Đề tài Chất lượng tín dụng ngân hàng, hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTMCP Eximbank Hà Nội

Tài liệu Đề tài Chất lượng tín dụng ngân hàng, hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTMCP Eximbank Hà Nội: Mục lục Lời nói đầu 5 Chương I. Tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM 7 1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 7 1.1. Tín dụng ngân hàng 7 1.2. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 7 2. Chất lượng tín dụng. Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 9 2.1. Chất lượng tín dụng 9 2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 11 3. ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng 16 3.1. Chất lượng tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội 16 3.2. Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM 18 Chương II. thực trạng hoạt động và chất lượng tín dụng tại chi nhánh eximbank Hà Nội 19 Vài nét về Ngân hàng Eximbank Việt Nam 19 1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Eximbank Hà Nội 20 1.1. Những nét chung 20 1.2. Tình hình kinh doanh của Chi nhánh Eximbank Hà Nội 22 1.3. Kết quả kinh doanh tại Chi nhánh Eximbank Hà Nội 29 2. Thực trạng chất lượng tín dụng t...

doc68 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 988 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Chất lượng tín dụng ngân hàng, hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTMCP Eximbank Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời nói đầu 5 Chương I. Tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM 7 1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 7 1.1. Tín dụng ngân hàng 7 1.2. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 7 2. Chất lượng tín dụng. Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 9 2.1. Chất lượng tín dụng 9 2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 11 3. ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng 16 3.1. Chất lượng tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội 16 3.2. Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM 18 Chương II. thực trạng hoạt động và chất lượng tín dụng tại chi nhánh eximbank Hà Nội 19 Vài nét về Ngân hàng Eximbank Việt Nam 19 1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Eximbank Hà Nội 20 1.1. Những nét chung 20 1.2. Tình hình kinh doanh của Chi nhánh Eximbank Hà Nội 22 1.3. Kết quả kinh doanh tại Chi nhánh Eximbank Hà Nội 29 2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại Eximbank Hà Nội 31 3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại về chất lượng tín dụng 43 3.1. Nguyên nhân bên ngoài 43 3.2. Nguyên nhân bên trong 45 Chương III. những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tín dụng eximbank Hà Nội 48 1. Quan điểm và định hướng nâng cao chất lượng tín dụng 48 1.1. Quan điểm nâng cao chất lượng tín dụng 48 1.2. Mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trong thời gian tới 49 1.3. Định hướng nâng cao chất lượng tín dụng 50 2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Eximbank Hà Nội 51 2.1. Giải pháp xây dựng và sử dụng quỹ bù đắp rủi ro cho hoạt động tín dụng 51 2.2. Củng cố công tác mạng lưới và khoán tài chính đến nhóm và người lao động 52 2.3. Nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng để có biện pháp đầu tư tín dụng thích hợp 54 2.4. Thiết lập mối quan hệ tốt và bền lâu với khách hàng 56 2.5. Tăng cường công tác quản lý nợ và giải quyết nợ quá hạn 58 2.6. Từng bước quy chuẩn đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ 62 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý 64 3.1. Đối với Chính phủ 64 3.2. Đối với NHNN 65 3.3. Đối với Eximbank Việt Nam 66 Kết luận 68 Tài liệu tham khảo 69 lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài: Thực hiện đường mới đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong các nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và lần thứ VIII, nền kinh tế của nước ta đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Quá trình vận động này đòi hỏi các quan hệ kinh tế - xã hội chuyển biến và thay đổi thường xuyên. Lĩnh vực tiền tệ tín dụng ngân hàng- một trong những lĩnh vực nhậy cảm nhất của nền kinh tế do hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hình mang tính năng động và rủi ro cao cần được cải biến, đổi mới nhằm đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường. Hơn nữa, yêu cầu đạt ra đối với ngân hàng là không những phải phát triển không ngừng để thích nghi và tồn tại mà còn phải giữ vai trò tiên phong trong việc định hướng cho những hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, các ngân hàng càng cần phải năng động hơn, nhậy cảm hơn và tỉnh táo hơn để có thể thực hiện được vai trò của mình, đáp ứng những yêu cầu càng ngày càng cao của nền kinh tế. Việt nam mới bước vào kinh tế thị trường nên yêu cầu này càng trở nên cấp thiết. Thực tế cho thấy rằng, trong những năm vừa qua, đặc biệt là năm 1998 và 1999, hàng loạt các vụ việc xảy ra liên quan đến hoạt động tín dụng giữa các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế trong nước đã làm ảnh hưởng không ít tới nền kinh tế nói chung và bước phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng nói riêng. Ngân hàng thương mại cổ phần là mô hình mới trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Hiện nay hệ thống này vừa vận hành để phát triển, vừa rút kinh nghiệm để định hình. Là loại hình non trẻ, lại hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường chưa ổn định, do vậy tình hình đặt ra đối với các ngân hàng Thương mại Cổ phần cũng không nằm ngoài bối cảnh trên. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động với đặc tính riêng có của mình, các NHTMCP đã có những phát huy nhất định đóng góp vào sự nghiệp xây dựng chung của đất nước, tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, đã bộc lộ những mặt hạn chế. Từ những lí do thực tế trên, cùng với sự hướng dẫn chỉ bảo ân cần của thầy Nguyễn Quang Ninh, tập thể cán bộ của NHTMCP Eximbank em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Chất lượng tín dụng ngân hàng, hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTMCP Eximbank Hà Nội”. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: - Nghiên cứu và đánh giá chất lượng tín dụng, thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng của NHTMCP trong nền kinh tế thị trường. - Một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng tín dụng từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khối các NHTMCP. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chủ yếu về chất lượng tín dụng và những vấn đề tồn tại của nó tại Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu 4. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, phân tích tổng hợp, hệ thống hoá lý luận… 5. Kết quả và những vấn đề mới của luận văn: - Nêu được tổng quan về tín dụng ngân hàng, chất lượng trong hoạt động tín dụng của NHTM. - Nghiên cứu, hệ thống hoá các biện pháp có thể áp dụng tại Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng tín dụng. - Một số kiến nghị với Chính phủ, NHNN, Eximbank với mục đích nâng cao chất lượng tín dụng. Do thời gian hạn hẹp, năng lực và kinh nghiện thực tế còn nhiều hạn chế, bài viết khó tránh khỏi nhiều sai sót. Kính mong được sự chỉ dạy, bảo ban của các Thầy, Cô giáo để em có thể học hỏi và nâng cao kiến thức của mình hơn nữa. Chương I: Tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại 1. tín dụng ngân hàng và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 1.1. Tín dụng ngân hàng Tín dụng Ngân hàng là mối quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, hàng hoá và dịch vụ theo nguyên tắc hoàn trả giữa một bên là Ngân hàng và một bên là các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội và dân cư. Quá trình hình thành quan hệ tín dụng chính là quá trình hình thành các quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội. Đó là mối quan hệ vay mượn có hoàn trả cả gốc và lãi sau một khoảng thời gian nhất định, là quan hệ chuyển dịch tạm thời quyền sử dụng vốn, là quyền bình đẳng cả hai bên đều có lợi. Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập chung qua Ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng Ngân hàng không những chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cá nhân mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến đổi mới kỹ thuật công nghệ sản xuất. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Như vậy, tín dụng Ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và kịp thời. 1.2. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay. Điều đó được thể hiện ở một số khía cạnh sau: * Tín dụng Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng trong tất cả các thành phần kinh tế để cho các doanh nghiệp và cá nhân vay vốn góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tín dụng Ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Nó đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quá trình hoạt động đó, Ngân hàng thu được lợi tức cho vay để duy trì và phát triển hoạt động của chính Ngân hàng. Tuy vậy trong cơ chế thị trường hiện nay, huy động và cho vay bao nhiêu, có đáp ứng được hay không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, thu hồi vốn có đúng hạn không là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Bởi vì nếu đầu tư tín dụng không có hiệu quả, không thu hồi được nợ thì Ngân hàng sẽ lỗ và đi đến phá sản. Do vậy, mỗi Ngân hàng trong môi trường cạnh tranh phải có nghệ thuật trong kinh doanh, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiềm tàng với chi phí rẻ trong nền kinh tế để kinh doanh tín dụng có hiệu quả. Có thể nói, trong nền kinh tế thị trường, tín dụng Ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội và góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. * Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước luôn phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế thế giới. Sự hợp tác hoá bình đẳng cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển mạnh mẽ. Trong đó, đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và phổ biến nhất giữa các nước. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một nhà kinh doanh nào cũng có đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. * Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Tín dụng Ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ tái mở rộng hoạt động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu từ tiền và kết thúc bằng tiền. Để tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới. Tất cả những công việc đó đòi hỏi phải có nhiều vốn và phải kịp thời. Tín dụng Ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó. Mặt khác, vốn Ngân hàng cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn quy định. Do đó, các nhà doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay của vốn, trả nợ vay đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Thực hiện được việc này trong nền kinh tế thị trường là cuộc vật lộn, cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, vì thế tín dụng góp phần làm cho nền kinh tế hàng hoá phát triển ngày một cao. Trong nền kinh tế thị trường, sự hoạt động của thị trường vốn, thị trường tiền tệ là các mặt hoạt động liên quan đến quan hệ tín dụng Ngân hàng và nhờ có hoạt động này mà việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu mới có môi trường hoạt động. Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng mà còn với cả xã hôị. Tuy nhiên để tín dụng Ngân hàng phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý Ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người vay và người cho vay. 2. Chất lượng tín dụng - nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 2.1. Chất lượng tín dụng * Khái niệm: Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng được hình thành và bảo đảm từ hai phía là Ngân hàng và khách hàng. Bởi vậy, chất lượng hoạt động của Ngân hàng không những phụ thuộc vào bản thân của Ngân hàng mà còn phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. * Chất lượng tín dụng được thể hiện: - Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất kỳ hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. - Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế. - Đối với Ngân hàng thương mại: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ cán bộ...) và khách quan (sự thay đổi của môi trường bên ngoài). Khuynh hướng phát triển của nền kinh tế, sự thay đổi của giá cả thị trường cũng như môi trường pháp lý đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được nhiều khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn vốn tín dụng, chi phí về tổng thể lãi suất, chi phí nghiệp vụ. Để có chất lượng tín dụng tốt cần có sự tổ chức và quản lý đồng bộ trong một Ngân hàng, vì điều đó không chỉ đảm bảo cho chất lượng tín dụng, mà còn nhằm cải tiến tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ cơ sở kinh doanh nhằm thoả mãn ngày càng đầy đủ yêu cầu của khách hàng ở mọi công đoạn, bên trong cũng như bên ngoài. Để làm được điều đó mỗi thành viên trong một tổ chức Ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý chất lượng. Như vậy, chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn. Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hay nói một cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng. Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng 2.2.1. Các nhân tố bên ngoài: Ta biết rằng chất lượng hoạt động tín dụng có ý nghĩa rất to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các NHTM và của toàn xã hội. Để quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ, đòi hỏi phải hiểu rõ tác động của các nhân tố ảnh hưởng chính, đó là các nhân tố: kinh tế, xã hội, pháp lý * Nhân tố kinh tế: Điều kiện kinh tế của khu vực mà Ngân hàng phục vụ ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản tín dụng có chất lượng cao, còn nền kinh tế không ổn định thì các yếu tố lạm phát, khủng hoảng sẽ làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay biến động lớn làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu nợ khi cho vay của Ngân hàng. Giới hạn của mở rộng qui mô tín dụng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Nếu mở rộng tín dụng quá giới hạn cho phép sẽ làm cho giá cả tăng quá mức, xảy ra lạm phát tốc độ cao, các NHTM sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá, chất lượng tín dụng bị giảm thấp. Ngoài ra, chính sách kinh tế của nhà nước điều tiết để ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ đình trệ sản xuất - kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nhu cầu vốn tín dụng giảm trong thời kỳ này và nếu vốn tín dụng đã được thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu vốn tín dụng tăng rủi ro tín dụng có ít đi, nhưng cũng không loại trừ trường hợp do chạy đua trong sản xuất kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ, làm cho nhu cầu vốn tín dụng lên quá cao và có nhiều khoản tín dụng được thực hiện. Những khoản này cũng có thể khó được hoàn trả nếu sự phát triển sản xuất kinh doanh không có kế hoạch nói trên dẫn đến suy thoái và khủng hoảng kinh tế. Chính sách lãi suất cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường lãi suất luôn biến động. Những năm gần đây, Việt Nam đã khống chế được tình hình lạm phát song lãi suất lại giảm liên tục. Trong những trường hợp lãi suất cho vay giảm song lãi suất tiền gửi lại giữ nguyên làm cho chênh lệch đầu ra và đầu vào giảm dẫn đến chi phí nguồn vốn lớn chi phí sử dụng vốn không bù đắp nổi. Đồng thời mức độ phù hợp giữa lãi suất Ngân hàng với lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Lợi tức Ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay Ngân hàng. Vì vậy, với mức lãi suất cao hơn mức lợi nhuận các doanh nghiệp vay vốn thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ Ngân hàng, ảnh hưởng tới quá trình sản xuất của doanh nghiệp nói riêng và tình hình phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung (trừ các doanh nghiệp có lợi nhuận siêu ngạch hoặc lợi nhuận độc quyền) hoạt động tín dụng này không còn là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất phát triển và theo đó chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng. * Nhân tố xã hội: Quan hệ tín dụng là sự kết hợp giữa ba nhân tố: khách hàng, Ngân hàng và sự tín nhiệm, trong đó sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có tín nhiệm càng cao thì thu hút được khách hàng càng lớn. Khách hàng có tín nhiệm đối với Ngân hàng thường được vay vốn Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi nên cơ chế và chính sách của ta cũng cần phải thay đổi để thích ứng và hoàn thiện. Chính sách tín dụng trong thời gian qua đã có những đổi mới cơ bản theo cơ chế thị trường nên góp phần quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ tín dụng của Đảng và Nhà nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát có kết quả. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một Ngân hàng thương mại. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của NHTM có đúng đắn hay không. Bất cứ NHTM nào muốn có chất lượng tín dụng đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng, thích hợp của Ngân hàng mình. * Công tác tổ chức của ngân hàng: Tổ chức Ngân hàng phải sắp xếp một cách có khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng Ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng như giữa Ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý... sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giúp Ngân hàng theo dõi, quản lý sát sao các khoản cho vay, các khoản huy động vốn. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng. * Chất lượng nhân sự: Đây là một nhân tố quan trọng. Sự thành công trong hoạt động tín dụng phụ thuộc vào năng lực, trách nhiệm của cán bộ tín dụng, họ là người trực tiếp quản lý toàn bộ số vốn từ khi đầu tư cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng. Họ cần phải phân tích kỹ tình hình tài chính của doanh nghiệp, phân tích dự án mà khách hàng vay vốn, quản lý và giám sát tình hình sử dụng vốn vay. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi về chuyên môn sẽ giúp cho Ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng * Qui trình tín dụng: Qui trình tín dụng bao gồm những qui định phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt các qui định ở từng bước với sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, giữa các bước trong qui trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định, nhờ có đảm bảo chất lượng tín dụng. Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay (khách hàng viết đơn xin vay và Ngân hàng đánh giá đơn cho vay để quyết định cho vay hay không cho vay) rất quan trọng, là cơ sở để lượng định rủi ro trong quá trình cho vay. Trong bước này, chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng như những quy định về điều kiện và thủ tục cho vay của từng NHTM. Kiểm tra quá trình cho vay giúp Ngân hàng nắm được nguyên nhân diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp để có những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Thu nợ và khâu thanh lý nợ là khâu quan trọng có tính quyết định tới sự tồn tại của Ngân hàng do đó Ngân hàng phải tích cực trong công tác thu nợ. Sự nhạy bén kịp thời của Ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những điều kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác dụng tích cực đối với chất lượng tín dụng. Sự phối kết nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó đảm bảo chất lượng tín dụng. * Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ những nguồn sẵn có ở Ngân hàng (Hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của các cán bộ tín dụng...) từ khách hàng (theo chế độ báo cáo định kỳ hoặc phản ánh trực tiếp), từ các cơ quan chuyên về thông tin tín dụng ở trong và ngoài nước, từ các nguồn thông tin khác (báo, đài, toà án). Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận được có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định tình hình thị trường, khách hàng... để đưa ra những quyết định phù hợp. Vì vậy, thông tin càng đầy đủ, nhanh nhậy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao. * Kiểm soát nội bộ: Đây là biện pháp giúp cho Ban lãnh đạo Ngân hàng có được các thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến, phù hợp với các chính sách, đáp ứng được các mục tiêu đã định. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời nguyên nhân các sai sót phát sinh trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng của công tác kiểm soát nội bộ để có biện pháp khắc phục kịp thời. Để kiểm soát nội bộ có hiệu quả, Ngân hàng cần có cơ cấu tổ chức hợp lý, cán bộ kiểm tra phải giỏi nghiệp vụ, trung thực và có chính sách thưởng phạt vật chất nghiêm minh. * Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng : Ngoài 6 nhân tố trên, Ngân hàng trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính, phạm vi, qui mô hoạt động sẽ giúp cho Ngân hàng: - Phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng về tất cả các mặt dịch vụ, phục vụ (nhận tiền gửi, cho vay, thu nợ...) với chi phí cả hai bên cùng chấp nhận được. - Giúp cho các cấp quản lý của Ngân hàng kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động tín dụng, để điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế, nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Như vậy, trang thiết bị cũng là một nhân tố không thể thiếu được để không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng. Tóm lại, qua nghiên cứu nội dung nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ta thấy: tuỳ theo sự phát triển, điều kiện kinh tế xã hội và sự hoàn thiện môi trường pháp lý của từng nước cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ cán bộ của từng NHTM mà các nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau tới chất lượng tín dụng. Vấn đề cơ bản đặt ra là chúng ta phải nắm chắc các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng và biết vận dụng sáng tạo sự ảnh hưởng của các nhân tố này trong hoàn cảnh thực tế, từ đó tìm được những biện pháp quản lý có hiệu quả để củng cố nâng cao chất lượng tín dụng hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, sẽ tạo điều kiện cho sự thành công của hoạt động tín dụng nói riêng cũng như của toàn bộ hoạt động NHTM nói chung. 3. ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng. 3.1. Chất lượng tín dụng đối với nền kinh tế xã hội: Lịch sử hình thành và phát triển quan hệ tín dụng cho ta thấy vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển. Cùng với sự sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch trong xã hội. Trong điều kiện đó, nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề ngày càng được quan tâm vì: - Nâng cao chất lượng tín dụng để đưa hoạt động tín dụng thích nghi với điều kiện kinh tế thị trường, phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường. - Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để Ngân hàng làm tốt chức năng trung tâm thanh toán, vì khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng. Nó tạo điều kiện cho Ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. - Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần tăng vòng quay vốn, huy động tới mức tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội để phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm giảm tối thiểu lượng tiền thừa trong lưu thông. Nó góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Đồng thời, thông qua các công trình đầu tư vốn phát huy tác dụng, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ cho nền kinh tế. - Nâng cao chất lượng tín dụng tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động Ngân hàng theo xu hướng của thế giới, phương thức sản xuất áp dụng những thành tựu của những nền công nghệ cao như công nghệ sinh học, thông tin, vật liệu, năng lượng mới để nhanh chóng nâng cao chất lượng tín dụng thúc đẩy sản xuất ở trong nước và hội nhập với hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia. - Nâng cao chất lượng tín dụng để có khả năng hợp tác cạnh tranh. Khi sản xuất cùng phát triển, nhu cầu vốn để phục vụ phát triển kinh tế xã hội là rất lớn mà mỗi Ngân hàng riêng lẻ không thể đáp ứng được, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các Ngân hàng trong việc tài trợ cho khách hàng (đồng tài trợ hay tín dụng hợp vốn). Tín dụng là một trong những công cụ để thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền kinh tế. Tín dụng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế xã hội. Để có chất lượng tín dụng, ngoài sự nỗ lực của bản thân các NHTM, đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định và phải có một cơ chế, chính sách phù hợp, sự kết hợp nhịp nhàng có hiệu quả giữa các cấp, các ngành tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của tín dụng. 3.2. Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại : Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín dụng và thu hút thêm được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của Ngân hàng cùng sự trung thành của khách hàng. Chất lượng tín dụng gia tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay. Từ đó cải thiện được tình hình tài chính của Ngân hàng, tạo thế mạnh cho Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Chất lượng tín dụng tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của Ngân hàng, bởi vì chất lượng tín dụng cho phép Ngân hàng có những khách hàng trung thành và những khoản lợi nhuận bổ sung vốn đầu tư. Chất lượng tín dụng củng cố mối quan hệ xã hội của Ngân hàng, điều đó cũng có ý nghĩa là tạo được môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động Ngân hàng. Với những ưu thế trên, việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng củ NHTM là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của NHTM. Cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn phải được cải tiến. Chương II: Thực trạng hoạt động và chất lượng Tín dụng tại exim bank hà nội. * VàI nét về ngân hàng xuất nhập khẩu việt nam Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam ra đời và hoạt động trong bối cảnh chung của nền kinh tế đang chuyển mình đổi mới. Cuối năm 1989, những tiến bộ đạt được trong nền kinh tế cho phép Việt Nam chuyển thời kỳ đưa ra thực thi các chính sách và mô hình Ngân hàng thích hợp với cơ chế thị trường trong nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần. Nhà nước chủ trương cải cách hệ thống Ngân hàng thành hai cấp : Cấp quản lý Nhà nước do NHNN đảm nhận, cấp kinh doanh do các NHTM đảm nhận, hoạt động Ngân hàng đã có sự chuyển biến, cơ bản mở rộng mạng lưới hoạt động và phục vụ cho mọi thành phần kinh tế. Đồng thời trong thời kỳ này Nhà nước có chủ trương thành lập một số NHTM cổ phần nhằm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo đề nghị của ông Đào Duy Thành, Chủ tịch Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, ngày 24/05/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định 140/CT cho phép thành lập Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam dưới hình thức là Ngân hàng cổ phần chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất và chế biến hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam - tên giao dịch Việt Nam Eximbank- là pháp nhân, hoạch toán kinh tế độc lập, được quyền tự chủ về tài chính và chủ động về kinh doanh, có hội sở chính tại số 07 Lê Thị Hồng Gấm - Quận I - Thành phố Hồ Chí Minh, có con dấu riêng, có bản tổng kết tài sản và trực tiếp làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Cho tới nay, ngoài việc luôn luôn đổi mới, phát triển tổ chức và cán bộ công nhân viên, từ năm 1992 đến nay Việt Nam Eximbank đã thành lập được 3 chi nhánh và một văn phòng giao dịch đóng trên địa bàn các tỉnh thành phố: + Chi nhánh Hà Nội. + Chi nhánh Đà Nẵng. + Chi nhánh Cần Thơ. + Phòng giao dịch Chợ Lớn. Cùng với hệ thống NHTM Việt Nam, Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam một trong những NHTM cổ phần đầu tiên ở nước ta, với bề dầy kinh nghiệm chưa được 10 năm nhưng cũng đạt được ở mức phát triển, tốc độ tăng trưởng cao trên nhiều mặt hoạt động, vốn cổ phần từ lúc thành lập là 53,31 tỷ đồng nay đã tăng lên 250 tỷ, đồng thời góp phần mở rộng khả năng huy động vốn. Doanh số cho vay tăng nhanh, các hoạt động khai thác kiều hối, mua bán ngoại tệ, thanh toán thẻ tín dụng cũng tăng trưởng tốt. Về đối ngoại, Eximbank liên tục mở quan hệ đại lý với Ngân hàng nước ngoài. Đến nay, Ngân hàng đã thiết lập quan hệ đại lý với 530 Ngân hàng tại 56 quốc gia trên thế giới. Nói chung, Eximbank Việt Nam luôn kinh doanh có lãi và tạo được uy tín với bạn hàng trong và ngoài nước. Đạt được những thành quả nói trên, trước hết là nhờ đường lối kinh tế đổi mới và các chính sách đúng đắn về tiền tệ tín dụng của Nhà nước. Tiếp theo là sự tín nhiệm của khách hàng trong và ngoài nước, sự giúp đỡ của các Ngân hàng bạn bè và của các cơ quan hữu quan, và rất quan trọng là sự nỗ lực của tập thể nhân viên Vietnam Eximbank, của Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc Ngân hàng. 1. thực trạng hoạt động tín dụng tại nhtmcp eximbank hà nội : 1.1. Những nét chung: Chi nhánh Eximbank Hà Nội là chi nhánh đầu tiên được thành lập theo giấy chấp thuận số 0002 ngày 22/09/1992 của NHNN và theo giấy phép đặt văn phòng chi nhánh số 00503/GP - UB của UBND thành phố Hà Nội. Tháng 11/1992 Eximbank Hà Nội bắt đầu đi vào hoạt động, có trụ sở chính đặt tại 19 phố Trần Hưng Đạo. Sơ đồ tổng thể chi nhánh Eximbank Hà nội giám đốc và các phó giám đốc phòng tổ chức hành chính phòng quan hệ quốc tế phòng thanh toán quốc tế phòng tín dụng đầu tư phòng kế toán tổ pháp chế phòng ngân quỹ Eximbank Hà Nội có một giám đốc điều hành trực tiếp và một đội ngũ cán bộ đủ mạnh, vừa thông thạo nghiệp vụ vừa có kinh nghiệm trong chỉ đạo điều hành, trình độ chuyên môn cao, biết ngoại ngữ, bước đầu thích nghi với cơ chế thị trường, hoà nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới. Ngân hàng có bẩy phòng chức năng : Phòng tổ chức hành chính, phòng quan hệ quốc tế, phòng thanh toán quốc tế, phòng tín dụng đầu tư, phòng kế toán, phòng ngân quỹ, tổ pháp chế Cơ cấu tổ chức và hoạt động của chi nhánh trong những năm qua đã chứng minh Ngân hàng là một chi nhánh trong toàn hệ thống liên tục thực hiện tốt các chức năng kinh doanh, giữ vững cân đối chung về nguồn vốn và sử dụng vốn, cùng với các Ngân hàng khác trên địa bàn, chi nhánh đã góp phần vào sự phát triển kinh tế thủ đô và nâng cao hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống. Ra đời trong điều kiện nền kinh tế mở với sự điều tiết của cơ chế thị trường tạo môi trường kinh tế phù hợp để chi nhánh hoạt động kinh tế và phát triển. Trong tám năm hoạt động và trưởng thành (11/1992-11/2000) dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Hội đồng Quản trị, sự lãnh đạo sát sao và hỗ trợ to lớn về các mặt của Hội sở Trung ương, cũng như sự tín nhiệm của các cổ đông và các đơn vị khách hàng, tập thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên của chi nhánh Eximbank Hà Nội đã tích cực công tác đưa chi nhánh ngày càng lớn mạnh và trở thành một trong những Ngân hàng kinh doanh có hiệu quả nhất trong địa bàn Hà Nội. 1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh tại Eximbank chi nhánh Hà Nội : * Về huy động vốn : Công tác huy động vốn là một nhiệm vụ tiên quyết trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Muốn mở rộng hoạt động tín dụng của mình thì Ngân hàng cần phải mở rộng hoạt động huy động vốn, vì thế bất kỳ Ngân hàng nào cũng rất chú trọng đến hoạt động này. Trên thực tế đối với Eximbank Hà Nội cũng vậy. Ngân hàng được sự chỉ đạo kịp thời của Hội đồng Quản trị, ban Tổng Giám đốc và sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của toàn thể công nhân viên đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong những năm gần đây. Với nguồn vốn khiêm tốn ban đầu do Hội sở Trung ương cung cấp để tiến hành khai trương hoạt động là 532.000 USD và 7,485 tỷ VND đến năm 1996 được bổ sung 13.818 triệu VND (vốn cố định xây dựng trụ sở mới), chi nhánh Eximbank Hà Nội đã tiến hành mở rộng việc huy động vốn từ nhiều đối tượng khác nhau để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động của chi nhánh. Có thể nói, quán triệt tư tưởng huy động vốn của Đảng và Nhà nước để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế cuả thủ đô và cả nước, Ngân hàng đã huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như: tiền gửi của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, tư nhân tập thể. Ngoài ra Ngân hàng còn đa dạng các thời hạn và khung lãi suất với mục đích thu hút được nhiều nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Với tinh thần, thái độ tận tuỵ phục vụ khách hàng, đảm bảo vui lòng khách đến vừa lòng khách đi, giải quyết thủ tục thuận lợi nhanh chóng, khách hàng gửi tiền vào và rút tiền ra dễ dàng, hạn chế tối đa những sai sót nhầm lẫn về mặt nghiệp vụ để đảm bảo ngày càng có tín nhiệm với khách hàng từ đó Ngân hàng đã tạo thế chủ động đi vay và cho vay. Vì vậy trong những năm qua, công tác huy động vốn đã đạt được những kết quả khả quan: Bảng 1 : cơ cấu vốn huy động tại eximbank hà nội Đơn vị : Triệu đồng. chỉ tiêu 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999 Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Tổng nguồn 420.279 100 326.220 100 492.845 100 Theo đối tượng: Tiền gửi TCKT 319.412 76 123.964 38 149.484 30 Tiền gửi tiết kiệm 100.867 24 202.256 62 343.361 70 Theo cơ cấu: TG không kỳ hạn 306.804 73 114.177 35 111.225 22,6 TG có kỳ hạn 113.475 27 212.043 65 381.620 77,4 Nguồn : Báo cáo công tác tín dụng năm 97, 98, 99 tại Eximbank Hanoi. Trong đối tượng huy động giữa các thành phần kinh tế của Ngân hàng có sự khác nhau rõ rệt qua các thời kỳ. Năm 1999, tiền gửi của các thành phần kinh tế là 149.484 triệu chiếm 30% trong tổng nguồn, giảm đi 46% so với năm 1997 và 8 % so với năm 1998. Cơ cấu tiền gửi tiết kiệm cũng thay đổi, đạt 343.361 triệu chiếm 70% trong tổng nguồn, tăng 242.494 triệu so với năm 1997 và tăng 141.105 triệu so với năm 1998. Trước 1998 Ngân hàng thường huy động vốn từ các tổ chức tín dụng nước ngoài, do vậy năm 1997 tiền gửi tiết kiệm chỉ chiếm 24% trên tổng nguồn. Đến năm 1998, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế cuối năm 1997 nên các Ngân hàng nước ngoài đã quyết định cắt hạn mức tín dụng với các Ngân hàng của ta. Trước tình hình này, NHTMCP Eximbank đã đưa ra một quyết định đúng đắn kịp thời là điều chỉnh mức lãi suất hợp lí, khuyến khích việc gửi tiền tiết kiệm thực hiện việc huy động vốn trong nước, việc làm này đã đem lại những kết quả khả quan (mức tiền gửi tiết kiệm trên tổng vốn huy động là 62% -1998, 70% -1999). Trong kết cấu nguồn vốn cũng có sự khác biệt. Năm 1998 và năm 1999, tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn. Cuối năm 1998, tiền gửi có kỳ hạn là 212.043 triệu đồng tức là bằng 185,7% so với tiền gửi không kỳ hạn, chiếm 65% trong tổng nguồn. Trong năm 1999, tiền gửi không kỳ hạn là 111.225 triệu đồng chiếm 22,6% trong tổng nguồn trong khi đó tiền gửi có kỳ hạn là 381.620 triệu đồng bằng 343,1 % so với tiền gửi không kỳ hạn chiếm 77,4% trong tổng nguồn huy động. Trong khi đó, năm 1997 số dư nguồn vốn huy động có kỳ hạn là 113.475 triệu đồng bằng 37% so với tiền gửi không kỳ hạn chỉ chiếm 27% trong tổng nguồn. Năm 1997, số lượng các đơn vị, cá nhân mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng là rất lớn, đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm tăng mức tiền gửi không kì hạn lên tới 73%, bên cạnh đó do chưa có chính sách lãi suất hấp dẫn nên lượng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn chỉ chiếm 27% trên tổng nguồn. Trong quá trình vận động thích ứng với tình hình kinh tế mới Ngân hàng đã ngày càng mở rộng hoạt động kinh doanh thu hút thêm số lượng khách hàng. Eximbank Hà Nội còn mở rộng khai thác nguồn vốn ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước thông qua hạn mức tín dụng của Hội sở Trung ương phân bổ hoặc chi nhánh từ giao dịch liên hệ. Tuy nhiên tình hình kinh tế và thực trạng hoạt động của NHTM nói chung có nhiều biến động do vậy cũng ảnh hưởng đến nguồn vốn này. Tóm lại, mặc dù có những khó khăn khách quan và chủ quan, nhưng Eximbank Hà Nội đã luôn cố gắng vượt qua và kinh doanh có hiệu quả tốt. Trong năm 1999, cho dù Eximbank Hà Nội có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn nhưng nguồn vốn huy động chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đây chính là điểm yếu của Ngân hàng Eximbank Hà Nội vì bình quân lãi suất huy động đầu vào cao, đồng thời Ngân hàng luôn phải chịu sức ép về dự trữ thanh khoản do VND bị mất giá so với USD. Tuy nhiên đây là bước đi tất yếu trên con đường hội nhập mà Ngân hàng Eximbank đang tìm cách tháo gỡ để vươn lên. * Về sử dụng vốn : Hiện nay, nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các NHTMViệt Nam nói chung và của chi nhánh Eximbank Hà Nội nói riêng. Là một NHTMCP, vốn hoạt động là do các cổ đông đóng góp, huy động tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế nên hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ vô cùng khó khăn nếu chỉ lơ là một chút thôi thì hậu quả rủi ro tín dụng sẽ khôn lường. Nhận thức được điều này, Eximbank Hà Nội rất chú trọng đến khâu tín dụng, coi đó là hoạt động trọng tâm của Ngân hàng. Ngân hàng luôn thực hiện cho vay với 3 mục tiêu cơ bản : Hiệu quả, an toàn vốn đầu tư và phát triển. Nhờ làm tốt công tác huy động vốn, Eximbank Hà Nội đã tích cực nhanh chóng đa dạng hóa các mặt nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ Ngân hàng trong đó trọng tâm là công tác tín dụng. Tình hình tín dụng của Eximbank Hà Nội được thống kê cụ thể qua bảng: Bảng 2 : Kết cấu dư nợ theo thời hạn cho vay của eximbank hà nội Đơn vị : Triệu đồng. chỉ tiêu 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999 Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Dư nợ ngắn hạn: 236.236 93,68 156.095 87 170.248 84 $ VND 95.764 37,98 41.113 22,90 61.087 30 $ USD 140.472 55,70 114.982 64,10 109.161 54 Dư nợ dài hạn : 15.932 6,32 23.326 13 32.311 16 $ VND 12.188 4,83 17.404 9,70 24.039 11,9 $ USD 3.744 1,49 5.922 3,30 8.272 4,1 Tổng dư nợ : 252.168 100. 179.421 100 202.559 100 Nguồn : Báo cáo tín dụng năm 97, 98, 99 của Eximbank Hanoi. Dư nợ tín dụng tính đến cuối năm 1997 là 252.168 triệu đồng, đến 31/12/1998 là 179.421 triệu đồng giảm 28,8% so với cuối năm 1997. Cuối năm 1999, dư nợ tín dụng là 202.559 triệu đồng tăng so với năm 1998 là 12,9%. Năm 1999, dư nợ tín dụng ngắn hạn là 170.248 triệu đồng chiếm 84% trong tổng dư nợ, giảm 65.988 triệu đồng so với năm 1997 và tăng 14.153 triệu đồng so với năm 1998, trong khi đó dư nợ cho vay trung và dài hạn là 32.311 triệu đồng chỉ chiếm 16% trong tổng dư nợ tín dụng bằng 202,8% so với năm 1997 và tăng 8.985 triệu so với năm 1998 (bằng 138,5%) Là một NHTM, Chi nhánh đã xác định đúng đắn mức vốn cho vay ngắn hạn trong cơ cấu vốn đầu tư. Trong các năm 1997,1998, 1999, tỷ trọng cho vay ngắn hạn luôn ổn định ở mức cao, trên 80%. Mục tiêu lợi nhuận luôn đặt lên hàng đầu nên Ngân hàng nhận thấy rõ ràng cho vay ngắn hạn có ưu thế hơn cho vay trung và dài hạn sau khi nghiên cứu kỹ các dự án có tính khả thi, đem lại hiệu quả, góp phần tăng trưởng kinh tế. Xét theo cơ cấu loại tiền thì năm 1999 dư nợ tín dụng USD là 117.433 triệu đồng chiếm 81,4%, giảm 26.783 triệu đồng so với năm 1997 và giảm 3.471 triệu đồng so với năm 1998. Dư nợ tín dụng VND là 85.126 triệu đồng chiếm 42% trong tổng dư nợ giảm đi 22.826 triệu đồng so với năm 1997 và tăng 26.609 triệu đồng so với cùng kỳ năm 1998. Đặc trưng của Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng nhằm phục vụ sản xuất và chế biến hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Chính vì vậy các khách hàng truyền thống của Ngân hàng thường đến vay để nhập khẩu hàng hoá do đó dư nợ của tiền USD luôn lớn hơn dư nợ của tiền Đồng. Tại Eximbank Hà Nội, đầu tư tín dụng đã bám sát yêu cầu thực tại, mở rộng đầu tư với mọi thành phần kinh tế, sử dụng tối đa nguồn vốn vào tái đầu tư nhằm thu lợi nhuận. Các khách hàng của Chi nhánh Eximbank Hà Nội bao gồm các DNNN, công ty cổ phần, các hộ sản xuất có giấy chứng nhận kinh doanh. bảng 3 : kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng chỉ tiêu 1997 1998 1999 Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Dư nợ NH: 236.236 93,68 156.095 87 170.248 84 DNNN 109.888 43,57 66.717 37,18 68.105 33,6 Cty CP+TNHH 110.266 43,72 79.049 44,1 95.913 47,3 Đối tượng khác 16.082 6,39 10.329 5,72 6.203 3,1 Dư nợ T & DH 15.932 6,32 23.326 13 32.311 16 DNNN 0 0 0 0 1.968 0,97 Cty CP+TNHH 15.932 6,32 23.326 13 29.783 14,74 Đối tượng khác 0 0 0 0 560 0,29 Tổng DN 252.168 100 179.421 100 202.559 100 Qua số liệu trên bảng ta thấy * Đối với thành phần kinh tế quốc doanh: Năm 1999 dư nợ với khối quốc doanh là 70.073 triệu đồng tăng 3.356 triệu đồng so với năm 1998 và giảm 39.815 triệu so với năm 1997 Nhìn chung các DNQD được Ngân hàng đầu tư đa phần là các doanh nghiệp làm ăn tốt, có hiệu quả thực sự vì khi đến vay vốn của Eximbank Hà Nội họ không hề được ưu tiên gì hơn so với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác như khi đến vay các Ngân hàng quốc doanh. Do không được ưu tiên nên họ phải tính toán kỹ lưỡng hiệu quả của đồng vốn vay thì họ mới có nhu cầu vay.Tuy nhiên, điều này không những làm giảm đi khối lượng khách hàng là những doanh nghiệp quốc doanh mà trái lại năm 1999 các doanh nghiệp có uy tín của nhà nước đã đến vay các khoản vay trung và dài hạn tại ngân hàng. * Đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh : Năm 1997 dư nợ với số tiền là 126.198 triệu đồng chiếm tỷ trọng 50,04% trên tổng dư nợ. Năm 1998 dư nợ giảm xuống với số tiền 102.375 triệu đồng với tỷ lệ 57,1% trên tổng dư nợ. Năm 1999 với số tiền dư nợ là 125.696 triệu đồng với tỷ lệ 62,04% trên tổng dư nợ. Như vậy, dư nợ ngắn hạn đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh qua các năm có thay đổi tuy nhiên tỷ lệ phần trăm vẫn luôn ổn định (lớn hơn 50%). Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Chi nhánh thẩm định rất kỹ càng từ tính chất pháp lý của hồ sơ, đến phương án kinh doanh, tư cách thiện trí trả nợ của khách hàng. Chính vì vậy, một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ tư nhân mới cho vay đều thể hiện có năng lực kinh doanh và thực hiện đúng kế hoạch trả nợ. Chi nhánh Ngân hàng Eximbank Hà Nội rất quan tâm đến việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, bằng việc đề ra các qui trình, qui chế hoạt động. Thực hiện lựa chọn dự án đầu tư, lựa chọn khách hàng, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chấp hành chế độ nghiệp vụ, kịp thời phát hiện những sai sót để có biện pháp xử lý phù hợp nhằm đảm bảo an toàn vốn và tài sản. * Đối với các đối tượng khác: Cho vay các DNTN, cá thể, HTX, các Ngân hàng khác giảm dần qua các năm. Năm 1997 cho vay 16.082 triệu đồng chiếm 6,39% so với tổng dư nợ, đến năm 1998 giảm xuống còn 10.329 triệu đồng chiếm 5,72% so với tổng dư nợ và năm 1999 còn 6.790 triệu đồng chiếm 3,39% trong tổng dư nợ. 1.3. Kết quả kinh doanh tại chi nhánh Eximbank Hà nội : Sau 08 năm hoạt động mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng tập thể cán bộ nhân viên Chi nhánh Eximbank Hà Nội dưới sự quan tâm lãnh đạo của Hội đồng quản trị và ban giám đốc, Chi nhánh đã nỗ lực kinh doanh và đạt được kết quả nhất định góp phần vào kết quả chung của toàn hệ thống Eximbank như sau: bảng 4 : kết quả kinh doanh và một số chỉ tiêu chủ yếu Đơn vị : Triệu đồng. Chỉ tiêu 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999 Tổng nguồn vốn 420.279 326.220 492.845 DS cho vay 634.323 366.734 441.031 Dư nợ TD 252.168 179.421 202.559 Nợ quá hạn 17.632 12.503 8.028 Hiệu suất sử dụng vốn 60 55 41 Lợi nhuận 9.960 5.400 7.500 Nguồn: Báo cáo tài chính năm 97, 98, 99 của Eximbank Hanoi. Tóm lại: Hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Eximbank Hà Nội trong năm 1998 tuy giảm do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng kết quả kinh doanh năm 1999 thể hiện sự cố gắng của cán bộ nhân viên trong Ngân hàng, cơ cấu phương thức, đầu tư vốn ngày càng hợp lý hơn. Qua việc mở rộng đầu tư vốn tới các thành phần kinh tế, tạo điều kiện giúp cho các Doanh nghiệp đủ vốn để ổn định, mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế của địa phương, tận dụng khai thác được nhiều tiềm năng sẵn có, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Cùng với những đóng góp đó, mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, làm cho đời sống, việc làm của cán bộ nhân viên Chi nhánh được đảm bảo, kết quả tài chính hàng năm có lãi, thể hiện sự lớn mạnh không ngừng và củng cố nâng cao vị trí của Ngân hàng trong xã hội. Những kết quả trên khẳng định sự quyết tâm cao của tập thể toàn Chi nhánh trong việc thực hiện đúng và đồng bộ chiến lược kinh doanh. Đánh giá những nguyên nhân cơ bản để đạt được những thắng lợi : - Trước hết là có sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và việc làm của đội ngũ cán bộ công nhân viên Chi nhánh Eximbank. Đã xác định được những khó khăn thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của mình. Đã mở rộng màng lưới hoạt động tới từng điểm dân cư, tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí cho khách hàng đến quan hệ, là những địa chỉ tin cậy của mọi người, tạo nên mối quan hệ bền vững tồn tại và phát triển giữa Ngân hàng với khách hàng. - Song song với việc mở rộng màng lưới, Chi nhánh đã thực hiện sàng lọc, sắp xếp tinh gọn bộ máy. Bố trí lại đội ngũ cán bộ theo hướng tập trung, tăng lực lượng nghiệp vụ, giảm số lượng cán bộ gián tiếp. - Đồng thời cải tiến tình trạng nhân viên, tổ chức nhiều loại hình đào tạo cán bộ, nhằm trang bị thêm kiến thức nghiệp vụ, kinh tế thị trường, kiến thức về pháp luật xã hội. Đã tạo nên một bước sự thay đổi về chất trong đội ngũ cán bộ. Như vậy, muốn có thu nhập cao cho cán bộ, nhân viên đòi hỏi phải làm ra được nhiều sản phẩm mà ở đây là số lượng và chất lượng tín dụng đầy đủ hợp lý và tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu sinh lời của Ngân hàng, nếu qui mô tín dụng lớn mà chất lượng kém, Ngân hàng không thu được nợ và lãi thì càng nguy hiểm. Chính vì vậy, khoán tài chính là động lực thúc đẩy mỗi người, mỗi bộ phận công tác phải tập trung suy nghĩ để tìm ra phương thức kinh doanh có hiệu quả nhất, kích thích sự năng động sáng tạo của mỗi người trong việc tìm kiếm thị trường, lựa chọn khách hàng xây dựng dự án để ra quyết định đầu tư vốn sao cho kết quả nhất. - Song song với việc mở rộng hoạt động kinh doanh, Chi nhánh thường xuyên chỉ đạo thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát. Các cấp lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ đã nhận thức đúng và thấm nhuần nguyên tắc ‘‘Mở rộng kinh doanh luôn gắn liền với chất lượng và hiệu quả, chống rủi ro đảm bảo an toàn vốn và tài sản’’. thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh eximbank hà nội : NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động trên lĩnh vưc kinh doanh tiền tệ. Trong các hoạt động thì công tác tín dụng là một mảng chủ yếu của Ngân hàng, thực tế tại Eximbank kinh doanh tín dụng chiếm tới 70% lợi nhuận của Ngân hàng mỗi năm. Với mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng, thủ tục nhanh, thẩm định đúng quy định, đáp ứng vốn kịp thời khi dự án có hiệu quả, Chi nhánh đã nghiêm túc đảm bảo đúng hạn mức tín dụng của Eximbank Việt Nam giao cho, chấp hành nghiêm túc cơ chế tín dụng hiện hành trong đó coi chất lượng tín dụng là yêu cầu hàng đầu. bảng 5: tình hình cho vay thu nợ tại eximbank hà nội Đơn vị : Triệu đồng. chỉ tiêu 1997 1998 1999 Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) I/ Doanh số cho vay 634.323 100 366.734 100 443.031 100 1. Ngắn hạn 621.426 98 353.150 96,29 439.514 99,2 $ VND 253.098 40 146.496 39,9 183.102 41,3 $ USD 368.328 58 206.654 56,39 256.412 57,9 2. Trung và DH 12.897 2 13.584 3,71 3.517 0,8 $ VND 8.364 1,3 12.310 3,36 430 0,1 $ USD 4.533 0,7 1.274 0,35 3.087 0,7 II/ DS thu nợ 690.935 100 442.490 100 419.893 100 1. Ngắn hạn 682.578 98,8 439.659 99,36 417.089 99,3 $ VND 270.812 39,2 166.171 37,6 203.286 48,4 $ USD 411.766 59,6 273.488 61,76 213.803 50,9 2. Trung và DH 8.357 1,2 2.831 0,64 2.804 0,7 $ VND 5.386 0,77 1.375 0,31 430 0,1 $ USD 2.971 0,43 1.456 0,33 2.374 0,6 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tại Eximbank Hanoi năm 97, 98, 99. Theo bảng báo cáo tín dụng của Chi nhánh Eximbank Hà Nội ta nhận thấy. Năm 1999, doanh số cho vay đạt 443.031 triệu đồng giảm đi 191.292 triệu so với năm 1997 và tăng 76.297 triệu đồng so với năm 1998. Trong đó doanh số cho vay ngắn hạn là 439.514 triệu đồng giảm 181.912 triệu đồng so với năm 1997 và tăng 86.364 triệu đồng so với năm 1998. Doanh số cho vay trung và dài hạn là 3.517 triệu đồng chiếm 0,8% trong tổng doanh số cho vay, giảm 9.380 triệu đồng so với năm 1997 và giảm 10.067 triệu đồng so với năm 1998. Ngân hàng có chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn càng cao thì hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại. Đối với những Ngân hàng lấy nghiệp vụ tín dụng làm nghiệp vụ sinh lời là chủ yếu thì chỉ tiêu hiệu quả tín dụng càng đánh giá chính xác tình hình hoạt động của Ngân hàng. Hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng được tính theo công thức : Tv H = --------- 100% Thđ Trong đó: H : hiệu suất sử dụng vốn. Tv : tổng dư nợ Thđ : tổng nguồn vốn huy động. Hiệu suất của Ngân hàng Exim bank Hà Nội được thống kê qua bảng sau : bảng 6 : hiệu Suất sử dụng vốn của ngân hàng eximbank hà nội Chỉ tiêu 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999 Tổng nguồn vốn huy động 420.279 326.220 492.845 Tổng dư nợ tín dụng 252.168 179.421 202.559 Hiệu suất sử dụng vốn ( % ) 60 55 41 Nhìn vào hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng là 60% đối với năm 1997, 55% năm 1998, 41% năm 1999 ta không thể vội vàng đi đến kết luận Ngân hàng kinh doanh kém hiệu quả. Do có quan hệ đại lý giao dịch tốt với các ngân hàng trong nước cũng như ngân hàng nước ngoài chính vì vậy với số tiền dư nợ mà ngân hàng cho các tổ chức tín dụng khác vay đã đưa hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng luôn lớn hơn 80% qua các năm. Tóm lại, qua các báo cáo tín dụng trên, chúng ta thấy rõ ràng hoạt động tín dụng của chi nhánh Exim bank Hà Nội tăng cả về mặt số lượng, chất lượng so với năm 1998. Tuy đây chỉ là thành tích khiêm tốn nhưng đội ngũ cán bộ Ngân hàng nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng đã có những nỗ lực lớn. Vì năm 1999, nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến các doanh nghiệp và các Ngân hàng. Hơn nữa, Chi nhánh Exim bank Hà Nội đã kiên quyết chỉ thực hiện cho vay đối với những đơn vị cá nhân hoạt động kinh doanh liên tục có lãi ít nhất liên tục từ hai năm trở lên. Đối với những đơn vị thuộc diện khó đòi và có nợ quá hạn thì Ngân hàng lập tức ngừng cho vay đến khi đơn vị đó trả hết nợ. Như vậy, trong năm 1998, 1999, Chi nhánh đã tập trung hơn vào công tác thu nợ, thể hiện ở doanh số thu nợ cả đồng nội tệ và ngoại tệ đều lớn hơn doanh số cho vay. Điều này chứng tỏ Chi nhánh Exim bank Hà Nội luôn chú trọng vào mục tiêu an toàn vì đó là tiền đề cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được diễn ra suôn sẻ. Là một Ngân hàng còn rất trẻ, thời gian hoạt động mới được 08 năm lại phải chịu sự cạnh tranh của các Ngân hàng lớn với bề dầy kinh nghiệm và nhiều khách hàng quen thuộc trong và ngoài nước, thì đối với Chi nhánh Exim bank Hà Nội để đạt được dư nợ như vậy đã là một thành công lớn. Chi nhánh đã không ngừng mở rộng địa bàn tín dụng, không những chỉ ở Hà Nội mà còn ở các tỉnh phía Bắc. Nhiều đơn vị, tổ chức kinh tế ở các tỉnh : Thanh Hoá, Hải Phòng, Hà Bắc... đã mở tài khoản giao dịch, quan hệ vay vốn, thanh toán với chi nhánh. Trên đây, chúng ta chỉ mới xem xét về mặt số lượng của công tác tín dụng của Ngân hàng Exim bank Hà Nội. Để đánh giá chính xác được hiệu quả của công tác này, chúng ta phải xem xét cả về mặt chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Điều này được phản ánh qua nợ quá hạn và vòng quay vốn tín dụng của Ngân hàng năm 1997,1998,1999. Phân tích chất lượng tín dụng: Kinh doanh tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của Ngân hàng. Tuy nhiên cũng như các ngành khác, lợi nhuận luôn gắn với mạo hiểm và rủi ro. Hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Với nguồn vốn huy động đã có sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất là công việc hết sức khó khăn. Nếu nguồn vốn huy động lớn mà dư nợ nhỏ thì Ngân hàng sẽ bị ứ đọng vốn, Ngân hàng không tìm được khách hàng tin cậy để cho vay. Nhưng nếu dư nợ tín dụng tăng quá cao thì cũng không phải là điều tốt. Dư nợ tín dụng tăng quá nhiều có thể dẫn đến tình trạng không thu hồi được hết nợ và làm giảm đi hiệu quả sinh lời của vốn Ngân hàng. Dư nợ tín dụng quá nhiều có thể dẫn đến cho Ngân hàng có những khoản nợ không thu hồi được khi đến hạn và sau khi đã gia hạn nợ phải chuyển sang nợ quá hạn. Việc này làm chậm vòng luân chuyển vốn của Ngân hàng dẫn đến giảm lợi nhuận. Để đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau: * Chỉ tiêu thứ nhất Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = ------------------------------- Dư nợ bìmh quân Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Hệ số này ngày càng tăng phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng càng tốt, có tình hình tài chính vững chắc, đây là cơ sở để khách hàng thực hiện những cam kết trên hợp đồng tín dụng. Về phía Ngân hàng vòng quay của vốn tín dụng thể hiện khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng, chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng giải quyết hợp lý giữa ba lợi ích : Nhà nước, khách hàng và Ngân hàng. Để nhận xét chính xác tình hình chất lượng tín dụng, các tiêu thức tính toán cần phải đồng nhất, vì vậy vòng quay vốn tín dụng phải tính cho từng loại cho vay với thời hạn cho vay cụ thể (ví dụ tính riêng cho vay ngắn hạn, cho vay dài hạn trong đó vay ngắn hạn tính riêng theo từng thời hạn 6 tháng, 9 tháng...) bởi vậy để có kết luận chính xác, cần phải tiến hành công nghệ hoá để giảm bớt tính phức tạp của việc tính toán. Kỳ luân chuyển vốn tín dụng nhanh nhiều thể hiện chất lượng tín dụng tốt, tổng số dư nợ trong thời kỳ lớn. Ngược lại thể hiện chất lượng tín dụng không tốt, thu nợ trong kỳ kém, vốn tín dụng bị đóng băng. Theo công thức trên, kỳ luân chuyển vốn tín dụng phụ thuộc vào 2 chỉ tiêu: doanh số thu nợ trong kỳ càng cao kỳ luân chuyển vốn càng nhanh và ngược lại dư nợ cho vay bình quân càng nhỏ, kỳ luân chuyển vốn càng nhanh. Chỉ tiêu này lại phản ánh công tác cho vay kém về mặt số lượng. Ta xét tình hình vòng quay tín dụng tại Eximbank Hà Nội được biểu hiện qua bảng sau: bảng 7 : vòng quay vốn tín dụng tại eximbank hà nội Đơn vị : Triệu đồng. Chỉ tiêu 31/12/1998 31/12/1999 Doanh số thu nợ VND 167.546 203.716 Doanh số thu nợ USD 274.944 216.177 Dư nợ bình quân VND 83.234,5 42.563 Dư nợ bình quân USD 132.560 119.168,5 Vòng quay vốn tín dụng VND ( vòng ) 2,01 4,78 Vòng quay vốn tín dụng USD ( vòng ) 2,07 1,81 Nguồn : Báo cáo tài chính năm 97, 98, 99 tại Eximbank Hanoi. Như vậy vòng luân chuyển vốn tín dụng VND trong năm 1999 tăng là do: Trong năm 1999, chi nhánh đã thực hiện tốt công tác thu nợ của những khoản cho vay trong năm đồng thời thu hồi được một số nợ khê đọngcủa năm 1997, 1998. Dư nợ nội tệ và ngoại tệ năm 1999 đều tăng so với năm 1998. Điều này, như đã phân tích, phản ánh công tác cho vay đạt nhiều kết quả hơn các năm trước. Tuy nhiên vòng quay vốn tín dụng USD chậm hơn vòng quay vốn tín dụng VND điều đó thể hiện hiệu quả của mỗi đồng USD cho vay ra là thấp hơn so với hiệu quả vòng quay tín dụng VND. * Chỉ tiêu thứ hai: Nợ quá hạn Tỷ lệ = ------------------- Tổng dư nợ Hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng không thể tránh được việc có nợ quá hạn. Nợ quá hạn hiện nay đang là vấn đề bức xúc cần giải quyết của mọi Ngân hàng. Những khoản nợ đến hạn mà khách hàng không trả được (cố tình không trả hoặc không có khả năng trả) đều phải chuyển sang nợ quá hạn. Với những khoản nợ này, Ngân hàng tính lãi suất cao hơn lãi suất cho vay bình quân nhằm bù lại phần thiệt thòi cho Ngân hàng khi không thu hồi được vốn và để phạt doanh nghiệp. Tại chi nhánh Exim bank Hà Nội, lãi suất áp dụng cho nợ quá hạn là 1,5 lần lãi suất thường. Những khoản nợ này gây cho Ngân hàng những khó khăn: Thứ nhất cán bộ tín dụng phải luôn theo dõi, đôn đốc nhắc nhở khách hàng trong việc hoàn trả vốn vay và lãi. Thứ hai nó làm tăng rủi ro tín dụng khi khách hàng cứ xin gia hạn nợ thêm mà không có khả năng trả gốc và lãi. Ngân hàng có thể dùng nhiều biện pháp để thu hồi nợ quá hạn, song điều đó có thể bắt buộc Ngân hàng tốn nhiều chi phí. Nếu trong quá trình theo dõi nợ đến hạn và chuyển nợ quá hạn làm không đúng quy định sẽ dẫn đến nợ khó đòi, Ngân hàng khó có khả năng thu hồi được. bảng 8 : tình hình nợ quá hạn tại eximbank hà nội chỉ tiêu 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999 Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) I. Dư nợ ngắn hạn 236.236 156.095 170.248 1. DNNN 109.888 100 66.717 100 68.105 100 - Nợ quá hạn 6.505 5,9 4.411 6,6 2.428 3,5 2. Cty CP+TNHH 110.266 100 79.049 100 95.913 100 - Nợ quá hạn 6.218 5,6 5.036 6,3 3.395 3,5 3. Đối tượng khác 16.082 100 10.329 100 6.230 100 - Nợ quá hạn 1.911 11,9 1.988 19,2 1.081 17,3 II . Dư nợ trung và dài hạn 15.932 23.326 32.311 1.DNNN 1.968 100 Nợ quá hạn 2. Cty CP+TNHH 15.932 100 23.326 100 29.783 100 - Nợ quá hạn 3. Đối tượng khác 560 100 - Nợ quá hạn Tổng dư nợ 252.168 100 179.421 100 202.559 100 Tổng dư nợ quá hạn 14.634 5,8 11.435 6,3 6.904 3,4 Đơn vị : Triệu đồng Nguồn : Báo cáo tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hanoi. Tổng dư nợ quá hạn qua các năm giảm đi rõ rệt. Năm 1997, tổng dư nợ là 14.634 triệu đồng thì đến năm 1998 giảm đi 3.199 triệu đồng tức là còn 11.435 triệu đồng chiếm 6,3% trong tổng dư nợ. Đến năm 1999, dư nợ quá hạn của Exim bank Hà Nội là 6.904 triệu đồng chiếm 3,4% trong tổng dư nợ giảm đi 4.531 triệu đồng so với năm 1998. Như vậy, tỷ trọng nợ quá hạn qua các năm giảm đi đáng kể. Đây chính là một thành công lớn trong kinh doanh tín dụng năm 1999. Với tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ năm 1999 là 3,4% Ngân hàng đã giảm mức tổng dư nợ quá hạn năm 1999 bằng 60,4% so với năm 1998. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đã không những thu được các khoản nợ cho các đơn vị, tổ chức kinh tế vay của năm nay mà Ngân hàng còn thực hiện tốt được công tác thu hồi nợ của các năm trước còn tồn đọng lại. Đặc biệt tại Ngân hàng tất cả các khoản nợ cho vay trung và dài hạn chưa bao giờ có nợ quá hạn cho dù đó là Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hay đối tượng khác. Phân tích nợ quá hạn của từng thành phần kinh tế ta thấy : nhìn chung nợ quá hạn của mọi đối tượng giảm rõ rệt, tuy nhiên tỷ trọng nợ quá hạn/ tổng dư nợ từng thành phần kinh tế lại khác nhau. Cụ thể như: - Các doanh nghiệp Nhà nước là khách hàng của Ngân hàng thường là các đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực xuất nhập khẩu. Năm 1997-1998 các doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng rất lớn của cuộc khủng hoảng tiền tệ, những quan hệ làm ăn, hợp đồng kinh tế bị thay đổi hoặc huỷ bỏ hàng loạt. Chính nguyên nhân khách quan này dẫn đến tình trạng các khoản vay ngắn hạn của họ không hoàn trả dúng thời hạn, dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 5,9% (1997) 6,6% (1998). Tuy nhiên sau khi “cơn bão khủng hoảng tiền tệ” qua đi thì các doanh nghiệp dần dần ổn định tiếp tục kinh doanh có lãi và giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống còn 3,5% trong năm 1999. Điều này cho ta thấy các khách hàng là DNNN đến với Ngân hàng Exim bank Hà Nội đều là các doanh nghiệp làm ăn có lãi và đồng vốn đi vay thực sự có hiệu quả. - Các công ty cổ phần, công ty TNHH cũng có dư nợ quá hạn giảm đi rõ rệt, tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ năm 1999 giảm 1.641 triệu đồng so với năm 1998. Đây là đối tượng khách hàng chính của Ngân hàng do vậy Ngân hàng cần có biện pháp giảm tỷ lệ nợ quá hạn của thành phần kinh tế này xuống thấp hơn nữa thì hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng sẽ tăng. Các đối tượng còn lại bao gồm các DNTN, cá thể, HTX, có tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ khá cao (10%) nhưng trong năm 1999 có giảm hơn so với năm 1998. Bởi vì trong năm 1998 nền kinh tế có nhiều biến động, đối tượng này đa số là các doanh nghiệp nhỏ, cá thể... nên việc chèo chống qua những biến động của kinh tế là khó khăn hơn các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên tổng dư nợ quá hạn của thành phần này lại nhỏ nhất. bảng 9 : tình hình nợ quá hạn của các thành phần kinh tế tại eximbank hà nội thành phần kinh tế 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999 Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) Số tiền Tỉ trọng ( % ) 1. DNNN 6.505 44,4 4.411 38,6 2.428 35,2 2. Cty CP+TNHH 6.218 42,4 5.036 44 3.395 49,2 3. Đối tượng khác 1.911 13,2 1.988 17,4 1.081 15,6 Tổng dư NQH 14.634 100 11.435 100 6.904 100 Đơn vị : Triệu đồng. Nguồn : Báo cáo tài chính năm 97, 98, 99 tại chi nhánh Eximbank Hanoi. Xem xét tỷ trọng nợ quá hạn theo từng thành phần kinh tế ta thấy đối tượng gây ra nợ quá hạn lớn nhất cho Ngân hàng là các công ty cổ phần và TNHH. Tỷ lệ này năm 1997 là 42,4% đến năm 1998 tăng lên 44% và đến năm 1999 lên tới 49,2%. Điều đó chứng tỏ công ty cổ phần và TNHH làm ăn chưa có lãi và việc hoàn trả nợ cho Ngân hàng chưa được chú ý đúng mức. Năm 1999, mặc dù Ngân hàng có số dư nợ cho vay đối với thành phần này là tăng16.864 triệu đồng so với năm 1998 và Ngân hàng cố gắng tập trung vào công tác thu nợ đưa nợ quá hạn của đối tượng này từ 5.036 triệu đồng xuống còn 3.395 triệu đồng giảm đi 1.641 triệu đồng so với năm 1998, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn của thành phần này trong năm 1999 lại tăng bằng 49,2% so với tổng dư nợ quá hạn. Điều này chứng tỏ, Chi nhánh cần phải xem xét lại cơ cấu dư nợ sao cho kết quả kinh doanh của Chi nhánh tốt hơn. Tuy số dư nợ quá hạn có giảm đi nhưng vẫn ở mức độ cao, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Chi nhánh. Bên cạnh việc phân tích tình trạng nợ quá hạn của Ngân hàng theo các thành phần kinh tế như trên, ta có thể xem xét, đánh giá nợ quá hạn đối với việc cho vay bằng ngoại tệ và VND tại Chi nhánh Exim bank Hà Nội : bảng 10 : dư nợ quá hạn vnd và usd của nh eximbank hà nội chỉ tiêu 1997 1998 1999 Giá trị Tỉ trọng ( % ) Giá trị Tỉ trọng ( % ) Giá trị Tỉ trọng ( % ) Dư NQH VND 3.805 26 3.202 28 1.656 24 Dư NQH ngoại tệ ( Quy đổi VND ) 10.829 74 8.233 72 5.248 76 Tổng dư NQH 14.634 100 11.435 100 6.904 100 Đơn vị : Triệu đồng. Nguồn : Báo cáo tài chính năm 97, 98, 99 tại chi nhánh Eximbank Hanoi. Xem xét bảng trên ta thấy, dư nợ quá hạn trong cho vay bằng VND thường nhỏ hơn rất nhiều so với dư nợ quá hạn cho vay bằng ngoại tệ. Sở dĩ như vậy là do: + Sau 08 năm đi vào hoạt động, các kết quả kinh doanh thu được thể hiện sự cố gắng của toàn bộ tập thể cán bộ ngân hàng. Trong thực tế ngân hàng vẫn luôn phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt của các ngân hàng lớn có hàng mấy chục năm tuổi nghề. Cụ thể Ngân hàng đầu tư 80% là tài trợ cho kinh doanh xuất nhập khẩu 20% cho vay các lĩnh vực khác, trong đó chỉ có 12% trên tổng dư nợ tài trợ cho xuất khẩu (vì tất cả các đơn vị kinh doanh xuất khẩu lâu năm thường là khách hàng truyền thống của Ngân hàng ngoại thương Việt nam) còn lại 68% tài trợ cho nhập khẩu. Điều này lý giải vì sao các doanh nghiệp vay VND ít hơn vay ngoại tệ do đó dư nợ VND nhỏ hơn dư nợ ngoại tệ. Điều này hiển nhiên dẫn tới dư nợ quá hạn nội tệ nhỏ hơn dư nợ quá hạn ngoại tệ. + Lãi suất cho vay VND lớn hơn lãi suất cho vay ngoại tệ. Đây là lý do cơ bản nhất. Tại Ngân hàng Exim bank Hà Nội, lãi suất cho vay USD năm 1999 là 0,625%/tháng trong khi lãi suất vay VND trong năm 1999 là 0.85%/tháng, lớn hơn rất nhiều. Do đó các doanh nghiệp thường chú ý đến nợ VND điều này thường gây ra những thiệt thòi cho Ngân hàng khi bị chiếm dụng vốn ngoại tệ trong thời gian dài. Qua số liệu phân tích trên cho thấy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng tương đối ổn định và phát triển. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng cón chứa đựng một số nguyên nhân mang lại rủi ro mà đặc biệt là rủi ro do nguyên nhân khách quan đem lại, đòi hỏi phải tính toán định lượng được trước những tổn thất trong kế hoạch kinh doanh của mình. Từ đó tìm những giải pháp để hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất đó để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao hơn. Nếu Chi nhánh không có những giải pháp đồng bộ, tích cực để củng cố nâng cao chất lượng tín dụng sẽ gây những hậu quả cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và kinh tế trên địa bàn. Tóm lại, với sự phấn đấu nỗ lực, có thể nói công tác kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Exim bank Hà Nội năm 1999 được mở rộng hơn năm 1997, 1998 chất lượng tín dụng đã được tăng lên một cách đáng kể. Đó là những thành tích lớn trong công tác tín dụng năm 1999 tại chi nhánh Ngân hàng Exim bank Hà Nội. 3. đánh giá những nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng tại exim bank hà nội. Tín dụng Ngân hàng là một loại kinh doanh đặc biệt mang tính tổng hợp gắn liền với các điều kiện kinh tế chính trị của đất nước. Bởi vậy muốn đưa ra những biện pháp khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chúng ta phải tìm ra những nguyên nhân, những yếu tố tác động đến chất lượng hoạt động tín dụng. 3.1. Nguyên nhân bên ngoài : Môi trường kinh tế: Nền kinh tế của nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, nhiều vấn đề còn dở dang, các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới, bởi vậy nhiều vấn đề còn chưa hoàn thiện. Môi trường kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong đó các NHTM còn thiếu nhiều yếu tố như: hệ thống văn bản pháp luật nhà nước đang được hình thành nhưng chưa đồng bộ, thậm chí có khi chồng chéo. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng chưa thực sự độc lập, đôi khi còn chịu những tác động của phương pháp quản lý bằng mệnh lệnh hành chính làm cho tín dụng kém hiệu quả. Các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, khả năng tự vay vốn bị hạn chế, dẫn đến vốn để đầu tư chiều sâu, mở rộng bị thu hẹp, thiếu thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, khiến cho tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn trong cả khâu sản xuất lẫn tiêu thụ hàng hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của Doanh nghiệp và khả năng trả nợ vốn vay Ngân hàng. Bên cạnh đó, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng lậu và hàng nhập ngoại, các doanh nghiệp chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng về điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô. Vì vậy một số doanh nghiệp và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hàng hoá vật tư bị tồn kho, thua lỗ, mất khả năng thanh toán, làm phát sinh nợ khó đòi. Môi trường pháp lý : Môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng của Ngân hàng chưa đầy đủ, đồng bộ. Một số văn bản pháp lý có liên quan tới vấn đề thế chấp vốn vay Ngân hàng, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác qui định chưa đồng bộ, đầy đủ, nhất là thiếu các văn bản hướng dẫn, hoặc có hướng dẫn nhưng chưa phù hợp, nên quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, thể hiện: * Về cơ sở pháp lý của tài sản thế chấp: Theo quy định của luật pháp thì cơ sở đảm bảo cho việc thế chấp tài sản là bản hợp đồng được ký kết giữa hai bên thế chấp và nhận thế chấp, cùng bản gốc giấy tờ chứng minh cùng sở hữu tài sản do bên thế chấp giao cho bên nhận thế chấp. Thực tế các cơ quan quản lý Nhà nước chịu trách nhiệm cấp chứng thư nhận quyền sở hữu tài sản cho các chủ sở hữu chưa được rộng khắp. Do đó thế chấp và xử lý tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng nhiều khó khăn phức tạp, do thiếu cơ sở pháp lý và quyền sở hữu tài sản. Đối với DNNN, hầu hết không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài sản khi giao vốn mà chỉ có bản xác nhận tổng số vốn giao của cơ quan thẩm quyền. Trên thực tế nhiều DNNN vay vốn chưa thực hiện thế chấp tài sản, một phần vì chưa làm được giấy tờ chứng nhận sở hữu. * Vấn đề phát mại tài sản thế chấp: Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hoạch toán thống kê chính xác kịp thời. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa hoạch toán kế toán theo qui định, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nên số liệu không phản ánh chính xác tình hình sản xuất, kinh doanh tài chính của khách hàng, làm cho việc xử lý phân tích thông tin và ra quyết định của Ngân hàng cũng thiếu chính xác. Hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng và hợp đồng kinh tế... Các hình thức kinh doanh tiền tệ trái phép đang phát triển nhanh chóng và hoạt động tự do, như các tổ chức cho vay nặng lãi, cho vay nóng,... không có cơ quan nào quản lý, kiểm tra kiểm soát, thủ đoạn của chúng là móc nối với khách hàng để lừa đảo Ngân hàng cho vay tiền, cho vay lại vay nóng, giúp khách hàng đảo nợ ở các tổ chức tín dụng, gây khó khăn cho hoạt động tín dụng Ngân hàng. Hiện nay, các tổ chức tín dụng mới được phép trích. “ Quĩ dự phòng đặc biệt mà thực chất là quĩ dự phòng chung cho các loại rủi ro. Theo cơ chế hiện hành, quĩ này được tính bằng 10% số lợi nhuận sau khi nộp thuế là chưa phù hợp với nguyên tắc hoạch toán kinh doanh và không bình đẳng với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Khi có rủi ro xảy ra quĩ này không đủ bù đắp, nên gây những khó khăn cho hoạt động Ngân hàng. 3.2. Nguyên nhân bên trong: Về cơ cấu đầu tư của ngân hàng: Tỷ trọng cho vay ngoại tệ của Ngân hàng trong tổng dự nợ vẫn rất cao (58,1%). Như đã phân tích, cho vay ngoại tệ lãi suất thấp rủi ro cao cho vay VND lãi suất cao rủi ro thấp vì khách hàng khi có dư nợ vay ngoại tệ và tiền VND, họ sẽ tập trung ưu tiên trả nợ VND trước (do phải chịu lãi suất cao). Chính vì thế tỷ lệ nợ quá hạn của USD là rất cao. Điều này chứng tỏ cho vay bằng ngoại tệ có rủi ro cao hơn. Do vậy, chi nhánh cần thay đổi cơ cấu đầu tư của mình theo hướng tích cực cho vay VND, giảm vay bằng ngoại tệ. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn của Chi nhánh còn chiếm tỷ lệ nhỏ so với cho vay ngắn hạn trong tổng dư nợ (chỉ chiếm 16%). Chi nhánh cần tích cực nâng cao dư nợ cho vay trung và dài hạn vì đầu tư trung và dài hạn không những giúp doanh nghiệp đổi mới thiết bị, công nghệ phục vụ cho sản xuất mà còn giúp cho Ngân hàng hạn chế rủi ro trong quá trình cho vay( Eximbank chưa từng có nợ quá hạn đối với các khoản vay trung và dài hạn). Về chính sách đầu tư : Trong những năm qua chi nhánh luôn cố gắng mở rộng mạng lưới phục vụ xuống các địa phương ở miền Bắc. Điều này có tác dụng rất lớn làm tăng khối lượng tín dụng của Ngân hàng song lại có những hạn chế về sự nắm rõ khách hàng, hiểu biết khách hàng và gặp khó khăn trong việc kiểm tra trước, trong và sau khi vay, nên để khách hàng sử vốn sai mục đích (dùng vốn vay ngắn hạn vào đầu tư xây dựng cơ bản hoặc khi bán được hàng thì không trả nợ ngay mà để quay vòng vốn, mua bán lòng vòng...) Và cán bộ Ngân hàng không phát hiện ra để ngăn chặn kịp thời, dẫn tới khách hàng không trả được nợ vay đúng hạn. Về trình độ cán bộ tín dụng: Mặc dù chi nhánh luôn quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng, ngay trong việc tuyển lựa cán bộ tín dụng cũng đặt ra yêu cầu trình độ đại học, đã qua công tác tín dụng ở Ngân hàng khác, hiểu biết về các ngành kinh tế khác. Song điều bất cập xảy ra là trình độ bằng cấp thì nhiều song việc áp dụng vào thực tế công việc lại đòi hỏi phải năng động, nhanh nhạy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực quản lý, trình độ, kiến thức khoa học và thực tiễn cuộc sống để quyết đoán một món vay cho phù hợp, đúng cơ chế, tính toán được hiệu quả cho cả Ngân hàng và kháchh hàng, và có thể lường trước được những bất trắc có thể xảy ra.Thực tế tại Exim bank Hà Nội, điều này còn đang tồn tại vì là một Ngân hàng còn rất trẻ nên cán bộ tín dụng chưa có bề dày kinh nghiệm trong vấn đề kiểm tra theo dõi chặt chẽ món vay dẫn đến đơn vị sử dụng vốn sai mục đích, do vậy khi đến hạn không trả được nợ phải chuyển qua nợ quá hạn. Quy trình tín dụng : Trong việc thực hiện chiến dịch màng lưới gắn với cơ chế khoán tài chính phân phối tiền lương theo kết quả làm ra để chiếm lĩnh thị trường, tăng cường lợi thế cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Một số cán bộ chưa ý thức được mục đích, ý nghĩa của nó là mở rông kinh doanh Ngân hàng gắn liền với hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả của chính bản thân Ngân hàng, mở rộng cho vay mang tính thái quá, để có thu nhập cao, chạy theo số lượng mà không quan tâm tới chất lượng và hiệu quả vốn đầu tư, dẫn đến hậu quả xấu cho chất lượng tín dụng. Thông tin tín dụng : Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa thực sự phát huy hiệu quả, chưa có một qui chế đủ hiệu lực đưa các NHTM, tổ chức tín dụng trên địa bàn cùng vào guồng máy để có sự hợp tác và tương trợ lẫn nhau trong việc đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời. Kiểm soát nội bộ: Vai trò chủ động kiểm tra, kiểm soát tự phát hiện của các Chi nhánh cơ sở làm chưa thường xuyên và chưa sâu sát và nghiêm túc, cả về mặt nội dung, phương pháp và các biện pháp xử lý. Chất lượng kiểm tra, phúc tra và sửa chữa sai sót kiểm tra chưa cao, khắc phục xử lý chưa kiên quyết và dứt điểm. Tóm lại: Qua đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng ở Chi nhánh Ngân hàng Exim bank Hà Nội trong những năm qua đã khẳng định được vai trò tín dụng Ngân hàng góp phần vào sự nghiệp phát triển xây dựng kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ. Tuy vậy, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải xem xét một cách nghiêm túc để có giải pháp khắc phục, nhằm không ngừng củng cố chất lượng tín dụng, đóng góp tốt hơn nữa cho quá trình xây dựng kinh tế và phát triển xã hội đất nước. Chương III: Những giảI pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng eximbank hà nội. Qua việc phân tích đánh giá tình hình huy động vốn và sử dụng vốn tại Exim bank Hà Nội ta thấy rằng; Cùng với sự chuyển biến của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trong hoạt động kinh doanh tiền tệ đặc biệt là công tác huy động vốn và sử dụng vốn trên địa bàn. Đó là kết quả đạt được do sự chỉ đạo sát sao của NHNN, Việt Nam Exim bank cùng với ban lãnh đạo, các phòng ban làm việc một cách khoa học không mệt mỏi, đã căn cứ vào tình hình thực tế của Ngân hàng và địa bàn Ngân hàng để phục vụ, từ đó đưa ra các giải pháp hợp lý phù hợp với yêu cầu của khách hàng mà vẫn đảm bảo lợi ích, mục tiêu của Ngân hàng. 1. quan điểm, định hướng và mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng 1.1. Quan điểm về nâng cao chất lượng tín dụng : Để ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường và thực sự trở thành đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần thực hiện chiến lược phát triển Ngân hàng đến năm 2005, đó là “tạo lập một hệ thống Ngân hàng đủ mạnh cả về năng lực hoạch định chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh, đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để hoạt động kinh doanh, để hoạt động Ngân hàng bắt kịp với cơ chế thị trường, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, đáp ứng mọi nhu cầu vốn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, phục vụ tốt cho tăng trưởng nhanh và bền vững”. 1.2. Mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới Là một NHTM, Exim bank Hà Nội có chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và làm các dịch vụ Ngân hàng, kết hợp việc thực thì các chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn Ngân hàng phục vụ. Mục tiêu của Ngân hàng là phấn đấu trở thành một trong những tổ chức tài chính quan trọng, có vị trí then chốt trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của thủ đô theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Để làm được như vậy, Exim bank Hà Nội phải phát triển mạnh để trở thành một Ngân hàng hiện đại có đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, phục vụ việc đầu tư, chuyển giao công nghệ và các nhu cầu khác xuất hiện trên địa bàn. Mục tiêu của các doanh nghiệp nói chung, của các NHTM nói riêng là tối đa hoá lợi nhuận trong điều kiện cho phép. Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và là điều kiện để tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Do đó, nâng cao chất lượng tín dụng là phải phục vụ mục tiêu đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng thông qua các khoản tín dụng được cấp cho khách hàng. Lợi nhuận của Ngân hàng phụ thuộc vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực hiện có, giảm thiểu rủi ro trong quá trình cho vay và dự tính đúng khả năng phát triển trong tương lai để có chính sách tín dụng và biện pháp phù hợp. Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, nó phản ảnh cả mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh tức phản ánh chất lượng tín dụng mà cụ thể là hiệu quả của NHTM trong việc sử dụng các nguồn lực hiện có để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên động cơ lợi nhuận của NHTM phải luôn gắn với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng còn phải nằm vào sự phát triển của nền kinh tế, tạo sự vững chắc cho chiến lược phát triển kinh tế lâu bền của đất nước. Và cũng từ đó có tác động ngược trở lại để NHTM không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng và đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. 1.3. Định hướng nâng cao chất lượng tín dụng: Linh hoạt trong huy động vốn cho phù hợp với sự phát triển về quy mô yêu cầu sử dụng vốn, trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải tuyệt đối đảm bảo khả năng thanh toán trong cả hai loại vốn nội và ngoại tệ. Làm cho hoạt động tín dụng thích nghi nhanh với cơ chế thị trường, đa dạng hoá hoạt động tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận trên cơ sở tiết kiệm chi phí và giảm thiểu rủi ro trong khuôn khổ pháp luật qui định, góp phần kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế ổn định tiền tệ, thực hiện tốt chính sách tiền tệ tín dụng. Từng bước hiện đại hoá quá trình nghiệp vụ tín dụng, trên cơ sở đổi mới công nghệ Ngân hàng, tạo tiền đề đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế với chất lượng tốt, góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước quốc tế hoá hoạt động Ngân hàng, hội nhập với cộng đồng và tài chính tiền tệ quốc tế. Từng bước hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy và phương thức điều hành, nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, trình độ tin học và ngoại ngữ, rèn luyện phẩm chất và phong cách, đáp ứng đòi hỏi của hoạt động tín dụng trong thời kỳ mới. Cần giao trách nhiệm cụ thể, rõ ràng xử phạt nghiêm minh nhưng cũng phải quan tâm hơn nữa đến quyền lợi của cán bộ tín dụng một cách thỏa đáng. Đòi hỏi cán bộ cần phải có một kiến thức nhất định để thẩm định, tái thẩm định dự án đầu tư thật kỹ. Trước khi quyết định đầu tư phải nhận thức đầy đủ về đối tượng đầu tư. Tăng cường công tác thanh tra kiểm soát từ nhiều phía, kiểm soát nội bộ, kiểm soát chồng chéo để từ đó có biện pháp khắc phục, sửa chữa sai lầm kịp thời nhằm giảm rủi ro ở mức thấp nhất trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đồng thời nâng cao trình độ quản lý kinh doanh, đảm bảo cho hoạt động tín dụng theo đúng luật pháp, an toàn và hiệu quả. 2. những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ở chi nhánh ngân hàng exim bank hà nội. 2.1. Xây dựng và sử dụng quĩ bù đắp rủi ro cho hoạt động tín dụng: Rủi ro tín dụng luôn là bạn đồng hành với hoạt động kinh doanh tín dụng của các NHTM, rủi ro tín dụng làm cho các NHTM kinh doanh không có hiệu quả, làm ngưng trệ thậm chí làm cho Ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Do công tác tín dụng là một công tác sống còn của một NHTM, nên phải có cơ chế để chủ động khắc phục nó. Đã kinh doanh là phải chấp nhận rủi ro, kinh doanh tiền tệ lại có mức độ rủi ro tăng gấp nhiều lần so với loại hình kinh doanh khác, bởi kết quả kinh doanh của Ngân hàng không những phụ thuộc vào các yếu tố như ở các doanh nghiệp bình thường vẫn có, mà còn phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của khách hàng (đặc biệt là khách hàng vay vốn) rủi ro trong kinh doanh của khách hàng cuối cùng dẫn đến rủi ro của Ngân hàng. Cho đến nay vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu để phòng chống rủi ro mất vốn do người vay gây ra, ngoài quĩ dự phòng đặc biệt quá bé nhỏ (chưa đủ sức chủ động phòng chống và khắc phục tình trạng nợ quá hạn khê đọng khó đòi). Khi nợ quá hạn khó đòi tăng lên sẽ gây khó khăn cho hoạt động Ngân hàng do không có nguồn để bù đắp các tổn thất do khách hàng không trả được nợ, Mặc dù Nhà nước đã có một số biện pháp để giải quyết nợ khê đọng, khó đòi dưới hình thức khoanh nợ, nhưng đấy mới chỉ là biện pháp tạm thời, về lâu dài Ngân hàng cần có cơ chế hình thành quĩ bù đắp rủi ro tín dụng để giải quyết các khoản nợ này. Theo xu thế chung, các nước trên thế giới đều có quĩ bù đắp rủi ro cho các khoản tín dụng. Từ những lý do trên cho thấy cần phải có cơ chế phù hợp để các NHTM có thể chủ động trong việc bù đắp rủi ro tín dụng có hiệu quả. Nguồn hình thành quĩ bù đắp rủi ro: được trích từ chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, bằng cách này làm cho quĩ thể hiện đúng bản chất của nó là: rủi ro gắn liền với kinh doanh thông qua hoạch toán, để phản ánh đúng các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh, lấy thu bù chi có lãi, phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, căn cứ vào tình hình thực tế ở các NHTM, tỷ lệ trích để hình thành quĩ bù đắp rủi ro có thể theo các hình thức sau: + Đối với nợ quá hạn dưới 6 tháng trích 50% trên số nợ quá hạn. + Đối với nợ quá hạn trên 6 tháng đến 12 tháng trích 75%. + Đối với nợ quá hạn từ 12 tháng trở lên trích 100%. + Trích 0,5% trên tổng dư nợ bình thường. Đối với quĩ dự phòng đặc biệt, không nên khống chế mức tối đa 100% vốn điều lệ, nhằm tăng cường khả năng phòng chống rủi ro và mức độ an toàn trong kinh doan của Ngân hàng thương mại. Như vậy, trong mỗi NHTM có 2 quĩ đều nhằm phòng chống rủi ro trong hoạt động tín dụng, nhưng chúng khác nhau ở nguồn hình thành và quĩ sử dụng: + Quĩ dự phòng đặc biệt được hình thành từ lợi nhuận ròng để bù đắp rủi ro khi Ngân hàng thua lỗ, thiệt hại bất ngờ do những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng. + Quĩ bù đắp rủi ro tín dụng được hình thành từ nguồn chi phí và được sử dụng để bù đắp những tổn thất do khách hàng gây ra. 2.2. Củng cố công tác mạng lưới và khoán tài chính đến nhóm và người lao động, thực hiện đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng: Hệ thống màng lưới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh là điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh và phục vụ phát triển kinh tế của Ngân hàng, trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên trong quá trình mở rộng màng lưới hoạt động, việc thành lập theo một chi nhánh đòi hỏi phải nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng các điều kiện, khả năng cho phép về tổ chức môi trường hoạt động kinh doanh. Có thể nói: “ Nơi nào kinh tế hàng hoá phát triển thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mới phát triển tốt được” Khi mở rộng màng lưới hoạt động mà không hội đủ các điều kiện, không đem lại hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội thì hoàn toàn không nên. ở những nơi mà Ngân hàng chưa mở được Chi nhánh, cần có sự kết hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể xã hội ở địa phương để xây dựng các tổ nhóm tương hỗ vay vốn Ngân hàng. Đối với Chi nhánh mới thành lập môi trường và địa bàn kinh doanh gặp khó khăn. Việc thực hiện cơ chế khoán tài chính, các Ngân hàng cơ sở cần có sự điều tiết về thu nhập cho cán bộ được giao phụ trách ở địa bàn này, tuỳ từng trường hợp có thể ưu tiên một phần tiền lương, nhằm tạo điều kiện giúp đỡ các đơn vị này, khó khăn từng bước đi lên. Tránh sự cát cứ cục bộ theo từng địa bàn, tránh hiện tượng mục đích đảm bảo thu nhập cho cán bộ mà cho vay bừa, cho vay ẩu và các hiện tượng tiêu cực khác, gây nên hậu quả xấu không có lợi cho sự nghiệp kinh doanhh của Chi nhánh. ở những Chi nhánh cơ sở điều kiện kinh doanh không đảm bảo, khó có khả năng khắc phục khó khăn, nơi đó cần rà soát lại, nếu còn cơ hội phát triển thì để lại tiếp tục tìm biện pháp tháo gỡ, nếu không có phương án tháo gỡ thì sát nhập hoặc giải thể, tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo chất lượng hiệu quả. Chi nhánh cần bổ sung cơ chế khoán tài chính, không nên phân phối tiền lương chỉ căn cứ vào kết quả tài chính làm ra, mà cần gắn với mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu. Đặc biệt là các chỉ tiêu về chất lượng tín dụng như thu nợ quá hạn, khống chế tỷ lệ nợ quá hạn...có chính sách khen thưởng kịp thời thoả đáng đối với tập thể cá nhân có chất lượng tín dụng tốt. Đi liền với chính sách khen thưởng cần có chế tài về hành chính và vật chất đối với đơn vị và cá nhân kinh doanh kém hiệu quả, cho vay nợ đọng, mất vốn, tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ. Có như vậy mới gắn được trách nhiệm của từng cá nhân trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần mở rộng kinh doanh có hiệu quả. Thực hiện đa dạng hoá các loại hình dịch vụ Ngân hàng: Các NHTM đang hoạt động kinh doanh trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Đa dạng hoá dịch vụ và hướng tới khách hàng là phương hướng quan trọng để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng vì : - Đa dạng hoá tạo khả năng mở rộng thị trường và khách hàng, tạo khả năng doanh thu và lợi nhuận. Với nhiều loại hình dịch vụ khác nhau, Ngân hàng có thể khai thác đuợc những khoảng trống trên thị trường để tăng thêm thị phần của mình. - Đa dạng hóa để phân tán rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc kinh doanh nhiều lĩnh vực, đa dạng dịch vụ tạo nên nhiều lợi nhuận, có thể bổ sung cho nhau khi thị trường biến động, giúp Ngân hàng ổn định mức doanh lợi. Tăng tỷ lệ nguồn thu từ các dịch vụ khác sẽ làm giảm sức ép là cần phải cho vay thật nhiều để có thu nhập ổn định cho cán bộ, mặc dù điều kiện vay chưa đầy đủ. Từ đó giảm được những khoản tín dụng cấp ra chứa đựng nhiều rủi ro mất vốn có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. - Phát triển kinh doanh theo hướng đa dạng hoá là điều kiện quan trọng mở rộng qui mô và mạng lưới Ngân hàng, tận dụng khai thác các tiềm năng của đội ngũ cán bộ nhân viên trong chiến lược phát triển, và điều đó cho phép Ngân hàng mở rộng ảnh hưởng của mình một cách vững chắc. Muốn ổn định thu nhập của Chi nhánh thì việc mở rộng kinh doanh đa năng là hết sức quan trọng. Các loại dịch vụ đang làm củng cố và phát triển, đồng thời mở rộng thêm một số loại hình dịch vụ mới như: Dịch vụ tư vấn, kinh doanh bất động sản... Đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn của khách hàng, phù hợp với điều kiện, khả năng của Ngân hàng, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. 2.3. Nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng để có biện pháp đầu tư tín dụng thích hợp: Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, song song với việc mở rộng phạm vi và qui mô tín dụng, đối tượng khách hàng cũng ngày càng phong phú hơn, theo đó khả năng thất thoát vốn cũng ngày càng tăng, đe doạ sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Vì vậy để đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh để sử dụng hiệu quả vốn tín dụng, Ngân hàng cần chọn cho mình những khách hàng tốt trên cơ sở nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng. Chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng thể hiện ở khả năng phân tích nhận định tình hình khách hàng trước, trong và sau khi cho vay, nó có mối quan hệ chặt chẽ với chất lượng tín dụng. Đánh giá tình hình khách hàng càng chính xác, chất lượng tín dụng càng cao, bởi thông qua đánh giá Ngân hàng sẽ phân loại được khách hàng, từng bước thanh lọc những kháchh hàng yếu kém, thu hút và tập trung đầu tư cho những khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có hiệu quả. Hạn chế đến mức tối đa rủi ro thất thoát vốn. Đánh giá khách hàng từ đó phân loại khách hàng để có biện pháp tín dụng thích hợp có rất nhiều chỉ tiêu xem xét. Cần xem xét những khía cạnh sau: * Đối với các DNNN Doanh nghiệp xếp loại A: Là doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định liên tục rõ ràng, thực hiện tốt nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước, quan hệ thanh toán với Ngân hàng, bạn hàng sòng phẳng, có tín nhiệm, không có nợ quá hạn và lãi treo, có hệ số bảo toàn vốn >1 (DN không những bảo toàn mà còn tăng vốn). Số vốn DN có thực tế Hệ số = ----------------------------------- bảo toàn vốn Số vốn DN phải bảo toàn tại thời điểm xác định Chênh lệch chỉ số Số vốn Số vốn phải Số vốn giá cả đầu kì với chỉ phải bảo toàn tại thời = phải bảo toàn + số giá cả tại thời x bảo toàn điểm xác định đầu kỳ điểm xác định đầu kì Đối với những Doanh nghiệp xếp loại A này, ngoài việc cho vay trên cơ sở vốn tự có tài sản thế chấp, nếu doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Ngân hàng có thể cho vay bổ sung thêm trong mức độ cần thiết, hợp lý. Doanh nghiệp xếp loại B: Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định kết quả tài chính bình thường, lãi thấp, quan hệ thanh toán Ngân hàng, bạn hàng, và Ngân sách chưa có uy tín cao, mặc dù vẫn bảo toàn vốn (hệ số bảo toàn vốn = 1). Đối với Doanh nghiệp này Ngân hàng chỉ nên cho vay theo cơ sở giá trị tài sản thế chấp và vốn tự có. Doanh nghiệp xếp loại C: Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định, kết quả tài chính thua lỗ, không có biện pháp khắc phục, quan hệ thanh toán không sòng phẳng, có phát sinh nợ quá hạn, lãi treo, hệ số bảo toàn vốn <1 (Doanh nghiệp mất dần vốn). Đối với những doanh nghiệp này, Ngân hàng không cho vay vốn, kể cả đơn vị có tài sản thế chấp, nếu còn dư nợ Ngân hàng cần tìm mọi biện pháp khẩn trương thu hồi vốn về. * Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh : Ngân hàng cần phải tìm hiểu kỹ tư cách khách hàng, khả năng quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh, tình hình công nợ, hiệu quả sản xuất kinh doanh..., nếu có biểu hiện tốt Ngân hàng mới đầu tư vốn sau này. Khi cho vay vốn khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh, đầy đủ hợp pháp. Đây là điều kiện quan trọng để đảm bảo việc hoàn trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi cho Ngân hàng, mặc dù các tài khoản tín dụng được cung cấp ra không phải để sau này phải bán các tài sản thế chấp, cầm cố, thu nợ. 2.4. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng : Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, khách hàng vừa là người cung cấp nguồn vốn cho hoạt động tín dụng, đồng thời cũng là người sử dụng nguồn vốn này, nên khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng, các Ngân hàng sẽ có đối sách thích hợp để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng sẽ giúp ngân hàng - Đánh giá đúng chất lượng khách hàng, tiết kiệm được chi phí thẩm định và kiểm tra giám sát. Thông qua việc quan hệ tín dụng một cách thường xuyên, Ngân hàng có thể nắm bắt được những thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng. Căn cứ vào số dư trên tài khoản của họ, Ngân hàng sẽ biết được khả năng tiềm tàng và chu kỳ sử dụng vốn, tiền mặt cũng như quan hệ khách hàng với các khách hàng khác trong việc mua nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm...Đây là cách tốt nhất để thu nhập các thông tin về khách hàng và là cơ sở để Ngân hàng tiết kiệm được chi phí cho việc thẩm định, sàng lọc thông tin, tránh được rủi ro về đạo đức, kế hoạch hoá được nguồn cũng như các chi phí giám sát khách hàng khi đã có sẵn phương thức giám sát khách hàng. - Thu hút vốn để củng cố đầu vào mở rộng đầu ra theo đúng yêu cầu của khách hàng. Thông qua mối quan hệ lâu bền với khách hàng, Ngân hàng có thể huy động được một khối lượng nguồn vốn từ tiền gửi của khách hàng. Sự am hiểu của khách hàng sẽ làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu của khách hàng về loại tín dụng, khối lượng tín dụng, giá cả cho vay để có kế hoạch bố trí nguồn vốn kịp thời, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng. Do tiết kiệm được chi phí trong thẩm định, kiểm tra giám sát khách hàng nên Ngân hàng sẽ có điều kiện để hạ lãi suất cho vay, điều đó sẽ cuốn hút được khách hàng, làm cho khách hàng, gắn bó hơn với Ngân hàng. Mối quan hệ không những ngày càng củng cố đối với khách hàng hiện tại mà cả đối với khách hàng tiềm năng, và nhờ đó khách hàng sẽ càng có cơ hội để nâng cao được chất lượng tín dụng. - Đề ra chính sách chiến lược, kế hoạch tác nghiệp trong từng thời kỳ và xu hướng phát triển hoạt động Ngân hàng trong tương lai để không ngừng thích nghi với sự biến động của thị trường, tìm kiếm cơ hội không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. - Có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng nhất là rủi ro về đạo đức để vươn tới sự hoàn thiện về chất lượng tín dụng, nhằm tạo dựng được hình ảnh, biểu tượng tốt của Ngân hàng trên thị trường. Để thiết lập được mối quan hệ tốt lâu bền với khách hàng, Ngân hàng phải có kế hoạch củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao uy tín của Ngân hàng trên thị trường, thông qua việc cải thiện và mở rộng thêm nhiều hình thức phục vụ, đổi mới tác phong kinh doanh, thu hút thêm nhiều khách hàng đối với Ngân hàng như những người bạn tin cậy. 2.5. Tăng cường công tác quản lý nợ và giải quyết nợ quá hạn : Đây là một biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến thực hiện chu trình khép kín của khoản tín dụng, đây là vấn đề sống còn của Ngân hàng. Trong bối cảnh hiện nay, Chi nhánh Ngân hàng Exim bank Hà Nội cần chủ động thực hiện tốt vấn đề này. Để tăng cường công tác quản lý nợ ngân hàng cần phải : - Chấp hành nghiêm túc các quy định hiện hành về hoạt động tín dụng, phát hiện và kiến nghị kịp thời những điều bất hợp lý không phù hợp với Ngân hàng để có biện pháp khắc phục kịp thời. Yêu cầu các Chi nhánh cơ sở phải thực hiện tốt các điều khoản qui định trong chế độ, thể lệ tín dụng về qui trình, thủ tục xét duyệt cho vay, quản lý hồ sơ vốn, theo dõi tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, mỗi khi đưa ra quyết định tín dụng phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, không được xem xét một cách hời hợt và phê duyệt dễ dàng, phải đặt nó trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhân tố: pháp luật, chủ trương chính sách, qui trình cho vay, quan trọng nhất là phải biết rõ khách hàng của mình là người như thế nào ? Họ muốn gì ?... Và từ đó căn cứ vào quy trình nghiệp vụ, thể lệ, chế độ và kinh nghiệm để xử lý cho có hiệu quả. Ngân hàng kiên quyết không cho vay các dự án không có tính khả thi, kém hiệu quả kinh tế, mặc dù khách hàng có đầy đủ các tài khoản thế chấp, vì mục đích cho vay không đơn thuần chỉ là thu nợ mà là giúp khách hàng có vốn để duy trì hoặc mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng, cho xã hội và chính bản thân Ngân hàng. Một khi đã phải mang tài sản thế chấp ra phát mại để thu hồi nợ, thì sản xuất kinh doanh cũng thua lỗ rồi, vốn mất rồi, quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng chấm dứt, uy tín của Ngân hàng bị giảm sút (chưa nói khó khăn phức tạp khi xử lý tài sản thế chấp). Tuy nhiên cũng cần nói thêm rằng đối với những khách hàng có dự án khả thi xin vay vốn thuộc đối tượng phải thế chấp tài sản làm đảm bảo, các Chi nhánh vẫn phải nghiêm túc thực hiện nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh. - Thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi của khách hàng làm ảnh hưởng tới mức độ an toàn của các khoản tiền đã cho vay như lừa đảo, một tài sản vay vốn nhiều Ngân hàng, vay của Ngân hàng này trả cho Ngân hàng khác... Nhất thiết phải tổ chức duyệt cho vay theo hướng “chạc 3”. Trong đó gồm có cán bộ tín dụng, là người đề nghị, một lãnh đạo phòng tín dụng là người tái thẩm định và kiểm soát, một lãnh đạo Ngân hàng là người duyệt cho vay. Một khoản tín dụng phát ra phải có 3 chữ ký của 3 thành phần độc lập, và phải qui định rõ trách nhiệm của từng cán bộ tham gia cấp tín dụng. Thực hiện tốt qui định có tác dụng tăng cường trách nhiệm của các bộ phận độc lập trong việc phối hợp với nhau để xét duyệt cho vay, nhờ đó có thể quản lý tốt các khoản tín dụng ngay từ khâu đầu, tăng cường tính hợp tác phối hợp giữa các bộ phận, đơn vị trong Ngân hàng. Điều này có ý nghĩa hơn, khi các hoạt động tín dụng càng trở nên phức tạp với qui mô ngày càng lớn. - Tổ chức đánh giá phân loại các khoản nợ để lượng định rủi ro trong quá trình cho vay. Việc đánh giá phân loại này được tiến hành ngay từ khi quyết định cho vay, bởi thông qua quyết định đánh giá, phân loại Ngân hàng mới có thể lượng định được rủi ro để đi đến quyết định mở rộng hay thu hẹp một loại tín dụng nào đó, đồng thời để có biện pháp theo dõi, quản lý phù hợp với từng khoản nợ. Quá trình đánh giá, phân loại nợ như sau: + Đánh giá các khoản khi quyết định cho vay, do bị chi phối bởi các qui định trong chế độ, thể lệ tín dụng nên khi quyết định cho vay, các trường hợp chỉ rơi vào một trong hai trường hợp xếp loại, đó là ‘‘ nợ đủ tiêu chuẩn’’ hay ‘‘nợ cần chú ý’’. ‘‘Nợ đủ tiêu chuẩn’’ thường được áp dụng với khách hàng có đủ điều kiện vay vốn theo qui định hiện hành, thể hiện là tình hình tài chính tốt, có uy tín và khả năng chiếm lĩnh thị trường, có tài sản thế chấp hay có người bảo lãnh theo qui định của chế độ. ‘‘Nợ cần chú ý’’ là những khoản nợ còn lại, tuy chưa đủ tiêu chuẩn vay vốn, nhưng ở mặt này hay mặt khác Ngân hàng còn băn khoăn do chưa có đủ cơ sở tin cậy để kết luận chính xác. + Đánh giá các khoản nợ trong quá trình theo dõi việc sử dụng tiền vay và trả nợ khách hàng : sau khi phát tiền vay, các Ngân hàng phải thường xuyên bám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn và đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn. Căn cứ vào tình hình tài chính của khách hàng, thấy những khoản nợ có biểu hiện khác thường, nhưng chưa có dấu hiệu tổn thất thì vẫn được theo dõi ở khoản ‘‘Nợ cần chú ý’’, để có biện pháp tích cực tìm nguyên nhân sửa chữa những sai lầm đó để có thể thu nợ đúng hạn. Đối với những khoản nợ có khả năng tổn thất cần được phân loại tùy theo mức độ tổn thất dự tính có thể xảy ra. Với cách phân loại, đánh giá như trên sẽ có tác dụng: Phản ánh một cách đầy đủ, tình hình hoạt động tín dụng của Chi nhánh giúp cho việc kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng được dễ dàng, thuận tiện, giúp cho các cấp lãnh đạo nắm bắt tình hình kịp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH184.doc
Tài liệu liên quan