Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư

Tài liệu Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư: Đề tài: Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư MỤC LỤC Mục lục Phần mở đầu Phần nội dung Chương 1: Lý luận chung về đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lý đầu tư 1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển 1.1.1. Đầu tư 1.1.2. Đầu tư phát triển Mối tương quan giữa đầu tư và đầu tư phát triển Đặc điểm của đầu tư phát triển 1.2.1. Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn 1.2.2. Thời kì đầu tư kéo dài 1.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài 1.2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển 1.2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao 1.3. Sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư 1.3.1.Đặc điểm thứ nhất 1.3.2. Đặc điểm thứ hai 1.3.3. Đặc điểm thứ ba 1.3.4. Đặc điểm thứ tư 1.3.5. Đặc điểm thứ năm Chương 2: Thực trạng về đầu tư phát triển và đá...

doc68 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1091 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư MỤC LỤC Mục lục Phần mở đầu Phần nội dung Chương 1: Lý luận chung về đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lý đầu tư 1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển 1.1.1. Đầu tư 1.1.2. Đầu tư phát triển Mối tương quan giữa đầu tư và đầu tư phát triển Đặc điểm của đầu tư phát triển 1.2.1. Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn 1.2.2. Thời kì đầu tư kéo dài 1.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài 1.2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển 1.2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao 1.3. Sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư 1.3.1.Đặc điểm thứ nhất 1.3.2. Đặc điểm thứ hai 1.3.3. Đặc điểm thứ ba 1.3.4. Đặc điểm thứ tư 1.3.5. Đặc điểm thứ năm Chương 2: Thực trạng về đầu tư phát triển và đánh giá sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010 2.1.Thực trạng chung về đầu tư phát triển ở Việt Nam  2.2. Thực trạng chung về công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam 2.3Đánh giá thực trạng sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam 2.3.1. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ nhất 2.3.1.1. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng tiền vốn đầu tư 2.3.1.1.1 Khả năng tạo lập huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng tăng 2.3.1.1.2 Tình hình các nguồn vốn cho đầu tư phát triển 2.3.1.1.3 Một số bất cập trong việc huy động vốn hiện nay và giải pháp khắc phục 2.3.1.2. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn nhân lực 2.3.1.3. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn vật tư 2.3.2. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ hai 2.3.2.1. Thực trạng về lập kế hoạch vốn đầu tư cho thời kỳ đầu tư kéo dài 2.3.2.2. Tình trạng đầu tư dàn trải 2.3.2.3. Công tác quản lý giám sát còn thực hiện chưa tốt, dẫn đến tình trạng các công trình sai phạm, chất lượng thấp xảy ra ngày càng nghiêm trọng. 2.3.2.4. Nghiên cứu tình huống cụ thể trường hợp tập đoàn Vinashin 2.3.3. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ ba: 2.3.3.1 Thực trạng về hoạt động xây dựng cơ chế trong họat động đầu tư 2.3.3.1.1 Cơ chế vận hành chính sách đầu tư: 2.3.3.1.1.1.Cơ chế vận hành chính sách đầu tư còn nhiều hạn chế 2.3.3.1.2.Quá trình bảo hành bảo trì ở Việt Nam vẫn chưa được đề cao đúng mức. 2.3.3.2. Phương pháp dự báo khoa học: 2.3.3.2.1. Phân loại 2.3.3.2.2. Quy trình dự báo 2.3.3.2.3. Tình hình các phương pháp/mô hình dự báo ở Việt nam 2.3.4. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ tư 2.3.5. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ năm Chương 3: Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư 3.1. Dự báo xu hướng đầu tư phát triển trong giai đoạn 2011- 2015 3.2. . Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. 3.2.1. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ nhất 3.2.1.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình huy động vốn 3.2.1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng vốn 3.2.2. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ hai 3.2.2.1. Giải pháp tiến hành phân kì đầu tư 3.2.2.2. Giải pháp Thực hiện tốt cơ chế giám sát cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động đầu tư 3.2.3. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ ba 3.2.3.1. Giải pháp xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học 3.2.3.2. Giải pháp quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các kết quả đầu tư vào sử dụng và hoạt động tối đa công suất 3.2.3.3. Giải pháp quan tâm đúng mức đến độ rễ thời gian trong đầu tư 3.2.4. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ tư 3.2.4.1. Giải pháp hoàn thiện các chủ trương , quyết định đầu tư 3.2.4.2. Giải pháp lựa chọnn đia điểm dầu tư hợp lý 3.2.5. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ năm 3.2.5.1. Giải pháp hoàn thiện, nâng cao hoạt động nhận diện và quá trình đánh giá mức độ rủi ro 3.2.5.2.Giải pháp xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro 3.2.5.3. Giải pháp đối với Nhà nước  Phần kết luận Tài liệu tham khảo I.Phần mở đầu Kinh tế thế giới năm 2008 qua đi đã để lại những hậu quả lớn cho nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi khó khăn dần qua đi nền kinh tế thế giới đang tìm lại sự cần bằng và phát triển cần có. Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, kinh tế Việt Nam cũng có những bước tiến đáng kể, bước lên từ trong khó khăn. Năm 2010 là một năm đáng nhớ đối với nền kinh tế Việt Nam, đan xen giữa những thành công trong điều kiện khó khăn là những vấn đề bộc lộ đòi hỏi phải giải quyết. Nhìn lại một năm đầy biến động của nền kinh tế có thể thấy rõ điều này. Trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu, dù nội lực nền kinh tế còn chưa mạnh, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,5%). Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010, con số này ước tăng 14% so năm trước và cao hơn kế hoạch năm (12%). Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, thủy sản cả năm 2010 ước tăng 4,69% so năm trước, trong đó nông nghiệp tăng 4,24%, lâm nghiệp tăng 4,6%, thủy sản tăng 6,05%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính chung cả năm 2010 ước đạt hơn 1.561,6 nghìn tỷ đồng, tăng 24,5% so với năm 2009. Thu ngân sách Nhà nước tính từ đầu năm đến ngày 15/12 ước đạt 504,4 nghìn tỷ đồng, bằng 109,3% dự toán năm. Bên cạnh những thành tựu chung thì nhìn lại năm 2010, nền kinh tế cũng bộc lộ nhiều vấn đề. Kinh tế vĩ mô vẫn thiếu nền tảng vững chắc, chất lượng tăng trưởng thấp, tiềm ẩn không ít bất trắc, nếu không sớm khắc phục có thể ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định trong những năm tiếp theo. Ðánh giá chung, tình hình kinh tế-xã hội năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực, nền kinh tế phục hồi khá nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; chính trị, xã hội tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Thiên tai, lũ lụt đã gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản; áp lực của nền kinh tế thế giới tác động không nhỏ đến nền kinh tế trong nước. Hy vọng bước sang năm 2011, năm đầu của thập niên mới, con thuyền kinh tế của Việt Nam sẽ không ngừng vươn lên, tiếp tục phát triển vững chắc nhằm đưa đời sống nhân dân ngày càng cải thiện hơn nữa.   Có thể thấy, Việt Nam có đẩy đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế toàn cầu cởi mở hơn trong vòng 20 năm vừa qua. Bằng việc mở rộng ngoại thương và đầu tư và hòa nhập nhanh chóng với các nền kinh tế phát triển, Bằng việc mở rộng ngoại thương và đầu tư và hòa nhập nhanh chóng với các nền kinh tế phát triển, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Kinh tế Việt Nam hiện nay đang đứng trước những thuận lợi cũng như những thách thức lớn, trong hoàn cảnh này, vai trò của công tác đầu tư phát triển trở nên hết sức quan trọng, là điểm mốc đánh dấu sự phát triển tương lai của đất nước. Bài viết “Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư” sẽ tập trung nghiên cứu đặc điểm của đầu tư phát triển tại Việt Nam cũng như định hướng cho công tác quản lí đầu tư hiệu quả trong thời gian tới. II.Phần nội dung Chương 1: Lý luận chung về đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư 1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển 1.1.1. Đầu tư Hiện nay đầu tư là một hoạt động khá phổ biến trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân . Nhưng trong mỗi lĩnh vực thì hoạt động đầu tư được biểu hiện dưới những tính chất khác nhau . Do đó có khá nhiều khái niệm đầu tư ra đời . Sau đây chúng tôi xin đưa ra một vài khái niệm về đầu tư - Đầu tư là sự gia tăng của các tài sản hiện vật, là sự bỏ ra một cái gì đó ở hiện tại ( như tiền, sức lao động, của cải vật chất,trí tuệ) nhằm đạt được kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai -Đầu tư là sự sử dụng vốn để tạo ra các nhân tố sản xuất, đặc biệt là các tư liệu sản xuất như nhà xưởng,máy móc và vật tư cũng như để mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay lấy lãi mà ở đó những chủ đầu tư này có thể sinh lợi dần hoặc thỏa mãn nhu cầu nào đó cho người bỏ vốn cũng như toàn xã hội tại thời gian nhất định trong tương lai -Đầu tư là sử dụng vốn nhằm tạo nên các dự trữ và tiềm năng về tài sản để sinh lợi dần về thời gian trong tương lai ( Dự trữ : Sử dụng dần , VD: Nhà máy xây dựng để sử dụng dần ) -Đầu tư là một chuỗi hành động chi cho một chủ trương kinh doanh nào đó và từ đó chủ đầu tư sẽ thu được một chuỗi các khoản thu để đảm bảo hoàn vốn và có lãi một cách thích đáng -Đầu tư là một quá trình quản lý, sử dụng tài snr một cách hợp lý(nhất là về mặt cơ cấu tài sản ) để sinh lời -Đầu tư là sử dụng các khoản tiền tích lũy của xã hội ,của các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ, tiết kiệm của dân vào tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra tiềm lực lớn hơn về mọi mặt của đời sống xã hội Từ những khái niệm trên chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tư có những đặc điểm chung như sau: + Nguồn lực sử dụng sẽ không mất đi mà lớn hơn nguồn lực sử dụng ban đầu khi thực hiện hoạt động đầu tư + Mục tiêu của hoạt động đầu tư ở đây là kì vọng còn thực hiện hay không còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác của chủ đầu tư + Đều phải bỏ ra một chi phí nhất định ở hiện tại + Phạm trù thời gian thường là dài Từ đây ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về đầu tư : “ Đầu tư nói chung là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó ” Đầu tư phát triển: Nguồn lực cho hoạt động đầu tư phát triển tương đối lớn do bản chất của hoạt động này mang tính phức tạp hơn các hoạt động đầu tư khác. Xét theo nghĩa hẹp,nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn nhưng xét theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động,máy móc, thiết bị, tài nguyên. Do đó ,khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng ,tính đủ các nguồn lực tham gia để đưa ra những quyết định hợp lý nhất Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được mục tiêu nhất định trong tương lai. Mỗi đối tượng đều mang những nét đặc trưng riêng , trên mỗi góc độ của nền kinh tế nó lại mang một tính chất khác nhau .Vì vậy mà có khá nhiều cách phân loại đối tượng của đầu tư phát triển + Xét trên quan điểm phân công lao động xã hội có 2 nhóm đối tượng đầu tư chính là : Đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ + Xét trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư chia thành 2 nhóm chính : Công trình vì mục đích lợi nhuận và công trình vì mục đích phi lợi nhuận +Xét trên góc độ tầm quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành: Loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư, loại bị cấm đầu tư +Xét trên góc độ tài sản, đối tượng đầu tư chia thành: Tài sản vật chất và tài sản vô hình Kết quả của đầu phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô hình. Kết quả đạt được của đầu tư phát triển góp phần làm gia tăng năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ giữa kết quả về cả mặt tài chính và mặt kinh tế xã hội , chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó trong một thời kì nhất định. Kết quả cũng như hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và xã hội ,nó phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của các bên , vừa phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư , vừa thực hiện tốt vai trò quản lý, kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp . Trên thực tế có những khoản đầu tư không trực tiếp tạo ra tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển ,cũng được xem là đầu tư phát triển như : đầu tư cho y tế, đầu tư cho giáo dục... Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích của quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Mỗi chủ thể có liên quan tới hoạt động đầu tư phát triển đều vì một mục đích nhất định. Đối với các doanh nghiệp mục đích của họ là tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực. Còn đầu tư nhà nước với mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân , góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đối với đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định . Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư nói chung và vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn, ra quyết định đầu tư , quản lý quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư và là người hưởng lợi từ thành quả đầu tư đó. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát đầu tư, chịu trách nhiệm về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi trường và môi sinh , vì vậy có ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình tương đối dài và nảy sinh vấn đề về “độ trễ thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư ở hiện tại nhưng kết quả thì thường thu được trong tương lai. Kiểm soát được độ trễ thời gian sẽ giúp cho chủ đầu tư đưa ra những quyết định hợp lý từ đó nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Xét trên phương diện nền kinh tế đầu tư phát triển là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. nó đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia Do vậy chúng ta có thể khái quát như sau: “Đầu tư phát triển là một hoạt động đầu tư trực tiếp, hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội” Mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và các loại hình đầu tư khác: Trong nền kinh tế quốc dân hoạt động đầu tư được chia thành 3 nhóm chính : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển . Mỗi hoạt động đầu tư này đều mang những đặc trưng của hoạt động đầu tư nói chung nhưng bên cạnh đó chúng lại khác nhau về mặt bản chất . Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trị trên thị trường tiền tệ , thị trường vốn để hưởng lãi suất định trước hoặc lợi nhuận tùy vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Trong hoạt động đầu tư tài chính chủ đầu tư thường có kì vọng thu được lợi nhuận cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không theo ý muốn và thường được thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như: ngân hàng, công ty chứng khoán. Khác với hoạt động đầu tư phát triển , đầu tư tài chính không trực tiếp làm tăng tài sản thực cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho chủ đầu tư. Còn đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư trong lĩnh vực lưu thông và phân phối hàng hóa, người có tiền mua hàng hóa và bán với giá cao hơn để hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán . Khác với hoạt động đầu tư phát triển, nếu không xét đến quan hệ ngoại thương thì loại đầu tư này đầu tư thương mại cũng không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế , những giá trị tăng thêm do hoạt động đầu tư thương mại mang lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương , các tầng lớp dân cư trong xã hội. Mặc dù như thế nhưng những hoạt động dầu tư này lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa hóa lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư . Với đầu tư thương mại lại chính là kênh phân phối cho đầu tư phát triển, nó quyết định tới khả năng thu hồi vốn và có lãi đối với hoạt động đầu tư này. Đặc điểm của đầu tư phát triển 1.2.1. Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn Bản chất của hoạt động đầu tư phát triển là nhằm duy trì và tạo ra năng lực sản xuất mới vì vậy hoạt động này thường gắn liền với quá trình hình thành một loại sản phẩm cho xã hội dưới dạng các công trình xây dựng, nhà xưởng ,máy móc trang thiết bị khoa học,hay thực hiện các chi phí phục vụ cho một chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó. Các sản phẩm này thường có tính chất và kết cấu phức tạp vì vậy mà để tạo được một sản phẩm như thế thường đòi hỏi một lượng vốn lớn. Mặt khác hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất liên hoàn, đồng bộ tức là khi một công đoạn thi công chưa hoàn thành thì không thể vận hành hoặc vận hành nhưng không đạt được năng suất cao , chất lượng như dự tính cho nên thường lượng vốn cho đầu tư phát triển sẽ tồn tại dưới dạng sản phẩm dở dang , nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Hoạt động đầu tư phát triển có tính chất phức tạp hơn các hình thức đầu tư khác bởi sản phẩm của nó thường là vật chất, quy mô lớn vì vậy nên nguồn nguyên liệu đầu vào cũng phải phong phú, đa dạng và tương đối lớn ,có thể phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đối với các dự án đầu tư phát triển thì phải thi công nhiều hạng mục công trình đòi hỏi kĩ thuật cao do đó cần một lượng lao động dồi dào, có tính chất công việc, trình độ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác nhau mới có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra . 1.2.2.Thời kì đầu tư kéo dài Vì tính chất phức tạp của dự án đâù tư phát triển, đòi hỏi trình độ kĩ thuật cao mới tạo ra được kết quả đầu tư như mong muốn. Cho nên trong quá trình đầu tư phải tỉ mỉ theo sát từng công đoạn thực hiện bởi với tính chất liên hoàn của công trình nếu một khâu làm không đúng sẽ ảnh hưởng tới chất lượng kết quả cuối cùng gây nên tổn thất lớn cho chủ đầu tư..Bên cạnh đó, các dự án đầu tư phát triển thường chịu ảnh hưởng của các yếu tố khó có thể tránh khỏi trong quá trình thi công công trình như: thiên tai, bão lũ, thời tiết, khí hậu,chính trị bất ổn…làm cho công trình bị ngưng trệ và không thể thực hiện trong một thời gian dài. Hơn nữa với sự phá hủy công trình, cộng thêm một lượng vốn bỏ vào đó khá lớn, các hiện tượng tự nhiên lại diễn ra bất ngờ khó nằm trong dự đoán của chủ đầu tư vì vậy chủ đầu tư cần phải có thời gian huy động thêm vốn để có thể khắc phục hậu quả và tiếp tục thực hiện dự án. Trong quá trình đầu tư cũng chịu tác động của môi trường xã hội xung quanh, nếu dự án bị cản trở bởi sự không đồng tình của dân chúng trong khu vực xây dựng hay của nhân công, xảy ra các vụ biểu tình, phản đối, đình công đã làm cho dự án phải kéo dài thời gian để giải quyết hay là biến động nguồn nguyên vật liệu đầu vào cũng làm ngưng trệ quá trình sản xuất…Do tính chất đòi hỏi sự kì công cũng như chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài cho nên hoạt động đầu tư phát triển thường có thời kì đầu tư kéo dài hơn các hoạt động đầu tư khác. 1.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài Đối với hoạt động đầu tư phát triển thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho tới khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Do hoạt động đầu tư phát triển phải bỏ ra một lượng vốn lớn, trong thời gian thực hiện đầu tư vốn nằm khê đọng dưới hình thái sản phẩm dở dang thì không thể vận hành hay vận hành được nhưng hiệu quả không cao do đó khó thu hồi được lượng vốn lớn bỏ ra trong một thời gian ngắn. Hơn nữa khi sản phẩm của quá trình vận hành ra đời không thể ngay lập tức tiếp cận với người tiêu dùng như một sản phẩm quen thuộc mà cũng cần một thời gian nhất định nào đó mới xâm nhập được vào thị trường. Cho nên sau khi hoạt động đầu tư kết thúc để thu lại được khoản vốn lớn và có lãi thì quá trình vận hành kết quả đầu tư phải diễn ra trong thời gian tương đối dài. Mặt khác do thời kì đầu tư phát triển diễn ra dài nên các kết quả của hoạt động này thường là các công trình kiên cố, phát huy tác dụng lâu dài từ 10 năm, 20 năm…và có thể có giá trị sử dụng vĩnh viễn về mặt tinh thần như các công trình : Kim Tự Tháp, Vạn Lý Trường Thành. Trong quá trình vận hành kết quả đầu tư chịu tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế xã hội tại nơi mà nó tồn tại. Để thích ứng, giải quyết các vấn đề này cần phải có thời gian đi tìm hiểu và khắc phục dần vì vậy sẽ kéo dài tiến độ vận hành kết quả đầu tư. 1.2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển sẽ hoạt động ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển thường là các công trình xây dựng kiên cố không thể di dời được do đó quá trình vận hành kết quả đầu tư thường diễn ra tại ngay nơi mà nó được tạo dựng nên và chịu sự chi phối bởi tình hình kinh tế,xã hội, điều kiện tự nhiên tại khu vực đó. Ví dụ như quy mô đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu phụ thuộc rất nhiều vào trữ lượng dầu của mỏ; nếu trữ lượng của mỏ ít thì nhà máy lọc dầu không nên quá lớn để đảm bảo cho nhà máy hoạt động hết công suất theo dự kiến trong dự án tránh tình trạng lãng phí vốn đầu tư. Do đó trước khi thực hiện hoạt động đầu tư cần có kế hoạch thăm dò, tìm hiểu, tính toán kĩ lưỡng toàn diện tất cả các khía cạnh thị trường, môi trường xã hội, kinh tế kĩ thuật, kinh tế tài chính, diều kiện tự nhiên, môi trường pháp lý….có liên quan tới quá trình thực hiện cũng như vận hành kết quả đầu tư để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu như mong muốn và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Cần có các biện pháp hợp lý nhằm dự đoán trước các ảnh hưởng mà quá trình phát huy tác dụng của kết quả đầu tư đối với môi trường sống xung quanh để có thể khắc phục ngay trong quá trình thực hiện dự án tránh tình trạng khi vận hành mới thấy hậu quả của nó gây ra làm xáo trộn cuộc sống của dân cư trong khu vực đặt dự án thì rất khó có thể khắc phục được.Như vậy chủ đầu tư sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình vận hành làm giảm hiệu quả phát huy tác dụng của dự án gây ra tổn thất không nhỏ tới lợi nhuận của dự án. 1.2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao Hoạt động đầu tư phát triển cần một lượng vốn lớn, vốn lại nằm khê đọng trong quá trình thực hiện đầu tư dưới hình thái là sản phẩm dở dang , thêm vào đó là thời gian đầu tư kéo dài cho nên không thể tránh khỏi tác động của các yếu tố tiêu cực gây ra rủi ro cho hoạt động đầu tư . Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân gây ra, có những nguyên nhân có thể khắc phục được đó là những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phiá các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu, ….nhưng bên cạnh đó cũng có những nguyên nhân khách quan khó có thể tránh được như giá nguyên vật liệu tăng , giá bán sản phẩm giảm, thiên tai, bão lũ, hay tình hình kinh tế xã hội tại khu vực thực hiện dự án không ổn định….những rủi ro này tác động xấu tới quá trình vận hành kết quả đầu tư cũng như khả năng thu hồi vốn của chủ đầu tư . Do đó có thể dẫn tới hành động phá sản, đóng cửa sản xuất trong quá trình phát huy tác dụng của kết quả đầu tư.Việc nhận định rõ các nguyên nhân rủi ro và tìm ra biện pháp ứng phó kịp thời sẽ làm giảm mức độ thiệt hại cho chủ đầu tư 1.3.Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư 1.3.1. Quy mô tiền vốn cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Do đó cần có giải pháp huy động vốn hợp lí, sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Vốn của hoạt động đầu tư phát triển rất lớn do đó để chuẩn bị đầy đủ nguồn vốn cần thiết cần tiến hành huy động qua các kênh khác nhau với các biện pháp thích hợp. Thu hút vốn với phương châm dựa vào nguồn vốn trong nước là chính, vốn nước ngoài là yếu tố quan trọng và hướng tới giảm dần về tỉ trọng. -Với vốn trong nước, tạo điều kiện khuyến khích bằng cơ chế lãi suất, và các chính sách cổ phần hóa nhằm tăng nguồn vốn huy động cũng như tạo thuận lợi cho quá trình huy động. -Với nguồn huy động vốn nước ngoài, thực hiện các chủ trương mở cửa, tạo môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư đồng thời hoàn thiện các quy định của luật pháp một cách rõ ràng, chặt chẽ nhằm tránh những thiệt hại không đáng có. Với nguồn vốn lớn, trong thời gian thực hiện dễ xảy ra thất thoát do đó, cần có sự quản lí chặt chẽ để tránh những dòng đi không đúng hướng của vốn cũng như những thất thoát, thiếu hiệu quả. Vốn đầu tư lớn nằm khe đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, vốn tồn tại dưới dạng công trình xây dựng dở dang, không có khả năng sinh lời. Nên để phát huy được hiệu quả của dự án, trước tiên công tác quản lý cần phải đánh giá và phân tích được tính khả thi và tính hiệu quả của dự án, mức độ chính xác của quyết định thực hiện đầu tư thông qua: Nghiên cứu điều kiện vĩ mô: phân tích khía cạnh kinh tế, chính trị, môi trường pháp lý, môi trường tự nhiên, tài nguyên, môi trường văn hóa xã hội. Nghiên cứu thị trường: Phân tích, đánh giá hiện trạng tổng thể cung cầu, đưa ra thị trường mục tiêu, sản phẩm, khách hàng mục tiêu, phân tích và dự báo cung cầu trong tương lai, tìm kiếm và phát triển lợi thế so sánh, đưa ra chiến lược cạnh tranh. Nghiên cứu kỹ thuật: nghiên cứu công suất, giải pháp công nghệ- máy móc thiết bị, nguồn nguyên liệu đầu vào, lịch trình thực hiện các hạng mục công trình. Nghiên cứu tổ chức và quản lý và nhân sự: đưa ra cơ cấu tổ chức hợp lí, phân công công việc, đảm bảo quá trình thực hiện. Phân tích tài chính, phân tích khía cạnh kinh tế- xã hội. Sau đó đưa ra các giải pháp huy động vốn hợp lý. Bên cạnh đó, công tác quản lý còn phải thực hiện xây dựng các chính sách quy hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ, phân bổ vốn hợp lý, thực hiện đầu tư trọng tâm, trọng điểm để phát huy hiệu quả sử dụng vốn. Dự án đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng lớn lao động đặc biệt là sự góp mặt của lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao. Hiện nay, khả năng cung ứng lao động của nước ta ở loại cao tuy nhiên lượng lao động có tay nghề còn khá hạn chế, do đó khâu đầu tiên cần chú trọng công tác đào tạo nghề, hướng tới nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động kế cận. Sinh viên, nguồn tri thức đang được quan tâm hiện nay chủ yếu được đào tạo qua trường lớp về lí thuyết, tính thực tế chưa cao, cần được mài giũa. Việc tận dụng đội ngũ sinh viên đông đảo sẽ đem lạo hiệu quả rõ rệt. Đồng thời cần song song với việc có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, tránh hiện tượng chảy máu chất xám. 1.3.2. Thời kì đầu tư kéo dài: Thời kì đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Hoạt động đầu tư phát triển là hoạt động khá phức tạp, đòi hỏi trải qua nhiều khâu do đó thời gian thường kéo dài. Tùy theo từng dự án đầu tư, thời gian này khác nhau, tuy nhiên, nhìn chung các dự án đều mang tính kéo dài, có dự án 2 năm, 5 năm, thậm chí có dự án lên tới hàng chục năm. 90-98% vốn được chia ra và huy động trong suốt thời gian thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời, thời gian thực hiện càng kéo dài vốn khê đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn. Trong suốt quá trình triển khai dự án, do thời gian dài nên dự án chịu sự tác động lớn từ sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài đến đầu vào cũng như đầu ra. a, Các yếu tố đầu vào: Đầu tiên phải kể đến nguồn nguyên vật liệu cho công trình. Giá nguyên vật liệu chính dùng cho thi công như sắt, thép, xi măng, đá, cát… thường xuyên thay đổi do tác động chung của thị trường. Giá sắt thép, gạch, sơn... trong thời gian qua đã có nhiều đợt tăng chóng mặt. Chi phí cho quá trình sản xuất còn kể đến chi cho năng lượng như điện, than, xăng dầu, đây đều là những mặt hàng có biên độ tăng giá khá cao. Tiếp đến là giá thành nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh. Sự tăng giá của các nguyên liệu trong nước cũng như nước ngoài ảnh hưởng rất lớn đến chi phí sản xuất. Mặt khác, thực tế khá nhiều doanh nghiệp Việt Nam sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu, do đó chịu ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố chính trị - xã hội nước ngoài, chính sách tỉ giá, .... Đặc biệt phải kể đến các ngành như dược, sắt thép, xi măng, dệt may, chế biến thức ăn thủy sản. Lạm phát cao trong thời gian qua cùng với hiệu ứng dây chuyền đã tác động làm tăng giá đầu vào của các xí nghiệp sản xuất. Ngoài ra có thể kể tới sự thay đổi chính sách của nhà nước. Trong thời gian thi công, chính sách nhà nước mặc dù không thay đổi nhiều nhưng cũng có những tác động nhất định đến dự án. Chính sách quy hoạch, ưu đãi, chính sách tỉ giá ( tác động tới các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài) … b, Các yếu tố đầu ra: Nhu cầu thị trường hay nói khác đi là thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi khá nhanh, đặc biệt là với đối tượng trẻ tuổi, chiếm tỉ trọng cao trong dân số nước ta. Tỉ lệ dân trong độ tuổi lao động vào khoảng 66%. Sự thay đổi trong thị hiếu của bộ phận dân số này có tác động rất lớn đến đầu ra của sản phẩm. Với lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin có mức tăng trưởng chóng mặt, việc thời gian thi công kéo dài có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, sản phẩm làm ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường, gây thất thu cho chủ đầu tư. Bên cạnh đó, do thời gian đưa sản phẩm ra thị trường kéo dài dẫn tới giảm khả năng cạnh tranh, yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Từ những tác động lớn của sự thay đổi các yếu tố liên quan tới quá trình thi công cũng như sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặt ra vấn đề cần thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư một cách chi tiết, cụ thể, rõ ràng, chuẩn bị mọi tình huống có thể xảy ra. Khâu chuẩn bị dự án bao gồm các giai đoạn nhỏ: + Nghiên cứu và phát hiện cơ hội đầu tư: Trong giai đoạn này đòi hỏi chủ đầu tư phải xem xét kĩ lưỡng, nhận định nhu cầu thị trường cũng như tiềm lực của mình, lựa chọn các loại hình đầu tư tiềm năng nằm trong khả năng của mình. + Nghiên cứu tiền khả thi: Đối với các dự án lớn, có quy mô quốc gia cần thực hiện nghiên cứu tiền khả thi chi tiết nhằm đưa ra những đánh giá sát với dự án. + Nghiên cứu khả thi: Để đánh giá lại một lần nữa hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án. + Thẩm định dự án: Do tính chất quan trọng của dự án đầu tư phát triển, nhằm hạn chế yếu tố chủ quan của chủ đầu tư, cần tiến hành công tác thẩm định dự án chặt chẽ, nghiêm minh, đảm bảo dự án thực hiện chắc chắn đem lại hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả xã hội. Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách, cơ quan có thẩm quyền thẩm định, đối với các dự án sử dụng vốn tư nhân, đòi hỏi doanh nghiệp cần thuê đội ngũ chuyên môn đánh giá mọi mặt của dự án. Cần căn cứ vào độ quan trọng mà phân bổ nguồn vốn hợp lí, tránh tình trạng dàn trải, thiếu hiệu quả. Tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình có thể tiết kiệm chi phí và thời gian. Trong quá trình triển khai dự án cần quản lí chặt chẽ chất lượng cũng như tiến độ công trình, tránh thất thoát vốn, kéo dài thời gian hay nôn nóng chạy theo thành tích coi nhẹ yêu cầu chất lượng, khắc phục tình trạng thiếu vốn, ứ đọng vốn trong quá trình thi công… Đồng thời cần tuân thủ đúng lịch trình của dự án. Mặt khác cần rút ngắn thời gian thi công công trình, giảm thiểu rủi ro và chi phí. Đồng thời quản lí chặt chẽ việc sử dụng nguyên vật liệu, tránh lãng phí, nâng cao hiệu suất sử dụng. Để đẩy mạnh quá trình thi công, cần áp dụng những trang thiết bị công nghệ hiện đại, phù hợp với trình độ của công nhân cũng như năng lực quản lí của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, nhân công, năng lượng, tạo lên hiệu quả đầu tư. 1.3.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài Thời gian vận hành kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời gian sử dụng và đào thải công trình. Thời gian vận hành tùy thuộc vào loại hình đầu tư, tuy nhiên đặc điểm này được thể hiện rõ trong các công trình kiến trúc. Có thể kể đến vài công trình có thời gian sử dụng lâu dài như tòa nhà KangNam, các khu trung cư, thậm chí có giá trị vĩnh viễn như Vạn Lí Trường Thành ở Trung Quốc, Đền thờ Ăng Co Vát ( Campuchia ), tháp nghiêng Pisa ( Italia) …. Trong suốt quãng thời gian vận hành đó, công trình chịu sự tác động rất lớn của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội. Đây là thời gian quyết định việc dự án có thực hiện được các mục tiêu đề ra hay không, là quá trình thu hồi vốn, thời gian này khá dài nhất là đối với các công trình kiến trúc, do đó chịu ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội: + Về thiên nhiên, sự tác động của thiên tai như bão, lũ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cũng như tuổi thọ của công trính. + Về kinh tế, sự thay đổi của các yếu tố như tăng trưởng nhanh, cải thiện đời sống người dân, làm thay đổi nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng công trình. + Về chính trị - xã hội, các yếu tố như chiến tranh, xung đột vũ trang tuy ít xảy ra nhưng có thể gây tác động rất lớn, ảnh hưởng, thậm chí hủy hoại công trình. Hay sự thay đổi trong quan niệm, cách thức sử dụng của người tiêu dùng góp phần tác động thông qua việc khai thác công trình đó như thế nào. Quá trình vận hành kết quả đầu tư bao gồm các giai đoạn: sử dụng chưa hết công suất, sử dụng công suất ở mức cao nhất, công xuất giảm dần và kết thúc dự án. Quá trình này gắn liền với chu kì sống của sản phẩm: đưa sản phẩm vào thị trường, phát triển, chín muồi và suy thoái. Nếu như các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ, tại địa điểm thích hợp, với quy mô tối ưu thì hiệu quả đầu tư của các kết quả  này và mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình quản lý hoạt động các kết quả đầu tư. Để quá trình sản xuất, kinh doanh đạt được mục tiêu đề ra cần thực hiện tốt công tác quản lý dự án đầu tư: + Thứ nhất, cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học ở cấp vĩ mô và vi mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư trong tương lai ,dự kiến khả năng cung hàng năm và toàn bộ vòng đời dự án. Đối với sản phẩm, việc đáp ứng nhu cầu thị trường là hết sức quan trọng, nếu như việc nghiên cứu thị trường không được thực hiện hiệu quả, không nắm được toàn bộ thông tin về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không được đảm bảo theo đúng quy luật cung - cầu , đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay của nước ta. Mặc khác nếu như việc dự báo không được khoa học và chính xác thì hoạt động của doanh nghiệp có thể sẽ đi chệch hướng hay hoạt động thiếu hiệu quả. Do đó, công tác dự báo là hết sức quan trọng, cần tiến hành tỉ mỉ ngay từ khi lập dự án đồng thời cần tiếp tục thực hiện trong quá trình triển khai dự án để kịp thời nắm bắt những thay đổi nhu cầu thị trường cũng như thay đổi của đối thủ cạnh tranh. Sau khi tìm hiểu nhu cầu thị trường, cần xác định khả năng của doanh nghiệp từ đó đưa ra lượng cung ứng phù hợp, quyết định mở rộng hay thu hẹp sản xuất. Việc phân tích đánh giá tiềm năng của dự án cần phải dựa trên phân tích tổng quát, toàn diện, xem xét dựa trên cả các vần đề về pháp luật, môi trường, văn hóa – xã hội … + Thứ hai, quản lý tốt quá trình vận hành nhanh chóng đưa các thành quả hoạt động đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư tránh hao mòn vô hình . Đồng thời tuân thủ chiến lược về công suất, sử dụng công suất ở mức thấp để đối phó với  những thay đổi của thị trường.Vì trong giai đoạn đầu này sản phẩm mới được tung ra thị trường cần có thời gian để sản phẩm thích ứng với người tiêu dùng. Phần nữa do máy móc mới được đưa vào sử dụng cần phải hoạt động dưới mức công suất để đảm bảo cho máy móc lâu bền và cũng  cần thời gian để người công nhân lao động quen với tay nghề, máy móc . Sau khi qua giai đoạn này, cần nhanh chóng sử dụng hết công suất để tránh hao mòn vô hình, chiếm lĩnh thị trường. Giai đoạn này nhà đầu tư cố gắng duy trì trong một thời gian càng dài càng tốt, kéo dài chu kì sống của sản phẩm. Nâng cao công tác quản lí hoạt động sản xuất kinh doanh như đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tăng cường tìm kiếm đối tác mở rộng thị trường, sử dụng quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, chăm sóc khách hàng, ... Chủ đầu tư cần chuẩn bị một lượng vốn lớn cho giai đoạn này tránh tình trạng dự án phải nằm chờ, đồng thời đảm bảo đủ nguồn cung đầu vào cho hoạt động sản xuất và tránh những trường hợp rủi ro có thể gặp phải. Đến khi chu kì sống của sản phẩm kết thúc chủ đầu tư cần phải dự báo được. Chu kì của sản phẩm kết thúc khi có những dấu hiệu cơ bản sau: số lượng sản phẩm tiêu thụ giảm xuống một cách rõ rệt giá thị trường của sản phẩm giảm dẫn tới sự giảm sút của doanh thu và lợi nhuận, sự xuất hiện nhiều sản phẩm cùng loại trên thị trường nhưng mẫu mã, chất lượng vượt trội. Khi đó chủ đầu tư phải nhanh chóng cắt giảm sản lượng, giảm công suất, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để kết thúc thanh lý dự án. Do đó, cần thực hiện tốt công tác nghiên cứu, phân tích thị trường trong suốt quá trình thi công cũng như vận hành dự án, đảm bảo sự nhạy bén với thay đổi của thị trường. Nhà quản lý muốn nắm bắt tốt được thời điểm của thị trường, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp thì đòi hỏi phải quản lý quá trình vận hành theo một trình tự và một phương pháp khoa học. Đồng thời cũng đòi hỏi một khả năng nhạy bén sắc sảo của đội ngũ bộ máy quản lý. Cách thức quản lí có đem lại hiệu quả hay không phụ thuộc khá nhiều vào bộ máy tổ chức quản trị. Việc tổ chức bộ máy quản trị phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Thực hiện được các mục tiêu, chương trình đề ra Thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo quản lí Tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả Phân định rõ ràng quan hệ giữa các bộ phận Quy định quyền hạn đi đôi với trách nhiệm Hợp tác cùng thực hiện mục tiêu chung + Thứ ba, phải chú ý đúng mức đến độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nay nhưng thành quả đầu tư có thể phát huy tác dụng chỉ từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư. Điều chỉnh để giảm thiểu độ trễ của hoạt động đầu tư hoặc dự báo trước sự chậm trễ đó để đưa ra cách khắc phục là một yêu cầu khá quan trọng trong công tác quản lý. Muốn vậy nhà đầu tư cần thực hiện quản lí đầu tư một cách hiệu quả, giảm bớt những khâu không cần thiết, chuẩn bị đủ nguồn vốn cũng như nhân lực, nguyên nhiên liệu trong suốt quá trình thi công cũng như vận hành dự án. 1.3.4.Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay tại nơi nó được tạo dựng Do đó yêu cầu đầu tiên là cần có chủ trương và quyết định đầu tư đúng, công tác quản lý cần làm tốt công việc liên quan lựa chọn địa điểm thực hiện, cách thức tận dụng lợi thế của vùng. Các thành quả hoạt động tại địa điểm nó được xây dựng do đó theo thời gian sẽ chịu tác động bởi các yếu tố môi trường, văn hóa, yếu tố địa chất, địa lý ở đó. Do vậy để hoạt động đầu tư có hiệu quả lâu dài và tận dụng được lợi thế của địa điểm, công tác đầu tư quán triệt nghiên cứu và phân tích các yếu tố liên quan lựa chọn địa điểm. Cụ thể: + Nghiên cứu chi phí: giá thành xây dựng công trình, chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, chi phí thuê- mua đất, khoản phí bổ sung cơ sở hạ tầng… Chi phí là một yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động đầu tư phát triển, quyết định đến thành công của dự án. Nghiên cứu kĩ chi phí của từng địa điểm từ đó lựa chọn địa điểm có chi phí thấp hơn sẽ tiết kiệm đáng kể nguồn chi của dự án cũng như góp phần tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. + Nghiên cứu các quy hoạch, kế hoạch của nhà nước. Cần có tầm nhìn chiến lược để dự án đi đúng hướng chung của đất nước cũng như tận dụng những chính sách ưu đãi của nhà nước cũng như địa phương. + Nghiên cứu khía cạnh môi trường. Điều kiện địa chất ( địa hình, địa mạo, cấu trúc địa chất …) ảnh hưởng không nhỏ tới công trình thi công. Bên cạnh đó, do dự án là lâu dài, cần tính đến khả năng mở rộng hay thu hẹp quy mô trong tương lai xa, từ đó mới tạo khả năng duy trì dự án. + Nghiên cứu khía cạnh tài nguyên thiên nhiên. Nguồn nguyên vật liệu là yếu tố không thể thiếu khi dự án vào hoạt động. Đảm bảo nguồn nguyên vật liệu cung ứng liên tục, đảm bảo chất lượng là yếu tố sống còn cho hoạt động của dự án. + Nghiên cứu khía cạnh văn hóa- xã hội Cần khai thác tối đa các yếu tố trên, tạo điều kiện thuận lợi cho công trình từ khi xây dựng đến khi đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, cần xem xét trên góc độ vĩ mô việc lựa chọn địa điểm cần có tầm nhìn chiến lược để phát triển ổn định, bền vững, đảm bảo dự án đạt được mục tiêu cuối cùng là hướng tới người dân, nâng cao đời sống nhân dân. 1.3.5.Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao đòi hỏi công tác quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư đòi hỏi quy mô vốn lớn, có tính chất lâu dài thể hiện qua thời gian thực hiện và vận hành kết quả đầu tư do đó mức rủi ro thường cao. Đặc biệt trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp thông qua các biến động khách quan như chính sách nhà nước về tỉ giá hối đoái, tiền tệ,…hay yếu tố lạm phát tác động đến thu chi, đến đầu vòa và đầu ra ảnh hưởng đến tính hiệu quả của dự án do đó cần quản trị rủi ro qua các bước sau: Thứ nhất, nhận diện rủi ro đầu tư. Có nhiều nguyên nhân rủi ro, do vậy xác định được đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra được giải pháp khắc phục. Thứ hai, đánh giá mức độ rủi ro đầu tư. Rủi ro xảy ra có khi rất nghiêm trọng nhưng có khi chưa đến mức gây ra thiệt hại về kinh tế. Đánh giá đúng sẽ cho ta cái nhìn chính xác hơn để đưa ra biện pháp phù hợp. Thứ ba, xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. Mỗi loại rủi ro với đặc điểm và mức độ riêng biệt sẽ có biện pháp phòng chống tương ứng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại có thể rủi ro gây ra. Thứ tư, cần chú trọng công tác dự báo, phân tích tinh hình kinh tế- xã hội trong nước cũng như quốc tế từ đó nhận định chính xác rủi ro. Công việc dự báo này khá phức tạp, đòi hỏi chuyên môn, kinh nghiệm cũng như việc xem xét trên nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau. Dự báo và đưa ra các giải pháp phòng tránh cũng như hạn chế tác động của rủi ro đến quá trình thi công cũng như vận hành dự án, đảm bảo dự án đạt hiệu quả như mục tiêu đề ra. Chương 2: Thực trạng về đầu tư phát triển và đánh giá sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010 2.1.Thực trạng chung về đầu tư phát triển ở Việt Nam  Về cơ bản, nước ta luôn giữ được mức độ tăng trưởng GDP cao trong hơn mười lăm năm qua. Trong đó hoạt động đầu tư phát triển đóng góp lớn vào sự tăng trưởng đó. Đặc biệt yếu tố vốn đầu tư ngày càng có đóng góp quan trọng. Đầu tư phát triển trong thời gian qua tăng cả về quy mô và tốc độ, tạo nguồn lực quan trọng cho phát triển sản xuất, điều đó thể hiện rất rõ qua số liệu về tổng vốn đầu tư phát triển qua các năm. Từ năm 2008, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng từ 616,7 nghìn tỷ đồng lên 708,8 nghìn tỷ đồng vào năm 2009, đạt 800 nghìn tỷ đồng năm 2010.Khả năng huy động nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 vào khoảng 800 nghìn tỷ đồng, bằng 41,5% GDP và tăng 12% so với ước thực hiện năm 2009. So với GDP theo giá thực tế VND, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội dao động quanh mức 40% - 42,7% GDP. Chỉ tiêu kế hoạch năm 2011, vốn đầu tư phát triển cho toàn xã hội là 905 nghìn tỷ đồng, chiếm 40% GDP. GDP kế hoạch 2011 theo giá thực tế VND là  2255,2 – 2275,2 nghìn tỷ đồng tương đương 112,8 – 113,8 tỷ. Biểu đồ : quy mô vốn đầu tư phát triển theo các năm 2008- 2011 Có thể cụ thể hóa nguồn vốn đầu tư như sau: Nguồn vốn Quy mô (nghìn tỷ VNĐ) Tỷ lệ (%) Nguồn vốn trong nước 594 74,2 1. Vốn NSNN 125,5 15,7 2. Vốn trái phiếu CP 66 8,25 2. Vốn TDĐT nhà nước 55 6,9 3. Vốn DN nhà nước 66 8,25 4. Vốn dân doanh 281,5 35,1 Nguồn vốn nước ngoài 207 25,8 1.Vốn đầu tư trực tiếp NN 182 22,7 2. Vốn khác 25 3,1 Bảng : Cơ cấu các nguồn vốn trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển cho toàn xã hội năm 2010 Thực hiện năm 2010 tăng 1,1% so với kế hoạch, tăng 12,9% so với thực hiện 2009. Trong đó, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân dẫn đầu chiếm tỷ trọng 31,2%; tiếp theo là vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 22,5%; vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài 21,5%. So với kế hoạch, vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân cùng vốn trực tiếp nước ngoài giảm lần lượt 4,4% và 1,5% số tuyệt đối; trong khi đó vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước tăng 6,6% số tuyệt đối. Năm 2010, trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được kết quả tốt cả về vốn đầu tư đăng ký, vốn thực hiện và sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào kết quả chung của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2010. Trong năm 2010, Việt Nam đã thu hút được 18,59 tỷ USD vốn ĐTNN đăng ký (gồm cả cấp mới và tăng vốn), bằng 82,2% so với cùng kỳ 2009 và gần đạt mục tiêu cho năm 2010. So với tổng vốn đầu tư toàn xã hội, vốn FDI năm 2010 cao hơn năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,2% so với năm 2009 và cao hơn so với mức tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước (năm 2010 tăng 14,7%) tổng giá trị xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI đạt 38,8 tỷ USD, tăng 27,8% so với năm 2009 và chiếm 53,1% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 36,4 tỷ USD, tăng 39% so với năm 2009 và chiếm 42,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nhờ đó, xuất siêu của FDI năm 2010 đạt 2,35 tỷ USD. Đây là điểm nổi bật của hoạt động đầu tư nước ngoài năm 2010, là đóng góp quan trọng vào thành tích cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam, giảm mức nhập siêu cho nền kinh tế. Tổng ODA cho Việt Nam khoảng 8,063.85 tỷ USD Ngân hàng thế giới WB 2,498 tỷ USD Nhật Bản1,64 tỷ USD Liên minh châu Âu hơn 1 tỷ USD Năm 2010 tổng mức ODA dành cho Việt Nam đạt khoảng 8,063.85 tỷ USD. Ngân hàng Thế giới (WB) trở thành nhà tài trợ lớn nhất với mức 2,498 tỷ USD. Nhật Bản công bố mức viện trợ 1,64 tỷ USD trong khi Liên minh châu Âu (EU) công bố mức hơn 1 tỷ USD, trong đó Pháp tiếp tục là nhà tài trợ lớn nhất trong khối này với 378,26 triệu USD. Trong khi đó, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dành 1,479 tỷ USD cho Việt Nam. Sang năm 2011 Việt Nam tập trung đầu tư phát triển, đẩy mạnh nâng cấp và xây dựng các khu kinh tế, đồng thời dành nhiều ưu đãi nhằm thu hút các nhà đầu tư trong mục tiêu biến các khu kinh tế trở thành đầu máy kinh tế trong tương lai gần. Theo bộ Kế hoạch & Đầu tư, năm 2011 dự kiến vốn đầu tư phát triển cho toàn xã hội là 905 nghìn tỷ đồng, chiếm 40% GDP, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách nhà nước do các Bộ, ngành ở Trung ương quản lý là 41.879 tỷ đồng , tăng 11,5% so với kế hoạch năm 2010. Vốn trong nước 34.379 tỷ đồng Ngoài nước 7.500 tỷ đồng Bộ cơ quan ngang bộ trực thuộc chính phủ 36.045,5 tỷ đồng (tăng 12,8 %) Xây dựng kết cấu hạ tầng giao cho các tập đoàn, tổng công ty 5.180 tỷ đồng (tăng 2,8%) Các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp 223.5 tỷ đồng Cơ cấu vốn đầu tư chính phủ năm 2009 được thể hiện như sau: Cơ cấu đầu tư công trong năm 2009 ngoài nguồn ngân sách nhà nước chiếm phần lớn, một lượng vốn không nhỏ được dành cho bảo lãnh cho vay, bảo lãnh tín dụng, tiếp đến là các gói kích cầu, miễn thuế cho doanh nghiệp nhằm thúc đầy nền kinh tế phát triển . Nhìn chung mức vốn đầu tư kế hoạch năm 2011 của hầu hết các Bộ, ngành có mức tăng khoảng 8 – 10% so với kế hoạch năm 2010. Tuy nhiên, mức vốn bố trí này mới đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho các công trình, dự án quan trọng chuyển tiếp và một số nhiệm vụ cấp bách mới phát sinh. Như vậy theo thời gian, nguồn vốn huy động cho hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam có gia tăng đáng kể, đòi hỏi việc quản lí và sử dụng nguồn vốn hợp l‎í để phát huy hiệu quả, góp phần vào nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân. 2.2. Thực trạng chung về công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam Đầu tư là hoạt động nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên không phải cứ đầu tư nhiều thì nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao, vì điều này còn phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Thực tế đã chứng minh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giảm dần: năm 1995 đầu tư 3 đồng tăng trưởng 1 đồng, năm 2003 đầu tư 5 đồng tăng trưởng 1 dồng, năm 2005 đầu tư 7 đồng mới tăng trưởng 1 đồng. Hiệu quả sử dụng vốn qua các năm Hệ số Icor tăng nhanh từ năm 2008, với tốc độ chóng mặt cho thấy sự đầu tư kém hiệu quả của nguồn vốn nhà nước trong những năm gần đây. Dàn trải, lãng phí, không hiệu quả là những tính từ quen thuộc gắn liền với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong nhiều năm nay. Nguyên nhân đầu tiên kể đến chính là năng lực quản lý yếu kém sự thoái hóa về đạo đức của một số không ít các chủ dự án và ban quản lý dự án. Mặc dù cải cách công tác quản lý đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã diễn ra trên mọi góc độ trong hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế từ phân cấp quản lý, đến phân bổ, quản lý giá và vấn đề cấp phát, thanh toán vốn đầu tư...   Một vấn đề khác trong cơ chế quản lý là những năm qua, rất nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung. Nhiều điểm sửa đổi giúp cho việc hoàn thiện và chặt chẽ quy chế hơn nhưng lại gây khó cho cơ sở. Nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, thiếu cụ thể, không đồng bộ, hay thay đổi và thiếu chế tài nghiêm minh. Ví dụ, một chủ dự án vừa thực hiện xong một bộ hồ sơ lại phải tiếp tục thay bộ hồ sơ khác vì có một văn bản khác ra đời. Điều này đã làm chậm quá trình thực hiện, chậm quá trình giải ngân. Nếu là cơ chế phải có tính dài hơi, vì vậy, cần có sự chuẩn bị thấu đáo trong quá trình xây dựng cơ chế. Một vấn đề gây ra tình trạng quản lý đầu tư kém hiệu quả là chất lượng quy hoạch và thiếu công khai minh bạch thông tin. Việc quản lý đầu tư theo quy hoạch hiện nay là rất khó. Quy hoạch của Chính phủ cho phép các bộ ngành, địa phương tự phê duyệt. Như vậy, người có đủ thẩm quyền phê duyệt cũng có đủ thẩm quyền quy hoạch, gây ra những vấn đề bất ổn… Bên cạnh đó, trách nhiệm của chủ đầu tư, từ chủ đầu tư cao nhất là Nhà nước đến các bộ ngành và chính quyền các cấp, chưa được thực thi đúng mức thể hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện không đầy đủ và chưa nghiêm túc, lề lối làm việc trong nhiều dự án rất thiếu khoa học. Cơ chế phân công, phân cấp, phối hợp nhiều chồng chéo, không qui rõ trách nhiệm, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát sinh tình trạng cục bộ, bản vị và khép kín… Chúng ta sẽ nhìn qua công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản để thấy rõ thực trạng quản lý hoạt động đầu tư nói chung ở Việt Nam: Sơ đồ dưới đây thể hiện mối quan hệ và nguyên nhân của dàn trải, kéo dài, kém hiệu quả, thất thoát, lãng phí và tổn thất vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ bản. Bên dưới mỗi hiện tượng là các nguyên nhân trực tiếp. Như vậy, đối với mỗi hiện tượng có rất nhiều nguyên nhân, trực tiếp và gián tiếp. Chúng ta sẽ xem xét về các văn bản pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư và sự thực hiện các quy định đó trong thực tế để có cái nhìn chính xác và khách quan về hiện trạng công tác quản lí hoạt động đầu tư giai đoạn hiện nay. Hệ thống văn bản quy định về tổ chức quản lý dự án đầu tư còn thiếu tính thống nhất. Các quy định về phân loại dự án đầu tư còn có sự khác nhau giữa Luật xây dựng và Luật đầu tư. Theo Luật xây dựng, việc phân loại dự án căn cứ vào yếu tố quy mô vốn và theo ngành kinh tế kỹ thuật. Luật đầu tư chỉ căn cứ vào quy mô vốn, không phân biệt dự án thuộc ngành nào. Thẩm quyền xem xét và quyết định được quy định trong các luật này cũng khác nhau. Một số quy định về cơ cấu tổ chức, bộ máy nhân sự của Ban quản lý dự án chưa rõ ràng; sự phân định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa chủ đầu tư và các Ban quản lý dự án chưa có sự thống nhất, còn nhiều chồng chéo. Một số các quy định về chi phí quản lý dự án không phù hợp với thực tế của hoạt động đầu tư xây dựng, gây khó khăn cho việc thi hành . Cơ chế quản lý đầu trong giai đoạn hiện nay : Tiến hành tái cơ cấu hoạt động đầu tư và tập trung vốn cho các dự án quan trọng Thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các địa phương triển khai việc cắt giảm đầu tư công, rà soát và loại bỏ các dự án kém hiệu quả, tái cơ cấu hoạt động đầu tư năm 2011. Tái cơ cấu đầu tư bao gồm các nội dung: Tái cơ cấu nguồn vốn đầu tư, tái cơ cấu ngành, lĩnh vực, địa bàn đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. Về phần đầu tư từ ngân sách và đầu tư từ trái phiếu Chính phủ, tổng đầu tư ngân sách trong năm nay của chúng ta vào khoảng 152.000 tỷ đồng và trái phiếu Chính phủ là 45.000 tỷ. Tổng cộng hai nguồn này 197.000 tỷ đồng. Vấn đề lớn nhất không phải là cắt giảm nguồn này. Trong Nghị quyết của Chính phủ đã nêu rất rõ là đối với nguồn đầu tư từ ngân sách chưa đặt vấn đề cắt giảm mà chỉ bố trí, sắp xếp để đầu tư hiệu quả hơn bởi nguồn vốn này chủ yếu phục vụ các mục tiêu: xóa đói, giảm nghèo, Chương trình 135, đầu tư cho các vùng sâu, vùng xa, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cũng như đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục, y tế. Đây chính là những lĩnh vực đang là ưu tiên của Chính phủ, vì vậy, chúng ta chỉ xem xét bố trí hợp lý hơn. Như vậy, sẽ tập trung đầu tư vào các công trình có hiệu quả, những công trình có thể hoàn thành ngay trong năm 2011 hoặc đầu năm 2012 để sớm đưa vào sử dụng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế. Hiện nay, vấn đề lớn nhất trong lạm phát thời kỳ này là tăng trưởng tín dụng quá cao. Biểu đồ: tăng trưởng tín dụng qua các năm Tổng tăng trưởng tín dụng của năm 2010 là 31%, trong khi tăng trưởng tín dụng ở mức an toàn chỉ khoảng 23% đến 25% hàng năm. Mục tiêu đặt ra là tăng trưởng tín dụng vào khoảng dưới 20%. Như vậy, sẽ phải cắt giảm khoảng 11% so với con số tăng trưởng tín dụng của năm 2010 và các khoản này tập trung chủ yếu từ nguồn tín dụng đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, khi xem xét vốn đầu tư sẽ tính đến các nguồn vốn đem ra đầu tư ở nước ngoài, bởi chuyển nguồn vốn ra nước ngoài trong giai đoạn hiện nay sẽ gây ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế. Trong việc điều chuyển cắt giảm vốn sẽ khuyến khích các địa phương tăng cường giải ngân các nguồn vốn ODA bởi đây là nguồn bổ sung ngoại tệ cho đất nước, giúp cân bằng nguồn ngoại tệ chung. Chính phủ đang đẩy mạnh huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Thông qua việc hoàn thiện thể chế, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hoá để thu hút thêm nguồn lực của các thành phần kinh tế vào việc phát triển kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng; không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường. Về địa bàn đầu tư, một mặt khuyến khích đầu tư vào các vùng trọng điểm, vùng động lực, tạo điều kiện cho các vùng này phát triển, có tác động “kéo” toàn bộ nền kinh tế; đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, các huyện nghèo để chuyển đổi cơ cấu kinh tế và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tốc độ chung. Như vậy, tái cơ cấu nguồn vốn, tái cơ cấu ngành, lĩnh vực, địa bàn đầu tư đã bao hàm nội dung nâng cao hiệu quả đầu tư. Ngoài các nội dung có tính chất tạo tiền đề như trên, việc nâng cao hiệu quả đầu tư còn bao gồm những nội dung có tính chất trực tiếp khác. Trước hết cần làm tốt hơn nữa công tác quy hoạch có tầm nhìn dài hạn, đồng bộ, toàn diện giữa ngành và cấp, tránh dàn trải, phân tán. Một điều quan trọng là về cơ chế cần tạo cho vốn đầu tư, tài sản phải có chủ cụ thể, tránh vô chủ, nhiều chủ, nhầm chủ. Đẩy nhanh tiến độ thi công, đưa nhanh công trình vào sử dụng, thu hồi vốn nhanh, tránh lãng phí, thất thoát. Tập trung cho ngành sản xuất chính; tránh chạy lòng vòng trên các kênh gây nên sự “nóng, lạnh”, rủi ro trên các kênh này. Tăng cường công tác giám sát hoạt động đầu tư. Hiện nay, do không có những quy định rõ ràng và tổ chức thực hiện công tác thanh tra một cách có hệ thống nên hoạt động thanh tra dự án đầu tư không tránh khỏi sự chồng chéo, trùng lặp, thiếu cơ sở pháp lý cho sự phối hợp chặt chẽ, không phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn ngành Thanh tra và hậu quả chung là vừa lãng phí nguồn lực công, vừa gây khó khăn cho các chủ đầu tư và doanh nghiệp, nhưng cũng dễ bỏ sót đối tượng, bỏ sót sai phạm. Nhà nước đang thực hiện việc tăng cường kiểm tra, giám sát, thực hiện tất cả các khâu trong quá trình đầu tư; kiên quyết điều chuyển vốn từ các công trình không có khả năng, hoặc khối lượng thực hiện thấp sang dự án cần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành trong năm 2011... Các Đoàn thanh tra liên ngành do Thanh tra Chính phủ chủ trì cùng các Bộ Kế hoạch Đầu tư, Tài chính, Xây dựng thành lập ngay các Đoàn thanh tra liên ngành của Chính phủ để tiến hành thanh tra một số công trình, dự án trọng điểm của các Bộ, ngành, địa phương, đơn vị có sử dụng nguồn vốn lớn của Nhà nước, vốn vay, tài trợ của nước ngoài, trong đó tập trung vào các công trình, dự án thuộc lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục. 2.3Đánh giá thực trạng sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam 2.3.1. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ nhất        “Quy mô tiền vốn, vật tư lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn” 2.3.1.1. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng tiền vốn đầu tư 2.3.1.1.1 Khả năng tạo lập huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng tăng     Hiện nay khả năng thu hút và tạo lập vốn của nền kinh tế nước ta đã được nâng lên rất nhiều.Trước đây, nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp các doanh nghiệp nhà nước chiếm hầu hết các ngành chủ chốt của nền kinh tế nhưng lại làm ăn không hiệu quả, luôn xảy ra tình trạng thua lỗ. Chính vì vậy mà nền kinh tế luôn trong tình trạng trì trệ, không có khả năng tích luỹ, đó là chưa kể đến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn và chính sách cấm tư nhân hóa do đó người dân không có tiền để đầu tư hoặc có tiền nhưng lại là những đồng tiền nhàn rỗi.        Tuy nhiên khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay có những dấu hiệu tốt. Từ năm 1986 khi đường lối cơ chế được thay đổi, toàn bộ nền kinh tế đã chuyển sang một giai đoạn mới. Trước tiên là luật doanh nghiệp cho phép thành lập các công ty tư nhân, cho phép phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và do đó nâng cao tính cạnh tranh của các đơn vị trong nền kinh tế. Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và do đó các doanh nghiệp này tự chủ về sản xuất làm ăn hiệu quả hơn, từ đó nguồn vốn dùng để tích luỹ mở rộng sản xuất tăng sản lượng ngày càng tăng. Đó là chưa kể đến khi cho phép các thành phần kinh tế tư nhân phát triển đã tạo lập một nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Nhà nước luôn có chủ trương khuyến khích xã hội hoá huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi. Với sự gia tăng không ngừng của các ngân hàng thương mại, nguồn vốn tiết kiệm của nhân dân ngày càng nhiều góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế.           Bước ngoặt nữa đó là sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987 đã thúc đẩy các nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam. Khi luật đầu tư nứơc ngoài ra đời, chúng ta đã có những cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam và chúng ta đã tạo lập được một kênh nguồn vốn thực sự quan trọng đó là nguồn vốn FDI. Bên cạnh đó, nhờ chính sách bình đẳng, Việt Nam luôn muốn quan hệ với tất cả các nước trên thế giới với quan điểm bình đẳng đôi bên cùng có lợi. Cùng với sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức, các diễn đàn trên thế giới đã nâng cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì vậy mà chúng ta đã giành được sự quan tâm gíup đỡ của nhiều nước, đặc biệt là nguồn vốn ODA, các nguồn vốn vay hỗ trợ từ các tổ chức tài chính như IMF,WB… 2.3.1.1.2 Tình hình các nguồn vốn cho đầu tư phát triển Vốn viện trợ phát triển chính thức ODA Sau hơn 10 năm nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, đến nay Việt Nam đã nhận được tổng số gần 35 tỷ USD vốn viện trợ phát triển ODA. Con số vốn đầu tư và vốn giải ngân trong thời gian từ năm 2000 đến 2010 như sau: Năm Vốn cam kết ( tỷ USD) Vốn giải ngân ( tỷ USD) Tỉ lệ giải ngân (%) 2000 2,4 1,65 68,75 2001 2,4 1,5 62,5 2002 2,5 1,528 61,12 2003 2,83 1,421 50,21 2004 3,44 1,65 45,97 2005 3,747 2,1 56,04 2006 3,9 1,78 45,64 2007 5,43 2 37,04 2008 6,4 2,35 36,79 2009 6,131 4,105 66,95 2010 4,093 3,5 85,51 2011 7,88 - - Lượng vốn ODA cam kết tăng không ngừng trong những năm vừa qua. Đây là nguồn vốn rất lớn, nếu được giải ngân hiệu quả sẽ tạo nên sự thay đổi lớn cho nền kinh tế, xã hội nước nhà. Đây là cơ hội cho Việt Nam đầu tư nâng cao cơ sở hạ tầng cũng như cải thiện máy móc, công nghệ cũng như trình độ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, có sự chênh lệch khá lớn giữa lượng vốn cam kết và lượng vốn giải ngân. Xét riêng trong thời kì 1993-2007 có thể thấy như sau: Nhìn chung, lượng vốn giải ngân trong thời gian thay đổi quanh mốc 50% lượng vốn cam kết. Đây là tỉ lệ rất khiêm tốn, thể hiện khả năng phân bổ cũng như khả năng quản lí lượng vốn đầu tư của nước ta còn hạn chế. Vốn ODA giải ngân đã tăng hơn 4 lần trong thời gian từ 1993 đến 2007. Hầu hết sự gia tăng dài hạn của vốn giải ngân là ở vốn vay hơn là vốn không hoàn lại. Gần một nửa (49%) nguồn vốn vay có lãi suất thấp hơn 1%/ năm và thời gian trả nợ ít nhất là 30 năm, trong đó có 10 năm ân hạn. Một phần ba nguồn vốn vay là với lãi suất hàng năm từ 1% đến 2,5% (MPI, 2007). Hơn nữa, phần lớn khoản vay ODA sẽ được xem xét trong điều kiện hạn chế khả năng trả nợ bên ngoài của Việt Nam. Tổng nợ quy đổi của Việt Nam khoảng 37%GDP năm 2007 (MPI, 2007), điều này cho thấy không có dấu hiệu nguy hiểm của khủng hoảng nợ ở Việt Nam. Vốn ODA được phân bổ chủ yếu theo sự ưu tiên mà chính phủ đặt ra cho các ngành kinh tế. Tuy nhiên, sự gia tăng vốn ODA này cũng tạo sức ép không nhỏ cho khả năng hoàn trả theo các điều khoản đã ký kết, đặc biệt khi các điều kiện vay trở nên kém ưu đãi hơn do Việt Nam bước sang giai đoạn quốc gia có thu nhập trung bình. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA trong giai đoạn vừa qua của Việt Nam cũng thấp hơn so với tỷ lệ giải ngân trung bình trong khu vực. Nguyên nhân chính cho vấn đề này chủ yếu do từ trước tới nay ODA được sử dụng cho các dự án công lớn hoặc cho vay lại. Bản thân thủ tục hành chính của khu vực đầu tư này hiện còn nhiều bất cập và ngăn cản khả năng quay vòng nhanh nguồn vốn ODA. Như vậy, việc xem xét mở rộng diện được hưởng thụ vốn ODA với các khu vực ngoài nhà nước, khu vực dân doanh để thực hiện các chương trình, dự án vì lợi ích công là điều cần thiết để Việt Nam có thể xóa bỏ rào cản đối với các nguồn vốn mới có chi phí vay vốn cao hơn. Bảng trên cho thấy biến động luồng vốn ODA trong 4 giai đoạn gần đây nhất. Nếu dựa trên số liệu tuyệt đối, lượng vốn ODA cam kết có xu hướng tăng trưởng mạnh qua từng giai đoạn. Đặc biệt, trong giai đoạn 2006-2009 (4 năm) cả 3 hình thức vốn ODA cam kết, ODA ký kết và ODA giải ngân đều đang tăng trưởng. Nếu bổ sung thêm số liệu năm 2010, sự tăng trưởng ở cả ba loại hình sẽ rõ ràng hơn so với giai đoạn 2001-2005. Sự phân bổ vốn giải ngân ODA tương ứng với các lĩnh vực được thể hiện trong Hình 3. Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, năng lượng và công nghiệp, là những lĩnh vực có dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, chiếm tỷ lệ lớn nhất (42%), tiếp theo là nông nghiệp, phát triển tài nguyên và nông thôn (21%), ODA phân bổ cho giáo dục, đào tạo, y tế, môi trường và công nghệ chiếm tỉ lệ thấp hơn (12%). Các lĩnh vực còn lại chiếm khoảng 18% tổng số vốn ODA giải ngân. Sự gia tăng đầu tư công trong năm 2009 chủ yếu tập trung cho ngành giao thông vận tải, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư cho y tế. Tính riêng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho ngành giao thông đạt hơn 30 nghìn tỷ đồng năm 2009, và dự kiến trong năm 2010 tiếp tục giải ngân đầu tư với lượng vốn lên tới 70 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng gần 10% GDP. Ngoài nguồn vốn theo kế hoạch của Chính phủ, ngành giao thông còn được hỗ trợ bởi một lượng vốn không nhỏ từ ODA. Vốn FDI Sau năm 2008 – một năm kỷ lục về FDI đăng ký, lượng vốn này đăng ký vào Việt Nam trong năm 2009 sụt giảm mạnh còn khoảng 20,5 tỷ USD, bằng tương đương mức đăng ký năm 2007. Tuy nhiên, một đặc điểm đáng ghi nhận trong biến động vốn FDI năm nay đó là lượng vốn thực hiện vẫn đạt mức cao ước khoảng 10 tỷ USD, tăng vượt mức kế hoạch 2 tỷ USD trong bối cảnh khủng hoảng diễn ra khá trầm trọng nửa đầu năm 2009. Lượng vốn đăng ký thấp hơn, nhưng lượng vốn giải ngân vẫn ổn định khiến tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký tăng lên đáng kể trong cả năm 2009. Tỷ lệ này thể hiện chất lượng chọn lọc dự án tham gia vào Việt Nam có tiến bộ hơn hẳn so với các năm trước. Riêng trong năm 2009, sự biến động vốn FDI hàng tháng rất lớn như biểu đồ trên. Trong suốt hai quý đầu năm, lượng vốn FDI đạt mức thấp kỷ lục. Lượng vốn FDI giải ngân vào tháng 4 chủ yếu thực hiện từ các dự án đã đăng ký năm 2008 và 2007. Ngay khi đáy khủng hoảng được tạo lập trong khoảng giao giữa quý I và quý II, FDI vào Việt Nam vẫn ở những con số nhỏ giọt và thận trọng. Chỉ khi nhìn thấy triển vọng kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng trong quý III, lượng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam mới bắt đầu gia tăng đáng kể, mạnh nhất trong hai tháng 10 và tháng 11. Trong đó, lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống tập trung vốn FDI đăng ký nhiều nhất với 8,8 tỷ USD, lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với 7,6 tỷ USD, tiếp đó là và sau cùng là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 2,97 tỷ USD. Trong năm nay, Hoa Kỳ là nước dẫn đầu trong cả lượng vốn đăng ký mới (5,9 tỷ USD) và vốn đăng ký tăng thêm (3,9 tỷ USD). Về chất lượng vốn đầu tư, lượng vốn đầu tư năm 2009 chủ yếu chú trọng đầu tư chiều rộng ( bất động sản và dịch vụ) trong khi mảng đầu tư theo chiều sâu tạo nền tảng cơ bản cho nền kinh tế vẫn chưa được để ý đúng mức. Vốn của người Việt Nam ở nước ngoài qua kênh kiều hối Nếu như lượng kiều hối chuyển về nước thống kê được năm 2000 mới đạt 1,757 tỷ USD, năm 2001 là 1,82 tỷ USD, năm 2003 là 2,154 tỷ USD thì năm 2004 tăng lên 3,2 tỷ USD, năm 2005 đạt gần 4,0 tỷ USD, năm 2006 đạt 5,2 tỷ USD và năm 2007 đạt trên 6,5 tỷ USD. Như vậy, lượng vốn của người Việt Nam chuyển về nước cũng tăng đột biến và tương đương vốn FDI thực hiện cũng trong năm 2007. Có thể mô hình hóa số liệu trên qua bảng sau: Hình: Lượng kiều hối gửi về trong khoảng thời gian 2000-2007 Để sử dụng có hiệu quả nguồn kiều hối cần : Một là, đáp ứng những nguyện vọng, lợi ích chính đáng của kiều bào như xem xét vấn đề thị thực nhập xuất cảnh, mở rộng đối tượng bảo lãnh hồi hương, mở rộng đối tượng được mua nhà, rút ngắn thời gian giải quyết thôi quốc tịch và xem xét khả năng cho phép kiều bào có hai quốc tịch... giải quyết tốt các vấn đề tâm linh, nhân đạo. Hai là, tích cực hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ồn định và phát triển, giữ gìn bản sắc dân tộc thông qua việc mở rộng các hoạt động giao lưu nhiều mặt giữa cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tiếp tục tổ chức Trại hè, mở các lớp tiếng Việt cho thanh thiếu niên kiều bào, hỗ trợ xây dựng trường học, cung cấp sách giáo khoa. Khuyến khích cộng đồng phát huy vai trò cầu nối hữu nghị và quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế. Ba là, cần nghiên cứu đánh giá cụ thể tình hình cộng đồng của từng nước, từng khu vực nhằm khuyến khích, động viên kịp thời những nhân tố tích cực, phát huy thế mạnh của cộng đồng, hạn chế mặt tiêu cực, tranh thủ tối đa đóng góp của kiều bào cho sự nghiệp phát triển đất nước. Bốn là, tạo khuôn khổ pháp lý nhằm bảo hộ và tạo điều kiện cho doanh nhân, trí thức kiều bào về nước làm việc, đầu tư kinh doanh; khuyến khích việc hình thành các hiệp hội chuyên ngành, mở rộng hợp tác trong cộng đồng và với trong nước theo tinh thần “ích nước lợi nhà”. Cuối cùng và cũng rất quan trọng là tiếp tục củng cố tổ chức và nhân sự của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả; tăng cường biên chế làm công tác cộng đồng ở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nơi có đông người Việt sinh sống; tăng cường kinh phí, cải thiện cơ sở vật chất, điều kiện làm việc để đáp ứng yêu cầu ngày càng gia tăng của công tác vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạo cơ chế phối hợp công tác giữa Uỷ ban và các địa phương, các bộ, ngành, giữa trong nước và ngoài nước. Huy động vốn trên thị trường chứng khoán Theo Bộ Tài chính, vốn hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam là 669.000 tỉ đồng (39 tỉ USD), tương đương 55% GDP của cả năm 2009. So với thời điểm cuối năm 2009 (225 nghìn tỷ đồng), mức vốn hoá đã tăng gần gấp 3 lần. Việt Nam hiện có 105 công ty chứng khoán, 46 công ty quản lý quỹ, 382 quỹ đầu tư nước ngoài và 8 ngân hàng lưu ký. Số lượng tài khoản nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán đã lên tới 730.000, tăng 1/3 so với cuối năm 2008. Mức tăng này cũng là con số ấn tượng so với mức tăng bình quân của 9 năm lịch sử của thị trường, tính từ thời điểm Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM đi vào hoạt động (ngày 20/7/2000). Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, tổng giá trị huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán trong năm nay chỉ là 17.700 tỉ đồng (trên 1 tỉ USD Mỹ), bằng khoảng 70% so với năm 2009. Sự vận động trong năm 2009 của VNI tạo thành 4 giai đoạn xu thế chính với 2 quá trình tăng mạnh và 2 quá trình giảm, phản ánh khách quan các sự kiện kinh tế cũng như tâm lý, tập quán đầu tư của các thành phần thị trường: Giai đoạn 1 (cuối tháng 2 tới giữa tháng 6): Đây là quá trình các chỉ số chứng khoán Việt Nam tăng trưởng mạnh khi thị trường được hỗ trợ bởi những thuận lợi đặc thù của giai đoạn: + Sau Tết Nguyên Đán, VN-Index bắt đầu rơi điểm sâu và đạt mức đáy 235,5 điểm vào cuối tháng 2/2009 – mức điểm sâu nhất trong 4 năm của chỉ số này. Thời điểm này, thị trường có mức P/E thấp (xấp xỉ 8), với không ít mã chứng khoán có thị giá dưới giá trị sổ sách, đã tạo ra lợi thế của một thị trường bị đánh giá thấp, ẩn chứa một sức bật tiềm năng. + Từ cuối Quý I/2009, dồn dập những tín hiệu tích cực từ nền kinh tế thế giới cũng như từ những nỗ lực phục hồi kinh tế của Việt Nam (ban hành gói kích cầu trị giá 8 tỉ USD, nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản...) đã mang lại cho nhà đầu tư sự kỳ vọng lớn về một kịch bản khả quan cho kinh tế Việt Nam 2009 Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Theo báo cáo của Ngân hàng phát triển Việt Nam ,VDB đang quản lý cho vay, thu hồi nợ vay 5.475 dự án tín dụng đầu tư phát triển từ nguồn vốn vay trong nước, với tổng số vốn theo hợp đồng tín dụng đã ký kết là 99.900 tỷ đồng, với số vốn đang dư nợ là 48.810 tỷ đồng, riêng dự án nhóm A chiếm 41%. Bên cạnh đó, VDB cũng đang quản lý 336 dự án tín dụng đầu tư phát triển từ nguồn vốn vay ODA, với tổng số vốn vay theo hợp đồng đã ký kết là trên 6,6 tỷ USD, dư nợ hơn 47.350 tỷ đồng. Huy động vốn của hệ thống ngân hàng Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 12/2010 ước tăng 1,83% so với cuối tháng 11/2010 và tăng 27,2% so với cuối năm 2009 Tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng ước tăng 2,28% so với cuối tháng 11/2010 và tăng 29,81% so với cuối năm 2009. Trong khi đó, tổng phương tiện thanh toán cũng ước tăng 1,87% so với cuối tháng 11/2010 và tăng 25,3% so với cuối năm 2009; trong đó, tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tăng 2,14% và 15,01%. Cả 2 chỉ tiêu này đều vượt mục tiêu tăng trưởng 20-25% được Chính phủ đề ra hồi đầu năm. Biểu đồ: Tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng huy động toàn hệ thống ngân hàng năm 2009 Thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND, từ ngày 15/12/2010, lãi suất huy động VND bình quân ở mức 12,44%/năm; lãi suất cho vay bình quân ở mức 14,96%/năm (cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 12-14%/năm, lĩnh vực khác là 15-18%/năm). Lãi suất bằng USD ít biến động so với tháng 11/2010, hiện lãi suất huy động USD bình quân là 4,08%/năm, lãi suất cho vay USD bình quân là 6,26%/năm. Biến động lãi suất năm 2010 Trên thị trường chính thức, tỷ giá bình quân liên ngân hàng ổn định ở mức 18.932 VND/USD, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại dao động trong khoảng 19.495-19.500 VND/USD. Tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do có xu hướng giảm nhưng vẫn cao hơn tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại, cuối tháng 12/2010 ở mức 20.980 – 21.080 VND/USD. Giá vàng trong tháng 12/2010 biến động theo giá vàng thế giới và ở mức 35,95 – 36,07 triệu đồng/lượng. 2.3.1.1.3 Một số bất cập trong việc huy động vốn hiện nay và giải pháp khắc phục Các kênh huy động bộc lộ một số điểm bất cập như sau: Một là, công nghệ ngân hàng hiện đại và dịch vụ phát triển, nhưng so với yêu cầu thì vẫn chưa đáp ứng được.     Hai là, trong điều kiện chỉ số tăng giá tiêu dùng CPI còn cao, giá vàng biến động lớn, tỷ giá đô la Mỹ trên thị trường nhìn chung ổn định, tuy nhiên cá biệt trên thị trường tự do tỷ giá VND/USD có thời điểm biến động lớn,… bên cạnh đó nguồn ngoại tệ tiền mặt từ kiều hối, từ người Việt Nam làm ăn và sinh sống ở nước ngoài chuyển về, từ khách du lịch quốc tế, từ buôn lậu còn lớn… một lượng lớn người dân vẫn cất trữ và sử dụng ngoại tệ, song cơ chế điều hành một số công cụ chính sách tiền tệ chưa linh hoạt.     Ba là, việc phối hợp giữa kênh huy động vốn của hệ thống ngân hàng và kênh huy động vốn của ngân sách chưa đồng bộ, nên không những hiệu quả huy động vốn chưa cao, mà hiệu quả sử dụng vốn ngân hàng huy động được cũng hạn chế.      Bốn là, thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà phát triển nhưng chưa ổn định và chưa bền vững. Bên cạnh đó thị trường chứng khoán Việt Nam so với trình độ chung của các nước thì mới ở giai đoạn đầu, mới chủ yếu là các hoạt động mua đi, bán lại, đầu cơ chứng khoán, cổ phiếu trên thị trường thứ cấp.     Năm là, vốn đầu tư qua kênh ngân sách bị thất thoát, lãng phí, tình trạng tham ô, tham nhũng đáng lo ngại. Đặc biệt nguồn vốn ODA chuyển qua kênh ngân sách đang tạo ra sự lo ngại của dư luận, của các nhà tài trợ quốc tế về tình trạng tham nhũng, thất thoát,… nguồn vốn này. 2.3.1.2. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn nhân lực Theo nhận xét chung của các doanh nghiệp, về mặt kiến thức chuyên môn, sinh viên hiện nay được trang bị khá tốt, tốt hơn trước nhiều. Với vốn kiến thức đó, họ có được nền tảng ban đầu để phát triển khi ra làm việc. Đã có không ít sinh viên tìm được chỗ đứng vững chắc trong các công ty nước ngoài. Hiện nay hầu hết các vị trí chủ chốt đều do người Việt được đào tạo trong nước từ các trường như đại học Bách Khoa, Đại học Kinh tế, đại học Ngoại thương… đảm trách. Và chính họ đã góp phần quan trọng đưa  công ty có kết quả kinh doanh tốt. Tuy nhiên, theo các nhà tuyển dụng, những khuyết điểm của nhiều sinh viên khiến cho doanh nghiệp ngại khi tuyển dụng. Đó là tâm lý hay thay đổi công việc theo ý thích, không có tầm nhìn dài hạn, chỉ nghĩ đến việc làm để kiếm sống hôm nay, dễ nản lòng khi kết quả không như ý muốn và chưa biết cách tự thể hiện. Ngoài các điểm yếu có liên quan đến tâm lý nêu trên, phần lớn sinh viên ra trường còn yếu kém về kỹ năng làm việc và kinh nghiệm thực tế mà một trong các nguyên nhân chính là do chương trình đào tạo ở trường thường nặng về lý thuyết, ít thực hành; không quen làm việc theo nhóm hoặc chưa biết cách diễn đạt, trình bày ý tưởng của mình trước tập thể… Vấn đề đào tạo nghề: Tính đến nay, nguồn nhân lực được đào tạo khoảng 8,8 triệu người chiếm 21%. Đó là một tỷ lệ còn rất thấp so với yêu cầu. Cũng có nghĩa là, số người chưa qua đào tạo, làm lao động thủ công còn quá lớn, xấp xỉ 80%. Số người chưa qua đào tạo tập trung ở nông thôn nhiều (gần 88% nguồn nhân lực ở nông thôn). 2.3.1.3. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn vật tư Giá vật tư xây dựng, đặc biệt là thép, xi măng... liên tục tăng cao kể từ đầu tháng 4 đã khiến cho nhiều đơn vị xây dựng lâm vào tình thế hết sức khó khăn. Hầu hết các đơn vị đều cho rằng, giá vật tư đã tăng không phanh, vượt quá gần 20% so với dự phòng... Nhiều chủ đầu tư, nhà thầu đã phải ngừng dự án hoặc thi công cầm chừng để chờ giá vật tư đi xuống... Kể từ đầu năm, giá vật tư xây dựng đã liên tục đà tăng. Giá thép gây cú sốc đầu tiên khi chỉ từ đầu tháng 3 tới nay đã liên tục 4 lần điều chỉnh tăng, giá thép hiện tại trên thị trường bán lẻ đã lên tới gần 16 triệu đồng/tấn. Giá xi măng cũng tăng khoảng 15%, giá gạch tăng 20%... Đáng nói hơn, theo như dự tính của các doanh nghiệp, giá vật tư sẽ không dừng lại ở đó mà vẫn tiếp tục leo thang từng ngày và có thể đạt đỉnh vào cuối tháng 4. Khi có sự biến động về giá vật tư thì các nhà thầu vẫn là đối tượng chịu nhiều rủi ro nhất, đặc biệt là những nhà thầu nhận đấu thầu trọn gói. Sự leo thang giá vật tư chóng mặt đang khiến hàng trăm đơn vị xây dựng nhỏ lâm vào tình thế lao đao vì vốn. Vốn dĩ không có tiềm lực mạnh về tài chính, nay lại khó tiếp cận vốn vay ngân hàng (hoặc vay với lãi suất rất cao), nhiều đơn vị đã phải ngừng dự án hoặc không dám nhận đấu thầu những công trình có nguồn đầu tư lớn. Không ít dự án sẽ phải tạm ngừng hoặc thi công châm chạp vì các nhà thầu còn chưa kịp trở tay trước tình trạng biến động giá vật tư. Không ít doanh nghiệp xây dựng nhỏ sẽ phải lao đao "vượt cạn". Tâm lí thi công cầm chừng để chờ giá vật tư đi xuống sẽ khiến cho nhiều công trình chậm tiến độ. 2.3.2. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ hai “Thời kỳ đầu tư kéo dài” 2.3.2.1. Thực trạng về lập kế hoạch vốn đầu tư cho thời kỳ đầu tư kéo dài (Phân kỳ đầu tư) Bộ Kế hoạch và đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai quyết định của Thủ tướng Chính phủ về sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2008 nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Đồng thời thực hiện công điện số 863/CĐ-TTg ngày 6/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ đã thành lập 11 đoàn kiểm tra một số bộ, ngành, tập đoàn kinh tế và các địa phương, hệ thống các ngân hàng thương mại. Trên cơ sở báo cáo và kết quả kiểm tra của các đoàn kiểm tra các bộ, ngành, địa phương, tình hình thực hiện Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2008 và Công điện số 863/CĐ-TTg ngày 6 tháng 6 năm 2008 như sau: Tổng hợp từ báo cáo của 36 bộ, ngành, 64 tỉnh, thành phố như sau (không bao gồm các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước): Tổng số công trình, dự án (sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước) hoãn khởi công năm 2008, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.968 dự án với tổng số vốn là 5.991 tỷ đồng, bằng 8,0% kế hoạch năm 2008, trong đó: Số dự án hoãn khởi công và ngừng triển khai thực hiện là: 1.203 dự án, với số vốn đã bố trí kế hoạch năm 2008 là 1.881 tỷ đồng. Số dự án giãn tiến độ thực hiện là 765 dự án với tổng số vốn là 4.111 tỷ đồng. Các dự án hoãn khởi công, ngừng triển khai và giãn tiến độ trên đây đều là các dự án nhóm B và nhóm C, không có dự án nhóm A. Kết quả thực hiện việc sắp xếp lại các công trình, dự án của các bộ và các cơ quan ở Trung ương: Qua tổng hợp từ 36 đơn vị đã gửi báo cáo đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng số công trình, dự án hoãn khởi công, ngừng triển khai và giãn tiến độ mà các bộ ngành đã thực hiện sắp xếp lại theo Quyết định số 390/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là 84 dự án, với tổng số vốn là 330 tỷ đồng, trong đó: - Số công trình, dự án hoãn khởi công và ngừng triển khai thực hiện là 51 dự án, với số vốn là 177 tỷ đồng. - Số công trình, dự án giãn tiến độ là 33 dự án với tổng số vốn là 152,6 tỷ đồng. Một số bộ, ngành đã thực hiện việc sắp xếp lại các công trình, dự án của đơn vị mình tương đối tốt như: Bộ Quốc phòng với 17 dự án, tổng số vốn của các dự án hoãn khởi công, ngừng triển khai là 65 tỷ đồng; Bộ Công an với 8 dự án, số vốn là 41,9 tỷ đồng; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội với 7 dự án, số vốn là 24,4 tỷ đồng; Bộ Công thương với 7 dự án, số vốn 22,6 tỷ đồng,... Bên cạnh đó, một số bộ, ngành có số vốn kế hoạch năm 2008 lớn nhưng sau khi rà soát theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ không giảm được công trình dự án nào, như: Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Y tế,... Kết quả thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại kế hoạch đầu tư năm 2008 của các địa phương Tổng hợp kết quả rà soát của 64 tỉnh, thành phố như sau: Tổng số dự án điều chỉnh 1.884 dự án, với tổng số vốn đã bố trí kế hoạch năm 2008 là 5.662 tỷ đồng, chiếm 9,1% tổng số vốn giao kế hoạch đầu năm của các địa phương, trong đó: số dự án hoãn khởi công và ngừng triển khai là 1.152 dự án, số vốn 1.704 tỷ đồng; số dự án giãn tiến độ 732 dự án, số vốn 3.958 tỷ đồng.  Tổng số dự án rà soát hoãn khởi công, ngừng triển khai và giãn tiến độ là: 1.884 dự án, chiếm 13,6% tổng số dự án đăng k? theo kế hoạch từ đầu năm của các địa phương (kế hoạch đầu năm 2008 là 13.862 dự án), trong đó: Các dự án hoãn khởi công, ngừng triển khai là 1.152 dự án với tổng mức vốn là 1.704 tỷ đồng. Các dự án hoãn khởi công là do còn nhiều vướng mắc trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư và chưa giải phóng được mặt bằng, một vài dự án chưa có đủ thủ tục đầu tư, bên cạnh đó là do giá của các yếu tố đầu vào tăng mạnh, nên các dự án phải chỉnh tổng mức đầu tư nhiều lần. Các dự án hoãn khởi công được các địa phương rà soát nhằm đảm bảo theo đúng quy định tại Quyết định 390/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các dự án giãn tiến độ đầu tư là 732 dự án với số vốn đầu tư là 3.958 tỷ đồng.  Kết quả thực hiện việc sắp xếp lại các công trình, dự án của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước Thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về yêu cầu các tập đoàn và tổng công ty tiến hành rà soát lại kế hoạch đầu tư năm 2008 để bảo đảm đầu tư có hiệu quả; cắt giảm các công trình đầu tư thuần túy làm trụ sở; tập trung đầu tư cho các công trình dự án phục vụ trực tiếp đến họat động sản xuất ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp. Thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ  các tập đoàn và tổng công ty đã chủ động triển khai thực hiện việc sắp xếp lại kế hoạch vốn của đơn vị mình nhằm cùng Chính phủ thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, bên cạnh các đơn vị tích cực triển khai thực hiện việc sắp xếp lại kế hoạch vốn đầu tư thì còn một số đơn vị chưa thực hiện nghiêm túc và vẫn chưa coi trọng đúng mức việc thực hiện sắp xếp này. Theo báo cáo và kết quả kiểm tra ở 55 tập đoàn và tổng công ty, tình hình thực hiện việc sắp xếp vốn đầu tư của các tập đoàn và tổng công ty như sau: Các tập đoàn và tổng công ty đã rà soát cắt giảm, hoãn khởi công, ngừng triển khai và giãn tiến độ kế hoạch đầu tư năm 2008 là 1.445 dự án với tổng giá trị 33.591 tỷ đồng giảm 12,7 % về giá trị so với kế hoạch ban đầu. Một số tập đoàn, tổng công ty có giá trị cắt giảm lớn, chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư của tập đoàn, tổng công ty đó, như: Tổng công ty Hóa chất Việt Nam cắt giảm 1.456 tỷ đồng, giảm 68,8% so với kế hoạch đầu năm, Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ cắt giảm 6.500 tỷ đồng, giảm 65%, Tổng công ty Thương mại Sài Gòn cắt giảm 2.511 tỷ đồng, giảm 65,03%, Tổng công ty Hàng hải cắt giảm 6.214 tỷ đồng, giảm 52,36%, Tổng công ty Bến Thành cắt giảm 392 tỷ đồng, giảm 56%. Riêng một số tập đoàn, tổng công ty có tỷ trọng cắt giảm không lớn, nhưng giá trị lại rất đáng kể, như: Tập đoàn Dầu khí (6.645 tỷ đồng), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (1.868 tỷ đồng),... Các tập đoàn, tổng công ty đã dự kiến đình hoãn khởi công 214 dự án với tổng số vốn là 3.866 tỷ đồng, bằng 1,4% tổng vốn đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty. Các tập đoàn, tổng công ty đã dự kiến ngừng triển khai 553 dự án với tổng vốn đầu tư là 11.648 tỷ đồng, bằng 4,1% tổng vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp. Các tập đoàn, tổng công ty đã dự kiến giãn tiến độ thực hiện 378 dự án với tổng giá trị cắt giảm khoảng 15.572 tỷ đồng, bằng 5,55% tổng vốn đầu tư. Nhìn chung các tập đoàn và tổng công ty đều có những nỗ lực, chủ động ở mức độ khác nhau trong việc triển khai thực hiện việc rà soát, bố trí lại kế hoạch đầu tư phát triển năm 2008 theo Quyết định 390/QĐ-TTg, đặc biệt là sau khi có công điện số 863/CĐ-TTg của của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, các tập đoàn, tổng công ty mới tập trung vào việc cắt giảm, đình hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư chưa cần thiết hoặc chưa đủ điều kiện đầu tư hoặc có khó khăn trong việc tiếp tục đầu tư mà chưa chú ý đến việc lập kế hoạch cụ thể tập trung vốn để đẩy nhanh tiến độ đối với các dự án trọng điểm, những dự án sắp hoàn thành nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trong bối cảnh giá cả tăng nhanh, cung ngoại tệ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp ngày càng thấp.  Đầu năm 2010, theo số liệu rà soát sơ bộ thì mới có 30 bộ, 63 tỉnh, thành và 12 tập đoàn, Tổng công ty nhà nước cắt giảm được 1.387 dự án, với tổng số vốn cắt giảm gần 3.400 tỉ đồng. Hiện vẫn còn đến 22 bộ, ngành chưa gửi báo cáo thực hiện cắt giảm và điều chuyển vốn kế hoạch năm 2011, trong đó có một số đơn vị sử dụng vốn khá lớn như các bộ: GTVT, Quốc phòng, Công an, Xây dựng... Hiện nay, cách thức tiến hành rà soát, cắt giảm các dự án đầu tư vẫn chủ yếu giao cho các địa phương, bộ, ngành chủ động cắt giảm, theo các tiêu chí đã định. Việc cắt giảm sẽ không phải là Chính phủ điều chuyển những dự án này về trung ương hoặc cắt cho tỉnh khác, mà dồn vốn cho các dự án hiệu quả hơn cũng của tỉnh, bộ ngành đó. Điều này làm cho hiệu quả đầu tư được nâng lên. Thay vì số vốn ít ỏi của địa phương bị dàn trải quá mỏng sẽ không phát huy hiệu quả đầu tư, thì việc bố trí vốn tập trung cho các công trình, dự án có khả năng hoàn thành trong năm, để đưa vào sử dụng sẽ đảm bảo hiệu quả.   Ðể tiếp tục thực hiện nghiêm túc, triệt để và hiệu quả chủ trương cắt giảm đầu tư, còn nhiều việc phải làm. Trong đó, có không ít vấn đề đáng lưu ý: Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, cho nên phần lớn các dự án thuộc lĩnh vực này đều mang tính chất cấp thiết. Nhân đợt rà soát lần này, cần xác định rõ hơn tiêu chí về thứ tự ưu tiên, nếu diện ưu tiên quá rộng, khó tránh khỏi đầu tư dàn trải trong bối cảnh nguồn vốn hạn hẹp. Trên cơ sở đó, kiên quyết ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ các công trình, dự án kém hiệu quả, chứ không chỉ là những dự án nhỏ và vốn đầu tư ít (theo con số tổng hợp sơ bộ nói trên, nếu tính bình quân mỗi dự án cắt giảm chỉ có giá trị gần 2,5 tỷ đồng). Ðồng thời, điều chuyển vốn, tập trung đầu tư, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, thi công dứt điểm các dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011. Mặt khác, kết hợp nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công, nâng cao chất lượng công trình; ngăn chặn tình trạng thất thoát, lãng phí, tiêu cực... Trường hợp dự án dở dang chưa thể làm tiếp, cần chọn điểm dừng thi công thích hợp, tiện cho việc nghiệm thu, thanh toán, 'bảo quản, đóng gói' công trình, hạn chế chi phí phát sinh và khó khăn đối với dân cư trên địa bàn, nhất là các dự án giao thông. Người lao động xây dựng, các doanh nghiệp và nhà thầu chia sẻ khó khăn chung, lên phương án tìm thêm việc làm, bảo toàn đội ngũ, nhất là thợ lành nghề, để khi có điều kiện, tiếp tục phát huy tay nghề theo đúng sở trường. Cắt giảm đầu tư có ảnh hưởng nhất định đến mức tăng trưởng và lợi ích của ngành, địa phương, doanh nghiệp. Do đó, phải thực hiện một cách khách quan và triệt để trên cơ sở lợi ích chung, không để các biểu hiện chạy vạy, xin-cho, tư tưởng cục bộ chi phối và tránh làm theo kiểu 'phong trào'. Chấp hành thật nghiêm túc và hiệu quả chủ trương này, còn có ý nghĩa góp phần thúc đẩy đổi mới quản lý đầu tư công, tạo thêm tiền đề  thực hiện nhiệm vụ đột phá phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội theo hướng bền vững trong những năm tới. 2.3.2.2. Tình trạng đầu tư dàn trải Đầu tư dàn trải trong cùng 1 ngành là việc triển khai quá nhiều dự án trong cùng thời kỳ, không phù hợp với năng lực quản lý và khả năng tài chính của doanh nghiệp, việc nghiên cứu triển khai các dự án mới thường là sơ sài, không tính toán kỹ hiệu quả đầu tư của dự án . Đầu tư dàn trải có thể làm cho tình hình tài chính doanh nghiệp kém đi, vay nợ tăng lên, chi phí sản xuất tăng lên và lợi nhuận của doanh nghiệp giảm đi. Giảm đi ở đây theo nghĩa tương đối hoặc tuyệt đối và làm giảm lòng tin của nhà đầu tư, cơ cấu cổ đông của doanh nghiệp có thể thay đổi theo hướng tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ chức ngày càng giảm xuống. Trên thực tế có một số doanh nghiệp đầu tư dàn trải, tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ chức là rất thấp ( trừ tỷ lệ cổ phần của cổ đông nhà nước ). Đầu tư đa ngành là đầu tư vào những ngành nghê mới mà doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm, xa rời những ngành nghề truyền thống của doanh nghiệp. Trên thực tế , có 1 số doanh nghiệp chuyển sang 1 vài ngành nghề kinh doanh mới, triển khai đầu tư mới theo phương trâm đi dần từng bước để có kinh nghiệm, trước khi chuyển sang đầu tư lớn và ngành nghề mới được coi là ngành nghề truyền thống. Tuy nhiên đã có nhiều doanh nghiệp, do nôn nóng muốn tăng doanh thu lợi nhuận, mơ ước trở thành 1 tập đoàn kinh tế mà đã đầu tư quá nhiều vào những ngành nghề xa lạ, hậu quả là hiệu quả đầu tư mới thấp , thậm chí thua lỗ và gây ra tình trạng vốn tự có bị ứ đọng, thậm chí làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, biểu hiện của đầu tư đa ngành là đầu tư tài chính, đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, đầu tư vào trung tâm thương mại, đầu tư góp vốn thành lập công ty chứng khoán, công ty tài chính….. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 và cuộc khủng hoảng của TTCK đã làm cho nhiều doanh nghiệp “ thức tỉnh “. Trong năm 2009, chúng ta đã thấy nhiều doanh nghiệp cấu trúc lại tình hình tài chính và cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh, đây là điều đáng mừng, tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa tiến hành tái cấu trúc . Khát vọng vươn lên trở thành 1 Tập đoàn kinh tế là mơ ước của đại bộ phận doanh nghiệp, đi cùng với việc có nhiều công ty con, doanh thu lợi nhuận hàng năm tăng trưởng, tuy nhiên con đường trở thành 1 Tập đoàn kinh tế mạnh thực sự không hề đơn giản và bằng phẳng và phần thưởng đó chỉ dành cho 1 số ít doanh nghiệp xác định được chiến lược kinh doanh và đầu tư đúng đắn hợp lý, có trình độ quản trị doanh nghiệp xuất xắc, luôn luôn đánh giá được những mặt hạn chế nội tại, không quan liêu xa rời thực tế và chỉ xác định đầu tư đơn ngành, tức là đầu tư theo chiều sâu vào ngành nghề kinh doanh cốt lõi của mình . Khó có thể xảy ta tình huống tồn tại những tập đoàn kinh tế đa ngành kinh doanh hiệu quả, đây là 1 kinh nghiệm thực tiễn trên thế giới và ở nước ta cũng vậy. Trên thực tế có những doanh nghiệp lớn hay tập đoàn kinh tế có thể kinh doanh vài ngành nghề ( không có mối quan hệ với nhau ) nhưng không phải kinh doanh nhiều ngành nghề, việc triển khai 1 vài ngành nghề mới là có bài bản và ngành nghề mới đã trở thành ngành nghề kinh doanh cốt lõi . Chúng ta đang thấy có 1 số doanh nghiệp niêm yết có qui mô vốn lớn, kinh doanh rất bài bản ở ngành nghề truyền thống, ban quản trị rẩt say sưa làm việc và đang sở hữu 1 tỷ lệ cổ phần chi phối , muốn nôn nóng đưa doanh nghiệp mình trở thành 1 tập đoàn mạnh, đã xây dựng cho doanh nghiệp mình 1 công ty tài chính, hay 1 công ty chứng khoán , kế hoạch đó đã bị nhiều cổ đông phản đối , nhất là cổ đông tổ chức nhưng họ vẫn thực hiện với suy nghĩ rằng họ đã thành công ở lĩnh vực kinh doanh truyền thống thì tại sao họ không thành công ở lĩnh vực kinh doanh khác. Suy nghĩ đó thật là sai lầm và quan liêu. Điều hành, tổ chức doanh nghiệp ở lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán…hoàn toàn khác với lĩnh vực sản xuất kinh doanh thương mại….Lĩnh vực tài chính là lĩnh vực đặc thù, lĩnh vực nhân văn. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc cổ đông chi phối không am hiểu sâu sắc lĩnh vực tài chính thì khó có thể quản lý thành công 1 tổ chức tài chính như công ty chứng khoán, ngân hàng thuơng mại, công ty bảo hiểm…. Nhiều công ty có hoạt động kinh doanh truyền thống rất hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao, nhưng lợi nhuận công ty đã bị giảm đi nhiều bởi những lý do kinh doanh dàn trải và kinh doanh đa ngành : - Có những doanh nghiệp bỏ ra hàng trăm tỷ đồng vốn tự có để đầu tư tư tài chính , đầu tư nhà hàng khách sạn mà những mảng này không sinh lời và thua lỗ. Nếu thanh lý các khoản đầu tư này, doanh nghiệp có thể thu về hàng trăm tỷ đồng, và chỉ cần gửi tiền tại ngân hàng , có thể làm cho EPS tăng thêm 1000 đồng. - Có những doanh nghiệp bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để đầu tư vào trung tâm thương mại ở vùng xa các đô thị lớn, hay đầu tư vào lĩnh vực bất động sản du lịch. Đầu tư rất nhiều dự án như vậy trong nhiều năm mà không có hiệu quả kinh tế , thậm chí thua lỗ nhưng Ban quản trị doanh nghiệp vẫn tiếp tục đầu tư . - Nhà đầu tư có lẽ e ngại những dự án như vậy, e ngại việc đầu tư chứng khoán vì họ không dự đoán được rằng ban quản trị doanh nghiệp có rút kinh nghiệm hay không ? Có thẳng tay loại bỏ những dự án yếu kém đi không hay lại tiếp tục đầu tư và kết quả là lợi nhuận doanh nghiệp khó có khả năng tăng trưởng, thậm chí ngược lại. - Có lẽ việc cắt bỏ các dự án kém hiệu quả là khó khăn do : + Ngại giải quyết vấn đề lao động dôi dư, do là doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần chi phối ; + Ngại giải quyết vì sợ lộ thua lỗ của dự án (đối với DNNN nắm cổ phần chi phối); + Ban quản trị doanh nghiệp có toàn quyền cắt bỏ các dự án kém hiệu quả mà không hề e ngại vấn đề gì, tuy nhiên họ vẫn chưa nhận thức được rằng tiếp tục theo đuổi dự án là không khả thi, họ có thể lý luận rằng dự án mới đi vào sản xuất kinh doanh nên việc thua lỗ hoặc không hiệu quả là tất nhiên, tuy nhiên họ chưa nghĩa rằng kinh doanh ở ngành nghề xa lạ, không có kinh nghiệm và thời gian quản lý sẽ đem lại kết quả kém. Họ chưa nghĩ rằng cắt bỏ các dự án kém hiệu quả để dồn công sức và nguồn lực tài chính vào các mảng kinh doanh cốt lõi sẽ hiệu quả hơn . 2.3.2.3. Công tác quản lý giám sát còn thực hiện chưa tốt, dẫn đến tình trạng các công trình sai phạm, chất lượng thấp xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Việc chấp hành chế độ báo cáo của các bộ, ngành, địa phương và các chủ đầu tư chưa thực hiện nghiêm túc, có hiện tượng buông lỏng trong thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư. Tỉ lệ các cơ quan có gửi báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư giảm nhiều so với năm trước . năm 2008, có tới 102 cơ quan gửi báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư, tương đương tỷ lệ khoảng 85%. Báo cáo năm 2007 có tới 60,3% số cơ quan gửi; năm 2006 cũng đạt 68,7%. Nhưng trong quy I năm 2010 mới có 65 cơ quan gửi báo cáo tổng thể tình hình thực hiện đầu tư năm 2009, chiếm 54,2% tổng số đơn vị được yêu cầu gửi báo cáo. Trong con số kể trên, có 40/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gửi báo cáo (tỷ lệ 63,5%); 10/30 cơ quan bộ và tương đương (chiếm 33,3%); 2/8 cơ quan thuộc Chính phủ (25%) và 13/19 tập đoàn kinh tế và tổng công ty 91 (68,4%). Theo số liệu tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2010 có 19.956 dự án trên tổng số 29.680 dự án đầu tư của các bộ, ngành, địa phương sử dụng nguồn vốn nhà nước thực hiện đầu tư trong thời kỳ có báo cáo giám sát, đạt tỷ lệ 67,2%. Tuy nhiên chất lượng của nhiều bản báo cáo không đạt yêu cầu. Việc thực hiện chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư trong các bộ, ngành, địa phương cũng không đầy đủ, nhiều cơ quan không có số liệu, hoặc có số liệu thể hiện tỷ lệ các dự án có báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư rất thấp. Ở cấp độ khác, một số báo cáo có số liệu chưa đảm bảo độ chính xác, sai sót về mặt số học, mâu thuẫn với số liệu tại các báo cáo trước, và mang tính hình thức khi thiếu các thông tin chi tiết… Điều này đã hạn chế việc phân tích, đánh giá tình hình đầu tư chung trong cả nuớc và chưa đáp ứng yêu cầu, mục tiêu giám sát, đánh giá đầu tư. Tình trạng chậm tiến độ Năm 2009, lượng dự án được quyết định đầu tư là 11.420 dự án, chiếm khoảng 38,5% tổng số các dự án đang thực hiện đầu tư. Con số này cao hơn tổng số dự án dự kiến kết thúc đưa vào hoạt động trong kỳ là 9.679 dự án, bằng khoảng 32,6% tổng số các dự án đang thực hiện đầu tư. Số liệu trên cho thấy tình hình đầu tư vẫn còn phân tán. Trong khi đó, chỉ tính riêng 65 bản báo cáo của các bộ, ngành, địa phương gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đã có 5.156 dự án vi phạm các quy định về quản lý đầu tư trong năm 2009, chiếm khoảng 17,4% so với tổng số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ. Vi phạm chủ yếu được xác định là dự án không đúng quy hoạch; phê duyệt không đúng thẩm quyền; không thực hiện đầy đủ trình tự thẩm tra, thẩm định dự án; đấu thầu không đúng quy định; bỏ giá thầu không phù hợp; phê duyệt không kịp thời; ký hợp đồng không đúng quy định; chậm tiến độ; chất lượng xây dựng thấp; có lãng phí. Đáng chú ý trong số này, có tới 5.021 dự án chậm tiến độ, chiếm khoảng 16,9% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ; 19 dự án không phù hợp quy hoạch; đấu thầu không đúng quy định 18 dự án; phê duyệt không kịp thời 73 dự án; chất lượng xây dựng thấp 25 dự án; ký hợp đồng không đúng quy định có 19 dự án. Ngoài ra, theo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có 7.302 dự án phải điều chỉnh, chiếm 24,6% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ, trong đó 6,3% điều chỉnh về nội dung đầu tư; 8,9% điều chỉnh về tiến độ và 9,2% điều chỉnh tổng mức đầu tư… Năm 2010, tình trạng chậm tiến độ vẫn chưa được khắc phục, còn có xu hướng tăng hơn so với các năm trước. Đây là vấn đề cần được quan tâm, vì chậm tiến độ là một trong những nguyên nhân chủ yếu tăng chi phí, giảm hoặc không còn hiệu quả đầu tư của dự án. Nguyên nhân của tình trạng này là do khó khăn trong giải phóng mặt bằng, tái định cư, tư vấn yếu kém hoặc quá tải, một số đơn vị thi công không đủ năng lực, khâu tổ chức thực hiện của chủ đầu tư yếu… 2.3.2.4. Nghiên cứu tình huống cụ thể trường hợp tập đoàn Vinashin Theo báo cáo của Tổ công tác và Hội đồng quản trị tập đoàn Vinashin, đến ngày 30 tháng 6 năm 2010, tổng số nợ của Tập đoàn là hơn 86 nghìn tỷ đồng, trong đó nợ đến hạn phải trả trên 14 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu bằng gần 11 lần. Tập đoàn rơi vào tình trạng mất cân đối tài chính nghiêm trọng, sản xuất đình đốn, nợ lương, nợ bảo hiểm đối với người lao động, công nhân chuyển việc, bỏ việc gần 17.000 người, mất việc gần 5.000 người. Đầu tư dàn trải Đầu tư dàn trải thể hiện ngay ở việc Vinashin tham gia vào quá nhiều dự án ở nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau từ đóng tàu đến vận tải biển, cảng biển, sản xuất thép, xi măng, bia, dịch vụ hàng không, bảo hiểm, ngân hàng, nhập khẩu ôtô xe máy và mới đây còn lấn sân sang lĩnh vực nông nghiệp (một số thành viên của Vinashin còn đầu tư sang trồng thanh long, dứa và chăn nuôi lợn để đa dạng hóa ngành nghề). Chính vì đầu tư dàn trải đã khiến cho hiệu quả đầu tư không cao. Nhiều dự án đến nay thiếu vốn, bị dở dang, không cho ra sản phẩm trong khi vốn đầu tư không thể thu hồi và các khoản nợ ngày càng lớn. Bộ Tài chính cho biết, đến hết năm 2008, Vinashin đã giải ngân xong 750 triệu USD huy động từ trái phiếu quốc tế do Chính phủ bảo lãnh. Tổng số dự án sử dụng nguồn vốn này lên tới 219 nên số lượng dự án dở dang nhiều và phần lớn chưa phát huy được hiệu quả. Cuối 2008, số lượng dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu quốc tế đã hoàn thành và đưa vào sử dụng đồng bộ là 56 dự án, số còn lại là 163 dự án. Như vậy, có đến 75% số dự án chưa phát huy tác dụng. Kết quả thanh tra giữa năm 2008 cho thấy, tại 10 DN thành viên lớn thuộc Vinashin đã có 122 dự án được duyệt với tổng mức đầu tư 54.179 tỷ đồng. Đặc biệt theo chủ trương và phê duyệt dự án thì nhiều dự án cơ bản được hoàn thành trong năm 2007, tuy nhiên việc triển khai dự án đều chậm. Một trong các nguyên nhân quan trọng chính là do khả năng đáp ứng về vốn quá hạn chế. Tại thời điểm thanh tra giữa năm 2008, hầu hết các doanh nghiệp đều báo cáo rất “đói” về vốn, chưa tìm được nguồn để cân đối vốn đầu tư như: Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Nha Trang 891 tỷ đồng; Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Cái Lân 495 tỷ đồng; Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Bạch Đằng 2.400 tỷ đồng; Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu 3.982 tỷ đồng, Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Phà Rừng 3.749 tỷ đồng. Nhiều dự án không hiệu quả Nhiều dự án đầu tư của Vinashin đến nay được cho là không có hiệu quả. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất thép có khá nhiề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnhom 1.doc