia vào sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu đồng doanh thu . Thu nhập / Lao động = Tổng doanh thu / Tổng số lao động. Chỉ tiêu này cho biết cứ một lao động tham gia vào sản xuất kinh doanh thì đưa lại cho trang trại bao nhiêu đồng thu nhập . Doanh thu / Diên tích = Tổng doanh thu /Tổng diện tích . Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị diên tích (Ha) canh tác thì trang trại thu được bao nhiêu đồng thu nhập Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị diên tích (Ha) canh tác thì trang trại thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Thu nhập / Diện tích = Tổng thu nhập / Tổng diên tích. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị diện tích (ha)canh tác thì trang trại thu được bao nhiêu đồng thu nhập. CHƯƠNG II Thực trạng và phát triển kinh tế trang trại của Sơn La I. Đặc điểm tư nhiên, kinh tế- xã hội có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại của tỉnh 1. Đặc điểm tự nhiên. a. vị trí địa lý. Sơn La là một tỉnh miền núi nằm ở phía tây của tổ quốc,được chính phủ công nhận là tỉnh vùng cao, ở vào vị trí địa lý khoảng 20039'- 22002' vĩ độ Bắc và 103011' kinh độ Đông. Nhìn chung địa hình mang tính đồi núi thấp, độ cao trung bình vào khoảng 600-700m, các hệ thống núi trong tỉnh đều chạy theo hướng Tây bắc -Đông nam và cùng với dải Hoàng liên sơn. ở phía Bắc có dải cao nguyên đá vôi ở giữa, chúng chia lãnh thổ Sơn La thành hai khu vực sông lớn là sông mã Sông Đà, từ mỗi dãy núi lớnlại có nhiều nhánh núi nhỏ đâm ra theo các hướng khác nhau. Do đó đặc điển nổi bật của địa hình ở đây là độ dốc lớn, mức độ chia ngang và chia cắt său mạnh cho nên đai bộ phận đồng ruộng của Tỉnh rất nhỏ hẹp, manh mún, chủ yéu là ruộng bậc thang, trên 80% diện tích có độ dốc trên 35độ và khoảng 5% diện tích có độ dốc dưới 15độ. Sơn La có gần 200 km đường biên giáp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào anh em,Sơn La đã có chiều dài trên 200km và chiều ngang hẹp, chỗ hệp nhất chỉ có 45km. Sông Đà và sông Mã chay song song theo chiều dài của Tỉnh. Phía bắc là các dẫy núi cao liên tiếp, trung bình có độ cao 1200 m, Trong đó có đỉnh Su pu phin cao 2874m. Giữa Tỉnh có dẫy núi Siu Sung Chảo Chai khá cao từ huyên thuận chău kéo dài qua huyện Mai Sơn, Yên Châu về giáp Hoà Bình. Trải dài theo chiều dài của tỉnh là hai cao nguyên đólà cao Mộc chău kéo dài từ huyện Yên Chău đến suối Rút độ cao trung bình 1000 m với bề mặt tương đối bằng phẳng và cao nguyên Sơn La kéo dài từ Thuận Châu đến Cò Nòi huyện Mai Sơn, địa hình ở đây cao 500-700 m, đồng thời cũng là đường phân thuỷ giữa sông Đà và sông Mã. Địa hình bị chia cắt său và mạnh tạo cho Sơn La có nhiều vùng khí hặu khác nhau với nhiều chủng loại căy con khác nhau. b. Đất đai. Sơn La có diên tích tự nhiên 1.405.500 ha, rộng thứ 5 trong 61 tỉnh thành trong cả nước, nhưng chỉ có 13% là diện tích tự nhiên (trên 18 vạn ha) có độ dốc dưới 25độ,còn lại phần lớn đất đai (83%) ở độ dốc cao. Một số đặc điểm đáng chú ý là trong tổng số đất nông nghiệp đang được sử dụng của Sơn La hiên nay chỉ có khoảng 40% có độ dốc dưới 25độ,còn lại 30%có độ dốc trên 25độ và 30%có độ dốc trên 35độ. Do nông nghiệp canh tác tren dốc có độ dốc cao cho nên sau một thời gian canh tác đất nhanh chóng bị rửa trôi,bạc màu không phù hợp cho sản xuất nông nghiệp nữa mà phải chuyển sang trồng cây công nghiệp . Tiềm năng mở rộng còn khoảng 7 vạn ha. Trong đó có 4 vạn ha có độ dốc dưới 25 và phải tận dụng khoảng 3 vạn ha ở độ dốc 20 - 30 làm đồng cỏ chăn nuôi, trồng cây dài ngày như chè, cây ăn quả. Nhưng do điều kiện địa hình phân tán chia cắt, nhiều điểm ở quá xa khu dân cư, đường giao thông chưa phát triển nên việc khai thác đưa vào sử dụng 7 vạn ha đất nông nghiệp hoang hoá này đòi hỏi khối lượngvốn đầu tư khá lớn. Nếu tính bình quân theo đầu người thì đất canh tác của tỉnh Sơn La không phải là quá thấp so với bình quân chung cả nước, nhưng hệ số lần trồng trên một đơn vị diện tích còn đạt thấp, mới chỉ đạt 1,1 - 1,5 lần vì địa hình, thời tiết khí hậu khó khăn ( khô hanh vào vụ đông xuân ). Ruộng nước chỉ có 15 nghìn ha vừa qua đã bị ngập 1 ngàn ha do việc xây dựng thuỷ điện Hoà Bình. Đất trồng lúa nương hiện còn khoảng 3 - 4 vạn ha, nhưng nếu xét về mặt địa hình thì chỉ có 1 vạn ha là có thể tồn tại một cách hợp lý. Trong 4 vạn ha đang được sử dụng trồng lúa nương thì có trên 1 vạn ha có độ dốc trên 45 và 2 vạn ha thích hợp với việc trồng cây màu lương thực như ngô, sắn. Đặc biệt Sơn La vẫn còn quỹ đất khoảng 2,2 vạn ha có thể dùng cho cây công nghiệp dài ngày. Tuy là tỉnh có khả năng lớn về lâm nghiệp ( trên 79% diện tích tự nhiên có thể dùng cho phát triển lâm nghiệp ). Song diện tích rừng bình quân theo đầu người chưa hết 1 ha. Từ những năm 1950cho đến những năm 1980 rừng Sơn La bị tàn phá nặng nề, từ diện tích che phủ đạt 45% vào cuối những năm 1980. Nhưng đến nay rừng đang được chú trọng khôi phục và phát triển nên đã nâng độ che phủ, tính đến 31/12/1998 là trên dưới 20%. Biếu số 7: Hiện trạng đất đai của tỉnh Sơn La. Các chỉ tiêu Toàn Quốc Tỉnh Sơn La Diện tích (Ha) Cơ cấu (%) Diện tích (Ha) Cơ cấu (%) Tổng diện tích tự nhiên 32.868.095 100 1.405.500 100 I.Đất nông nghiệp 7.954.079 24,20 245.962 17,5 1.Trồng cây hàng năm 5.575.809 70,10 165.532 67,3 2.Trồng cây lâu năm 548.831 6,90 15.249,50 6,2 3.Ao hồ phục vụ NN 1.423.780 17,90 40.583,70 16,5 4.Đất vườn 79.541 1,00 3.935,40 1,6 5.Đồng cỏ chăn nuôi 326.117 4,10 20.661 8,4 II.Đất lâm nghiệp 2.071.594 27,60 543.928 38,7 III.Đất dân cư 2.070.689 6,30 63.247,50 4,5 IV.Đất chuyên dùng 3.681.226 11,20 174.282 12,4 V.Đất chưa sử dụng 10.089.584 30,70 518.630 36,9 1.Đất bằng 1.442.810 14,30 35.266,80 6,8 2.Đồi núi 7.668.084 76,00 440.835,50 85,0 3.Mặt nước 978.689 9,70 42.527,60 8,20 Nguồn: Sở Địa chính Sơn La Hiện nay Sơn La còn khoảng 70 vạn ha đất trống đồi núi trọc có khả năng phát triển lâm nghiệp (trong đó khoảng 8 vạn ha có thể phát triển nông nghiệp). Đây là tiềm năng khá lớn về mặt đất đai mà trong tương lai Sơn La có thể khai thác được. c. Đặc điểm khí hậu Do ảnh hưởng của vị trí địa lý, độ cao địa hình nên khí hậu Sơn La có những nét đặc thù riêng, song nhìn chung vẫn mang tính khí hậu gió mà chí tuyến. Vì cấu trúc địa hình như trên mà lãnh thổ bị che khuất cả hai luồng gió chính, cho nên mùa đông rất khô hanh và mùa hè có gió lào khô nóng. Do địa hình cao (trên 500m ) nên khí hậu ở đay mang tính nhiệt đới rõ rệt. * Chế độ nhiệt: Sơn La là một trong những tỉnh có thời lượng mặt trời chiếu sáng rất cao, gần như quanh năm (từ tháng1đến tháng 11) nên lượng bức xạ tổng cộng của Sơn La lớn (135,1 KCal/cm/ năm)và cán cân bức xạ cao (76,9 KCal/cm/ năm), nhưng kết hợp với chế độ toàn lưu, độ cao địa hình làm cho nhiệt độ ở đây giảm xuống. Biểu 8: Nhiệt độ trung bình tháng (0 C) Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Thị xã 11,4 16,7 17,7 22,8 24,8 24,9 24,9 24,6 23,8 21,3 18,2 15.3 H. Mộc Châu 12,1 13,6 16,8 20,3 22,3 23,0 23,0 22,5 21,4 19,0 15,9 13.3 Nguồn: Đài KTTV tỉnh Sơn La Chế độ nhiệt cũng phân ra hai mùa, mùa Đông khô kéo dài từ tháng 10 tới tháng 3 năm sau, mùa hè nóng ẩm từ tháng 4 tới tháng 9. Nằm trong khu vực Tây Bắc, Sơn La là một trong những nơi có khả năng đạt tới giá trị nhiệt độ tuyệt đối rất cao, ở những vùng thung lũng có lúc đạt tới 420 C vào tháng 6, tháng 7, cũng có vùng mà nhiệt độ tới thấp có thể xuống tới giá trị nhỏ nhất so với nhiều nơi khác và thường sảy ra vào tháng 1. Biểu 9: Nhiệt độ tối thấp và tối cao tuyệt đối có thể có Địa điểm Tối cao Tối thấp Với mức bảo đảm Tới cao tuyệt đối Với mức bảo đảm Tới thấp tuyệt đối 25% 10% 5% 25% 10% 5% Thị xã Sơn La 37,8 38,8 39,7 40,5 1,2 0,2 -1,2 -3,0 Huyện Mộc Châu 33,9 34,6 35,2 35,7 0,7 -0,1 -0,2 --- Nguồn: Đài KTTV tỉnh Sơn La * Đặc điểm chế độ nhiệt: Chế độ mưa, ẩm cũng bị phân thành 2 mùa rõ rệt. + Mùa Đông: mùa ít mu2ưa, lượng mưa dưới 10% lượng mưa cả năm, độ ẩm không khí xuống thấp tới 75 - 76%, tháng 12 và tháng 1 là nhưngtx tháng có lượng mưa thấp. Mùa này là mùa khô hanh kéo dài, đồng thời lại thường có hiện tượng sương muối ( như tháng 11, 12/ 1999) nên việc gieo trồng gặp rất nhiều khó khăn. + Mùa mưa: Với quy ứoc mùa mưa là thời kỳ mà lương mưa tháng đạt trên 100mm thì ở Sơn La mùa mưa bắt đầu vào tháng 5 và kéo dài tới tháng 9, trong mùa này lượng mưa chiếm tới 90% lượng mưa của cả năm. Sơn La là một Tỉnh tương đối ít mưa so với nhiều nơi khác ( lượng mưa trung bình 1200 - 1600mm), trung bình hàng năm có 123 ngày mưa, thung lũng Yên Châu bị chắn ở phía Đông và phía Tây nên có lượng mưa thấp nhất tỉnh, lượng mưa cả năm chỉ đạt dưới 1200mm và cũng là nơi thiếu độ ẩm trầm trọng vào mùa đông. Biểu 10: Lượng mưa trung bình tháng và năm (mm) Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Thị xã 11 25 42 103 173 263 259 273 153 44 10 116 H. Mộc Châu 4 17 34 79 130 222 270 314 214 58 17 18 Nguồn: Đài KTTV tỉnh Sơn La d. Thuỷ văn, nước ngầm Các đặc điểm địa lý đặc biệt là khí hậu và địa hình đã ảnh hưởng trực tiếp đến đặc điểm và chế độ thuỷ văn của tỉnh Sơn La. Như trên đã nói, Tỉnh Sơn La là một trong những tỉnh có lưọng mưa ít ( 1200 - 1600mm/ năm), lưọng bốc hơi tới 841mm/ năm, hơn nữa các phức hệ đất đá trong vùng có khả năng thấm nước tốt nên ở đây nước ít, lượng dòng chảy nhỏ ( dưới 201/s/km). Tỉnh có mật độ lưới sốnguối trung bình 0,5 - 1,8km/km. Các sông chính đều chảy theo hướng núi: hướng Tây Bắc, Đông Nam, đại bộ phận sông suối Sơn La chảy trên các sườn dốc thung lũng hẹp nên lắm thác ghềnh và thuỷ chiều rất thất thường. Trong thuỷ chế có mùa lũ và mùa cạn kéo dàitừ tháng 5 đến tháng 10 và từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau. Lãnh thổ Sơn La thuộc lưu vực của 2 con sông lớn là sông Đà và sông Mã. Sông Đà chảy quanh tỉnh với chiều dài khoảng 239km, diện tích lưu vực trên 10. 000km với 14 phụ lưu lớn, độ chênh lệch trên 100m nên có nhiều thác. Sông Mã chảy trong tỉnh với chiều dài 93 km, diện tích lưu vực khoảng 4000km với 11 phụ lưu lớn. Biểu 11: Bảng đặc trưng dòng chảy Sông Đà Địa điểm Lưu lượng bình quân năm (m3/s) Tổng lượng nước năm Lưu lượng lớn nhất đo được (m3/s) Hệ số dòng chảy Tên trạm thuỷ văn Sông Đà 1.744 56,4 21.000 0,64 Hoà Bình Nguồn: Sở thuỷ lợi tỉnh Sơn La e. Thổ nhưỡng. Phần lớn đất đai Sơn La phát triển trên vùng đá vôi với hiện tượng cát mạnh, một phần tồn tại phát triển trên đá sa thạch và phiến thạch, một số dạng sườn và bồi tích. Đặc điểm của đất đai Sơn La là tầng đất mặt khá dày, thấm nước tốt, tỷ lệ đạm cao. Tuy nhiên tính chất lý hoá của đất có xu hướng biến đổi theo chiều hướng xấu dần do quá trình canh tácnương dẫy và ruộng bậc thangkhông bón phân trong thời gian dài. Sơn La có các loại đất chủ yếu sau: + Đất đỏ vàng phát triển trên các loại đá cục khác nhau. Phân bổ ở vùng đồi núi thấp nằm giữa dãy Hoàng Liên Sơn và các caom nguyên đá vôi. Đất có thành phần cơ giới trung bình, nơi nào còn lớp phủ thực vật có hàm lượng mùn cao, còn một số nơi bị sói mòn mạnh. + Đất mùn trên núi phân bổ ở cacá vùng núi phía Nam tỉnh với độ dốc lớn, quá trình rửa trôi mạnh. + Đất phát triển trên cao nguyên đá vôi, ở đây phổ biến là nhóm đất tàn tích tại chỗ của đá vôi ( đất đỏ đá vôi ). Ngoài ra còn đất phù xa ven sông Đà và sông Mã, lượng đất này có lượng mùn cao, thành phần cơ giới tập trung, giàu chất hữu cơ. f. Động thực vật. Rừng tự nhiên ở Sơn La bịphá hoại nghiêm trọng nhưng đang được trú trọng phát triển nghề rừng ( ưóc tính chung cho cả vùng Tây Bắc năm 1994 độ che phủ chỉ còn 9 - 10% nay đã được nâng lên khoảng 20% ). Cỏ tranh, lau lách, cây bụi phát triển trên địa bàn rộng, Rừng tốt chỉ còn lác đác vài vệt, tập chung ở các vùng núi cao, xa khu dân cư. Rừng ở đay là kiểu rừng lá rộng hỗn giao nhiệt đới. ở một dải hẹp có khí hậu khô như sông Mã ta có thể gặp các thực bì lá kim mà đại diện điển hình nhất là cây Du Sam. Vùng đồi núi thấp huyện Phù Yên rừng còn tương đối rậm, tại đây các cây có nguồn gốc ôn đới xen kẽ với các cây nhiệt đớinhư dẻ, re, xen với vàng tâm, trò chỉ... thực vật trồng gồm có các câycông nghiệp dài ngày như hồi, trẩu, chè... Về động vật: Tuy nằm trong khu Tây Bắc nhưng do rừng bị tàn phá nhiều nên tại Sơn La ít gặp các loại thú ăn thịt lớn như hổ, báo mà chỉ có nai, hoẵng, chó, sơn dương, trong các loài chim thì có công, trĩ, giẽ, hoạ mi... Trong các loại côn trùng có ích phải kể đến cánh kiến cỏ, cánh kiến trắng, ong mật... Nuôi thả các loài côn trùng này là nghề cổ truyền của nhân dân Sơn La, đặc biệt là ong đang rất được trú trọng phát triển. ở Sơn La ngoài các loài cá nước ngọt thông thường ở các nơi khác ta còn có thể gặp các loài cá đặc hữu như cá chày, cá chiên, cá nén.... Trong tương lai sông Đà sẽ là một thuỷ vực có nguồn lợi thuỷ sản lớn. 2. Đặc điểm kinh tế xã hội. a. Dân số và lao động. Toàn tỉnh Sơn La có 9 huyện và 1 thị xã, gồm 12 dân tộc anh em cùng sinh sống, cơ cấu dân tộc hầu như ổn định, dân tộc thái chiếm 55,6%, dântộc kinh 18%, H’ Mông 12%, Mường 8,1%, ngoài ra còn có các dân tộc khác như: Khơ mú, Kháng, Sinh mun... Dân số toàn tỉnh Sơn La đến 31/12/1999 có 881.383 người, tuy mật độ dân số thấp 62 người/km nhưng phân bố không đều, khó khăn cho quy hoặch vùngvà bước đầu có mâu thuẫn giữa mật độ dân số và đất canh tác. Dân số thành thị có 112.642 người chiếm 12,27%, dân số nông thôn 768.741 người chiếm 87,22%, số người trong độ tuổi lao động 414.250 người, chiếm 47% dân số toàn tỉnh. Sự phân bố lãnh thổ của chỉ tiêu mật độ dân số phản ánh rõ điều kiện phát triển nông lâm nghiệp. * Vấn đề lao động và sử dụng lao động: + Lao động nông nghiệp đặc biệt chiếm tỷ lệ cao: 91% + Lao động trong công nghiệp, dịch vụ: 9% Ngay ở thị xã Sơn La lao động nông nghiệp cũng chiếm tới 64%, gần bằng tỷ lệ lao động của cả nước. Việc dân cư tập trung quá đông ở nông thôn đã gây ra áp lực lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân. Đồng thời điều này cũng đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiệu quả cao hơn. b. Kinh tế - xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua tình hình kinh tế xã hội của Sơn La đã được phát triển với nhịp độ cao. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh ( GDP ) liên tục nhiều năm đạt 6 - 8%. Xu hướng phát triển kinh tế hàng hoá tiếp tục được duy trì và phát triển, một số mặt được củng cố, nhất là nông - lâm nghiệp nhiều loại nông sản hàng hoá đã có khối lượng tương đối khá. Sản xuất công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tuy không ít khó khăn nhưng tỷ trọng đang tăng dần, trạng thái tự cấp, tự túc nặng nề căn bản được khắc phục, mức độ thuần nông đã giảm bớt. Có thể nhận định rằng, nền kinh tế liên tục phát triển và chuyển dịch đúng hướng theo xu hướng phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phù hợp với nhu cầu của thị trường, hướng theo xuất khẩu và sát với lợi thế của địa phương, từng bước đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. c. Giáo Dục - Y tế - Văn hoá. + Công tác giáo dục đã được xã hội hoá cao, mạng lưới giáo dục đã được mở rộng tới tận các bản. Việc mở các lớp gép, các lớp cắm bản, lớp " linh hoạt ", là một sáng tạo thực sự phù hợp với thực thế miền núi, đáp ứng nhu cầu học tập, nâng cao dân trí của con em dân tộc ít người. Công tác giáo dục đã kết hợp chặt chẽ đa dạng hoá đào tạo giữa tập trung trong việc đào tạo thế hệ trẻ ( nhất là dân tộc ít nhười với cả việc bồi dưỡng, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ giáo viên). Được sự đồng ý giúp đỡ của Bộ đại học hiện nay Sơn La đã mở được 1 trường đại học tại chức ngay tại thị xã Sơn La. Việc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cho tỉnh, tạo nhiều thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã họi của Tỉnh. + Mạng lưới y tế đã vươn tới tận xã, số giường bệnh trung bình của mỗi xã là 3,2 giường, bệnh viện cấp huyện trở lên có quy mô giường bệnh là 154 giường/huyện. Là một Tỉnh đặc thù miền núi y tế Sơn La còn gặp nhiều khó khăn. - Còn rất thiếu cán bộ, y bác sỹ, đặc biệt là cán bộ y bác sỹ có trình độ chuyên môn cao. - Trang thiết bị y tế còn rất thô sơ, thiếu thốn so với nhu cầu chữa bệnh của nhân dân. - Hàng năm vẫn còn sảy ra sốt suất huyết ở các làng bản, bệnh biếu cổ còn thịnh hành mặc dù mạng lưới y tế thường xuyên cấp phát thuốc và chữa trị. + Văn hoá: Trên cơ sở thế mạnh về truyền thông văn hoá dân tộc, hoạt động văn hoá ở tỉnh có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều thành tựu. Duy trì và phát huy mạnh mẽ các hoạt động văn hoá vừa đảm bảo được sinh hoạt văn hoá tinh thần cho nhân dân và các dân tộc vừa phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đã đưa hoạt động văn hoá thể thao tham gia giao lưu đối ngoại tại Lào, Thái Lan đạt kết quả tốt. Duy chỉ có hiệu quả việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hoá tại trường văn hoá nghệ thuật tỉnh, đẩy mạnh các hoạt động thể thao quần chúng, xây dựng được cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các nhà văn hoá trung tâm, thư viện và phương tiện nghe nhìn cho vùng cao. d. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật. + Giao thông: Hệ thống giao thông của tỉnh Sơn La kém phát triển, chỉ có quốc lộ 6 chạy qua trung tâm nối các huyện xuống Hoà Bình, Hà Nội. Ngoài quốc lộ 6 giao thông giữa các huyện, xã chủ yếu là đường cấp phối, đường đất nên mùa mưa đi lại khó khăn. Hiện nay Nhà nước đang đầu tư nâng cấp tuyến đường Phù Yên - Thanh Sơ ( Vĩnh Phúc ) và Sơn La - Sông Mã tạo nhiều thuận lợi cho giao lưu kinh tế. Nhìn chung giao thông giữa các huyện còn kém phát triển ảnh hưởng rất lớn đến việc giao lưu hàng hoá, chuyển giao khoa học kỹ thuật, còn cần sự đầu tư rất lớn của nhà nước cũng như của nhân dân địa phương. + Thuỷ lợi: Tỉnh đã chú trọng đầu tư phát triển hệ thống thuỷ lợi để phục vụ sán xuất nông nghiệp. Tuy nhiên các công trình đầu tưe xây dựng chưa nhiều chưa đáp ứng được nhu cầu tưới tiêu cho nông nghiệp, phần lớn còn là các công trình nhỏ, diện tích tưới tiêu ít và phân tán. Các công trình phần lớn được xây dựng từ lâu nên đến nay đã bị hư hongr nhiều, các đập dâng nước bị dò dỉ, hầu hết các công trình lấy nước của các hồ chứa thường bị hở nên gây thất thoát nước lớn, giảm khả năng tích nước của hồ. Các công trình thuỷ kợi không được xây dựng đồng bộ, chỉ xây các công trình đầu mối, còn các công trình tiếp theo không hoặc ít được xây dựng nên hạn chế khả năng tưới của công trình. Biểu 12: Bảng tổng hợp các loại công trình của tỉnh Sơn La. STT Tên công trình Đơn vị tính Số lượng 1 Hồ chứa nước Cái 107 2 Đập Xây - 41 3 Đập dọ thép - 145 4 Phai tạm (gỗ, đá) - 1.029 5 Kênh mương Km 115,8 6 Trạm bơm Trạm 14 Nguồn: Sở thuỷ lợi tỉnh Sơn La Công tác thuỷ nông tuy đã được chú ý phát triển nhưng vẫn chưa đạt với tầm quan trọng của nó, cho nên trong việc khai thác sử dụng nước còn chưa hiệu quả, nhiều lãng phí. Thuỷ lợi là một trong những yếu tố sản xuất quan trọng hàng đầu của nông nghiệp, do đó để các công trình thuỷ lợi phục vụ tốt hơn cho sản xuất cần phải có biện pháp sữa chữa nâng cấp các công trình hiện nay. Phải có chính sách tốt hơn đối với công tác quản lý thuỷ nông. + Điện: Hiện nay trong tỉnh đã có tuyến đường 35 KV đến tận trung tâm 10 huyện thị trong tỉnh. Nhưng có một số xã vùng cao, vùng sâu chưa có điện. Có một số hộ vùng cao sử dụng máy điện nhỏ ( công suất 300 - 500 w ) dùng cho sinh hoạt. Số hộ gia đình này chưa nhiều nhưng cũng góp phần nâng cao được đời sống vật chất tinh thần tại điạ phương. II.thực trạng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh. 1. tình hình phát triển về số lượng và các loại hình trang trại. *Tình hình phát triển về số lượng. Qua kết quả điều tra của sở nông nghiệp va phát triển nông thôn tỉnh Sơn La cho thấy quá trình phát triển kinh tế trang trại của tỉnh trước hết gắn liền với chủ trương chính sách của đảng và Nhà nước. Trước đây,trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, mô hinh kinh tế trang trại ở tỉnh Sơn La được các hộ nông dân tự phát xây dựng. Từ sau nghị quyết đại hội IX (1990) của đảng bộ Sơn La và nhất là sau khi có nghị quyết TW5 khoá 7 năm 1993 toàn tỉnh có 550 trang trại, năm 1993 tăng lên 3756 trang trại . Năm 1996 toàn tỉnh có 4006 trang trại, đến năm 1998 tăng lên 4705 trang trại . Tốc độ phát triển kinh tế trang trại năm 1993 so với1990 đạt ở mức độ cao nhất, đạt 582,9%, năm 1996 so với năm 1993tăng 6,65%, năm 1998 so với 1996 tăng 17,45%. Từ năm 1990 đến 1998 số trang trại toàn tỉnh mỗi năm tăng 30,77%. Trang trại ở tỉnh Sơn La chủ yếu là phát triển cây công nghiệp có thế mạnh của vùng: chè, mía và cây ăn quả:mơ, mận ..., các trang trại phát triển nghề rừng chiếm tỷ lệ rất nhỏ . do quá trình giao đất rừng cho hộ nông dân tién hành sản suất chưa được triển khai đồng bộ còn chậm ... Qua khảo sát thực tế cho thấy nếu như tốc độ phát triển , hiệu quả sản xuất các trang trại theo chiều hướng giảm xuống năm 1993 quy mô bình quân một trang trại là 3 ha. Thu nhập đạt từ 2-3 triệu đồng /nhân khẩu /năm; năm 1996 quy mô bình quân một trang trại là 3,5 ha,thu nhập đạt 4-5 triệu đồng /nhân khẳu/ năm ; năm 1998 quy mô bình quân một trang trại là 2,98ha, thu nhập bình quân đạt 5,4 triệu đồng / nhân khẳu/năm. (60 triệu đồng /trang trại/năm ). Sự thu hẹp quy mô trang trại của Tỉnh là do quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất thông qua hình thức chia, tách hộ và quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất còn diễn ra chậm.Trên thực tế mô hình trang trại vừa và nhỏ là rất phù hợp với điều kiện tự nhiên.Kinh tế - Xã hội ở Tỉnh Sơn la . Phong trào nông dân sản xuất giỏi theo mô hình kinh tế trang trại trong những năm gần đây phát triển sâu, rộng trong toàn tỉnh,các quy moo sản xuất, phương hướng sản xuất ngày càng đa dạng, rõ nét góp phần quan trọng thúc đẩy việc dich chuyển cơ cáu cây trồng, vật nuôi, khai thác tốt hơn và hiệu quả hơn nỗ lực của tỉnh nhà, bước đầu hình thành vung sản xuất hàng hoá ở mộc châu (chăn nuôi bò sữa, cây công nghiệp và cây ăn quả) mai Sơn (trồng mía cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đường ), Thị xã, Yên châu.. Tuy nhiên, so với tiềm năng kinh tế của Tỉnh thì tỷ lệ 1,6% trang trại trên tổng só hộ của toàn tỉnh là rất nhỏ, tiềm nằg mở rộng đất nông nghiệp còn khoảng 7 vạn ha, trong đó có khả năng sản xuất nông nghiệp là 1 van ha, đất có khả năng sản xuất nông nghiệp khoảng 6 vạn ha *Các loại hình kinh tế trang trại chủ yếu Căn cứ vào kết quả điều tra của sở nông nghiệp và phát triển nông thôn cung cấp kinh tế trang trại của Tỉnh Sơn La có 6 loại hình chủ yếu sau: Loại hình 1 : Vườn- Ao- Chuồng (V-A-C) Loại hình 2 : Vườn- Ao- Chuồng- Dịch vụ (V-A-C-D) Loại hình 3 : Rừng- Ruộng- Vườn- Chuồng (R-Rg-V-C) Loại hình 4 : Rừng- Ruộng- Vươnd- Ao- Chuồng (R-RG-V-A- C) Loại hình 5 : Vườn- Rừng (V-R) Loại hình 6 : Ruộng- Vườn- Chuồng(Rg- V- C). Đặc điểm của các loại hình sau : * VAC: Là mô hình kết hợp làm vườn nuôi cá và chăn nuôi gia súc,gia cầm. Đây là mô hình truyền thồng lâu đời của nhân dân trong Tỉnh: Kết cấu của loại hình chủ yếu này là : -Vườn: trông cây ăn quả (mơ, mận , nhãn...) và cây công nghiệp (chè, mía, dâu..). -Ao: chăn nuôi các loại cá có hiệu quả kinh tế cao. -Chuồng: chăn nuôi đại gia súc (trâu, bo, dê, ngựa...) và gia cầm (gà vịt ngan ngỗng). *V-C-A-D: loại hình trang trại này giống loại hình trên. Tuy nhiên, các chủ trang trại đã biết kết hợp làm thêm các nghành dịch vụ khác như: Bán giống cây con,cung cấp phân bón,lương thực,thuốc trừ său và một số nghành nghề phụ như: Làm đậu, miến...Loại hình trang trại này phát triển chủ yếu ở các khu trung tâm huyện, thị và dọc quốc lộ 6. *R-RG-V-C:Loại hình trang trại này bố trí sản xuất nông lâm nghiệp trên khu đất được giao quyền sử dụng . Chủ trang trại thường trồng cây lâm nghiệp như: Luồng,Tếch...ở tầng đồi cao, kế tiếp trồng cây ăn quả, cây công nghiệp ...Xung quanh nhà thì trồng các loại cây thực phẩm và chăn nuôi . *R-RG-VAC: Loại hình nay gần giống loại hình trên. Tuy nhiên chủ trang trại đã kết hợp thả cá, nuôi cá để tân dụng nguồn sinh thuỷ . Mô hình này thường được phát triển ở những khu trung du,đất tương đối bằng phẳng như ở thị xã, Mộc Châu, Mai Sơn... *V-R: Loại hình này chủ yếu là ở vùng núi cao như Sông Mã, Quỳnh Nhái, Hát Lót...với quy mô diện tích lớn từ 10-20ha.Loại hình này thường nằm gọn một bên sườn núi kéo dài từ đỉnh xuống chân, phần đỉnh là rừng thứ sinh được giữ lại để điềug tiết nước, phần tiếp theo có thể trồng lúa ,ngô, sấu, cây công nghiệp, cây ăn quả... *RG-V-C: Loại hình này thường ở các vùng đất ít dốc (250). Chủ trang trại trồng lúa trên ruộng bậc thang, kết hợp chăn nuôi làm vườn, quy mô loại hình này thưòng không lớn > 1ha. Dưới đây là kết quả điều tra và tổng hợp các loại hình kinh tế trang trại của Tỉnh Sơn La. Biểu 13: Số lượng và các loại hình trang trại Loại hình Trang trại 1996 1997 1998 S. lượng (TT) T.trọng (%) S. lượng (TT) T.trọng (%) S. lượng (TT) T.trọng (%) Tổng số 4.006 100 4.325 100 4.705 100 1.V-A-C 667 16,66 718 16,61 820 17,43 2.V-A-C-D 711 17,74 719 16,50 736 15,64 3.R-Rg-V-C 860 21,47 941 21,76 971 20,63 4.R-Rg-V-A-C 666 16,63 724 16,74 838 17,82 5.V-R 379 9,47 417 9,63 495 1052 6.Rg-V-C 723 18,03 811 18,76 845 17,96 Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Qua biểu trên ta thấy hướng sản suất chính của các trang trại là R-Rg-V-C. (tức là phát triển nông lâm tổng hợp), với 971 trang trại chiếm 20,63% tổng số trang trại toàn tỉnh. Tiếp đó là mô hình Rg-V-C (phát triển cây lương thực kết hợp kinh tế vườn và chăn nuôi, loại hình này có 845 trang trại chiếm 17,96%. Mô hình kinh tế trang trại truyền thống VAC cũng được các chủ trang trại phát triển tương đố nhanh và có hiệu quả (14,20%/ năm) với 820 trang trại chiếm 17,43%. Mô hình này vẫn chưa được nhân rộng và phát triển tương xứng với tiềm năng phát triển lâm nghiệp của Tỉnh. Loại hình này có 495 trang trại chiếm 10,52%. Trên thực tế các trang trại ở Tỉnh Sơn La phát triển theo hướng nông lâm tổng hợp hay hướng phát triên kinh tế vườn đồi với chăn nuôi . Như vậy, trong tổng số trang trại của toàn Tỉnh chủ yếu là trang trại chuyên về R-Rg-V-C; Rg-V-C; R-Rg-V-A-C, thế mạnh sản xuất của Tỉnh chưa được khai thác triệt để. Nguyên nhân chủ yếu là do các trương trình 747,661, chưa đưa đến hộ nông dân thuộc diện và có khả năng sản xuất lâm nghiệp, chính quyền huyện chưa giao hết đất rừng và giấy cấp chứng nhận quyền sử dụng đất. 2. Tình hình về chủ trang trại. 2.1. Nguồn qốc xuất thân và độ tuổi của các chủ trang trại . Theo kết quả thống kê ở Sơn La hiện nay 100% số trang trại thuộc hộ gia đình, chưa có trang trại hợp tác xã, trang trại liên doanh và trang trại hợp doanh theo cổ phần. Chủ trang trại có nguồn gốc xuất thân khá phong phú: Họ là nông dân, cán bộ công nhân viên, quân nhân. Các chủ trang trại xuất thân từ nông dân chiếm khoảng 89,3%, các chủ trang trại là công nhân viên chức, bộ đội (nghỉ hưu hoặc chưa nghỉ hưu) chiếm 10,7%. Trong số chủ trại là cán bộ công nhân viên thì chủ trại là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam chiếm 2%. Nếu phân chia nguồn gốc xuất thân của chủ trang trại theo thành phần dân tộc thì chủ trang trại là người dân tộc thái chiếmtỷ lệ lớn nhất 73,33% chủ trại là người dân tộc h'mông chiếm tỷ lệ nhỏ nhất 2%: Chủ trang trại là người dân tộc Thái : 3.450 chiếm 73,33%. Chủ trang trại là người dân tộc Kinh: 1.055 chiếm 22,42%. Chủ trang trại là người dân tộc Mường: 106 chiếm 2,25%. Chủ trang trại là người dân tộc H'Mông: 94 chiếm 2,00%. Độ tuổi của các chủ trang trại: Cũng như trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác, độ tuổi của các chủ trang trại có ảnh hưởng lớn đến việc quyết định phương hướng sản xuất kinh doanh cũng như kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Qua số liệu điều tracho thấy, về độ tuổi của các chủ trang trại ở Sơn La chủ yếu là ở độ tuổi từ 25-50. Có thể thấy rõ điều này qua số liệu điều tra ở bảng sau : Biểu 14: kết cấu độ tuổi của các chủ trang trại theo từng loại hình trang trại Chỉ tiêu Loại hình S.lượng TT(Cái) T.trọng (%) 25-30 tuổi 30-40 tuổi Trên 40 tuổi Độ tuổi # Chung 4.705 100 16,80 34,70 27,10 21,40 1.V-A-C 820 17,40 2,50 5,80 4,70 4,40 2.V-A-C-D 736 15,60 3,40 6,20 3,10 2,90 3.R-Rg-V-C 971 20,60 3,60 6,50 6,20 4,30 4.R-Rg-V-A-C 838 17,80 2,80 5,70 4,80 4,50 5.V-R 495 10,60 1,80 4,20 3,50 1,10 6.Rg-V-C 845 18,00 2,70 6,30 4,80 4,20 Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Như vậy, các chủ trang trại ở Sơn La chủ yếu ở vào độ tuổi 25-50 tuổi, số chủ trang trại ở vào độ tuổi này chiếm tới 78,6% trong tổng số . Trong đó, chủ trang trại có độ tuổi từ 30-40 chiếm nhiều nhất, chiếm34,7 trong tổng sốvà các chủ trang trại có độ tuổi từ 25-30 chiếm ít nhất, chỉ chiếm 16,8% trong tổng số. Điều này tạo nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế trang trại của tỉnh. Tại vì, các chủ trang trại muốn thành công trong sản xuất kinh doanh thì ngoài kinh nghiệm sản xuất, khả năng tổ chức, quản lý còn rất cần đến sức khoẻ, tính giám chấp nhân rủi do và sư nhanh nhậy của tuổi trẻ. 2.2. Trình độ văn hoá chuyên môn của các chủ trang trại . Do thành phần của các chủ trang trại chủ yếu là nông dân 89,3%, cho nên trình độ văn hoá của chủ trang trại rất thấp, số chủ trang trại có văn hoá cấpI chiếm 37,33%, chủ trang trại có trình độ THCN, CĐ, ĐH chiếm 10,10%. Nếu phân theo các loại hình trang trại thì số chủ trang trại làm R-Rg-V-A-C có trình độ văn hoá cấp I cao nhất chiếm 57,82% tổng số trang trại toàn Tỉnh, số chủ trang trại làm nghề R-RG-V-C có trình độ văn hoá cấp I thấp nhất, chỉ có 28,16%. Số chủ trang trại có trình độ THCN, CĐ, và ĐH cao nhất 16,81% tập trung sản xuất R-RG-V-C. Qua biểu ta tháy trình độ học vấn của các chủ trang trại ở các loại hình trang trại có sự chênh lệch rất lớn. Nếu ở trang trại R-RG-V-C chủ trang trại có trình độ văn hoá 12/12 chiếm 32,76% và trình độ chuyên môn THCN, CĐ và ĐH là 16,81% thì ở trang trại R-RG-V-A-C, chủ trang trại có trình độ 5/12 chiếm 57,82% và trình độ chuyên môn THCN, CĐ và ĐH là 8%,. Còn trang trại V-R chủ trại không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ . Biểu 15: Trình độ văn hoá của chủ trang trại năm 1998 Hạng mục Cấp I Cấp II Cấp III THCN,CĐ Tính chung 37,33 27,98 24,59 10,10 1.V-A-C 30,42 20,00 35,17 12,41 2.V-A-C-D 42,30 18,20 24,00 15,50 3.R-Rg-V-C 28,16 22,27 32,76 16,81 4.R-Rg-V-A-C 57,82 18,30 15,88 8,00 5.V-R 26,67 54,30 19,08 --- 6.Rg-V-C 38,63 32,79 20,71 7,87 Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Sự chênh lệch về trình độ giữ các chủ trang trại ảnh hưởng rất lớn đến khả năng của chủ trại, nhất là sản xuất hàng hoá. Khả năng nắm bắt thông tin, khoa học kỹ thuật ứng sử với thị trường cửa chủ trang trại có trình độ học vấn cao hơn bao giờ cũng nhanh nhạy chính xác hơn các chủ trang trại có trình độ học vấn thấp hơn. 2.3. Kinh nghiệm sản xuát hàng hoá và ước muốn làm giàu của các chủ trang trại. Như đã nghiên cứu ở trên, xuất thân của chủ trang trại đa số là nông dân. Trước công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước cuộc sống của họ gặp rất nhiều khó khăn, họ luôn khao khát vươn lên một cuộc sống no đủ hơn về vật chất lẫn tinh thần. Sau nghị 10 của Bộ Chính trị năm 1988. Kinh tế hộ gia đình được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, cuộc sống của người nông dân cả nước nói chung và nhân dân tỉnh Sơn La càng được nâng cao cải thiện hơn. Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân tỉnh Sơn La phát triển đã bộc lộ nhiều hạn chế: sản xuất còn manh mún tự cấp tự túc, độc canh cây lương thực, nâng suất ruộng đất, lao động còn thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao trên 20%. Giới hạn về trình độ văn hoá, chuyên môn, điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đã ảnh hưởng đến sản xuất tư tưởng của hộ nông dân, tuy nhiên qua thực tế cuộc sống, qua các chương trình xoá đói giảm nghèo, phương thức làm giàu chính đáng của các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã cho thấy người chủ trang trại là người có ham muốn làm giàu, nhạy biến với thị trường dám nghĩ dám làm và chấp nhận mọi rủi ro, họ là những nhà kinh doanh thực thụ, mặt khác khát vọng làm giàu của người chủ trang trại cũng chính là một trong những lí do giải thích sự tăng nhanh về số lượng vả chất lượng của các trang trại trong toàn tỉnh. Sơn La là một tỉnh có tỷ trọng ngành nông nghiệp còn khá cao. Có truyền thống sản xuất nông lâm nghiệp từ rất lâu đời tuy nhiên sản xuất vẫn còn mang tính thuần nông cao, sản xuất hàng hoá tuy có bước phát triển nhưng tốc độ, qui mô, tỷ trọng không cao, do vậy kinh nghiệm sản xuất hàng hoá của hộ nông dân và của trang trại sản xuất hàng hoá còn rất hạn chế, nhất là khâu tổ chức sản xuất và khâu tiêu thụ sản phẩm. Qua thực tế nghiên cứu đã cho thấy kinh nghiệm phổ biến của chủ trang trại là: -Các chủ trang trại đều tiến hành sản xuất theo hướng sản xuất kinh doanh tổng hợp với cơ cấu chính là cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc... -Phương thức sản xuất "lấy ngắn nuôi dài" được vận dụng một cách phổ biến ở từng trang trại. Vì đã tận dụng được hết khả năng vốn lao động, đất đai... -Các chủ trang trại sử dung lao động gia đình là chính (trang trại qui mô nhỏ) đồng thời có thuê lao động mùa vụ để thực hiện các khâu thu hoạch. 3. Các yếu tố sản xuất của trang trại 3.1 Tình hình đất đai của trang trại: Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất trang trại nói riêng. Nguồn tài nguyên đất đai là có hạn nên qui mô đất đai cuả trang trại cũng khác nhau, nhưng qui mô đất đai của trang trại lại phản ảnh sự khác nhau giữa kinh tế trang trại với kinh tế hộ nông dân. Sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại gắn liền với sự tích tụ và tập chung ruộng đát của chủ trang trại. Qui mô ruộng đất của trang trại quyết định phương hương sản xuất kinh doanh của chủ trang trại, có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai là yêu cầu hết sức quan trọng của trang trại. Biểu 16: Số lượng và qui mô trang trại năm1998 Quy mô trang trại Số lượng trang trại (Cái) Tỷ lệ (%) Tổng số 4.705 100 Nhỏ (Dưới 2 ha) 2.469 52,48 Vừa (2 ữ 5 ha) 1.943 41,29 Lớn (5 ữ 20 ha) 293 6,23 Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Qua biểu trên ta thấy, năm 1998 trong số 4.705 trang trại có 2.469 trang trại có qui mô diện tích đất đang sử dụng dưới 2ha(chiếm 52,48% trang trại toàn tỉnh), có 1.943 trang trại có diện tích 2-5ha (chiếm 41,29% trang trại toàn tỉnh) và số trang trại có diện tích đất sử dụng 5-20ha có 293 trang trại (chiếm 6,23%). Trong đó số trang trại có diện tích từ 15-20ha chiếm một tỷ lệ rất thấp chỉ có khoảng 30 trang trại, chiếm 0,64% trang trại toàn tỉnh. Như vậy, xét về qui mô đất đai các trang trại ở Sơn La hiện nay phát triển với qui mô vừa và nhỏ là chủ yếu (chiếm 93,77% trong tổng số trang trại toàn tỉnh). Có điều này là vì quá trình tích tụ và tập chuing ruông đát ở Sơn La còn diễn ra chậm, đồng thời một số trang trại lớn với diên tích từ 15-30ha trước đây đã được tách thành các trang trại nhỏ hơn với diện tích từ 2-5ha dưới hình thức chia tách hộ và chuyển nhượng quyền sử dụng cho các hộ khác lập trang trại. Như trên đã nói, đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp. Cho nên vấn đề sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai luôn được các chủ trang trại quan tâm hàng đầu. Kết quả điều tra cho thấy tình hình đất đai và sử dụng đất đai của các trang trại ở tỉnh Sơn La như sau: Biểu 17: Diện tích các loại đất của trang trại năm 1998 Đơn vị tính: Ha Chỉ tiêu Chung VAC VACD RRgVC RRgVAC VR RgVC Tổng diện tích 1.Đất thổ cư -Đất xây dựng -Đất vườn -Ao 2.Đất nông nghiệp -Cây ngắn ngày -Cây lâu năm +Cây công nghiệp +Cây ăn quả -Mặt nước 3.Đất lâm nghiệp 2,988 0,174 0,037 0,120 0,017 1,458 0,623 0,813 0,193 0,620 0,022 1,356 1,546 0,142 0,032 0,075 0,035 1,404 0,674 0,660 --- 0,660 0,076 --- 1,243 0,176 0,040 0,106 0,030 1,067 --- 1,004 0,062 0,942 0,036 --- 3,748 0,201 0,036 0,165 --- 1,531 1,040 0,491 --- 0,491 --- 2,016 2,574 0,212 0,046 0,134 0,032 0,500 0,363 0,137 --- 0,137 --- 1,862 8,943 0,106 0,030 0,076 --- 3,053 0,404 2,649 1,743 0,906 --- 50784 1,690 0,173 0,038 0,135 --- 1,787 1,024 0,763 --- 0,763 --- --- Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Qua biểu trên cho thấy bình quân một trang trại năm 1998 có diện tích là 2,988 ha,năm 1996 có 3,5 ha, tính trung bình mỗi năm giảm 0,256 ha. Như trên đã phân tích quy mô diện tích đất đai của trang trại ngày càng giảm là do quá trình chia tách hộ, quá trình chuyển hướng sản xuất kinh doanh của các trang trại nhỏ... Trong số 2,988 ha thì đất thổ cư có 0,174 ha chiếm 5,82% diện tích đất đai của trang trại, đất nông nghiệp 1,458 ha chiếm 48,79%, đất lâm nghiệp 1,356 ha chiếm 45,38%. Tỷ trọng đất nông nghiệp khá cao, điều đó chứng tỏ rằng sản xuất nông nghiệp đang được chú ý phát triển, trong diện tích nông nghiệp thì diện tích đất trồng cây lâu năm là 0,813 ha chiếm 55,76%, diện tích trồng cây ăn quả là 0,62 ha chiếm 76,26% diện tích trồng cây lâu năm. Trong các trang trại thì loại hình V-R có quy mô diện tích lớn nhất 8,943 ha, trang trại V-A-C-D có quy mô diện tích nhỏ nhất 1,243 ha. qua đó, ta thấy các loại hình trang trại có sự chênh lệch diện tích khá lớn 7,19 lần. Như vậy, trang trại có phương hướng sản xuất khác nhau sẽ có quy mô diện tích khác nhau. Các trang trại V-R, R-Rg-V-C thường có quy mô diện tích khá lớn, trang trại, V-A-C, V-A-C-D thường có quy mô diện tích nhỏ. Mặt khác, quy mô diện tích trang trại còn phụ thuộc vào khả năng tích tụ, tập trung ruộng đất của chủ trang trại và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, địa hình, địa mạo đất đai... mà chủ trang trại cư chú. Biểu 18: Cơ cấu diện tích các loại đất của trang trại năm 1998 Đơn vị tính: % Chỉ tiêu Chung VAC VACD RRgVC RRgVAC VR RgVC Tổng diện tích 1.Đất thổ cư 2.Đất nông nghiệp -Cây ngắn ngày -Cây lâu năm -Mặt nước 3.Đất lâm nghiệp 100 5,82 48,79 42,73 55,76 1,51 45,38 100 9,18 90,82 48,01 47,01 4,98 --- 100 14,16 85,84 --- 94,09 5,91 --- 100 5,36 40,85 67,93 32,07 --- 53,79 100 8,24 19,43 72,60 27,40 --- 72,33 100 1,18 34,14 13,23 86,77 --- 64,68 100 8,83 91,17 57,30 42,70 --- --- Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Các chủ trang trại đã biết vận dụng những ưu thế của từng loại đất, từng loại địa hình để bố trí cây trồng, vật nuôi sao cho đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Qua biểu trên ta thấy loại trang trại V-A-C được chủ trang trại bố trí 90,82% diện tích đất để trồng trọt và chăn nuôi, trong đó bố trí 48,01% diện tích đất nông nghiệp để trồng cây ngắn ngày và bố trí 47,01% diện tích đất nông nghiệp để trồng cây ăn quả; loại hình trang trại R-Rg-V-C được chủ trang trại bố trí 53,79% diện tích nông nghiệp đất để làm nghề rừng và bố trí 40,85% diện tích đất nông nghiệp để làm nông nghiệp, trong loại hình này, đối với nghề rừng chủ trang trại tiến hành trồng rừng, chăm sóc rừng và quản lý bảo vệ rừng, đối với sản xuất nông nghiệp chủ trang trại bố trí 67,93% diện tích đất nông nghiệp cho trồng cây ngắn ngày và 32,07% diện tích cho cây ăn quả; loại hình trang trại V-R được chủ trang trại bố trí 64,68% diện tích đất cho sản xuất lâm nghiệp và 34,14% cho sản xuất nông nghiệp, đối với loại hình này chủ trang trại đã bố trí 57,09% diện tích đất cho trồng cây công nghiệp. Thực tế cho thấy hầu hết các chủ trang trại ở vùng đồi núi có độ dốc cao thường bố trí trồng cây lâm nghiệp ở trên đỉnh đồi để tạo thảm thực vật và chống xói mòn, ở vùng đất thấp thường bố trí trồng các cây công nghiệp dài ngày và các cây ăn quả xen lẫn cây lương thực. Như vậy, trang trại ở tỉnh Sơn La phát triển chủ yếu với quy mô vừa và nhỏ tuy nhiên khi xét về mặt pháp lý, hầu hết các trang trại mới được cấp giấu tạm cấp của chính quyền huyện. Sau đó tỉnh mới quy hoạch và cấp giấychứng nhận quyền sử dụng đất. Đến nay các huyện mới cấp được cho 40-50% số trang trại, riêng Thị xã Sơn La đã tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 60-70% số trang trại ở địa bàn. Hiện nay nhiều chủ trang trại đang còn nhiều thắc mắc trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và số diện tích ruộng đất vượt hạn điền. Vấn đề này có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển quy mô đất đai của mỗi trang trại. Trên thực tế thì diện tích của các trang trại đang có xu hướng giảm dần qua các năm. 3.2.Vốn và nguồn vốn của trang trại. Ngoài đất đai và lao động thì vốn là yếu tố rất quan trọng tạo nên qui mô sản xuất và góp phần quyết định kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Qúa trình phát triển kinh tế trang trại gia đình ở Sơn La hiện nay đang đặt ra vấn đề bức xúc là giải quyết vốn cho sản xuất như thế nào ? vốn vay ở đâu ' mức vay , lãi suất và thời hạn vay? Giải quyết tốt những vấn đề này sẽ tạo ra những điều kiện rất thuận lợi cho kinh tế trang trại ở Sơ La phát triển nhanh và mạnh hơn. Qua tổng hợp số liệu điều tra về tình hình vốn của các trang trại em có biểu sau: Biểu 19: Qui mô vốn của trang trại năm 1998 Đơn vị : Triệu đồng Loại hình trang trại Vốn sản xuất bình quân/1 trang trại Vốn sản xuất bình quân/1ha đất Vốn sản xuất bình quân/1ha đất N N TB chung 1.V-A-C 2.V-A-C-D 3. R-Rg-V-C 4.R-Rg-V-A-C 5.V-R 6.Rg-V-C 72,66 68,34 65,15 76,70 72,63 80,41 74,26 24,32 44,20 52,41 20,46 28,22 8,99 37,89 49,83 48,67 61,05 50,09 48,42 26,33 41,55 Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Vốn đầu tư sản xuất bình quân cao nhất là trang trại vườn rừng (V-R),vơi tổng số vốn đầu tư là 80,41 triệu đồng, thấp nhất là trang trại V-A-C với tổng số vốn đầu tư là 65,15 triệu đồng. Nếu tính vốn đầu tư sản xuất bình quân trên một ha đất sử dụng thì trang trại V-R lại có mức đầu tư thấp nhất vơéi 8,99 triệu đồng/ha đất sử dụng, trang trại V-A-C-D lại có mức đầu tư cao nhất với 52,41 triệu đồng/ha đất sử dụng. Với loại hình trang trại V-A-C-D, chủ trang trại đã đầu tư tới 90% vốn đầu tư sản xuất cho sản xuất nông nghiệp, với loại hình trang trại V-R chủ trang trại đã đầu tư 65% vốn đầu tư cho sản xuất lâm nghiệp. Như vậy, tương ứng với loại hình trang trại chủ trang trại sẽ bỏ vốn đầu tư sản xuất chuyên sâu ngành nghề chính đã chọn nhằm phát huy khả năng, lĩnh vực mà chủ trang trại có để nâng cao tỷ trọng hàng hoá, nâng cao thu nhập cho trang trại. Đối với nguồn vốn vay: các chủ trang trại sử dụng vốn vay của Nhà nước để bổ sung cho phần thiếu hụt vốn sản xuất, mức vay bình quân của các trang trại là 6,52 triệu đồng chiếm 8,97% tổng vốn đầu tư sản xuất. Với nguồn vốn này thì chủ trang trại V-R và Rg-V-C vay nhiều nhất chiếm tới 10,12% và 11,06% tổng nguồn vốn của trang trại. Các chủ trang trại đã tận dụng được các nguồn vốn khác nhờ sự giúp đỡ của người thân dưới hình thức "vay nóng" hoặc vay từ các chương trình dự án như: 327,PAM, 747, 219... Nhưng các chủ trang trại vay được từ các nguồn vốn này rất thấp, tính bình quân mỗi trang trại vay được 4,48 triệu đồng, chiếm 6,17% tổng vốn đầu tư của trang trại. Loại hình trang trại R-Rg-V-C là vay được nhiều nhất từ các nguồn vốn của các chương trình dự án với mức vay trung bình là 7,61 triệu đồng chiếm 9,92% tổng vốn đầu tư. Loại hình trang trại R-V-C vay được ít nhất 1,89 triệu đồng chiếm 2,54% tổng vốn đầu tư. Còn nguồn vốn vay của tư nhân các chủ trang trại vay rất ít , họ chỉ vay khi có nhu cầu tức thời, không kịp làm thủ tục vay nhà nước hoặc không vay đựơc của họ hàng người thân. với hình thức vay này thì các chủ trang trại vườn- rừng vay nhiều nhất với 7,04 triệu đồng chiếm 8,76% vốn sản xuất . trang trại loại này loại này vay tư nhân nhiều nhất là do thủ tục cho vay và điều kiện cho vay của ngân hàng còn nhiều phiền hà, bất cập về điều kiện thế chấp, lãi xuất và thời hạn vay còn chưa phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh của trang traị vưòn rừng Tình hình về vốn và cácnguồn vốn của trang trại được hiện ở biểu 20 Bình quân một trang trại có tổng số vốn sản xuất là 72,66 triệu đồng, so với vốn của 1hộ nông dân trong tỉnh là 20 triệu đồng (theo thống kê của sở NN & PTNT Sơn la) thì lượng vốn của trang trại lớn gấp 3,6 lần.qua phân tích số liệu ta thấy lượnh vốn tự có của trang trại là rất lớn 57,41 triệu đồng, chiếm 79,01 tổng lượng vốn sản xuất của trang trại, vốn đi vay 15,25 triệu đồng, chiếm 20,99% tổng vốn sản xuất của trang trại, trong đó vốn của nhà nước chỉ có 6,,52 triệu đồng, 42,75% vốn vay của trang trại. Điều đó chứng tỏ việc chủ động vốn của chủ trang trại đều dựa vào nguồn vốn túch luỹ là chính. Tuy nhiên các chủ trang trại đã biết tận dụng các nguồn vốnn khác nhau ngoài nguồn vốn hàng. Mặc dù các trang trại thiếu vốn đầu tư cho sản xuất nhưnng thực tế vốn vay của trang trại chiếm tỷ trọng thấp 20,99%. nguyên nhân chính lae do chính sách vay vốn còn nhiều bất cập, thủ tục rườm già gây khó khăn cho người cần sử dụng. cụ thể thời gian vay vốn không quá 2năm so với vốn vay từ 3-10 triệu đồng. Tuy nhiên cơ chế vay của nghân hàng đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp úng được nhu cầu thực tiễn của các hcủ trang trại. Những vấn đề trên gây rất nhiều khó khăn cho cácchủ trang trại , mặt khác các chủ trang trại còn thiếu tự tin nên không dám tiền của nghân hàng nên phải đầu tư nhỏ giọt qua các năm. 3.3.Lao động và sử dụng lao động của trang trại. Lao là nhân tố quan trọng quyết định kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại. vì trong sản xuất lao động luôn gắn liền với đất đai , tài nguyên, điều kiện tự nhiên, cây trồng vật nuôi cà công cụ lao động.. do dó chất lượng cao hay thấp đều ảnh hưởng đến quấ trình sản xuất kinh doanh của trang trại. Bình quân một trang trại của tỉnh có 6,45 nhân khẩu với 4-8 lao động, với lực luợng lao dộng như vậy thì một lao động nuôi 1,47 người kể cả bản thân .Đối với loại trang trại R-Rg- V- A-C và V-R thì số nhân khẩu khá cao 7,42 và 7,24 nhân khẩu nhưng đối với mỗi trang trại này thì 1 lao động cũng chỉ nuôi 1,19 và 1,18 người kể cả bản thân. Nếu phân loại trang trại theo quy mô thì nhân khẩu và lực lương lao động không có sự chênh lệch cao, đối với loại trang trại dưới 2 ha thì lao động nuôi 1,171 người kể cả bản thân, đối với trang trại trên 5 ha thì 1 lao động nuôi 1,46 người kể cả bản thân. Như vậy, với lực lương lao động dồi dào trang trại đã làm dịu tính căng thẳng của lao động vốn có của các hộ nông dân, nhất là hộ nông dân nghèo ở trong tỉnh. tuy lợc lượng lao động khá dồi dào nhưng trình độ văn hoá của chủ trang trại rất thấp, có tới 53,24% lao động có trình độ văn hoá cấp tiểu học 33,04% lao động học hết cấp II. Biểu 21: Tình hình lao động các trang trại năm 1998 Chỉ tiêu Nhân khẩu (người) Lao động (người) Tình hình văn hoá của LĐ TH (%) PTCS (%) PTTH (%) Theo loại TT Tính chung: Loại: V-A-C Loại: V-A-C-D Loại: R-Rg-V-C Loại: R-Rg-V-A-C Loại: V-R Loại: Rg-V-C 2.Theo quy mô đất Dưới 2 ha 2 - 5 ha Trên 5 ha 6,45 5,47 5,63 6,74 7,42 7,24 6,34 5,42 6,32 6,96 4,38 2,97 3,20 4,17 6,23 6,11 4,20 3,17 4,01 4,76 53,24 47,24 50,67 56,12 54,69 60,71 52,17 40,68 37,45 41,73 33,04 29,72 30,42 34,14 32,17 52,07 39,68 30,96 31,72 35,17 20,20 24,04 18,91 9,74 13,14 7,22 8,15 28,36 30,83 23,10 Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Qua trên ta thấy, trong trang trại V-R trình độ văn hoá của lao động rất thấp có tới 60,71% lao động có trình độ văn hoá cấp tiểu học; trang trại V-A-C có trình độ văn hoá của người lao động cao nhất, có tới 24,04% lao động có trình độ PTTH. Nếu phân loại theo quy mô thì trang trại có quy mô trên 5 ha lao động có trình độ văn hoá thấp nhất, có tới 41,73% lao động có trình độ văn hoá cấp tiểu học, trang trại có quuy mô từ 2- 5 ha lao động có trình độ văn hoá cao nhất, có tới 30,83% lao động có trình độ văn hoá cấp PTTH. Nhìn chung, các lao động của trang trại có trình độ chuyên môn rất thấp, khoảng 15% lao động có trình độ chuyên môn từ THCN trở lên. Biểu 22: Tình hình sử dụng lao động của một trang trại năm 1998. Đơn vị tính : Lao động Chỉ tiêu Tổng lao động Lao động gia đình Lao động thuê Tổng T. xuyên T. vụ 1.Theo loại TT Tính chung Loại: V-A-C Loại: V-A-C-D Loại: R-Rg-V-C Loại: R-Rg-V-A-C Loại: V-R Loại: Rg-V-C 2.Theo quy mô đất Dưới 2 ha 2 - 5 ha Trên 5 ha 6,15 4,07 5,37 6,49 7,49 7,69 6,29 3,17 5,01 6,42 4,38 2,97 3,20 4,17 6,23 6,11 4,20 3,17 4,01 4,76 1,77 1,10 2,17 2,32 1,26 1,58 2,09 --- 1,00 1,66 0,38 0,36 0,43 0,64 0,10 0,54 0,24 --- 0,12 0,24 1,39 0,74 1,74 1,68 1,16 1,04 1,85 --- 0,88 1,42 Nguồn: Số liệu do Sở Nông nghiệp & Nông thôn cung cấp. Qua biểu trên cho ta thấy bình quân một trang trại sử dụng 6,15 lao động, trong đó 4,38 lao động gia đình , chiếm 71,22% và 1,77 lao động làm thuê chiếm 28,78% tổng lao động, trong đó lao động thường xuyên là 0,38 lao động chiếm 6,18% lao động của trang trại, lao động thời vụ được các chủ trang trại thuê khá phổ biến, trung bình mỗi trang trại thuê 1,39 lao động chiếm 22,60% tổng lao động của trang trại và chiếm 78,53% lao động làm thuê. Trang trại V-R thường có số lao động rất cao (7,69 tổng lao động) lao động gia đình là 6,11 chiếm 79,43%, lao động làm thuê là 1,58 chiếm 20,55%. Loại trang trại V-A-C có số lượng lao động thấp nhất, chỉ có 4,07 lao động, lao động hộ gia đình là 2,97 chiếm 72,97%, lao động làm thuê là 1,10 chiếm 27,03%. Tình theo quy mô thì trang trại có quy mô trên 5 ha có số lượng lao động lớn nhất, có 6, 42 lao động, lao động gia đình là 4,76 chiếm 74,14%, lao động thuê là 1,42 lao động chiếm 22,11 lao động, trang trại có quy mô dưới 2 ha có số lao động thấp nhất 3,17 lao động và họ thường không thuê lao động, trang trại có quy mô này thường sử dụng lao động gia đình. Thực tế cho thấy chủ trang trạii thường thuê lao động thường xuyên vào các tháng cây trồng, vật nuôi cho thu hoạch đại trà và thường tập trung vào 2 tháng; một tháng gieo trồng, một tháng thu hoạch, lao động căng thẳng chỉ diễn ra 2 tháng và thời gian lao động trong một ngày từ 10 -12 giờ, hình thức lao động theo thỏa thuận giữa người thuê lao động và người làm thuê, giá thuê lao động phổ biến từ 10 -15 nghìn đồng/ngày. Lao động thuê mướn chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc giản đơn, những công việc đòi hỏi có trình độ chuyên môn, kỹ thuật thì lao động thường xuyên và lao động của chủ trang trại đảm nhiệm. Việc sử dụng l;ao động làm thuê đã góp phần tạo việc làm tăng thu nhập cho một bộ phận lao động dư thừa ở khu vực có trang trại, đồng cũng chứng tỏ chủ trang trại là người biết tính toán, dám nghĩ dám làm đẻ cho thu nhập cao nhất hiệu quả nhất. 3.4.Tình hình tiêu thụ sản phẩm của trang trại. Tiêu thụ sản phẩm và phân phối tổng sản phẩm là một khâu của quá trình tái sản xuất. Quá trình tái sản xuất sẽ được diễn ra thông qua việc phân phối. Nghĩa là bù đáp ứng các chi phí tham gia vào quá trình sản xuất và đầu tư để tái sản xuất mở rộng. Tiêu thụ sản phẩm là một khâu quan trọng của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Đó chính là quá trình thực hiện giá trị của sản phẩm, là giai đoạn làm cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản xuất và bước vào lưu thông, đưa sản từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực tiêu dùng. Tiêu thụ hết và kịp thười sản phẩm làm ra là tín hiệu tốt nhất cho trang trại điều chỉnh kế hoạch sản xuất tiếp theo. Sản xuất kinh doanh của tang trại mang nặng tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp, sản phẩm nông nghiệp lại để ôi thiu hư hỏng. Do đó việc tiêu thụ hết và kịp thời sản phẩm làm ra là một yêu cầu quan trọng đối với mỗi trang trại. ở Sơn La hiện nay, ngoài các sản phẩm được Nhà nước bao tiêu như mía, chè, cà phê... thông qua thoả thuận với các công ty chế biến của Nhà nước thì các nông sản hàng hoá khác, các chủ trang trại bán cho tư thương và thường dìm giá và ép giá. Việc chế biến bảo quả và dự trữ sản phẩm để có thể bán ra lúc giá lên còn chươ được chú ý tới. Do đó trong việc tiêu thụ hàng hoá của mình, các chủ trang trại còn chịu rất nhiều thiệt thòi. iii. kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại 1.Kết quả sản xuất đạt được. Kết quả sản xuất của các trang trại là thước đo trong toàn bộ quá trình sản xuất của các trang trại. Kết quả sản xuất đánh giá hiệu quả của việc phối hợp các yếu tố đầu vào: đất đai, lao động, vốn... Biểu 23: Kết quả sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại năm 1998 Chỉ tiêu Tổng thu Tổng chi Thu nhập Số lượng (Tr.đ) Tỷ trọng (%) Số lượng (Tr.đ) Tỷ trọng (%) Số lượng (Tr.đ) Tỷ trọng (%) 1. Loại TT BQ chung 60,21 100 26,98 44,81 33,23 55,19 V-A-C 47,43 100 18,76 39,55 28,67 60,45 V-A-C-D 80,29 100 30,70 38,24 49,59 61,76 R-Rg-V-C 63,18 100 40,25 63,71 22,93 36,29 R-Rg-V-A-C 67,80 100 21,68 31,98 46,12 68,02 V-R 53,96 100 27,94 51,78 26,02 48,22 Rg-V-C 47,84 100 21,17 44,25 26,67 55,75 2.Quy mô TT Dưới 2 ha 58,47 100 20,67 35,35 37,80 64,65 2 ớ 5 ha 96,78 100 24,45 25,26 72,33 74,74 Trên 5 ha 119,94 100 35,17 29,32 84,77 70,68 Qua biểu 23 ta thấy, bình quân một trang trại có tổng thu là 60,21 triệ đồng, chi phí sản xuất là 16,98 triệu đồng, chiếm 44,81% tổng thu và thu nhập đạt 33,23 triệu đồng chiếm 55,19% tổng thu. Trang trại V-A-C-D có tổng thu lớn nhất 80,29 triệu đồng, trang trại V-A-C có tổng thu nhỏ nhất 47,43 triệu đồng, trang trại R-Rg-V-C có tổng chi phí lớn nhất 40,25 triệu đồng chiếm 63,71% tổng thu, trong khi đó trang trại R-Rg-V-A-C có cơ cấu chi phí nhỏ nhất 21,68 triệu đồng chiếm 31,98% tổng thu và có cơ cấu thu nhập cao nhất 46,12 triệu đồng chiếm 68,02% tổng thu. Trang trại R-Rg-V-A-C, V-A-C-D có kết quả sản xuất cao như vậy là do một số lý do sau: -Trình độ văn hoá của lao động khá đồng đều; trình độ lao động, chuyên môn của trang trại khá cao; khả năng sử dụng vốn hợp lý, tổ chức quản lý, phân công lao động trong trang trại khá tốt. -Các chủ trang trại khá nhậy bén với nhu cầu thị trường, họ dễ dàng thay đổi hướng sản xuất chuyên môn hoá của mình vì các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của họ rất rộng. -Thị trường tiêu thụ sản phẩm của loại hình trang trại này tương đối ổn định và khá rộng lớn. Trang trại R-Rg-V-C có thu nhập và cơ cấu thu nhập thấp nhất do chi phí sản xuất kinh doanh rất cao chiếm 63,71% thu nhập, chi phí sản xuất cao như vậy vì các chủ trang trại này chưa dược trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ thuật về sản xuất kinh doanh trên địa bàn đồi núi có địa hình bị chia cắt mạnh và không mấy thuận lợi về giao thông, điện, nước... Mặt khác các chủ trang trại chưa thật sự quan tâm đến vấn đề đầu tư giống, thức ăn cho vật nuôi cây trồng. Theo quy mô thì trang trại có quy mô càng lớn thì tổng thu và cơ cấu thu nhập càng cao: trang trại có quy mô dưới 2 ha thu nhập chiếm 64,65% tổng thu, quy mô trên 5 ha thu nhập chiếm 70,68% tổng thu. Như vậy, tuỳ từng loại hình trang trại, tuỳ từng quy mô trang trại, tuỳ từng vùng sinh thái và trình độ của chủ trang trại mà kết quả sản xuất của các trang trại khác nhau. Để tìm hiểu sâu sắc hơn mức độ thu nhập và cơ cấu thu nhập của các loại hình trang trại ta theo dõi biểu 24. Qua biểu 24 ta thấy,mô hình trang trại V-A-C-D có thu nhập từ nghề vườn rất cao 20,47 triệu đồng chiếm 41,88% thu nhập , trong khi đó chi phí nghề vườn lại rất thấp 5,71 triệu đồng chiếm 0,071% tổng thu và chiếm 18,63% tổng chi phí, mô hình trang trại R-Rg-V-C có thu nhập từ làm vườn cũng rất cao 17,40 triệu đồng chiếm 75,88% thu nhập, mô hình trang trại V-R có thu nhập có thu nhập từ nghề vườn lá 17,33 triệu đồng chiếm 66,60% thu nhập. Như vậy, các loại hình trang trại đều có nguồn thu nhập chình từ làm vườn, sản phẩm nghề vườn chủ yếu là sản phẩm thu từ cây chè, cây cà phê, cây mơ, mận, nhãn... Trong mô hình trang trại R-Rg-V-C có giá trị và cơ cấu thu nhập từ nghề rừng rất thấp 0,16 triệu đồng chiếm 1,13% thu nhập, thu nhập từ nghề vườn có giá trị và cơ cấu cao nhất 17,40 triệu đồng chiếm 75,88% thu nhập, trong mô hình trang trại R-Rg-V-A-C có giá trị và cơ cấu thu nhập từ nghề thuỷ sản và nghề rừng rất thấp, có 3,74 triệu đồng và 4,68 triệu đồng chiếm 8,11% và 10,15% thu nhập. Trong hai mô hình trên sở dĩ nghề dừng có giá trị thu nhập thấp là do chu kỳ sản xuất của nghề rừng rất dài, thời gian thu hoạch sản phẩm thường từ 3- 7 năm, các sản phẩm phụ của nghề rừng thường cho giá trị thấp, số lượng không nhiều và không đồng đều về chất. Mặt khác, chi phí cho nghề rừng cũng rất cao chiếm từ 26,12% đến 57,29% chi phí sản xuất. Như vậy, ta thấy tiềm năng nghề rừng ở tỉnh Sơn La chưa được các trang trại khai thác triệt để và có kế hoạch, bên cạnh đó các chính sách của chính quyền tỉnh Sơn La chưa khuyến khích được các chủ trang trại phát triển nghề rừng. 2.Giá trị hàng hoá và tỷ suất hàng hoá của trang trại. Sản suất hàng hoá là đặc trưng cơ bản để phân biệt và đánh giá hiệu quả kinh tế của trang trại. Thực trạng về vấn đề này đối với kinh tế trang trại ở tỉnh Sơn La được tổng hợp ở biểu 25. Qua biểu 25 ta thấy tủ xuất sản phẩm hàng hoá của các loại hình trang trại ngày càng tăng. Năm 1993 TSPHH của một trang trại bình quân là 28,94 triệu đồng, tỷ suất hàng hoá là 54,50% giá trị tổng sản phẩm sản xuất, năm 1998 TSPHH của một trang trại bình quân là 45,79 triệu đồng, tỷ suất hàng hoá là 75,97%, bình quân mỗi năm tăng 9,61%/năm. Trong các loại mô hình trên, mô hình trang trại V-A-C-D luôn có tốc độ tăng trưởng cao nhất 12,46%/năm và tỷ suất hàng hoá đạt ở mức cao nhất 80,71% giá trị tổng sản phẩm sản xuất. Các loại hình trang trại khác có tỷ suất hàng hoá khá cao và tương đối đồng đều, tuy nhiên loại hình trang trại R-Rg-V-C lại có tỷ suất hàng hoá thấp nhất 69,86% giá trị tổng sản phẩm sản xuất, nhưng nếu xét về giá trịtuyệt đối thì mô hình trang trại V-A-C lại có tổng sản phẩm hàng hoá thấp nhất, chỉ có 36,67 triệu đồng. Như vậy các trang trại của tỉnh Sơn La đng từng bước đi vào sản xuất chuyên môn hoá sản phẩm hàng hoá, nâng cao dần giá trị tổng sản phẩm và giá trị tổng sản phẩm hàng hoá, nâng cao mức sống của các thành viên và lao động của trang trại, góp phần tạo thu nhập cho người dân không, thiếu việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo... 3.Hiệu quả kinh tế đạt được. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm bảo thực hiện có kết quả cao các nhiệm vụ kinh tế- xã hội nhất định với chi phí nhỏ nhất. Hiệu qủa kinh tế củat người chủ trang trại là mục tiêu tổng hợp thể hiện quá trình sản xuất kinh doanh, nếu xét về mặt lượng nó thể hiện ở trình độ tổ chức, quản lý điều hành của chủ trang trại; còn nếu xét về mặt chất, hiệu quả kinh tế của trang trại biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vủan xuất kinh doanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả kinh tế của các loại hình trang trại được thể hiện ở biểu 26. Biểu 26: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của một trang trại Chỉ tiêu Năm 1993 Năm 1996 Năm 1998 1.DT/CF (Lần) -V-A-C -V-A-C-D -R-Rg-V-C -R-Rg-V-A-C -V-R -Rg-V-C 2,0

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16321.DOC
Tài liệu liên quan