Chuyên đề Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội

Tài liệu Chuyên đề Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội: LỜI MỞ ĐẦU Trong cuộc sống của con người từ xa xưa cho tới nay, không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của đất đai. Đất đai là điều kiện tiên quyết không thể thiếu của bất kỳ nên kinh tế nào, ngay cả những nước phát triển đời sống kinh tế chủ yếu là sản xuất công nghiệp - dịch vụ, cho đến những nước đang phát triển nền kinh tế chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Nước ta sau hơn 20 năm đổi mới đã có những thành tựu vượt bậc nhưng hiện vẫn đang là một nước nông nghiệp. Vì vậy đất nông nghiệp đối với nước ta càng có ý nghĩa hơn. Huyện Thanh Trì thuộc thành phố Hà Nội là một huyện ngoại thành thành phố Hà Nội. Nằm giữa ngã ba đường là cầu nối quan trọng giữa thủ đô Hà Nội và các tỉnh thành lân cận như: Hà Tây, Hà Nam, Nam Định…Do đó huyện có vại trò to lớn đối với sự phát triển của thủ đô, Tuy là một huyện thuộc thành phố Hà Nội nhưng huyện Thanh Trì vẫn là một huyện sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế đang trên bước đường chuyển mình chưa hình thành cơ cấu triệt để cho nền sản xuất. Vì vậy...

doc86 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong cuộc sống của con người từ xa xưa cho tới nay, không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của đất đai. Đất đai là điều kiện tiên quyết không thể thiếu của bất kỳ nên kinh tế nào, ngay cả những nước phát triển đời sống kinh tế chủ yếu là sản xuất công nghiệp - dịch vụ, cho đến những nước đang phát triển nền kinh tế chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Nước ta sau hơn 20 năm đổi mới đã có những thành tựu vượt bậc nhưng hiện vẫn đang là một nước nông nghiệp. Vì vậy đất nông nghiệp đối với nước ta càng có ý nghĩa hơn. Huyện Thanh Trì thuộc thành phố Hà Nội là một huyện ngoại thành thành phố Hà Nội. Nằm giữa ngã ba đường là cầu nối quan trọng giữa thủ đô Hà Nội và các tỉnh thành lân cận như: Hà Tây, Hà Nam, Nam Định…Do đó huyện có vại trò to lớn đối với sự phát triển của thủ đô, Tuy là một huyện thuộc thành phố Hà Nội nhưng huyện Thanh Trì vẫn là một huyện sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế đang trên bước đường chuyển mình chưa hình thành cơ cấu triệt để cho nền sản xuất. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp và đảm bảo các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế huyện, mà cụ thể là quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trên toàn huyện. Đứng trước xu thế công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đô thị hoá diễn ra ngày càng nhanh, ngày càng mạnh. Đất nông nghiệp đang đứng trước nguy cơ thu hẹp dần diện tích, do đó để có được hiệu suất sử dụng đất nông nghiệp ngày càng cao và hợp lý, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp ngày càng phải hoàn thiện, chặt chẽ hơn nữa. Đối với huyện Thanh Trì, số lượng lao động làm trong ngành nông nghiệp chiếm đa số( 68,9%), diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 53,6 % (thống kê năm 2005) qua đây để thấy được vai trò của đất nông nghiệp với toàn huyện và có nhận định đúng đắn hơn về công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện Thanh Trì.Qua thời gian thực tập tại Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì, nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp em đã lựa chọn đề tài “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội’’ làm chuyền đề tốt nghiệp. Đây là một nội dung trong 12 nội dung của công tác quản lý nhà nước về đất đai. Việc lựa chọn đề tài này nhằm mục đích củng cố thêm kiến thức đã được học, bổ sung, mở rộng các lý thuyết đã được học, hệ thống hóa được các lý luận và áp dụng lý luận vào thực tiễn. Dựa vào quá trình thực tập để tìm hiểu sâu về tình hình sử dụng đất nông nghiệp và công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện Thanh Trì. Từ đó, đưa ra được các kiến nghị, với các cấp, các ngành, địa phương nhằm nâng cao chất lượng của công tác quản lý về đất nông nghiệp trên địa bàn. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp là sản phẩm của sự nghiên cứu thực tiễn của địa phương và nghiên cứu tổng hợp về lý thuyết. Trong chuyên đề đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phương pháp phân tích… Kết cấu của chuyên đề ngòai lới nói đầu và kết luận, chuyền đề gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội Do trình độ và thời gian hạn hẹp, nên chuyên đề không thể tránh khỏi. những sai sót, em rất mong nhận được những lời nhận xét và góp ý cho chuyên đề hoàn thiện hơn. Trong thời gian qua, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ của phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì – Hà Nội, các cô giáo, thầy giáo, đặc biệt là cô giáo Vũ Thị Thảo đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Cơ sở khoa học của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 1 Những vấn đề chung về đất nông nghiệp 1.1 Khái niệm đất nông nghiệp Trước khi đi sâu tìm hiểu về đất nông nghiệp chúng ta tìm hiểu qua về sự hình thành của đất đai trên bề mặt trái đất nói chung. Đất đai được hình thành thông qua quá trình lịch sử lâu dài nhờ vào sự phong hoá đá mẹ dưới sự tác động của không khí, gió, nước, sinh vật..Sản phẩm của quá trình phong hoá đá đó là các chất vô cơ Như: N,C,S,Mg…Theo thời gian sản phẩm của quá trình phong hoá đó tích tụ thêm các chất hữu cơ từ xác của động vật, thực vật bị chết, phân, chất thải của động, thực vật (đây chính là một phần nguồn dinh dưỡng quan trọng sẽ cung cấp cho thực vật sau này)… và hình thành nên đất. Đất đai được hình thành trên bề mặt trái đất do đó đất đai là một khoảng không gian có giới hạn theo chiều thẳng đứng (gồm khí hậu, lớp đất phủ bề mặt,…); và theo chiều ngang (là sự kết hợp của thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm thực vật…). Quỹ đất đai của mỗi vùng, địa phương luôn bị giới hạn bởi địa giới hành chính của vùng, địa phương đó. Quỹ đất đai của một đất nước bị giới hạn bởi biên giới, địa giới lãnh thổ quốc gia, Và tổng quỹ đất của tòan thế giới bị giới hạn bởi bề mặt trái đất, Chính vì thế không ai có thể nói rằng đất đai là nguồn tài nguyên vô tận, không có giới hạn mà ngược lại đai có giới hạn. Con người từ thủa sơ khai, khi con người còn là con người nguyên thuỷ cuộc sống mông muội dựa hoàn toàn vào đất đai. Đất đai là nơi con người khai thác, các loài động vật, thực vật bằng cách săn bắn, hái lượm, trú ngụ… Đất nông nghiệp cung cấp cho con người nguyên thuỷ tất cả những sản phẩm cần thiết của đời sống, đời sống con người những năm nguyên thủy là đời sống cộng đồng hoạt động sản xất nông nghiệp còn rất thô sơ, và đất đai là tư liệu lao động quý giá nhất mà họ có lúc bấy giờ. Dần dần, khi cuộc sống con người ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng lên. Con người nguyên thuỷ bắt đầu có những nhận thức mới, những nhu cầu và sự thay đổi mới trong xã hội. Lúc này, chỉ dựa hoàn toàn vào thiên nhiên không có sự canh tác thôi không thể đáp ứng đựơc nhu cầu ngày một cao được nữa. Từ đó con ngươì đã biết dựa vào đất nông nghiệp để chăn nuôi,cày cấy, trồng trọt và từ đây cuộc sống con người bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ mà con người biết tự canh tác tạo ra của cải vật chất cho bản thân, hạn chế ảnh hưởng của thiên nhiên đến đời sống. Sản phẩm mà con người tạo ra ngày càng đa dạng, đầy đủ hơn, Biết khai thác sức mạnh của đât nông nghiệp đời sống con người ngày càng tăng lên nhanh chóng, kéo theo nó là sự phát triển của xã hội, nền kinh tế và nhận thức. Cho đến ngày nay, khi con người đã thoát khỏi đời sống mông muội nhưng cuộc sống con người không thể tách rời khỏi đất nông nghiệp. Dọc theo quá trình phát triển ta có thể thấy mục đích đầu tiên của con người đối với đất đai là sản xuất nông nghiệp; và bây giờ có rất nhiều ngành sản xuất mới ra đời, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, sản xuất công nghiệp nặng…Con người vẫn không rời bỏ được nền sản xuất nông nghiệp đã tồn tại từ rất lâu đời cho đến nay. Như vậy, một nguồn đất trong tổng quỹ đất của loài người là phục vụ cho mục đích trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng…Vậy quỹ đất đó được gọi là gì? Đất nông nghiệp được định nghĩa ra sao? Theo luật đất đai năm 2003: “Đất nông nghiệp là đất được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp như: Trồng trọt, chăn nuôi, làm muối, nuôi trồng thuỷ sản…,hoặc sử dụng để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”. Đất đai khi được sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì được gọi là ruộng đất. Con người tác động vào đất nông nghiệp tạo ra của cải, vật chất cho đời sống. Đất nông nghiệp - ruộng đất là đối tượng lao động đồng thời là tư liệu lao động của con người. Lúc đầu, con người canh tác chỉ để đáp ứng nhu cầu của bản thân, gia đình nền kinh tế “tự cung tự cấp”. Xã hội phát triển quá trình chuyên môn hoá xảy ra, nông phẩm không đơn chỉ để phục vụ cho bản thân người sản xuất nữa. Nông phẩm là một mặt hàng quan trọng trên thị trường, mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho người sử dụng đất và cho toàn xã hội. Vì vậy, đất đai sử dụng vào sản xuất nông nghiệp – ruộng đất chiếm vị thế đáng kể đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội loài người. 1.2 Đặc điểm đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là một bộ phận của tổng quỹ đất, Nó có đặc điểm chung của đất đai đồng thời có những đặc điểm riêng của nó. 1.2.1. Đặc tính hai mặt: Đất nông nghiệp không thể sản sinh và có khả năng tái tạo Như chúng ta đã biết về quá trình hình thành đất đai là quá trình của tự nhiên, đó là một quá trình dài, diễn ra liên tục dưới sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, không thể ngày một ngày hai mà có khi là cả hàng ngàn hàng vạn năm mới hình thành nên được đất đai trên bề mặt trái đất. Đất đai không thể di chuyển vị trí, nó có luôn luôn cố định (nó được hình thành ở đâu thì luôn ở đó, bản thân nó không thể di chuyển) đồng thời đất đai được hình thành với một số lượng hạn chế trên toàn cầu và phạm vi từng quốc gia. Tính cố định không thể di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác của đất đai đồng thời cũng quy định tính giới hạn về quy mô theo không gian (theo cả chiều rộng và chiều sâu) gắn liền với môi trường mà đất đai phải chịu chi phối (nguồn gốc hình thành,đá mẹ, các hệ sinh thái, khí hậu, chế độ mưa nắng…). Con người không thể tạo ra đất đai (đất nông nghiệp), quá trình hình thành nên đất đai là một quá trình tự nhiên qua thời một khoảng thời gian dài, năng lực của con người không đủ để tạo ra đất đai. Chính vì vậy mà ta có thể nói đất đai (đất nông nghiệp) không thể tái sinh. Tuy nhiên, con người - chủ thể hoạt động của nền kinh tế xã hội, Con người tác động vào đất đai (đất nông nghiệp) theo hai hướng khác nhau: có thể đó là tác động theo chiều hướng tích cực, có thể đó là tác động theo chiều hướng tiêu cực. Quá trình tác động theo chiều hướng tích cực sẽ góp phần rất lớn vào cải tạo và nâng cao chất lượng đất (đất nông nghiệp) khắc phục được hiện tượng hoang hoá, khôi phục độ phì nhiêu của đất nông nghiệp, tạo ra một diện tích đất nông nghiệp mới cho sản xuất,Như vậy nếu biết cách gìn giữ và sử dụng thì đất đai vẫn có thể tái tạo lại, thực tế cũng đã chứng minh điều đó, Qua đây, có thể kết luận đẩt đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng có tính hai mặt: không thể tái sinh nhưng có khả năng tái tạo, Tính hai mặt này rất quan trọng trong quá trình sử dụng đất, Một mặt, con người sử dụng đất nông nghiệp phải hết sức tiết kiệm, xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận khi phân bố, sử dụng, chuyển mục đích sử dụng các loại đất, Một mặt, phải luôn chú ý ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng khả năng phục hồi sức sản xuất và tái tạo đất nông nghiệp, phục hồi đất hoang hoá đưa vào sử dụng…,Trong quá trình sử dụng con người phải luôn biết cách khai thác đât đai (đất nông nghiệp), không vắt kiệt khả năng sản xuất của đất đai (đất nông nghiệp) 1.2.2. Tính sở hữu và sử dụng Có một thời xã hội loài người không có sự phân hóa, cuộc sống bầy đàn, mọi sản vật tìm được đều là của chung của toàn cộng đồng, ngay cả đất đai. Đất đai là sở hữu chung của cả bầy đàn, cộng đồng. Cùng với sự phát triển của xã hội chế độ sở hữu và chiếm hữu đất đai cũng phát triển theo. Chế độ chiếm hữu ruộng đất đã biến quyền sở hữu đất đai từ sở hữu chung của tập thể, bầy đàn thành sở hữu tư nhân. Cùng với quá trình thương mại hoá nền nông nghiệp thì việc chia nhỏ quyền sở hữu đất đai (đất nông nghiệp) và quyền sở hữu tư nhân về đất đai cũng là một tất yếu dĩ nhiên dẫn đến quá trình bần cùng hoá nông dân những người luôn cần đến đất đai như là một tư liệu lao động, đối tượng lao động trực tiếp. Người nắm trong tay đất đai là người có nhiều quyền lợi kinh tế lớn nhất trong nền sản xuất xã hội, song song với nó người sở hữu đất đai còn nắm quyền các lực về mặt chính trị. Kẻ không có đất đai chỉ là kẻ làm thuê, làm công bị tách ra khỏi tư liệu sản xuất, mất đi tư liệu sản xuất. Và như vậy, trong xã hội xuất hiện sự tách biệt giữa người sở hữu đất đai (đất nông nghiệp) và người sử dụng đất đất đai (đất nông nghiệp), người sở hữu đất nông nghiệp giờ đây không phải là người lao động trực tiếp mà trao quyền sử dụng, lao động trực tiếp đó cho các đôi tượng khác qua các hình thức cho thuê đất, giao đất, thuê, mướn (những đối tượng này cần có tư liệu sản xuất là đất đai nhưng lại bị tách khỏi quyền sở hữu đất)… Người sở hữu đất nông nghiệp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, là người chủ sở hữu duy nhất đất nông nghiệp được nhà nước công nhận về mặt pháp lý, nhà nước luôn bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho người sở hữu đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Người sở hữu đất nông nghiệp có quyền sử dụng, khai thác, mua bán, ứng dụng khoa học vào sản xuất phù hợp với chính sách và quy định của pháp luật nhà đặt ra… Ở nước ta ngay sau ngày đất nước được giải phóng năm 1945 đất nước bước đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc; và cho tới nay pháp luật nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà Nước làm đại diện chủ sở hữu”, Nhà nứơc thể hiện vai trò của mình thông qua việc Quyết định mục đích sử dụng đất Quy định hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất Quyết định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất Định giá đất (Trích luật đất đai năm 2003) Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi có từ đất nông nghiệp thu được bằng các chính sách tài chính về đất nông nghiệp như: chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp, chính sách quy định về tiền thuê đất nông nghiệp, thuế thu nhập khi chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp… Là người đại diện chủ sở hữu đất nông nghiệp trên phạm vị cả nứơc nhưng nhà nước không phải là ngừời trực tiếp sử dụng đất nông nghiệp. Nhà nước trao quyền sử dụng đất nông nghiệp cho những người có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp thông qua hình thức: giao đất, cho thuê đất…Người sử dụng trực tiếp đất nông nghiệp, được nhà nước ban một số quyền đối với đất nông nghiệp như: sử dụng, chiếm hữu, định đoạt nhưng các quyền mà nhà nước ban cho các các nhân, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp chỉ là các quyền hạn chế, không phải là quyền tuyệt đối hoàn toàn, người được nhà nước giao đất, cho thuê đất không có quyền định đoạt, chiếm hữu, sử dụng tối cao, những quyền này là của nhà nước. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã tạo ra nhiều thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và quản lý nhà nước về đất nông nghiệp nói riêng, Nhà nước có thể thu hồi, điều chỉnh, giao đất, quyết định mục đích sử dụng của đất đai sao cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Khi cần thu hồi, lấy lại đất nông nghiệp nhà nước có thể bồi thường cho cá nhân, tổ chức sử dụng đất tiền bồi thường thiệt hại, nếu người sử dụng đất không chấp nhận với mức đền bù, hay vì lý do khác thì nhà nước có quyền cưỡng chế đối với trường hợp đó. 1.2.3. Đất nông nghiệp có tính đa dạng và phong phú Trên bề mặt trái đất đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng được hình thành nhờ vào quá trình phong hoá đá mẹ, đá mẹ là nguồn gốc sinh ra đất đai. Đất nông nghiệp được tạo ra mang những tính chất khác nhau phụ thuộc nhiều vào lớp đá mẹ tạo ra lớp đất nông nghiệp đó. Chính vì vậy mà chúng ta có những loại đất nông nghiệp khác nhau như: đất phù sa, đất đỏ bazan, đất sét thịt, đất cát…Thiên nhiên tạo ra rất nhiều loại đất nông nghiệp khác nhau có tính chất và đặc điểm khác nhau đặc trưng riêng của mỗi loại. Thậm chí trong một loại đất nông nghiệp đó không phải ở đâu loại đất đó cũng giống nhau, có nơi đất đó tốt hơn, có nơi lại xấu hơn, thành phần cơ giới, độ phì nhiêu của chúng là khác nhau. Ví dụ như: đất nông nghiệp do phù sa Sông Hồng thường mang tính chất cơ giới nhẹ, nhiều kiềm. Phù sa Sông Cửu Long thường mang tính chất cơ giới nặng hơn phù sa Sông Hồng, Dựa trên tính chất đặc biệt của mỗi loại đất và sự phù hợp của khí hậu, điều kiện tự nhiên của địa phương nơi đất nông nghiệp phân bố mà con người lựa chọn loại hình canh tác, cây con giống, chế độ luân canh, tưới tiêu sao cho phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nữa. Tính đa dạng và phong phú của đất nông nghiệp vì thế cũng mang lại nhiều lợi ích cho con người. Mỗi một địa phương một loại đất, một tính chất khác nhau lại có luồng sản phẩm khác nhau, phù hợp và như thế con người sẽ có nhiều sản phẩm nông nghiệp đa dạng và phong phú hơn. Một số vùng có thể hình thành nên nền sản xuất chuyên canh cây, con đặc sản mà không vùng nào có thể có đựoc mang lại giá trị kinh tế cao. 1.3 Phân loại đất nông nghiệp Phân loại đất nông nghiệp là một việc làm quan trọng cho công tác sản xuất, quản lý đất nông nghiệp. Dựa vào sự phân loại đó con người có thể xác định được mục tiêu sản xuất, cây con giống phù hợp, chế độ chăm sóc hợp lý,…Có rất nhiều tiêu chí khác nhau để phân chia đất nông nghiệp. Có thể phân chia đất nông nghiệp dựa vào: mục đích sử dụng, tính chất đất, độ Ph, thành phần cơ giới… Theo luật Đất đai năm 1993 thì: Đất đai được chia thành 6 loại, trong đó đất nông nghiệp gồm các loại đất sau: Đất trồng cây hàng năm: + Đất trồng lúa, trồng màu Ruộng 3 vụ Ruộng 2 vụ Ruộng 1 vụ + Đất trồng cây hàng năm khác: Đất trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày Đất trồng rau Đất trồng cây hàng năm khác Đất vườn tạp Đất trồng cây lâu năm Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi cá Thuỷ sản khác (Trích luật đất đai năm 1993) Theo luật đất đai năm 2003 điều 13 quy định: đất đai chia làm ba nhóm nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp, nhóm đất chưa sử dụng, Trong đó đất nông nghiệp gồm có: - Đất sản xuất nông nghiệp gồm: +Đất trồng cây hàng năm: Đất trồng lúa Đồng cỏ chăn nuôi đất trồng cây hàng năm khác + Đất trồng cây lâu năm - Đất lâm nghiệp: Đất rừng sản xuất Đất rừng phòng hộ Đất rừng đặc dụng - Đất nuôi trồng thuỷ sản - Đất làm muối - Đất nông nghiệp khác theo quy định của chính phủ (Trích luật Đất đai năm 2003) Ta có thể nhận thấy sự thay đổi rất lớn giữa cách phân loại đất của luật Đất đai năm 1993 và luật Đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2003 đã quy định chi tiết và cụ thể hơn, các loại đất đã được phân chia theo đúng mục đích sử dụng. Sự thay đổi có thể thấy rõ, một số loại đất chuyên dùng và đất nông nghiệp nay chuyển sang đất phi nông nghiệp nông nghiệp. Sự đổi mới này thể hiện một tư duy mới tránh xảy ra sự trùng lặp, chồng chéo trong phân chia các loại đất như trước đây. Ngoài ra, việc phân chia đất nông nghiệp còn theo nhiều cách khác nhau, dựa trên những tiêu chí khác nhau. Ví dụ, phân chia đất nông nghiệp dựa trên đặc tính đất đai, thổ nhưỡng của đất đai. Hay ta có thể phân chia đất nông nghiệp theo phân bố vị trí địa lý, tính chất màu mỡ của đất đai, độ phì nhiêu của đất nông nghiệp…Ta có đất nông nghiệp phân bố ở đồng bằng, đất nông nghiệp phân bố ở miền trung du,…Đất nông nghiệp có tính chất màu mỡ cao, đất nông nghiệp độ phì thấp, đất nông nghiệp có tính chất màu mỡ trung bình… 2. Vai trò đất nông nghiệp 2.1. Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế - Là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được. Đất nông nghiệp là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại, là điều kiện tiên quyết không thể thiếu được cho sản xuất cơ bản. Quả thật, trong quá trình sản xuất tồn tại của con người, con người không thể tách rời đất đai. Vai trò của đất đai trong ngành trồng trọt và ngành sản xuất nông nghiệp còn được thể hiện rõ ràng hơn. Thứ nhất, đất nông nghiệp là đối tượng của sản xuất thể hiện ở chỗ người sản xuất tác động vào đất đai để sản xuất ra của cải nông nghiệp như: lương thực, thực phẩm, rau quả, động vật… Nhờ vào khoa học kỹ thuật, sự tiên tiến của công nghệ con người đã tác động làm thay đổi tính chất, độ phì của đất để phục vụ mục đích cuối cùng là sản lượng cây trồng ngày càng cao, chất lượng cây trồng ngày càng tăng lên không ngừng, khả năng chống chọi với những tác động bất lợi đến cây con nuôi trồng ngày càng lớn. Hoạt động của con người tác động vào đất có thể là trực tiếp hay gián tiếp. Con người trực tiếp tác động vào đất đai như là một tư liệu sản xuất, đối tượng sản xuất như: Cày bừa, cuốc đất, trồng trọt…Con người tác động vào đất đai gián tiếp như: sản xuất phân bón, hoá chất…ứng dụng vào đất đai. Tất cả để phục vụ cho đời sống của con người. Thứ hai, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất, từ đất nông nghiệp cây cối, động vật được trồng trọt, chăn nuôi cho ra sản phẩm. Đất nông nghiệp là nguồn cung cấp môi trường sống cho động, thực vật các nguồn khoáng sản và dinh dưỡng cho sự sống của thực vật. Trong đất nông nghiệp chứa đầy đủ thức ăn, dinh dưỡng, không khí…mà cây con trồng cần thiết cho sự sống. Chính vì vậy người sản xuất đã có trong tay một tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng không thể thay thế được. Mặt khác, mặc dù con người đã có sự cố gắng để tạo ra sản phẩm nông nghiệp mà không cần dùng đến đất đai như: trồng cây trên nước, trồng cây bằng dung dịch dinh dưỡng…Nhưng chưa có một quốc gia nào có thể tách rời trồng trọt với đất nông nghiệp cả. Những sản phẩm tạo ra từ những thí nghiệm chỉ là một khối lượng rất nhỏ và năng suất rất thấp, Điều này càng chứng minh sự cần thiết, và tầm quan trọng của đất đai nói chung và đất nông nghiệp. Có thể khẳng định con người luôn cần đến đất nông nghiệp để sản xuất và đó là tư liệu sản xuất không thể thay thế được. 2.2.Việc sử dụng đất nông nghiệp là một trong những yếu tố quyết định đến bảo vệ môi trường sinh thái của cuộc sống Đất nông nghiệp là một trong những yếu tố cấu thành nên môi trường, gắn liền với môi trường tự nhiên và điều kiện sinh thái. Theo quy luật của mối liên hệ phổ biến thì để có được môi trường trong sạch các yếu tố trong môi trường phải được bảo vệ và trong lành, nếu không yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến yếu tố khác, một yếu tố không được bảo vệ có thể gây ảnh hưởng xấu đến các yếu tố khác và như thế môi trường sẽ bị ô nhiễm. Nếu đất nông nghiệp không có được môi trường trong sạch hiệu quả sử dụng đất nói chung sẽ giảm sút đáng kể. Chúng ta có thể thấy nếu đất đai bị ô nhiễm hậu quả tất yếu là nguồn nước bị ô nhiễm, không khí bị ô nhiễm, môi trường sống bị ô nhiễm…Con người khai thác đất đai không có ý thức thường chỉ xét đến các lợi ích trước mắt mà không thể nhìn thấy được lợi ích lâu dài. Điều này càng làm suy giảm môi trường của cuộc sống hơn. Tuy nhiên, con người có thể tác động lên đất đai theo hai mặt: một mặt tiêu cực làm đất nông nghiệp và môi trường xấu đi. Một mặt tích cực làm đất nông nghiệp và môi trường tốt lên. Con người - chủ thể của hoạt động kinh tế - xã hội hoàn toàn có thể tạo ra môi trường trong sạch cho đời sống của bản thân và cộng đồng bằng những hành vi tích cực: dùng phân bón hợp lý, không phá rừng ồ ạt, không bỏ hoang hoá, khai thác đất đai hợp lý, năng suất, hiệu quả…Những hành động này làm một trong những tác nhân quan trọng trong bảo vệ môi trường nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, môi trường trong sạch là đóng góp chung của toàn xã hội, của toàn cầu, của cả thế giới, của cả cộng đồng loài người không phải là nhiệm vụ của riêng ai. Do đó, cần có sự nỗ lực chung và một chiến lược hợp tác, giúp đỡ, làm việc có hệ thống trên tầm quốc tế. 2,3, Đất nông nghiệp là nguồn cung cho các mục đích sử dụng Như Adam Smith đã nhận định “đất, trong hầu hết các tình huống sản sinh ra một lượng lương thực nhiều hơn so với khối lượng đủ để duy trì sự sống của ngươi lao động”. Nói như vậy có nghĩa là đất nông nghiệp có thể sản sinh ra một lượng sản phẩm thừa đủ để cung cấp cho bản thân người nông dân sản xuất, một phần sản phẩm dư thừa còn lại sử dụng vào đâu? trong xã hội, quá trình trao đổi, mua bán xảy ra và sản phẩm dư thừa được người sản xuất đưa ra thị trường cung cấp cho xã hội, các cá nhân khác. Cùng với khoa học công nghệ càng phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ và kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp ngày càng nhanh và mạnh theo cả chiều sâu (khoa học và công nghệ áp dụng hiệu quả, ngày càng mạnh, càng hiện đại) và chiều rộng (khoa học công nghệ áp dụng vào hầu hết các công đoạn, các giai đoạn sử dụng đất, trên diện tích rộng, hầu khắp). Dựa trên sức sản xuất của đất nông nghiệp và khoa học công nghệ, con người có thể tạo ra một khối lượng lớn hơn nữa các sản phẩm nông nghiệp. Như vậy con người không cần phải sử dụng một diện tích quá lớn để sản xuất ra sản phẩm đầy đủ cho đời sống, họ có thể sử dụng một diện tích nhất định cũng đã đủ cung cho nhu cầu của xã hội. Diện tích đất nông nghiệp cần sử dụng cho quá trình sản xuất so với trước kia giảm xuống, Diện tích đất nông nghiệp dôi ra dùng vào đâu? Quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ ngày càng mở rộng. Nhu cầu đất đai phục vụ cho mục đích sản xuất công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên. Quá trình chuyển dịch cơ cấu đất đai cho các mục đích sử dụng của con người cũng xảy ra sao cho phù hợp. Đất nông nghiệp sẽ là nguồn cung quan trọng cho các mục đích sử dụng khác, quỹ đất nông nghiệp được cắt để phân bổ cho mục đích sử dụng khác. Đối với nước ta là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào nền sản xuất nông nghiệp do vậy diện tích đất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong quỹ đất của quốc gia. Tuy có diện tích khá lớn khoảng 22 triệu Ha (năm 2004) nhưng đất nông nghiệp chưa được khai thác đúng mức, hiệu quả và năng suất còn thấp, thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp so với thế giới .Vì vậy, cần thiết phải chuyển một số diện tích đất nông nghiệp sang mục đích khác nhằm mang lại hiệu quả cao hơn. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa của đất nước, cơ cấu nền kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ từng ngày, diện tích đất cần cung cấp cho mục đích xây dựng, giao thông, đất ở, đất khu công nghiệp, thương mại…gia tăng nhanh chóng. Quỹ đất nông nghiệp là một nguồn cung quan trọng cho các mục đích sử dụng đất khác cho nên một diện tích lớn đất nông nghiệp đã và sẽ được chuyển sang mục đích phi nông nghiệp đã mang lại những hiệu quả lớn lao cho đất nước. Tuy nhiên, sự chuyển đổi này cần phải có tính toán và có quy hoạch rõ ràng, thực tế và mang tính dự báo cao…Trong hệ thống các điều khoản của Pháp luật nước Việt Nam đã có những quy định chặt chẽ cho các trường hợp điều chỉnh các quỹ đất nhằm cân đối các nhu cầu và bảo đảm diện tích đất nông nghiệp cần thiết của xã hội. 3, Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp 3.1 Khái niệm quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp Như chúng ta đã biết bản chất của công tác quản lý nhà nước là sự tác động một cách có tổ chức, hệ thống nhằm mục đích điều chỉnh các hành vi của con người, tổ chức, cá nhân…bằng quyền lực của nhà nước để hướng ý chí và mục đích của họ theo mục đích chung của toàn xã hội. Nhà nước tác động lên các đối tượng thông qua công việc thiết lập các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa con người với con người, giữa các tập thể với nhau, quan hệ giữa cá nhân với tập thể… các mối quan hệ tồn tại trong xã hội là rất nhiều, tất cả các mối quan hệ đó đều cần phải được điều chỉnh để lợi ích của người này không làm xâm phạm lợi ích của người khác, đảm bảo được lợi ích của đất nước. Trước hết nhà nước vừa là một cơ cấu có tổ chức bao gồm một hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Những tác động của nhà nước lên các đối tượng quản lý là các tác động có tổ chức chứ không phải tác động một cách đơn lẻ đến một cá nhân, chủ thể đơn giản trong xã hội. Mà sự tác động đó đặt trong hệ thống tổng hòa các mối quan hệ của xã hội bao hàm tòan bộ các cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế. Tính tổ chức đó đặt ra vấn đề là làm sao hình thành nên các tổ chức, bộ máy quản lý với cơ cấu và cơ chế hoạt động thích hợp. Mặt khác, các tổ chức, bộ máy đó hoạt động như thế nào? Sự phối hợp hoạt động, phân chia quyền hạn, trách nhiệm giữa các cá nhân, tổ chức như thế nào? Để bộ máy nhà nước quản lý mang lại hiệu quả tối ưu, đạt được mục tiêu đã đề ra. Đó là một vấn đề lớn đối với công tác tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước. Nhà nước còn tạo lập nên bộ máy sức mạnh về pháp luật, an ninh, bộ máy áp chế… để thực hiện công tác quản lý của mình đưa cá nhân, tổ chức vào đúng quỹ đạo, hoạt động trong khuôn khổ phục vụ lợi ích cá nhân mà lợi ích đó không gây ảnh hưởng xấu đến xã hội. Sự tồn tại của bộ máy áp chế trong cơ cấu các cơ quan chức năng quản lý là một tất yếu khách quan, đó là điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quản lý trong những trường hợp cần thiết. Quản lý nhà nước còn được thể hiện ở quan hệ chủ thể và khách thể và đối tượng quản lý. Chủ thể của sự quản lý nhà nước là bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, tỉnh, thành, phường, xã,,, và toàn bộ các cán bộ công nhân viên chức của nhà nước làm việc trong công tác quản lý Nhà nước …Khách thể quản lý là các công dân, tổ chức, các thành phần kinh tế, xã hội… Đối tượng của công tác quản lý nhà nước là các quá trình kinh tế, các hoạt động, các mối quan hệ có liên quan. Riêng trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai chủ thể quản lý nhà nước về đất đai (cụ thể ở đây là đất nông nghiệp) thì nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý, khách thể của sự quản lý là các cá nhân, tổ chức, doanh nhân, doanh nghiệp sử dụng đất nông nghiệp, có liên quan đến đất nông nghiệp…Và đối tượng của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp là những mối quan hệ phát sinh, những vướng mắc, vấn đề có liên quan đến đất nông nghiệp xảy ra trong xã hội. Cụ thể trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, Nhà nước có các vai trò và nhiệm vụ quan trọng sau: - Nhà nước quản lý toàn bộ quỹ đất đai (đất nông nghiệp) trên phạm vi cả nước. Như đã nói ở trên nhà nước là người đại diện chủ sở hữu đất nông nghiệp của cả nước. Đồng thời nhà nước là chủ thể quản lý của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, Chính vì vậy nhà nước phải thống nhất quản lý đất đai (đất nông nghiệp) trên phạm vi cả nước. Mục đích của việc này là mang lại lợi ích chung cho xã hội đảm bảo sử dụng đất (đất nông nghiệp) hợp lý và hiệu quả cao nhất, có tầm nhìn xa vì mục đích chung của cộng đồng. Song song với nó Nhà nước luôn có các chế tài để đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm của mình và của người sử dụng đất nông nghiệp nói riêng và đất đai nói chung. Người sử dụng đất nông nghiệp phải tuân thủ các quy định đã đặt. Nếu không chấp hành các quy định đó thì người sử dụng đất đã vi phạm pháp luật có thể bị phạt, thu hồi đất, tịch thu tài sản…Nhà nước thực hiện công tác quản lý qua những nhiệm vụ sau: - Nhà nước thông qua quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế để định hướng cho quá trình sử dụng đất. Nhà nước là người có các quyền tuyệt đối với đất đai: định đoạt, chiếm hữu… Do đó, nhà nước có quyền quyết định mục đích sử dụng, thời hạn sử dụng… của đất đai (đất nông nghiệp). Trước hết nhà nước xác định tính chất, hiện trạng, đặc tính của đất đai (đất nông nghiệp) từ đó xác định được mục đích sử dụng của các loại đất ở từng vùng, địa phương, nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực sao cho phù hợp. Qua quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đã được thông qua nhà nước đã điều tiết các quỹ đất trong nền kinh tế, nhà nước quyết định mục đích sử dụng đất của vùng, địa phương… Người sử dụng đất tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước đã được thông qua. Mô hình chung mục đích sử dụng, cơ cấu sử dụng, diện tích của các loại đất phân bổ…được thực hiện bởi người dân nhưng người xác định là Nhà nước. Do đó, nhà nước có được chiến lược phát triển lâu dài, bền vững cho đất nước. - Công tác kiểm kê, đánh giá phân hạng đất nông nghiệp là một việc làm không thể thiếu được của công tác quản lý nhà nước về đất đai (đất nông nghiệp). Hàng năm nhà nước phải nắm bắt được cụ thể diện tích, chất lượng, mục đích sử dụng, tình trạng sử dụng của các loại đất nói chung và của đất nông nghiêp nói riêng, có như thể mới có thể tạo lập được quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp phù hợp, lâu dài, tính dự báo cao… Để có đựơc điều đó đòi hỏi công tác kiểm kê đánh giá phân hạng đất nông nghiệp phải được thực hiện triệt để, theo đúng luật, đúng kế hoạch đề ra. Công tác này không những giúp cho công tác lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (đất nông nghiệp) mà nó còn đóng góp rất lớn cho công tác quản lý tài chính về đất nông nghiệp của nhà nước ta. Tạo một nguồn thu quan trọng cho ngân sách, phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Nhà nước tính thuế đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền đền bù…dựa trên khung giá đất nông nghiệp, đất nông nghiệp được chia ra nhiều loại mỗi loại có một khung giá khác nhau. Để phân chia được đất nông nghiệp thì công tác đầu tiên là phân hạng, đo đạc, đánh giá đất. Qua đây ta có thể thấy vai trò lớn của công tác đo đạc, phân hạng, đánh giá đất đai. - Đất đai là tài sản quý giá của bất kỳ một quốc gia nào. Giá trị của đất đai ngày càng lớn trên thị trường cạnh tranh, mối quan hệ đất đai ngày càng phức tạp hơn. Con người đã nhìn nhận thấy được tính quan trọng của đất đại đối với đời sống của mình. Chính vì vậy, các tranh chấp, mâu thuẫn, khiếu kiện… trong các quan hệ đất đai thường nổ ra mạnh mẽ, Trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, cán bộ, công nhân viên chức có thể lợi dụng quyền hạn và trách nhiệm, công cụ nhà nước để vụ lợi cho cá nhân, lợi ích của người này làm xâm hại quyền lợi, lợi ích của người khác,Chế tài Nhà nước ban hành ra để điều chỉnh, tác động vào mối quan hệ đất nông nghiệp, đảm bảo công bằng. Công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm trong lĩnh vực đất nông nghiệp là rất cần thiết để phát hiện, xử lý sớm các vi phạm. Trong xã hội nước ta, một thời đất đai được xem như “ vô giá” đơn giản là vì đất đai không được mua bán trên thị trường. Ngày nay, đất đai là một tài sản có giá trị lớn, được phép mua đi bán lại. Những mâu thuẫn trong mua bán, cạnh tranh, đất đai nổ ra thường xuyên. Ngòai ra còn có nhiều loại hình khác như: thế chấp đất đai, cho thuê đất đai, …Nhiều mối quan hệ nảy sinh nhiều vấn đề phát sinh cần phải điều chỉnh. Để giảm thiểu những tác hại có thể, công tác thanh tra, kiểm tra phải đặt lên hàng đầu. 3.2 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp Như đã trình bày ở trên đất nông nghiệp đóng vai trò to lớn đối với cuộc sống của con người. Xã hội ngày càng phát triển nhu cầu đất đai thay đổi theo hướng chuyển dịch của cơ cấu nền kinh tế. Vì vậy, trong tổng quỹ đất không đổi thì đất nông nghiệp có chiều hướng giảm dần diện tích do phải chuyển mục đích sử dụng sang các loại đất khác (đất dùng cho công nghiệp, đất dùng vào mục đích thương mại, đất ở…). Nói như vậy nhưng không thể phủ nhận hoàn toàn đất nông nghiệp trong đời sống của con người ngày nay. Để tồn tại con người luôn cần đến thức ăn, rau quả, củ, sản phẩm của nền nông nghiệp - những nguồn cung cấp này chỉ có thể thỏa mãn được dựa vào sức mạnh canh tác đất nông nghiệp. Dù gì đi nữa trong tổng quỹ đất của mỗi đất nước phải luôn có một quỹ đất nông nghiệp cần thiết với mục đích của sự đảm bảo một quỹ đất nông nghiệp hợp lý là bảo đảm quỹ lương thực, an ninh lương thực của quốc gia. Đứng trước sức ép của sự phát triển kinh tế, đất nông nghiệp phải có được sự quản lý và sử dụng hợp lý để không còn việc sử dụng tràn lan nếu không có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường, không những ảnh hưởng đến thế hệ này mà còn ảnh hưởng đến thế hệ sau, dẫn tới nguy cơ phá huỷ sự phát triển bền vững của thế giới. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc hàng năm có hàng vạn ha đất nông nghiệp bị hoang hoá, bị sa mạc hoá, mất tính canh tác, bị bỏ không không ai canh tác. Mỗi giây đồng hồ trôi qua có gần 20 ha bị hoang hoá, sa mạc hoá, Đây là một mối đe doạ lớn đối với quỹ đất nông nghiệp trên thế giới. Ngay ở nước ta, sau đại hội Đảng lần thứ VI (1986) Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều tư duy, phương hướng phát triển và đổi mới cho đất nước. Nước ta xác định phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tề thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước bước đầu đã thu được rất nhiều thắng lợi như: DGP đầu người không ngừng tăng lên, thu nhập bình quân đầu người tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7% trở lên, thoát khỏi đói nghèo, đói ăn…Từ một đất nước đói nghèo, sống nhờ vào viện trợ của nước ngoài trở thành một đất nước xuất khẩu gạo đứng nhất nhì thế giới, lương thực không những đủ để cung cấp trong nước mà còn thoả mãn nhu cầu xuất khẩu nông phẩm. Đất nông nghiệp là một tiềm lực to lớn mang lại cho toàn dân tộc ta nhiều lợi thế phù hợp với truyền thống lao động, phong tục tập quán, trình độ phát triển… nếu biết cách khai thác và sử dụng sẽ là một tài nguyên vô giá cho sự phát triển của đất nước. Đất nước mở cửa phát triển, trong xu thế giao lưu hợp tác với các nước khác trên thế giới, nước ta đã gia nhập vào tổ chức thương mại thể giới WTO cơ hội và thách thức đang chờ đón. Vấn đề lớn của nước ta trên con đường phát triển là nguồn vốn, làm sao để thu hút được nhiêu nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Nguồn vốn đối ứng để chúng ta đưa ra thu hút đầu tư chính là đất đai, Bản thân đất đã mang lại một nguồn vốn lớn các doanh nghiệp, công ty, tổ chức ngay trên sân nhà, tạo nhiều thuận lợi cho công cuộc hội nhập, hợp tác quốc tế của nước. Các mối quan hệ liên quan đến đất đai vì vậy mà cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, không chỉ là mối quan hệ trong nước như trước kia nữa mà phát triển hơn liên quan đến cả yếu tố nước ngoài. Nhà nước chủ thể quản lý của xã hội, phải quản lý đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng một cách hợp lý, có các chế tài mới phù hợp với xu thế hội nhập để có được hiệu quả sử dụng tối ưu, lâu dài, bền vững…đảm bảo được nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế.Trong các chế tài quản lý Nhà nước đã có và đâng dần hoàn thiện những quy định liên quan đến yếu tố nước ngoài giúp cho quá trình hội nhập của nước ta. Thực tế cho thấy, công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể trong suốt thời gian qua. Đó là những tiền đề thuận lợi cho công cuộc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn nữa. Mong rằng trong thời gian tới Đảng và Chính phủ sẽ có phương hướng, biện pháp và hoàn thành tốt công tác quản lý của mình. 4 Những quy định pháp lý về công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, 4.1 Nội dung công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp Theo luật đất đai năm 2003 nội dung của công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung gồm có 12 nội dung. Tuy nhiên, đối với đất nông nghiệp là một bộ phận của tổng quỹ đất đai, nó mang những đặc thù riêng biệt, chính vì vậy mà nội dụng của công tác quản lý của nhà nước về đất nông nghiệp cũng có nhiều khác biệt. Công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp có thể khái quát ở các nội dung dưới đây: 4.1.1. Ban hành văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp và tổ chức thực hiện văn bản đó. Để đảm bảo được vai trò quản lý của mình, bất kỳ một nhà nước nào cũng tạo ra và thực thi một chế tài phù hợp. Những chế tài này là tiền đề, hàng lang cho lĩnh vực áp dụng. Không có một quốc gia nào có thể có được hiệu quản quản lý mà không cần đến chế tài. Ngay cả ở nước ta, hệ thống văn bản điều chỉnh các mối quan hệ đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng rất đa dạng. Đó là những công cụ để nhà nước thực hiện đuợc quyền quản lý của mình Trên cơ sở hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai 1993 được ban hành nhằm mục đích thể chế hoá các chính sách đất đai góp phần hoàn thiện chính sách đất đai, từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý của nhà nước. Luật Đất đai cũng đã được ban hành và sửa đổi, bổ sung vào các năm 2003, 2005 sao cho hoàn thiện hơn với tình hình sử dụng đất, chế độ sở hữu của đất nước. Luật đất đai năm 2003 ra đời với nhiều nội dung mang tính chất đổi mới (ví dụ như: sự phân chia đất theo tiêu chí mục đích sử dụng) là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của hệ thống văn bản pháp luật về đất đai.Tiếp theo đó nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện luật Đất đai năm 2003 đã được ban hành: luật, pháp lệnh,quyết định, nghị định, thông tư… để hướng dẫn, quy định cho công tác quản lý các cấp, các ngành, các vùng, các địa phương. Các hoạt động, mối quan hệ liên quan đến đất đai còn được điều tiết thông qua một loạt bộ luật khác như: Luật Dân sự, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật hình sự…và các văn bản khác hướng dẫn thi hành, áp dụng luật có liên quan. 4.1.2. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp, lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp Đất đai trên bề mặt trái đất có nhiều loại, nhiều tinh chất, nhiều vùng, nhiều tính chất khác nhau chúng được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau.. Để có một cơ chế quản lý phù hợp, có được định hướng, quy hoạch và kế hoạch phù hợp với địa phương, tỉnh, thành phố, cả nước. Việc đầu tiên bắt buộc nhà nước phải nắm được các thông tin về đất đai như: Diện tích, loại đất, tình hình sử dụng, phân bố, mục đích sử dụng,… Những thông tin này sẽ đóng góp rất lớn cho công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Đối với đất nông nghiệp để quản lý được đất nông nghiệp một cách có hệ thống nhà nước cũng cần những thông tin về đất nông nghiệp: diện tích, tình trạng sử dụng, mục đích sử dụng (trồng cây ngắn ngày, dài ngày…). Từ những thông tin về đất nông nghiệp người quản lý có được kế hoạch sử dụng hợp lý và cho ra những quyết định sử dụng đứng đắn, giúp cho nền nông nghiệp của đất nước phát triển đóng góp cho sự phát triển xã hội…Trong quá trình quản lý, sau khi tìm hiểu đưa ra quyết định, song song thực hiện quyết định người quản lý phải thu thập tiếp những thông tin về đất nông nghiệp để biết được tình hình đất nông nghiệp đang diễn biến như thế nào từ đó có những điều chỉnh, sửa đổi kế hoạch, quy hoạch, pháp luật đất đai …Như vậy những đặc điểm của đất nông nghiệp là rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Chính vì vậy, nhà nước phải tiến hành khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp, lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. Việc đo đạc, khảo sát, phân hạng đất nông nghiệp là một công việc hết sức khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian, kỹ thuật, chi phí, phải tiến hành trên thực địa rất vất vả,công phu, phụ thuộc vào thời tiết, địa hình…Nhà nứơc ta đã nhận thấy được vai trò quan trọng của công tác đo đạc, đánh giá , phân hạng đất đai …nên từ rất sớm đã tiến hành đo đạc bản đồ, đánh giá, phân hạng đất. Tuy có nhiều trở ngại lớn do kinh phí, công nghệ, kỹ thuật, nguồn lực,, còn yếu nhưng nhà nước ta vẫn luôn coi trọng và cố gắng làm tốt công tác trên. Nhờ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nước ta đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật của thể giới như: hệ thống định vị GPS, hệ thống thông tin địa lý GIS, viễn thámcông nghệ kỹ thuật số, công nghệ ảnh số …chính vì vậy công tác đo đạc, phân hạng, đánh giá… đã có rất nhiều bước phát triển trong thời gian qua. Trên cơ sở bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và các thông tin thu thập được trong quá trình điều tra, khảo sát (diện tích, mục đích sử dụng, hiện trạng sử dụng…) các cấp có thẩm quyền thiết lập bản đồ quy hoạch, kế hoạch cho từng loại đất (đất nông nghiệp, đất công nghiệp, đất ở) trên từng phạm vị và trên toàn lãnh thổ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch chung. - Việc đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp phải dựa vào cơ sở khoa học, Tuân thủ các căn cứ để phân hạng đất nông nghiệp như: chất đất, vị trí, địa hình, điều kiện khí hậu, thành phần cơ giới của đất… Công tác đánh giá, điều tra, đo đạc, lập bản đồ hiện trạng, phân hạng đất nông nghiệp là một công tác rất quan trọng. Đó là cơ sở tiên quyết đầu tiên đáp ứng cho công tác quản lý nhà nứơc về đất nông nghiệp, cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất…căn cứ để xác định tiền thuê đất, tiền sử dụng đất,thuế chuyển quyền sử dụng đất…Thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước, tạo nguồn thu cho ngân sách. 4.1.3. Lập, quản lý và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp Bất kể quốc gia nào cũng cần có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Đứng trên cương vị là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Nhà nước là người tiến hành lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho các vùng, lãnh thổ, ngành… Xét trên phạm vi quy hoạch thì quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp có thể được lập cho một huyện, thành phố, vùng, cả nước. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được quy định rất rõ và cụ thể trong luật đất đai năm 2003 từ điều 21 đến điều 30. Điều 21 quy định về nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, điều 23 quy định về nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 22 Căn cứ lập quy hoạch , kế hoạch sử dụng đất. Điều 24 quy định về kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Điều 25 quy định thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất Nội dung của quy hoạch sử dụng đất: + Điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và hiện trạng sử dụng đất, đánh giá tiềm năng đất đai + Xác định phương hướng mục tiêu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch, + Xác định diên tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, + Xác định các biện pháp sử dụng và bảo vệ, cải tạo đất, môi trường + Xác định diện tích đất phải thu hồi đề thực hiện các công trình, dự án. + Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất Nội dung Kế hoạch sử dụng đất gồm có 6 nôi dung: + Phân tích đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất kỳ trước + Kế hoạch chuyển diện tích đất chuyên trồng lúa nước và đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trong đất nông nghiệp + Kế hoạch thu hồi diện tích các loại đất để phân bổ cho nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp dịch vụ, phát triểndô thị, khu dân cư nông thôn, quốc phòng, anh ninh. + Kế hoạch khai hoang mở rộng diện tích đất để sử dụng vào các mục đích + Cụ thể hoá kế hoạch sử dụng đất năm năm đến từng năm. + Giải pháp tổ chức thực hiện kế hoạch sử dụng đất. (Trích luật Đất đai năm 2003) Thông thường quy hoạch sử dụng đất được lập cho thời gian dài (kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm). Quy hoạch sử dụng đất mang tính khả biến (có thể thay đổi, không cố định). Trong xu thế xã hội luôn luôn biến đổi, trong xã hội luôn luôn vận động theo quy luật phát triển, các hoạt động diễn ra không ngừng chính vì vậy mà nhu cầu sử dụng đất cho các ngành, các lĩnh vực, các địa phương có sự thay đổi thường xuyên. Đối với đất nông nghiệp cũng vậy. Chính vì lý do đó mà quy hoạch sử dụng đất mang tính khả biến, nó phải được điều chỉnh, sửa đổi phù hợp với nhu cầu đất nước, sự phát triển của xã hội. Kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp được lập theo kỳ kế hoạch, và phải dựa trên quy hoạch sử dụng đất đã được ban hành, phù hợp với sự phát triển khoa học công nghệ…Trong quá trình thực hiện kế hoạch sử dụng đất nếu cần phải đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương thì phải tiến hành chỉnh sửa sao cho phù hợp. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp nói riêng có vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Thông qua quy hoạch, kế hoạch nhà nước sẽ điều chỉnh, phân bổ, xác định, thay đổi mục đích sử dụng ngắn hạn hay dài hạn, xác định cơ cấu các loại đất cho các vùng đất, vùng lãnh thổ, quyết định phân bổ, thu hồi các loại đất …Quy hoạch, kế hoạch phải được lập một cách có khoa học, hệ thống, phải sát với thực tế. Việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải tuân theo quy định của luật pháp. 4.1.4. Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. - Công tác giao đất, cho thuê đất “ Giao đất là việc nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất” “Cho thuê đất là việc nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất” Việc giao đất, cho thuê đất là một công việc cụ thể hoá của nhà nước về trao quyền sử dụng đất cho người dân, người dân là người sử dụng trực tiếp, họ là người khai thác đất đai. Nhiệm vụ của người dân được giao đất, cho thuê đất trước hết là sử dụng đất đúng mục đích, đúng thời hạn sử dụng và thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ tài chính với các cơ quan chức năng. Việc giao đất, cho thuê đất phải căn cứ vào: + Quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn + Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất,cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất ( theo điều 31 luật Đất đai năm 2003) Việc giao đất cho các hộ gia đình, các cá nhân, tổ chức sử dụng lâu dài hoặc có thời hạn. Giao đất có thu tiền sử dụng đất và giao đất không thu tiền sử dụng đất Theo điều 33 luật Đất đai năm 2003 những trường hợp sau được giao đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất: + Hộ gia đình cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, làm muối được giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy định + Tổ chức sử dụng đất vào mục đích nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm vê nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối, + Đơn vị vũ trang nhân dân được nhà nước giao đất để sản xuất nông nghiệp,lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối hoặc kết hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. + Người sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng + Cộng đồng dân cư sử dụng đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp được giao có thu tiền sử dụng đất cho trường hợp: “tổ chức kinh tế được giao đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. (Trích luật Đất Đai năm 2003) Ngoài việc quy định việc giao đất có thu tiền sử dụng đất, không thu tiền sử dụng đất…Nhà nước còn quy định về thời hạn giao đất mà người được giao được quyền sử dụng đất. Đất nông nghiệp được giao lâu dài trong những trường hợp sau: + Đất rừng phòng hộ, đất rừng dặc dụng + Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng (đất được giao cho cộng đồng dân cư sử dụng để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn liền với phong tục, tập quán của dân tộc thiểu số) ► Còn một số loại đất nông nghiệp khác được giao sử dụng có thời hạn: + Đất trồng cây hàng năm + Đất nuôi trồng thuỷ sản + Đất làm muối giao cho các hộ gia đình, các cá nhân sử dụng + Đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng sản xuất giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng, - Về thời hạn giao đất được quy định cụ thể tại điều 70 luật Đất đai năm 2003. + Đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối có thòi hạn giao là 20 năm, + Đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất có thời hạn sử dụng là 50 năm. (Trích luật Đất đai năm 2003) Trong thời hạn sử dụng đất được giao, người sử dụng đất phải tân thủ đầy đủ quyền và nghĩa vụ. Phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng thời hạn. Khi có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất phải xin phép nếu trong trường hợp quy định phải xin phép của pháp luật.Tuy nhiên, sau thời hạn sử dụng đất được giao người sử dụng đất có thể xin phép sử dụng tiếp đất nếu có nhu cầu. Khoảng thời gian quy định thời hạn sử dụng đất là rất cần thiết cho công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Nó đảm bảo người sử dụng đất phải có kế hoạch sử dụng đất hiệu quả, có phương hướng cụ thể, chú ý sử dụng đất đúng mục đích. Ngoài hình thức giao đất cho các đối tượng, nhà nước còn quy định về hình thức cho thuê đất. Có hai hình thức cho thuê đất đó là: cho thuê trả tiền hàng năm và cho thuê thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Hầu hết các trường hợp sử dụng đất nông nghiệp đều là trả tiền theo hàng năm. Nhưng đối với trường hợp là “ người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, các cá nhân nước ngoài thuê đất thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp,lâm nghiệp, thuỷ sản, làm muối” là phải thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê (luật Đất đai năm 2003). Quy định này đảm bảo cho sự quản lý của Nhà nước đối với đất đai. Dù gì thì đối với các bên có yếu tố nước ngoài Nhà nước phải có biện pháp để quản lý chặt chẽ hơn trong nước để không bị thất thoát nguồn lực đất đai quý báu, Thời hạn cho thuê đất để sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp, làm muối được quy định trong luật Đât đai năm 2003 cũng tương tự như thời hạn giao đất tương ứng. Hết thời hạn cho thuê người sử dụng đất có thể xin tiếp tục thuê đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng mảnh đất. Nếu mảnh đất đó không có quy hoạch, không bị thu hồi, người sử dụng đất đó sử dụng hợp pháp thì Nhà nước có thể xem xét và cho tiếp tục sử dụng. Ngoài ra, khi có nhu cầu chuyển đổi giữa hình thức giao đất hay cho thuê đất, người sử dụng đât có thể xin phép chuyển đổi hình thức.Thời hạn sử dụng đất còn lại được tính theo quy định của pháp luật (Luật đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn có liên quan). Đây là một điểm linh hoạt trong quy định của pháp luật cho người sử dụng đất lựa chọn hình thức giao, cho thuê sao cho phù hợp với tình hình kinh doanh, sử dụng, điều kiện tài chính, kinh tế …Các quy định cụ thể khác được trình bày trong điều 32,32,67,35 của bộ Luật Đất đai năm 2003. 4.1.5 Chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Khi sử dụng đất nông nghiệp người sử dụng đất nông nghiệp được quyền chuyển đổi mục đích sử dụng đất khi thấy cần thiết, nhà nước quy định ở trong luật Đất đai năm 2003. Đây là một biện pháp quản lý nhà nước về đất đai, tạo điều kiện cho người sử dụng đất nông nghiệp có điều kiện linh hoạt trong cách sử dụng, nâng cao hiệu quả của đất đai. Có hai trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp: Thứ nhất chuyển mục đích sử dụng đất phải xin phép của nhà nước. Tuy nhiên cũng có trường hợp chuyển mục đích sử dụng không phải xin phép khi chuyển mục đích sử dụng đất (trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất trong cùng một loại đất), Riêng đối với đất nông nghiệp những trường hợp phải xin phép khi chuyển mục đích sử dụng đất là: + Chuyển đất chuyên dùng trồng lúa nước sang trồng cây lâu năm, đất rừng, đất nuôi trồng thuỷ sản. + Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng cho mục đích khác + Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp (Trích luật Đất đai năm 2003) Ngoài trường hợp trên thì không phải xin phép khi chuyển mục đích sử dụng đất; tuy nhiên, phải có sự đăng ký với văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Với quy định trên của Luật Đất đai năm 2003 người sử dụng đất có thể chủ động hơn trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng sao cho phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế thực sự cho đời sống. Đồng thời, nhà nước cũng nắm được những biến động của đất nông nghiệp, nắm bắt được tình hình đất nông nghiệp trong cả nước, chính vì vậy công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp sẽ thuận lợi, hiệu quả hơn rất nhiều. Ngoài ra luật Đất đai năm 2003 còn quy định cụ thể về thẩm quyền cho chuyển mục đích sử dụng đất (điều 37) 4.1.6 Thu hồi đất nông nghiệp Theo luật Đất đai năm 2003 “ thu hồi đất là việc nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đát đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của pháp luật” Luật Đất đai năm 2003 quy định rất rõ về các trường hợp phải thu hồi đất, vấn đề bồi thường, tái định cư cho người bị thu hồi đất.…Việc thu hồi đất là một vấn đề rất phức tạp ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của dân cư, hộ gia đình, cá nhân ,tổ chức…Vì vậy công tác này cần được làm trịêt để, khoa học và chính xác đảm bảo tính công bằng tránh thất thoát nguồn vốn của nhà nước, các đơn vị tài trợ. Để phục vụ cho đời sống của nền kinh tế, nhiều trường hợp Nhà nước phải tiến hành thu lại đất đai như: + Tổ chức, cá nhân sử dụng đất bị giải thể,phá sản chuyển đi nơi khác, giảm nhu cầu sử dụng đất mà không phải thuộc trường hợp đất có tranh chấp, đất không có giấy tờ hợp pháp, đất giao cho các tổ chức mà pháp luật quy định không được quyền chuyển mục đích sử dụng đất. + Người sử dụng đất tình nguyện trả lại đất + Đất được sử dụng trong vòng 12 tháng liền mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất cho phép. + Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước + Đất sử dụng không đúng mục đích sử dụng được giao. + Đất giao không đúng thẩm quyền (Trích luật Đất đai năm 2003) Việc thu hồi đất là một việc làm cần thiết để tận dụng nguồn lực của đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, đồng thời đưa việc sử dụng đất đai (đất nông nghiệp) vào quy định. Mục đích trước hết của việc thu hồi đất là phục vụ cho lợi ích quốc gia, cộng đồng. Luật Đất đai năm 2003 có nêu: “ trong những trường hợp cần thiết nhà nước thu hồi lại đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại” . Như vậy, người sử dụng đất nông nghiệp hợp pháp được đền bù thiệt hại nếu bị thu hồi lại đất. Trước khi thu hồi lại đất nhà nước phải thông báo cho người sử dụng đất về quyết định thu hồi và làm rõ mức đền bù, hỗ trợ hoa màu cho người bị thu hồi đất. Chính phủ ban hành Nghị định 197/2004/CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, “ hộ gia đình,cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường thì thường bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng hoặc bằng tiền theo gía đất có cùng mục đích sử dụng. Trường hợp mà đất nông nghiệp đang sử dụng vượt hạn mức được giao, đất nông nghiệp nhận giao khoán… khi bị thu hồi được quy định trong điều 10 Nghị định 197/2004/NĐ – CP, Theo Luật Đất đai năm 2003 thì cơ quan nào có thẩm quyền quyết định giao đất thì có thẩm quyền thu hồi đất và được cụ thể hoá như sau: + UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, + UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với trường hợp là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam” (Trích luật Đất đai năm 2003) 4.1.7 Thống kê, kiểm kê đất nông nghiệp Điều 53 khoản 2 luật Đất đai năm 2003 quy định trách nhiệm về thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai : UBND các cấp tổ chức thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai của địa phương và báo cáo kết quả thống kê, kiểm kê đất đai lên cấp trên trực tiếp. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo kết qủa thống kê, kiểm kê đất đai lên Bộ Tài nguyên và Môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường báo cáo lên chính phủ kết qủa thống kê hàng năm, kết quả thống kê năm năm của cả nước. Chính phủ báo cáo Quốc hội kết quả kiểm kê đất hàng năm đồng thời kế hoạch sử dụng đất năm năm của cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi trưòng quy định biểu mẫu và hướng dẫn phương pháp thống kê, kiểm kê đất đai” (Trích luật Đất đai năm 2003) Việc thống kê đất đai được thực hiện hàng năm, mỗi năm thực hiện một lần phục vụ cho tình hình quản lý đất đai. Qua công tác thống kê nhà nước nắm bắt tình hình thực tế của địa phương, tỉnh thành, cả nước, có được thông tin về các loại đất (diện tích, phân bổ, tình hình sử dụng, …) Việc kiểm kê là một công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, kinh nghiệm, kinh phí phân bổ lớn…và được thực hiện 5 năm một lần, có thể xem công tác kiểm kê như là một bước kiểm tra lại công tác thống kê đất đai. Số liệu của thống kê, kiểm kê là nguồn cung quý giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định. Luật Đất đai quy định rất kỹ càng về công tác kiểm kê, thống kế đất đai từ cơ quan thực hiện, quá trình thực hiện, thời gian thực hiện… ( điều 35, 33) 4.1.8 Công tác đăng ký và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp. “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý xác nhận mối quan hệ giữa người sử dụng đất và nhà nước, công nhận quyền sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất hợp pháp,” Các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình sử dụng đất hợp pháp được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để được cấp giây chứng nhận quyền sử dụng đất người sử dụng đất phải làm hồ sơ trình lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất đó. Đây là công tác đăng ký quyền sử dụng đất, để có được giấy chứng nhận các nhân, tổ chức, hộ gia đình sử dụng đất bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký, theo luật đất đai năm 2003 điều 46 thì : “Đăng ký quyền sử dụng đất là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với một thửa đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất”. Đối với đât nông nghiệp người dân làm hồ sơ đăng ký với cơ quan nhà nước có chức năng có thẩm quyền, sau khi hoàn thành hồ sơ nạp lại cho Văn phòng Đăng ký Đất và Nhà ở các huyện, thành. Cơ quan nhà nước thu nhận hồ sơ giải quyết và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận cho người dân sử dụng đất đủ điều kiện được cấp…Người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được phép toàn quyền sử dụng đất, trên mặt pháp lý họ là ngưởi chủ duy nhất được thừa nhận quyền sở hữu và được trao, bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng bởi pháp luật Nhà nước. Theo quy định của pháp luật thì đăng ký quyền sử dụng đất được chia làm hai trường hợp đó là: Đăng ký ban đầu trong các trường hợp là: người sử dụng đất đang sử dụng đất nhưng chưa kê khai hoặc đã kê khai nhưng chưa đăng ký quyền sử dụng đất,(tức là trường hợp chưa từng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) Đăng ký biến động quyền sử dụng đất được thực hiện khi mà người sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp hợp pháp nhưng nay có nhu cầu thay đổi mục đích sử dụng đất, thay đổi thời hạn sử dụng đất, chuyển đổi, mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, … (Trích Luật Đất Đai năm 2003) Ngày nay, việc đăng ký quyền sử dụng đất đã thụân lơị hơn rất nhiều so với trước đây nhờ vào những quy định chặt chẽ của luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành khác như: thông tư 1900/2001/TT- TCĐC, nghị định 181/2004/NĐ – CP…Có thể nói làm tốt công tác đắng ký cấp giấy chứng nhận quyển sủ dụng đất là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và về đất nông nghiệp nói riêng. Đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ sở quan trọng và cần thiết, bới nó xác lập mối quan hệ giữa nhà nước và ngươì sử dụng đất hợp pháp. Mặt khác người sử dụng đất phải đăng ký sử dụng đất đai vì có như thế họ mới có thể có đủ giấy tờ, chứng thu pháp lý cần thiết khi họ tham gia vào thị trường mua bán, chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng …Dựa trên việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cơ quan quản lý nhà nước sẽ thiết lập hồ sơ địa chính phục vụ cho công tác quản lý đất đai, Đối với đất nông nghiệp trình tự xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cũng được quy định cụ thể, các giấy tờ chứng nhận hồ sơ cần phải được hoàn thiện để cấp giấy chứng nhận, người sử dụng đất được quyền kê khai, đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất người sử dụng đất đó mới là chủ thực sự của diện tích đất đăng ký, họ được quyền tham gia vào thị truờng khi thấy cần thiết…Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp là chứng thư bảo đảm, chứng minh người chủ duy nhất được pháp luật công nhận, bảo vệ. Vì thế, người sử dụng đất hợp pháp nên kê khai, đăng ký với các cơ quan, ban ngành chức năng xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất nông nghiệp vì lợi ích của bản thân. Ngoài những quy định về trình tự, thủ tục của việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận luật Đất đai năm 2003 còn quy định cụ thể về các trường hợp cấp giấy chứng nhận cho cộng đồng dân cư, cho cơ sở tôn giáo, cách viết giây chứng nhận khi cấp cho các cá nhân đồng sở hữu, trình tự thủ tục, giấy tờ để thực hiện các trường hợp này. Điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các trường hợp bị hồi giấy chứng nhận quyến sử dụng đất,… (điều 49, 50 ,51 - Luật Đất đai năm 2003). Theo đó, người sử dụng đất phải thoả mãn điều kiện sau thì mới được cấp giấy chứng nhận: Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. (Trích luật Đất đai năm 2003) Về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo luật Đất đai năm 2003: UBND tỉnh, thành phố thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài. UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với đất ở. (Trích luật Đất đai năm 2003) Nói chung những quy định về việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp được quy định rất chi tiết và đầy đủ trong luật Đất đai năm 2003. Việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp là một công tác được Nhà nước ta chú ý và được triển khai khá sớm ở nước ta, kết quả mang lại đã được công nhận. 4.1.9 Thực hiện công cụ tài chính trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp Công cụ tài chính là một trong những biện pháp của nhà nước ban hành ra nhằm phân phối lại lợi ích của các bên tham gia trong các mối quan hệ liên quan đến đất đai. Việc thực thi công cụ tài chính trong quản lý sử dụng đất nông nghiệp phải đảm bảo được các yêu cầu mà Nhà nước đặt ra như: bổ sung được khối lượng vào ngân sách Nhà nước để phục vụ cho công tác quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng đất của người sử dụng đất làm cho họ có ý thức hơn trong công tác sử dụng đất, đảm bảo được vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Theo điều 54 Luật Đất đai năm 2003 thì thu tài chính từ đất nông nghiệp gồm có: Tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất từ được nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất có thu tiền sử dụng đất. Chuyển từ thuê sang giao đất có thu tiền sử dụng đất. Tiền thuê đất đối với đất do nhà nước cho thuê Tiền thu từ việc xử lý vi phạm pháp luật về đất đai Thuế sử dụng đất Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất Phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai Tiền bồi thường cho nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý, sử dụng đất đai. (Trích luật Đất đai năm 2003) Việc thu tài chính đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng phải tuân theo quy đinh của pháp luật cả về phía người sử dụng đất (đối tượng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước) và về phía cơ quan, ban ngành quản lý (chủ thể quản lý, thu các khoản tài chính về đất đai). Về phía người sử dụng đất phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình về thuế sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, các khoản phí và lệ phí…Phía cơ quan quản lý thực hiện quản lý nguồn thu chặt chẽ tránh gây thất thoát, sử dụng bừa bãi…Việc tính toán tiền sử dụng đất phải căn cứ vào diện tích, thời hạn sử dụng đất, khung gía đất tương ứng, tuân theo các văn bản hướng dẫn như: thông tư 117/2004/TT-BTC (ngày 07/12/2004), nghị định 198/2004/NĐ- CP “ diện tích đất được tính tiền sử dụng đất là diện tích được nhà nước giao,cho phép chuyển mục đích sử dụng, được chuyển từ đất giao sang đất cho thuê có thu tiền, được cấp giấy chứng nhận. Giá để tính tiền sử dụng đất là gía đất tại thời điểm giao đất do UBND tỉnh, thành phố ban hành”, Nghị định 74/NĐ-CP ngày 25/10/1993 quy định chi tiết thi hành luật thuế sử dụng đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp được phân ra nhiều hạng đất khác nhau, thuế sử dụng đất được thu hàng năm. Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất được tính dựa trên giá do UBND tỉnh, thành phố ban hành tại thời điểm mà mảnh đất đó được chuyển nhượng. ► Phí, lệ phí như: lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính. Nguồn thu tài chính từ đất nông nghiệp là khá lớn và đa dạng. Nguồn thu đó phải được tận dụng sử dụng đúng mục đích mang lại kết qủa cho người sử dụng, người quản lý. Để tạo ra một môi trường lành mạnh hơn cho công tác tài chính đát nông nghiệp nên chăng chính phủ cần tạo lập một khung gía phù hợp, sát với giá thị trường, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thu, quản lý nguồn ngân sách này, Nếu có thể, thì nguồn thu tài chính đất nông nghiệp sẽ mang lại hiệu quả lớn hơn nhiều. 4.1.10 Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật cùa người dân sử dụng đất nông nghiệp và của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Điều 132 luật Đất đai năm 2003 “ thanh tra đất đai là thanh tra chuyên ngành đất đai” Thanh tra việc quản lý Nhà nước về đất đai của UBND các cấp, Thanh tra việc chấp hành pháp luật về đất đai của người dân, tổ chức, cá nhân. Việc thanh tra đất đai đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, nghiệp vụ và lực lượng thanh tra đủ lớn, …Mục đích của công tác thanh tra là mang lại những thông tin nhanh và chính xác về tình hình sử dụng đất đai phát hiện sớm những trường hợp vi phạm để xử lý kịp thời. Mặt khác thanh tra đội ngũ thực hiện công tác quản lý nhà nước để phát hiện hành vi gian lận, tham ô, thanh lọc bộ máy, hạn chế, triệt tiêu hành động có hại cho lợi ích xã hội, tư lợi cá nhân. 4.1.11. Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. Gần đây, dư luận đã dấy lên nhiêu vụ kiện tụng về đất đai, có vụ mang tính tập thể khiếu kiện hang loạt, gây bức xúc xã hội, mất niềm tin của dân chúng. Hơn nửa số đơn thư khiếu kiện là về lĩnh vực đất đai đủ thấy tình hình sử dụng, quản lý đất đai ở nước ta đang rối rắm. Đất đai được hình thành trong một khoảng thời gian lâu dài, mang tính lịch sử xã hội, vấn đề đất đai rât phức tạp đê giải quyết được tranh chấp, khiếu nại là rất khó khăn, mất nhiêu thời gian, hệ thống pháp luật phải đầy đủ hoàn thiện. Điều 85,86,87 luật đất đai năm 2003 đã quy định về công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo, Nghị định 181/NĐ – CP quy định bổ sung thêm những vấn đề về thẩm quyền giải quyết tranh chấp, giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo…Tuy nhiên hệ thống văn bản hướng dẫn như thế là vẫn chưa đủ, còn nhiều quy định mang tính chất chung chung không cụ thể khó khăn cho người thực thi luật. Ngoài ra công tác thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo còn liên quan đến nhiều bộ luật khác nữ như: Luật Dân sự, Luật Kinh tế, Luật thừa kế, …Trong nhiều trường hợp việc áp dụng luật phải linh họat, kết hợp với nhau để có đựoc phương án giải quyết chính xác nhất. 4.2 Phân cấp bộ máy quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp Bộ máy quản lý Nhà nước đựơc thành lập từ trung ương đến địa phương, trong đó Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đứng đầu thực hiện công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tài nguyên đất, nước, tài nguyên…Các cơ quan tổ chức quản lý cấp dưới được phân cấp, phân quyền phù hợp. Bộ máy quản lý Nhà nước ngày càng hoàn thiện, càng tinh giản, thì hiệu quả làm việc, giải quyết vấn đề càng nhanh chóng, thuận lợi. Theo quy định của Nhà nước ta thì bộ máy quản lý Nhà nước được thành lập, phân cấp trách nhiệm quyền hạn như sau CHÍNH PHỦ UBND TỈNH,TP TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG UBND HUYỆN, THỊ XÃ, TP THUỘC TỈNH UBND XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG PHÒNG TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CÁN BỘ ĐỊA CHÍNH XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG VIỆN NGHIÊN CỨU ĐỊA CHÍNH TRUNG TÂM ĐIỀU TRA QUY HOẠCH VỤ ĐẤT ĐAI VỤ ĐĂNG KÝ THỐNG KÊ ĐẤT ĐAI ………………………… THANH TRA VỤ PHÁP CHẾ 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là một bộ phận của tổng quỹ đất của cả nước. Nó được hình thành nhờ vào quá trình phong hoá đá mẹ, đất là sản phẩm của tự nhiên, do tự nhiên tạo ra. Chính vì vậy việc sử dụng và quản lý sủ dụng đất nông nghiệp bị chi phối bởi điều kiện tự nhiên, quy luật sinh thái tự nhiên, quy luật kinh tế - xã hội, yếu tố khoa học công nghệ và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. 5.1. Điều kiện tự nhiên. Đất nông nghiệp được sử dụng vào mục đích nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, cày cấy thí nghiệm về nông nghiệp). Sản xuất nông nghiệp lại là một ngành chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên: thời tiết, khí hậu, chế độ gió mùa…Tuy có sự phát triển của khoa học, công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhưng đời sống sản xuất nông nghiệp vẫn luôn gắn liền với điều kiện tự nhiên, những biện pháp áp dụng chỉ có thể hạn chế một phần các tác động có hại của thiên nhiên đến quá trình sản xuất mà thôi. Việc sản xuất nông nghiệp không thể tách rời hoàn toàn với thiên nhiên. Thiên nhiên, điều kiện tự nhiên vẫn là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp như câu tục ngữ : “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” Sử dụng đất nông nghiệp phải chú ý đến điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, ẩm độ, chế độ mưa nắng …Mặt khác đất nông nghiệp phân bố ở nhiều vùng khác nhau chế độ dinh dưỡng, độ màu mỡ, phì nhiêu cũng khác nhau…Chính vì vậy năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế trên các loại đất nông nghiệp cũng khác nhau, trên các vùng khác nhau là khác nhau. Để làm tốt công tác quản lý người quản lý phải có chính sách linh hoạt, phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Chính vì thế trong khi tính giá tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nhà nước đã có những chế tài phân chia ra nhiều loại đất nông nghiệp khác nhau, dựa trên sự phân chia đó để tính tiền sử dụng đất. Ngoài ra tùy vàođời sống thực tế ở một số địa phương, tình hình thiên tai của vùng gặp phải như thế nào mà nguời quản lý có chế độ hỗ trợ, miễn giảm, không thu tiền thuế tạo điều kiện cho người sử dụng đất. Như chúng ta biết đất đai có chế độ dinh dưỡng, thành phần cơ giới, địa hình, địa mạo… khác nhau, cây trồng, vật nuôi không thể sống trong môi trường mà chế độ đất đai, nước, dinh dưỡng, địa hình ,,không tương thích. Quản lý Nhà nước về đất đai phải lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sao cho đúng, không thể đưa cây trồng, vật nuôi vào những nơi điều kiện tự nhiên không thích hợp. Cố gắng xây dựng một nền nông nghiệp có hiệu quả, gắn liền với cuộc sống con người. 5. 2. Điều kiện kinh tế xã hội: Đây là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp, Điều kiện kinh tế xã hội và hiện trạng sử dụng đất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhìn vào điều kiện kinh tế xã hội của một đất nước, một địa phương. ..có thể thấy được tình hình, hiện trạng sử dụng đất của đất nước, địa phương đó. Liệu đất nước, địa phương đó có đủ trình độ để áp dụng khoa học vào sản xuất, khai thác đất nông nghiệp hay không? trình độ, nhận thức, giá trị thu lại trên diệc tích đất sử dụng có cao hay không? Ngược lại khi nhìn vào hiện trạng sử dụng đất có thể thấy được trình độ phát triển kinh tế của vùng, địa phương, thành phố đó. Cụ thể, một đất nước, địa phương khai thác đất với quy mô tập trung, theo mô hình tổ chức có quy hoạch, khoa học công nghệ cao, thu nhập mang lại lớn thì dĩ nhiên nước đó là một nước có nền kinh tế phát triển. Mối quan hệ qua lại giữa sử dụng, quản lý đất đai và đời sống kinh tế - xã hội thể hiện rất rõ theo những khía cạnh sau: Khi nền kinh tế - xã hội phát triển nhu cầu của con người cũng thay đổi không những về mặt số lượng mà còn về mặt chất lượng. Sản phẩm mà xã hôi đòi hỏi ngày càng nhiều, nhiều nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp mới, đa dạng. Khi xã hội phát triển trình độ nhận thức và khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất nông nghiệp cũng tăng nhanh, khả năng khai thác nguồn lực đất đai của con người cũng tăng lên. Sản phẩm nông nghiệp vì thế cũng thay đổi nhiều. So với trước kia sản phẩm nông nghiệp thô sơ rất ít chủng loại thì ngày nay sản phẩm nông nghiệp đa dạng, phong phú nhiều loại sản phẩm mới lạ, nhiều giống mới do lai tạo, do nhập khẩu…phản ánh mối quan hệ giữa điều kiện kinh tế - xã hội và hiện trạng của công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp. Ngược lại, Sản xuất nông nghiệp phát triển góp phần nâng cao thu nhập cho người trông trọt, chăn nuôi và chính vì vậy con người có đời sống cao hơn. Xã hội cũng phát triển theo sự đóng góp của các cá nhân, tổ chức… Trên đây là mối quan hệ qua lại giữa điều kiện kinh tế - xã hội và công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Trong xu hướng phát triển của xã hội cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch phù hợp xu thế phát triển và tình hình thực tế của đất nước. Cơ cấu thương mại dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp phát triển đi đôi với quy hoạch các quỹ đất đai phục vụ cho mục đích phát triển. Trên thế giới, tình hình kinh tế - xã hội phong tục tập quán của con người cũng khác nhau nên phan bố cách quản lý đất đai cũng khác nhau. Nước ta không thể áp dụng công tác quản lý của nước khác, chế độ chính sách quản lý cũng phải co sự sai khác, có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước khác nhưng không thể áp dụng một cách rập khuôn, giáo điều vì như thế chỉ là sự áp dụng một cách máy móc không khoa học. Như vậy mối quan hệ ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội và công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp là rất rõ ràng, người quản lý phải có phương pháp, cách thức, quy định hợp, linh hoạt để công tác quản lý đi cùng với lợi ích của cá nhân, hộ gia đình, tổ chức sử dụng đất cũng như lợi ích của xã hội. 5.3.Yếu tố khoa học và công nghệ công nghệ ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp Đất nông nghiệp là tài nguyên vô giá và đặc biệt của nền sản xuất xã hội của nước ta, nó vừa là đối tượng sản xuất vừa là tư liệu sản xuất quan trọng. Trong quá trình khai thác, sử dụng đất nông nghiệp người sản xuất phải áp dụng các biện pháp khoa học, kỹ thuật, các tiến bộ công nghệ khoa học tiến tiến. Biết cách áp dụng, khai thác nguồn lực khoa học kỹ thuật thì khả năng làm việc đối với đất đai, khắc phục điều kiện khó khăn của thiên nhiên để trồng trọt, sản xuất nâng cao chất lượng, tạo ra các nguồn giống với chất lượng mới, khả năng thích nghi cao với điều kiện tự nhiên. Quá trình phát triển của nền nông nghiệp nước ta và các nước khác trên thế giới từ trước đến nay đã chứng minh sức mạnh của khoa học công nghệ ứng dụng đóng góp cho công tác sản xuất nông nghiệp, từ đó tác động đến công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp. Sau khi đất nước đổi mới nhiều thay đổi trong chính sách, định hướng, phương pháp của nhà nước. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; đã làm cho năng suất, sản lượng, chất lượng của sản xuất nông nghiệp tăng lên nhanh chóng. Đất nước chúng ta từ một nước đói nghèo trở thành một nước có nền nông nghiệp phát triển. Đất nước không những thoát khỏi tình hình đói ăn (những năm 45) mà còn trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà fe, chè, điều… Thực tế đã chứng minh lợi ích của việc áp dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật vào sự phát triển của nền sản xuất nông nghiệp. Để có được nền nông nghiệp phát triển thì nhà nước. Chính phủ cần có chính sách kịp thời nhạy bén khuyến khích áp dụng,cải tiến, nghiên cứu khoa học… về sản xuất nông nghiệp. Song song với nó Nhà nước phải áp dụng tiến bộ công nghệ để bảo tồn, bảo vệ nền sản xuất nông nghiệp, quỹ đất đai nói chung và quỹ đất nông nghiệp nói riêng…và nâng cao chất lượng của công tác lưu trữ, bảo vệ, thu thập … tài liệu, tư liệu về đất nông nghiệp, thay thế bản đồ giấy bằng những bản đồ số hoá,bản đồ công nghệ cao để lập, điều chỉnh công tác quản lý Nhà nước phù hợp hơn, khoa hơn, nhanh chóng, thuận tiện hơn. 5.4. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, Mỗi chế độ chính trị được thiết lập thì có một bộ máy quản lý khác nhau. Cơ cấu tổ chức, phân công chức năng, quyền hạn của bộ máy quản lý đó cũng khác nhau phù hợp với từng điều kiện cụ thể của đất nước sở tại. Đối với nước ta chế độ sở hữu đất đai được công nhận là chế độ sở hữu của toàn dân (Luật Đất đai năm 2003), Nhà nước thống nhất quản lý đất đai trên phạm vi cả nước. Nhà nước là người có quyền tối cao đối với đất đai trên phạm vi cả nước. Chính vì vậy cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta cũng khác với các nước công nhận chế độ sở hữu tư nhân., Sự sai khác về cơ cấu, tổ chức, phân quyền… không những phụ thuộc vào chế độ sở hữu của nước sở tại mà còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác như: yếu tố dân tộc, yếu tố tự nhiên, yếu tố lịch sử, yếu tố truyền thống…Nhà nước ta là cơ quan quyền lực lớn nhất nước, nhà nước ta có quyền định đoạt tối cao đối với đất đai trên toàn vùng, lãnh thổ quốc gia. Hệ thống cơ quan quản lý được tổ chức, thiết lập, phân cấp, phân quyền từ trung ương đến địa phương. Cơ quan cao nhất, có quyền hạn lớn nhất trong bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai và môi trường là Bộ tài nguyên và Môi trường (được thành lập theo nghị định 91/CP, ngày 11/11/2002) là cơ quan trực thuộc của chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên, môi trường, đo đạc bản đồ, quản lý hành chính, dịch vụ công… Ngoài ra ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Sở Tài nguyên và Môi trường. Ở các huyện, thành phố quận, thị xã, xã, phường có các phòng tài nguyên môi trường. Các sở, phòng này chịu trách nhiệm quản lý về các lĩnh vực có liên quan trên địa bàn được giao, thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp và báo cáo lên cấp trên trực tiếp tình hình sử dụng đất đai để nắm bắt được tình hình sử dụng đất một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất. Nước ta với cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai như đã trình bày ở phần 4.2 có nhiều thuận lợi, nhưng đồng thời còn tồn tại nhiều bất cấp, Cụ thể: Bộ Tài nguyên và Môi trường đóng vai trò cao nhất báo cáo lên chính phủ và quốc hộ về tình hình của lĩnh vực mình quản lý, các cấp, các ngành quản lý có liên quan báo cáo lên cấp trên trực tiếp của mình. Do đó, công tác quản lý rất thống nhất theo một hướng chung. Tuy nhiên sẽ có khó khăn lớn nếu một khâu, một bộ phận trong hệ thống làm việc không tập trung, không hiệu quả dễ làm cho cả bộ máy hoạt động không hiệu quả theo. Muốn công việc quản lý hiệu quả bộ máy phải được tổ chức thật phù hợp về cơ cấu, trách nhiệm, quyền hạn, phân chia phối hợp với các ngành, lĩnh vực khác có liên quan, có sự hướng dẫn bám sát của cơ quan ban ngành, chức năng. Chương II: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội 1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Thanh Trì ảnh hưởng đến quản lý sử dụng đất nông nghiệp. 1.1 Điều kiện tự nhiên; Huyện Thanh Trì là một huyện nằm cửa ngõ của thủ đô Hà Nội. Nằm ở vị trí toạ độ từ 20050’ đến 21000’ vĩ độ bắc, 105045’ đến 105056’ kinh đông, về phía nam của thủ đô Hà Nội.Trên địa bàn huyện có nhiều tuyến đường quan trọng chạy qua như: quốc lộ 1A, 1B, tuyến đường sắt bắc – nam…,,huyện Thanh Trì giáp với quận Hoàng Mai về phía bắc, phiá nam giáp huyện Thường Tín và huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây, phía tây là sông Hồng, giáp quận Thanh Xuân, thị xã Hà Đông - tỉnh Hà Tây. Với vị trí địa lý này huyện Thanh Trì có nhiều điều kiện thuận lợi để giao lưu văn hoá, kinh tế, thông thương với các huyện khác lân cận và với cả nước, Một lợi thế lớn của huyện là ở trên địa bàn thành phố Hà Nội trái tim của cả nước nơi được xem như vùng kinh tế trọng điểm của phía Bắc của cả nước. ► Nếu tính theo hướng bắc nam thì huyện Thanh Trì có chiều dài là 8 Km gồm 15 xã và một thị trấn (thị trấn Văn Điển) với diện tích đất tự nhiện vào khoảng 6292,71 ha. ► Địa hình của huyện Thanh Trì là một vùng đất trũng nằm ven đê sông Hồng, độ cao trung bình của huyện đạt từ 4,5 – 5,5 m, độ dốc nghiêng theo chiều từ bắc xuống nam và từ tây sang đông, Phía tây của huyện là dòng sông Hồng giàu phù sa màu mỡ bồi đắp, nên chủ yếu đất đai của huyện là đất phù sa, một phận còn lại là đất cát phân bố ở các xã Yên Mỹ, Duyên Hà, Vạn Phúc…đây là nơi hội tụ của đất phù sa bồi tụ với diện tích khoảng 1174 ha. Vùng nội đầm chiếm diện tích vào khoảng 5117 ha gồm 12 xã và một thị trấn, Vùng này có sự chia cắt bởi có con sông Tô Lịch, sông Nhuệ chạy qua.Vùng này có rất nhiều các ao, hồ, đầm, ruộng trũng,…Nói chung với địa hình như thế huyện Thanh Trì rất có điều kiện phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản, trồng nông nghiệp lúa nước. Nhưng vào mùa mưa thì sẽ là một khó khăn rất lớn cho công tác nông nghiệp do ứ đọng nước gây ngập úng, tràn bờ, giảm tính đàn hồi của đất, hiệu quả kinh tế thu lại thấp. Ngoài ra huyện Thanh Trì còn thấp hơn các vùng nội thành thành phố Hà Nội, nên rất dễ bị ô nhiễm do chất thải từ trong nội thành thành phố Hà Nội chảy ra, vào mùa mưa nước thải chảy về huyện Thanh Trì rất nhiêu gây ô nhiễm các con sông, vùng hồ, đầm … Cộng với chế độ thuỷ văn của Sông Nhuệ, sông Hồng. Vào tháng 7 tháng 8 toàn bộ bãi ngoài đê sông Hồng bị ngập úng, còn vùng nội đồng tưới tiêu thoát úng càng khó khăn hơn do địa hình thấp hơn những vùng khác của huyện và các vùng giáp ranh. Chính vì những lý do này vào mùa mưa huyện cần nâng cao trách nhiệm, tinh thần, cơ sở vật chất, kỹ thuật chống úng tiêu nước cho các vùng đất, đồng ruộng. ► Huyện Thanh Trì nằm trong vùng châu thổ sông Hồng,Vì vậy thích hợp cho việc trồng các cây nhiệt đới, ưu nóng ẩm, cây trồng ưa nắng, thích nhiệt độ cao…Nhưng cũng cần đề phòng dịch bệnh do độ ẩm ở mức cao, sâu bệnh, rầy lá dễ lây lan, phát triển trên diện rộng. 1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 1.2.1 Dân số nguồn lao động. Quy mô dân số của huyện Thanh Trì tính đến cuối năm 2005 là 164 000 người, mật độ dân số là 2600 người/Km2, tỷ suất sinh là 17,2 % trong đó số lao động trong độ tuổi lao động chiến 58,3 % tương đương 89439 người. Số người có việc làm khoảng 71442 người chiếm 87,85%, đại đa số nguồn lao động làm việc trong ngành nông nghiệp chỉ một phần nhỏ làm việc trong ngành công nghiệp (26,7 % ) lao động trong ngành dịch vụ là 12,5 % (chiếm tỷ lệ ít nhất). Mặc dù đang trong bước đường chuyển mình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang thương mại, dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp nhưng tỷ trọng người lao động tham gia vào ngành thương mại- dịch vụ và công nghiệp còn thấp, chủ yếu nền kinh tế của huyện phần lớn vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính. Nền nông nghiệp của huyện thời gian qua có nhiều bước phát triển nhưng chưa thoát khỏi được chế độ canh tác thô sơ, việc áp dụng công nghệ khoa học còn rất chậm chạp, mô hình nông nghiệp sinh thái, chuyên canh cây trồng, rau sạch mới hình thành chưa có cơ cấu rõ ràng. Trong giai đoạn 2001 – 2005 nguồn lao động của huyện Thanh Trì tăng bình quân khoảng 2,9 %/năm chủ yếu là do luồng di dân từ những nơi khác đến, do luồng nhập cư từ các tỉnh đến Hà Nội học tập, lao động, tìm kiếm cơ hội việc làm… Toàn huyện có 44,6% số lao động dưới 35 tuổi do vậy nguồn nhân lực lao động của huyện còn khá trẻ đòi hỏi một sự cải cách lớn trong công tác quản lý để giải quyết việc làm cho lao động. Một mặt biết phát huy sức trẻ của đội ngũ lao động một mặt tăng cường sự đào tạo tạo nên những con người trẻ có tay nghề, phục vụ cho đời sống sản xuất. 1.2.2 Văn hoá: Là một huyện nằm trên địa bàn thành phố Hà Nội – trung tâm văn hoá của cả nước huyện Thanh Trì có nhiều lợi thế để giao lưu học hỏi, tiếp thu những nét đẹp truyền thống cũng như những nét tốt đẹp của đời sống văn minh. Người dân của huyên là những người chịu thương chịu khó, không ngại khổ, ngại khó, không lùi bước trước khó khăn. Giàu truyền thống yêu nước, giàu tinh thần dân tộc, tinh thần học hỏi, chịu thương, chịu khó, đây chính là những điểm mạnh để huyện phát huy tinh thần tập thể cộng đồng, làng xã đoàn kết cùng nhau xây dựng quê hương. 1.2.3 Điều kiện cơ sở hạ tầng. Do nằm trên địa bàn thành phố Hà Nội như đã nói ở trên huyện Thanh Trì có nhiều tuyến đường quan trọng của cả nước như quốc lộ 1A, quốc lộ 1B, tuyến đường sắt bắc – nam. Ngoài ra huyện có những tuyến đường quan trọng với các huyện, tỉnh, thành phố lân cận như: đường 70 A (nối liền thị trấn Văn Điển và thành phố Hà Đông), đường 70B (nối liền xã Ngọc Hồi với Xã Đông Mỹ), đê sông Hồng… Để chuẩn bị cho bước chuyển mình của huyện năm 2003 chính phủ có quyết định xây dựng nhiều tuyến đường mới, chạy trong huyện và các tỉnh thành lân cận như Hà Tây, Gia Lâm, … Tuy nhiên hệ thống giao thông của huyện còn rất kém, còn nhiều điểm chưa hoàn thiện tình trạng thi công công trình rồi lại bỏ dở không hoàn thành xảy ra nhiều, gây bức xúc ảnh hưởng tâm lý của nhân dân. Các tuyến đường liên xã, liên thôn còn nhỏ hẹp, mặt đường xấu, cấp đường thấp, tải trọng kém. Chủ yếu là đường bê tông tự đổ của nhân dân thực hiện theo chính sách nhà nước và nhân dân cùng làm. ► Về vận tải đường sắt hay đường sông nói chung còn hạn chế, Đường ray chạy qua huyện có tuyến bắc – nam, đông tây, đường thuỷ chủ yếu là vận chuyển thô sơ không chuyên nghiệp, làm theo mùa vụ, không phải là một nghề mang lại thu nhập thường xuyên và ổn định cho dân cư, chủ yếu lam dịch vụ cho các chuyến khách đi du lịch sông Hồng, đánh bắt thuỷ sản gần bờ thô sơ mà thôi. ► Hệ thống cấp thoát nước thiếu và yếu, cũ kỹ xuống cấp, không đồng bộ. Hệ thống nước sạch chưa đủ để phục vụ nhu cầu. Trong huyện nhiều vùng không có nước sạch, nước máy để dùng, thậm chí ở thị trấn Văn Đỉên cũng xảy ra tình trạng trên. Nhà máy nước sạch Văn Điển với công suất 5000 m3/ngày đêm và 30 trạm cấp nước sạch, công suất 27800m3/ngày đêm, Hệ thống thoát nước chống úng cũng bị hạn chế. ► Thông tin liên lạc của toàn huyện có 2 tổng đài điều khiển, 100% xã, cơ quan, trường học, bệnh viện,, đều trang bị thiết bị liên lạc đây là một điểm mạnh của huyện. Tỷ lệ phủ máy điện thoại trên đầu người của huyện được xếp vào hàng khá cao. Mong rằng trong thời gian tới huyện sẽ tận dụng triệt để được những lợi thế này. ► Hạ tầng xã hội: trên địa bàn huyện có hệ thống bệnh viện, trường học như: Viện 103, Bệnh viện Y học cổ truyền,…cùng các cơ sở điều trị, khám chữa bệnh ở các xã phường… Tạo điều kiện cho công tác chăm sóc sức khoẻ người dân ngay từ những tuyến cơ sở. 1.2.4 Điều kiện kinh tế: Huyện Thanh Trì đang trong giai đoạn chuyển mình, chuẩn bị cho sự phát triển, Nền kinh tế huyện có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoan 2001 – 2005 là 5,26 % cao nhất là ngành dịch vụ 6,84%, ngành xây dựng đạt 5,39% nông nghiệp 2,56% đạt tỷ lệ thấp nhất. Bảng 1: Giá trị sản xuất trên địa bàn huyện (2001- 2005) Đơn vị: Tỷ đồng STT Ngành 2001 2002 2003 2004 2005 tốc độ tăng trưởng bq/năm Tổng giá trị sản xuất 1371 1422 1441 1362 1683 5,26 1 CN &XD 1176 1225 1236 1,140 1,451 5,39 2 Dịch vụ 82 81 87 100 107 6,84 3 Nông nghiệp 113 116 118 122 125 2,56 (Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì) Bảng: giá trị sản xuất trên địa bàn huyện Thanh Trì ( 2001- 2005) cho ta thấy tăng trưởng kinh tế của huyện còn thấp, nông nghiệp sau 5 năm chỉ tăng lên 12 tỷ đồng. Hầu hết các lĩnh vực khác như xây dựng, dịch vụ có tăng nhưng còn rất chậm mỗi năm tăng với tỷ lệ rất nhỏ. Như năm 2000 – 2004 chỉ tăng lên 18 tỷ đồng… Cần có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong các sản xuất, khai thác để nâng cao hơn giá trị của các ngành sản xuất chuẩn bị chuyển dịch cơ cấu kinh tế Công nghiệp - dịch vụ - Nông nghiệp Bảng 2: Cơ cấu các ngành kinh tế do huyện quản lý (Theo giá hiện hành) Đơn vị: % STT Ngành 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1 Công nghiệp & Xây dựng 45,6 49,8 53,8 56,4 58,1 61,3 2 Thương mại - Dịch vụ 15,6 15,6 15,9 17 17,5 18,6 3 Nông nghiệp 38,8 34,7 30,3 26,7 24,4 20,1 Tổng 100 100 100 100 100 100 (nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì) Nhìn vào bảng trên ta thấy được xu hướng thay đổi trong cơ cấu kinh tế của huyện Thanh Trì, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần từ 38,8% năm 2001 xuống còn 24,4 % năm 2005. Trong khi đó tỷ trọng các ngành khác lại liên tục tăng như ngành xây dựng từ 45,6% năm 2001 đến 2005 đã tăng lên đến 58,1 %, năm 2006 đạt 61,3% . Đây là ngành tăng trưởng nhanh nhất trong cơ cấu kinh tế của huyện. Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế của huyện như vậy cũng là hợp lý, phù hợp với đinh hướng chuyển dịch cơ cấu mà đảng bộ huyện đang đặt ra. Giai đoạn 2001 – 2005 là giai đoạn mà huyện đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng nhằm hoàn thiện cơ sở hạ tầng chớp thời cơ phát triển hoà mình cùng đất nước. Hai khu công nghiệp lớn của huyện là: khu công nghiệp Văn Điển – Pháp Vân, khu công nghiệp Cầu bươu đã tham gia tích cực vào đóng góp cho sự phát triển của ngành công nghiệp và xây dựng. Lĩnh vục chủ yếu của khu công nghiệp này là sản xuất các mặt hàng hoá chất, cơ khí, chế biến… Khu công nghiệp Ngọc Hồi - một khu công nghiệp mới của huyện đang là một trọng điểm đầu tư của những người đầu tư. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp, khu sản xuất này là tiền đề quan trọng trong công cuộc chuyển đổi cơ cấu sản xuất của huyện, giải quyết việc làm ổn định cho một bộ phận người dân. Ngoài ra trong chủ trương chính sách và định hướng cho sự phát triển huyện Thanh Trì đang dần hình thành những khu du lịch sinh thái, khu nghỉ mát, thư giãn xanh cho khách du lịch phục vụ nội thành thành phố Hà Nội và các tỉnh thành khác. Song song với nó là việc khôi phục lại một số làng nghề truyền thống lâu đời vốn rất nổi tiếng của huyện như: mây tre đan, làm bánh cuốn Thanh Trì, vải lụa tơ tằm…Dựa vào những nền tảng có sẵn và định hướng phát triển mới, Tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện một cách căn bản theo hướng công nghiệp - dịch vụ. Với đà phát triển nhanh chóng của các ngành khác, ngành nông nghiệp cũng có sự thay đổi lớn. Diện tích đất nông nghiệp của huyện đã giảm đi 251 ha so với năm 2001 để chuyển đối sang mục đích sử dụng khác. Để đảm bảo được nền anh ninh lương thực của huyện, huyện đã đẩy mạnh nhiều chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp, tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích sử dụng như tiến hành thực hiện dự án cánh đồng 50 triệu, giá trị tăng dần theo các năm từ 40,7 triệu đồng/ha/năm (2000) lên 55 triệu đồng/ha/năm (2005), dự án xây dựng nền nông nghiệp sạch, trồng rau sạch phục vụ cho nội thành thành phố Hà Nội. Bên cạnh những thành tựu của công tác sử dụng và quản lý sử dụng đất huyện còn có một số tồn tại như: Chưa khai thác hết tiềm năng đất đai của huyện. Chưa có được mức đầu tư thoả đáng, kịp thời để khắc phục hệ thống tưới tiêu, thoát nước. Một số vùng chuyên canh rau sạch, xây dựng mô hình du lịch sinh thái nhưng không có được sự đầu tư thoả đáng làm cho dự án bị chậm trễ và không hiệu quả. 1.3 Đánh giá ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện tới công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp. Như đã nghiên cứu ở trên các yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội…đều có tác động đến sông tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, Tác động có thể theo hai hướng khác nhau. ► Thứ nhất theo hướng tích cực. Điều kiện tự nhiên có phù sa của các dòng sông như sông Hồng, sông Nhuệ, …đất phù sa rất giàu màu mỡ, chất dinh dưỡng.Với chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho công tác trồng trọt cây trồng nhiệt đới. Trong thời gian tới huyện Thanh Trì cần có chính sách phát triển nông nghiệp trên diện tích đất phù sa, đặc biệt là trồng lúa và một số hoa màu. Đánh giá được tiền năng của quỹ đất phù sa này Đảng bộ, UBND huyện Thanh Trì luôn chú trọng đến công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, hình thành các khu nông nghiệp trồng rau sạch phù hợp. Huyện có khá nhiều đầm, hồ, phù hợp cho việc nuôi trồng thuỷ sản. Đây là một lợi thế của huyện Thanh Trì, lợi thế này cần phải được tận dụng triệt để. Trong quy hoạch đến 2010 của huyện, huyện xác định chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng đóng góp của nuôi trồng thủy sản vào giá trị sản xuất của huyện ngày càng tăng. Huyện đã ban hành nhiều chính sách giúp đỡ người trồng thủy sản như: đưa cán bộ trường đại học nông nghiệp về trao đổi với bà con, giao, cho thuê vùng hồ, đầm cho người có nhu cầu sử dụng… Nằm trên đại phận thành phố Hà Nội, gần trung tâm thành phố nên có thuận lợi lớn trong giao lưu kinh tế, học hỏi các địa phương lân cận, có thị trưòng tiêu thụ rộng lớn. Chính vì vậy công tác quản lý Nhà nước của huyện cũng phải luôn luôn đổi mới cập nhập những văn bản, quy định mới của Thành phố, Chính phủ. Tiếp nhận, học hỏi kinh nghiệm của các địa phương, các huyện lân cận…Trong chính sách kinh tế mà huyện đề ra quy hoạch sử dụng đất phải tận dụng được những lợi thế đó. Xây dựng khu du lịch sinh thái, cây trồng, rau sạch…phục vụ nội thành. Có nhiều tuyến đường quan trọng chạy qua thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá bán buôn, bán lẻ. Bộ máy quản lý nhà nước về đất đai của huyện luôn luôn đổi mới tư duy, nhận thức, tích cực tham gia vào công tác của huyện Bộ phận dân cư trẻ, siêng năng cần cù, chịu khó. Đây là một tiềm năng to lớn của huyện. Huyện đã nhận ra điều đó, trong những năm qua huyện luôn có nhiều chính sách để đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ lao động bằng việc mở các lớp đào tạo về kinh nghiệm sản xuất, lớp học nghề, …Huyện tiến hành giao đất cho các đối tượng để các đối tượng có công ăn việc làm ổn định. Công tác giao đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải thực hiện nhanh chóng, kịp thời để người dân an tâm sản xuất. ► Thứ hai theo hướng tiêu cực: Huyện nằm gần trung tâm thành phố chịu nhiều nước thải của nội thành, nguồn nước bị ô nhiễm. Nền sản xuất nông nghiệp của huyện bị ảnh hưởng khá nhiều. Công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp vì thế mà vất vả hơn. Vừa chống sâu bệnh, vừa chống ô nhiễm. Huyện đã phải thanh tra, giải quyết nhiều trường hợp làm ô nhiễm đất đai sản xuất nông nghiệp. Những vụ việc này rất vất vả và kéo dài thời gian, công việc quản lý vì thể cũng vất vả hơn. Nằm ở độ cao thấp hơn các vùng lân cận khác nên bị ứ đọng nước, công tác thoát nước gặp nhiều khó khăn, nhiều vùng bị ứ đọng lâu, Hiện tại huyện đang có nhiều chinh sách đầu tư kinh phí thoát nước cho huyện. Vào mùa mưa công tác quản lý vấp phải nhiều trở ngại lớn. Đánh giá những khó khăn, phức tạp cũng như thuận lợi, tích cực của các yếu tố trên tới công tác quản lý Nhà nước để thấy được thời cơ và thách thức của huyện biết tận dụng những điểm mạnh và hạn chế, triệt tiêu những hạn chế vững vàng phát triển đi lên. 2 Hiện trạng công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội. Đánh giá công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp dựa trên các nội dung của công tác quản lý nhà nước theo luật định ta có Về ban hành các văn bản hướng dẫn quản lý sử dụng đất nông nghiệp. Đây là một công tác mà chính quyền huyện luôn quan tâm chú ý, Dựa trên luật đất đai 1993, 2003 và nghị định hướng dẫn của UBND thành phố Hà Nội, UBND huyện Thanh Trì, phòng Tài nguyên và Môi trường đã ban hành nhiều văn bản thực hiện một cách chủ động, sáng tạo, tích cực về mọi mặt. Thực thi Nghị định 64/ CP(1993) của thủ tướng chính phủ huyện ban hành các văn bản hướng dẫn việc giao đất nông nghiệp ổn định, lâu dài cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, Quyết định 3550/QĐ – UB và chỉ thị 33/CT – UB của UBND thành phố Hà Nội huyện Thanh Trì đã tổ chức làm thành hai đợt theo các thông báo 149/TT-UB (14/11/1994), theo chỉ thị 09/TT-UB và 4171/QĐ-UB Ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi nghị định 64/CP của chính phủ. + Hướng dẫn 26/HD-UB ngày 09/01/2001 của UBND huyện Thanh Trì về giải quyết một số vướng mắc trong qúa trình thực hiện giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp theo nghị định 64/CP + Báo cáo số 25/BC – ĐCNĐ&ĐT về kết qủa thực hiện giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp theo nghị định 64/CP. + Để thực hiện cấp giấychứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân UBND huyện đã ban hành hàng loạt các quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. + Hướng dẫn 72/HD – ĐCNĐ ngày 20/06/2001 của phòng địa chính nhà đất hướng dẫn các xã giải quyết giao đất cho các đối tượng chưa được giao phù hợp với với tình hình thực tế của địa phương đảm bảo nguyên tắc người sản xuất nông nghiệp có đất để sản xuất. + Thông báo số 24/TB – UB ngày 18/12/2006 về việc thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo một số trường hợp + Thông báo số 67/TB-UB ngày 4/12/2005: Thông báo về công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp. + Thông báo số 23/TB – UB ngày 03/02/2005: Kết luận tại hội nghị triển khai kế hoạch kiểm kê đất đai, cấp giấy chứng nhận và công tác quản lý đất đai trên địa bàn huyện. + Công văn số 164/CV –TTr ngày 07/10/2005 và thông báo số 4637/TB – ĐCNĐ ngày 21/10/2005 về việc tăng cường công tác tiếp, giải quyết, trả lời đơn thư của công dân. + Công văn số 01/QLNS – PTC ngày 03/01/2006 của phòng tài chính huyện về sử dụng kinh phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất + Công văn số 106/CV – UB ngày 22/02/2006 của UBND huyện ban hành kê họach xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND thành phố Hà Nội. + Báo cáo số 104/BC – UB của UBND huyện báo cáo kết qủa thực hiện chính sách pháp luật và các văn bản quy định của UBND thành phố trong g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16987.DOC
Tài liệu liên quan