Chuyên đề Nghiên cứu ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh vào phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang

Tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh vào phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang: Lời mở đầu –à— Như ta đã biết, nhận thức- quyết định và hành động là bộ ba biện chứng của quản lý khoa học, có hiệu quả toàn bộ cá hoạt động kinh tế trong đó nhận thức giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác định mục tiêu và sau đó là các nhiệm vụ cần đạt tới trong tương lai. Như vậy nếu nhận thức đúng, người ta sẽ có các quyết định đúng và tổ chức thực hiện kịp thời các quyết định đó đương nhiên sẽ thu được những kết quả như mong muốn. Ngược lại, nếu nhận thức sai sẽ dẫn tới các quyết định sai và nếu thực hiện các quyết định sai đó thì hậu qủa sẽ không thể lường trước được. Vì vậy phân tích tình hình tài chính là đánh giá đúng đắn nhất những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra, trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp để tận dụng triết để những điểm mạnh và khắc phục các điểm yếu. Tình hình tài chính doanh nghiệp là sự quan tâm không chỉ của chủ doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng như các nhà đầu tư, người cho vay, Nhà nước và người lao động. Qua ...

doc95 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh vào phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu –à— Như ta đã biết, nhận thức- quyết định và hành động là bộ ba biện chứng của quản lý khoa học, có hiệu quả toàn bộ cá hoạt động kinh tế trong đó nhận thức giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác định mục tiêu và sau đó là các nhiệm vụ cần đạt tới trong tương lai. Như vậy nếu nhận thức đúng, người ta sẽ có các quyết định đúng và tổ chức thực hiện kịp thời các quyết định đó đương nhiên sẽ thu được những kết quả như mong muốn. Ngược lại, nếu nhận thức sai sẽ dẫn tới các quyết định sai và nếu thực hiện các quyết định sai đó thì hậu qủa sẽ không thể lường trước được. Vì vậy phân tích tình hình tài chính là đánh giá đúng đắn nhất những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra, trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp để tận dụng triết để những điểm mạnh và khắc phục các điểm yếu. Tình hình tài chính doanh nghiệp là sự quan tâm không chỉ của chủ doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng như các nhà đầu tư, người cho vay, Nhà nước và người lao động. Qua đó họ sẽ thấy được thực trạng thực tế của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh, và tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh. Thông qua phân tích họ có thể rút ra được những quyết định đúng đắn liên quan đến doanh nghiệp và tạo điều kiện nâng cao khả năng tài chính của doanh nghiệp. Do đó việc phân tích tài chính trong một doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Qua thời gian thực tập tại Công ty may Đức Giang em quyết định chọn đề tài: "ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh vào phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang" Thực hiện đề tài này với mục đích dựa vào tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty để ứng dụng phương pháp phân tích, từ đó đánh giá hiệu quả đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Chuyên đề gồm 3 chương : Chương I: Các phương pháp phân tích tài chính trong doanh nghiệp Phần II: Thực trạng về phương pháp phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang. Phần III: Một số giải pháp ứng dụng phương pháp tỷ số và so sánh vào phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang. CHương I các phương pháp phân tích tài chính trong các doanh nghiệp I-Tầm quan trọng của phân tích tài chính 1-Tổng quan về tài chính doanh nghiệp Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh .Hoạt động này nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp: tối đa hoá giá trị tài sản sở hữu của doanh nghiệp cụ thể thành những mục tiêu khác như: tối đa hoá lợi nhuận, tăng trưởng ổn định,... Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu bao gồm: -Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp. -Quan hệ doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đâu ftư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng. -Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động . Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động,... Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị htoả mãn nhu ccầu của thị trường. -Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Các mối quan hệ này được thẻ hiện thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như: chính sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư chính sách về cơ cấu vốn và chi phí vốn,... Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, cần phải có một lượng tài sản phản ánh bên tài sản của Bảng cân đối kế toán. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữa được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể xác định tại một thời điểm nhất định và được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù vậy, người ta vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng hoá dịch vụ đầu ra và hàng hoá dịch vụ đầu vào. Một hàng hoá dịch vụ dầu vào hay một yếu tố sản xuất là hàng hoá hay dịch vụ mà các nhà doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh. Các hàng hoá dịch vụ đầu vào kết hợp với nhau tạo ra hàng hoá dịch vụ đầu ra - đó là hàng loạt các hàng hoá dịch vụ có ích được tiêu dùng hoặc được sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh khá. Như vậy trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoà hàng hoá dịch vụ đầu vào thành hàng hoá dịch vụ đầu ra để trao đổi. Mối quan hệ giữa tài sản hiện có và hàng hoá dịch vụ đầu vào, hàng hoá dịch vụ đầu ra (tức quan hệ giữa bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh) có thể mô tả như sau: Hàng hoá dịch vụ àsản xuất-chuyển hoá àHàng hoá dịch vụ (mua vào) (bán ra) Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt - đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép các doanh nghiệp mua các hàng hoá dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hoá dịch vụ để phục vụ cho mục đích trao đổi. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hện qua trung gian là tiền và khái niệm dòng vật chất và dóng tiền phất sinh từ đó, tức sự dịch hcuyển hàng hoá, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị và tổ chức kinh tế. Như vậy ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá, dịch vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào. Quy trình này được mô tả theo sơ đồ sau: Dòng vật chất đi vào Dòng tiền đi ra (xuất quỹ) Sản xuất chuyển hoá Dòng vật chất đi ra Dòng tiền đi vào (xuất quỹ) Sản xuất, chuyển hoá là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó được đặc trưng bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá và dịch vụ, mặt khác nó đặc trung bởi yếu tố cần thiết cho sự vận hành - đó là tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình công nghệ này có tác dụng quyết định đến cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hoá dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đầu ra và tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá trình trao đổi đó. Quá trình này quyết định đến sự vận hành của sản xuất làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp cần dựa trên hai khái niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu mỗi hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi khối lượng tài sản tích luỹ của doanh nghiệp. Một khối lượng tài sản, hàng hoá, hoặc tiền được đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ sở nền tảngcủa tài chính doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào bản chất khác nhau của các dòng dự trữ mà người ta phân biệt dòng tiền đối trọng và dòng tiền độc lập. Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau đây: - Đầu tư vào đâu như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? Từ đó đưa ra tổng tiền cần đầu tư. - Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào để đạt được cơ cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất? - Quản lý dòng tiền vào, dòng tiền ra sao cho đảm bảo mức ngân quỹ tối ưu thông qua việc trả lời câu hỏi: lợi nhuận doanh nghiệp được sử dụng như thế nào?, Phân tích đánh giá kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào, để thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính?, và quản lý các hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra quyết định thu, chi phù hợp? Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất trả lời ba câu hỏi trên. 2-Khái niệm, ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu cơ bản trong tài chính doanh nghiệp, có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau, đều bình đẳng trước nhau trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề và các lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp khách hàng,... kể cả các cơ quan nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đế tình hình tài chính trên một góc độ khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là khả năng phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị sở hữu tài sản doanh nghiệp, do đó họ quan tâm trước hết tới lĩnh vực đầu tư và tài trợ.đối với người cho vay mối quan tâm chủ yếu của họ là khả năng trả nợ hiện tại và tương laicủa doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư khác mối quan tâm của yếu của họ là các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả năng thanh toán... Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ, kỹ thuật phân tích giúp người sử dụng từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hơpự khái quát, vừa xem xét mọôt cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo, đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp. II-Mục tiêu phân tích tài chính Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Quy trình phân tích tài chính hiện nay ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các đơn vị tự chủ nhất định về tài chính, các tổ chức xã hội, tập thể, các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp,của ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để chứng tỏ phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết. Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau thì nhằm những mục tiêu khác nhau 1-Đối với nhà quản trị Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng ra quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính như quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia cổ tức,..., dự thảo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ, kiểm soát các hoạt động quản lý. Mặt khác, tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn hoạt động kinh doanh tronh quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp. 2-Đối với nhà đầu tư Các cổ đông là các cá nhân hoặc doanh nghiệp, quan tâm trực tiếp đến tính toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ bỏ vốn cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh sản xuất và họ có thể chịu rủi ro từ khoản vốn đó. Do vậy, các cổ đông cần biết tình hình thu nhập của mình có tương xứng với mức rủi ro của khoản đầu tư mà họ chịu. Nhà đầu tư phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp , đây là một trong những căn cứ giúp nhà đầu tư ra quyết có bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không? Thu nhập của các cổ đông tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Hai yếu tố này ảnh hưởng đén lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp với câu hỏi trọng tâm: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của công ty sẽ là bao nhiêu? Dự kiến lợi nhuận sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong chính sách phân chia lợi tức cổ phần và trong nghiên cứu rủi ro hướng các lựa chọn vào những cổ phiếu phù hợp nhất. 3-Đối với người cho vay Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng phân tích. Để đưa ra quyết định cho vay, thì một trong những vấn đề mà người cho vay cần phải xem xét là doanh nghiệp thật sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?Bởi nhiều khi một quyết định cho vay có ảnh hưởng nặng nề đến tình hình tài chính của người cho vay, có thể dẫn đến tình trạng phá sản của người cho vay, hay đơn vị cho vay. Phân tích tài chính đối với những khoản nợ dài hạn hay khoản nợ ngắn hạn cũng có sự khác nhau. Nếu là những khoản nợ ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp khi khoản nợ tới hạn trả nợ. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, ngưòi cho vay phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì việc hoàn trả vốn và lãi phụ thuộc vào khả năng sinh lời này Kỹ thuật phân tích thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của khoản vay, nhưng cho đó là khoản vay dài hạn hay nhắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay. Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư,...Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau nhưng đều muốn hiểu biết về doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ. III-thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp dến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp nhà phân tích có thể dưa ra được những nhận xét kết luận tinh tế và thích đáng. Những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập thông tin chung như các thông tin liên quan đến cơ hội kinh doanh nghĩa là tình hình chung về kinh tế tại một thời điểm cho trước. Trạng thái kinh tế: sự suy thoái hay tăng trưởng có tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh. Khi cơ hội thuận lợi, các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận của công ty, giá trị của công ty cũng tăng lên, và ngược lại. Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng phải nhận thấy sự xuất hiện mang tính chu kỳ:qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến thời kỳ suy thoái và ngược lại. Đồng thời thu thập thông tin về chính sách thuế, lãi suất, các thông tin về ngành kinh doanh như thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần...và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp: các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp... Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng nhưng thông tin đánh giá cho phân tích tài chính.Vả lại các doanh nghiệp có nghĩa vụ cung cấp các thông tin kế toán cho đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu: đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ). 1-Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính mô tả tìng trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán dược trình bày dưới dạng bảng cân đối các số dư tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản, một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó là tài sản lưu động, tài sản cố định. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn chủ và các khoản nợ. Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán dược sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống. Bên tài sản Tài sản lưu động: tiền chứng khoán ngắn hạn dễ bán, khoản phải thu, dự trữ .Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Bên nguồn vốn Nợ ngắn hạn bao gồm nợ pahỉ trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp,phải trả khác nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Nợ dài hạn bao gồm nợ dài hạn vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới. Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản; bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ,cơ cấu vốn cũng có khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục có trong tài khoản nội bảng còn có một số khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: một số tài khoản thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá nhận bán hộ, ngoại tệ các loại... Dựa vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọngbậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, kảh năng thanh toán, khả năng cânđối vốn của doanh nghiệp. 2-Báo cáo kết quả kinh doanh Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển tiền trong quá trình sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất-kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất-kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng tiềm năng về vốn, lao động, kĩ thuật và trình độ quản lý sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng từ các hoạt động đó. Những loại thuế như: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất không phải là doanh thu cũng không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các khoản phải nộp khác được phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. 3-Ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính. Nếu bảng cân đối kế toán những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho ta biết chi phí và thu nhậpphát sinh dể tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời những vấn đề liên quan đéen luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng chi trả hay không cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định trong thời gian ngắn hạn (thường là từng tháng). Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập (thu ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh (từ bán hàng hoá hoặc dịch vụ); dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường. Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền xuất thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư tài chính; dòng tiền xuất thực hiện hoạt động bất thường. Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả. 4-Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống các báo cáo tài chính, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải thích một cách rõ ràng và cụ thể. Thuyết minh báo cáo tài chính bao gồm các nội dung sau: -Đặc diểm hoạt động của doanh nghiệp: Hình thức sở hữu , hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, tổng số nhân viên những ảnh hưởng quan trọng đến tình hình tài chính trong năm báo cáo. -Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp: Niên độ kế toán, đơn vị tiền tệ trong ghi chép kế toán, nguyên tắc, phương pháp chuyển đổi các đồng tiền khác, hình thức sổ kế toán, phương pháp kế toán tài sản cố định, phương pháp kế toán hàng tồn kho, phương pháp tính toán các khoản dự phòng, tình hình trích lập và hoàn nhập dự phòng. -Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính: Yếu tố chi phí sản xuất, kinh doanh, tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào doanh nghiệp, lý do tăng, giảm, các khoản phải thu và nợ phải trả. -Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. -Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp. -Phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới. -Các kiến nghị. 5-Bảng tài trợ Bảng tài trợ là một trong nhũng công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính. anó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và sử dụng nguồn vốn đó. Để lập được biểu kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ), trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: -Nếu khoản mục bên tài sản giảm hoặc khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn. -Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc khoản mục bên nguồm vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng nguồn. Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và nguồn vốn chủ yếu hình thành để đầu tư. Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được báo cáo tài chính, qua đó, nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ. Tất nhiên, muốn được như vậy, các nhà phân tích cần tìm hiểu thêm nội dung chi tiết các khoản mục của báo cáo tài chính trong các môn học liên quan. iv-trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp 1-Thu thập thông tin Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giảivà htuyết minh thực trạng sử dụng tình hình tài chính của doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán tài chính. Nó bao gồm những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán và những thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị ...trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân tích tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp. 2-Xử lý thông tin Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra: xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định. 3-Dự đoán và quyết định Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dụ đoán nhu cầu và dưa ra quyết định tài chính. Có thể nói, mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra quyết định tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm dưa ra các quyết định liên quan tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của doanh nghiệp, tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận. Đối với người cho vay và đầu tư vào xí nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trợ và đầu tư; đối với nhà quản lý thì dưa ra các quyết định về quản lý doanh nghiệp. V-phương pháp phân tích tài chính Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính, nhưng trên thực tế người ta thường sử dụng phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ. 1-Phương pháp so sánh Điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh là các chỉ tiêu tài chính phỉa thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán,... và theo mục đích phân tích mà xác định số gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân; nông dân so sánh bao gồm: -So sánh giữa số thực hiện trong kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. -So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạc để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. -So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu, được hay chưa được. -So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. 2-Phương pháp phân tích tỷ số Tỷ số là công cụ phân tích tài chính phổ thông nhất. một tỷ số là mối quan hệ tỷ lệ giữa hai dòng hoặc hai nhóm dòng của bảng cân đối tài sản. Phương pháp phân tích tỷ số dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ là sự biến đổi các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn các nhpms chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình. Chọn đúng các tỷ số và tiến hành phân tích chúng, chắc chắn ta sẽ phát hiện được tình hình tài chính. Phân tích tỷ số cho phép phân tích đầy đủ khuynh hướng vì một số dấu hiệu có thể được kết luận thông qua quan sát số lớn các hiện tượng nghiên cứu riêng rẽ. 3-Phương pháp phân tích Dupont Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các tỷ số tài chính. Vì vậy, nó được gọi là phương pháp Dupont. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đối với các tỷ số tổng hợp. Trước hết ta xem xét mối quan hệ tương tác giữa tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) với tỷ số doanh lợi tài sản (ROA) Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Lợi nhuận sau thuế ROA = x = (1) Doanh thu Tổng tài sản Tổng tài sản Tỷ ROA cho thấy tỷ suất sinh lợi của tài sản phụ thuộc vào hai yếu tố: Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu Một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu Tiếp theo, ta xem xét tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (ROE): Lợi nhuận sau thuế ROE = Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Nếu tài sản của doanh nghiệp chỉ được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bằng nhau vì khi đó tổng tài sản = tổng nguồn vốn. Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế ROA = = = ROE(2) Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Nếu doanh nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho các tài sản của mình thì ta có mối liên hệ giữa ROA và ROE: Tổng tài sản ROE = x ROA (3) Vốn chủ sở hữu Kết hợp (1) & (3) ta có: Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Tổng tài sản ROE = x x Doanh thu Tổng tài sản Vốn CSH Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Tổng tài sản = x x Doanh thu Tổng tài sản Tổng tài sản – Nợ Lợi nhuận sau thuế Doanh thu 1 = x x Doanh thu Tổng tài sản 1- Rd Với Rd = Nợ / Tổng tài sản là hệ số nợ và phương trình này gọi là phương trình Dupont mở rộng thể hiện sự phụ thuộc của doanh lợi vốn chủ sở hữu vào doanh lợi tiêu thụ, vòng quay toàn bộ vốn và hệ số nợ. Từ đây ta thấy sử dụng nợ có tác dụng khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ, hệ số nợ càng lớn thì lợi nhuận càng cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp đang bị lỗ thì sử dụng nợ càng tăng số lỗ. Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn là giúp nhà phân tích phát hiện và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành thì nhà phân tích có thể dựa vào hệ thống các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích Dupont để tìm ra nguyên nhân chính xác. Ngoài việc được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, các chỉ tiêu đó có thể được dùng để xác định xu hướng hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn doanh nghiệp có thể sẽ gặp phải. Nhà phân tích nếu biết kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ và phương pháp phân tích Dupont sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân tích tài chính doanh nghiệp. Ngoài các phương pháp phân tích chủ yếu trên, người ta còn sử dụng một số phương pháp khác: phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ, phương pháp toán tài chính,... kể cả phương pháp phân tích các tình huống giả định. Trong quá trình phân tích tổng thể thì việc áp dụng linh hoạt, xen kẽ các phương pháp sẽ đem lại kết quả cao hơn khi phân tích đơn thuần, vì trong phân tích tài chính kết quả mà mỗi chỉ tiêu đem lại chỉ thực sự có ý nghĩa khi xem xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác. Do vậy, phương pháp phân tích hữu hiệu cần đi từ tổng quát đánh giá chung cho đến các phần chi tiết, hay nói cách khác là lúc đầu ta nhìn nhận tình hình tài chính trên một bình diện rộng, sau đó đi vào phân tích đánh giá các chỉ số tổng quát về tình hình tài chính và để hiểu rõ hơn ta sẽ phân tích các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của doanh nghiệp, so sánh với những năm trước đó, đồng thời so sánh với tỷ lệ tham chiếu để cho thấy được xu hướng biến động cũng như khả năng hoạt động của doanh nghiệp so với mức trung bình ngành ra sao. 4-Nội dung phân tích tài chính 4.1-Phân tích các tỷ số tài chính 4.1.1-Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán Tình hình tài chính được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu tài chính về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với khoản phải thanh toán trong kỳ. Sự thiếu hụt về khả năng thanh khoản có thể đưa doanh nghiệp tới tình trạng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp đúng hạn và có thể phải ngừng hoạt động. Do đó cần chú ý đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau đây: Tài sản lưu động Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Tỷ số thanh toán hiện hành thể hiện mối quan hệ giữa tài sản lưu động với các khoản nợ ngắn hạn. TSLĐ bao gồm tiền, chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu, các lhoản dự trữ. Nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phỉa trả nhà cung cấp, các khoản phải trả các khoản phải nộp khác. Cả TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có htời hạn dưới một năm. Hệ số này thể hiện khả năng thanh toán trong ngắn hạncủa doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của khoản nợ đó. Khi đã có hệ số này ta tiến hành so sánh với tỷ số tham chiếukhác như: mức trung bình ngành, tỷ lệ kỳ trước...để được sự đánh giá tốt hơn. Tài sản lưu động -Dự trữ Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Tỷ số thanh toán nhanh thể hiện mối quan hệ giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán, ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữlà các tài sản khó chuyển đổi thành tiền hơn trong tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất khi bán.Do, vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh xho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán các tài sản dự trữ. Tiền Khả năng thanh toán tức thời = Nợ đến hạn Tỷ số thanh toán tức thời thể hiện mối quan hệ tiền (tiền mặt và các khoản tương đương tiền như chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển đổi...)và khoản nợ đến hạn phải trả. Nợ đến hạn phải trả bao gồm nợ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đến hạn trả. Tỷ số thanh toán nhanh chưa bộc lộ hết khả năng thanh toán của doanh nghiệp bởi nó mới tính đến các khoản nợ ngắn hạn. Nếu nợ dài hạn đến hạn trả doanh nghiệp phải xử lý như thế nào nếu không lập kế hoạch từ trước và nó có khiến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không?Tỷ số thanh toán tức thời cho chúng ta biết khá rõ về tình trạng đó tuy nhiên hệ số này hết sức nhạy cảm nên doanh nghiệp cần xác định phù hợp vì nếu hệ số thanh toán tức thời thấp hơn một thì doanh nghiệp phải bán các tài sản lưu động khác như chứng khoán ngắn hạn... để thanh toán, còn tỷ số thanh toán tức thời quá cao tức doanh nghiệp dự trữ quá nhiều tiền mặt thì doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội sinh lời. Các chủ nợ đánh giá mức trung bình hợp lý cho tỷ lệ này là 0.5. Khi tỷ lệ này lớn hơn 0.5 thì khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp là khả quan và ngược lại. Tỷ số dự trữ trên vốn lưu động dòng: Tỷ số này cho biết dự trữ chiến bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Nó đượctính bằng cáchlấy dự trữ chia cho vốn lưu động ròng. Nếu dự trữ trên vốn lưu động ròng quá cao thì sẽ không tốt vì dự trữ khoản khonả khó chuyển đổi thành tiền nhất trong vốn lưu động ròng. Và khi chuyển đổi dự trữ thành tiền thì chi phí chuyển đổi cao doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại, do vậy doanh nghiệp tính toán một mức dự trữ cho hợp lý tránh tình trạng tồn động vốn gây thiệt hại. Sau khi tính toán các chỉ tiêu trên doanh nghiệp, doanh nghiệp tiến hành phân tích một cách chi tiết nhu cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá chính xác tình hình thanh toán của doanh nghiệp bằng cách đối chiếu và so sánh với các tỷ số thanh toán năm trước và các chỉ số tham chiếu. Không thể đưa ra một chỉ tiêu chuẩn mực về hệ số thanh toán cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Nhưng thông thường hệ số thanh toán trên 0.5 thì coi là lành mạnh còn dưới 0.5 là dấu hiệu không lành mạnh. 4.1.2-Các tỷ số về khả năng cân đối vốn Tỷ số này dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phân ftài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trọng phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất-kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát, điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể. Nghiên cứu các chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn nhằm mục đích chỉ ra doanh nghiệp đã có một cơ cấu vốn hợp lý hay chưa? Một trong nững mục tiêu của doanh nghiệp là đạt được cơ cấu vốn tối ưu nhằm tối đa hoá giá trị tài sản sở hữu. Trong quá trình hoạt động kinh doanh cơ cấu tài chính của doanh nghiệp luôn luôn thay đổi, nghiên cứu nhóm chỉ tiêu này chúng ta xem xét một số chỉ chủ yếu: hệ số nợ, khả năng thanh thanh toán lãi vay... Tổng nợ Hệ số nợ = Tổng tài sản Hệ số này xác định trong một đồng doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu phần là nợ vay. Hệ số nợ là tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Hệ số nợ được các chủ nợ và chủ đầu tư góp vốn liên doanh quan tâm rộng rãi. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải tỷ số này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong truờng hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Khả năng thanh toán lãi vay = lãi vay Tỷ số về khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản. Lãi vay là một khoản chi phí, doanh nghiệp dùng thu nhập trước thuế để trả lãi. Nó phản ánh doanh nghiệp sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không cà chỉ tiêu này rất được các người cho vay quan tâm. Tài sản cố định/ Tài sản lưu động Tỷ số cơ cấu tài sản = Tổng tài sản Tỷ số này phản ánh tương quan giữa TSCĐ và TSLĐ so với tổng tài sản. Thông qua tỷ số này, ta có thể thấy được loại hình doanh nghiệp là sản xuất hay kinh doanh thương mại. Vốn chủ sở hữu Tỷ số cơ cấu nguồn vốn = Tổng nguồn vốn Tỷ số này xác định mức đóng góp của của chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn hiện có của doanh nghiệp. Tỷ số cơ cấu nguồn vốn có quan hệ mật thiết với hệ số nợ. Tỷ số này lớn thì vốn chủ sở hữu lớn doanh nghiệp có được lợi thế khi tiếp cận một số nguồn vốn vay mà yêu cầu vay phải có vốn chủ sở hữu lớn. Và ngược lại, tỷ số này thấp gây bất lợi cho doanh nghiệp khi đi vay cũng như trong cạnh tranh. 4.1.3-Tỷ số về khả năng hoạt động Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư vào các tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Doanh thu Vòng quay tiền = Tiền và chứng khoán dễ bán Tỷ số này cho biết vòng quay của tiền trong năm. Vòng quay tiền càng cao hiệu quả kinh doanh càng tốt. Doanh thu Vòng quay dự trữ = Dự trữ Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh già hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu,vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. Chỉ tiêu này khá quan trọng nó đánh giá hiệu quả của TSLĐ. Nếu chỉ tiêu này cao tức là mức độ luân chuyển dự trữ nhanh, lượng dự trữ không lớn, ít bị ứ đọng vốn. Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân một ngày Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chình sách thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước. Trong nền kinh tế thị trường các chủ kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về sử dụng vốn và chiếm dụng vốn. Chỉ tiêu này rất quan trọng ví nếu chu kỳ thu tiền bình quân lớn chứng tỏ khoản phải thu lớn, vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng, gây khó khăn cho việc huy động vốn, nếu kỳ thu tiền bình quân nhỏ, các khoản phải thu nhỏ nhưng giao dịch với khách hàng và chính sách tín dụng thương mại bị hạn hẹp, quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác giảm, thị trường giảm, do đó việc để chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp tuỳ thuộc vào mục tiêu hiện tại của doanh nghiệp. Doanh thu Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Tài sản cố định Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Doanh thu Hiệu quả sử dụng TSLĐ = Tài sản lưu động Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Tài sản lưu động ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Doanh thu Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Tổng tài sản Chỉ tiêu này còn dược gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại mấy đồng doanh thu. 4.1.4-Tỷ số về khả năng sinh lời Với một kinh doanh, lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ khi hoạt động có lợi nhuận doanh nghiệp mới có khả năng thanh toán những khoản nợ mà không ảnh hưởng tới nguồn vốn, mới có khả năng tái đầu mở rộng sản xuất, khẳng địnhvị trí của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận chưa phản ánh đầy đủ tình hình kinh doanh, nếu ta chỉ nhìn chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá hoạt động của doanh nghiệp là tốt hay xấu thì dễ dẫn đến sai lầm. Bởi vì đánh giá lợi nhuận cần so sánh tương quan với chi phí, với lượng tài sản mà doanh nghiệp sử dụng và bộ phận vốn chủ sở hữu huy động vào sản xuất kinh doanh. Khả năng sinh lời là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh, là đáp số sau cùng của quá trình kinh doanh, tỷ số khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Nó được các nhà đầu tư rất quan tâm và là cơ sở để nhà quản trị hoạch định chính sách. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu sau: Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Doanh thu Chỉ tiêu này xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế (thu nhập sau thuế) cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu. Chỉ tiêu này nói chung càng cao càng tốt tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) = Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và nó được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp, bởi vì tỷ số này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra đem lại mấy đồng lợi nhuận sau thuế. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế (hoặc EBIT) Doanh lợi tài sản (ROA) = Tài sản EBIT là lợi nhuận trước thuế và lãi. Doanh lợi tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư, nó cho thấy một đồng tài sản bỏ ra tạo được mấy đồng lợi nhuận. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể mà phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận sau thuế hay EBITđể so sánh với tổng tài sản. Sau khi đã xác định được các tỷ lệ tài chính trên, ta tiến hành phân tích và so sánh với các năm để đánh giá tình trạng của doanh nghiệp. Nếu thu thập được tỷ lệ bình quân ngành thì ta cũng đem so sánh với các chỉ tiêu ngành để đánh giá tình hình của doanh nghiệp so với doanh nghiệp khán trong ngành. 4.2-Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn Trong phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm của BCĐKT. Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là biểu kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Bảng kê này giúp cho việc xác định rõ nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn. Để lập được bảng kê này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục trên BCĐKT từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: Sử dụng vốn: tăng tài sản, giảm nguồn vốn Nguồn vốn: giảm tài sản, tăng nguồn vốn Trong đó nguồn vốn và sử dụng vốn phải cân đối với nhau. Việc thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ sở để tiến hành phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn nhằm chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó. Quá trình phân tích sẽ cho thấy nguồn vốn của một kỳ kinh doanh tăng, giảm bao nhiêu, tình hình sử dụng vốn ra sao, những chỉ tiêu nào ảnh hưởng đến sự tăng giảm nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Có như vậy, nhà quản lý sẽ có giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Chương ii thực trạng về phương pháp phân tích tài chính của công ty may đức giang I-Tổng quan Về công ty may Đức giang Công ty May Đức Giang, tên giao dịch quốc tế: DUCGIANG - IMPORT - EXPORT - GARMENT COMANY. Tên tắt là: DUGARCO. Là một doanh nghiệp nhà nước, sản xuất và kinh doanh các sản phẩm may mặc, trực thuộc Tổng công ty Dệt - May Việt Nam - Bộ công nghiệp. Trụ sở chính của Công ty đặt tại: 59 Phố Đức Giang - Gia Lâm - Hà Nội. Thành lập ngày: 2/5/1989 Hiện nay có tổng số lao động: 3096 người. 1-Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty may Đức giang Năm 1989, trước tình hình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhiều doanh nghiệp đã bị giải thể hoặc phá sản do không thích ứng được với sự vận động của cơ chế mới. Từ chỗ nắm bắt được xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và nhà nước, với những điều kiện hiện có, ngày 2 tháng 5 năm 1989 một phân xưởng may được thành lập trên diện tích của Tổng kho vận I - Liên hiệp các xí nghiệp may tại Thị trấn Đức Giang - tiền thân của Công ty May Đức Giang ngày nay. Lúc đó cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất nghèo nàn lạc hậu, với 5 gian nhà kho đã hết khấu hao, trên 100 máy may cũ của Liên Xô và một đội xe vận tải gồm 7 đầu xe, lực lượng lao động gồm 27 công nhân coi kho và trên 20 cán bộ công nhân viên dôi ra qua sắp xếp lại biên chế của Liên hiệp các xí nghiệp may. Năm 1990 phân xưởng được Bộ công nghiệp nhẹ tổ chức thành lập “Xí nghiệp sản xuất và dịch vụ may Đức Giang” theo quyết định số 102/CNn-TCLĐ ngày 23/2/1990 của Bộ công nghiệp nhẹ. Ngay từ khi mới thành lập, Xí nghiệp sản xuất và dịch vụ may Đức Giang gặp không ít khó khăn thách thức về đội ngũ kỹ thuật, máy móc thiết bị, về bạn hàng, về thị trường. Cụ thể thị trường cũ là Đông Âu và Liên Xô từ những năm đầu của thập kỷ 90 không còn nữa, thị trường mới chưa có, yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Đứng trước tình hình đó, công ty mạnh dạn mua sắm đầu tư cho các dây chuyền sản xuất hiện đại, nhằm chiếm lĩnh thị trường. Năm 1991 xí nghiệp thành lập 2 phân xưởng sản xuất mới với 16 dây chuyền, đầu tư 1 giàn máy thêu điện tử TAJIMA 12 đầu của Nhật. Năm 1992, trước yêu cầu thực tế trong quan hệ bạn hàng, Bộ công nghiệp nhẹ đã cho phép xí nghiệp sản xuất và dịch vụ may Đức Giang đổi tên thành Công ty May Đức Giang theo quyết định số 1274/QĐCNn - TCLĐ ngày 12/12/1992. Tháng 3/1993, Bộ trưởng bộ Công nghiệp nhẹ có quyết định số 221/CNn-TCLĐ v/v “Thành lập doanh nghiệp nhà nước theo quy định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, nay là Thủ tường Chính phủ”. Theo quyết định này, Công ty May Đức Giang đã chính thức trở thành một doanh nghiệp Nhà nước, có con dấu riêng. Tháng 9/1993, công ty được cầp giấy phép kinh doanh xuất khẩu số 102.1046/GP ngày 6/9/1993 của Bộ thương mại. Từ đây Công ty May Đức Giang lấy tên giao dịch là Công ty xuất nhập khẩu May Đức Giang (DUCGIANG - IMPORT - EXPORT - GARMENT COMPANY). Ngày 28/11/1/994, Bộ công nghiệp ra quyết định số 1247/CNn-TCLĐ v/v “Chuyển đổi tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu sản xuất của Công ty May Đức Giang”. Từ sự chuyển đổi tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu sản xuất của Công ty, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được chú trọng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Với sự điều hành của tổ chức bộ máy quản lý mới và sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên, Công ty đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh. Năm 1996, Công ty đã liên doanh với một số đơn vị ngoại tỉnh: Việt Thành (Bắc Ninh), Việt Thanh (Thanh Hoá), Hưng Nhân (Thái Bình). Tháng 3/1998, Công ty đã được Tổng Công ty Dệt May Việt Nam-Bộ công nghiệp cho phép sát nhập Công ty May Hồ Gươm vào, do đó qui mô của Công ty được mở rộng nhiều so với trước, số nhân công, máy móc thiết bị, nhà xưởng cũng tăng lên. Tính đến nay, Công ty có 6 xí nghiệp cắt may hoàn chỉnh, 1 xí nghiệp giặt mài, 1 xí nghiệp thêu điện tử với 3096 cán bộ công nhân viên,có hơn 2018 máy may công nghiệp và nhiều máy móc thiết bị chuyên dùng tiên tiến của Nhật, CHLB Đức, có hệ thống giác sơ đồ trên máy vi tính, có 4 máy thuê điện tử TAJIMA 12 đầu và 20 đầu của Nhật Điều, dây chuyền giặt mài tiên tiến. Năng lực sản xuất đạt trên 1.5 triệu áo Jacket một năm (tương đương trên 7 tiệu sản phẩm áo sơ mi). Đáng quan tâm nhất là tháng 1/1999 Công ty xây dựng thực hiện và duy trì hệ thống quản lý chất lượng phù hợp theo tiêu chuẩn ISO 9002. Đứng trước những đòi hỏi khắt khe của cơ chế thị trường, tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty May Đức Giang đã duy trì ý chí phấn đấu vươn lên. Công ty luôn bảo toàn và phát triển vốn, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh tốc độ tăng trưởng bình quângân hàngàng năm đạt trên 30%. Đến nay công ty Đức Giang đã có quan hệ bạn hàng với 46 khách hàng ở 21 nước trên thế giới, chủ yếu là Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc , khối EEC, Trung Cận Đông... nhiều khách hàng lớn có uy tín trên thị trường may mặc quốc tế như hãng HABITEX(Bỉ), SEIDENSTICKER(Đức), FLEXCON, LEIURE,...đã có quan hệ bạngân hàngàng nhiều nămvới những hợp đồng sản xuất gia công khối lượng lớn, tạo đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên của công ty và các đơn vị liên doanh tại địa phương. Chính vì sự cố gắng của toàn công ty mà chỗ đứng của Công ty May Đức Giang ngày càng được củng cố trong “làng may” Việt Nam và trên thị trường may mặc quốc tế. Đồng thời Công ty đã được đón nhận nhiều phần thưởng cao quí do Đảng và Nhà nước trao tặng. Và năm 2000, công ty may Đức Giang được công nhận là một trong những đơn vị đứng đầu ngành dệt may Việt Nam. Tuy là doanh nghiệp trẻ nhưng công ty may Đức Giang đã cố gắng đứng vững và phát triển trong môi trường kinh tế cạnh tranh khốc liệt. Dưới đây là một số chỉ tiêu tổng hợp về tình hình của công ty trong 4 năm gần đây: Bảng 1: Chỉ tiêu tổng hợp về tình hình tài chính của công ty may Đức Giang Đơn vị: 1000 đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 1.Tổng doanh thu 107120769 149187004 180528474 268542000 2.Nộp ngân sách 2678000 3366762 3209575 2692000 3.Thu nhập bình quân người/tháng 1250 1385 1405,8 1552 4.Lợi nhuận 4700000 7510000 7027000 7842000 5.Tổng vốn 63355208 100423871 167094516 (Trích báo cáo tài chính năm 1999, 2000, 2001, 2002) Qua bảng tổng kết trên ta thấy tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu của Công ty năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt thu nhập bình quân một người/tháng tăng rõ rệt. Điều đó khẳng định xu hướng đi lên của Công ty, chính sách chiến lược và mục tiêu kinh tế của Công ty được triển khai thực hiện một cách đúng đắn và có hiệu quả. 2-Đặc điểm của công ty may Đức Giang 2.1-Chức năng: Công ty May Đức Giang - một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Dệt - May Việt Nam - Bộ công nghiệp, là đơn vị sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu ngành may mặc. Công ty được quyền sử dụng vốn của các đơn vị kinh tế để phát triển sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật, được mở các cửa hàng, đại lý bán hàng, giới thiệu và bán sản phẩm, đặt chi nhánh, văn phòng đại diện trong nước và nước ngoài. Công ty May Đức Giang là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng, có con dấu riêng để giao dịch theo qui định của pháp luật. 2.2-Nhiệm vụ: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, Công ty May Đức Giang phải đảm nhận một số nhiệm vụ chính sau: + Tổ chức sản xuất - kinh doanh xuất nhập khẩu đúng ngành nghề, đúng mục đích thành lập Công ty. + Xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch sản xuất và phát triển phù hợp với mục tiêu của Công ty và nhiệm vụ mà Tổng Công ty Dệt May giao cho. + Chủ động tìm hiểu thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng kinh tế. + Trên cơ sở các đơn đặt hàng, tiến hành xây dựng kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính, các kế hoạch tác nghiệp và tổ chức thực hiện kế hoạch. + Thực hiện nghĩa vụ đối với người lao động theo qui định của luật pháp. + Bảo toàn vốn và phát triển vốn được Nhà nước giao, thực hiện các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Nhà nước. Công ty May Đức Giang là một trong những doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất và gia công xuất khẩu hàng may mặc, đây là lĩnh vực được nhà nước quan tâm để đầu tư và phát triển. Vì ngành dệt - may được xác định là ngành mũi nhọn của Việt Nam và lĩnh vực sản xuất, gia công hàng xuất khẩu đang được Nhà nước ưu tiên phát triển. 3-Đặc điểm tổ chức sản xuất 3.1-Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm Qui trình công nghệ may tương đối phức tạp, gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn, trong mỗi công đoạn lại có những bước công việc khác nhau. Mỗi chủng loại sản phẩm khác nhau có số lượng các chi tiết khác nhau và như vậy nó có số lượng bước công việc khác nhau, những bước công việc này được sản xuất kế tiếp nhau một cách liên tục. Song tất cả các sản phẩm đều trải qua một số công đoạn sau và nó được sắp xếp khá hợp lý theo sơ đồ dòng chảy. Sơ đồ 3.1 : Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm Thêu Giặt mài Là Nhập kho Phân xưởng hoàn thành đóng gói, đóng kiện KCS Nhà may May cổ may tay Ghép thành sản phẩm Nhà cắt Trải vải giáp mẫu đánh số cắt nhập kho nhà cắt Nguyên vật liệu (Vải) 3.2-Thiết bị sản xuất của Công ty may Đức Giang Với việc thiết kế quy trình công nghệ như trên, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng về chất lượng sản phẩm, tiến độ giao hàng, thời gian qua Công ty may Đức Giang đã chú ý quan tâm đầu tư và đổi mới thiết bị. Từ chỗ chỉ có trên 100 máy Liên Xô cũ đến nay Công ty đã có trên 1900 thiết bị máy móc các loại thể hiện ở biểu sau Bảng 2: Tổng hợp danh mục thiết bị của Công ty năm 2001 STT Tên máy móc thiết bị Số lượng Tên nước sản xuất 1 Máy 1 kim 1218 Nhật Bản 2 Máy 2 kim 129 Nhật Bản 3 Máy 2 kim móc xích 9 Nhật Bản 4 Máy thùa bằng 32 Nhật Bản 5 Máy đính cúc 37 Nhật Bản 6 Máy thùa tròn 14 Nhật Bản, Đức, Séc 7 Máy đính bọ 23 Nhật Bản 8 Máy may nẹp 18 Nhật Bản 9 Máy may vắt sàng 5 Nhật Bản 10 Máy cuốn ống 42 Mỹ 11 Máy bổ túi 5 Đức 12 Máy zic zắc 7 Nhật Bản 13 Máy ép Simpatex 3 Hàn Quốc 14 Máy ép mex 4 Đức , Nhật Bản 15 Máy ép măng séc, cổ, thân 13 Ongkon 16 Máy thổi phom 3 Đức 17 Máy hút chỉ 2 Việt Nam 18 Máy cắt vòng 9 (Nhật: 2 chiếc; Việt Nam: 7 chiếc) 19 Máy cắt tay 18 Nhật Bản, úc 20 Hệ thống nén khí 1 Đức 21 Dây chuyền giặt mài 1 Ongkon 22 Thiết bị phụ trợ 327 Nhật Bản, Hà lan Tổng 1920 Qua biểu tổng hợp máy móc thiết bị của Công ty may Đức Giang, hệ thống máy móc rất đa dạng, hiện đại, hầu hết là các loại máy bán tự động, chuyên dùng. đây là điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện chuyên môn hóa, đa dạng hóa sản phẩm, hạ giá thành, từ đó sản phẩm được chấp nhận tiêu thụ. Song, máy móc hiện đại như vậy, khi có sự cố phải hiệu chỉnh, sửa chữa công phu, phụ tùng thay thế khan hiếm, tốn kém ảnh hưởng tới thời gian và năng suất lao động. 3.3- Đặc điểm kết cấu tổ chức sản xuất của Công ty May Đức Giang Do qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm là phức tạp kiểu kiên tục, loại hình sản xuất hàng loạt, số lượng sản phẩm lớn, chu kỳ sản xuất ngắn gọn, Công ty May Đức Giang tổ chức sản xuất như sau: 3.3.1-Bộ phận sản xuất chính: Bao gồm: -Sáu xí nghiệp cắt may (xí nghiệp may 1, 2, 4, 6, 8, 9) có nhiệm vụ nhận nguyên liệu từ kho về, căn cứ vào định mức phòng kỹ thuật ban hành giác sơ đồ, cắt, may thành sản phẩm hoàn chỉnh và nhập kho, làm việc theo qui trình công nghệ khép kín. -Xí nghiệp thêu điện tử: Nhận bán thành phẩm từ nhà cắt rồi thêu và trả lại nhà cắt để giao cho bộ phận may. Xí nghiệp thêu có nhiệm vụ đáp ứng đầy đủ, kịp thời bán thành phẩm cho 6 xí nghiệp cắt may, ngoài ra còn nhận gia công cho một số đơn vị bạn, thường xuyên liên hệ với nhau bằng điện thoại để đảm bảo tiến độ cho khách hàng. -Xí nghiệp giặt mài: Giặt tẩy các sản phẩm theo đơn đặt hàng của khách hàng, phối hợp với các xí nghiệp may để đảm bảo thời gian giao hàng. 3.3.2-Bộ phận sản xuất phụ: -Ban cơ: có nhiệm vụ lắp đặt dây chuyền sản xuất theo qui trình công nghệ, gia công chế tạo các cữ gá, sửa chưac thiết bị máy móc trong toàn công ty, quan tâm theo dõi để đáp ứng kịp thời mọi sự cố về thiết bị máy móc. -Ban điện: có nhiệm vụ lắp đặt hệ thống điện sản xuất và sinh hoạt trong toàn Công ty, thường xuyên theo dõi kiểm tra an toàn về điện, hướng dẫn cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty nội dung an toàn lao động và phòng chống cháy nổ. 3.3.3-Bộ phận phục vụ -Kho nguyên liệu: Tiếp nhận vật tư do khách hàng cung cấp, tiến hành kiểm tra, đo khổ, sắp xếp theo khách hàng, chủng loại. Sau đó căn cứ định mức và lệnh sản xuất của phòng ban chức năng ban hành, làm nhiệm vụ cấp phát vật tư (vải, bông, dựng) đến từng xí nghiệp. -Kho phụ liệu: Có nhiệm vụ như kho nguyên liệu, nhưng vật tư ở đây là các loại phụ liệu như: chỉ, khoá, cúc và các loại thẻ bài, nhãn mác. -Kho phụ tùng: Có nhiệm vụ quản lý và cấp phát phụ tùng, thiết bị máy may, máy cắt... chuyển đổi các loại máy theo yêu cầu thiết kế chuyền của xí nghiệp may. -Xưởng bao bì: Trực tiếp sản xuất và cung cấp thùng carton cho xưởng hoàn thành đảm bảo đúng kích cỡ và mẫu mã mà khách hàng yêu cầu. Ngoài ra còn kí hợp đồng gia công cho một số đơn vị khác ngoài công ty. -Phân xưởng hoàn thành: Tiếp nhận toàn bộ sản phẩm từ các xí nghiệp may trong công ty và các xí nghiệp liên doanh, sắp xếp theo khách hàng, mã hàng, đơn hàng, đóng hòm và vận chuyển lên container khi có lệnh giao hàng. -Đội xe: Làm nhiệm vụ vận chuyển phục vụ nhu cầu xuất nhập trong toàn công ty và các xí nghiệp liên doanh. Nhìn chung, do tính chất công việc của từng bộ phận khác nhau, nên nó có chức năng nhiệm vụ khác nhau, nhưng chúng đều có mối quan hệ khăng khít với nhau nhằm đáp ứng mục đích cuối cùng của Công ty là: đảm bảo cung cấp cho khách hàng sản phẩm có chất lượng cao, giao hàng đúng tiến độ và giá cả hợp lý. Kết cấu tổ chức sản xuất của Công ty được thể thiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 3.3: Kết cấu tổ chức sản xuất XN may 1 XN may 2 XN may 4 XN may 6 XN may 8 XN may 9 XN thêu XN giặt Hoàn thành Xưởng bao bì Ban cơ Ban điện Đội xe Kho Kho Kho nguyên liệu phụ liệu phụ tùng Bộ phận sản xuất chính Bộ phận sản xuất phụ Bộ phận phục vụ 4- Đặc điểm tổ chức quản lý của Công ty May Đức Giang Công ty May Đức Giang là một đơn vị hạch toán kinh tế, kinh doanh độc lập, để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, vấn đề tổ chức quản lý của Công ty được sắp xế, bố trí theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Trên có công ty và ban giám đốc công ty : lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp từng xí nghiệp, giúp cho ban giám đốc, các phòng ban chức năng và nghiệp vụ được tổ chức theo yêu cầu của việc quản lý kinh doanh chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban giám đốc. Trong đó, tổng giám đốc công ty là người đứng đầu bộ máy lãnh đạo của công ty, chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ bộ máy quản lý. Giúp việc cho tổng giám đốc gồm 3 phó tổng giám đốc, một kế toán trưởng và các trưởng phòng ban chức năng. Ban giám đoóc bao gồm: -Tổng giám đốc: Là người có trách nhiệm cao nhất về các mặt sản xuất kinh doanh của Công ty, là người chỉ đạo toàn bộ công ty theo chế độ thủ trưởng và đại diện cho trách nhiệm và quyền lợi của Công ty trước pháp luật. -Phó tổng giám đốc xuất nhập khẩu: Là người tham mưu giúp việc cho TGĐ, chịu trách nhiệm trước TGĐ về việc quan hệ, giao dịch với bạn hàng, các cơ quan quản lý hoạt động xuất - nhập khẩu, tổ chức triển khai nghiệp vụ xuất nhập khẩu, xin giấy phép xuất nhập khẩu, tham mưu kí kết các hợp đồng gia công. -PTGĐ kinh doanh: Tham mưu giúp việc cho TGĐ, chịu trách nhiệm trước TGĐ về việc tìm kiếm và thiết lập quan hệ với bạn hàng. Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. -PTGĐ kỹ thuật: Tham mưu giúp việc cho TGĐ, tổ chức nghiên cứu mẫu hàng về mặt kỹ thuật cũng như máy móc thiết bị bạn hàng đưa sang. Điều hành và giám sát hoạt động sản xuất trong toàn Công ty. Và các phòng ban chức năng của công ty bao gồm: -Phòng tài chính kế toán: Có nhiệm vụ ghi chép, tính toán tình hình hiện có và biến động của tài sản, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh dưới hình thức giá trị và hiện vật của Công ty. -Văn phòng tổng hợp: Quản lý hành chính, quản lý lao động, ban hành các qui chế, qui trình, văn bản, tổ chức cá hoạt động xã hội trong toàn Công ty... -Phòng kế hoạch đầu tư: có nhiệm vụ lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, quản lý thành phẩm, viết phiếu nhập, xuất kho, đưa ra các kế hoạch hoạt động đầu tư cho ban giám đốc. -Phòng kinh doanh và xuất nhập khẩu: có nhiệm vụ giao dịch các hoạt động XNK liên quan đến vật tư, hàng hoá, giao dịch ký kết hợp đồng xnk trong công ty với các đối tác nước ngoài. -Phòng kỹ thuật: có chức năng chỉ đạo kỹ thuật sản xuất dưới sự lãnh đạo của phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật, chọn lựa kỹ thuật hợp lý cho mỗi quy trình, kiểm tra áp dụng kỹ thuật vào sản xuất có hợp lý hay không, đề xuất ý kiến để tiết kiệm nguyên liệu mà vẫn đảm bảo yêu cầu sản xuất. -Phòng ISO: Có nhiệm vụ quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 (ISO 9002). -Phòng thời trang và kinh doanh nội địa: có nhiệm vụ nghiên cứu nhu cầu thị trường về thời trang, nghiên cứu thiết kế mẫu mã chào hàng FOB, xây dựng định mức tiêu hao nguyên phụ liệu cho từng mẫu chào hàng, quản lý các cửa hàng đại lý và cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty. Bên dưới còn có các các xí nghiệp thành viên. Theo trên, ta thấy Công ty May Đức Giang thực hiện mô hình tổ chức quản lý theo theo chế độ một thủ trưởng. Tổng giám đốc không phải giải quyết, điều hành các công việc, sự vụ hàng ngày và có điều kiện chỉ đạo tầm vĩ mô, nắm bắt cơ hội trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh và biến nó thành thời cơ hấp dẫn của Công ty, mở rộng quan hệ bạn hàng, tìm đối tác xây dựng phương án đầu tư. 5-Đặc điểm công tác kế toán của Công ty May Đức Giang Do đặc điểm về tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty là mô hình khép kín, để tổ chức phù hợp với yêu cầu quản lý bộ máy kế toán của Công ty may Đức Giang được tổ chức theo hình thức bộ máy kế toán tập trung. Toàn bộ công việc kế toán được thực hiện tập trung tại phòng kế toán, tại các đơn vị trực thuộc hạch toán báo cáo sổ không tổ chức bộ phận kế toán riêng.' Bộ phận kế toán của công ty gồm 18 người. 1. Kế toán trưởng: Chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về toàn bộ công tác kế toán tài chính của Công ty như công tác kế toán bộ máy kế toán gọn nhẹ phù hợp với tính chất sản xuất kinh doanh và yêu cầu tổ chức quản lý, lập đầy đủ và nộp đúng hạn các báo cáo tài chính, giám sát việc chấp hành chế độ bảo vệ tài sản, vật tư, tiền vốn của Công ty. 2. Phó phòng kế toán kiêm kế toán tổng hợp: Cuối quí ( tháng, năm) kế toán tổng hợp tập hợp số liệu tại phòng kế toán làm căn cứ để lập BCTC. 3. Kế toán tài sản cố định kiêm kế toán vật liệu, công cụ dụng cụ: Theo dõi hạch toán mua, thanh lý, khấu hao tài sản cố định và hạch toán nhập, xuất, tồn nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, tính toán phân bổ chi phí nguyên vật liệu. 4. Kế toán tiền mặt và thanh toán công nợ: Quản lý và hạch toán các khoản vốn vay bằng tiền, tiền vay, tiền gửi ngân hàng và quĩ tiền mặt. Chịu trách nhiệm về những vấn đề liên quan đến quá trình thanh toán với khách hàng như: phải thu của khách hàng, phải trả cho người bán. . .. 5- Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương: Kiểm tra các bảng lương của các xí nghiệp gửi lên và lập bảng tổng hợp tiền lương, phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương. 6- Kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả bán hàng: Theo dõi hạch toán kho thành phẩm, các cửa hàng giới thiệu sản phẩm và các đại lý, xác định kết quả tiêu thụ thành phẩm trong nước và tiêu thụ xuất khẩu. 7- Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm: Có nhiệm vụ tập hợp chi phí và tính giá thành cho từng loại sản phẩm của công ty căn cứ vào các chứng từ, sổ sách liên quan, là căn cứ cho việc xác định giá vốn hàng bán sau này 8- Thủ quỹ: Chịu trách nhiệm quản lý tiền mặt thu, chi tiền mặt vào sổ quĩ hàng tháng. Ngoài ra công ty còn có một kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra các công việc của kế toán giám sát việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kiểm tra việc chấp hành các nguyên tắc của chế độ kế toán. Cán bộ, nhân viên phòng kế toán của công ty may Đức Giang với 80% đã tốt nghiệp đại học và trên đại học được trang bị phương tiện, dụng cụ tính toán hiện đại giúp cho công tác tính toán chính xác, kịp thời đáp ứng yêu cầu thông tin kinh tế cho lãnh đạo công ty. Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại công ty may Đức Giang Kế toán trưởng Thủ quĩ Kế tiền mặt và thanh toán công nợ Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương Nhân viên KT tại các xí nghiệp Kế toán TSCĐ, vật liệu, công cụ dụng cụ Kế toán tiêu thụ thành phẩm và xđkq bán hàng KT phó kiêm Kế toán tổng hợp Kế toán tập hợp chi phí và tính Z sản phẩm Chế độ kế toán áp dụng tại công ty: Căn cứ theo điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước (ban hành kèm theo Nghị định 25-HĐBT ngày 18/3/1989 của Hội đồng bộ trưởng), Quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp và các văn bản pháp quy về kế toán và thống kê khác, chế độ kế toán được áp dụng tại công ty như sau: -Hình thức kế toán công ty sử dụng: Nhật ký chứng từ. -Niên độ kế toán công ty áp dụng là 1 năm từ 1/1 đến 31/12 kỳ hạch toán của c0ông ty là hàng quý. -Đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép kế toán: Đồng Việt Nam -Hệ thống tài khoản sử dụng áp dụng theo chế độ kế toán doanh nghiệp do Bộ tài chính ban hành. -Phương pháp kế toán tài sản cố định (TSCĐ): đánh giá TSCĐ theo nguyên giá và giá trị còn lại. Giá trị còn lại = Nguyên giá - Giá trị hao mòn -Về cơ bản hệ thống tài khoản, sổ sách và báo cáo tài chính của Công ty áp dụng theo đúng chế độ kế toán doanh nghiệp. -Công ty áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên cho hàng tồn kho và thực hiện đăng ký thuế theo phương pháp khấu trừ. II-thực trạng phân tích tài chính của công ty may đức giang 1-Phương pháp phân tích tài chính của công ty may Đức Giang 1.1-Chỉ số được sử dụng trong phân tích tài chính Tuỳ mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Hiện nay, hoạt động phân tích tài chính của công may Đức Giang đang sử dụng các chỉ tiêu sau: Thứ nhất là nhóm chỉ tiêu về bố trí cơ tài sản và cơ cấu nguồn vốn, công ty đang sử dụng các chỉ tiêu như sau -Bố trí cơ cấu tài sản +Tài sản cố định / Tổng số tài sản +Tài sản lưu động /Tổng số tài sản +Hệ số nợ = Nợ phải trả / Tổng tài sản -Bố trí cơ cấu nguồn vốn +Nợ phải trả / Tổng nguồn vốn +Nguồn vốn chủ sở hữu / Tổng nguồn vốn Thứ hai là nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán bao gồm các chỉ tiêu sau: -Khả năng thanh toán tổng quát = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn -Khả năng thanh toán nhanh = Tiền hiện có / Nợ ngắn hạn Thứ ba là nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi bao gồm các chỉ tiêu sau đây: -Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu +Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu +Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu -Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản +Tỷ suất lợi nhuận trứoc thuế trên tổng tài sản +Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản -Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên nguồn vốn chủ sở hữu 1.2-Phương pháp phân tích tài chính được sử dụng tại công ty may Đức Giang Phương pháp phân tích tài chính được thực hiện như sau: -Tính một số chỉ tiêu tài chính như các chỉ tiêu về cơ cấu vốn, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi. -So sánh các chỉ tiêu giữa năm ở thời điểm lập báo cáo và năm trước đó. Nhìn có vẻ thấy công ty sử dụng phương pháp tỷ số và phương pháp so sánh nhưng thực chất không sử dụng theo phương pháp nào. Bởi khi thực hiện phân tích, không đánh các chỉ tiêu, không nêu ý nghĩa của các chỉ tiêu cho không đưa ra được kết luận từ các chỉ tiêu phân tích, mặt khác so sánh số liệu các năm không tính tăng, giảm bao nhiêu, đưa ra các nguyên nhân đưa đến tình trạng đó. Kết thúc phân tích tài chính không đưa ra được các quyết định, Do đó có thể nói công ty may Đức Giang không có hoạt động phân tích tài chính . 13-Nguồn thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính Nguồn thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính của công ty may Đức Giang là nguồn thông tin nội bộ doanh nghiệp bao gồm: các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh. -Bảng cân đối kế toán: Là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát toàn diện, tình hình tài sản và nguồn vốn bằng thước đo tiền tệ ở một thời điểm nhất định. Bảng cân đối kế toán phải đảm bảo tính dễ hiểu, dễ so sánh, dễ phân tích. Sắp xếp theo tính lưu động giảm dần, đảm bảo sự đồng nhất trong từng loại từng nhóm, không được bù trừ giữa các khoản. Bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần: Một phần phản ánh tình hình tài sản và một phần phản ánh tình hình nguồn vốn. Trong mỗi phần ngoài cột chỉ tiêu còn có cột mã số, cột đầu năm và cột số cuối kỳ. Bảng cân đối kế toán có thể có kết cấu dọc hoặc ngang. Kết cấu bảng cân đối kế toán của công ty may Đức Giang: Bảng cân đối kế toán Tài sản Mã số Số đầu kỳ Số Cuối kỳ A-TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 100 I-Tiền 110 II-Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 120 III-Các khoản phải thu 130 IV-Hàng tồn kho 140 V-Tài sản lưu động khác 150 VI-Chi sự nghiệp 160 B-TSCĐ và đầu tư dài hạn 200 I-Tài sản cố định 210 II-Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 220 III-Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 230 IV-Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn 240 Tổng cộng tài sản 250 Nguồn vốn Mã số Số đầu kỳ Số cuối kỳ A-Nợ phải trả 300 I-Nợ ngắn hạn 310 II-Nợ dài hạn 320 III-Nợ khác 330 B-Nguồn vốn chủ sở hữu 400 I-nguồn vốn, quỹ 410 II-Nguồn kinh phí 420 Tổng cộng nguồn vốn 430 - Báo cáo kết quả kinh doanh: Là một báo cáo tài chính phản ánh tổng kinh doanh nhất định trong đó có chi tiết, kết quả của từng loại hoạt động. Kết cấu gồm ba phần: Phần lãi lỗ, phần tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và phần thuế VAT được khấu trừ. Kết cấu của báo cáo kết quả kinh doanh: Báo cáo kết quả kinh doanh Phần I-lãi, lỗ Chỉ tiêu Mã số Tổng doanh thu 1 Trong đó: doanh thu hàng xuất khẩu 2 Các khoản giảm trừ doanh thu 3 -Chiết khấu 4 -Hàng bán trả lại 5 -Giảm giá hàng bán 6 -Thuế tiêu thụ đặc biệt và xuất khẩu phải nộp 7 1-Doanh thu thuần (01 - 03) 10 2-Giá vốn hàng bán 11 3-Lợi nhuận gộp (10 - 11) 20 4-Chi phí bán hàng 21 5-Chi phí quản lý doanh nghiệp 22 6-Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh (20-( 21+22)) 30 -Thu nhập từ hoạt động tài chính 31 -Chi phí từ hoạt động tài chính 31 7-Lợi nhuận từ hoạt động tài chính (31 - 32) 40 -Các khoản thu nhập bất thường 41 -Chi phí bất thường 42 8-Lợi nhuận bất thường (41 - 42) 50 9-Tổng lợi nhuận trước thuế (30 + 40 + 50) 60 10-Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp 70 11-Lợi nhuận sau thuế (60 - 70) 80 Phần II-tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước -Thuyết minh báo cáo tài chính. 2-Đánh giá phương pháp phân tích tài chính của công ty may Đức Giang Trong xu hướng nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển hiện đại, doanh nghiệp luôn hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt thì phân tích tài chính ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết.Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến việc phân tích tài chính và công tình yêu may Đức Giang cũng là còn coi nhẹ công tác này. Về nhân lực: Để tiến hành công tác phân tích tài chính trước hết chúng ta cần phải có các nhà phân tích. Yếu tố này rất quan trọng, có thể nói nó quyết định đến hiệu quả công tác phân tích tài chính bởi vì trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhà phân tích quyết định đến chất lượng và mức độ đáng tin cậy của những kết luận cuối cùng của công tác phân tích. Tuy nhiên, tại công ty may Đức Giang thì công tác tài chính và kế toán được gộp chung vào làm một hình thành nên phòng tài chính-kế toán chứ chưa có một phòng tài chính riêng. Công tác phân tích tài chính do cán bộ phòng tài chính-kế toán đảm trách, chưa có cán bộ chyên môn phụ trách vấn đề này. Trong phòng tài chính kế toán số nhân viên là 18 người đều có chuyên môn nghiệp vụ kế toán, am hiểu về hoạt động công ty, nhân viên kế toán tổng hợp có trình độ, kiến thức về phân tích tài chính nhưng không chuyên sâu, và hoạt động phân tích tài chính được thực hiện rất hạn chế, không có nhân viên nào trong phòng đảm trách riêng công tác này. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là cán bộ công ty chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của phân tích tài chính, nên ít coi trọng đào tạo cán bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ phân tích cho nhân viên làm hạn chế chất lượng công tác phân tích. Về nguồn thông tin: Như phần lý luận đã đề cập, thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính từ hai nguồn là nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp và nguồn thông tin nội bộ doanh nghiệp. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp bao gồm các thông tin về sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học kỹ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế, môi trưòng cạnh tranh,.... Các thông tin bên ngoài giúp cho doanh nghiệp thấy được vị trí của doanh nghiệp trong ngành, trong nền kinh tế, thấy được cơ hội kinh doanh, phất triển,... Thông tin nội bộ doanh nghiệp đó là các thông tin về cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, tính chất sản phẩm, khả năng tài trợ, nguồn thông này là các thông tin kế toán như báo cáo tài chính doanh nghiệp và các thông tin hữu ích khác. Phân tích tài chính chủ yếu dựa vào các thông tin nội bộ doanh nghiệp. Do vậy, nguồn thông tin có xác thực, đầy đủ thì kết quả phân tích mới đáng tin cậy, hữu ích. Thông tin nội bộ chủ yếu lấy từ báo cáo tài chính. Tại công ty may Đức Giang, việc lập các báo cáo tài chính được nhân viên kế toán thực hiện theo quý, năm sau khi tập hợp các thông tin kế toán. Nói chung báo cáo tài chính dược lập theo từng quý mang tính chính xác, kịp thời giúp cho công tác phân tích tài chính. Tuy nhiên các khoản mục trên báo cáo kết quả kinh doanh chưa hợp lý như báo cáo kết quả kinh doanh của công ty may Đức Giang được lập theo mẫu quy định của bộ tài chính nên các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí tính cả VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, coi các khoản thuế này vừa là doanh thu, vừa là chi phí nhưng thực chất nó không phải là chi phí cũng không phải là doanh thu, đó chỉ là những khoản thuế thu hộ và nộp hộ nên không cần phản ánh vào báo cáo kết quả kinh doanh. Mặt khác, trong công tác phân tích tài chính, công ty may Đức Giang chưa chú trọng đến việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bảng tài trợ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng chi trả hay không. Do vậy cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường xác định trong thời gian ngắn hạn thông thường là từng tháng. Báo cáo ngân quỹ xác định hay dự báo dòng tiền thực nhập quỹ hay xuất quỹ từ các hoạt động của công ty. Trên cơ sở dòng tiền ra, vào mà nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ, từ đó xác định mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm đảm bảo khả năng chi trả, để tránh trường hợp ngân quỹ âm dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả trong thời gian dài dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Chính vì vậy, trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, báo cáo ngân quỹ có vai trò quan trọng, do đó công ty may Đức Giang khi thực hiện công tác phân tích tài chính nên lập báo cáo lưu chuyển để phân tích chỉ tiêu "dòng tiền dòng" (NCF). Còn bảng tài trợ thể hiện: các nghiệp vụ góp phần điều chỉnh cơ cấu tài sản, các khoản đầu tư đã thực hiện cũng như các khoản ngừng đầu tư, phương tiện tài trợ (nội bộ hay bên ngoài) đã được sử dụng. Nó cần là cơ sở để thiết lập bảng đầu tư và tài trợ, nhằm thị trườngậpp hợp các dự báo tài chính của doanh nghiệp và thể hiện chiến lược của doanh nghiệp. Bảng tài trợ cũng được sử dụng vào mục đích kiểm tra vì nó thể hiện việc thực hiện các nghiệp vụ trong niên độ. Nhưng hoạt động này sẽ được so sánh với dự báo kế hoạch đầu tư và tài trợ và các số liệu chênh lệch sẽ được giải thích. Bảng tài trợ giúp các nhà quản xác định rõ nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó. Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ sở hữu để hình thành đầu tư. Bảng tài trợ miêu tả các dòng tiền tệ về nguồn vốn và sử dụng vốn trong một thời kỳ. Đây cũng là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các tính toán dự báo. Công ty chưa có đầy đủ các thông tin về các tỷ lệ tham chiếu như chỉ tiêu trung bình ngành, chỉ tiêu của doanh nghiệp khác mà các chỉ tiêu này hết sức cần thiết cho công tác phân tích tài chính trong việc đưa ra các kết luận sau cùng khi phân tích bởi vì việc phân tích tài chính cần đặt doanh nghiệp trong mối tương quan với các doanh nghiệp khác. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp cùng ngành chưa thực hiện đầy đủ công tác phân tích tài chính, không tính toán đầy đủ các chỉ tiêu do đó không thể tính được chỉ tiêu trung bình ngành để làm chỉ tiêu tham chiếu. Đây cũng là một trong những đặc điểm chung của nền kinh tế Việt Nam. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp: Công ty may Đức Giang là một công ty may xuất khẩu, công ty còn bỏ qua nhiều thông tin về thị trường trong nước, thông tin về doanh nghiệp cùng ngành nên trong hoạt động phân tích đã không thấy sức cạnh tranh của mình và thị phần của Công ty trong nước. Do đó, các năm về trước, doanh nghiệp chỉ chú trọng đến hoạt động xuất khẩu mà gần như đã bỏ qua mảng thị trường trong nước song trong năm vừa qua doanh nghiệp đã khắc phục được thiếu sót này mà bắt đầu quan tâm đến thị trường trong nước. Về phương pháp phân tích tài chính: Theo lý luận có rất nhiều phương pháp phân tích được sử dụng tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp. Nhìn chung để phân tích hiệu quả doanh nghiệp cần sử dụng kết hợp nhiều phương pháp phân tích, tuy nhiên hoạt động phân tích tài chính của công ty may Đức Giang còn rất sơ sài và đơn giản, nhân viên thực hiện phân tích tài chính không theo những phương pháp thông thường như là phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh. Các tỷ số được tính toán nhưng chưa nêu được ý nghĩa, chưa lý giải nguyên nhân và đánh giá tình hình tài chính. Về nội dung phân tích tài chính: Công ty chưa thực hiện đầy đủ các nội dung phân tích, các chỉ tiêu, tỷ lệ tài chính đã được tính nhưng còn rất sơ sài, chưa chỉ ra được ý nghĩa, bản chất kinh tế của các chỉ tiêu tài chính, có thể nói hoạt động phân tích tài chính là chưa có, do đó chưa góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính. Nói chung các chỉ tiêu tính toán chỉ bó gọn trong phần thuyết minh báo cáo tài chính của báo cáo tài chính các năm, cụ thể gồm các chỉ tiêu sau: Bảng: Chỉ tiêu được sử dụng trong phân tích tài chính của công ty may Đức Giang Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 2002 I-Cơ cấu vốn -Tài sản cố định / Tổng tài sản % 48.31 24.68 34.37 26.76 -Tài sản lưu động / Tổng tài sản % 51.69 75.32 65.63 73.24 II-Tỷ suất lợi nhuận -Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu +Tỷ suất LNTT trên doanh thu % 5.02 6.21 4.19 2.90 + Tỷ suất LNST trên doanh thu % 3.42 3.90 2.85 2.05 -Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản +Tỷ suất LNTT trên tài sản % 7.51 7.75 4.50 3.25 +Tỷ suất LNST trên tài sản % 5.10 5.05 3.06 2.29 -Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 33.23 47.08 27.79 18.36 III-Tình hình tài chính -Hệ số nợ tổng tài sản % 73.46 79.55 81.16 87.5 -Khả năng thanh toán +Tổng quát: TSLĐ / Nợ ngắn hạn lần 284.48 315.39 322.65 232.7 +Nhanh: Tiền hiện có / Nợ ngắn hạn lần 38.30 37.18 12.35 10.88 (Trích báo cáo tài chính năm 1999, 2000, 2001, 2002) III-ứng dụng phân tích tài chính vào công ty may Đức Giang 1-Chỉ tiêu khả năng thanh toán Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của mình, các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn cần đến nguồn tài trợ khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện cho nhiều đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau. Với bất kỳ một đối tượng nào thì mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất khi cho vay là người cho vay sẽ xem xét xem doanh nghiệp có khả năng hoàn trả khoản vay không tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở mức độ nào. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ đồng thời thể hiện rõ nét chất lượng công tác tài chính.. Tại một thời điểm nếu doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán đó sẽ là dấu hiệu đầu tiên của khó khăn tài chính, còn nếu nghiêm trọng hơn có thể đưa doanh nghiệp đến phá sản. Vì vậy, khả năng thanh toán là một chỉ tiêu quan trọng trong phân tích tài chính doanh nghiêp, nó sẽ phản ánh rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó giúp cho doanh nghiệp tìm ra nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Khi phân tích nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán, công ty may Đức Giang sử dụng các chỉ tiêu sau: -Khả năng thanh toán tổng quát = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn -Khả năng thanh toán nhanh = Tiền hiện có / Nợ ngắn hạn Tỷ số khả năng thanh toán tổng quát là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Còn tỷ lệ thanh toán nhanh được tính theo công thức trên không có ý nghĩa kinh tế bởi vì tiền hiện có ở đây là tại một thời điểm nhất định, đây là khoản doanh nghiệp có thể sử dụng ngay mà không mất chi phí và thời giang chuyển đổi, mặt khác nợ ngắn hạn tại thời điểm lập báo cáo bao gồm cả nợ đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn, nên khi tính tỷ lệ thanh toán nhanh theo công thức trên thì khoản tiền hiện có tại thời điểm đó được tính sử dụng thanh toán cho cả những khoản nợ chưa đến hạn là không hợp lý. Do đó, khi ứng dụng phân tích chỉ tiêu khả năng thanh toán vào công ty may Đức Giang thì sử dụng các chỉ tiêu sau: -Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành = TSLĐ / Nợ ngắn hạn. Tỷ số này tương ứng với tỷ số khả năng thanh toán tổng quát trong phân tích của công ty may Đức Giang. Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành càng lớn thì doanh nghiệp được đánh giá có nhiều khả năng đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như bản chất ngành kinh doanh, kết cấu tài sản lưu động và hệ số quay vòng của một số loại tài sản lưu động.Trong nhiều trường hợp, tỷ số này phản ánh không chính xác khả năng thanh toán bởi trong tài sản lưu động có những khoản khó có thể chuyển đổi thành tiền như hàng tồn kho hay khoản phải thu. Do đó cần quan tâm tới tỷ số khả năng thanh toán nhanh và tỷ số khả năng thanh toán tức thời. -Tỷ số khả năng thanh toán nhanh = (TSLĐ - Dự trữ) / Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu về khả năng thanh toán hiện hành chưa bộc lộ hết khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Giả thiết rằng nếu tất cả các món nợ tới hạn đều yêu cầu được thanh toán ngay thì tài chính của doanh nghiệp có đáp ứng được không? Khả năng thanh toán nhanh sẽ trả lời được vấn đề này. Tỷ số khả năng thanh toán nhanh là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh là một tiêu chuẩn đánh giá khắt khe hơn về khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn so với tỷ lệ hiện hành. Tuy nhiên tỷ số này chưa phản ánh được khả năng thanh toán lập tức tại một thời điểm nhất định nên ta thực hiện phân tích thêm tỷ số khả năng thanh toán tức thời. -Khả năng thanh toán tức thời = Tiền / Nợ đến hạn Tiền là khoản tiền hiện có và tài sản tương đương tiền (như chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng...). Nợ đến hạn ở đây bao gồm các khoản nợ ngắn, trung và dài hạn đến hạn trả. Đây là tỷ lệ thể hiện chính xác khả năng thanh toán của doanh nghiệp vì nó loại bỏ tính không chắc chắn của các khoản phải thu cũng như khả năng chuyển đổi chậm thành tiền của dự trữ. Tỷ số này chỉ để tham khảo bởi nó thay đổi nhanh, độ chính xác tạo ra không cao bằng các tỷ số khác. Như vậy, việc phân tích khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp không những giúp cho người cho vay giảm thiểu rủi ro không đòi được nợ mà còn giúp bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế của mình để từ đó có biện pháp trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản một cách hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán. Song sử dụng các chỉ tiêu này cũng có một số hạn chế như cả tử số và mẫu số đều có thể thay đổi rất nhanh, do vậy chúng chỉ có giá trị nhất định khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tài chính lại diễn ra ở một thời điểm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nên tính chính xác cũng khó đảm bảo. Bảng: Chỉ tiêu khả năng thanh toán Stt Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 2002 1 Tài sản lưu động 1000đ 32750898 75639800 109659575 172628573 2 Tiền 1000đ 1422301 6831754 13018421 8071763 3 Dự trữ 1000đ 3047825 6831755 8430118 18144895 4 TSLĐ - Dự trữ 1000đ 29703073 68808045 101229457 154483678 5 Nợ đến hạn 1000đ 6 Nợ ngắn hạn 1000đ 11512557 23983187 33987297 74174583 7 Khả năng thanh toán hiện hành lần 2.845 3.154 3.226 2.327 8 Khả năng thanh toán nhanh lần 2.580 2.689 2.978 2.08 9 Khả năng thanh toán tức thời lần (Trích báo cáo tài chính các năm 1999, 2000, 2001, 2002) Từ các chỉ tiêu trên ta có thể thấy khả năng thanh toán của công ty may Đức Giang đến năm 2001là lành mạnh, các chỉ số tăng dần qua các năm. Nhưng dến năm 2002 thì khả năng thanh toán của công ty giảm. Biểu đồ: Khả năng thanh toán hiện hành Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành của công ty đến năm 2001tăng dần qua các năm được đánh giá là khá cao. Điều này chứng tỏ tài sản lưu động của doanh nghiệp có đủ khả năng trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn, được cải thiện qua các năm. Khả năng thanh toán hiện hành năm 1999 là 2.580, năm 2000 là 3.154, năm 2001 là 3.226. Điều này do TSLĐ tăng nhanh năm 2000 so với năm 1999 tăng 2.04 lần, năm 2001 so với năm 2000 tăng 1.524 lần. Trong khi đó nợ ngắn hạn tăng với tốc độ chậm hơn, năm 2000 tăng 1.08 lần, năm 2001 tăng 0.42 lần. Năm 2001, công ty chủ yếu tăng vốn bằng nợ dài hạn do công ty mở rộng đầu tư vào TSCĐ nên tăng nợ dài hạn thích hợp hơn. Trong TSLĐ, các khoản phải thu tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn năm 1999 là 85.33%, năm 2000 là 86.51%, năm 2001 là 79.85%, việc này gây ứ đọng vốn của công ty, đây là hiện tượng không hay song nó cũng là một trong những chính sách tín dụng để mở rộng thị trường. Tiền chiếm tỷ trọng thấp hiện nay cũng đã được điều chỉnh tăng dần lên, năm 1999 là 1.4 tỷ, năm 2000 là 5.2 tỷ tăng 3.8 tỷ tương ứng 2.7 lần, năm 2001 là 13 tỷ tăng 7.8 tỷ tương ứng 0.67 lần, lượng tiền tăng sẽ cải thiện khả năng thanh toán tức thời của công ty tại thời điểm phân tích. Năm 2002 khả năng thanh toán hiện hành của công ty giảm nhiều so với năm 2001, chỉ còn 2.327 lần do nguyên nhân tốc độ tăng của TSLĐ không nhanh bằng tốc độ tăng của nợ ngắn hạn. TSLĐ tăng 63 tỷ tương ứng 57.8% còn nợ ngắn hạn tăng 40.2 tỷ tương ứng 118.2%. TSLĐ tăng chủ yếu do khoản mục phải thu tăng 58.3 tỷ chiếm 92.5% lượng tăng của TSLĐ. Điều này do công ty mở rộng thu hút khách hàng, mở rộng thị trường. Khi khoản phải thu tăng, khoản tiền lại giảm việc này ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của công ty, làm tăng rủi ro. Biểu đồ: Khả năng thanh toán nhanh Tỷ số thanh toán nhanh của công ty cũng khá cao, năm 1999 là 2.580, năm 2000 là 2.689, năm 2001 là 2.978, sang 2002 lại giảm xuống còn 2.08 lần. Tỷ số này so với tỷ số thanh toán hiện hành nhỏ hơn không đáng kể vì trong TSLĐ dự trữ chiếm tỷ trọng nhỏ. Năm 2002, tỷ số khả năng thanh toán nhanh giảm do dự trữ tăng nhanh, năm 2001là 8.43 tỷ, năm 2002 là 18.14 tỷ tăng 9.71 tỷ tương đương 1.2 lần so với năm 2001. Khoản dự trữ tăng nên có thể do doang nghiệp năm 2001 đầu tư vào TSCĐ để mở rộng sản xuất đồng thời mức độ tiêu thụ sản phẩm chưa đạt hiệu quả cao. Nói chung, khả năng thanh toán của công ty may Đức Giang qua các năm là khá ổn định, có khả năng đảm bảo các khoản nợ tuy nhiên khoản phải thu của doanh nghiệp lớn doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn làm cho tốc độ quay vòng giảm, do vậy doanh nghiệp cần có biện pháp giảm bớt các khoản phải thu. 2-Khả năng cân đối vốn (cơ cấu vốn) Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn dùng để đo lường phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp. Các tỷ số này thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các khoản nợ. Hiện nay, trong phân tích cơ cấu vốn, công ty may Đức Giang đang sử dụng các chỉ tiêu sau: -Hệ số nợ = Nợ phải trả / Tổng tài sản -Cơ cấu tài sản cố định =Tài sản cố định / Tổng tài sản -Cơ cấu tài sản lưu động = Tài sản l0ưu động / Tổng tài sản Công ty may Đức Giang mới phân tích cơ cấu vốn theo 3 chỉ tiêu trên nên chỉ cho thấy kết cấu tài sản của doanh nghiệp và trong tổng số tài sản đó thì có bao nhiêu do nợ phải trả tài trợ hay nói cách khác hệ số nợ xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các khoản nợ, có nghĩa là các món nợ đến thời hạn trả mà doanh nghiệp không có đủ khả năng hoàn vốn thì chủ nợ được thanh toán bằng tài sản của doanh nghiệp. Đối với chủ nợ, đầu tiên họ quan tâm đến khả năng hoàn trả khoản vốn gốc, nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một khoản nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu cho nên họ quan tâm tỷ số vốn chủ trên tổng nguồn vốn. Mặt khác, khi cho vay thì chủ nợ cũng mong nhận được lãi cho nên họ cũng quan tâm đến khả năng trả lãi của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán lãi thì họ sẽ không đầu tư hay cho vay. Do đó khi phân tích cơ cấu vốn ngoài các tỷ số theo các công thức trên ta phân tích thêm tỷ số cơ cấu nguồn vốn và khả năng thanh toán lãi. Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi / Lãi vay Hệ số cơ cấu nguồn vốn = Vốn chủ sở hữu / Tổng nguồn vốn Bảng: Một số chỉ tiêu tài chính Đơn vị: 1000 đồng STT CHỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 1 Tài sản cố định 30604309 24757531 57434985 63058465 2 Tài sản lưu động 32750898 75639800 109659574 172628573 3 lãi vay 1799275 3856030 6599220 10751390 4 EBIT 22102219 30442628 30442616 42446802 5 Tổng nợ 38322500 62557284 135611041 206238652 6 Vốn chủ sở hữu 25032707 37840047 31483518 29448386 7 Tổng tài sản (NV) 63355208 100423871 167094566 235687038 8 Hệ số nợ 0.605 0.623 0.812 0.875 9 Khả năng thanh toán lãi vay 12.284 7.895 4.613 3.948 10 Cơ cấu tài sản cố định 0.483 0.247 0.344 0.268 11 Cơ cấu TSLĐ 0.517 0.753 0.656 0.732 12 Cơ cấu nguồn vốn 0.395 0.377 0.188 0.125 (Trích báo cáo tài chính 1999, 2000, 2001, 2002) Biểu đồ: Hệ số nợ Từ bảng tính về cơ cấu vốn của công ty may Đức Giang, ta thấy hệ số nợ có xu hướng gia tăng qua các năm. Giữa năm 1999 và năm 2000 có sự gia tăng không đáng kể nhưng từ năm 2000 sang năm 2001 tốc độ tăng hệ số nợ cao từ 0.623 lên 0.812, tăng 0.3 lần, và năm 2002 là 0.875 . Lý giải điều này: ta thấy tốc độ tăng của tổng nợ nhanh, năm 1999 là 38.3 tỷ, năm 2000 là 62.6 tỷ tăng 24.3 tỷ tương ứng 63 % so với năm 1999, năm 2001 là 135.6 tỷ tăng 73 tỷ tương ứng 117 % so với năm 2000, năm 2002 là 206.2 tỷ tăng 70.6 tỷ tương đương 52.1%. Trong đó, chủ yếu do nợ dài hạn tăng, năm 1999 là 24.8 tỷ, năm 2000 là 33.7 tỷ tăng 8.9 tỷ tương ứng 36 % so với 1999, năm 2001 là 96 tỷ tăng 62.2 tỷ tương ứng 184%, năm 2002 là 235.7 tỷ tăng 139.7 tỷ tương đương 145.5 %. Nợ dài hạn tăng nhanh vào năm 2001 và 2002 do doanh nghiệp đầu tư vào TSCĐ. Nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong tổng nợ và tăng mạnh vào năm 2002, năm 2001 là 34 tỷ, năm 2002 là 74 tỷ tăng 40 tỷ tương ứng 117.8%. Còn tài sản tăng với tốc độ chậm hơn: năm 2000 tăng 37 tỷ tương ứng 58% so với năm 1999, năm 2001 tăng 66.7 tỷ tương ứng 66% so với năm 2000, năm 2002 là 235.7 tỷ tăng 68.7 tỷ tương ứng 41.1%. Điều này do chính sách của công ty năm 2001 tăng nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho nhà xưởng, máy móc hình thành nên tài sản cố định của công ty. Do doanh nghiệp tăng nợ dài hạn để đầu tư vào TSCĐ nên nguồn đầu tư vào TSCĐ chủ yếu do nợ dài hạn mà ít sử dụng vốn chủ sở hữu để tài trợ. Biểu đồ: Khả năng thanh toán lãi vay Trong khi hệ số nợ tăng thì khả năng thanh toán lãi vay bị giảm khá nhanh, mặc dù khả năng thanh toán lãi vay vẫn cao, năm 1999 là 12.284, năm 2000 là 7.895 năm 2001 là 4.613, năm 2002 là 3.948 do tốc độ tăng của lợi nhuận trước thuế và lãi không nhanh bằng tốc độ tăng của các khoản nợ và lãi vay. Năm 1999 EBIT là 22.1 tỷ, năm 2000 EBIT là 30.4 tỷ tăng 8.3 tỷ tương ứng với 37.6%, năm 2001 là 30.4 tỷ không tăng so với năm 2000 đIũu anỳ do năm 2001 công ty đầu tư một lượng vốn vào TSCĐ mà chưa kịp thu hồi, năm 2002 là 42.4 tỷ tăng 12 tỷ tương đương 39.5%. Năm 1999, lãi vay là 1.8 tỷ, năm 2000 là 3.9 tỷ tăng 2.1 tỷ tương đương 117.2%, năm 2001 là 6.6 tỷ tăng 2.7 tỷ tương ứng với 69.2%, năm 2002 là 10.8 tỷ tăng 4.2 tỷ tương ứng 63.6%. Tốc độ lãi vay tăng nhanh do công ty tăng các khoản nợ để mở tộng quy mô. Cho dù EBIT tăng với tốc độ nhỏ hơn khi công ty mở rộng quy mô nhưng đến một mức độ nào đó công ty sẽ đạt được lợi nhuận tối ưu. Nhìn số liệu thấy khả năng thanh toán lãi vay cao, tình hình tài chính của công ty lành mạnh tuy nhiên đây cũng là dấu hiệu không tốt doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn khi vay nếu tỷ số này tiếp tục giảm nhanh trong các năm tới nên cần phải chú ý xem xét. Biểu đồ: Cơ cấu tài sản Công ty may Đức Giang là doanh nghiệp sản xuất thuộc ngành công nghiệp nhẹ do đó tỷ lệ TSLĐ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tài sản, cơ cấu tài sản không có xu hướng tăng giảm cố định mà nó thay đổi tuỳ theo chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp, cơ cấu tài sản có xu hướng tăng hệ số cơ cấu tài sản cố định và giảm hệ số tài sản lưu động. Tỷ số cơ cấu TSLĐ năm 1999 là 0.517, năm 2000 là 0.753, năm 2001 là 0.656, năm 2002 là 0.732. TSLĐ, năm 2000 tăng 42.8 tỷ tương ứng tăng 130%, năm 2001 tăng 34 tỷ tương ứng 44%, năm 2002 tăng 63 tỷ tương ứng 57.5%. Trong TSLĐ, khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trung bình trên 80%, đây cũng là loại tài sản có mức tăng lớn nhất, tỷ lệ dự trữ trong TSLĐ nhỏ. Điều này liên quan đến chính sách của công ty. Doanh nghiệp có thể dựa vào phương thức thanh toán chậm này để mở rộng quan hệ bạn hàng, tìm kiếm thị trường mới, tuy nhiên chính sách này khá nguy hiểm có thể gây mất khả năng thanh toán cho doanh nghiệp khi khách hàng không trả nợ. Còn TSCĐ, năm 2000 giảm mạnh từ 30.6 tỷ xuống còn 24.8 tỷ giảm 5.8 tỷ tương ứng giảm 19%. Năm 2001 TSCĐ là 57.5 tăng 32.7 tỷ tương ứng tăng132%. Điều này cho thấy có thể doanh nghiệp bắt đầu tập chung mở rộng sản xuất đầu tư thiết bị hiện đại, đây là việc đầu tư cho tương lai. Biểu đồ: Cơ cấu nguồn vốn Tỷ số cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp giảm, năm 1999 là 0.395 năm 2000 là 0.377, năm 2001 là 0.188. Do tổng nguồn vốn tăng nhanh qua các năm, năm 1999 là 63.4 tỷ, năm 2000 là 100.4 tỷ tăng 37 tỷ tương ứng 58.36% so với 1999, năm 2001 là 167.1 tỷ tăng 66.7 tỷ tương ứng 66.43%, năm 2002 là 235.7 tỷ tăng 86.6 tỷ tương ứng 51.9%. Ta thấy quy mô vốn phát triển không ngừng. Trong khi đó tốc độ tăng vốn chủ sở hữu chậm hơn so với tốc độ tăng tổng tài sản, vốn chủ sở hữu năm 1999 là 25 tỷ, năm 2000 là 37.8 tỷ tăng 12.8 tỷ tương ứng 51.2%, không những thế vốn chủ sở hữu năm 2001 là 31.5 tỷ giảm 6.3 tỷ tương ứng 16.67% so với năm 2000, năm 2002 giảm 1.7 tỷ tương ứng 5.6% . Nguồn vốn chủ sở hữu bị giảm do doanh nghiệp cắt giảm quỹ khen thưởng, và quỹ dự phòng tiền lương và chủ yếu tài trợ bằng nợ phải trả. 3-Khả năng hoạt động Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp, đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được dùng để tài trợ cho các loại tài sản khác nhau như tài sản lưu động, tài sản cố định. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này phản ánh toàn bộ tài sản, vốn liếng của doanh nghiệp đã được huy động và sử dụng để đem lại hiệu quả như thế nào bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong các tỷ lệ này nhằm tính tốc độ quay vòng của một số đại lượng tài chính cần thiết cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các tỷ lệ này cung cấp những thông tin cần thiết trong việc đánh giá mức độ cân bằng tài chính và khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH197.doc
Tài liệu liên quan