Đề tài Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt

Tài liệu Đề tài Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đặng Thị Kim Phượng ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA PHẦN PHỤ CHÚ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CẢM ƠN Em xin kính gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến PGS.TS Dư Ngọc Ngân – người đã hết lòng động viên, dẫn dắt trong quá trình thực hiện đề tài. Em trân trọng cảm ơn quý thầy cô đã truyền đạt kiến thức cùng những kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian qua. Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng, gia đình, nhà trường và bạn bè đã ủng hộ và tạo mọi điều kiện học tập, nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09/12/2009 Tác giả Đặng Thị Kim Phượng DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1.1. Lí do chọn đề tài Phần phụ chú là một vấn đề ngữ pháp thuộc thành ph...

pdf211 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đặng Thị Kim Phượng ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA PHẦN PHỤ CHÚ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CẢM ƠN Em xin kính gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến PGS.TS Dư Ngọc Ngân – người đã hết lòng động viên, dẫn dắt trong quá trình thực hiện đề tài. Em trân trọng cảm ơn quý thầy cô đã truyền đạt kiến thức cùng những kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian qua. Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng, gia đình, nhà trường và bạn bè đã ủng hộ và tạo mọi điều kiện học tập, nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09/12/2009 Tác giả Đặng Thị Kim Phượng DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1.1. Lí do chọn đề tài Phần phụ chú là một vấn đề ngữ pháp thuộc thành phần câu. Về mặt ngữ pháp, phần phụ chú là một thành phần biệt lập, nằm ngoài cấu trúc cú pháp của câu. Tuy nhiên xét về mặt ý nghĩa trong câu, phần phụ chú lại có quan hệ nội hướng, nó dùng để chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên quan đến sự tình nêu trong câu, giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của câu hay dụng ý của người chú giải. Vấn đề phân định thành phần câu nói chung là một vấn đề không đơn giản, nhất là khi nó vượt ra ngoài hai thành phần chính của câu là chủ ngữ và vị ngữ. Vì vậy phần phụ chú, với tư cách là một “thành phần phụ”,“thứ yếu”, “biệt lập”, được nhìn nhận rất khác nhau ở nhiều nhà nghiên cứu. Nhìn chung có hai cách hiểu về phần phụ chú: Cách thứ nhất cho đó là thành phần phụ nằm trong câu được dùng để giải thích hay bổ sung ý nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó và có cùng chức năng ngữ pháp với bộ phận được chú thích (Hoàng Trọng Phiến). Cách thứ hai cho rằng đây là thành phần có thể cùng chức năng hoặc không đồng chức năng với bộ phận ngữ pháp được nó chú giải bởi nó không chỉ là thành phần phụ giải thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó của câu mà nó còn được dùng để giải thích, bổ sung một điều cần chú thích cho toàn câu. Ngoài ra, phần phụ chú trong câu tiếng Việt, mặc dù là một vấn đề ngữ pháp đã xuất hiện từ lâu nhưng ít được các nhà nghiên cứu quan tâm. Chính vì vậy, khi bàn về vấn đề này, các tác giả cũng chỉ mới đưa ra khái niệm, nêu quan hệ nghĩa chung của phần phụ chú với phần câu còn lại, chưa bao quát được vấn đề. Có thể nói rằng, cho đến nay việc nghiên cứu về phần phụ chú trong câu tiếng Việt vẫn chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn có rất ít công trình nghiên cứu đi sâu vào vấn đề này (ngoài công trình nghiên cứu của Đào Thị Vân). Trong khi đó, về nguyên tắc, có thể tìm hiểu phụ chú ở nhiều phương diện nghĩa như: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái,… để làm rõ vai trò, tác dụng của phụ chú trong câu, văn bản. Vì tính đa dạng, phức tạp trong cách nhìn nhận vấn đề và sự cần thiết khai thác đề tài nên chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề lí thú, một mảng nghiên cứu giàu tiềm năng. Trong luận văn này, chúng tôi muốn đi tìm hiểu sâu hơn về Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt, hy vọng sẽ có thêm những đóng góp cho loại thành phần câu này. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của người đi trước, luận văn sẽ khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trên một số loại văn bản như văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản chính luận và văn bản báo chí. Hướng đi của chúng tôi là tập hợp các câu có phần phụ chú trong một số văn bản thuộc những phong cách ngôn ngữ khác nhau để khảo sát và khái quát hoá các đặc trưng về chức năng ngữ nghĩa của phụ chú trong khung câu. Từ đó có thể có được cách nhìn nhận đầy đủ hơn về vai trò, tác dụng của phần phụ chú trong câu và trong văn bản tiếng Việt. Về mặt lý luận, luận văn hy vọng góp phần làm rõ thêm về khái niệm, cách nhận diện phần phụ chú và đặc biệt là làm rõ những đặc điểm về ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng của phần phụ chú trong câu tiếng Việt. Đó là những vấn đề đã được đề cập đến nhưng chưa được quan tâm đúng mức và chưa được lí giải đầy đủ. Về mặt thực tiễn, xuất phát từ thực tế viết câu của học sinh, có thể cung cấp cho các em một số kĩ năng để phát hiện, sửa lỗi câu, cải biến câu… làm cho nghĩa của câu không chỉ chính xác mà còn phong phú, đa dạng hơn. 2. Lịch sử vấn đề Phần phụ chú là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu ngữ pháp trên thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm từ lâu. 2.1. Việc nghiên cứu phần phụ chú trên thế giới Theo một số tài liệu mà chúng tôi có được, từ đầu thế kỉ XX, các nhà ngôn ngữ học thế giới đã đề cập đến phần phụ chú với hai tên gọi là cú giải thích (comment clause) và phần trong ngoặc (parenthesis). Cách gọi “trong ngoặc” là cách gọi hình ảnh, không nhất thiết phải đặt trong ngoặc đơn. Đến năm 1985, R.Quirk, S.Greenbaum, G.Leech, J.Svartvik trong công trình “A Comprehensive Grammar of the English Language” đánh dấu bước chuyển mới trong việc nghiên cứu phần phụ chú: cú giải thích được coi là “phần biệt lập kiểu trong ngoặc” (Comment clause are parenthetical disjuncts). Chúng có thể xuất hiện ở đầu hoặc ở cuối hoặc giữa câu, và bởi thế nói chung mang một âm điệu tách rời [61: 106-107]. Năm 1995, Asher R.E trong “The Encyclopedia of language and linguistics” cho rằng phần trong ngoặc “là một phần chêm có tính chất mở rộng trong một văn bản, loại như I saw him – John that is – yesterday” (tôi đã gặp hắn – cái anh chàng John ấy mà – hôm qua). 2.2. Việc nghiên cứu phần phụ chú ở Việt Nam Ở nước ta, một trong những tài liệu đầu tiên bàn về vấn đề liên quan đến phụ chú có lẽ là “Việt Nam văn phạm” của các tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm (in lần thứ tư, tủ sách giáo khoa Tân Việt, không đề năm in). Trong quyển sách này, tuy không nhắc đến phụ chú nhưng khi bàn về dấu câu, các tác giả viết như sau: “Dấu ngoặc đơn [( )]dùng để phân những tiếng có nghĩa riêng ở giữa câu và để giải thích cái nghĩa cả câu” [31:36] Từ những năm 60 của thế kỉ XX, giới nghiên cứu Việt ngữ học đã đề cập đến phụ chú trong tiếng Việt. Năm 1963, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê dùng khái niệm giải từ (tức phụ chú) để chỉ hiện tượng ngữ pháp này. Các tác giả đã phân biệt giải từ của bậc cụm từ (ông gọi là “từ kết”) với giải từ bậc câu. Bàn về phần phụ chú, tác giả Nguyễn Kim Thản trong “Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt”, tập II (1964) dùng hai tên gọi đồng vị ngữ và phụ chú ngữ . Ở đây ông đã xem xét hai khái niệm này với tư cách là thành phần biệt lập (hoặc còn gọi là thành phần thứ yếu biệt lập). Tuy nhiên đến 1997, trong cuốn “Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt”, ông đã dùng một thuật ngữ khác để gọi tên hiện tượng ngữ pháp này: gia ngữ, ông cho rằng gia ngữ là một thành phần phụ bên cạnh những thành phần khác như trạng ngữ, khởi ngữ, hô ngữ. Đến năm 1980, Hoàng Trọng Phiến, trong công trình nghiên cứu “Ngữ pháp tiếng Việt, câu”, đã nhắc đến hiện tượng ngữ pháp này với thuật ngữ đồng vị ngữ. Cùng năm ấy, Hữu Quỳnh trong “Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại” đã đề cập đến phần phụ chú với tên gọi thành phần xen. Cách hiểu về thành phần xen của tác giả Hữu Quỳnh có quan niệm rộng hơn so với tác giả Hoàng Trọng Phiến về hiện tượng ngữ pháp này. Theo quan niệm của các tác giả của cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (1983), thành phần phụ chú là “thành phần bổ sung một điều chú thích kịp thời hoặc cho cả nòng cốt câu hoặc cho một yếu tố thuộc bậc cấu tạo thành phần trước đó [49: 43,191]. Như vậy, cách hiểu của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam có phần gần gũi với các tác giả Trương Văn Chình – Nguyễn Hiến Lê, Hữu Quỳnh. Cũng trong năm 1983, Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung trong quyển “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt”, tập II, đã nhắc đến hiện tượng ngữ pháp này với tên gọi thành phần biệt lập (biệt lập ngữ). Theo quan niệm của các tác giả này, thành phần biệt lập là một bộ phận “không cấu tạo nên nòng cốt câu”, không bổ sung ý nghĩa cho câu, không có quan hệ về ý nghĩa và về ngữ pháp với câu” [8: 204]. Tác giả Diệp Quang Ban trong “Câu đơn tiếng Việt” (1987) đã phân biệt giải ngữ của câu với giải ngữ của từ. “Giải ngữ của câu thường đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ hoặc đứng sau nòng cốt câu, cũng có kiểu có thể đứng trước nòng cốt câu. Còn giải ngữ của từ được coi là phần phụ của từ “được dùng để thuyết minh thêm nội dung hay giải thích thêm một khía cạnh nào đó của từ mà nó phụ thuộc về nghĩa. Theo ông điểm chung của hai thành phần này là “tuy biệt lập về mặt ngữ pháp (không có quan hệ về mặt ngữ pháp) với các yếu tố khác trong câu một cách hiển nhiên nhưng về mặt ý nghĩa lại giải thích cho toàn câu, hoặc một yếu tố nào đó trong câu, tức là có quan hệ nội hướng”. Trong một công trình khác [5], Diệp Quang Ban cho rằng phần phụ chú là một bộ phận có tính chất trung gian. Theo ông, có những trường hợp phần phụ chú nằm trong cấu trúc cú pháp của câu một cách rõ rệt. Nhưng trong không ít trường hợp khác, ông cũng thừa nhận rằng phần phụ chú nằm ngoài cấu trúc cú pháp của câu chứa nó. Sau đó, Hồ Lê trong “Cú pháp tiếng Việt” quyển II (1992) gọi thành phần này là phụ chú ngữ. Quan điểm của ông gần với quan điểm của Nguyễn Kim Thản. Ông đề nghị gọi đồng vị ngữ của Nguyễn Kim Thản là đồng danh ngữ và phụ chú ngữ của Nguyễn Kim Thản là đoạn chú thích. Ngoài ra, tác giả Hồ Lê cũng nêu những điều kiện khống chế để thiết lập hai kiểu nhỏ phụ chú này. Điểm chung giữa các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban, Hồ Lê, Lê Cận, Phan Thiều, Hoàng Văn Thung là đều coi phụ chú là thành phần biệt lập, mặc dù cách diễn đạt có phần khác. Mặc dù vậy, quan niệm về phần phụ chú vẫn còn có những điểm khác biệt, chưa thống nhất ở nhiều nhà nghiên cứu, thậm chí chúng ta cũng có thể thấy những quan niệm khác nhau ở cùng một nhà nghiên cứu. Gần đây nhất, Đào Thị Vân trong công trình nghiên cứu về “phần phụ chú trong câu tiếng Việt” (2003) đã xem xét phần phụ chú ở các phương diện: phương diện cấu tạo hình thức, phương diện hành động nói, phương diện quan hệ nghĩa với phần văn bản hữu quan . Tuy vậy, ở mảng đề tài này, chúng tôi nhận thấy có thể khai thác sâu hơn nữa về mặt ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng để làm rõ hơn nữa vai trò, tác dụng của phần phụ chú trong câu tiếng Việt. 3. Nhiệm vụ của luận văn Luận văn này có những nhiệm vụ cụ thể như sau: - Xem xét một số ý kiến tiêu biểu về phụ chú nói chung và phụ chú trong tiếng Việt nói riêng, vận dụng chúng vào việc nhận diện phụ chú, đồng thời xác lập một cách nhìn về phụ chú trong câu tiếng Việt. - Xem xét vai trò của phần phụ chú trong khung câu ở hai bình diện: ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng. Cụ thể, xem xét phần phụ chú trong khung câu ở các phương diện: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái và các hành động nói. - Đối chiếu tần số sử dụng của các kiểu phụ chú trên bốn loại văn bản: văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản hành chính và văn bản báo chí. Từ đó luận văn khái quát hóa đặc điểm và cách thức sử dụng của phần phụ chú trong câu, văn bản tiếng Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 4.1. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung như: thu thập ngữ liệu, phân loại, khảo sát, nhận xét…, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp sau: - Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các quan hệ giữa phần phụ chú và nội dung câu ở bình diện ngữ nghĩa (ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng). - Phương pháp phân tích ngôn ngữ học: Phương pháp này được sử dụng thường xuyên để phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng của phần phụ chú, làm rõ vai trò và tác dụng của chúng trong khung câu. - Phương pháp thống kê: Luận văn dùng phương pháp này để định lượng đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong các loại văn bản tiếng Việt. 4.2. Nguồn ngữ liệu Nguồn ngữ liệu chủ yếu được thu thập từ các văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ như: phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách khoa học, phong cách chính luận và phong cách báo chí. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần Dẫn nhập và phần Kết luận, phần Nội dung chính của luận văn được phân thành 3 chương. Chương 1: Chương này trình bày những vấn đề lí luận cơ sở như khái niệm phần phụ chú trong câu, những phương diện nghĩa của câu bao gồm nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái và lí thuyết hành động ngôn từ. Đây là chương làm tiền đề cho việc khảo sát và phân tích ngữ nghĩa biểu hiện, ngữ nghĩa ngữ dụng của phụ chú trong các chương sau. Chương 2: Chúng tôi tiến hành khảo sát mặt ngữ nghĩa biểu hiện của phần phụ chú với những ngữ liệu được thu thập trong các văn bản thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau. Thông qua kết quả khảo sát ngữ liệu, trong chương này, luận văn nêu bật những ý nghĩa của phần phụ chú trong quan hệ với cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu. Chương 3: Chương này khảo sát phần phụ chú về mặt ngữ nghĩa ngữ dụng. Từ đó luận văn phân tích và khái quát phần phụ chú trên cơ sở đích ngôn trung và nghĩa tình thái. Chương 1 NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ PHẦN PHỤ CHÚ 1.1. Khái quát về phần phụ chú 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1 Giới nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế giới Khái niệm về thành phần phụ chú phụ thuộc khá nhiều vào tên gọi của nó. Trong tiếng Anh, phụ chú được gọi là cú giải thích (comment clause) và phần trong ngoặc (parenthesis). *Theo R. Qurik, Cú giải thích được coi là “phần biệt lập kiểu trong ngoặc” (comment clause are parenthetical disjuncts), “một cú dùng để chú thích cho một cú khác trong câu” (comment clause: a clause which comments on another clause in a sentence); ở một chỗ khác, tác giả viết Cú giải thích là “một lời chú thích thêm, thường theo kiểu đặt trong ngoặc đơn, cho một cú khác” (A comment added, often parenthetically, to another clause). Chúng có thể xuất hiện ở đầu hoặc ở cuối hoặc giữa câu, và bởi thế nói chung mang một âm điệu tách rời. Cú giải thích cũng là phần biệt lập về mặt nội dung, dùng để diễn đạt những lời giải thích của người nói đối với nội dung của câu chứa chúng, hoặc là biệt lập về mặt phong cách, dùng để kèm thêm cách nhìn của người nói đối với cách nói đang được dùng [61: 112]. Ví dụ: - He is, I believe, an American. (Anh ấy, tôi tin vậy, là người Mĩ). -Coming from you, that sounds surprising. (Theo anh nói, điều đó nghe có vẻ bất ngờ quá). * Theo Asher, Phần trong ngoặc “là một phần chêm có tính chất mở rộng trong một văn bản”. Ví dụ: I saw him – John that is – yesterday (Tôi đã gặp hắn – cái anh chàng John ấy mà – hôm qua). 1.1.1.2 Giới nghiên cứu Việt ngữ học Cách hiểu về phần phụ chú vẫn chưa có sự thống nhất. Dựa vào quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể chia thành 2 khuynh hướng: a. Khuynh hướng 1 Khuynh hướng này bao gồm những quan điểm cho rằng thành phần phụ chú là một thành phần phụ nằm trong câu, được dùng để giải thích hay bổ sung nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó (tức nó chỉ có quan hệ với bộ phận nào đó của câu) và có cùng chức năng ngữ pháp với bộ phận này. Đại diện cho khuynh hướng này có thể kể đến Hoàng Trọng Phiến, Hữu Quỳnh…. Hoàng Trọng Phiến gọi thành phần phụ chú là đồng vị ngữ, ông định nghĩa: đồng vị ngữ là “những từ khác nhau cùng biểu hiện một biểu vật, có cùng chức năng ngữ pháp của thành phần trước đó” [40: 148]. “Đó là thành phần có tổ chức riêng, có cùng vị trí, chức năng của thành phần trước đó. Chức năng của nó là chú thích thêm cho rõ nghĩa của thành phần trước nó” [39: 146] và “có thể bỏ đi cũng không phương hại gì đến cấu trúc câu và ý nghĩa cơ bản của câu” [40: 148]. Ví dụ: Hà Nội – thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nơi đại diện cho nền văn hóa của dân tộc ta Còn Hữu Quỳnh [42] gọi đây là thành phần xen và xác định nội dung của nó như sau: “thành phần có tác dụng nói rõ thêm nội dung của một từ hay nhóm từ ở trong câu, về ý nghĩa, nó giống như lời chú thích, bổ sung đối với một điều nào đó trong câu. Về mặt cấu tạo ngữ pháp, nó không phải là thành phần trong nòng cốt câu; nó thường được đặt tiếp sau từ hay nhóm từ mà nó có quan hệ về ý nghĩa” [42: 135]. b. Khuynh hướng 2 Khuynh hướng này được hầu hết các nhà nghiên cứu Việt ngữ học tán đồng. Đây là quan điểm cho rằng phụ chú không chỉ là thành phần phụ giải thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó của câu mà nó còn được dùng để giải thích, bổ sung một điều cần chú thích cho toàn câu, hoặc những đơn vị lớn hơn câu, nó không đồng chức năng ngữ pháp với bộ phận được nó chú thích. * Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê [12] dùng khái niệm giải từ (tức phụ chú) và phân biệt giải từ của bậc cụm từ (ông gọi là “từ kết”) với giải từ bậc câu. - Giải từ ở bậc cụm từ được xác định “là tiếng dùng để giải thích một tiếng khác, chứ không thêm nghĩa. Giải từ đứng sau tiếng chính” [12: 252]. Trong các ví dụ, tác giả có dẫn ra ví dụ lấy từ tác phẩm của Trần Tế Xương: Bắt chước ai ta chúc mấy lời, Chúc cho khắp hết cả trên đời, Vua quan sĩ thứ, người muôn nước, Sao được cho ra cái giống người. - Giải từ bậc câu “là tiếng dùng để giải thích một việc hay nhiều việc” [12: 583]. Ví dụ: Tối ba mươi nghe pháo nổ đùng: òa! tết! Sáng mồng một đụng nêu kêu cộp: ủa! xuân! * Nguyễn Kim Thản [44] dùng hai tên gọi đồng vị ngữ và phụ chú ngữ theo hai cách hiểu: Đồng vị ngữ được định nghĩa là “khác ngữ đồng vị ở chỗ nó đứng biệt lập, không nhập vào từ tổ với từ mà nó giải thích. Đồng vị ngữ trong tiếng Việt bao giờ cũng là danh từ đứng sau từ mà nó giải thích, và có thể xen vào sau bất kì thành phần nào [44: 222]. Để minh họa cho khái niệm này, tác giả đã đưa ra ví dụ: Đích bèn chung vốn với Oanh, một bạn gái đồng sự của y. Còn phụ chú ngữ thì giải thích thêm một từ nào đó hoặc dùng để tỏ thái độ chủ quan của người nói đối với sự vật, hoạt động hay trạng thái nêu ra trong câu [44: 225]. Như vậy, theo cách giải thích của Nguyễn Kim Thản thì phụ chú vừa hẹp hơn (loại trừ cái gọi là “đồng vị ngữ” ra khỏi phụ chú), vừa rộng hơn (cộng thêm cái mà một số tác giả khác coi là “phần tình thái”) so với quan niệm của nhiều tác giả khác. Sau này, Nguyễn Kim Thản lại dùng thuật ngữ “gia ngữ” [45] và định nghĩa: Gia ngữ là phần phụ có tác dụng giải thích thêm nội dung của một từ, một cụm từ nào đó, hoặc chú thích thái độ tình cảm của người nói, người viết. Gia ngữ bao giờ cũng đặt ở sau từ, cụm từ được giải thích thêm, hoặc được chú thích thêm, và thường xen vào giữa lời nói. Gia ngữ thường đặt sau một quãng ngắt nhỏ thể hiện trên chữ viết bằng một dấu phẩy hay một dấu gạch ngang (-) và kết thúc bằng một quãng ngắt nhỏ [45: 53]. Ví dụ: Thưa ông – người lạ mặt hỏi – có phải ông là ông Hai không ạ? Các tác giả của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam [49] cho rằng thành phần phụ chú là “thành phần bổ sung một điều chú thích kịp thời hoặc cho cả nòng cốt câu hoặc cho một yếu tố thuộc bậc cấu tạo thành phần trước đó [49:191]. Thành phần phụ chú còn được gọi bằng hai thuật ngữ: giải thích ngữ và chú thích ngữ dựa vào vào ý nghĩa, cấu tạo và đặc trưng ngữ pháp. Theo quan niệm của các nhóm tác giả Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung [8]: - Giải thích ngữ là thành phần biệt lập dùng để giải thích thêm cho nội dung của từ hoặc cụm từ làm thành phần câu hay thành tố phụ trong cụm từ [8: 204]; có vị trí ngay sau từ mà nó giải thích, được ngăn cách với từ này bằng một quãng ngắt, được biểu thị bằng dấu phẩy, dấu ngang hoặc dấu ngoặc đơn và có cấu tạo thường do danh từ hoặc cụm danh từ đảm nhiệm. - Chú thích ngữ là “thành phần biệt lập dùng để chú thích thêm tình cảm, thái độ, cảm tưởng, ý nghĩ của người nói về một ý nào đấy do một bộ phận nào đấy trong câu biểu thị; có vị trí thường đứng liền sau bộ phận mà nó chú thích, tách khỏi bộ phận này bằng một quãng ngắt được đánh dấu bằng vạch ngang hoặc bằng một dấu ngoặc đơn”; có cấu tạo do cụm từ, câu, hoặc có khi cả một đoạn văn gồm nhiều câu biểu thị [8: 207]. Như vậy, nội dung của “thành phần biệt lập” cũng không có gì khác “thành phần xen” và “thành phần phụ chú” đã nói ở trên. Diệp Quang Ban [1] phân biệt giải ngữ của câu với giải ngữ của từ như sau: “Giải ngữ của câu thường đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ hoặc đứng sau nòng cốt câu, cũng có kiểu có thể đứng trước nòng cốt câu. Giải ngữ của câu được dùng làm sáng tỏ thêm về một phương diện nào đó có liên quan gián tiếp đến câu làm cho người nghe hiểu câu nói đúng hơn, rõ hơn. Thông thường nội dung của giải ngữ câu là sự bổ sung các chi tiết, là sự bình phẩm về việc nói trong câu, làm rõ xuất xứ câu, làm rõ thái độ, cách thức đi kèm khi câu được diễn đạt [1: 200]. Giải ngữ của từ được coi là phần phụ “được dùng để thuyết minh thêm nội dung hay giải thích thêm một khía cạnh nào đó của từ mà nó phụ thuộc về nghĩa (…). Giải ngữ thường đứng sau từ nó có quan hệ nghĩa, Tuy nhiên cũng không hiếm trường hợp không có sự liên hệ trực tiếp về không gian tuyến tính như vậy. Trên chữ viết, giải ngữ thường được tách biệt bằng hai dấu chấm, dấu ngang, dấu phẩy, hoặc dấu ngoặc đơn. Khi đọc, giải ngữ thường được phát âm nhỏ hơn và nhanh hơn [1: 239-240]. Gần đây, Diệp Quang Ban [5] lại cho rằng phần phụ chú là một bộ phận có tính chất trung gian. Theo ông “phần phụ chú có thể nằm trong hoặc không nằm trong hoặc không nằm trong cấu trúc cú pháp của câu chứa nó, với chức năng nghĩa là làm sáng tỏ thêm phương diện nào đó có liên quan đến nghĩa cả câu, giúp cho người đọc người nghe hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn nội dung của câu hoặc ý định của người nói. - Còn Hồ Lê [36] nói về phụ chú với cách gọi: phụ chú ngữ. Theo ông phụ chú ngữ có hai dạng: Đồng danh ngữ (“từ tổ danh từ dùng để nói rõ hơn về đối tượng do danh từ hoặc đại danh từ đứng trước nó biểu thị”[36: 405]) và Đoạn chú thích (“một ý riêng” nào đó được “xen vào” “để giải thích hoặc lưu ý thêm một điều gì đó. Ý riêng này được biểu đạt bằng một từ tổ động từ hoặc bằng cú và không đồng thành phần, đồng chức năng với bất cứ thành phần nào, bộ phận nào trong câu) Ví dụ: Vội vàng (ấy, cũng cái kiểu vội vàng cố hữu đó mà), ông ba kéo tay mấy ông bạn già vào giữa phòng. Đoạn chú thích trên có tác dụng lưu ý thêm về cách thức vội vàng của ông Ba. Theo tác giả, bỏ nó đi câu vẫn nguyên vẹn là câu cách thức – hành động. Điểm chung giữa các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban (trong quan niệm truyền thống), Hồ Lê, Lê Cận, Phan Thiều, Hoàng Văn Thung… là đều coi phụ chú là thành phần biệt lập, mặc dù cách diễn đạt có phần khác nhau. Qua ý kiến của các tác giả đã được trình bày, có thể thấy rằng cách hiểu về phụ chú vẫn còn có chỗ chưa thống nhất, thậm chí có những quan niệm khác nhau ở cùng một nhà nghiên cứu ở những thời điểm khác nhau. Tuy nhiên ở đây ta vẫn có thể thấy những điểm giống nhau cơ bản: - Về thành phần câu, các tác giả đều cho đây là thành phần biệt lập, nằm ngoài nòng cốt câu, có thể bỏ đi mà không ảnh hưởng gì đến cấu trúc cú pháp của câu. - Về chức năng, các tác giả cũng đã khẳng định phần phụ chú có tác dụng làm rõ những yếu tố ngôn ngữ mà nó phụ thuộc về nghĩa hoặc bổ sung thêm một điều gì đó (như nội dung, ý nghĩa, thái độ, tình cảm,…) cho phần câu được nó giải thích. - Về vị trí, nó thường đứng sau phần câu được nó chú thích. - Về hình thức, nó thường được ngăn cách với phần câu còn lại bằng các dấu câu như: dấu hai chấm, dấu phẩy, dấu ngoặc đơn, dấu ngang cách. Đến đây, luận văn tạm tiếp thu quan điểm của Đào Thị Vân trong luận án khoa học về “Phần phụ chú trong câu tiếng Việt” (2003) để xác định khái niệm của phần phụ chú như sau: Phần phụ chú không nằm trong cấu trúc cú pháp của câu. Nó chỉ là một bộ phận chêm xen với chức năng thực hiện một số hành động nói nào đó, như: giải thích, minh họa, quy ước, chuyển chú, biểu cảm…nhằm giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn nội dung của câu hay một ý định nào đó của người chú thích. Về nội dung, phụ chú có quan hệ với văn bản hữu quan theo những kiểu nghĩa nhất định. Về hình thức, nó có thể được cấu tạo từ từ, câu, chữ số hoặc kí hiệu quy ước… Về vị trí, nó thường đứng liền sau phần câu được chú thích và ngăn cách với bộ phận này bằng các dấu câu, như: dấu ngang cách, dấu phẩy, dấu ngoặc đơn, dấu hai chấm, dấu móc vuông,… 1.1.2. Phân loại Về cách phân loại phụ chú, ý kiến của các nhà nghiên cứu cũng có những điểm không giống nhau. *Hoàng Trọng Phiến (1980) với tên gọi “đồng vị ngữ” đã phân loại dựa vào chức năng cú pháp của đối tượng mà phụ chú giải thích như sau: - Thành phần đồng vị chủ ngữ: Đại đội trưởng, Huy, ra lệnh cho anh em tiếp tục lên đường. - Thành phần đồng vị vị ngữ: Chúng ta là thế hệ thanh niên Hồ Chí Minh, thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng. - Thành phần đồng vị định ngữ: Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam, lứa măng non của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (TM) - Thành phần đồng vị bổ ngữ Nước non đau xót như lòng mẹ Mất một người con: Nguyễn Chí Thanh. (HT) Theo tác giả, “Thành phần đồng vị ngữ cũng có thể bao gồm hơn hai bộ phận để làm chú giải cho thành phần nào đó trong câu”. *Hữu Quỳnh (1980) đã chia thành phần xen (phụ chú) thành hai loại lớn dựa vào nội dung chú thích của thành phần này. Thành phần xen nói rõ thêm về nội dung của từ hay nhóm từ trong kết cấu chủ ngữ, vị ngữ hoặc thành phần phụ của câu. Thành phần xen chú thích ý nghĩ, cảm tưởng, thái độ của người nói, người viết. *Các tác giả cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983) của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam đã phân biệt hai trường hợp: - Thành phần chú thích thuộc bậc cấu tạo câu và không có quan hệ riêng với thành phần nào hay yếu tố nào trong nòng cốt. Ví dụ: Em học sinh ấy – thật là gan dạ - đã nổ mìn diệt cả tốp địch - Thành phần chú thích có thể coi là thuộc bậc cấu tạo thành phần câu và có tác dụng chú thích một yếu tố ở trước nó và yếu tố này thuộc cấu tạo của một thành phần trong nòng cốt. Ví dụ: Thành phố Huế, quê tôi, thật đẹp. Như vậy, theo quan niệm của tác giả Hoàng Trọng Phiến, phần phụ chú (cách gọi của tác giả luận văn) chỉ giải thích cho một số bộ phận của câu. Đến tác giả Hữu Quỳnh việc phân loại chủ yếu dựa vào nội dung ý nghĩa của phụ chú. Theo đó, phần phụ chú ngoài việc làm rõ nội dung ý nghĩa của một thành phần câu, đôi khi nó còn chú thích cho ý nghĩ, cảm tưởng, thái độ của người nói, viết. Với các tác giả của “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983), thành phần phụ chú không chỉ chú thích cho một thành phần nào đó của câu mà có khi nó chú thích cho cả câu. Ngoài ra, các tác giả khác như Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Nguyễn Kim Thản… cũng đã có những cách phân loại tương tự. Qua ý kiến phân loại của một số tác giả đã được trình bày và ý kiến của nhiều tác giả khác, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã phân loại phụ chú theo nhiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, ở đó các tác giả chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể để làm cơ sở cho việc phân loại. Theo chúng tôi, việc phân loại phụ chú có thể dựa trên các tiêu chí sau đây: 1. Dựa vào đặc điểm cấu tạo của đối tượng (thành tố) phụ chú 2. Dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa phần phụ chú và đối tượng phụ chú Dựa vào (1), ta thấy về chức năng phần phụ chú có thể giải thích cho một yếu tố nào đó trong câu, một thành phần câu, cho cả câu, hoặc một chuỗi câu. Vì vậy có thể phân loại như sau: - Phụ chú cho từ hoặc cụm từ. - Phụ chú cho câu. - Phụ chú cho một chuỗi câu hay một đoạn văn. Dựa vào (2), ta thấy giữa phần phụ chú và đối tượng được phụ chú có thể có nhiều quan hệ nghĩa khác nhau. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi thấy có thể phân phụ chú thành hai loại như sau: - Phụ chú giải thích cho nội dung câu hoặc nghĩa biểu hiện của câu (nghĩa sự việc). - Phụ chú giải thích hoặc bổ sung ý nghĩ, thái độ, tình cảm của người nói, người viết (nghĩa tình thái). 1.2. Những phương diện nghĩa của câu Xét về phương diện nghĩa của câu, có thể phân biệt hai loại nghĩa: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái. Như đã trình bày, phụ chú là phần “dùng để chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên quan đến sự tình nêu trong câu, giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của câu hay dụng ý của người chú giải”. Như vậy có thể thấy rằng phần phụ chú có liên quan chặt chẽ với nghĩa biểu hiện của câu và bản thân nó cũng có lúc biểu hiện nghĩa tình thái có liên quan đến nội dung câu. Vì vậy trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ đề cập đến nghĩa biểu hiện và nghĩa tình thái trong câu. 1.2.1. Nghĩa biểu hiện 1.2.1.1 Khái quát Nghĩa biểu hiện (còn được gọi là nghĩa miêu tả, nghĩa mệnh đề, nghĩa hạt nhân) là thành phần nghĩa phản ánh sự vật, hiện tượng khách quan vào trong lời nói thông qua nhận thức của con người. Về chức năng, nghĩa biểu hiện là thành phần cốt lõi làm nên nội dung thông báo để thực hiện chức năng giao tiếp, chức năng tư duy. Tóm lại, những sự tình được thông báo, các hiển ngôn, hàm ngôn đều phải trực tiếp hay gián tiếp dựa vào câu mà biểu hiện. Mỗi từ ngữ, mỗi thành phần chức năng trong câu đều có vai trò của nó, nhưng có thể nói hạt nhân của câu là cái khung ngữ vị từ gồm có vị từ trung tâm và các tham thể quây quần xung quanh, biểu thị một vai nghĩa nào đó. Có những vai nghĩa bắt buộc, nhưng cũng có những vai nghĩa không bắt buộc. Theo lí thuyết diễn trị của Tesnière, những vai nghĩa bắt buộc được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được gọi là diễn tố (actant), còn những vai nghĩa không bắt buộc thì được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được gọi là chu tố (circonstant). Việc đánh giá một vai nghĩa bắt buộc hay không bắt buộc phải đặt trong quan hệ với vị từ trung tâm. Một vai nghĩa có thể có tính không bắt buộc đối với vị từ này nhưng lại bắt buộc đối với vị từ khác. Ví dụ: - Anh ấy làm việc ở Sài Gòn (vai nghĩa nơi chốn không bắt buộc). - Anh ấy có ở Sài Gòn vào tháng trước. (vai nghĩa nơi chốn mang tính bắt buộc). 1.2.1.2. Các tham tố của vị từ Trong xu hướng chung đi tìm các phổ quát ngôn ngữ, ở những năm 60, Fillmore đã đưa ra một số vai nghĩa mà ông cho là có tính phổ quát, có thể tìm thấy trong mọi ngôn ngữ: Agentive (tác thể), Instrument (cách công cụ), Dative (tặng cách), Factitive (tạo cách), Location (cách địa điểm), Object (đối thể). Danh sách các vai nghĩa về sau đã được nhiều nhà ngôn ngữ học bổ sung (Chafe, Dik, Dixon, Parson…). Cho đến nay số vai nghĩa vẫn chưa có sự thống nhất. Trong trong luận văn này chúng tôi tiếp thu ý kiến của S.C. Dik để phân biệt hai loại tham tố là diễn tố và chu tố. a. Diễn tố (actants) Diễn tố là loại tham tố cần và đủ, có số lượng nhất định cho từng vị từ tham gia vào nội dung biểu hiện của khung ngữ vị từ. Đó là những vai nghĩa được giả định một cách tất yếu trong nội dung nghĩa của vị từ mà nếu thiếu đi thì cái sự tình hữu quan không thể thực hiện, không còn là nó nữa. Có thể nói, diễn tố là tham tố quan trọng không thể thiếu của khung ngữ vị từ. chẳng hạn, một sự tình bơi, chạy, nhảy, phải có diễn tố (người hoặc vật) thực hiện. Thiếu đi diễn tố này, không thể tồn tại sự tình bơi, chạy, nhảy, Diễn tố có thể vắng mặt trong câu nhưng vẫn được người đọc, người nghe hiểu ngầm. Ví dụ : Trong cái sự tình được gọi là “Mất rồi”, diễn tố không có mặt nhưng chúng ta vẫn ngầm hiểu là có một cái gì đó hay một người nào đó vừa ở trạng thái mất. Diễn tố thường do danh ngữ đảm nhận, cũng có khi diễn tố là đại từ (nhân xưng). b. Chu tố (circumstants) Tham gia vào sự tình còn có những vai nghĩa khác. Chu tố là một loại tham tố không bắt buộc, không nhất thiết phải có mặt để cho sự tình có thể được gọi tên bằng vị từ trung tâm. Ví dụ : Trong câu phản ánh sự tình “chạy”có thể có những tham tố chỉ nơi chạy, hướng chạy, chỉ đích, chỉ điểm xuất phát…Những tham tố này không cần phải có mặt mà sự tình “chạy” vẫn được thực hiện. Những tham tố đó được gọi là chu tố [Dẫn theo 25]. Chu tố là tham tố có thể có (không bắt buộc) bên cạnh các diễn tố, chỉ các tình huống như thời gian, nơi chốn, phương thức, phương tiện, nguyên nhân, mục đích, kết quả… của sự tình. Ví dụ: Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. (Nguyễn Du) Khung ngữ vị từ, với vị từ trung tâm và các tham tố của nó là cơ sở để nghiên cứu nghĩa của câu, xét ở góc độ cấu trúc nội tại: quan hệ giữa các yếu tố nghĩa tạo câu, các loại câu xét theo nghĩa biểu hiện. 1.2.1.3. Phân loại câu theo nghĩa biểu hiện Theo Cao Xuân Hạo, phân loại câu theo nghĩa biểu hiện (của khung ngữ vị từ) thực chất là phân loại các sự tình. Các sự tình được phân loại như sau [Dẫn theo 25]: SỰ TÌNH Biến cố Tồn tại Tình hình (+ động ) (- động) Hành động Quá trình Trạng thái Quan hệ (+chủ ý) (- chủ ý) (+nội tại) (- nội tại) a. Câu tồn tại Là loại câu có nghĩa biểu hiện sự tồn tại của sự vật, hiện tượng (trong không gian, thời gian hoặc một chiều kích nào đó được hình dung như không gian/thời gian). Câu tồn tại nhận định rằng có một cái gì ở đâu đó (tức là sự định vị) có trường hợp là bắt buộc [ví dụ (***), (****)], có trường hợp không [ ví dụ(*), (**)]. Ví dụ: * Có muỗi. ** Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi. (Nguyễn Bỉnh Khiêm) *** Sao đầy trời. **** Trên tường treo một bức tranh. b. Câu hành động - Câu hành động diễn tả một sự tình động có chủ ý. Chủ thể của hành động gọi là hành thể. Nếu hành động trong câu có tác động đến một số đối tượng, hành thể thường được gọi là tác thể. Hành thể là diễn tố thứ nhất, có khi là duy nhất của vị từ hành động. Ngoài các diễn tố, trong câu hành động cũng có thể có các chu tố. + Câu hành động vô tác Hành động vô tác là hành động không tác động đến đối tượng nào ở bên ngoài. Ví dụ: Em bé bò trên sàn nhà. (Diễn tố: hành thể) (hành động) (Chu tố: vị trí) Thằng bé nhìn con hổ (Diễn tố: hành thể) (hành động) (Diễn tố: mục tiêu) Các hành động vô tác có thể chia làm hai loại: + di chuyển và – di chuyển (như bò và nhìn trong hai ví dụ trên). + Câu hành động chuyển tác Hành động chuyển tác là hành động có tác động đến đối tượng làm cho đối tượng thay đổi trạng thái hay vị trí, hoặc bị hủy diệt, hoặc tạo ra một vật. Về các hành động chuyển tác, có sự phân biệt giữa các hành động chuyển thái, chuyển vị và các hành động tạo diệt (tạo tác và hủy diệt) Ví dụ: Liên nấu cơm (chuyển thái) Liên cho em cái bánh (chuyển vị - chuyển vị trí sở hữu). Các bác thợ xây nhà (tạo tác). c. Câu quá trình Câu quá trình diễn tả một sự tình động (biến cố) không có chủ ý, bao gồm 2 loại: câu quá trình vô tác và câu quá trình chuyển tác. + Câu quá trình vô tác Câu quá trình vô tác là câu có nội dung biểu thị quá trình không chuyển tới đối tượng bên ngoài. Quá trình được biểu thị có thể là một sự chuyển biến, một sự nảy sinh hoặc một sự hủy diệt. Chủ thể của quá trình vô tác có thể là người, động vật, hoặc vật vô tri. Ví dụ: Mưa rơi. Cây đổ. Người chết. Em bé ngã. + Câu quá trình chuyển tác Câu quá trình chuyển tác biểu thị quá trình trong đó vật vô tri gây ra một tác động thay đổi trạng thái hay vị trí của một đối tượng hoặc hủy diệt đối tượng đó. Câu biểu thị quá trình chuyển tác có chủ đề giữ vai lực, vị từ trung tâm là vị từ chỉ quá trình chuyển tác. Ví dụ: Gió mở tung cửa sổ. Sét đánh đổ cây. d. Câu trạng thái Câu trạng thái là câu diễn tả tình hình nội tại, tức tính chất hay tình trạng của sự vật. Chủ thể của tính chất, tình trạng của sự vật hiện tượng có thể là người, vật, hay động vật, giữ cương vị chủ đề. Tính chất và tình trạng phân biệt nhau một cách tương đối và có phần ước định ở chỗ nó thường tồn (tính chất) hay nhất thời (tình trạng). Câu trạng thái thường có một diễn tố là đương thể của tính chất hay nghiệm thể của tâm trạng. Ví dụ: Con chó gầy giơ xương. (Diễn tố: đương thể) Chúng tôi rất thương cháu (Diễn tố: nghiệm thể) (tâm trạng) Những vị từ tình cảm như thích, yêu, ghét, giận, sợ, kính, nể,… có hai diễn tố: một nghiệm thể và một là đối thể hoặc nguồn gây ra tình cảm ấy ở nghiệm thể. Ví dụ: Hắn rất nể anh ấy (Diễn tố1 (Tình cảm) (Diễn tố 2 nghiệm thể) đối thể/nguồn e. Câu quan hệ Quan hệ là một tình hình mà nội dung là một cái gì đó ở giữa hai sự vật, chẳng hạn một khoảng cách, một mối liên hệ nhân quả, một sự so sánh, một sự tiếp xúc… Câu quan hệ nhất thiết phải có hai vế. Loại câu này được đánh dấu bằng sự xuất hiện của những vị từ quan hệ như hơn, kém, bằng,như, giống, khác…, và những danh từ quan hệ như: trên, dưới, trước, sau, trong, ngoài, giữa… Ví dụ: Cô ấy là cô giáo cũ của chúng tôi Minh hơn Nam về khả năng giao tiếp. 1.2.2. Nghĩa tình thái Bên cạnh nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái là một loại thành tố ngữ nghĩa của câu, cung cấp cho người tiếp nhận những thông tin về tình thái trong câu. Khởi nguồn cho việc nghiên cứu nghĩa tình thái (tính tình thái của câu) là việc nghiên cứu của các nhà logic học với những khái niệm công cụ như tính hiện thực, tính tất yếu, tính khả năng,… “Tình thái” vốn là một khái niệm logic học. Trong logic học, nội dung của một mệnh đề được chia làm hai phần: phần thứ nhất là phần ngôn liệu (vị ngữ logic và các tham tố của nó được xem xét như một mối liên hệ tiềm năng) và phần thứ hai là phần tình thái, tức là cách thực hiện mối liên hệ ấy với hiện thực khách quan: Mối liên hệ ấy có tính hiện thực hay không (có xảy ra hay không xảy ra), tất yếu hay không tất yếu (nghĩa là đối tượng được nói có mang đặc trưng được gán cho trong mọi thế giới hay không), có khả năng hay không có khả năng (nghĩa là đối tượng được nói mang đặc trưng được gán cho ít nhất trong một thế giới nào đó hay không). Đi vào chi tiết hơn, các nhà nghiên cứu còn xem xét tính hiện thực, tính tất yếu và tính khả năng được nêu ra ở phương diện nhận thức (dựa trên bằng chứng hay suy luận), phương diện đạo nghĩa (dựa trên những ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ). Ví dụ: Lớp chúng tôi có lẽ phải học chuyên đề ngôn ngữ học tri nhận vào tuần tới, tại phòng C705. Phần ngôn liệu của mệnh đề gồm vị ngữ logic “học” và bốn tham tố của nó: (1) Lớp chúng tôi (chủ thể của hành động), (2) chuyên đề ngôn ngữ học tri nhận (đối thể của hành động), (3) vào tuần tới (thời gian diễn ra hành động), (4) tại phòng C705 (nơi thực hiện hành động). Phần ngôn liệu này tiềm tàng mối liên hệ giữa mệnh đề với thực tại khách quan mà nó phản ánh trên cơ sở phần ngôn liệu và phần tình thái được xem xét. Chẳng hạn, việc Lớp chúng tôi học chuyên đề ngôn ngữ học tri nhận vào tuần tới tại phòng C705 là chưa xảy ra (phi hiện thực), có thể được (có khả năng), không tất yếu, bắt buộc. Ví dụ: Xét tình thái của các mệnh đề: a) Trái đất xoay quanh mặt trời. b) Nước sẽ sôi ở nhiệt độ 100 độ C. Trong ví dụ trên, (a) là mệnh đề có tính [+khả năng], [+tất yếu], [+hiện thực]. Còn (b) là mệnh đề có tính [+ khả năng], [- tất yếu] (không tất yếu) vì nước có thể không sôi ở nhiệt độ 100 độ C), [- hiện thực] (phi hiện thực), vì tình trạng nước sôi chưa xảy ra. Trong logic học, tình thái của một mệnh đề được nghiên cứu qua ba thông số: - Tình thái có khả năng hay không có khả năng ( khả năng ) - Tình thái tất yếu hay không tất yếu ( tất yếu) - Tình thái hiện thực hay phi hiện thực (hiện thực). Trong ngôn ngữ học, tình thái của câu không chỉ dừng lại ở ba thông số như logic học. Vì câu thuộc bình diện ngôn ngữ học, là đơn vị cơ bản của hoạt động giao tiếp và tư duy, tình thái của câu còn được xem xét qua các thông số: thái độ (người nói đồng tình hay không đồng tình với sự tình, tôn trọng hay không tôn trọng người nghe), sự đánh giá của người nói (người nói tin hay không tin vào điều mình nói ra). Sự đánh giá có thể coi như một trong những kiểu tình thái trùm lên nội dung được miêu tả trong sự biểu hiện của ngôn ngữ. Thông số này làm cho tình thái của câu phong phú và đa dạng hơn so với tình thái logic. Tuy vậy, thái độ của người nói không chỉ làm thành một thông số tình thái riêng trong câu mà còn thâm nhập vào ba thông số kia để biến những thông số chỉ được xét ở hai với hai trị () (có, không) trong logic trở nên thông số có nhiều giá trị khác nhau trong ngôn ngữ. Ví dụ: a) Tất nhiên là anh ấy sẽ chiến thắng và trở về. b) Dĩ nhiên là anh ấy ra Hà Nội chiều qua. Ở ví dụ (a) có các tình thái phi hiện thực, tất yếu, có khả năng (những tình thái khách quan) và những tình thái chủ quan như: sự tin tưởng, đồng tình, mong muốn (những tình thái bổ sung), còn ở ví dụ (b) lại có tình thái: hiện thực, tất yếu, có khả năng (những tình thái khách quan), tin tưởng, thân mật,… (những tình thái chủ quan). Tình thái còn được xem xét ở góc độ tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn… Tình thái của hành động phát ngôn là loại tình thái phân biệt các lời nói trên phương diện mục đích và tác dụng trong giao tiếp. Đó là sự phân biệt các kiểu câu trần thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán. Thuộc phạm vi tình thái của hành động phát ngôn, người ta còn phân biệt giữa loại câu miêu tả mang tính chất thông báo thuần túy với loại câu xác nhận, câu phản bác và nhất là câu ngôn hành. Ví dụ: a) Hôm nay trời mưa to. (câu miêu tả) a’) Đúng là hôm nay trời mưa to. (câu xác nhận) a’’) Hôm nay trời mưa không to (câu phản bác) b) Nó đã xin lỗi cô giáo. (câu miêu tả) b’) Em xin lỗi cô ạ. (câu ngôn hành) Về vấn đề tình thái, Cao Xuân Hạo có nêu “Tình thái của lời phát ngôn thuộc cái nội dung được truyền đạt (trong trần thuật hay trong câu hỏi), nó có liên quan đến thái độ của người nói đối với điều mình nói ra hoặc đến quan hệ giữa sở đề và sở thuyết của mệnh đề. Ví dụ: Hình như nó đi từ lúc 12 giờ. Thanh ngạc nhiên khi thấy cây hoàng lan trổ bông. Có thể nói, tình thái của câu gồm ba nội dung sau: Một là, tình thái biểu thị mối quan hệ giữa người nói và người nghe (còn gọi là tình thái liên nhân). Tình thái liên nhân thường được đánh giá qua các thông số [ tôn trọng], [ thân mật],… Tình thái liên nhân có thể được đánh dấu bằng hô ngữ, phụ ngữ tình thái hoặc bằng các đại từ nhân xưng, trợ từ ngữ khí,… được sử dụng trong câu. Ví dụ: Em thắp lên chị Liên nhé? (Thạch Lam, Hai đứa trẻ) Bẩm chỉ mới có hai ông ở Hải Phòng và ở Hà Nội về trình sổ sách. (Vũ Trọng Phụng, Giông tố) Hai là tình thái biểu thị thái độ, cách đánh giá của người nói đối với sự việc được nêu trong câu (tình thái đánh giá). Tình thái đánh giá thường được xem xét qua các thông số [ đồng tình], [ tin tưởng], [ mong đợi],… Tình thái đánh giá thường được đánh dấu bằng các phụ ngữ tình thái đánh giá hoặc những trợ từ biểu thị sự đánh giá. Ví dụ: a) Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. (Nam Cao, Chí Phèo) b) Nếu tôi nói thì chắc người ta cũng bằng lòng. (Vũ Trọng Phụng, Số đỏ) c) Thằng bé ăn những hai bát cơm. d) Thằng bé chỉ ăn hai bát cơm. Ở ví dụ (a), phần câu hình như cho thấy người nói chưa hoàn toàn tin tưởng vào điều mình nói ra. Câu (b) thể hiện sự phỏng đoán có độ tin cậy cao đối với sự việc. Ở ví dụ (c), trợ từ những cho người đọc hiểu là sự đánh giá về lượng cơm mà thằng bé ăn được là nhiều. Nhưng ở ví dụ (d), trợ từ chỉ thể hiện sự đánh giá ngược lại: theo người nói, lượng cơm mà thằng bé ăn được là còn ít. Ba là, tình thái biểu thị mối quan hệ của sự việc được nêu với hiện thực khách quan như thời gian, cách thức diễn ra hành động, tính [ khả năng, tất yếu,  hiện thực] của sự tình được đề cập,… (tình thái khách quan). Tình thái khách quan thường được đánh dấu bằng các phụ từ như đã, sẽ đang, không, chưa, chẳng… hoặc bằng các vị từ tình thái, như có thể, bèn, toan, cần, phải,…hoặc bằng các phương tiện từ vựng. Ví dụ: - Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. (Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập) - Hắn nhặt một hòn gạch vỡ, toan đập đầu. (Nam Cao, Chí Phèo) - Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng. (Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức) - Tao không thể là người lương thiện được nữa. (Nam Cao, Chí phèo) Ba nội dung tình thái của câu vừa trình bày trên có thể gộp thành hai mảng như sau: 1) Tình thái chủ quan (tình thái thuộc về người nói) gồm tình thái đánh giá và tình thái liên nhân. Nội dung tình thái này vừa có thể có những phương tiện riêng để biểu thị vừa sử dụng ngay những phương tiện biểu thị tình thái khách quan. 2) Tình thái khách quan là tình thái thuộc về mối liên hệ giữa nội dung của câu với hiện thực được phản ánh. Nó cũng có những phương tiện biểu thị đặc thù vừa có những phương tiện chung. Như vậy, trong ngôn ngữ học, tình thái là phạm trù ngữ pháp – ngữ nghĩa biểu thị quan hệ của người nói với phát ngôn và quan hệ của nội dung phát ngôn với hiện thực khách quan. Tính tình thái là một phổ niệm ngôn ngữ, nó thuộc phạm trù cơ bản của ngôn ngữ tự nhiên. Nghĩa tình thái cũng là một phạm trù nghĩa của câu. Tình thái của câu là một vấn đề rất phức tạp, hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác biệt về vấn đề này. Đi tìm hiểu vể biểu hiện tình thái trong phần phụ chú, chúng tôi sẽ khai thác theo cách hiểu đã được nhiều người thừa nhận. 1.3. Lý thuyết hành động ngôn từ 1.3.1. Khái niệm về hành động ngôn từ Người đầu tiên nghiên cứu lý thuyết này là nhà triết học người Áo, L.Wittgenstein. Ông đã đồng nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và việc sử dụng ngôn từ (lời nói) như một hành động. Sau đó, J. L. Austin lại là người đã đánh dấu mốc cho sự phát triển của lý thuyết hành động ngôn từ bằng công trình nghiên cứu “How to do thing with words”, ông bày tỏ luận điểm: “To say is to do something” (nói là làm). Ông cho rằng để biểu hiện, diễn tả một hành động ngôn từ thì cần phải nói ra điều đó, còn làm là thực tế, là việc đi vào thực tiễn. Từ luận điểm này mà người ta xây dựng nên lý thuyết về hành động ngôn từ. Như vậy, khi ta nói một câu nghĩa là ta đã thực hiện một hành động nào đó. Chẳng hạn như: thông báo, khuyên, chúc mừng, tuyên bố, hứa hẹn…Đó là những hành động được thực hiện bằng ngôn từ, được gọi là hành động ngôn từ. Và J. L. Austin xem hành động ngôn từ là một thể thống nhất các hành động: - Hành động tạo lời (locutionary act). - Hành động tại lời (illocutionary act). - Hành động mượn lời (perlocutionary act). 1.3.2. Các hành động ngôn từ  Hành động tạo lời là “nói một điều gì đó”. Đây là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp để tạo nên một câu nói.  Hành động tại lời là “nói một điều gì đó và thực hiện điều đó như thế nào”. Đồng thời, hành động ấy phải thực hiện ngay khi phát ra câu nói. Ví dụ: Lớp ồn quá! (Hành động tại lời là nhận xét “lớp ồn”) Vì vậy hành động tại lời chính là lực ngôn trung, là đích phát ngôn. Nó bị chi phối bởi các qui tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng với những điều kiện sử dụng được thực hiện. Cốt lõi của hành động ngôn từ chính là hành động tại lời.  Hành động mượn lời là hành động thông qua việc phát ngôn câu nói, người nói tác động đến tư tưởng tình cảm… của người tiếp nhận. Với một hành động mượn lời, người nghe có thể không nhận ra ngay mặc dù hiểu được hành động tại lời. Một hành động tại lời có thể có nhiều hành động mượn lời khác nhau. Ví dụ: Một hành động tại lời là người nói không muốn tiếp chuyện với người nghe và đưa ra một lời yêu cầu trực tiếp: Khuya rồi, anh về đi. Hành động mượn lời có thể là một trong những trường hợp sau: - Mấy giờ rồi nhỉ ? - Ngày mai tôi có việc phải dậy sớm. - Thức khuya có hại cho sức khỏe lắm đấy! J. R. Searle trong công trình “Các hành động ngôn từ gián tiếp” (1969), đã đưa ra khái niệm hành động ngôn từ gián tiếp. Một hành động ngôn từ gián tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện bằng hình thức của một hành động ngôn từ khác. Nghĩa là một hành động tại lời được thực hiện gián tiếp phải thông qua một hành động tại lời khác. Nó có đặc điểm sau: - Một hành động ngôn từ gián tiếp được thực hiện thông qua những hành động tại lời khác nhau. - Cùng một hành động tại lời có thể tạo ra những hành động gián tiếp khác nhau. Ví dụ: Anh có thể chuyển dùm tôi đĩa ớt kia không? Ở ví dụ trên hành động tại lời là hỏi (hình thức) nhưng mục đích là đề nghị: Anh hãy chuyển dùm tôi đĩa ớt. J. R. Searle phân loại các hành động ngôn từ có sự tiến bộ hơn so với J.L. Austin. Ông đưa ra 12 tiêu chí để phân loại. Trong đó có 3 tiêu chí quan trọng chi phối sự phân loại, đó là: - Mục đích của hành động tại lời (Illocutionary point). - Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực (Direction of fit). - Trạng thái tâm lí được biểu hiện. Dựa vào những tiêu chí này mà J.R.Searle chia hành động ngôn từ ra thành 5 loại: (1) Biểu hiện (Representative) (2) Cầu khiến (Directive) (3) Ước kết (Commissive) (4) Bày tỏ (Expressive) (5) Tuyên bố (Declaratives) 1.3.3. Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ Trong hoạt động giao tiếp, lời nói được xem là một hành động. Việc sử dụng lời nói chịu sự chi phối nhất định mà L. Wittgenstein gọi là “trò chơi ngôn ngữ”, đồng thời J. Austin cũng đưa ra luận điểm “nói là làm”, nói là một cách sử dụng âm thanh ngôn ngữ để bộc lộ một nội dung thông báo nào đó. Và để đạt được hiệu quả trong giao tiếp, người nói cần quan tâm đến các điều kiện sử dụng của các hành động ngôn từ. Bởi lẽ để hành động được thực hiện thì mỗi hành động ngôn từ đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Muốn cho người nghe thực hiện một hành động nào đó như yêu cầu, đề nghị, sai bảo, khuyên răn,… mà người nói mong muốn thì từ phía người nói phải lựa chọn cách nói làm sao để người nghe không chỉ hiểu điều mình nói ở bề mặt ngôn từ mà còn tri nhận đích ngôn trung. Các hành động tại lời cũng đòi hỏi những điều kiện nhất định. Các hành động tại lời bị chi phối bởi các qui tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng. Vì vậy mà mỗi loại hành động tại lời có những điều kiện sử dụng của nó mà Austin gọi tên chúng là những điều kiện thuận lợi. Về vấn đề này, Searle chia làm 3 loại chính như sau: - Điều kiện ban đầu. - Điều kiện chân thực. - Điều kiện thiết yếu (điều kiện căn bản). a. Điều kiện ban đầu Ví dụ: Hành động ngôn từ ra lệnh. - S ra lệnh cho H làm một việc gì đó có lợi cho S còn H bị thiệt (về thời gian, công sức hay tiền của…) - S có vị thế giao tiếp (biểu hiện vị thế xã hội) cao hơn hoặc là người bậc trên so với H (trong trường hợp vị thế xã hội không bình đẳng). Hệ quả là tính bắt buộc cao. - Ra lệnh là làm một việc gì đó cho tôi, hoặc cho cả anh và tôi, hoặc không liên quan gì đến anh nhưng anh vẫn phải làm. - Khi S ra lệnh cho H làm một hành động C thì đương nhiên là hành động chưa được thực hiện hoặc thực hiện rồi mà vẫn chưa đạt yêu cầu, nên S mới ra lệnh cho H thực hiện hay thực hiện lại mà thôi. - Đồng thời người ra lệnh cần biết được rằng người nhận lệnh có khả năng hiểu được và thực hiện được mệnh lệnh của mình. Như vậy, điều kiện ban đầu liên quan đến quan hệ giữa hai người: người nói và người nghe, tới những ý nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe. b. Điều kiện chân thành Ví dụ: Hành động ngôn từ mời mọc . Khi S muốn mời H (ăn uống hay tham dự một cuộc vui chơi hoặc tham gia vào một công việc kinh doanh …nào đó) thì S phải chân thành mời thực chứ không phải mời lơi. Mời mọc thường mang lợi cho H gây thiệt cho S. Vì vậy một lời mời chân thành không chỉ hiển ngôn điều lợi mà H nhận được ,và còn cần phải gia tăng tính ép buộc mà vẫn không làm mất đi tính lịch sự của lời mời. Chẳng hạn S dùng câu cầu khiến trực tiếp để mời mọc H “Thế nào tối mai H cũng phải tới nhà tôi dùng bữa đấy nhé”! H tới nhà S dùng bữa, H được lợi, còn S bị thiệt (S phải tốn tiền, mất thời gian chuẩn bị bữa ăn…) và rõ ràng trong lời mời của S, S đã hiển ngôn điều lợi “ tới dùng bữa” và S thể hiện tấm chân tình của mình bằng cách ép buộc “thế nào cũng phải tới”…Đây chính là điều kiện chân thực của hành động mời mọc. Khác hẳn với lời mời gián tiếp bằng hình thức một câu hỏi “Tối mai H có tới nhà tôi dùng bữa được không?” S đã đặt H vào tình huống lựa chọn có/ không. Trong một hoàn cảnh nào đó thì có thể coi đây là một lời mời lơi, mời cho có mời. Như vậy điều kiện chân thành tập trung chủ yếu nói đến trạng thái tâm lý của hành động mà người nói thực hiện. Thông báo một điều gì đó cho người khác thì phải tâm niệm rằng thông tin đó là sự thật. Ra lệnh không chỉ là ép buộc mà phải thực sự mong muốn người nhận lệnh chấp hành. Dùng câu hỏi để tìm hiểu thông tin, người hỏi chân thành khi hoàn toàn chưa biết gì và thực sự muốn biết về thông tin đó chứ không phải là hỏi xã giao, lấy lệ…hay thực hiện hành động mời mọc thì phải mong muốn người nghe nhận lời của mình… TIỂU KẾT Qua những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi tóm lại một số điểm sau: - Phần phụ chú không thuộc thành phần trong cấu trúc cú pháp của câu. Nó chỉ là bộ phận chêm xen với chức năng như: giải thích, minh họa, quy ước, bổ sung, biểu cảm,… nhằm giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn, đúng hơn nội dung của câu hay ý định nào đó của người nói. - Trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, có các vai nghĩa mang tính bắt buộc (diễn tố) và các vai nghĩa không bắt buộc (chu tố). Theo đó, dựa vào vị từ để phân loại câu theo nghĩa biểu hiện, ta có: câu tồn tại, câu hành động, câu quá trình, câu trạng thái, câu quan hệ. Nghĩa tình thái trong câu có thể chia thành theo 2 loại: tình thái chủ quan và tình thái khách quan. - Dựa vào lí thuyết của hành động ngôn từ, có thể chia hành động thành các lớp: biểu hiện, cầu khiến, hứa hẹn, bày tỏ, tuyên bố. Và hành động này đòi hỏi phải có điều kiện nhất định để trở thành hiện thực. Chương 2 ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA BIỂU HIỆN CỦA PHẦN PHỤ CHÚ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Nghĩa là bình diện của “sự tình” được biểu đạt và những “vai trò” tham gia sự tình ấy gọi là tham tố (participants) của sự tình gồm diễn tố (actants) và chu tố (circumstants - những yếu tố đứng xung quanh) [34: 20]. Cách hiểu trên dựa vào lí thuyết kết trị của động từ và cương vị diễn tố của L.Tesnière (1959). L.Tesnière quan niệm cấu trúc nghĩa của câu xoay quanh động từ (sự tình) và các diễn tố bổ nghĩa cho nó. Diễn tố là những vai nghĩa tất yếu được giả định sẵn trong nghĩa của vị từ. Chẳng hạn vị từ “tặng” có chủ thể của hành động “tặng” gọi là hành thể. Vị từ “tặng” cũng giả định trước một đối thể là vật đem tặng và một tiếp thể là người nhận tặng phẩm. Hành thể, đối thể và tiếp thể là diễn tố. Các chu tố làm thành cảnh trí xung quanh các diễn tố. Chu tố không được giả định một cách tất yếu trong khung vị ngữ: đó là những điều kiện, không gian, thời gian, cách thức, phương tiện hoặc những nhân vật có liên quan. Ngoài ra, các chu tố cũng được phân biệt theo chức năng nghĩa học thành: vị trí, địa điểm,… (theo quan niệm của S. C. Dik). Phần này, luận văn sẽ tìm hiểu thành phần phụ chú trên bình diện ngữ nghĩa biểu hiện. 2.1. Phần phụ chú trong quan hệ với cấu trúc nghĩa biểu hiện 2.1.1. Quan hệ nghĩa của phần phụ chú với các tham tố bắt buộc (diễn tố) Như đã trình bày ở chương trước, phụ chú là một bộ phận không tham gia vào cấu trúc nghĩa của câu với tư cách là thành phần câu mà nó chỉ đóng vai trò phụ thêm cho một bộ phận nào đó của câu hoặc cả câu. Và bộ phận nào cũng có thể đặt phụ chú. Do vậy, phụ chú có mối liên hệ với tất cả các tham tố trong câu. Tham tố bắt buộc là các diễn tố trong câu, bao gồm diễn tố 1, diễn tố 2 và diễn tố 3. Theo đó, phụ chú cho diễn tố có tác dụng làm rõ đối tượng hay chủ thể được đề cập. Qua quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy có thể khái quát một số chức năng ngữ nghĩa chủ yếu của phần phụ chú với các diễn tố như sau: - Mở rộng nghĩa cho các diễn tố - Thu hẹp nghĩa cho các diễn tố Để thể hiện chức năng ngữ nghĩa của diễn tố, phần phụ chú thường có các dạng cấu tạo sau: phụ chú có cấu tạo danh ngữ, phụ chú có cấu tạo chủ - vị. * Phụ chú có cấu tạo danh ngữ (1a) Khoảng 23 giờ ngày 26-1-2000, anh Lê Tâm Việt (chiến sĩ Phòng Cảnh sát hình sự, CSHS) ngồi ở quán Cơm Phở Hà Nội … [ 75:80] Với dạng phụ chú như ví dụ (1a) thì đa phần là mở rộng thêm thông tin về nghề nghiệp, nơi làm việc của chủ thể được đề cập; cụ thể là “anh Lê Tâm Việt” được tác giả văn bản nêu thêm chức danh là “chiến sĩ Phòng Cảnh sát hình sự”. (1b) Tây Bắc (…) là một vùng rộng lớn (một phần tư diện tích miền Bắc) rất giàu và đẹp của nước ta... [65: 252] Trong ví dụ (1b), diễn tố là “một vùng rộng lớn” được thu hẹp nghĩa bằng phần phụ chú “một phần tư diện tích miền Bắc”. * Phụ chú có cấu tạo chủ - vị (2a) Lâm Xuân Phát khai đã giao hồ sơ vụ án này cho văn thư của Phòng kiểm sát điều tra án trị an là chị Hải (chị Hải hiện nay đang định cư tại Mỹ),… [75: 120] Dạng phụ chú cấu tạo chủ - vị này có tác dụng bổ sung thêm, mở rộng thông tin cho đối tượng chú thích. Trong ví dụ (2a), “chị Hải” là diễn tố được phần phụ chú bổ sung thêm thông tin bằng kết cấu chủ vị: chị Hải hiện nay đang định cư tại Mỹ. (2b) Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội (Quang Dũng thuộc vào số này). [69: 83] Ở (2b), phần phụ chú “Quang Dũng thuộc vào số này” đã thu hẹp lại đối tượng so với diễn tố “những thanh niên Hà Nội”. Sau đây chúng tôi sẽ đi vào quan hệ của phần phụ chú với từng diễn tố cụ thể. a) Quan hệ của phần phụ chú với diễn tố 1 Diễn tố 1 là thành phần bắt buộc đối với vị từ trong câu và là chủ thể của vị từ. Diễn tố 1 có thể là hành thể trong câu hành động vô tác, là tác thể trong câu trong câu hành động chuyển tác, là động thể trong câu quá trình, là đương thể, nghiệm thể trong câu tư thế và trạng thái. Ví dụ: (3) Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí. [70: 67] Ở đây, diễn tố 1 là Chị thằng Phác, phần phụ chú bổ sung nghĩa cho Chị thằng Phác. Nhờ phụ chú mà diễn tố 1 được bổ sung thêm ý nghĩa để làm rõ hơn về chủ thể: cái cô bé phải thực hiện hành động đó rất yếu ớt về hình thể nhưng lại can đảm về tinh thần. Sau đây là những dạng cấu tạo thường thấy của diễn tố 1. a1. Diễn tố 1 là một danh từ, danh ngữ Trong hiện thực khách quan, có nhiều trường hợp người, sự vật, hiện tượng, nơi chốn,… có tên gọi giống nhau hoặc ít được biết đến, do đó rất khó xác định vật quy chiếu của những danh từ này một cách chính xác nếu không kèm theo nó một định ngữ miêu tả hoặc một phụ chú để giải thích. Khi được phụ chú giải thích, các danh từ này được coi là đối tượng chú thích của phụ chú. Ví dụ: (4) Nhưng dù thế nào thì cái chi tiết quan trọng mà chú bé nhớ lại (bố nó từng vận chiếc bành tô bằng da) cũng hằn lên tâm trí chú như một thắc mắc. [70: 107] Trong (4), phụ chú “bố nó từng vận chiếc bành tô bằng da” đã được dùng để giải thích cho danh ngữ làm diễn tố là “cái chi tiết quan trọng” (5) Bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên. [70: 24] (Bà cụ) Tứ là một danh từ riêng và là đối tượng chú thích của phụ chú mẹ Tràng. Mặt khác, bên cạnh những từ ngữ được dùng theo chức năng, ý nghĩa của chúng còn có các từ ngữ được người viết sử dụng một cách bất thường với một dụng ý nào đó. Lúc này, để người đọc hiểu, người viết thường dùng phụ chú để giải thích. Ví dụ như: (6) Ở đây, người ta chỉ trông chờ ở mỗi đương sự một cái gì riêng, người khác không thay thế được. Món hàng độc ấy (độc đáo chứ không phải độc hại) có thể hiểu theo nhiều nghĩa. [74: 15] Trong trường hợp này, nếu không có phụ chú độc đáo chứ không phải độc hại, người đọc sẽ không hiểu dụng ý dùng từ “độc” của tác giả. a2. Diễn tố 1 là một đại từ Nhìn chung, các đại từ đều có bản chất là chưa rõ nghĩa, vì chúng chỉ hiện thực hóa ý nghĩa khi quy chiếu đối tượng nào trong hiện thực khách quan. Khi hoàn cảnh giao tiếp không thuận tiện, để người đọc xác định nghĩa của đại từ thì người viết có thể dùng phụ chú để xác định nghĩa cho chúng. Ví dụ: (7) Đằng sau câu nói nhũn nhặn, “có lẽ nó (tức cuốn Tố Tâm – VTN) ra đời vào lúc người mình đang chờ một tiểu thuyết như thế” là một khẳng định kín đáo: tác phẩm của ông đã vượt ra khỏi phạm vi cá nhân để trở thành một hiện tượng có tầm vóc xã hội. [74: 30] Đối tượng chú thích của phụ chú là đại từ “nó”, một đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. Trong trường hợp này nếu không có phụ chú, đại từ “nó” có thể hiểu theo 2 cách: hoặc quy chiếu đến “câu nói nhã nhặn” hoặc quy chiếu đến “tiểu thuyết Tố Tâm” (8) Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. [68: 75] Đối tượng chú thích của phụ chú là “những lời ấy”, một danh từ chưa xác định rõ nghĩa qui chiếu. Trong trường hợp này cũng nhờ có phụ chú mà đại từ “ấy” đã được xác định vật qui chiếu là “lời của người đàn bà khốn khổ”. Như vậy, với diễn tố 1 là đại từ, phụ chú có vai trò khá lớn trong việc tường minh hóa chủ thể và giúp cho quá trình quy chiếu đối tượng được thuận lợi. Nhìn chung, trong trường hợp phần phụ chú bổ sung, giải thích ý nghĩa cho diễn tố 1, đối tượng chú thích thường có cấu tạo là đại từ, danh từ riêng, từ dùng có chủ ý của tác giả,… Theo ngữ liệu của chúng tôi, không tìm thấy đối tượng chú thích là những kí hiệu, phiên âm hay tiếng nước ngoài. b. Quan hệ của phần phụ chú với diễn tố 2 Diễn tố 2 là diễn tố chỉ đối thể. Loại diễn tố này có mặt khi vị từ hạt nhân là vị từ chỉ hành động chuyển tác hoặc quá trình chuyển tác. Do đó, sự xuất hiện của nó ít hơn diễn tố 1 và số lượng phần phụ chú cũng ít hơn. Ví dụ: (9) Con vịt thì chạy xà quần rượt cắn đám con nít, ông uống chút gì đó (hoặc trà, hoặc rượu) lai rai với láng giềng. [76: 56] Trong ví dụ (9), diễn tố 2, “chút gì đó” là đại từ phiếm chỉ kết hợp với đại từ chỉ định làm cho sự vật quy chiếu không rõ ràng nên phần phụ chú hoặc trà, hoặc rượu làm rõ nghĩa cho diễn tố 2. Cũng giống như diễn tố 1, diễn tố 2 có thể là đại từ, danh từ riêng hoặc danh từ sự vật có nghĩa khái quát, chưa rõ sở chỉ. Như vậy, đối tượng chú thích của phụ chú ở dạng này không khác biệt nhiều so với phụ chú của diễn tố 1. c. Quan hệ của phần phụ chú với diễn tố 3 Diễn tố 3 là diễn tố chỉ tiếp thể. Loại diễn tố này xuất hiện khi vị từ hạt nhân là vị từ của hành động hoặc quá trình chuyển vị. Số lượng vị từ này khá ít nên số lượng phụ chú cho diễn tố này cũng khá khiêm tốn. Qua khảo sát ngữ liệu chúng tôi xác định có 6 đơn vị, chiếm tỉ lệ 1% tổng số ngữ liệu phụ chú được xác định về mặt ngữ nghĩa. Ví dụ: (Dẫn lại ví dụ 2) Lâm Xuân Phát khai đã giao hồ sơ vụ án này cho văn thư của Phòng kiểm sát điều tra án trị an là chị Hải (chị Hải hiện nay đang định cư tại Mỹ),… [75: 120] Trong ví dụ trên, diễn tố 3 là chị Hải, là đối tượng chú thích của phần phụ chú chị Hải hiện nay đang định cư tại Mỹ. 2.1.2. Quan hệ nghĩa của phần phụ chú với các tham tố không bắt buộc (chu tố) Tham tố không bắt buộc còn được gọi là chu tố (Cao Xuân Hạo, Đào Thanh Lan) hay vai nghĩa cảnh huống (Diệp Quang Ban). Chu tố là những từ, ngữ biểu thị ý nghĩa chu cảnh (thời gian, không gian, cảnh huống) làm thành phần phụ cho nòng cốt và nêu ra phạm vi mà sự nhận định của nòng cốt có hiệu lực. Những chu tố có tác dụng mở rộng và cụ thể hóa tính hiện thực của phát ngôn và do đó làm tăng hiệu quả giao tiếp cho câu. [33: 156] VD: (10) Phần đêm còn lại, trước khi chìm vào giấc ngủ không mấy thanh thản, Thao khôi hài nghĩ, hổng biết đêm nay là cái đêm gì mà bị tới ba con yêu nữ quấy phá. [73: 18] Trong ví dụ (10), “Phần đêm còn lại” là chu tố chỉ thời gian, để xác định rõ hơn khoảng thời gian còn lại của đêm, tác giả văn bản đã đưa vào phụ chú trước khi chìm vào giấc ngủ không mấy thanh thản. Từ thực tế khảo sát ngữ liệu, luận văn có thể khái quát hai chức năng ngữ nghĩa cơ bản của phần phụ chú với các chu tố là: - Mở rộng nghĩa cho chu tố - Thu hẹp nghĩa cho chu tố Để thực hiện hai chức năng ngữ nghĩa trên, phần phụ chú cho chu tố thường có dạng: phụ chú có từ ngữ giải thích, phụ chú có từ ngữ chỉ phạm vi. a. Phụ chú có từ ngữ giải thích Dạng phụ chú này hầu hết là thu hẹp nghĩa cho chu tố; một số phụ chú thường bắt đầu bằng các từ: tức (là), nghĩa là,… Nội dung giải thích cho chu tố có thể là lời tác giả hoặc lời nhân vật. Ví dụ: (11a) Nói theo ngôn ngữ thể thao, so với các nhà văn bây giờ, lúc xuất phát, Hoàng Ngọc Phách tự đặt ra cho mình một mục đích lớn hơn, ông đi xa hơn, mà lúc tiếp đất (tức trong công việc chia tay với nghề văn) ông cũng tỏ ra dứt khoát và gọn ghẽ hơn. [74: 32] Để làm cho người đọc hiểu dụng ý của tác giả khi dùng thuật ngữ thể thao làm chu tố “lúc tiếp đất”, tác giả văn bản đã dùng thêm phụ chú “tức trong công việc chia tay với nghề văn” để làm rõ nghĩa cho chu tố. (11b) Và vào giữa năm 2000 (tức là khi chưa xảy ra vụ án Dung Hà), đồng chí Phó giám đốc đã gọi điện cho Dương Minh Ngọc… [75: 44] Trong ví dụ (11b), chu tố là thời gian được phần phụ chú thu hẹp lại thời điểm “tức là khi chưa xảy ra vụ án Dung Hà”. Trong loại này, có một bộ phận những phụ chú ẩn đi từ giải thích. Ví dụ: (11c) Chỉ đến lần thứ hai, khi lại chứng kiến những cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính là không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. [70: 65] Khi dùng chu tố “chỉ đến lần thứ hai”, để nhấn mạnh tần suất của sự việc là Phùng nhìn thấy những cảnh tượng bạo hành đó, tác giả văn bản đã thêm vào phần phụ chú cho chu tố rõ nghĩa hơn. (11d) Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên cánh đồng Bất Tận (tên này tôi tự dưng nghĩ ra). [76: 208] Trong các ví dụ (11a), (11b), phụ chú giải thích cho chu tố là lời tác giả, còn trong ví dụ (11d), phụ chú giải thích cho chu tố là phần phụ chú chỉ nguồn gốc của tên gọi “cánh đồng Bất Tận”. Ví dụ (11c) và (11d) có điểm chung là không dùng từ giải thích trực tiếp làm rõ nghĩa chúng. b. Phụ chú có từ ngữ chỉ phạm vi Dạng phụ chú này có vai trò là mở rộng hay thu hẹp nghĩa của chu tố. Từ chỉ phạm vi có thể là như, chẳng hạn,…; và trong vài trường hợp tác giả văn bản dùng cách liệt kê. Ví dụ: (12) Học sinh lựa chọn các tác phẩm trong chương trình (chẳng hạn: Vi hành, Chiều tối, Ngắm trăng,…) để minh họa. [70: 27] Ở ví dụ (12) trên, với chu tố “trong chương trình”, người đọc sẽ chưa hình dung hết, nhưng với thành phần phụ chú “chẳng hạn: Vi hành, Chiều tối, Ngắm trăng,…” thì đối tượng đã được xác định phạm vi dễ dàng hơn. Ví dụ: (13) Bước đi thông thường của một người viết văn ở lứa tuổi tôi, là sau khi có bài đăng báo (thơ, truyện, phê bình văn học), phải dăm bảy năm và già dặn ra là chục năm người ta mới có cơ may được in một quyển sách đầu tiên. [74: 42] Trong ngữ liệu trên, cụm “có bài đăng báo” được thu hẹp ý nghĩa bởi phần phụ chú giải thích là “thơ, truyện, phê bình văn học”. Nếu không có thành phần phụ chú, người đọc có thể nghĩ bao gồm cả những thể loại nghiên cứu, xã luận hay tạp bút…. Theo kết quả khảo sát ngữ liệu của chúng tôi, bộ phận phụ chú có mối quan hệ nghĩa với tất cả tham tố bắt buộc và không bắt buộc với tỉ lệ không đồng đều. Dưới đây là bảng tóm tắt kết quả khảo sát: Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số lượng phần phụ chú có quan hệ nghĩa với các tham tố Diễn tố 1 Diễn tố 2 Diễn tố 3 Chu tố Tham tố Phụ chú Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Phong cách nghệ thuật 28 17 30 16 0 0 20 17 Phong cách báo chí 63 38 113 60 6 86 58 49 Phong cách khoa học 48 29 44 23 1 14 32 27 Phong cách chính luận 26 16 2 1 0 0 8 7 Tổng số 165 100 189 100 7 100 118 100 Chúng tôi sơ đồ hóa bảng trên bằng biểu đồ dưới đây: Biểu đồ 2.1: Bảng biểu thị tỉ lệ phụ chú có quan hệ nghĩa với các tham tố Bảng 2.1 và biểu đồ 2.1 cho thấy: - Số lượng phụ chú cho diễn tố 1 trong các văn bản thuộc các phong cách khác nhau có sự chênh lệch đáng kể. Cụ thể là phụ chú cho diễn tố 1 nhiều nhất là trong phong cách báo chí và ít nhất là trong phong cách chính luận. - Số lượng phụ chú cho diễn tố 2 nhiều nhất trong phong cách ngôn ngữ báo chí và ít nhất trong phong cách chính luận. - Số lượng phụ chú cho diễn tố 3 chiếm số lượng nhiều nhất trong phong cách báo chí (86%) và số còn lại thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học. - Phụ chú cho chu tố xuất hiện trong tất cả các phong cách ngôn ngữ và nhiều nhất trong phong cách báo chí. 2.2. Phần phụ chú có quan hệ với một yếu tố trong câu 2.2.1. Phần phụ chú giải thích cho những đơn vị có ý nghĩa sự vật Trong số các ngữ liệu khảo sát, luận văn nhận thấy phụ chú giải thích cho những đơn vị có ý nghĩa sự vật có 300 đơn vị, chiếm 27% tổng số ngữ liệu được khảo sát về ngữ nghĩa. Loại đơn vị có ý nghĩa sự vật mà phụ chú giải thích có thể là danh từ chung hoặc danh từ riêng. Ví dụ: (14) Một giọng văn riêng (như Hoàng Đạo Thúy với lối văn cộc lốc rơi rớt từ thời Hoàng Tích Chu)… [74: 16] (15) Thế các thi sĩ (không thuộc hai loại người trên) làm thế nào để có thơ in? Vẫn có cách của họ. [74: 90] Trong thực tế, tên riêng của những sự vật đôi khi lại trùng nhau. Trong những trường hợp như thế, các danh từ riêng này cần có phụ chú để xác định sự vật hoặc phạm vi của sự vật. (16) Dung Hà sinh năm 1965 trong một gia đình đông anh em, mẹ mất sớm và có hộ khẩu tại 2/23 phố Trạng Trình phường Phan Bội Châu quận Hồng Bàng (Hải Phòng). [75: 15] (17) Dung Hà đang ngồi uống nước với Nguyễn Thị Bích Thanh, Đoàn Thị Tú Anh và Nguyễn Thị Nghiệp tại trước cửa số nhà 17 Bùi Thị Xuân thuộc phường Bến Nghé (quận 1 – Thành phố Hồ Chí Minh). [75: 7] (18) Băng Bò Lục, Lủng Cu Trắng chuyên bảo kê cho các sòng bạc của Bảy Xí (anh rể Năm Cam)… [75: 21] Trong các ví dụ (14 - 18), các đối tượng chú thích của phụ chú có thể là danh từ chỉ người hoặc danh từ chỉ khái niệm trừu tượng, là danh từ riêng chỉ người hoặc địa danh,… Như vậy, những sự vật được phụ chú có thể rất cụ thể khi hoạt động trong ngữ cảnh khác nhưng trong ngữ cảnh cụ thể thì chưa xác định nên cần có phụ chú. Với trường hợp của danh từ riêng, phụ chú có thể dùng để xác định mối quan hệ, thân thế đối tượng như trong (18) hoặc dùng để thêm quan hệ thượng danh và hạ danh của đối tượng như trong (16, 17): Quận Hồng Bàng có quan hệ hạ danh với Hải Phòng (ví dụ 16); phường Bến Nghé có quan hệ hạ danh với Quận 1- Thành phố Hồ Chí Minh (ví dụ 17). 2.2.2. Phần phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ hành động, trạng thái, quá trình Phụ chú giải thích cho vị từ rất đa dạng và chiếm số lượng nhiều bao gồm các vị từ chỉ hành động, trạng thái và quá trình và có 198 trường hợp, chiếm tỉ lệ 18% trong tổng số ngữ liệu được khảo sát về ngữ nghĩa. Hành động là thực hiện một chức năng nhất định nào đó; trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc con người xem như không có gì thay đổi trong một thời gian nào đó; quá trình là trình tự phát triển, diễn biến của một sự việc nào đó [39]. Như vậy, phụ chú giải thích cho hành động, trạng thái và quá trình có vai trò làm rõ diễn biến, tình trạng hay hành động nào đó của đối tượng. Ví dụ: (19) Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỉ tỉ lý do, nhưng cái lý do lớn nhất là người phụ nữ đó đã có một đời chồng), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi sống kiếp thương hồ. [76: 126] (20) Ông đi được vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời). [76: 10] (21) Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen”, trong lòng không giấu được hả hê (vậy mà mấy người nói tui giết nó). [76: 10] Ở ví dụ (19), phụ chú nội có tỉ tỉ lý do, nhưng cái lý do lớn nhất là người phụ nữ đó đã có một đời chồng giải thích cho quá trình không đồng ý (không chịu) được nhắc đến. Còn trong ví dụ (20), hành động “nhìn” được phụ chú giải thích mở rộng thêm với mục đích là “cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời”, phân biệt đây không phải là hành động “nhìn” bình thường. Đến ví dụ (21), trạng thái “hả hê” được giải thích lí do đã thanh minh được với mọi người rằng “vậy mà mấy người nói tui giết nó”. Qua số lượng của ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy dạng phụ chú này chiếm số lượng tương đối nhiều. Những phụ chú giải thích cho vị từ chỉ hành động, trạng thái, quá trình góp phần tăng mức độ nhấn mạnh, tăng hiệu quả dụng ý riêng của tác giả văn bản. 2.2.3. Phần phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ tính chất, đặc điểm Phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ tính chất, đặc điểm có số lượng 170 trường hợp, chiếm tỉ lệ 15% trong số 1097 tổng số ngữ liệu được khảo sát về mặt ngữ nghĩa của luận văn. Đặc điểm là những nét riêng biệt; còn tính chất là những đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng, phân biệt nó với những sự vật, hiện tượng khác loại [39]. Phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ tính chất, đặc điểm sẽ bổ sung thêm nét riêng biệt và đặc trưng của đối tượng được đề cập. Ví dụ: (22) Vẻ đẹp kiêu hùng của con cá – đặc biệt khi nó chưa bị cầm tù – có thể biểu tượng cho ước mơ. [70: 116] (23) Với một khối lượng chữ nghĩa khiêm tốn – in ra chưa đầy 100 trang khổ sách 13x19, tiểu thuyết Tố Tâm xuất hiện như một cuốn sách kì lạ trong đời sống văn chương những năm đầu thế kỉ. [74: 27] (24) Mặt khác cái lối in ào ào, quý hồ đa bất quý hồ tinh rút cục khiến cho người ta nghĩ rằng những chuẩn mực có thể hiểu thế nào cũng được. [74:44] Trong ví dụ (22), phần phụ chú đã bổ sung thêm yếu tố thời gian để làm nổi bật vẻ đẹp kiêu hùng của con cá ở thời điểm nó chưa bị cầm tù. Ở ví dụ (23), tính chất “khiêm tốn” của khối lượng chữ nghĩa được giải thích rõ ràng, cụ thể nhờ phụ chú “in ra chưa đầy 100 trang khổ sách 13x19”; tương tự, ví dụ (24), phụ chú “quý hồ đa bất quý hồ tinh” đã giải thích thêm tính chất, quan niệm của việc “in ào ào”. 2.2.4. Phần phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ số lượng Phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ số lượng có 121 đơn vị, chiếm tỉ lệ 11% trong số 1097 tổng số phụ chú được khảo sát. Số lượng mà phụ chú giải thích rất đa dạng, có thể đó là số lượng về thời gian, số lượng về đối tượng, sự việc… Đối tượng của phụ chú số lượng thường là những cách nói chung chung không xác định, phần phụ chú sẽ minh họa chi tiết số lượng đó một cách rõ nét. Ví dụ: (25) Này tỉnh X. đang cần thêm mấy bài cho cuốn tác giả văn học của nó đấy. Cậu viết cho nó một bài. Định đòi mấy trăm nào? (hồi ấy mấy trăm còn quý). [74: 38] (26) Và nếu đó trở thành xu thế chủ đạo thì tức là những từ vốn sống dai dẳng, từ mấy trăm năm qua (bằng chứng là nó được ghi trong từ điển Việt – Bồ - La của A.de Rhodes (1951) đến nay có nguy cơ trở thành tiếng Việt cổ, một thứ tử ngữ. [74: 79-80] (27) Mà quãng trước sau 1940, dân Việt Nam mới độ 25 – 30 triệu (thơ Tản Đà: Dân hai lăm triệu ai người lớn – Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con). [74: 95] (28) Trong hơn chục năm, số lượng những tập thơ được in ra chỉ độ vài ba chục gì đấy (Riêng NXB Đời nay của nhóm Tự Lực văn đoàn suốt trong thời gian tồn tại của mình chỉ in có 8 tập). [75: 177] Trong ví dụ (25), đối tượng của phụ chú là “mấy trăm” (tiền) là một số lượng có giá trị trong thời điểm diễn ra của phát ngôn, nhưng khi tường thuật lại, tác giả không muốn người đọc nhầm lẫn giá trị số lượng đó với hiện tại nên đã thêm phần phụ chú hồi ấy mấy trăm còn quý giải thích cho số lượng vừa mới đưa ra. Ở ví dụ (26), đối tượng chú thích của phụ chú là “từ mấy trăm năm qua”, số lượng ở đây là một khoảng thời gian; và để tạo ra sức thuyết phục cho lập luận, tác giả đã đưa vào phụ chú để minh xác cho đối tượng của phụ chú: “bằng chứng là nó được ghi trong từ điển Việt – Bồ - La của A.de Rhodes (1951)”. Tương tự, trong ví dụ (27), tác giả của văn bản đưa ra vấn đề là khoảng thời gian trước sau năm 1940, “dân Việt Nam mới độ 25 – 30 triệu”; điều này được tác giả khẳng định bằng cách dẫn ra nguồn của số liệu trên bằng phụ chú “thơ Tản Đà: Dân hai lăm triệu ai người lớn – Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”. Ở ví dụ (28), đối tượng chú thích của phụ chú là “số lượng những tập thơ được in ra chỉ độ vài ba chục”; phần phụ chú đưa thêm một số liệu để chứng minh: “Riêng NXB Đời nay của nhóm Tự Lực văn đoàn suốt trong thời gian tồn tại của mình chỉ in có 8 tập”. Từ các ví dụ (25-28), đối tượng phụ chú đều chỉ số lượng, số lượng này có thể là chính xác hoặc không; còn phần phụ chú có thể là số lượng hoặc không phải số lượng. Đôi khi có những trường hợp, phần phụ chú vẫn giải thích số lượng, đưa ra những con số cụ thể nhưng đối tượng chú thích không phải là số lượng. Trường hợp này chúng tôi xếp là 1 kiểu biến thể nhỏ. * Phụ chú là số lượng Ví dụ: (29) Từ đó về sau (2-10-2000 đến đầu tháng 12-2000), Năm Cam và Hải “bánh” tạm thời không liên lạc nữa. [75: 67] (30) Đến trước cửa quán, pha đèn Suzuki Sport của Kiệt chiếu thẳng vào bàn ăn của các anh Phan Lê Sơn, Hồ Phước Hưng cùng các bạn gái (tất cả gồm 9 người) cũng đang ngồi uống bia, ăn khuya tại quán. [75: 73] (31) Căn cứ lời khai của bị can Trần Văn Minh, của Lê Văn Thơm và lời khai của người bị thấy có đủ cơ sở xác định Minh và Thơm đã cưỡng đoạt tài sản của chị Lê Thị Lắm (Năm “mọi” 7.200.000 đồng và của chị Đặng Thị Kim Nho là 2.400.000 đồng) bằng hình thức nhận bảo kê. [75: 160] Trong ví dụ (29), đối tượng chú thích là ngữ “Từ đó về sau”, người đọc khó có thể quy chiếu rõ ràng mốc thời gian nếu không có thêm phần phụ chú “2-10-2000 đến đầu tháng 12-2000”. Trong ví dụ (30), phần phụ chú “tất cả gồm 9 người” đã xác định được rõ số lượng của đối tượng chú thích là “các bạn gái”. Ở ví dụ (31), đối tượng chú thích là “cưỡng đoạt tài sản của chị Lê Thị Lắm” được minh họa rõ nét bằng các số lượng cụ thể trong phụ chú “Năm “mọi” 7.200.000 đồng và của chị Đặng Thị Kim Nho là 2.400.000 đồng” Các ví dụ (29 - 31), đều có chung một đặc điểm là đối tượng chú thích không phải là số lượng mà có thể là hành động, những thời đoạn,…; nhiệm vụ của phần phụ chú sẽ cung cấp số lượng chi tiết và cụ thể, nhằm minh xác cho thông tin được nêu ra. Nhìn chung, phần phụ chú giải thích cho những đơn vị chỉ số lượng có vai trò bổ sung, giải thích số liệu đưa ra trong văn bản, minh xác số liệu ấy hoặc dẫn nguồn của số liệu. Nhờ đó, nghĩa của văn bản thêm chi tiết, cụ thể. Bảng 2.2: Bảng tổng hợp về phần phụ chú có quan hệ với một yếu tố trong câu Ý nghĩa sự vật Ý nghĩa hành động, trạng thái, quá trình Ý nghĩa tính chất, đặc điểm Ý nghĩa chỉ số lượng Yếu tố Phong cách Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Tổng số Khoa học 63 21 30 15 60 36 26 22 179 Nghệ thuật 30 10 90 45 34 20 15 12 169 Chính luận 57 19 22 11 48 28 28 23 155 Báo chí 150 50 56 29 28 16 52 43 286 Tổng số 300 100 198 100 170 100 121 100 789 21 15 36 22 10 45 20 12 19 11 28 23 50 29 16 43 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 Khoa học Nghệ thuật Chính luận Báo chí Ý nghĩa sự vật Ý nghĩa hành động, trạng thái, quá trình Ý nghĩa tính chất, đặc điểm Ý nghĩa chỉ số lượng Biểu đồ 2.2: So sánh phần phụ chú có quan hệ với một yếu tố trong câu trong những phong cách ngôn ngữ khác nhau Bảng 2.2 và sơ đồ 2.2 đã tường minh hóa các ý nghĩa: - Ý nghĩa sự vật chiếm số lượng nhiều nhất trong số các loại phụ chú được tìm thấy trong ngữ liệu và tập trung nhiều nhất ở phong cách ngôn ngữ báo chí. - Ý nghĩa hành động, trạng thái, quá trình xếp thứ hai, sau ý nghĩa sự vật và tập trung nhiều trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật . - Ý nghĩa tính chất, đặc điểm chiếm số lượng nhiều nhất trong phong cách ngôn ngữ khoa học. - Ý nghĩa chỉ số lượng chiếm số lượng nhiều trong phong cách ngôn ngữ báo chí. 2.3. Phần phụ chú có quan hệ với câu – phụ chú cho một sự tình Ngoài những đối tượng chú thích của phụ chú đã nêu trên, đối tượng của phụ chú còn là câu hoặc vế câu biểu thị cho sự tình. Theo sự phân chia sự tình, chúng tôi chia thành phần phụ chú thành 2 loại: 2.3.1. Phụ chú cho sự tình động Sự tình động được hiểu là là những biến cố, những sự việc, những sự thay đổi có thể diễn ra, xảy ra như “nổ”, “đánh” hay những hành động có chủ ý như “chạy” , “đánh”,… có sự điều khiển của bản thân sự vật. Xét về mặt công dụng, tất cả các kiểu phụ chú đều dùng để bổ sung một điều gì đó vào văn bản. Nhưng nếu xem xét chi tiết hơn, dựa vào vai trò của phụ chú đối với sự tình động, có thể chia thành các tiểu loại. a. Phụ chú thể hiện nguyên nhân, điều kiện cho sự tình Ví dụ: (32) Hải “bánh” đã đưa Hưng và Trường xuống Vũng Tàu trốn và nhiều lần liên lạc với Năm Cam, mục đích là yêu cầu Năm Cam lo cho Hưng và Trường trốn đi nước ngoài (vì trước đó, Năm Cam đã hứa hẹn giúp đỡ và lo cho Hải “bánh”) nhưng Năm Cam không nghe máy. [75: 67] (33) Năm Cam đã mua vé máy bay ra Hà Nội nhờ Thắng “Tài Dậu” dẫn đến nhà Trần Văn Thuyết ở số 91 Nguyễn Thái Học, Hà Nội để nhờ Thuyết lo chạy giúp (vì biết Thuyết có quen nhiều cán bộ ở các cơ quan pháp luật, các cơ quan báo chí ở trung ương). [75: 202] (34) Ông già Chín nói nghề bán vé số của ông thấy vậy mà có ý nghĩa ghê lắm, vì đem lại hy vọng cho người ta, vì đem lại sự giàu có cho người ta (nếu trúng số), và nghề này có ý nghĩa nhất là trên những dặm đường phiêu bạt, ông tìm được cô đào Hồng. [76: 85] (35) Các con bạc chọn ô (…) trên chiếu bạc để đặt tiền (nếu đặt tiền với số lượng lớn thì đổi ra phỉnh). [75: 171] Trong ví dụ (32), sự tình là “nhiều lần liên lạc với Năm Cam” được phần phụ chú bổ sung về nguyên nhân của sự tình là: vì trước đó, Năm Cam đã hứa hẹn giúp đỡ và lo cho Hải “bánh”; tương tự trong ví dụ (31), phần phụ chú vì biết Thuyết có quen nhiều cán bộ ở các cơ quan pháp luật, các cơ quan báo chí ở trung ương đã bổ sung điều kiện cho đối tượng chú thích là sự tình “mua vé máy bay… để nhờ Thuyết lo chạy giúp”. Ở ví dụ (34), phần phụ chú nếu trúng số đã bổ sung điều kiện cho sự tình: đem lại sự hi vọng và giàu có cho người ta; tương tự ở ví dụ (33), sự tình “đặt tiền” được bổ sung thêm điều kiện cụ thể là: nếu đặt tiền với số lượng lớn thì đổi ra phỉnh. Như vậy, phần phụ chú thể hiện nguyên nhân, điều kiện cho sự tình động thường bắt đầu bằng các quan hệ từ như: vì, do, sở dĩ,…; nếu, nếu như,… và đa phần là có cấu tạo ngữ pháp là tương đương một vế câu. b. Phụ chú thể hiện đặc điểm, tính chất cho sự tình Ví dụ: (36) …Công an quận Hoàn Kiếm ra lệnh bắt tạm giam Lê Duy Long (có phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm). [75: 133] (37) Trong khi đang chấp hành án phạt tù tại trại Phi Liệt (…), Nguyễn Khánh Quốc cùng đồng bọn đánh bạc xóc đĩa, bị bắt quả tang ngày 20-1-1986 (việc đánh bạc do Quốc rủ rê các phạm nhân khác tham gia và chính Quốc là người chuẩn bị dụng cụ như bát, đĩa và cắt lá bài tổ tôm là đồng vị…) [75: 187] Trong ví dụ (36) trên, sự tình “ra lệnh bắt giam” được bổ sung thêm về đặc điểm nhờ phụ chú có phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm. Còn ở ví dụ (37), phần phụ chú việc đánh bạc do Quốc rủ rê các phạm nhân khác tham gia và chính Quốc là người chuẩn bị dụng cụ như bát, đĩa và cắt lá bài tổ tôm là đồng vị… đã bổ sung thêm tính chất của sự tình “Nguyễn Khánh Quốc cùng đồng bọn đánh bạc”. Cả hai ví dụ trên cho thấy những sự tình khi trở thành đối tượng của phụ chú, về hình thức, thường không phải là sự tình đặc biệt. Tuy nhiên, để thể hiện đặc điểm tính chất của sự tình, tác giả văn bản thường dùng phụ chú để bổ sung vào văn bản. Do đó, dạng phụ chú này thường có cấu tạo dài, mang ý nghĩa miêu tả, minh họa. c. Phụ chú thể hiện kết quả, khả năng cho sự tình Ví dụ: (38) Điều này càng đặc biệt rõ khi chuyển thể truyện “Số phận con người” thành phim truyện (Sô- lô- khốp rất hài lòng với phim này, ông trực tiếp xuất hiện với tư cách người dẫn truyện). [70: 109] (39) Tại buổi làm việc ngày 26-6-2002, do Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ chức (…), ông Chiến đã thừa nhận: Đến nay thấy tài liệu (1995) để tập trung cải tạo đối với Trương Văn Cam là quá đủ (có khi còn thừa)… [75: 227] Trong ví dụ (38), sự tình “chuyển thể truyện “Số phận con người” thành phim truyện” dẫn đến kết quả là “Sô- lô- khốp rất hài lòng với phim này, ông trực tiếp xuất hiện với tư cách người dẫn truyện”; phần kết quả này đã được bổ sung nhờ phụ chú. Ở ví dụ (39), đối tượng chú thích của phụ chú là “thấy tài liệu của Năm Cam đã quá đủ” được phần phụ chú bổ sung thêm khả năng là: “có khi còn thừa”. Qua hai ví dụ (38) và (39), có thể thấy rằng phụ chú thể hiện kết quả, khả năng cho sự tình có vai trò là bổ sung thêm cho sự tình những kết quả khác với mong đợi, khả năng ngoài mong muốn, hoặc có thể là tình thái khả năng của sự việc. Về phần này chúng tôi sẽ phân tích ở chương sau. d. Phụ chú thể hiện sự phủ định, khẳng định cho sự tình Ví dụ: (40a) Mai mốt đây hai đứa phải lấy chồng (con gái ở quê nuôi lớn không để lấy chồng thì để làm gì?). [76: 43] Trong ví dụ (40a), sự tình “lấy chồng” là đối tượng chú thích của phần phụ chú “con gái ở quê nuôi lớn không để lấy chồng thì để làm gì?”. Phần phụ chú này thể hiện ý nghĩa khẳng định: lấy chồng là điều quan trọng đối với phụ nữ ở nông thôn. (40b) Song giờ đây, khi những câu văn tế đọc bên nấm mồ đã nhanh chóng trở nên văn bia vì ngay sau đó, nó được in lên mặt báo được tuyển vào sách (nghĩa là cái câu khôn văn tế, dại văn bia không đúng nữa), thì có lẽ nên bảo nhau tỉnh táo một chút. [76: 122] Ở ví dụ (40b), phần phụ chú nghĩa là cái câu khôn văn tế, dại văn bia không đúng nữa đã phủ định về sự tình có vấn đề nhập nhằng giữa cách dùng văn tế và văn bia trong thực tế. Như vậy, trong quá trình tạo lập văn bản, khi đưa ra một sự tình, tác giả văn bản có thể phủ định hoặc khẳng định sự tình đó bằng cách tạo ra phụ chú. e. Phụ chú thể hiện thời gian cho sự tình Ví dụ: (41) Nghiên cứu buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc – thời kì Hùng Vương và trước nữa – chúng ta không chỉ dựa vào một ít tài liệu lịch sử, cũng không chỉ tìm hiểu qua các truyền thuyết, chúng ta còn có một kho tàng rất phong phú và quý giá vô ngần: đó là những di tích do người xưa để lại, được bảo tồn khá chu đáo trong lòng đất mà ngày nay khảo cổ phải nghiên cứu. [65: 161] Trong ví dụ (41), sự tình “Nghiên cứu buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc” trở thành đối tượng chú thích của phần phụ chú bổ sung ý nghĩa về thời gian, đó là: thời kì Hùng Vương và trước nữa. Phần phụ chú bổ sung cho sự tình về thời gian có hai dạng có thể là thời đoạn hoặc thời điểm xảy ra sự tình. Trong những trường hợp như thế, nhờ phần phụ chú mà sự tình được xác định rõ ràng về thời gian. g. Phụ chú thể hiện phương tiện, phương thức cho sự tình Ví dụ: (42) Như chúng tôi đã lưu ý nhiều lần (qua các bài viết trong các mục Sổ tay hàng tháng) nay là lúc các sáng tác đang bung ra về số lượng, mà cơ chế lựa chọn thì không theo kịp. [74: 75] Trong ví dụ ở trên, sự tình “lưu ý” là đối tượng chú thích của phần phụ chú thể hiện ý nghĩa về phương tiện cho sự tình: Sự lưu ý đó được thực hiện qua các bài viết trong các mục Sổ tay hàng tháng. 2.3.2. Phụ chú cho sự tình tĩnh Sự tình tĩnh có thể hiểu là những tình thế, những trạng thái, những tính chất có thể kéo dài, nghĩa là tồn tại ở các sự vật trong một thời gian được tri giác là có chiều dài như “to”, “ngủ”, “sợ”, những tư thế như “đứng”, “ở”... Nói cách khác, đó là những sự tình không do chủ ý mà ra, những quá trình hay những trạng thái của sự vật mà không có sự tự điều khiển của chúng. [41: 49]. Ví dụ: (43) Mắc yêu thì yêu – ông già cự lại, vẻ mặt sương sướng không giận gì ai – Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà, mình thương người ta mà người ta đâu có thương mình. [76: 87] (44) Thường Khanh đã già đi (ai mà chẳng vậy) nhưng cái phong thái tao nhã ung dung vẫn như ngày xưa. [76: 94] Phần phụ chú trong 2 ví dụ trên có tác dụng rõ nghĩa cho “yêu” và “già”. Cả hai sự tình được đề cập đó là một tất yếu khách quan và cả 2 phụ chú nhằm khẳng định không thể thay đổi những tất yếu đó trong cuộc sống. Dựa vào vai trò của phụ chú đối với sự tình, luận văn nhận thấy phụ chú cho sự tình tĩnh cũng có những điểm tương đồng về quan hệ ngữ nghĩa với sự tình như phụ chú cho sự tình động. Ví dụ phụ chú thể hiện sự phủ định, khẳng định cho sự tình tĩnh: (45) Những săn sóc nâng niu, những lời nói ngọt ngào…tất cả đều không thật (mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì). [76:108] (46) Có hề gì, rồi chị sẽ yêu một người khác, nhưng mãi mãi, chỉ không quên nỗi ê chề bị bỏ lại bên đường (bằng chứng là ba cha con tôi có quên được đâu). [76: 189] Ví dụ phụ chú thể hiện thời gian cho sự tình: (47) Tôi ngẫm nghĩ mấy giả thuyết (tất nhiên là trong lúc rảnh), có thể, khi tôi tất tả trên con đường này thì thằng bạn lại đi trên con đường khác; tôi đi chợ mua cá nấu cơm, bạn đang nhậu; tôi thức gần trắng đêm để viết lách kiếm cơm, bạn phải ngủ; khi tôi ngược về vùng sâu vùng xa công tác, bạn được sếp cử đi Sài Gòn…kẻ xuôi người ngược. [76: 134] … Ngoài những ý nghĩa quan hệ với phụ chú giống như với sự tình động đã nêu ở trên, sự tình tĩnh còn có thêm một số tiểu loại sau: a. Phụ chú thể hiện hệ quả của sự tình (48) Những cánh đồng đó đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). [76: 208] Ở đây, hệ quả của sự tình “hất hủi cây lúa” có thêm hệ quả là: và gián tiếp từ chối đàn vịt. Sở dĩ người đọc có thể hiểu một cách trọn vẹn, đầy đủ sự tình vì đối tượng chú thích được thể hiện bằng phần phụ chú. b. Phụ chú thể hiện sự tác động cho sự tình (49) May, sau nầy Thường không đến nữa, vì bận túi bụi thay Hậu tiếp nhận chức Tổng giám đốc công ty Mặt trời, nghiễm nhiên là chủ tịch hiệp hội đồ chơi (những gì Hậu để lại nặng nề hết sức). [76: 147] Trong ví dụ (49), phần phụ chú “những gì Hậu để lại nặng nề hết sức” bổ sung ý nghĩa cho đối tượng chú thích là “thay Hậu tiếp nhận chức Tổng giám đốc công ty Mặt trời”. Ở đây phần phụ chú đã đưa ra những tác động của việc thay thế chức vụ đó là “những hậu quả hết sức nặng nề”. Có thể hình dung sự phân bố của phụ chú đối với các loại sự tình trong câu bằng bảng dưới đây: Bảng 2.3: Bảng so sánh phụ chú cho sự tình tĩnh và sự tình động trong các phong cách văn bản Sự tình tĩnh Sự tình động Sự tình Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Phong cách nghệ thuật 47 26 24 18 Phong cách báo chí 21 12 37 29 Phong cách khoa học 70 39 50 39 Phong cách chính luận 41 23 18 14 Tổng số 179 100 129 100 26 18 12 29 3939 23 14 0 5 10 15 20 25 30 35 40 Nghệ thuật Báo chí Khoa học Chính luận Sự tình tĩnh Sự tình động Biểu đồ 2.3: So sánh phụ chú cho sự tình tĩnh và sự tình động trong các phong cách văn bản Từ bảng 2.3 và sơ đồ 2.3, luận văn rút ra một số nhận xét như sau: - Phụ chú cho sự tình tĩnh chiếm số lượng nhiều hơn phụ chú cho sự tình động và nhiều nhất trong phong cách ngôn ngữ khoa học và ít nhất trong phong cách ngôn ngữ báo chí. - Phụ chú cho sự tình động cũng có số lượng nhiều nhất trong phong cách khoa học và ít nhất trong phong cách chính luận. TIỂU KẾT - Phụ chú hiện diện ở tất cả các vị trí trong câu và có chức năng hết sức đa dạng: bổ sung ý nghĩa, mở rộng hay thu hẹp ý nghĩa của yếu tố được phụ chú. - Đối tượng chú thích có ý nghĩa sự vật chiếm số lượng nhiều nhất trong các loại ý nghĩa. - Có thể hình dung chức năng ngữ nghĩa của phụ chú với các yếu tố được phụ chú trong bảng tổng kết sau đây: Bảng 2.4: Bảng tổng kết chức năng ngữ nghĩa của phụ chú với sự tình trong câu Yếu tố Chức năng ngữ nghĩa Sự tình động Sự tình tĩnh Nguyên nhân + + Điều kiện + + Đặc điểm + + Tính chất + + Hệ quả - + Kết quả + + Khả năng + + Phủ định + + Khẳng định + + Thời gian + + Phương tiện, phương thức + + Tác động - + Chương 3 ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA NGỮ DỤNG CỦA PHẦN PHỤ CHÚ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Phần này luận văn sẽ xem xét thành phần phụ chú trên bình diện ngữ nghĩa ngữ dụng . Đây là bình diện của việc sử dụng ngôn từ trong những tình huống cụ thể, đối thoại cụ thể, trong những ngữ cảnh cụ thể với những mục đích cụ thể. Theo quan niệm của đa số tác giả hiện nay, cấu trúc câu xét theo bình diện dụng học tức là tìm hiểu sự thông báo nêu - báo trong câu, các hiện tượng tiêu điểm hóa (focalisation) và cường điệu (emphatisation) nhấn mạnh ngữ đoạn này hay ngữ đoạn khác để nêu rõ tầm quan trọng hay sự tương phản, các giá trị ngôn trung và sức ngôn tác (perlocutionary force), các quy tắc sử dụng ngôn từ do phong tục dân tộc quy định,… Nghiên cứu phần phụ chú trên bình diện ngữ nghĩa ngữ dụng có mối liên hệ với một số vấn đề về văn hóa, phong cách,… 3.1. Phần phụ chú xét theo hành động ngôn trung Trong giao tiếp, khi đưa ra một phát ngôn, người phát ngôn thường thực hiện hai hành động: hành động mệnh đề và hành động ngôn trung. Hành động ngôn trung là hành động giao tiếp nhất định và có mặt trong bất kỳ phát ngôn nào. Mặt khác, phần phụ chú trong câu tiếng Việt (dù được cấu tạo bằng hình thức nào) cũng là lời chú thích của người chú thích (người tạo văn bản, nhân vật trong văn bản hay của người biên tập văn bản). Và bất kì lời chú thích nào cũng hướng đến đối tượng người đọc. Như vậy, bất kì phụ chú nào cũng đều có đích ngôn trung. Theo đó, mỗi một hành động chú thích đều nêu ra một sự nhận định hay một sự xác nhận, “đó là sự thực hiện một hành động tạo lời mang lực ngôn trung” [32: 259]. Trong mọi trường hợp, một cách trực tiếp hay gián tiếp đều có thể nhận ra phụ chú được dùng để thực hiện hành động nói nào đó và ở đây chỉ bàn đến hành động ngôn trung (hành động tại lời). Hành động nói đó có thể được thực hiện bằng câu ngôn hành, có thể thực hiện bằng kiểu câu phân theo mục đích nói trực tiếp hoặc gián tiếp. Trên cơ sở đã nêu, căn cứ vào bảng phân loại 5 lớp hành động của J.Searle, ngữ liệu khảo sát cho thấy các phụ chú trong câu tiếng Việt chủ yếu phân bố vào 4 lớp hành động nói: - Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp biểu hiện - Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp điều khiển - Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp ước kết - Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp bộc lộ Ngoài 4 kiểu phụ chú thực hiện hành động nói thuộc 4 lớp kể trên, còn có một kiểu phụ chú đồng thời thực hiện nhiều hành động nói khác nhau (các hành động này có thể cùng nằm trong một lớp hoặc không) tạm gọi là kiểu phức hợp hành động nói. Ở đây, luận văn không bàn đến trường hợp phức hợp này. 3.1.1. Phụ chú thực hiện hành động nói thuộc lớp biểu hiện Đích ngôn trung của lớp biểu hiện này là chỗ ghi nhận “trách nhiệm” của người nói trong việc thông báo tình trạng sự việc với các thang độ: đúng, chính xác, không đúng, không chính xác [52]. Trong số 817 ngữ liệu khảo sát, phụ chú thuộc lớp này có 769 đơn vị, chiếm tỉ lệ 94%. Toàn bộ 769 phụ chú của lớp biểu hiện được phân bố vào 17 kiểu nhỏ. (1) Phụ chú thực hiện hành động “giải thích” Qua quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi xác định có 256 trường hợp phụ chú thực hiện hành động giải thích, chiếm tỉ lệ 33% của lớp biểu hiện. Tùy đối tượng chú thích và mục đích giải thích mà kiểu phụ chú này thực hiện chức năng giải thích khác nhau. Trong giới hạn của luận văn khó có thể khái quát hết các kiểu giải thích mà phụ chú thực hiện đối với phát ngôn. Dưới đây là những kiểu tiêu biểu: * Phụ chú giải thích bằng cách giải nghĩa: Giải nghĩa tức là làm cho rõ nghĩa [39]. Do đó, phụ chú giải thích bằng cách giải nghĩa là làm rõ nghĩa đối tượng chú thích. Ví dụ: (1a) Từ buôn lậu, Dung Hà chuyển sang bảo vệ ngầm (bảo kê) cho một số nhà hàng, vũ trường và mở sòng bạc. [75: 15] (1b) Công an Hà Nội dựng được hai nhóm đối tượng là nhóm của Nguyễn Văn Thắng – tức Thắng “tài dậu” và Trần Quốc Sơn – tức Sơn “bạch tạng”. [75: 26] (1c) Năm Cam lại gọi tên Cường đến, cho mở sòng mới ở ngã ba Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa và tại đây Năm Cam được hưởng 60% tiền xâu (tức là tiền của các con bạc, ai thắng ván nào phải bỏ ra 10% cho chủ sòng). [75: 51] Loại phụ chú trong các ví dụ trên đều được dùng để giải thích bằng cách giải nghĩa. Do người chú thích sử dụng cách giải nghĩa các từ không giống nhau mà các phụ chú này có sự khác biệt về chi tiết: - Trong ví dụ (1a), cách giải nghĩa là dẫn ra một từ đồng nghĩa (chỉ khác phong cách). Đối với cách giải nghĩa này, phụ chú không đưa thêm tin mới vào văn bản mà chỉ có giá trị giúp người đọc hiểu cách gọi tên công việc của các băng nhóm: bảo vệ ngầm là bảo kê. - Trong ví dụ (1b), cách giải nghĩa là đưa thêm tên gọi khác của đối tượng, cung cấp thêm thông tin về đối tượng nhằm giúp người đọc có sự liên hệ. - Trong ví dụ (1c), phụ chú giải nghĩa bằng cách định nghĩa trực tiếp tiền xâu (tức là tiền của các con bạc, ai thắng ván nào phải bỏ ra 10% cho chủ sòng) * Phụ chú giải thích bằng cách cụ thể, chi tiết hóa hoặc khái quát hóa đối tượng chú thích - Cụ thể hóa có nghĩa là làm cho trở thành cụ thể, rõ ràng [39]. Phụ chú dùng để giải thích đối tượng theo kiểu cụ thể, chi tiết hóa có nhiệm vụ chỉ rõ chi tiết nghĩa của từ ngữ được chú thích, những từ ngữ này vốn mang ý nghĩa chung chung hoặc là những danh từ riêng còn chưa xác định được vật chiếu. Ví dụ: (2a) Lần đầu tiên, nhờ học thuyết của Mác, người ta thấy rõ tầm quan trọng của quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ về phân phối sản phẩm), người ta thấy rõ mối quan hệ của nó một bên với sức sản xuất, một bên với kiến trúc thượng tầng, với lĩnh vực tư tưởng… [65: 17] Quan hệ sản xuất là một khái niệm rộng, chứa đựng nhiều yếu tố bên trong. Vì thế, phần phụ chú giải thích đã cụ thể hóa khái niệm đó bằng các yếu tố gần gũi hơn: bao gồm quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ về phân phối sản phẩm (2b) Băng Bò Lục, Lủng Cu Trắng chuyên bảo kê cho các sòng bạc của Bảy Xí (anh rể Năm Cam)… [75: 21] Tuy Bảy Xí là một danh từ riêng nhưng ta vẫn chưa rõ vật chiếu của danh từ này, vì có thể là trùng tên gọi. Phụ chú đã xác định được vật chiếu cho danh từ riêng bằng cách cụ thể hóa quan hệ của tên gọi đó với đối tượng chính của chuyên án: anh rể Năm Cam. - Khái quát là nắm lấy những cái có tính chất chung cho một loại sự vật, hiện tượng [39]. Phụ chú giải thích theo kiểu khái quát hóa có nhiệm vụ nêu cái chung của các đối tượng đã được từ ngữ biểu thị. Ví dụ: (3) Mác, Ăng-ghen và Lê-nin, những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, trong suốt đời hoạt động của mình, đã không bỏ sót lĩnh vực nào của khoa học xã hội mà không nghiên cứu một cách sâu sắc và đề ra những luận điểm chói lọi mà ánh sáng đang soi đường cho chúng ta. [65: 11] Ngược lại với cách giải thích văn bản ở ví dụ (2), phụ chú trong ví dụ (3) được dùng để giải thích từ ngữ theo kiểu khái quát hóa. Nói cách khác, chúng giải thích từ ngữ bằng cách bổ sung một phần tin mới, có tính chất khái quát với lượng tin đã cho. Phần tin mới trong ví dụ trên là đã khái quát vai trò của: Mác, Ăng-ghen và Lê-nin, họ đều là những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học. * Phụ chú giải thích bằng cách so sánh So sánh có nghĩa là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau hay sự hơn kém [39]. Phụ chú giải thích

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVNNH012.pdf
Tài liệu liên quan