Cơ sở khoa học và tiêu chí xác định tộc người ở Việt Nam - Khổng Diễn

Tài liệu Cơ sở khoa học và tiêu chí xác định tộc người ở Việt Nam - Khổng Diễn: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ Ngày nhận bài: 12/1/2018; Ngày phản biện: 24/1/2018; Ngày duyệt đăng: 26/1/2018 (1) Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; e-mail: kdien@sperigmail.org Số 21 - Tháng 3 năm 2018 I. Tư liệu về các tộc người Dân tộc học Việt Nam, tuy là một ngành còn khá non trẻ, nhưng các tư liệu về các dân tộc hay tộc người ở nước ta đã có từ khá sớm. Ta có thể tìm thấy những tư liệu đó trong các sử sách của Trung Quốc, Việt Nam và một số nước phương Tây qua các bia ký, sử ký, dư địa chí, gia phả, tộc phả hoặc các truyền thuyết, truyện kể dân gian1. Từ thế kỷ thứ IV trở đi, ở nước ta đã có các tập truyện, các cuốn sách viết về các vùng, các địa phương khác nhau như Giao Chỉ ký, Giao Châu ký v.v..., nhưng nay đã bị thất truyền, chỉ còn lại trong các thư tịch cổ. Những cuốn sách đến nay chúng ta còn giữ được, trong đó chứa đựng nhiều tư liệu về dân tộc học, có lẽ ra đời ở thế kỷ XIV, XV. Đó là cuốn...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 675 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở khoa học và tiêu chí xác định tộc người ở Việt Nam - Khổng Diễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ Ngày nhận bài: 12/1/2018; Ngày phản biện: 24/1/2018; Ngày duyệt đăng: 26/1/2018 (1) Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; e-mail: kdien@sperigmail.org Số 21 - Tháng 3 năm 2018 I. Tư liệu về các tộc người Dân tộc học Việt Nam, tuy là một ngành còn khá non trẻ, nhưng các tư liệu về các dân tộc hay tộc người ở nước ta đã có từ khá sớm. Ta có thể tìm thấy những tư liệu đó trong các sử sách của Trung Quốc, Việt Nam và một số nước phương Tây qua các bia ký, sử ký, dư địa chí, gia phả, tộc phả hoặc các truyền thuyết, truyện kể dân gian1. Từ thế kỷ thứ IV trở đi, ở nước ta đã có các tập truyện, các cuốn sách viết về các vùng, các địa phương khác nhau như Giao Chỉ ký, Giao Châu ký v.v..., nhưng nay đã bị thất truyền, chỉ còn lại trong các thư tịch cổ. Những cuốn sách đến nay chúng ta còn giữ được, trong đó chứa đựng nhiều tư liệu về dân tộc học, có lẽ ra đời ở thế kỷ XIV, XV. Đó là cuốn Việt điện U linh, Lĩnh Nam chính quái của Lý Tế Xuyên, thế kỷ XIV và của Nguyễn Dữ, Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Sang thế kỷ XVI có Ô Châu cận lục của Dương Văn An. Từ thế kỷ XVII, XVIII trở đi ở nước ta có nhiều cuốn sách chuyên khảo của nhiều tác giả viết về từng địa phương, từng nhóm dân cư, dân tộc (tộc người), như Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tập lục của Lê Quý Đôn. Tiếp đó có hàng loạt tác phẩm viết dưới dạng tùy bút, bút ký và chí, trong đó chứa đựng nhiều tư liệu dân tộc học như: Hoan Châu ký của Nguyễn Cảnh Thị, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn An, Hưng Hóa xứ phong thổ lục của Hoàng Bình Chính, Nghệ An ký của Bùi 1. Khổng Diễn, Tổng quan về Dân tộc học Việt Nam trong một thế kỷ qua, trong “Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI”, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003. Dương Lịch, Hưng Hóa ký lược của Phạm Thận Duật, Cao Bằng ký lược của Phạm An Phú, Lịch triều hiến chương loại chí của Lê Trắc, Sử học bị khảo của Phạm Xuân Bảng, Nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và một số tác phẩm khác của Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam nhất thống trí, Đồng Khánh dư địa chí v.v Về khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên có các cuốn cho đến nay vẫn có nhiều tư liệu có giá trị như Phủ Man tạp lục hay Vũ Man tạp lục của Nguyễn Tấn, Mọi Kon Tum của Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi. Ở đầu thế kỷ XX có Nguyễn Văn Huyên viết nhiều chuyên khảo dân tộc học về các tộc người nhưng phần lớn bằng tiếng Pháp. Các tác giả người châu Âu viết về các tộc người ở nước ta là những nhà khoa học, các sỹ quan quân đội, các quan cai trị, cố đạo, họ đi sâu vào từng tộc người, từng nhóm địa phương ở miền núi phía Bắc, Trường Sơn - Tây Nguyên, người Chăm ở ven biển miền Trung, chủ yếu là miêu tả cuộc sống của người dân, cho đến nay vẫn còn giá trị về nhiều mặt. Dân tộc học Việt Nam theo quan điểm Macxít thực chất được phát triển ở nửa sau thế kỷ XX nhưng đã có cơ sở hình thành từ những năm 30 của thế kỷ này. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, Đảng đã rất quan tâm đến vấn đề dân tộc. Trong nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần đầu tiên, tháng 3 năm 1935 đã chỉ rõ: “Trung ương, các Xứ ủy và các Tỉnh ủy, nơi có dân tộc thiểu số phải cử ra một số người chuyên môn nghiên cứu và chỉ đạo công tác vận động trong các dân tộc thiểu CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM Khổng Diễn(1) Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em, cùng sinh sống trên dải hình chữ S (từ Lũng Cú - Hà Gian đến Mũi Cà Mau). Các dân tộc anh em vốn có quan hệ tốt đẹp, có truyền thống đoàn kết, tương trợ, cùng có ý thức chung về một quốc gia thống nhất. Vấn đề đặt ra khi thực hiện công tác dân tộc là cần nắm vững đặc điểm của các tộc người để thực hiện chính sách của Đảng ta đề ra về quyền bình đẳng của các tộc người. Các tài liệu viết về tộc người ở nước ta đã có từ rất lâu nhưng để bàn về các tiêu chí xác định tộc người thì mới chỉ đặt ra ở những năm 60 của thế kỷ XX. Để làm được điều này, việc xác định thành phần dân tộc cần được coi trọng nhằm góp phần xây dựng những chủ trương, giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác dân tộc. Để thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, cần phải có cơ sở khoa học, tài liệu nghiên cứu một cách bài bản, chính xác thành phần tộc người, việc xác định tộc người hay thành phần tộc người, tối thiểu phải có các yếu tố: Tư liệu về các tộc người và tiêu chí xác định tộc người. Từ khóa: Cơ sở khoa học; tiêu chí xác định tộc người; thành phần tộc người; công tác dân tộc; chính sách dân tộc; tư liệu tộc người; dân tộc học; ngôn ngữ, văn hóa, ý thức tự giác tộc người. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 47Số 21 - Tháng 3 năm 2018 số”. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 11 năm 1939, lại ra Nghị quyết: “Ban Chấp hành Trung ương cũng như Xứ ủy phải tổ chức ban chuyên môn về vấn đề dân tộc thiểu số, phải cho người học chữ, học tiếng các dân tộc ấy để tuyên truyền vận động họ, phải tìm đủ mọi cách tìm mối liên lạc và gây cơ sở ở các dân tộc thiểu số”2. Về mặt Nhà nước, chỉ sau một năm kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành được thắng lợi, ngày 9 tháng 9 năm 1946, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Nghị định thành lập Nha Dân tộc thiểu số, tiền thân của Ủy ban Dân tộc hiện nay. Cơ quan này có nhiệm vụ nghiên cứu và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến dân tộc thiểu số trên toàn cõi Việt Nam3. Công tác nghiên cứu ở Ủy ban Dân tộc Trung ương cũng như các Ban Dân tộc ở các địa phương chủ yếu phục vụ cho công tác quản lý và chỉ đạo thực tiễn, song với kết quả của các cuộc điều tra thực tế ở các tộc người tại các vùng, miền khác nhau cũng như qua các công trình nghiên cứu của hệ thống cơ quan công tác dân tộc đã xuất bản cho thấy rất có giá trị nhiều mặt. Việc xuất bản tờ “Tập san Dân tộc”, sau đổi thành “Tạp chí Dân tộc” - Cơ quan ngôn luận của Ủy ban Dân tộc Trung ương trong những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, ra mỗi tháng một số, hoạt động liên tục từ năm 1959 đến năm 1964 với 58 số, đã thúc đẩy công tác nghiên cứu dân tộc ở nước ta. Gần đây là các tạp chí thuộc hệ thống công tác dân tộc cũng đã có những đóng góp cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Việc xác định danh mục các tộc người ở nước ta cũng bắt đầu từ Ủy ban Dân tộc trong những năm 50 của thế kỷ XX. Năm 1955, Ủy ban Dân tộc Trung ương được Chính phủ giao nhiệm vụ nghiên cứu, thống kê xem ở nước ta có bao nhiêu dân tộc (tộc người) cũng như tình hình, đặc điểm của từng dân tộc để Nhà nước xem xét, qui định số đại biểu Quốc hội và tổ chức khu tự trị cho các dân tộc thiểu số. Tháng 8 năm 1955, ở Ủy ban Dân tộc Trung ương có cuộc họp do ông Dương Công Hoạt (khi đó là Phó Chủ nhiệm Ủy ban) chủ trì4. Thành phần cuộc họp có các cán bộ ở Phòng Nghiên cứu Lịch sử và Văn học dân tộc ở Ủy ban Dân tộc và ông Nguyễn Khắc Đạm ở Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa Bộ Giáo dục. Cuộc họp được ông Dương Công Hoạt truyền đạt lại ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng: Ủy ban Dân tộc Trung ương phối hợp với các cơ quan khác thống kê, xác định 2. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X, Chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.16, 21. 3. Ủy ban Dân tộc và Miền núi, Báo cáo 50 năm công tác dân tộc và miền núi, Hà Nội, 1996. 4. Mạc Đường, Trao đổi về tiêu chuẩn xác định thành phần dân tộc, trong “Hội thảo bàn về tiêu chí xác định thành phần dân tộc (Hà Nội ngày 02. 7.2012; Thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/10/2002). thành phần các dân tộc thiểu số ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau cuộc họp, các cán bộ của Phòng Nghiên cứu Lịch sử và Văn học dân tộc sưu tầm các tài liệu viết về các dân tộc (tộc người) đăng trên các sách báo từ trước đến nay (1955), làm việc với các Ban Dân tộc ở các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống để nắm tình hình, đồng thời cử một số cán bộ đến các trường học sinh miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, để thu thập số liệu và thành phần tộc người ở các tỉnh miền Nam. Đến tháng 9 năm 1955, ở Ủy ban Dân tộc Trung ương đã thống kê được khoảng 120 tộc người. Sau khi trình lên Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng yêu cầu: Nghiên cứu để giảm bớt số lượng dân tộc (tộc người) nhưng phải trình bày sao cho bà con dân tộc đồng ý, phải viết một cuốn sách giới thiệu tình hình, đặc điểm và việc đồng bào tham gia Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Cũng trong thời gian ấy có hai nhà Khoa học trẻ Liên Xô và Aruchiunov S.A và Mukhlinov A.I. sang Việt Nam tìm hiểu về các dân tộc nước ta để làm luận án Phó tiến sỹ. Được sự cho phép của ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện Sử học, các ông: Nguyễn Hữu Thấu, Ngọc Anh, Mạc Đường (ở Ủy ban Dân tộc Trung ương) và ông Nguyễn Khắc Đạm (ở Bộ Giáo dục) đến làm việc với hai nhà khoa học trẻ này5. Sau hai ngày trao đổi, thảo luận có tham khảo những công trình đã xuất bản ở trong, ngoài nước và các bản đồ tộc người đã công bố, hai bên đã thống nhất được bản Danh mục thành phần các dân tộc (tộc người) thiểu số ở Việt Nam, gồm 63 dân tộc. Bản Danh mục này, sau đó được thể hiện trong cuốn sách “Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”6. II. Các tiêu chí xác định tộc người Các tài liệu viết về tộc người ở nước ta đã có từ rất lâu nhưng để bàn về các tiêu chí xác định tộc người thì mới chỉ đặt ra ở những năm 60 của thế kỷ XX. Tháng 8 năm 1960 tại Hà Nội có một hội nghị khoa học bàn về vấn đề này. Ở Hội nghị này, các nhà khoa học chưa thống nhất được các tiêu chí xác định tộc người ở nước ta, nhưng các phát biểu trong Hội nghị đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin, chẳng hạn ý kiến của Vương Hoàng Tuyên được đăng trên Tập san Đoàn kết dân tộc 5. Hai nhà Khoa học Liên xô sau khi từ Việt Nam trở về nước đã viết một số công trình: - S.A.Aruchiunov, Ngôn ngữ Xá ở Tây Bắc Việt Nam, trong Thông báo Dân tộc học, Moscơva, 1962. - A.I.Mukhlinov, Một chuyến đi tới Việt Nam dân chủ cộng hòa trong Tạp chí “Nhân chủng học và Khảo cổ học Xô Việt số 3.1962; Đặc tính dân tộc học các nhóm Xá ở Việt Nam, Dân tộc học Xô viết, 1962; Nguồn gốc và lịch sử các tộc người ở Việt Nam, Moscơva, 1977. 6. Lã Văn Lô- Nguyễn Hữu Thấu - Mai Văn Trí - Ngọc Anh - Mạc Như Đường, Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, NXB. Văn hóa, Hà Nội, 1959. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 48 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 (thuộc Ủy ban Dân tộc) số 4.1962 và số 36.1962 của Mạc Đường trong Tập san Dân tộc số 35. 1962, của Lã Văn Lô trong Tập san Dân tộc số 36. 1962, của Hoàng Thị Châu, Nguyễn Linh trong Tập san Dân tộc số 38.1963 v.v Chỉ từ khi Viện Dân tộc học thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) được thành lập (đã dẫn), Viện mới tập trung vào công tác xác định tộc người và danh mục thành phần các tộc người ở Việt Nam. Ở cuộc Hội thảo tháng 6 năm 1973 và Hội thảo tháng 11.1973, có nhiều đại biểu ở các Viện nghiên cứu, trường Đại học và các cơ quan về công tác dân tộc trong cả nước tham gia. Mặc dù ở cả hai cuộc Hội thảo này còn có nhiều ý kiến đưa ra thảo luận, nhưng cuối cùng hai Hội thảo đã thống nhất được 3 tiêu chí xác định tộc người ở nước ta. Đó là: 1. Có chung một ngôn ngữ 2. Có cùng một văn hóa 3. Có chung ý thức tự giác tộc người Xuất phát từ ba tiêu chí này, các nhà khoa học đã trình ra bản Danh mục các thành phần tộc người ở Việt Nam, gồm 59 tộc người7. Với việc ra được bản Danh mục này, tuy còn nhiều vấn đề phải tiếp tục xem xét, nhưng nhìn chung được dư luận trong nước đánh giá cao. Giáo sư, Viện sỹ Nguyễn Khánh Toàn (Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng: Việc lập danh mục không phải là công việc đơn giản, không thể chỉ đi điều tra hình thức với một số câu hỏi “mẫu”. Đây là một công việc phức tạp. Chúng ta cần nhận rõ đặc điểm của sự hình thành dân tộc Việt Nam8. Ông Dương Công Hoạt (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương) khẳng định: Những công trình nghiên cứu của chúng ta là đáp ứng phục vụ chính sách dân tộc của Đảng. Các anh chị em chúng ta đã và đang làm đúng như thế9. Giáo sư Vương Hoàng Tuyên (trưởng bộ môn Dân tộc học, Khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội) nhận xét: Với bản dự thảo danh mục các dân tộc lần này, những người làm công tác dân tộc ở miền Bắc nước ta đã có nhiều cống hiến đáng kể trên lĩnh vực nghiên cứu về dân tộc học cũng như về công tác dân tộc của Đảng10. Sau hai cuộc Hội thảo khoa học ở Hà Nội 1973, 7. Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), trong bản đồ các dân tộc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978. 8. Nguyễn Khánh Toàn, Một vài quan điểm cơ bản cần được quán triệt trong quá trình xây dựng danh mục các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam trong “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975. 9. Dương Công Hoạt, Lời phát biểu trong “Về vấn đề xác định thành phần(đã dẫn). 10. Vương Hoàng Tuyên, Việc lập danh mục các dân tộc là một thắng lợi bước đầu trong công tác nghiên cứu dân tộc ở miền Bắc nước ta, trong “Về vấn đề xác định thành phần (đã dẫn). các nhà khoa học tiếp tục đi điều tra thực tế và tham gia các Hội thảo khoa học ở một số địa phương. Thực hiện Chỉ thị số 83-CĐ của Hội đồng Chính phủ về việc cùng phối hợp tiến hành nghiên cứu xác định thành phần tộc người ở Việt Nam, ngày 22/12/1978 Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam và Ủy ban Dân tộc Trung ương có tờ trình lên Thủ tướng Chính phủ Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam (đại diện cho Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam là ông Phạm Huy Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban ký, đại diện cho Ủy ban Dân tộc Trung ương là ông Đỗ Anh Châu, Phó Chủ nhiệm Ủy ban ký). Ban Danh mục này có 54 dân tộc. Ngày 02.3.1979, được sự ủy nhiệm của Chính phủ, ông Hoàng Trình- Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê ký Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ban hành Danh mục các thành phần dân tộc ở Việt Nam gồm 54 dân tộc, dùng trong Tổng điều tra dân số và các tài liệu thống kê trong cả nước. Việc thống nhất ba tiêu chí trong xác định tộc người và Danh mục 54 dân tộc được Nhà nước công nhận, giới Dân tộc học Việt Nam nhận được sự đánh giá tích cực của các nhà khoa học trên thế giới. Theo Đặng Nghiêm Vạn, “trong một cuộc trình bày tại Trung tâm Tư liệu và nghiên cứu về dân tộc và thế giới Hải đảo (CORASEMI) ở Pari năm 1982 (của GS. Đặng Nghiêm Vạn - KD), những nhà khoa học Pháp đã coi các tiêu chí đó là đúng đắn, đầy đủ, và Bản Danh mục các dân tộc ở Việt Nam được xác lập một cách đáng tin cậy. J.Dournes, một học giả chuyên nghiên cứu về Việt Nam nói chung, Tây Nguyên nói riêng, đã cho thấy, đây là một thành tựu khoa học hơn hẳn các bản Danh mục của nhiều nước khác trong khu vực và trên thế giới”11. Tuy vậy, ngay ở trong nước, sau một thời gian Bản danh mục năm 1979 được công bố, cũng có những ý kiến cho thấy có sự không hoàn nhất trí, chẳng hạn Chu Thái Sơn, Phó Tổng biên tập Tạp chí Dân tộc và Thời đại cho rằng: Chúng ta đã gộp những dân tộc nhỏ để thành dân tộc lớn. “Khuynh hướng chi phối giới nghiên cứu Dân tộc học ở nửa sau thế kỷ trước là muốn làm giảm thiểu các cộng đồng dân tộc ít người, không muốn kéo dài thêm danh mục các thành phần dân tộc, nhất là những cộng đồng có dân số quá ít. Những đề xuất về qui nạp, hợp nhất dân tộc thường được ủng hộ. Những ý kiến nhằm chia tách, phân biệt thường không được quan tâm. Người ta nói nhiều đến quá trình xích lại gần nhau giữa các dân tộc, chú ý đến tính thống nhất, ít quan tâm đến tính đặc thù và sự đa dạng trong văn hóa các cộng đồng tộc người12. Cao Thế Trình, cán bộ giảng dạy ở trường Đại 11. Đặng Nghiêm Vạn, Lại bàn về công tác xác minh thành phần các dân tộc Việt Nam, trong Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định lại thành phần một số dân tộc ở Việt Nam”, Hà Nội ngày 02. 7. 2002. 12. Chu Thái Sơn, Tính đồng đại và tính lịch đại trong các tiêu chí xác minh dân tộc, trong Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định lại thành phần dân tộc ở Việt Nam, Hà Nội ngày 02.7.2002. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 49Số 21 - Tháng 3 năm 2018 học Lâm Đồng nhận xét: “Các số liệu đã công bố không làm thỏa mãn giới khoa học và tất cả những ai quan tâm, nhất là đối với đồng bào thuộc các dân tộc “bị biến mất” trong Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam do Tổng cục Thống kê công bố ngày 2.3.1979”. Tác giả nhấn mạnh: “Quan niệm của chúng tôi, đương nhiên sẽ kéo dài thêm bản Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam, so với bản Danh mục đã công bố. Điều đó thiết nghĩ không hề làm ảnh hưởng đến tiến độ công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hôm nay; trái lại nó sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, bởi điều đó vừa góp phần làm tăng thêm ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của Bản Danh mục khi nó phản ánh sát, đúng thực tế sinh động của bức tranh tộc người”13. Theo chúng tôi, trong những năm từ thập niên 60 đến 80 thế kỷ XX, chúng ta có tư tưởng làm ăn lớn, muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có những dân tộc lớn, đủ điều kiện để đầu tư xây dựng xã hội, cũng như phong trào sáp nhập huyện, tỉnh trong cả nước sau năm 1975. Ví dụ, tại cuộc Hội nghị bàn về thành phần dân tộc ở tỉnh Gia Lai - Kon Tum do Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh này triệu tập tháng 8/1978, tại Plêicu. Thành phần tham dự có các cán bộ Dân tộc học và Ngôn ngữ học ở Hà Nội và một số lãnh đạo phụ trách dân tộc ở khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh này, tỉnh Gia Lai - Kon Tum thực chất chỉ có các dân tộc: Kinh, Gia Rai (nói tiếng Nam Đảo) và Ba Na (nói tiếng Môn - Khơ me). Sau hai ngày bàn bạc, thảo luận Hội nghị chấp nhận thêm một số dân tộc nữa như Xơ Đăng, Hrê, còn Giẻ - Triêng thì phải nhập ba nhóm: Giẻ, Triêng (T’riêng) và Ve thành một dân tộc, gọi là Giẻ - Triêng. Ở một khía cạnh khác, các nhà khoa học có ảnh hưởng từ tư tưởng chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ những năm 50 của thế kỷ XX (đã dẫn). Đồng thời ảnh hưởng tư tưởng hợp nhất dân tộc (consolidation) của giới khoa học Xô Viết. Vì có những ý kiến khác nhau của các nhà khoa học và một số địa phương (ở những nơi có vấn đề về thành phần tộc người) về Bản Danh mục tộc người năm 1979, nên Chính phủ đã quyết định cho Viện Dân tộc học và Viện Ngôn ngữ học (thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam) điều tra, nghiên cứu xác định lại thành phần dân tộc ở một số nhóm và địa phương giai đoạn 2000 - 2005. Năm 2009, Chính phủ giao cho Ủy ban Dân tộc thực hiện dự án xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam trong giai đoạn mới. Xin trở lại các ý kiến sau năm 1973 bàn về các 13. Cao Thế Trình, Tiêu chí xác định tộc người và việc vận dụng xây dựng danh mục thành phần dân tộc Việt Nam, trong Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/10/2002. tiêu chí xác định tộc người. Để thực hiện nhiệm vụ được giao, Viện Dân tộc học và Viện Ngôn ngữ học, một mặt cử các đoàn đi thực tế các địa phương, đồng thời tổ chức hai Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định tộc người giai đoạn 2000 - 2005 ở Hà Nội ngày 02/7/2002 và ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/10/2002. Trước khi cử các đoàn đi nghiên cứu thực tế, Ban Chủ nhiệm dự án ở Ủy ban Dân tộc giai đoạn 2010 - 2015, cũng tổ chức cuộc Hội thảo bàn về tiêu chí xác định tộc người. Dưới đây là các tiêu chí ở 3 cuộc hội thảo này, các nhà khoa học đã đưa ra, ngoài 3 tiêu chí đã được thống nhất năm 1973. Đó là: 1. Lãnh thổ, 2. Cơ sở kinh tế, 3. Tên gọi chung, 4. Nguồn gốc lịch sử, 5. Dòng dõi, 6. Đặc trưng nhân chủng, 7. Đặc thù tín ngưỡng, tôn giáo, 8. Tâm lý, 9. Nội tộc hôn. Chúng tôi xin trao đổi về các tiêu chí đưa ra sau năm 1973, như sau: 1. Lãnh thổ tộc người. Ở cái thuở ban đầu, đúng là mỗi tộc người thường có khu vực cư trú riêng, nhưng qua quá trình phát triển, các tộc người thường di chuyển cư đến các vùng đất khác nhau, kể cả những vùng đất đã có các tộc người khác sinh sống, dẫn đến tình trạng cư trú xen kẽ hoặc xen cài giữa các tộc người. Ở nước ta, tình trạng này là phổ biến ở tất cả các vùng miền trong nước, không còn tộc người nào trong khoảng thời gian 70 - 80 năm trở lại đây, có lãnh thổ riêng. Vì thế ngay từ năm 1973 (Hội thảo về xác định thành phần tộc người) các nhà khoa học nước ta đã rất sáng suốt, nhận ra được thực tế này nên không đưa tiêu chí lãnh thổ vào để xác định thành phần tộc người. Nếu không cũng sẽ khó khăn trong việc xử lý cái gọi là “quyền của người bản địa” của các thế lực phản động dựa vào và lợi dụng tuyên ngôn của Liên hợp quốc để chống phá Nhà nước ta. 2. Cơ sở kinh tế. Không thể nói mỗi tộc người có một cơ sở và đặc điểm kinh tế riêng. Điều này đã được một số nhà khoa học Liên Xô trước đây phân tích rõ. Đặc biệt là nhà dân tộc học - sinh thái (hay nhân học - sinh thái) Kozlov từ những năm 70 của thế kỷ trước đã phân tích kỹ. Sau khi Liên Xô tan rã năm 1995, ông viết công trình về tính tộc người, các nhà dịch thuật của chúng ta dịch là “căn tính tộc người”14. Lần này, ông cho rằng, vào năm 1913, Stalin nêu ra định nghĩa dân tộc bằng cách ghép trong đó hai dấu hiệu của K.Kautski (tính cộng đồng ngôn ngữ và lãnh thổ) với một dấu hiệu của O.Bauer (tính cộng đồng tâm lý hoặc tính cách dân tộc) và bổ sung thêm vào đấy tính cộng đồng đời sống kinh tế mà vốn đặc trưng nói chung cho các cộng đồng nhà nước chứ không phải các cộng đồng dân tộc. Định nghĩa giáo điều như vậy thật chẳng có chút giá trị nào về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Tên gọi chung. Về tên gọi chung, gắn liền 14. Kozlov V.I. Hệ vấn đề tính tộc người, trong “Căn tính tộc người”, Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 50 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 với ý thức tự giác tộc người, là một trong 3 tiêu chí xác định tộc người mà các nhà khoa học ta đã thống nhất, thiết nghĩ không nên đặt nó riêng thành một tiêu chí. 4. Nguồn gốc lịch sử (hay xứ mệnh lịch sử). Ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, có những tộc người hiện tại lại có nguồn gốc từ tộc người khác. Ở cuộc Hội thảo Việt Nam học đầu tiên tổ chức tại Hà Nội năm 2005, chính giáo sư Charles F.Keyes đã phản bác ý kiến muốn gộp người Thái ở Thái Lan với người Thái ở Việt Nam, ở Lào thành một cộng đồng Thái trong vùng. Theo ông, hiện nay người Thái ở Thái Lan có những đặc điểm riêng không thể cùng chung với đặc điểm của người Thái ở Việt Nam và người Thái ở Lào v.v.. Không thể truy tìm nguồn gốc để khẳng định đặc tính chung cho các tộc người hiện tại. Còn ở Việt Nam, nếu coi nguồn gốc lịch sử là một tiêu chí cho xác định tộc người, sẽ rất khó khăn cho việc trả lời, “tộc người đó” là ai ? Chẳng hạn người Thổ ở Nghệ An, Thanh Hóa, nếu truy về nguồn gốc lịch sử thì họ đều từ người Kinh ở vùng Quỳnh Lưu, Diễn Châu tỉnh Nghệ An lên miền núi hỗn dung với người Mường, người Thái ở địa phương. Trường hợp người Sán Chay, gồm hai nhóm Cao Lan và Sán Chỉ, theo các nhà khoa học thì họ có chung một nguồn gốc. Nguyễn Nam Tiến, trong một bài viết về quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan và Sán Chỉ đăng trong Thông báo Dân tộc học 1973, sau đó đăng lại trong “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam” cho rằng: Người Sán Chỉ ở xã Phấn Mễ, huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái lại cùng họ Nịnh với người Cao Lan ở huyện Võ Nhai trong cùng tỉnh, hoặc dòng họ La ở xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, Bắc Thái, lại có một chi họ ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang khai là người Cao Lan. Ở huyện Sơn Động, tỉnh Hà Bắc, chi họ Mễ ở xã Yên Định khai là Cao Lan, chi ở Lệ Viễn khai là Sán Chỉ15. Ở nước ta, từ sau năm 1979, và nhất là từ khi thực hiện chính sách Đổi mới, tình hình di cư của các tộc người diễn ra ngày càng sôi động, sự cư trú xen ghép giữa các tộc người là phổ biến. Vì thế hôn nhân hỗn hợp giữa các tộc người không chỉ ở thế hệ thứ nhất mà ngày càng phát triển ở các thế hệ sau trong nhiều tộc người khác nhau. Có gia đình khai dân tộc của con theo cha, có gia đình khai theo mẹ, nghĩa là theo bên nội hoặc bên ngoại. Với những trường hợp như vậy, việc truy tìm nguồn gốc tộc người ngày càng trở nên phức tạp. Dẫn ra một số trường hợp trên đây, người viết muốn khẳng định một điều là không nên đưa nguồn gốc lịch sử làm thành một tiêu chí để xác định tộc 15. Nguyễn Nam Tiến, Lại bàn về mối quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan - Sán Chỉ trong “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam” (đã dẫn). người. 5. Cùng dòng dõi. Người viết nhiều về dòng dõi, coi đó là một tiêu chí để xác định tộc người là Charles F.Keyes16. Suy cho cùng thì đó cũng là tiêu chí về nguồn gốc lịch sử mà chúng tôi đã trình bày, mặt khác nó cũng liên quan đến huyết thống, chủng tộc, mà từ lâu người ta đã cho rằng nó thuộc về sinh học, khoa học tự nhiên chứ không thuộc khoa học xã hội, mặc dù tác giả có bổ sung. Dòng dõi không nhất thiết phải là một sự kiện có thật, không giống như dòng họ trong gia phả, chỉ ra một ông bà tổ chung ? 6. Cùng đặc trưng nhân chủng. Như trên đã trình bày, cộng đồng nhân chủng liên quan đến dòng máu, các đặc điểm về thể chất, thuộc về sinh học trong khoa học tự nhiên, khác với tộc người, thuộc khoa học xã hội, nhân văn. Trên thế giới, có không nhiều về cộng đồng nhân chủng, nhưng lại có hàng nghìn cộng đồng tộc người, do vậy không thể lấy tiêu chí nhân chủng để áp đặt cho tiêu chí tộc người. 7. Đặc thù tín ngưỡng tôn giáo. Tín ngưỡng tôn giáo xét cho cùng cũng thuộc về phạm trù văn hóa. Trong một tộc người, có thể mỗi dòng họ, mỗi nhóm địa phương trong tộc người có những qui định riêng về tín ngưỡng. Còn tôn giáo, nhất là các tôn giáo hiện đại, có nhiều tộc người cùng theo một tôn giáo như đạo Phật, Công giáo, Tin lành hoặc Hồi giáo, nhưng ngược lại trong cùng một tộc người, mỗi gia đình, mỗi nhóm địa phương hoặc ở mỗi quốc gia lại theo những tôn giáo khác nhau. Về tín ngưỡng, tôn giáo, từ lâu các nhà khoa học đã loại khỏi các tiêu chí tộc người. 8 và 9. Về tâm lý và nội tộc hôn. Chúng tôi đã trình bày rõ trong các công trình hoặc bài viết bàn về tộc người hoặc tiêu chí dùng trong xác định thành phần tộc người17. Vì vậy, ở nước ta hiện nay cũng không nên đưa hai vấn đề này trở thành tiêu chí trong xác định tộc người. Cũng như trong đề tài xác định thành phần các dân tộc nước ta giai đoạn 2000-2005, chúng tôi cho rằng, ba tiêu chí mà các nhà khoa học Việt Nam đã thống nhất: tiêu chí ngôn ngữ, tiêu chí văn hóa, tiêu chí ý thức tự giác tộc người, trước đây cũng như ở giai đoạn đó vẫn đúng và hiện nay vẫn còn nguyên giá trị. Có thể sau vài chục năm trong xã hội ta có nhiều thay đổi nhưng điều đó không ảnh hưởng đến các tiêu chí xác định tộc người, vì các tiêu chí đó vẫn đảm bảo được tính khoa học, phù hợp với thực 16. CharlesF.Keyes, các bài viết trong Hộp tuyến tính dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam và Đông Nam Á, Hà Nội, 2005. 17. Khổng Diễn, Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1995. - “Một số vấn đề xác định lại thành phần dân tộc ở Việt Nam” trong Hội thảo bàn về tiêu chí xác định lại thành phần một số dân tộc ở Việt Nam, Hà Nội 02.7.2002, thành phố Hồ Chí Minh 18.10.2002. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 51Số 21 - Tháng 3 năm 2018 SCIENTIFIC ESTABLISHMENT AND CRITERIA TO IDENTIFY ETHNIC GROUPS IN VIETNAM Khong Dien Abstract: Vietnam is a multi-ethnic country with 54 ethnic groups living in the S-shape (from Lung Cu - Ha Giang to Mui Ca Mau). Ethnic groups have a good relationship, a tradition of solidarity, mutual assistance, and common sense of a unified nation. The problem when implementing ethnic work is to grasp the characteristics of ethnic groups to implement the policy of the Partyabout the equality of the ethnic groups. It should be studied in terms of the ethnic composition. Identification of ethnic groups or ethnic compositions, at least the following elements: Data on ethnic groups and criteria for ethnic identity. Keywords: Scientific establishment; criteria to identify ethnic; ethnic group; data on ethnic groups tiễn đã và đang diễn ra trong xã hội các tộc người ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo [1] Khổng Diễn, Tổng quan về Dân tộc học Việt Nam trong một thế kỷ qua, trong “Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI”, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003; [2] Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X, Chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.16, 21; [3] Ủy ban Dân tộc và Miền núi, Báo cáo 50 năm công tác dân tộc và miền núi, Hà Nội, 1996; [4] Mạc Đường, Trao đổi về tiêu chuẩn xác định thành phần dân tộc, trong Hội thảo bàn về tiêu chí xác định thành phần dân tộc (Hà Nội ngày 02. 7.2012; thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/10/2002); [5] Hai nhà Khoa học Liên xô sau khi từ Việt Nam trở về nước đã viết một số công trình: - S.A.Aruchiunov, Ngôn ngữ Xá ở Tây Bắc Việt Nam, trong Thông báo Dân tộc học, Moscơva, 1962; - A.I.Mukhlinov, Một chuyến đi tới Việt Nam dân chủ cộng hòa trong Tạp chí “Nhân chủng học và Khảo cổ học Xô Việt số 3.1962; Đặc tính dân tộc học các nhóm Xá ở Việt Nam, Dân tộc học Xô viết, 1962; Nguồn gốc và lịch sử các tộc người ở Việt Nam, Moscơva, 1977; [6] Lã Văn Lô, Nguyễn Hữu Thấu, Mai Văn Trí, Ngọc Anh, Mạc Như Đường, Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, NXB. Văn hóa, Hà Nội, 1959; [7] E.P.Buxưghin, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Dân tộc học đại cương (Công Lý và Lê Thế Thép dịch), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1961; [8] Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), trong bản đồ các dân tộc, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978; [9] Nguyễn Khánh Toàn, Một vài quan điểm cơ bản cần được quán triệt trong quá trình xây dựng danh mục các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam trong “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975; [10] Vương Hoàng Tuyên, Việc lập danh mục các dân tộc là một thắng lợi bước đầu trong công tác nghiên cứu dân tộc ở miền Bắc nước ta, trong “Về vấn đề xác định thành phần (đã dẫn); [11] Đặng Nghiêm Vạn, Lại bàn về công tác xác minh thành phần các dân tộc Việt Nam, trong Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định lại thành phần một số dân tộc ở Việt Nam”, Hà Nội ngày 02. 7. 2002; [12] S.I.Bruk, Cư dân thế giới (dân số học tộc người), NXB. Khoa học, Moscơva, 1981; [13] Chu Thái Sơn, Tính đồng đại và tính lịch đại trong các tiêu chí xác minh dân tộc, trong Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định lại thành phần dân tộc ở Việt Nam, Hà Nội ngày 02.7.2002; [14] Cao Thế Trình, Tiêu chí xác định tộc người và việc vận dụng xây dựng danh mục thành phần dân tộc Việt Nam, trong Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/10/2002; [15] Kozlov V.I. Hệ vấn đề tính tộc người, trong “Căn tính tộc người”, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; [16] Keyes Charles F. “Các dân tộc ở Châu Á” - Khoa học và chính trị trong việc phân loại tộc người ở Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam, trong “Hộp tuyển tính dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam và Đông Nam Á”, Hà Nội, 2005; [17] Nguyễn Nam Tiến, Lại bàn về mối quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan - Sán Chỉ trong “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam” (đã dẫn); [18] Tạ Đức, Nguồn gốc người Việt - người Mường, NXB. Trí thức, Hà Nội 2013, tr, 814; [19] CharlesF.Keyes, các bài viết trong Hộp tuyến tính dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam và Đông Nam Á, Hà Nội, 2005; [20] Khổng Diễn, Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1995.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf146_642_1_pb_6449_2151963.pdf