Chuyên đề Biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí

Tài liệu Chuyên đề Biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí: trường đại học kinh tế quốc dân khoa thương mại ˜ & ™ chuyên đề Thực tập tốt nghiệp Đề tài: biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện : Lớp : mục lục Lời nói đầu “Mở cửa hội nhập với bên ngoài, phát huy lợi thế của đất nước, tranh thủ vốn kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các quốc gia đi trước” đang là xu thế của thời đại, là chiến lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Trong chiến lược đó, hoạt động xuất khẩu được coi là một tác nhân liên kết giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, là đòn bẩy kinh tế đất nước và là động lực của quá trình mở cửa và hội nhập. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động trong cơ chế thị trường đầy sự cạnh tranh khốc liệt, chỉ có những doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh mới có thể tồn tại và phát triển, bởi sự cạnh tranh vượt ra ngo...

doc90 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 947 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường đại học kinh tế quốc dân khoa thương mại ˜ & ™ chuyên đề Thực tập tốt nghiệp Đề tài: biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện : Lớp : mục lục Lời nói đầu “Mở cửa hội nhập với bên ngoài, phát huy lợi thế của đất nước, tranh thủ vốn kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các quốc gia đi trước” đang là xu thế của thời đại, là chiến lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Trong chiến lược đó, hoạt động xuất khẩu được coi là một tác nhân liên kết giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, là đòn bẩy kinh tế đất nước và là động lực của quá trình mở cửa và hội nhập. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động trong cơ chế thị trường đầy sự cạnh tranh khốc liệt, chỉ có những doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh mới có thể tồn tại và phát triển, bởi sự cạnh tranh vượt ra ngoài phạm vi không gian của một quốc gia, sẽ phải đối mặt với hàng loạt các Công ty trong và ngoài nước trong cùng lĩnh vực. Quy luật khắc nghiệt đó bắt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao và đẩy mạnh hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình. Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí- MECANIMEX là một doanh nghiệp Nhà nước có chức năng xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí, các hàng hoá cho ngành công nghiệp nặng và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong gần 20 năm hoạt động, trước những thử thách và sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường trong nước và ngoài nước, Công ty vẫn đứng vững và thu được nhiều kết quả khả quan. Tuy vậy, để tiếp tục phát triển trong thời gian tới, Công ty cần phải phấn đấu không ngừng để ngày một hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu khách quan đối với đơn vị kinh doanh sản xuất và xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong thời đại mới, cùng với sự nghiên cứu thực tế trong thời gian thực tập tại Công ty MECANIMEX, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí –MECANIMEX”. Đề tài này nhằm mục đích trình bày vai trò hoạt động xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, trên cơ sở phân tích quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty MECANIMEX để tìm ra những ưu điểm cũng như một số mặt tồn tại cần khắc phục từ đó đề xuất một số biện pháp đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty. Phạm vi nghiên cứu là các hoạt động nghiệp vụ phát sinh trong quá trình kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Công ty. Các hoạt động này có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau nhưng mỗi hoạt động đều có tính độc lập tương đối. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình xây dựng đề tài là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh và phân tích kinh tế, kết hợp với các lý thuyết kinh tế và một số quan sát thu thập được trong thực tế để đi sâu phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty MECANIMEX. Kết cấu của đề tài gồm ba chương: Chương I: VAI TRò, NộI DUNG Và những NHÂN Tố ảNH Hưởng tới hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Chương ii: Phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu của ty MECANIMEX. Chương III: Biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty MECANIMEX. Chương I VAI TRò, NộI DUNG Và những NHÂN Tố ảNH Hưởng tới hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. I. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu hàng hoá. 1. Khái niệm. Năm 1826 một tác giả thuộc trường phái chủ nghĩa trọng thương Anh Thomat Man (1571- 1641) Đã phát biểu: “ Thương mại chính là hòn đá thử vàng với sự phồn vinh của một quốc gia, các nước phát triển buôn bán với nước ngoài”. Chủ nghĩa trọng thương cho rằng: “ Xuất khẳu chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt hại cho bên kia, dân tộc này làm giàu bằng cách hi sinh lợi ích cho dân tộc kia”. Một số tác giả khác lại cho rằng: “Xuất nhập khẩu chính là mở rộng của hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ ra khỏi phạm vi biên giới”. Ngày nay, xuất khẩu được hiểu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây phải là ngoại tệ đối với một bên hoặc đối với cả hai bên. 2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế mở. 2.1. Xuất khẩu tạo ra doanh thu và lợi nhuận đảm bảo qúa trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, một yêu cầu đặt ra đầu tiên đối với doanh nghiệp đó là kinh doanh phải có thu bù chi và đảm bảo có lãi. Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động xuất khẩu được coi là nền tảng cơ bản để doanh nghiệp thu hồi vốn và tìm kiếm lợi nhuận. Chỉ có xuất khẩu được hàng hoá doanh nghiệp mới có doanh thu, có lợi nhuận. Khoản thu nhập này lại được doanh nghiệp tiếp tục đầu tư cho một thương vụ kinh doanh mới hay nói cách khác, một chu kỳ kinh doanh lại được bắt đầu. Như vậy, xét trong một qúa trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại thì hoạt động xuất khẩu mà thực chất là hoạt động bán hàng của doanh nghiệp là khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh, là khâu tạo ra doanh thu và lợi nhuận và cũng là khâu quyết định cho quá trình tái sản xuất kinh doanh tiếp theo. 2.2. Xuất khẩu phát huy tính năng động tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Xuất phát từ thực tế khách quan của hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá đó là: - Môi trường kinh doanh luôn biến động và có nhiều lực lượng cạnh tranh ở nhiều quốc gia khác nhau. - Các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá rất phức tạp, có liên quan và ảnh hưởng rất lớn lẫn nhau. - Hoạt động xuất khẩu hàng hoá chịu ảnh hưởng rất lớn từ những biến động của thị trường tài chính thế giới. Vì vậy, một doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu, ngoài việc nghiên cứu kỹ thị trường hàng hoá kinh doanh còn phải nghiên cứu kỹ thị trường tài chính, phải có những kế hoạch dự phòng nhằm đối phó với những biến động tài chính bất thường xảy ra. Từ thực tế khách quan như vậy, hoạt động xuất khẩu hàng hoá là nhân tố kích thích doanh nghiệp thương mại khi tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu phải phát huy cao độ tính năng động và tự chủ trong kinh doanh. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp thương mại phải luôn thích nghi với những biến động của môi trường kinh doanh, vận dụng một cách sáng tạo nhất các phương pháp kinh doanh, nghệ thuật kinh doanh. 2.3. Xuất khẩu hàng hoá tạo cơ hội liên doanh liên kết kinh tế với nước ngoài nhằm thu hút vốn, khoa học - công nghệ và trình độ quản lý. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá có vai trò mở rộng mối quan hệ làm ăn hợp tác kinh tế giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế ngoài nước, nâng cao uy tín của doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Điều này là cơ sở thuận lợi cho phép doanh nghiệp tăng cường quan hệ liên doanh liên kết với đối tác nước ngoài nhằm thu hút được vốn, khoa học - công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến. 2.4. Xuất khẩu hàng hoá có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và trình độ quản lý ở doanh nghiệp thương mại. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị trường đầy rẫy những sự cạnh tranh quyết liệt. Để tồn tại và phát triển, một mặt các doanh nghiệp thương mại phải tìm kiếm những nguồn hàng có phẩm chất cao, có giá cả cạnh tranh, mặt khác bản thân doanh nghiệp phải có một hệ thống trang thiết bị hiện đại cũng như phải có một trình độ quản lý khoa học tiên tiến. Xuất phát từ yêu cầu khách quan đặt ra các doanh nghiệp thương mại luôn phải đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ cho hoạt động xuất khẩu đặc biệt là thiết bị bảo quản và vận chuyển hàng hoá, thiết bị thu thập và xử lý thông tin, luôn phải đổi mới phương thức quản lý phù hợp với sự phát triển của thị trường quốc tế. 2.5. Đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động. Đối với doanh nghiệp thương mại dù là hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu hay chuyên doanh xuất khẩu thì hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động chủ yếu đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động của doanh nghiệp. Không những thế, với việc triển khai mở rộng thị trường tiêu thu hàng hoá, mở rộng mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu đã thu hút hàng ngàn lao động, tạo thu nhập và nâng cao đời sống cho họ. Đây không chỉ là lợi ích của doanh nghiệp mà còn làm lợi cho xã hội nhất là trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay. II. Hình thức và nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Các hình thức xuất khẩu hàng hoá. 1.1.Xuất khẩu trực tiếp: Xuất khẩu trực tiếp là hình thức các đơn vị kinh doanh quốc tế đặt mua sản phẩm của các đơn vị trong nước. Sau đó xuất khẩu những sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa của chính mình. Các bước tiến hành: - Ký hợp đồng nội, mua và trả tiền hàng cho Công ty. - Ký hợp đồng ngoại, giao hàng và thanh toán tiền hàng với bên nước ngoài. Ưu điểm của hình thức này là: Lợi nhuận mà công ty kinh doanh xuất khẩu nhận được thường cao hơn các hình thức khác. Công ty đứng ra với vai trò là người bán trực tiếp. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi Công ty phải có lượng vốn khá lớn ứng trước để mua hàng, đặc biệt trong trường hợp hợp đồng có giá trị lớn. Ngoài ra loại hình xuất khẩu này thường có rủi ro lớn như: Hàng kém chất lượng, sai qui cách phẩm chất dẫn đến không xuất khẩu được hoặc là bị khiếu nại do thanh toán chậm, do đơn vị sản xuất gặp khó khăn, do thiên tai mất mùa... Nên khi ký hợp đồng xong không có hàng để xuất, hoặc do trượt giá đồng tiền, do lãi xuất ngân hàng thay đổi. 1.2. Xuất khẩu gia công: Theo hình thức này, Công ty đứng ra nhập hàng hóa hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm bán lại cho bên nước ngoài. Công ty được hưởng phần trăm phí ủy thác gia công, phí này được thỏa thuận trước với xí nghiệp trong nước. Các bước tiến hành: - Ký hợp đồng ủy thác với các đơn vị trong nước. - Ký hợp đồng gia công với nước ngoài, nhập nguyên liệu. - Giao nguyên liệu gia công ( Định mức đã thỏa thuận gián tiếp giữa đơn vị sản xuất trong nước với bên nước ngoài) - Thanh toán phí gia công cho đơn vị sản xuất ( bên nước ngoài trả) và được hưởng phí gia công ủy thác. Ưu điểm của hình thức này là không phải bỏ vốn vào kinh doanh, rủi ro ít, thanh toán khá đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên đòi hỏi phải làm nhiều thủ tục nhập và xuất, cán bộ kinh doanh phải có nhiều kinh nghiệm về nghiệp vụ này để giám sát quá trình gia công. 1.3. Xuất khẩu ủy thác: Công ty đứng ra với vai trò là người trung gian xuất khẩu làm thay cho đơn vị sản xuất ( bên có hàng) những thủ tục cần thiết để xuất hàng và hưởng phần trăm phí ủy thác tùy theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thỏa thuận. Các bước tiến hành: Ký hợp đồng xuất khẩu ngoại với khách hàng nước ngoài. Ký hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với đơn vị (trong nước) có hàng xuất khẩu. Khách hàng nước ngoài mở L/C. Thuê tàu biển (nếu xuất khẩu theo giá CFR hoặc CIF) và đăng ký tàu (nếu xuất khẩu theo giá FOB). Làm thủ tục hải quan. Xin chứng nhận xuất xứ (C/O). Liên hệ với hãng tàu để làm vận đơn (B/L) theo L/C. Lập chứng từ thanh toán ngoại gửi ngân hàng: Khi nhận được tiền của Ngân hàng thì làm biên bản thanh lý hợp đồng xuất khẩu uỷ thác Ưu điểm của hình thức này là: Mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt không cần huy động vốn để mua hàng. Tuy hưởng phí ít nhưng nhận tiền nhanh, cần ít thủ tục và tương đối tin cậy. Với hình thức này một vấn đề đặt ra đối với Công ty nhận uỷ thác là khẳ năng thông hiểu các thủ tục cũng như các văn bản, chính sách liên quan đến hoạt động xuất khẩu uỷ thác. 1.4. Buôn bán đối lưu: Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hóa trao đổi có giá trị tương đương. Hình thức xuất khẩu này không phải nhằm mục đích thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hóa có giá trị tương đương. 1.5. Tái xuất khẩu: Tái xuất khẩu là việc xuất khẩu sang một nước thứ ba những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu nhưng chưa qua các hoạt động chế biến. Chủ thể tham gia hoạt động tái xuất khẩu ít nhất phải có từ ba quốc gia trở lên đó là: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất khẩu. Hàng hoá có thể đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu (gọi là chuyển khẩu), hoặc từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất khẩu sau đó mới tới nước nhập khẩu (gọi là tái xuất khẩu theo đúng nghĩa của nó). Nước tái xuất khẩu sẽ trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền từ nước nhập khẩu. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức xuất khẩu. Trong trường hợp thực hiện thanh toán ngay với nước nhập khẩu và trả chậm nước xuất khẩu thì nước tái xuất khẩu còn thu được thêm một khoản lợi do việc chiếm dụng vốn. Nhược điểm của tái xuất khẩu là đòi hỏi trình độ nghiệp vụ của cán bộ xuất khẩu cao, phải có sự nhạy bén về tình hình thị trường, giá cả và có sự hiểu biết cặn kẽ về các hợp đồng mua bán ngoại thương. 1.6. Xuất khẩu tại chỗ: Đây là hình thức kinh doanh mới nhưng đang được phổ biến rộng rãi. Đặc điểm của loại hình này là hàng hoá không qua biên giới quốc gia mà đến tay khách hàng nước ngoài ngay tại nước xuất khẩu. Do vậy không nhất thiết phải có các hợp đồng phụ trợ như hợp đồng vận tải, hợp đồng bảo hiểm, các thủ tục hải quan. Hiện nay, số lượng khách hàng đi lu lịch nước ngoài ngày càng nhiều. Đây là một cơ hội cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động cung cấp hàng hoá và dịch vụ để thu ngoại tệ. Nếu tận dụng được phương thức xuất khẩu này doanh nghiệp có thể tiết kiệm được rất nhiều chi phí như chi phí đi lại, ăn ở để tìm hiểu thị trường, độ rủi ro thấp hơn nhiều vì môi trường kinh doanh hoàn toàn quen thuộc. Sản phẩm đến ngay với người sử dụng nên doanh nghiệp có thể biết ngay được kết quả của những hoạt động mà mình đã tiến hành. Xuất khẩu tại chỗ là hình thức đang được các quốc gia đặc biệt là các nước có tiềm năng về du lịch khai thác và đã thu được những kết quả đáng kể, hình thức này giảm bớt được nhiều khâu trung gian, doanh lợi lớn và nguồn vốn thu hồi nhanh. Nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa: Hoạt động xuất khẩu hàng hóa phải trải qua rất nhiều công đoạn, mỗi đoạn đều có mối liên hệ mật thiết hữu cơ với nhau. ở mỗi khâu đều đòi hỏi nhà xuất khẩu phải thực hiện một cách chính xác, thận trọng, và vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các nghiệp vụ ứng với từng khâu, từng công đoạn đó. Tùy theo các hình thức xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như cách thức tiến hành có những nét đặc trưng riêng. Song thông thường nội dung của hoạt đông kinh doanh xuất khẩu hàng hóa về cơ bản bao gồm: Nghiên cứu thị trường; lập phương án kinh doanh; triển khai thực hiện phương án kinh doanh và đánh giá hiệu quả của việc thực hiện phương án kinh doanh. 2.1. Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một doanh nghiệp nào khi bắt đầu tham gia vào hoạt động kinh doanh. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh và cũng là mấu chốt cho sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình nghiên cứu thị trường thực chất là quá trình thu thập những thông tin về thị trường. Tổng hợp so sánh, phân tích và đánh giá những số liệu đó để rút ra kết luận. Những kết kuận này là cơ sở để xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích của hoạt động nghiên cứu thị trường là phải trả lời được một số câu hỏi sau: - Xuất khẩu mặt hàng nào vào thị trường nào có triển vọng nhất đối với sản phẩm đó ? - Khả năng bán ra (dung lượng thị trường đó) là bao nhiêu ? - Sự biến động của giá cả hàng hóa đó trên thị trường như thế nào ? - Đối tác giao dịch là ai? Khả năng tài chính, khả năng thanh toán của họ như thế nào? - Sử dụng phương pháp giao dịch nào là phù hợp nhất, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất ? Về mặt phương pháp luận để nghiên cứu thị trường người ta có 2 phương pháp sau: Phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. + Nghiên cứu tại bàn: Chính là việc thu thập thông tin từ nguồn tư liệu xuất bản hay không xuất bản và tìm nguồn đó. Chìa khóa thành công của phương pháp này là phát hiện ra các nguồn thông tin và khai thác triệt để nguồn thông tin đó. Nghiên cứu tại bàn cho phép ta nhìn được khái quát thị trường mặt hàng cần nghiên cứu. Tuy nhiên phương pháp này có hạn chế là dựa vào tài liệu đã được xuất bản nên thời gian đã qua, có thể có độ trễ so với thực tế. + Nghiên cứu tại hiện trường: Chính là việc thu thâp thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường có thể thu thập được các thông tin sinh động, thực tế, hiện tại. Tuy nhiên cũng tốn kém chi phí và cần phải có cán bộ vững về chuyên môn và khả năng nắm bắt thực tế tốt. 2.2. Lập phương án kinh doanh: Trên cơ cở kết quả đạt được từ hoạt động nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp cần tiến hành xây dựng các phương án kinh doanh và lựa chọn một phương án được đánh giá là phù hợp nhất và đem lại hiệu quả cao nhất. Xét về mặt hình thức, phương án kinh doanh là một tập hồ sơ trình bày một cách chi tiết và có hệ thống, tính vững chắc, thực hiện phương án kinh doanh theo các khía cạnh thị trường, kỹ thuật tài chính và tổ chức quản lý. Những nội dung cơ bản của một phương án kinh doanh bao gồm: - Khối lượng và chủng loại hàng hóa sẽ đưa vào kinh doanh, các nguồn cung cấp loại hàng đó. - Thị trường xuất khẩu hàng hóa và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về giá cả, chất lượng và sự phụ thuộc về cung ứng hàng hóa, khả năng tài chính, quản lý và kỹ thuật. - Các quy định của thị trường xuất khẩu về bao bì, phẩm chất và vệ sinh. - Cơ cấu quản lý gồm những bộ phận nào? Sử dụng phương pháp tính toán nào? - Đánh giá hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp sẽ thu được khi triển khai thực hiện phương án kinh doanh. 2.3. Triển khai thực hiện phương án kinh doanh.s Triển khai thực hiện phương án kinh doanh thực chất là việc thực hiện, thi hành các nghiệp vụ liên quan đến quá trình xuất khẩu. Các nghiệp vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau và hợp các nghiệp vụ sẽ tạo ra một thương vụ xuất khẩu. Các nghiệp vụ này bao gồm: 2.3.1. Tạo nguồn hàng xuất khẩu Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hóa của một công ty, một địa phương, một vùng hoặc quốc gia có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất khẩu được, nghĩa là nguồn hàng xuất khẩu phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Các hình thức đã và đang diễn ra hiện nay trong hoạt động thu mua và tạo nguồn hàng cho xuất khẩu ở các doanh nghiệp thương mại gồm: - Thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua các đại lý để làm công tác thu mua hàng. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Nội dung của công tác thu mua và tạo nguồn hàng xuất khẩu bao gồm: - Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu - Tổ chức hệ thống thu mua hàng xuất khẩu. - Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. - Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu. - Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu. 2.3.2. Giao dịch - đàm phán - ký kết hợp đồng. Giao dịch: Trên thị trường thế giới đang tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm và kỹ thuật tiến hành riêng. Căn cứ vào mặt hàng xuất khẩu, đối tượng và thời gian giao dịch, năng lực của người giao dịch mà doanh nghiệp chọn phương thức giao dịch phù hợp. Các hình thức giao dịch cơ bản gồm: giao dịch trực tiếp; giao dịch qua trung gian; buôn bán đối lưu; đấu giá quốc tế; giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa; giao dịch tại hội chợ triển lãm. Đàm phán: Đàm phán chính là việc các bên bàn bạc trao đổi với nhau về các điều kiện mua bán để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Các hình thức đàm phán thường được sử dụng hiện nay là: Đàm phán bằng cách gặp mặt trực tiếp; đàm phán qua thư; điện thoại; fax; hay mạng Internet. Ký kết hợp đồng: Thực chất đó là kết quả cuối cùng của quá trình giao dịch, đàm phán giữa các bên ký kết hợp đồng, là hành vi tự nguyện của cả hai bên ràng buộc quyền và nghĩa vụ của họ với nhau, nói cách khác hành vi này sẽ làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý ở mỗi bên. Tính hiệu lực của hợp đồng được tính từ thời điểm các bên ký vào văn bản hoặc từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thỏa thuận về tất cả những điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Nội dung các điều khoản thường có ở một hợp đồng xuất khẩu hàng hóa gồm: - Ngày tháng năm ký hợp đồng, tên, địa chỉ, số tài khoản ngân hàng và ngân hàng giao dịch của các bên; họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh. - Tên hàng. - Điều kiện phẩm chất và quy cách xác định. - Điều kiện về số lượng và cách xác định. - Điều khoản giao hàng. - Điều khoản giá cả, đơn giá, tổng hàng. - Điều kiện cơ sở giao hàng. - Điều khoản thanh toán tiền trả. - Điều khoản bao bì ký mã hiệu. - Điều khoản về kiểm tra giám định hàng hóa xuất khẩu. - Điều khoản về bồi thường thiệt hại. - Điều kiện bất khả kháng. - Khiếu lại trọng tài. - Những quy định khác 2.3.3. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Thực hiện hợp dồng xuất khẩu bao gồm nhiều nghiệp vụ cấu thành, độc lập tương đối với nhau nhưng có ảnh hưởng đến nhau. Quá trình thực hiện hợp đồng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nội dung, trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm: - Xin giấy phép xuất khẩu - Kiểm tra L/C. - Chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu. - Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu. - Thuê tàu. - Làm thủ tục hải quan. - Giao hàng lên tàu. - Mua bảo hiểm. - Làm thủ tục thanh toán . - Khiếu nại trọng tài 2.4. Đánh giá hiệu quả của việc thực hiện phương án kinh doanh xuất khẩu: Đánh giá hiệu quả của việc thực hiện phản ánh kinh doanh xuất khẩu thực chất là đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Đây là công tác cuối cùng của một quá trình kinh doanh xuất khẩu, quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Một số chỉ tiêu cơ bản thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở doanh nghiệp thương mại bao gồm: - Lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu: chỉ tiêu này được xác định trên cơ sở lấy số hiệu giữa thu nhập từ hoạt động xuất khẩu với chi phí phải bỏ ra để thực hiện hoạt động đó. - Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu: với công thức: Kết quả thu được từ hợp đồng kinh doanh xuất khẩu Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu = Chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt đông xuất khẩu - Mức doanh lợi vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh số tiền lãi thu được trên một đồng vốn cố định hoặc số vốn cần thiết để tạo ra một đồng lợi nhuận. Công thức tính: Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện Mức doanh lợi của vốn cố định = Vốn cố định bình quân - Mức doanh lợi vốn lưu động: phản ánh số tiền lãi thu được trên một đồng vốn lưu động. Công thức. Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện Mức doanh lợi của vốn lưu động = Vốn lưu dộng bình quân Hiệu quả sử dụng chi phí xuất khẩu: phản ánh doanh thu đạt được khi bỏ ra một phần chi phí. Công thức tính: Doanh thu từ xuất khẩu Hiệu quả sử dụng chi phí xuất khẩu = Chi phí cho xuất khẩu - Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu: là lượng bản tệ phải chi ra để có được một đơn vị ngoại tệ. Công thức tính: Fx Kxh = Tx Kxh: là tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu Fx : là chi phí bằng nội tệ cho hàng xuất khẩu. Tx : là số ngoại tệ thu được khi bán hàng Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác cũng được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp như: - Phần trăm thiệt hại rủi ro trong kinh doanh được hạn chế và khắc phục - Thị phần của doanh nghiệp được mở rộng, uy tín của doanh nghiệp được nâng lên. - Chỉ tiêu phản ánh mức độ áp dụng nhu cầu thị trường của doanh nghiệp III. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa và khả năng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa 1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp: Mỗi một chủ thể hoạt động trong xã hội đều phải chịu sự tác động, chi phối bởi các nhân tố thuộc môi trường xung quanh nó. Các nhân tố này luôn vận động biến đổi và đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ thể. Trong kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng, các doanh nghiệp đều bị tác động rất lớn bởi các nhân tố của môi trường bên ngoài. Sự ảnh hưởng này nằm ngoài tầm kiểm soát của pháp luật, buộc doanh nghiệp phải tự điều chỉnh sao cho thích nghi với những ảnh hưởng đó. Các nhân tố này bao gồm: 1.1. Nhân tố về chính trị và luật pháp: Mỗi quốc gia đều thiết lập một hệ thống chính trị và một hệ thống luật pháp mang những nét đặc thù riêng của giai cấp thống trị ở quốc gia đó. Hệ thống chính trị và hệ thống luật pháp được sử dụng để điều chỉnh mọi hành vi, mọi hoạt động của xã hội theo ý trí của giai cấp thống trị. Đối với doanh nghiệp, đây là yếu tố nằm ngoài sự điều chỉnh, sự kiểm soát của họ. Doanh nghiệp chỉ có thể điều chỉnh những hoạt động của mình sao cho phù hợp với sự vận động của yếu tố này. Sự tác động của yếu tố chính trị, luật pháp tới quá trình kinh doanh của doanh nghiệp thông qua những quy định của luật pháp, các chế tài của các quy phạm pháp luật. Nói cách khác, sự tác động của nó được thể hiện thông qua việc thiết lập một hành lang pháp lý cho phép doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ hành lang đó. Đây là yếu tố rất quan trọng không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà còn cả đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 1.2. Nhân tố kinh tế: Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, yếu tố kinh tế bao gồm cả kinh tế trong nước và kinh tế thế giới. Yếu tố này bao hàm những nội dung sau: - Tình trạng tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. - Cơ cấu thu nhập và tiêu dùng của dân cư - Cung, cầu cạnh tranh trên thị trường. Các nhân tố kể trên luôn vận động và tác động đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những tác động này ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đến quá trình thực hiện chiến lược và đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh 1.3.Nhân tố địa lý: Địa lý tức là những nghiên cứu về bề mặt trái đất, khí hậu, đất, nước, con người, tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố môi trường không thể kiểm soát được đối với các doanh nghiệp. Khí hậu và địa hình là những yếu tố quan trọng nhất của địa lý. Ngoài ra, cộng thêm các tài nguyên thiên nhiên và dân cư cùng các tuyến thương mại quốc tế hợp thành những yếu tố của thị trường thế giới. Như là một yếu tố địa lý, thực thể địa hình, địa vật của một nước là những vấn đề môi trường kinh doanh quan trọng cần phải lưu tâm đến khi xem xét, đánh giá một thị trường. Các đặc điểm địa lý có ảnh hưởng tất yếu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự ảnh hưởng này có thể biểu hiện như: độ cao so với mặt biển, độ ẩm, nhiệt độ, sẽ ảnh hưởng đến sự thích nghi hay sử dụng sản phẩm như thế nào. Sản phẩm nào đó sử dụng tốt, thích hợp ở thị trường này không có nghĩa là nó sẽ sử dụng tốt ở thị trường khác. Ngay cả khi thị trường của một nước, sản phẩm cũng cần phải có sự điều chỉnh cho thích nghi với các vùng khí hậu khác nhau. 1.4. Nhân tố văn hóa: Văn hóa là di sản được thừa kế từ cha ông qua các quá trình lịch sử, là tổng thể những hiểu biết về phong tục tập quán, về trí tuệ và vật chất. Văn hóa sẽ quyết định cách mua hàng như việc ưu tiên cho nhu cầu muốn được thỏa mãn và cách thỏa mãn của con người sống trong đó. Chính vì văn hóa là yếu tố chi phối đời sống của con người cho nên nó ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại. Theo như các nhà MARKETING, yếu tố văn hóa bao gồm: - Yếu tố văn hóa vật chất gồm: công nghệ và kinh tế - Yếu tố tổng thể xã hội: tổ chức xã hội, giáo dục, cơ cấu chính trị. - Yếu tố quan niệm của con người với vũ trụ: tín ngưỡng, tôn giáo. - Yếu tố thẩm mỹ: nghệ thuật, âm nhạc. - Yếu tố ngôn ngữ. Năm yếu tố kể trên được đánh giá là những yếu tố cơ bản tác động mạnh đến các quá trình của hoạt động kinh doanh xuất khẩu như: họat động giao dịch; hoạt động đàm phán; ký kết hợp đồng; định giá ; xúc tiến bán hàng; hoạt động đóng gói bao bì; kiểu dáng sản phẩm... Các yếu tố này buộc doanh nghiệp phải có phản ứng hoàn toàn tự giác để phù hợp với thị trường mà tại đó một nền văn hóa đang ngự trị. 2. Các nhân tố nội tại doanh nghiệp Đây là nhóm các yếu tố nằm trong sự kiểm soát của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể điều chỉnh chúng theo ý đồ chủ quan của mình sao cho phù hợp với môi trường bên ngoài và khả năng của mình. Nhóm nhân tố này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa, khả năng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp. Các nhân tố cơ bản bao gồm: 2.1. Vốn kinh doanh Vốn kinh doanh là điều kiện đầu tiên đảm bảo cho quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Đối với một doanh nghiệp, vốn được chia làm vốn cố định và vốn lưu động. Vốn nầy được hình thành từ các chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các cổ đông và từ phần lợi tức của doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh, khả năng mở rộng thị trường; đến công tác thu mua tạo nguồn hàng, dự trữ hàng hóa ở doanh nghiệp thương mại. Việc kiểm soát vốn được doanh nghiệp thực hiện thông qua các kế hoạch được sử dụng và huy động vốn, bao gồm cả kế hoạch sử dụng vốn cố định và vốn lưu động, kế hoạch huy dộng vốn từ chủ sở hữu lẫn vốn chiếm dụng sao cho đảm bảo sự cân đối giữa nhu cầu về vốn với nguồn tài trợ, giữa nhu cầu về vốn với quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2. Bộ máy quản lý và trình độ quản lý. Bộ máy quản lý của doanh nghiệp là tổng hợp các bộ phận khác nhau, có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung đã xác định của doanh nghiệp. Như vậy bộ máy quản lý được coi là trung tâm đầu não của doanh nghiệp, là nơi trực tiếp tạo ra những thông tin điều khiển mọi hoạt động của doanh nghiệp nhằm đưa doanh nghiệp tiến tới mục đích đề ra. ở doanh nghiệp thương mại bộ máy quản lý tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu cũng như ảnh hưởng đến khả năng đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, thực chất của sự ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh hay khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của bộ máy quản lý lại phụ thuộc vào trình độ quản lý của những cán bộ trong bộ máy quản lý. Trình độ quản lý của các thành viên trong bộ máy quản lý được hình thành từ tri thức khoa học, kinh nghiệm kinh doanh và khả năng sáng tạo ở mỗi cá nhân. Trình độ quản lý sẽ quyết định hành vi ứng xử của cán bộ quản lý, tức là nó điều khiển mệnh lệnh quản lý. 2.3. Giá cả hàng hóa: Giá cả hàng hóa là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại và nằm trong phạm vi điều tiết của doanh nghiệp. Giá cả là biểu hiện bằng tiền về giá trị của hàng hóa có lượng giá trị sử dụng nhất định, thực hiện ở một khâu lưu thông, một quan hệ trao đổi nhất định. ở doanh nghiệp thương mại, một sản phẩm hàng hóa có thể có nhiều mức giá khác nhau được áp dụng cho những thị trường khác nhau. Việc xác định mức giá cho sản phẩm hàng hóa sẽ quyết định tổng thu nhập thực tế và tổng lợi nhuận thực tế doanh nghiệp đạt được. Vì vậy nó có ý nghĩa quyết định tới khả năng thu hồi các chi phí bỏ ra, cũng như khả năng tích lũy để mở rông quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, mức giá của sản phẩm hàng hóa nói chung đều do các doanh nghiệp tự định đoạt. Điều này phụ thuộc vào mục tiêu định giá mà doanh nghiệp theo đuổi, nếu doanh nghiệp mở rộng thị trường, giành thị phần thì mức giá được ấn định cho sản phẩm sẽ thấp hơn giá trung bình trên thị trường. Ngược lại, do có các điều kiện thị trường thuận lợi, doanh nghiệp muốn thu được mức lợi nhận lớn thì mức giá sẽ được ấn định cao hơn mức giá trung bình, cao hơn giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hóa. 2.4. Mạng lưới phân phối: Phân phối là dòng hàng hóa hoặc dịch vụ được vận động thông qua các kênh phân phối. Các kênh phân phối bao gồm các đơn vị trong và ngoài doanh nghiệp thực hiện các chức năng nối liền người sản xuất với người tiêu dùng, nối liền giữa người bán và người mua. Hiện nay đang tồn tại hai loại kênh phân phối trên thị trường: phân phối hàng hóa trực tiếp tức là bán hàng hóa và dịch vụ đến tận tay người tiêu dùng và phân phối gián tiếp tức là bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các khâu trung gian. Việc lựa chọn kênh phân phối trực tiếp hay gián tiếp là do quyết định của doanh nghiệp tùy thuộc vào đặc điểm của khách hàng, của sản phẩm, của những phong tục tập quán ở thị trường mà doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh. Việc lựa chọn kênh phân phối của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ hàng hóa, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh cũng như khả năng mở rộng họat động kinh doanh của doanh nghiệp. 2.5. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm: Trong những nguyên nhân thất bại của việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghệp về việc người bán không gặp được người mua, không nắm bắt được đúng nhu cầu thị hiếu của khách hàng và không làm cho khách hàng hiểu rõ giá trị sử dụng của sản phẩm. Vì thế, để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nâng cao khối lượng sản phẩm bán ra phải tổ chức tốt công tác quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm là sự tuyên truyền giới thiệu hàng hóa và dịch vụ nhằm thu hút sự chú ý của con người, có thể là người mua. Gây sự thích thú của họ đối với hàng hóa và dịch vụ, và cuối cùng trở thành khách hàng thực tế của tổ chức kinh doanh hàng hóa và dịch vụ đó. Như vậy, quảng cáo được coi là một trong những vũ khí lợi hại để thu hút khách hàng, mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quảng cáo sao cho có hiệu quả không phải là việc đơn giản mà ngược lại, nó là một quá trình, một quy trình mang tính nghệ thuật đòi hỏi nhà làm quảng cáo phải hiểu rất rõ về nền văn hoá ngự trị ở thị trường đó, tâm lý và sở thích của người tiêu dùng ở thị trường đó, và trình độ nhận thức của khách hàng ở thị trường đó. chương iI Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của công ty mecanimex. I. tổng quan về công ty mecanimex. Quá trình hình thành và phát triển Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí được thành lập ngày 26/3/1985 theo giấy phép kinh doanh số 0111012/GP của Bộ trưởng Bộ cơ khí và luyện kim cũ nay đổi thành Bộ Công nghiệp. Đã quy định Công ty MECANIMEX là một doanh nghiệp nhà nước với các thông số sau: 1/ Tên đơn vị : Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí. Tên tiếng Anh: The Viet Nam National Mechanical Products Import- Export Company. Tên viết tắt : MECANIMEX - Hà Nội 2/ Trụ sở chính đặt tại: 37 Tràng Thi - Hà Nội. Điện thoại: 8263904-8257459 Telex: 412285- MECA-VT Fax: 84-48263904 Chi nhành: 35 Tôn Đức Thắng- Thành phố HCM. Văn phòng đại diện tại Hải Phòng. 3/ Tài khoản tiền Việt Nam: 350.102.000.210 đồng tại Việt Combank. Tài khoản ngoại tệ : 240.125.358.012 đồng tại Việt Combank. 4/ Vốn điều lệ trong đó : - Vốn cố định: 293.274.463 đồng - Vốn lưu động: 8.474.196.748 đồng Công ty chịu trách nhiệm kinh tế và dân sự về các hoạt động bằng các tài sản của mình. Công ty hoạt động theo luật nước CHXHCN Việt Nam, luật Doanh nghiệp và các quy định của Bộ Công nghiệp. Công ty được sát nhập trên cơ sở sát nhập hai phòng là phòng xuất nhập khẩu của Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm (Tocontap) và công ty xuất nhập khẩu máy (Machinoimport) khi đó MECANIMEX được coi như là một trong những công ty xuất nhập khẩu hàng đầu của Bộ Công nghiêp. Công ty MECANIMEX là một doanh nghiệp nhà nước nên chức năng và phạm vi hoạt động cũng rất phù hợp với sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay Công ty đã trải qua hai giai đoạn phát triển: Giai đoạn1 (từ năm 1985- 1990): Giai đoạn này Công ty chủ yếu hoạt động kinh doanh theo Nghị định thư của Chính phủ Việt Nam với Chính phủ các nước XHCN khác. Giai đoạn2 (từ năm 1990 đến nay): Sau khi thể chế Liên Xô cũ và Đông Âu sụp đổ, làm cho toàn thị trường truyền thống bị phá vỡ. Trong thời gian đó Nhà nước ban hành chính sách đổi mới buộc các công ty kinh doanh phải hạch toán độc lập. Vì vậy Công ty MECANIMEX phải tự chủ hoàn toàn trong hoạt động kinh doanh và đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Đại hội Đảng lần VI đã mở ra một thời kỳ mới và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Nhà nước chủ trương chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh giao lưu hàng hoá quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu theo tư tưởng chỉ đạo của Quyết định số 21/HĐBT, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển sang hạch toán độc lập. Tuy nhiên đó cũng là khó khăn và thách thức lớn đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Để tồn tại, phát triển và hoà nhập với xu thế của Đất nước, Công ty đã từng bước bố trí, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức kinh doanh cho gọn nhẹ, phù hợp với quy mô và khẳ năng kinh doanh. Công ty rất chú trọng quản lý và lãnh đạo, bồi dưỡng tăng cường kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Hơn nữa Công ty còn nhanh chóng đổi mới phương thức kinh doanh, mở rộng mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, đa dạnh hoá thị trường. 2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty: a) Chức năng: Là doanh nghiệp thuộc ngành Công nghiệp nặng Việt Nam, Công ty có các chức năng: Thực hiện các hoạt động thương mại dịch vụ, trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu (tự doanh và uỷ thác) với các đối tác trong và ngoài nước. b) Nhiệm vụ: Xây dựng và tổ chức các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Xây dựng và tổ chức các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn của hoạt động kinh doanh. Tổ chức nghiên cứu thị trường, tìm hiểu và xác định các mặt hàng kinh doanh phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước. Bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao. Công ty được phép huy động vốn của các tổ chức và các thành phần kinh tế để tổ chức hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thực hiện nghĩa vụ và nhiệm vụ Nhà nước giao đồng thời thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ chung của Nhà nước. 3. Cơ cấu bộ máy tổ chức và điều kiện hoạt động của Công ty. a) Cơ cấu bộ máy tổ chức: Với phơng châm gọn, nhẹ nhưng hiệu quả, Công ty MECANIMEX có cơ cấu tổ chức rất gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo tính hiệu quả và không chồng chéo. Công ty MECANIMEX có cơ cấu tổ chức bộ máy theo kiểu trực tuyến chức năng, với một số phòng ban được sáp nhập với nhau. Hình1. Cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty Chi nhánh TP. HCM Ban Giám đốc Vp.Đại diện tại Hải Phòng Phòng Hành chính Phòng Kinh doanh Phòng Tài chính-Kế toán Phòng Tổ chức-Kế hoạch b/ Chức năng và nhiệm vụ của các phòng: Bộ phận quản lý (giám đốc và các phó giám đốc): Đứng đầu Công ty là giám đốc do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp trực tiếp bổ nhiệm. Giám đốc điều hành Công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty trước pháp luật, trước Bộ Công nghiệp và toàn thể công nhân viên chức của Công ty. Giám đốc Công ty được quyền tổ chức bộ máy quản lý và mạng lưới kinh doanh cho phù hợp với nhiệm vụ của Công ty và các quyết định phân cấp quản lý của Bộ. Giúp việc cho giám đốc là các phó giám đốc, phó giám đốc Công ty do giám đốc Công tylựa chọn và đề nghị Bộ Công nghiệp bổ nhiệm. Phó giám đốc giúp việc cho giám đốc điều hành Công ty và chịu trách nhiệm trực tiếp trước giám đốc về các nhiệm vụ được phân bổ và uỷ quyền. * Phó giám đốc1: Phụ trách liên doanh, liên kết với các hãng và công ty khác và gián tiếp quản lý các phòng ban để thực hiện hoạt động kinh doanh của công ty. Hiện nay, phó giám đốc thứ 1 phụ trách liên doanh LG - MECA đây là liên doanh giữa hãng LG của Hàn Quốc và công ty MECANIMEX. Cụ thể là phụ trách quản lý trực tiếp Nhà máy sản xuất lắp giáp máy giặt, tủ lạnh, điều hòa... * Phó giám đốc thứ 2: Phụ trách hoạt động kinh doanh chung của công ty, trực tiếp điều hành các mảng kinh doanh ( chủ yếu là kinh doanh xuất nhập khẩu). Chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty để báo cáo định kỳ lên giám đốc. * Phó giám đốc thứ 3: Phụ trách điều hành gián tiếp hoạt động kinh doanh của Công ty, nhiệm vụ chính là kiêm giám đốc chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. Chịu trách nhiệm trước giám đốc về hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhành mình phụ trách. Các phòng ban chức năng: Với quy mô nhỏ MECANIMEX chỉ có 4 phòng trực thuộc, một chi nhánh và một văn phòng đại diện. @ Phòng tài chính - kế toán: - Chức năng: Thực hiện mọi hoạt động liên quan đến tài chính và hạch toán thu chi của công ty. - Nhiệm vụ: Minh bạch hoá và hiệu quả hoá hoạt động tài chính của công ty, hạch toán kinh doanh theo quy định của pháp luật, đảm bảo sử dụng đồng vốn có hiệu quả và lợi ích của người lao động. @ Phòng kinh doanh: - Chức năng: Thực hiện hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của Công ty MECANIMEX. - Nhiệm vụ: Tiến hành hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật và kinh doanh có hiệu quả tất cả những ngành nghề mà công ty MECANIMEX đang thực hiện, bảo toàn số vốn Nhà nước giao và hạch toán có lãi. Phòng kinh doanh có nhiệm vụ quản lý 2 mảng kinh doanh: kinh doanh nội và kinh doanh ngoại. Trong đó, kinh doanh nội liên quan đến tất cả hoạt động kinh doanh trong nước. Hiện nay, phòng kinh doanh có nhiệm vụ quản lý trực tiếp 2 cửa hàng đặt tại 35 Hai Bà Trưng và 39 Tràng Thi: Bán các sản phẩm của liên doanh và kinh doanh các mặt hàng dân dụng. Mảng kinh doanh này do Phó phòng kinh doanh trực tiếp quản lý dưới sự giám sát của Trưởng phòng. Kinh doanh ngoại liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Phòng kinh doanh có nhiệm vụ quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty do Trưởng phòng kinh doanh trực tiếp quản lý. @ Phòng Tổ chức- kế hoạch: Chức năng: Kế hoạch hoá và tổ chức thực hiện các hoạt động kinh doanh. - Nhiệm vụ: Xây dựng các kế hoạch bộ phận cho các bộ phận kinh doanh mà cụ thể là bộ phận kinh doanh nội và bộ phận kinh doanh ngoại và tổ chức thực hiện. @ Phòng hành chính: Phòng này có nhiệm xụ theo dõi các quy chế, chính sách của Công ty, giám sát hoạt động và kỷ luật, thu nhận các thông tin và chính sách quốc gia để gửi đến văn phòng đồng thời làm tất cả các công tác hành chính, sự vụ của Công ty như: in, ấn tài liệu, văn phòng phẩm, phục vụ điều hành mạng lưới điện thoại của Công ty. @ Chi nhánh tại thành phố HCM: Hoạt động kinh doanh theo chỉ thị của giám đốc chi nhánh, giám đốc chi nhánh chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty về mọi hoạt động và hiệu quả kinh doanh của chi nhánh mình. @ Văn phòng đại diện tại Hải Phòng: Có nhiệm vụ thực hiện mọi thủ tục giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu tại cảng Hải Phòng và chịu trách nhiệm hoàn toàn trước giám đốc Công ty. c) Điều kiện hoạt động của Công ty. Do Công ty MECANIMEX được tổ chức rất gọn nhẹ, cho nên hiện nay tổng số cán bộ, công nhân viên của Công ty chỉ có 60 người và được phân bổ như sau: Ban giám đốc: 4 người; Phòng kinh doanh: 16 người; Phòng hành chính: 6 người; Phòng tài chính- kế toán: 5 người; Phòng tổ chức- kế hoạch: 3 người; Chi nhánh thành phố HCM: 25 người; Văn phòng đại diện tại Hải Phòng: 3 người. Các cán bộ tại Công ty MECANIMEX chủ yếu là những người đã tốt nghiệp các trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, đại học bách khoa Hà Nội, đại học ngoại thương Hà Nội... Cho nên trình độ cán bộ ở đây đảm bảo được những yêu cầu cơ bản cho hoạt động của Công ty. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh khá tốt và đầy đủ với một toà nhà 5 tầng và một bãi để xe với diện tích mặt đất hơn 200m2 và các thiết bị máy vi tính, máy Fax, điện thoại, máy Photo, Ôtô... Vì không có kho hàng nên khi có hàng Công ty thường phải đi thuê. Đây cũng chính là những điều bất lợi cho Công ty, có thời gian không thuê được kho hàng hoặc phải thuê với giá rất đắt khi nhu cầu kho hàng trên thị trường tăng lên. Điều này đã làm tăng chi phí hoạt động kinh doanh của Công ty. II. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty trong những năm qua. Lĩnh vực kinh doanh: Theo giấy phép kinh doanh số 10.11.012/CP của Bộ trưởng Bộ Cơ khí và luyện kim cũ nay đổi thành Bộ Công nghiệp đã quy định Công ty MECANIMEX là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp và nhận XNK uỷ thác với các đơn vị kinh doanh trong và ngoài nước. Mặt hàng kinh doanh: Theo giấy phép đăng ký kinh doanh Công ty MECANIMEX được phép kinh doanh các mặt hàng: Các sản phẩm cơ khí, sản phẩm luyện kim, khoáng sản kim loại, tinh quặng kim loại và một số mặt hàng khác. Đến nay Công ty đã 3 lần được cấp giấy phép bổ sung mặt hàng kinh doanh. Lần thứ nhất bổ sung các mặt hàng: Vật tư, vật liệu và thiét bị cho sản xuất hàng tiêu dùng. Lần thứ hai bao gồm các mặt hàng: Máy móc thiết bị và phụ tùng rời, hàng tiêu dùng và vật liệu xây dựng. Lần thứ ba gồm có các mặt hàng: Hàng kim khí và hàng nông sản... Mặt hàng xuất khẩu của Công ty bao gồm các mặt hàng: Dụng cụ đồ nghề, Máy công cụ, Thiếc thỏi, Worframit, Kim khí, Nông sản, Các mặt hàng khác: cân các loại, công tơ điện, khoá... Mặt hàng nhập khẩu của Công ty bao gồm: Thép các loại, Máy móc thiết bị, Hàng điện tiêu dùng, Vật liệu xây dựng, Các mặt hàng khác. Thị trường và khách hàng của Công ty: Thị trường nước ngoài: Sau khi bị mất nhiều thị trường buôn bán với các nước Đông Âu và Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, Công ty đã gặp rất nhiều khó khăn, bằng nỗ lực của Ban giám đốc và toàn bộ cán bộ của Công ty, Công ty dần dần tìm kiếm được bạn hàng kinh doanh ở các thị trường khác nhau bao gồm: Thị trường xuất khẩu Thị trường nhập khẩu Đài Loan Nhật Bản Thái Lan Singapore Hàn Quốc Anh Một số nước khác. Nga Đài Loan Hàn Quốc Nhật Bản Singapore Thái Lan Một số nước khác. Thị trường trong nước: Nguồn cung cấp hàng để xuất khẩu bao gồm: Các công ty, Nhà máy ở Hà Nội, Hà Đông, Thái Nguyên, Đại Mỗ, Hải phòng.v.v. Các công ty, cơ sở đại lý, các cửa hàng mua hàng nhập khẩu của Công ty ở Tràng Thi, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng, Hà Đông, Thanh Xuân.v.v. Khách hàng của Công ty: Nhằm xác định vị trí của mình trên thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, Công ty rất chú trọng tìm kiếm bạn hàng mới và duy trì mối quan hệ làm ăn với khách hàng truyền thống. Khách hàng nước ngoài: Kyk tools Industrial Co,Ltd Đài Loan Com pare Đài Loan Aquarius Đài Loan Itochucorp Nhật Bản Nisshoiwai Nhật Bản Venture International Singapore Traders ple. Ltd Singapore Hy Cor Hàn Quốc Eujor Hàn Quốc Chushing Co, Ltd Thái Lan Irap Irap Viet so Petro Anh Hang znutianlum Imp&exp, Co, Ltd Hàn Quốc Khách hàng trong nước: Các công ty cung cấp nguồn hàng xuất khẩu: Nhà máy y cụ 5 Công ty gang thép Công ty khoáng sản Công ty gang thép Nhà máy cơ khí Nhà máy cơ khí Công ty, đại lý mua hàng nhập khẩu của Công ty: Công ty TNHH Phú Thái Công ty TNHH Tân Cường Tổng Công ty xây dựng Sông Đà Các cơ sở đại lý Tràng Thi, Tràng Tiền, ... Các cửa hàng, siêu thị Thái Hà, Kim Liên, ... Hà Nội Hà Nội Hà Nội Thái Nguyên Hà Nội Đại Mỗ- Hà Nội Lê Duẩn- Hà Nội Hà Đông- Hà Nôi Hà Nội Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm qua: Hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng nhằm tối đa hoá lợi nhuận và tái đầu tư mở rộng kinh doanh, để đánh giá hiệu quả kinh doanh chúng ta thường cắn cứ vào các chỉ tiêu như: Doanh số bán, lợi nhuận, nộp ngân sách, kim ngạch XNK, lương bình quân, ... 4.1. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong 3 năm: 1999, 2000 và 2001. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được thể hiện rất rõ qua bảng sau: Bảng1: Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Chỉ tiêu Thực hiện 1999 Thực hiện 2000 Thực hiện 2001 So sánh 2001-2000 Số tuyệt đối %(±) Tổng doanh thu Trong đó: Doanh thu XK Các khoản giảm trừ (Thuế TTĐB, thuế XK) 1.Doanh thu thuần 2.Giá vốn hàng bán 3. Lợi nhuận gộp 4. Chi phí bán hàng 5.Chi phí quản lýDN 6. Lợi nhuận thuần HĐKD 7. Thu nhập hoạt động TC 8. Chi phí hoạt động TC 9. Lợi nhuận thuần HĐTC 10. Các khoản thu nhập BT 11.Chi phí bất thường 12.Lợi nhuận bất thường 13. Tổng lợi nhuận T. thuế 14. Thuế thu nhập DN nộp 15. Lợi nhuận sau thuế 16. Lương bình quân(ng/th) 203.569.393.010 6.205.678.879 - 203.569.393.010 198.147.815.616 5.421.577.394 184.259.342 5.118.057.222 119.260.830 369.010.272 202.467.104 166.543.168 872.904.285 149.537.528 723.366.757 1.009.170.755 322.934.642 686.236.113 830 267.386.241.222 5.421.786.420 28.156.362 267.358.084.860 259.951.745.124 7.406.339.736 386.767.542 5.403.312.652 1.616.259.542 399.123.461 1.532.584.549 -1.133.461.088 465.920.694 101.697.735 364.222.959 847.021.413 271.046.852 575.974.561 900 325.208.395.162 6.002.089.685 - 325.208.395.162 316.220.130.477 8.988.264.685 436.587.864 5.806.654.102 2.745.022.719 402.235.122 1.200.102.365 -797.867.243 687.265.344 95.867.659 591.397.685 2.538.553.161 812.337.012 1.726.216.149 950 57.822.153.940 580.303.265 -28.156.362 57.850.310.302 56.268.385.353 1.581.924.949 49.820.322 403.341.450 1.128.763.177 3.111.661 -332.482.184 335.593.845 221.344.650 -5.830.076 227.174.726 1.691.531.748 541.290.160 1.150.241.588 50 21,6 10,7 -100 21,6 21,6 21,3 12,9 7,5 69,8 0,78 -21,7 29,6 47,5 -5,7 62,3 199 199 199 5.6 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1999, 2000, 2001. Nhìn vào bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty ta thấy doanh thu năm 2001 tăng so với năm 2000 với số tuyệt đối là 57.822.153.940 VND (tăng 21,6%) và doanh thu thuần năm 2001 tăng so với năm 2000 là 57.850.310.302 VND (tăng 21,6%). Doanh thu tăng do Công ty đã giải quyết được những khó khăn về thị trường và thực hiện tốt các hoạt động kinh doanh của mình, bên cạnh đó ta thấy chi phí hoạt động tài chính giảm (năm 2001: 1.200.102.365 VND, năm 2000: 1.532.584.549 VND tức giảm 21,7%) chứng tỏ Công ty đã thực hiện có hiệu quả hoạt động tài chính của Công ty trong năm 2001. Lợi nhuận bất thường năm 2001 là 591.397.685 VND tăng so với năm 2000 là 227.174.726 VND (62,3%). Kết quả trên đã góp phần làm cho lợi nhuận của Công ty tăng lên. Tuy nhiên, thành quả đó chưa thể khẳng định được tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Vì năm 2001 Công ty gặp được nhiều thời cơ đã chín muồi nên đã đem lại cho Công ty những khoản doanh thu lớn, đặc biệt là từ hoạt động nhập khẩu, còn hoạt động xuất khẩu tuy có tốt đẹp hơn năm 2000 nhưng vẫn còn nhiều bất cập mà đòi hỏi phải có những biện pháp giải quyết mang tính chiến lược. Bên cạnh đó do Công ty tổ chức và sắp xếp và điều hành tốt trong hoạt động kinh doanh của mình như: có các chế độ khen thưởng, khuyến khích cán bộ trong Công tylàm tốt công việc dược giao.Vì vậy đây là nguyên nhân chính làm tăng quỹ lương của Công ty. 4.2. Kết quả thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty trong những năm gần đây. Hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu uỷ thác và tự doanh. Trong đó xuất nhập khẩu uỷ thác chiếm tỷ trọng lớn. Qua đó có thể thấy ưu điểm của Công ty trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung là khả năng thực hiện tốt hình thức xuất nhập khẩu uỷ thác và đó cũng là yếu tố trọng yếu trong chiến lược thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty theo các loại hình khác như xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu gia công,.v.v. 4.2.1 Báo cáo kết quả thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu năm 1999. Năm 1999 công ty đã đạt được một số kết quả sau: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 35.021.489,7 USD cao hơn năm 1998 là 9.910.607,1 USD ( tăng 39,47%), trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 2.272.370,3 USD (chiếm 6,5%), kim ngạch nhập khẩu đạt 32.749.119,4 USD (chiếm 93,5%). Thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu là các nước Nhật, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Anh,... Bảng2: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 1999 Chỉ tiêu Đơn vị Tháng 12 Cả năm 1999 S.L T.G(USD) S.L T.G (USD) 1 2 3 4 5 6 Tổng trị giá I. Xuất khẩu - Dụng cụ đồ nghề + Đài Loan - Máy công cụ + Đài Loan + Thái Lan - Thiếc thỏi + Singapore - Hàng khác + Hàn Quốc + Đài Loan + Nhật + Anh + Nước khác II. Nhập khẩu - Thép các loại + Nga + Đài Loan + Hàn Quốc + Nước khác - Máy móc thiết bị + Nhật + Hàn Quốc + Singapore + Đài Loan + Nước khác - Hàng điện tiêu dùng + Nhật + Hàn Quốc + Nước khác - Hàng khác + Hàn Quốc + Thái Lan + Nước khác cái cái cái tấn tấn tấn tấn tấn tấn tấn 764,0 80,5 678,0 5,5 8.532.550,0 614.499,7 56.530,4 56.530,4 557.969,3 140.701,5 47.149,9 97.501,0 272.616,9 7.918.050,3 662.167,6 55.938,3 594.853,8 11.375,5 606.157,1 220.448,1 6000,0 13.078,0 366.631,0 1.056.739,1 28.726,0 772.314,1 255.699,0 5.592.986,5 1.278.161,5 3.392.636,9 922.188,1 41 31 10 37,1 37,1 3.964,1 1.099,6 963,4 1.234,9 663,2 35.021.489,7 2.272.370,3 404.210,6 404.210,6 72.200,0 59.200,0 13.000,0 187.791,2 187.791,2 1.608.168,5 441.178,5 193.793,1 271.109,6 125.806,2 576.227,1 32.749.119,4 2.784.606,0 1.028.196,2 530.585,3 860.802,3 365.022,2 3.609.498,8 771.627,3 858.885,8 584.972,0 239.240,9 1.154.772,8 2.067.520,7 156.062,0 1.398.852,6 512.606,1 24.287.493,9 7.199.401,1 12.807.537,4 4.280.555,4 Nguồn: Phòng kinh doanh Công ty MECANIMEX a/ Danh mục mặt hàng và thị trường xuất khẩu của công ty năm 1999. Mặt hàng Thị trường Trị giá (USD) % Dụng cụ đồ nghề Máy công cụ Thiếc thỏi Hàng hóa khác Tổng Đài Loan Đài Loan,Thái Lan,... Singapore Hàn Quốc, Nhật,... 404.210,6 72.200,0 187.791,2 1.608.168,5 2.272.370,3 17,8 3,2 8,3 70,7 100 Trong năm 1999 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dụng cụ đồ nghề (chiếm 17,8%), hàng hoá khác có phần tăng thêm (chiếm 70,7%). Như vậy, danh mục mặt hàng xuất khẩu năm 1999 không xuất khẩu Wolframit và tập trung xuất khẩu vào một số thị trường truyền thống như: Đài Loan, Nhật, Singapore,... Trong đó xuất khẩu uỷ thác (các mặt hàng: Dụng cụ đồ nghề, thiếc thỏi, ...) là 1.776.993,6 USD (chiếm 78,2%), xuất khẩu trực tiếp là 496.454,3 USD (chiếm 21,8%). b/ Danh mục mặt hàng, thị trường nhập khẩu của công ty năm 1999. Mặt hàng Thị trường Trị giá (USD) % Thép các loại Máy móc thiết bị Hàng điện tiêu dùng Hàng hoá khác. Tổng Nga, Đài Loan, Hnà Quốc,... Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan,... Nhật, Hàn Quốc, ... Hàn Quốc, Thái Lan,... 2.784.606,0 3.609.498,8 2.067.520,7 24.287.493,9 32.749.119,4 8,5 11 6,3 74,2 100 Năm 1999 công ty có phần giảm nhập khẩu một số mặt hàng như: thép, máy móc thiết bị và tăng nhập khẩu các mặt hàng khác. Thị trường nhập khẩu truyền thống vẫn chủ yếu là các nước Châu á như: Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan,... Trong đó nhập khẩu uỷ thác là 31.766.645,8 USD (chiếm 97%) và nhập khẩu tự doanh là 98.247,6 USD (chiếm 3%). 4.2.2. Kết quả thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty năm 2000. Năm 2000 Công ty đã đạt kim ngạch xuất nhập khẩu là 37.654.726,1 USD tăng 2.633.236,4 so với năm 1999 (tăng 7,5%), trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 1.379.452,5 USD (chiếm 3,7%) giảm so với năm 1999 là 892.917.8 USD (giảm 39,29%) và kim ngạch nhập khẩu đạt 36.275.273,6 USD (chiếm 96,3%) tăng lên so với năm 1999 là 3.526.154,2 USD (tăng10,77%). Tình hình xuất nhập khẩu trong năm 2000 được thể hiện qua bảng sau: Bảng3: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2000. Chỉ tiêu Đơn vị Tháng 12 Cả năm 2000 S.L T.G(USD) S.L T.G (USD) 1 2 3 4 5 6 Tổng trị giá I. Xuất khẩu - Dụng cụ đồ nghề + Đài Loan - Máy công cụ + Đài Loan + Thái Lan - Hàng khác + Singapore + Hàn Quốc + Đài Loan + Nước khác II. Nhập khẩu - Thép các loại + Nga + Nhật + Đài Loan + Hàn Quốc - Máy móc thiết bị + Nhật + Đức + Singapore + Đài Loan + Nước khác - Hàng điện tiêu dùng + Hàn Quốc + Singapore + Nước khác - Hàng hoá khác + Thái Lan + Hàn Quốc + Nước khác cái cái cái tấn tấn tấn tấn tấn 58 18 40 211 211 5.793.225,5 279.358,3 51.950,0 31.950 20.000 227.408,3 227.408,3 5.513.867,2 105.680,0 105.680,0 39.061,0 39.061,0 5.369.125,9 776.400,0 4122.767,1 469.958,8 136 66 70 3.856,5 1650,1 1.231,0 781,0 194,4 37.654.726,1 1.379.452,5 153.045,6 153.045,6 165.200,0 123.150,0 42.050,0 1.061.206,9 615.160,8 142.712,0 59.527,2 243.806,9 36.275.273,6 4.151.529,7 2.896.774,4 682.331,3 474.268,1 98.155,9 2.895.050,5 960.790,0 1.178.188,0 300.600,0 134.679,0 320.793,5 3.177.821.3 2.350.165,9 177.902,4 649.753,0 26.050.872,1 14.087.034,4 9.927.821,4 2.036.016,3 Nguồn: Phòng kinh doanh Công ty MECANIMEX a/ Danh mục mặt hàng và thị trường xuất khẩu của Công ty năm 2000. Mặt hàng Thị trường Trị giá (USD) % Dụng cụ đồ nghề Máy công cụ Hàng hóa khác Tổng Đài Loan Đài Loan, Thái Lan Singapore, Hàn Quốc,... 153.045,6 165.200,0 1.061.206,9 1.379.452,5 11,1 11,97 76,93 100 Năm 2000 Công ty không xuất khẩu mặt hàng thiếc thỏi và Wolframit mà chỉ tập trung xuất khẩu các mặt hàng máy công cụ, dụng cụ đồ nghề và các mặt hàng khác (chiếm tỷ trọng lớn nhất 76,93%) sang các thị trường truyền thống như: Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore,... Và kim ngạch xuất khẩu đạt 1.379.452,5 USD, trong đó xuất khẩu uỷ thác là 978.031,8 USD (chiếm 70,9%) và xuất khẩu trực tiếp là 401.613,8 USD (chiếm 29,1%). b/ Danh mục mặt hàng và thị trường nhập khẩu của Công ty năm 2000. Mặt hàng Thị trường Trị giá (USD) % Thép các loại Máy móc thiết bị Hàng điện tiêu dùng Hàng hoá khác. Tổng Nga, Nhật, Đài Loan,... Nhật, Đức, Singapore,... Hàn Quốc, Singapore,... Thái Lan, Hàn Quốc,... 4.151.529,7 2.895.050,5 3.177.821,3 26.050.872,1 36.275.273,6 11,4 7,98 8,8 71,82 100 Năm 2000 Công ty tiếp tục kinh doanh nhập khẩu các danh mục mặt hàng như các năm trước song giá trị nhập khẩu có phần thay đổi, máy móc thiết bị có xu hướng giảm xuống tương đối và các mặt hàng nhập khẩu trọng yếu khác cũng có kết quả tương tự và chuyển sang nhập khẩu một số mặt hàng mới khác mà nhu cầu thị trường đang cần. Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 36.275.273,6 USD, trong đó nhập khẩu uỷ thác là 35.549.768,1 USD (chiếm 98%) và nhập khẩu tự doanh là 725.505,5 USD (chiếm 2%). 4.2.3. Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty năm 2001. Năm 2001 công ty đạt kim ngạch xuất nhập khẩu là 38.215.020,3 USD tăng 560.294,2 USD (tăng 1,5%) so với năm 2000, trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 2.008.001,8 USD (chiếm 5,3%) tăng 628.549,3 USD (tăng 45,57%), kim ngạch nhập khẩu đạt 36.207.018,5 USD (chiếm 94,7%) giảm 68.255,1 USD (giảm 0,19%) so với năm 2000. Có quan hệ chủ yếu với các thị trường Châu á như: Đài Loan, Singapore, Nhật, Hàn Quốc,... và một số nước Châu Âu (Đức,...) và Châu Mỹ ( Mỹ,...). Tình hình xuất nhập khẩu của công ty cho trong bảng sau: Bảng 4: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2001 Chỉ tiêu Đơn vị Tháng 12 Cả năm 2001 S.L T.G(USD) S.L T.G (USD) 1 2 3 4 5 6 Tổng trị giá I. Xuất khẩu - Dụng cụ đồ nghề + Đài Loan - Máy công cụ + Đài Loan - Hàng khác + Singapore + Nước khác II. Nhập khẩu - Thép các loại + Nhật + Đài Loan + Nước khác - Máy móc thiết bị + Nhật + Đức + Mỹ + Hàn Quốc + Nước khác - Hàng điện tiêu dùng + Hàn Quốc + Nước khác - Hàng hoá khác + Thái Lan + Hàn Quốc + Nước khác cái cái tấn tấn tấn tấn 1.840.023,4 180.643,4 41.595,1 41.595,1 139.048,3 130.901,5 8.146,8 1.659.380,0 1.659.380,0 815.808 412.687,6 430.884,4 54 54 7.207 949 561 5.691 38.215.020,3 2.008.001,8 175.261,9 175.261,9 110.100,0 110.100,0 1.722.639,9 573.541,9 1.149.098,0 36.207.018,5 3.462.450,2 730.474,4 282.786,5 2.449.189,3 4.731.044,3 567.781,5 1.021.040,7 183.679,0 792.222,0 2.166.321,1 3.771.863,7 2.385.342,3 1.386.521,4 24.241.660,3 7.688.314,8 11.412.421,3 5.140.924,2 Nguồn: Phòng kinh doanh công ty MECANIMEX a/ Danh mục mặt hàng và thị trường xuất khẩu của Công ty năm 2001. Mặt hàng Thị trường Trị giá (USD) % Dụng cụ đồ nghề Máy công cụ Hàng hóa khác Tổng Đài Loan Đài Loan Singapore,... 175.261,9 110.100,0 1.722.639,9 2.008.001,8 8,7 5,5 85,8 100 Năm 2001 tỷ trọng giá trị của các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như: dụng cụ đồ nghề, máy công cụ có xu hướng giảm xuống trong tổng kim ngạch xuất khẩu và Công ty đã chuyển sang xuất khẩu các mặt hàng khác có giá trị xuất khẩu cao và trong bảng số liệu trên đã cho thấy các mặt hàng đoá chiếm đến 85,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2001 đạt 2.008.001,8 USD, trong đó xuất khẩu uỷ thác là 1.594.353,4 USD (chiếm 79,4%) và xuất khẩu trực tiếp là 413.937,2 USD (chiếm 20,6%). b/ Danh mục mặt hàng và thị trường nhập khẩu của Công ty năm 2001. Mặt hàng Thị trường Trị giá (USD) % Thép các loại Máy móc thiết bị Hàng điện tiêu dùng Hàng hoá khác. Tổng Nhật, Đài Loan,... Nhật, Đức, Mỹ,... Hàn Quốc, Singapore,... Thái Lan, Hàn Quốc,... 3.462.450,2 4.731.044,3 2.385.342,3 24.241.660,3 36.207.018,5 9,6 13,1 6,6 70,7 100 Năm 2001 Công ty lại bắt đầu tăng nhập khẩu máy móc thiết bị (13,1%) và các mặt hàng khác (70,7%) để đáp ứng yêu cầu kinh doanh của Công ty và các công ty khác, từ các thị trường nhập khẩu truyền thống như: Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore,... và các thị trường mới như: Mỹ, Đức,... Với tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 36.207.018,5 USD, trong đó nhập khẩu uỷ thác là 33.310.457 USD (chiếm 92%) và nhập khẩu tự doanh là 2.896.561,5 USD (chiếm 8%). 4.2.4. Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty 2 tháng đầu năm 2002. Xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2002 có dấu hiệu tốt và đã cho thấy tiềm năng xuất khẩu lớn hơn các năm trước. Tuy nhiên đó chỉ là nhận định ban đầu của một số cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty. Điều đáng phải quan tâm trong năm 2002 là thị trường xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu của các thị trường đó có cao không và Công ty cần có những biện pháp gì để khai thác triệt để tiềm năng xuất khẩu của các thị trường mới cũng như mặt hàng mới. Kết quả đạt được thể hiện qua bảng sau: Bảng5: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu tháng 2 năm 2002 Chỉ tiêu Đơn vị Tháng 2 2 tháng đầu năm 2002 S.L T.G(USD) S.L T.G (USD) 1 2 3 4 5 6 Tổng trị giá I. Xuất khẩu - Hàng nông sản + Singapore - Hàng kim khí + Singapore + Malaysia II. Nhập khẩu - Thép các loại + Tây Ban Nha - Máy móc thiết bị + Đài Loan + Đức + Nước khác - Hàng điện tiêu dùng + Hàn Quốc + Nước khác - Hàng hoá khác + Thái Lan + Hàn Quốc + Nước khác Tấn “ 320 320 1.689.131,8 132.833,5 113.731,5 113.731,5 19.102,0 19.102,0 1.556.298,3 231.700,4 231.700,4 332.748,7 75.738,5 257.010,2 168.674,3 155.290,3 13.384,0 823.174,9 129.162,8 550.853,3 143.158,8 843 843 4.126.475,0 310.034,6 246.687,5 246.687,5 63.347,1 19.102,0 44.245,1 3.816.440,4 493.455,8 493.455,8 1.468.746,7 1.088.168,0 75.738,5 304.840,2 241.368,3 221.984,3 19.384,0 1.612.869,6 185.962,8 1.189.488,4 237.418,4 Nguồn: Phòng kinh doanh Công ty MECANIMEX Qua 2 tháng đầu năm 2002, Công ty đã có những bước chuyển biến mới trong việc tìm kiếm mặt hàng xuất khẩu mới (hàng nông sản và hàng kim khí) và thị trường xuất nhập khẩu mới. Điều đó đã phản ánh được phần nào tính hiệu quả trong kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty trong 2 tháng đầu năm 2002 và thời gian còn lại của năm. Với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt được 2 tháng đầu năm là 4.126.475,0 USD trong đó kim ngạch xuất khẩu là 310.034,6 USD (chiếm 7,5%), kim ngạch nhập khẩu đạt 3.816.440,4 USD (chiếm 92,5%). Tuy nhiên kết quả đó còn khá khiêm tốn so với tiềm năng thực sự của Công ty và cơ hội tham gia xuất khẩu sang thị trường Mỹ cho tất cả các doanh nghiệp khi Hiệp định Thương Mại Việt- Mỹ có hiệu lực. Mặt khác Nhà nước đang tích cực khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hoá bằng nhiều biện pháp khác nhau. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần tìm biện pháp để thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu của mình, đặc biệt là xuất khẩu hàng hoá. Hai tháng đầu năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của Công ty đạt 310.034,6 USD, trong đó xuất khẩu uỷ thác (hàng nông sản) là 246.687,5 USD (chiếm 79,5%) và xuất khẩu trực tiếp (hàng kim khí) là 63.347,1 USD (chiếm 20,5%). Và kim ngạch nhập khẩu đạt 3.816.440,4 USD, trong đó nhập khẩu uỷ thác là 3.053.152,3 USD (chiếm 80%) và nhập khẩu tự doanh là 763.288,1 USD (chiếm 20%). Chỉ sau 2 tháng đầu năm 2002 Công ty đã xuất khẩu được 310.034,6 USD chiếm 15,44% kim ngạch xuất khẩu của năm 2001 và bằng 0,14 lần kim ngạch xuất khẩu của năm 1999. Như vậy, khả năng Công ty đạt được kim ngạch xuất khẩu cao hơn năm 2001 và hơn năm 1999 là rất cao. Qua đó sẽ tạo thêm động lực cho Công ty tăng cường tìm kiếm các biện pháp đẩu mạnh hoạt động xuất khẩu của mình để đáp ứng được yêu càu hội nhập 4.2.5. Đánh giá kết quả thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu trong những năm qua. Hình 2: Kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty trong 3 năm (1999-2001) được thể hiện qua biểu đồ tổng hợp sau: Qua biểu đồ trên ta thấy nhập khẩu của Công ty tăng lên từ năm 1999 đến năm 2000 và đến năm 2001 có giảm chút ít so với năm 2000. Còn xuất khẩu lại giảm từ năm 1999 đến năm 2000 và đến năm 2001 có tăng lên chút ít. Kết quả trên cho thấy sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á năm 1997 đã ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam nói chung và Công ty nói riêng. Đến năm 2001 Công ty mới dần dần tìm lại chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế. Song kết quả đó còn khá khiêm tốn vì hiện nay chính sách của Việt Nam cũng như chiến lược phát triển của công ty đang hướng tới hội nhập toàn cầu nên sẽ có rất nhiều cơ hội cho Công ty. 4.3 Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty trong những năm qua. Trên đây là những phân tích và đánh giá khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty trong những năm gần đây. Tuy nhiên đó chỉ là những đánh giá cần thiết nhưng chưa đủ để có thể tìm ra những biện pháp tối ưu thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty trong những năm tiếp theo. Vì vậy, mục này xin phân tích và đánh giá thực trạng một số yếu tố chủ yếu trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, để tìm ra những ưu nhược điểm hay những hạn chế mà Công ty đang phải đối mặt để từ đưa ra những biện pháp cần thiết thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty. 4.3.1 - Kết quả xuất khẩu của Công ty qua các năm 1999-3/2002: Bảng 6: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty MECANIMEX qua các năm. Đơn vị: Nghìn USD STT Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 TG TT(%) TĐT (%) TG TT(%) TĐT (%) TG TT (%) TĐT (%) 1 Tổng KNXNK 35.021 100 39,47 37.654 100 7,5 38.215 100 1,5 2 KNXK 2.272 6,5 -22,23 1.379 3,7 -39,3 2.008 5,3 45,6 3 KNNK 32.749 93,5 47,6 36.275 96,3 10,77 36.207 94,7 -0,19 (Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu). Qua bảng phân tích số liệu trên cho thấy tổng kim ngạch xuấtnhập khẩu (KNXNK) của Công ty qua các năm (1999-2001) tăng liên tục, đó cũng là kết quả đáng khích lệ. Song cần phải xem yếu tố nào (XK hay NK) góp phần làm tăng tổng kim ngạch XNK. Thực tế cho thấy, nhập khẩu đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong tổng kim ngạch XNK của Công ty còn xuất khẩu chỉ đóng góp một phần nhỏ. Từ bảng trên dễ dàng nhận thấy kim ngạch nhập khẩu tăng 47,6% và xuất khẩu giảm 22,23% năm 1999; lần lượt nhập khẩu tăng10,77% và xuất khẩu giảm 39,3%, kết quả này cho thấy hoạt động xuất khẩu của Công ty càng ngày càng bị giảm sút, đó là do năm 1999 Việt Nam cũng như các nước trong khu vực và thế giới khác đang phải gánh chịu hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 nên ảnh hưởng nhiều đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung và Công ty MECANIMEX nói riêng như: Thị trường tài chính tiền tệ không ổn định, thị trường đầu ra khó khăn, chính sách đối ngoại bị hạn chế, v.v. Năm 2000 là năm có nhiều chuyển biến trong hoạt động xuất nhập khẩu đặc biệt là Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hoá, cơ chế chính sách trong hoạt động XNK cũng thông thoáng hơn nên Công ty phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác trong và ngoài nước, v.v. Do đó kim ngạch xuất khẩu của Công ty tiếp tục giảm. Nhận thức được tình hình Ban giám đốc đã đưa ra hàng loạt những biện pháp nhằm khắc phục tình trạng kim ngạch xuất khẩu của Công ty bị giảm sút và đề ra chiến lược thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Công ty lên một tầm cao mới. Vì vậy, năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã tăng lên 45,6% so với năm 2000. Đó là kết quả đáng khích lệ của những nỗ lực mà Ban giám đốc và toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty đã thực hiện được trong năm 2001. Tuy nhiên, kết quả đạt được ở trên vẫn còn khá khiêm tốn so với tiềm năng và mục tiêu kinh doanh của Công ty. Hơn nữa, vấn đề mà Công ty đang phải giải quyết là đề ra được những biện pháp cần thiết để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới. 4.3.2 - Về mặt hàng xuất khẩu của Công ty từ năm 1999-3/2002. Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí là doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh xuất khâủ chủ yếu là 2 mặt hàng: Dụng cụ đồ nghề và Máy công cụ. Ngoài ra Công ty cũng kinh doanh một số mặt hàng khác có giá trị xuất khẩu cao như: Thiếc thỏi, Wolframit, cân các loại, khoá.v.v. Nhìn chung trong thời gian qua nhờ phát huy được lợi thế của các mặt hàng xuất khẩu, cùng với sự nỗ lực của bản thân Công ty trong công tác nghiên cứu, tổ chức khai thác những nguồn hàng có chất lượng cao, những thị trường tiêu thụ mới nên Công ty đã thu được những kết quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của mình. Bảng 7: Kết quả kinh doanh xuất khẩu theo mặt hàng. Đơn vị: nghìn USD STT Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2tháng/2002 TG TT (%) TG TT (%) TG TT (%) TG TT (%) 1 Kim ngạch XK 2.272 100 1.379 100 2.008 100 310 100 2 Dụng cụ đồ nghề 404,2 17,8 153 11 175 8,7 - - 3 Máy công cụ 72,2 3,2 165 12 110 5,5 - - 4 Thiếc thỏi 187,8 8,3 - - - - - - 5 Wolframit - - - - - - - - 6 Hàng nông sản - - - - - - 247 79,7 7 Hàng kim khí - - - - - - 63 20,3 8 Hàng hoá khác 1.608 70,7 1.061 77 1.722 85,8 - - (Nguồn: Số liệu phòng kinh doanh). Mặt hàng dụng cụ đồ nghề: Từ bảng số liệu trên ta thấy mặt hàng truyền thống của Công ty là dụng cụ đồ nghề có tỉ trọng chiếm trong kim ngạch xuất khẩu giảm dần từ 17,8% (1999) xuống còn 8,7% (2001). Một phần do Công ty đã đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, mặt khác do tình hình cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu rất khốc liệt nên cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty đã có sự thay đổi, thể hiện tính hiệu quả trong chiến lược thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty. Xét về mặt tuyệt đối ta cũng có thể thấy trị giá của mặt hàng này đã giảm xuống từ 404,4 nghìn USD (1999) xuống 175 nghìn USD (2001), cho thấy khả năng cạnh tranh của mặt hàng này giảm. Nên chăng trong thời gian tới Công ty tập trung vào xuất khẩu các mặt hàng khác và duy trì trị giá xuất khẩu của mặt hàng này ở mức hợp lý. Mặt hàng máy công cụ: Ngoài ra mặt hàng máy công cụ cũng có sự biến động, năm 2000 tăng 92,8 USD (165USD - 72,2USD) so với năm 1999 và đến năm 2001 lại giảm 55 USD ( 165USD- 110USD) so với năm 2000. Tuy nhiên, năm 2001 đã tăng 37,8USD (110USD- 72,2USD) so với năm 1999. Do vậy, xu hướng biến động trên là khả quan, theo như lời phát biểu của Trưởng phòng kinh doanh của Công ty: ” Trong thời gian tới máy công cụ sẽ là mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả hơn cả cùng với các mặt hàng khác có tiềm năng xuất khẩu cũng rất khả quan”. Mặt hàng Thiếc thỏi và Wolframit: Do tình hình biến động của thị trường thế giới nói chung và thị thị trường xuất nhập khẩu nói riêng, một số mặt hàng xuất khẩu của Công ty đã giảm đi như: Thiếc thỏi và Wolframit do nhu cầu trên thị trường đã giảm và khả năng khai thác tiềm năng xuất khẩu của 2 mặt hàng này trên thị trường còn hạn chế. Năm 2000 và 2001 Công ty đã không kinh doanh 2 mặt hàng này mà tập trung nhiều vào các mặt hàng truyền thống và các mặt hàng khác có giá trị xuất khẩu cao. Thực trạng đó có tính hai mặt vừa thể hiện mặt hạn chế cần khắc phục của Công ty trong việc khai thác tiềm năng của các mặt hàng xuất khẩu đã có, vừa thể hiện bước tiến mới trong việc thu hẹp mặt hàng có khả năng xuất khẩu kém và mở rông danh mục các mặt hnàg xuất khẩu. Các mặt hàng khác: Trong khi đó Công ty lại tập trung vào xuất khẩu một số mặt hàng khác như: Nồi cơm điện, mặt hàng điện lạnh, hàng nông sản, hàng kim khí,.v.v. Thực tế cho thấy các mặt hàng khác đang chiếm tỷ trọng khá cao trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty: Năm1999: 1.608 nghìn USD (70,7%), năm 2000: 1.061 nghìnUSD (77%) và năm 2001: 1.722 nghìn USD (85,8%). Nên trong thời gian tới, Công ty sẽ tập trung khai thác triệt để tiềm năng xuất khẩu của đa dạng các mặt hàng có khả năng xuất khẩu cao và đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của khách hàng nước ngoài. Điều đó đã được thể hiện qua tình hình xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2002: Hàng nông sản đạt trị giá xuất khẩu là: 247 nghìnUSD (chiếm 79,7%) và hàng kim khí đạt 63 nghìn USD ( chiếm 20,3%). Như vậy, trong những năm tiếp theo Công ty cần đề ra những biện pháp chiến lược cho các mặt hàng xuất khâủ của mình thì mới đảm bảo cạnh tranh thắng lợi và thành công trong kinh doanh. Như vậy trong hơn 3 năm qua những khó khăn khách quan mang lại cho các công ty trong nước nói chung và Công ty MECANIMEX nói riêng một phần hậu quả khá nặng nề. Các doanh nghiệp muốn giữ vững thị phần và mở rộng thị trường ổn định về giá trị kim ngạch là vô cùng khó khăn. Vậy mà Công ty MECANIMEX đã mở rộng được thị trường nhưng không phải không có sự mai một thị trường trước của Công ty. Có được kết quả như vậy hẳn phải có sự cố gắng vượt bậc, sự lãnh đạo đúng đắn của ban lãnh đạo Công ty. Nhưng Công ty phải cố gắng hơn nữa bởi trong những nguyên nhân tác động xấu đến Công ty thì có cả nguyên nhân chủ quan như: Khả năng huy động vốn, trình độ cán bộ công nhân viên, khả năng nghiên cứu và khai thác thị trường còn hạn chế, v.v. 4.3.3 - Thị trường xuất khẩu của Công ty qua các năm: Nói đến thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp cũng chính là nói đến vấn đề sống còn của doanh nghiệp ấy, đặc biệt là doanh nghiệp thương mại. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh. ở Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí- MECANIMEX, công tác tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá trong những năm qua luôn được quan tâm và đầu tư đặc biệt. Tính đến nay Công ty đã quan hệ buôn bán trao đổi với khoảng 16 nước khác nhau, đặc biệt là các nước ở Châu á. Bảng kết quả sau cho ta thấy tầm quan trọng của các thị trường và tiềm năng xuất khẩu của các thị trường đó: Bảng 8: Kết quả kinh doanh xuất khẩu theo thị trường. Đơn vị: nghìn USD. STT Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2tháng/2002 TG TT (%) TG TT (%) TG TT (%) TG TT (%) Tổng KNXK 2.272 100 1.379 100 2.008 100 310 100 1 Sigapore 187,8 8,3 615 44,6 573,5 28,6 265,8 85,7 2 Nhật Bản 271 11,9 - - - - - - 3 Đài Loan 657 28,9 335,5 24,3 285,4 14,2 - - 4 Thái Lan 13 0,57 42 3,1 - - - - 5 Hàn Quốc 441,2 19,4 142,7 10,3 - - - - 6 Malaysia - - - - - - 44,2 14,3 7 Anh 125,8 5,53 - - - - - - 8 Khác 576,2 25,4 243,8 17,7 1.149,1 57,2 - - (Nguồn: Số liệu phòng kinh doanh). Qua phân tích ta thấy thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty là các nước Châu á, còn các nước Châu Âu chiếm tỷ trọng nhỏ hơn (năm 1999 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Anh chỉ chiếm 5,53% tổng kim ngạch xuất khẩu, các nước khác là 25,4% còn lại các nước Châu á là 69,07%). Đến năm 2000, thị trường Châu á chiếm tới 82,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, thị trường Anh là 0%, thị trường các nước khác là 17,7%. Tuy nhiên, trong năm 2000, tổng kim ngạch xuất khẩu giảm do kim ngạch xuất khẩu tại các thị trường giảm xuống trừ Singapore và Thái Lan. Đó là vấn đề rất bất lợi cho Công ty trong chiến lược thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình. Thực trạng đó xuất phát từ nguyên nhân: Năm 2000, Công ty gặp phải nhiều cản trở trong việc khai thác thị trường cũng như tạo lập quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác nước ngoài. Vì vậy, thị trường cũng như kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã giảm xuống. Đây thực sự là vấn đề đáng phải quan tâm và phải tìm ra biện pháp khắc phục. Nhưng đến năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã tăng trở lại (tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường Châu á giảm), đặc biệt tăng là do Công ty đã xuất khẩu được sang các nước khác với trị giá lớn hơn các năm trước. Kim ngạch xuất khẩu sang Singapore giảm từ 615 nghìn USD xuống còn 573 nghìn USD, sang Đài Loan giảm từ 35,5 nghìn USD xuống còn 285,4 nghìn USD, sang các nước khác tăng lên từ 243,8 nghìn USD lên 1.149,1 nghìn USD. Tuy kim ngạch xuất khẩu sang Singapore và Thái Lan có giảm sút nhưng hai thị trường này là các thị trường truyền thống của Công ty nên không thể đánh giá là không tốt mà phải nhận định vấn đề ở khả năng khai thác và khả năng đáp ứng nhu cầu tại các thị trường này. Như thế ta mới thấy hết được lợi thế của Công ty và hạn chế mà Công ty chưa khắc phục được cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, Công ty nên tiếp tục duy trì và phát triển tiềm năng xuất khẩu ở các thị trường truyền thống đồng thời nghiên cứu và khai thác triệt để những cơ hội tiềm ẩn ở các thị trường khác mà kết quả bước đầu Công ty đã đạt được trong năm 2001. Hai tháng đầu năm 2002, Công ty đã xuất khẩu sang các nước Singapore (thị trường truyền thống) và Malaysia (thị trường mới) với kim ngạch xuất khẩu lần lượt là: 265,8 nghìn USD (chiếm 85,7% tổng kim ngạch xuất khẩu) và 44,2 nghìn USD (chiếm 14,3%). Đây là kết quả bước đầu mà Công ty đã đạt được trong hoạt động xuất khẩu đầu năm với phương châm là: ” Thị trường truyền thống là nền tảng cho quá trình thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường mới”- Trích trong kế hoạch kinh doanh của Công ty năm 2002. Từ những phân tích trên đây ta thấy Công ty cần phát huy những lợi thế của mình tại các thị trường truyền thống và tìm được chỗ đứng mới trên các thị trường mới. Muốn vậy Công ty phải nhận thức được những vấn đề còn tồn tại tại các thị trường xuất khẩu của mình. Cụ thể: Đối với thị trường Singapore: Singapore là một thị trường có nhiều tiềm năng, nhu cầu lớn, cơ chế chính sách thông thoáng, thu nhập của người dân cao và mức tiêu dùng cũng lớn. Do vậy, cần phải có những quyết sách đúng đắn để xuất khẩu tới thị trường này. Nắm bắt được tình hình đó, Công ty MECANIMEX đã triển khai nghiên cứu, khai thác và giao dịch đàm phán, tạo dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ (thể hiện rõ qua các năm 1999: đạt 187,8 nghìn USD, năm 2000: 615 nghìn USD, năm 2001: 573,5 nghìn USD, 2 tháng 2002: 265,8 nghìn USD). Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này chưa cao so với tiềm năng của nó. Đó là do một mặt Công ty phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các nước như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái lan, Trung Quốc,v.v. Mặt khác, Công ty vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày cáng lớn về các mặt hàng xuất khẩu như: Hàng nông sản, thực phẩm, hàng dệt may, hoa quả tươi, đất nông nghiệp xuất khẩu, v.v. Thiết nghĩ Công ty nên xem xét lại chiến lược xuất khẩu của mình sang các thị trường truyền thống, đặc biệt là Singapore, để khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh của mình trên thi trường này. Đối với thị trường Thái Lan: Thái Lan là thị trường có những nhu cầu đặc biệt về các loại dụng cụ thể thao, điện tử và hàng tươi sống. Đó là nhận định ban đầu của Giám đốc Marketing Công ty xuất khẩu giầy da thể thao- SELS của Đài Loan tại cuộc họp chi nhánh ở Thành phố HCM tháng 8/2001. Do khả năng nắm bắt thông tin còn hạn chế nên năm 2001 Công ty đã không xuất khẩu được lô hàng nào sang Thái Lan. Đó là những yếu điểm mà Công ty cần khắc phục để trong năm 2002 và các năm tiếp theo sẽ xuất khẩu được những lô hàng đáp ứng được nhu cầu của thị trường Thái Lan. Vì Công ty hoạt động kinh doanh thương mại thuần tuý nên vấn đề nghiên cứu thị trường, nắm bắt thông tin, khai thác thông tin và tổ chức cung ứng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu là rất cần thiết và có vai trò quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Từ kết quả đạt được trong những năm gần đây (năm 1999: đạt 13 nghìn USD, năm 2000: 42 nghìn USD). Thiết nghĩ Công ty nên triển khai một phương án khai thác thị trường Thái Lan trong năm nay để kịp thời nắm bắt cơ hội xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Đối với thị trường Đài Loan: Đài Loan cũng là một thị trường truyềm thống của Công ty vì thị trường này đã có những đóng góp đáng kể trong tổng kim ngạnh xuất khẩu của Công ty (năm 1999: đạt 657 nghìn USD, năm 2000: 335,5nghìn USD, năm 2001: 285,4 nghìn USD). Tuy nhiên trong những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này có sự giảm sút. Theo nhận định của Ban lãnh đạo Công ty thì: Đài Loan là thị trường có nhiều điểm tương đồng với thị trường Việt Nam và nhu cầu khá lớn đối với các mặt hàng Công ty kinh doanh nhưng thời gian gần đây có nhiều đối thủ cạnh tranh đưa ra những quyết sách rất táo bạo và dịch vụ cung cấp rất hoàn hảo nên Công ty đã gặp rất nhiều khó khăn và các kết quả đạt được là những nỗ lực bước đầu cho chiến lược cạnh tranh của Công ty tại thị trường này. Vậy nên Công ty cần tăng cường những hoạt dộng dịch vụ hoàn hảo hơn nữa để có thể cạnh tranh thắng lợi và giữ vững mối quan hệ làm ăn lâu dài với Đài Loan. Đối với thị trường Hàn Quốc: Tình hình xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc cũng giống như thị trường Thái Lan nhưng Hàn Quốc có nhiều ưu thế và tiềm năng xuất khẩu hơn. Những năm gần dây, Công ty đã xuất khẩu được một số lô hàng sang thị trường này nhưng kim ngạch xuất khẩu còn hạn chế (năm 1999: đạt 441,2 nghìn USD, năm 2000: 142,7 nghìn USD). Từ đó có thể thấy thị trường Hàn Quốc có những nét khác biệt so với các thị trường khác nên Công ty cần tiếp tục công tác nghiên cứu thị trường và cập nhật thông tin để có thể xuất khẩu được những lô hàng có giá trị xuất khẩu cao hơn. Tất cả những vấn đề đó phụ thuộc vào sự nỗ lực của toàn Công ty. Đối với các thị trường khác: Các thị trường khác cũng có những đóng góp nhất định trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Điều đó thể hiện tính đa dạng thị trường trong hoạt động xuất khẩu của Công ty. Như vậy, trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu của Công ty là một quyết sách đúng đắn và Công ty nên tiếp tục triển khai mạnh hơn nữa để có thể nắm bắt được những cơ hội xuất khẩu. 4.3.4 - Hình thức xuất khẩu của Công ty. Kinh doanh xuất khẩu trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải hết sức linh hoạt nhạy bén, áp dụng nhiều phương thức kinh doanh nhằm thu hút khách hàng, tăng doanh thu và lợi nhuận. Hiện nay Công ty áp dụng 2 hình thức xuất khẩu chủ yếu là: xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác. Bảng 6: Cơ cấu các hình thức xuất khẩu của Công ty: Đơn vị: nghìnUSD STT Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2th/2002 TG TT (%) TG TT (%) TG TT (%) GT TT (%) 1 Tổng kim ngạch XK 2.272 100 1.379 100 2.008 100 310 100 2 Xuất khẩu uỷ thác 1.776 78,2 978 70,9 1.594 79,4 247 79,7 3 Xuất khẩu trực tiếp 496 21,8 401 29,1 414 20,6 63 20,3 Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu Xuất khẩu uỷ thác: @ Thực trạng xuất khẩu uỷ thác của Công ty: Đây là hình thức xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty: năm 1999 đạt 1.776 nghìn USD (chiếm 78,2%), năm 2000 đạt 978 nghìn USD (chiếm 70,9%), năm 2001 đạt 1.594 nghìn USD (chiếm 79,4%) và 2 tháng đầu năm 2002 đạt 247 nghìn USD (chiếm 79,7%). Công ty có ưu thế trong hình thức xuất khẩu này, vì Công ty có một đội ngũ cán bộ công nhân viên am tường về lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu, có khả năng cung cấp dịch vụ tốt đáp ứng được yêu cầu của các nhà uỷ thác, có một hệ thống nhân lực và tài lực đáp ứng tốt nhất các nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, Công ty đã đi tiên phong trong hoạt động xuất khẩu uỷ thác với mạng lưới các nhà uỷ thác rộng khắp trong toàn quốc, đặc biệt là các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố HCM, Đà Nẵng, Đồng Nai, v.v. Qua đó có thể thấy đâylà hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp đã vận dụng rất có hiệu quả và có uy tín lớn trên thị trường thông qua hệ thống cung cấp dịch vụ xuất nhập khẩu khá hoàn hảo của mình. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn rất khiêm tốn nên trong thời gian tới Công ty cần phát huy cao hơn nữa lợi thế xuất khẩu uỷ thác của mình, lấy đó làm cơ sở trọng yếu để thúc đẩy các hình thức xuất khẩu khác của Công ty mà đặc biệt là xuất khẩu trực tiếp. @ Các bước tiến hành hoạt động xuất khẩu uỷ thác của Công ty hiện nay: Ký hợp đồng xuất khẩu ngoại với khách hàng nước ngoài. Ký hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với đơn vị (trong nước) có hàng xuất khẩu. Khách hàng nước ngoài mở L/C. Thuê tàu biển (nếu xuất khẩu theo giá CFR hoặc CIF) và đăng ký tàu (nếu xuất khẩu theo giá FOB). Làm thủ tục hải quan: Hồ sơ hải quan gồm có: + Bản sao giấy đăng ký kinh doanh của đơn vị. + Tờ khai hải quan. + Hợp đồng ngoại (bản sao). + L/C (bản sao). + Hợp đồng xuất khẩu uỷ thác (nếu xuất khẩu uỷ thác). + Bản kê chi tiết hàng hoá ( 1 bản chính và 1 bản sao). Xin chứng nhận xuất xứ (C/O). Liên hệ với hãng tàu để làm vận đơn (B/L) theo L/C. Lập chứng từ thanh toán ngoại gửi ngân hàng: + Hối phiếu (2 bản). + Hoá đơn ngoại (3-5 bản). + Packing List (3 bản). + Bill of Lading (3 bản). + Chứng nhận xuất xứ C/O (1 bản chính và 2 bản sao). + Các chứng từ khác theo yêu cầu của L/C. Khi nhận được tiền của Ngân hàng thì làm biên bản thanh lý hợp đồng xuất khẩu uỷ thác Tiền hàng - (phí uỷ thác + phí ngân hàng + phí giao hàng và các chi phí có liên quan). Sau đó chuyển số tiền còn lại cho khách hàng nội địa (nơi có hàng xuất khẩu). @ Ưu điểm và nhược điểm của hình thức xuất khẩu này: - Ưu điểm: Công ty đã khai thác được mặt ưu của hình thức xuất khẩu này để đem lại cho mình những khoản lợi nhuận tốt trong những năm qua. Vì hình thức này có một ưu điểm là không cần bỏ vốn, chỉ chịu trách nhiệm làm thủ tục xuất khẩu thay cho một công ty có hàng xuất khẩu (bên uỷ thác), rủi ro ít và được hưởng phần trăm phí uỷ thác. - Nhược điểm: Hình thức xuất khẩu uỷ thác đòi hỏi Công ty phải có nghiệp vụ cao trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và khả năng thực hiện các thủ tục giấy tờ liên quan đến hoạt động xuất khẩu uỷ thác nhanh chóng, thuận tiện và hiệu quả. Thực tế cho thấy Công ty đã khắc phục được phần nào nhược điểm này để biến nó thành hình thức xuất khẩu chủ chốt của Công ty. b) Xuất khẩu trực tiếp: @ Thực trạng xuất khẩu trực tiếp của Công ty trong những năm gần đây: Đây là hình thức xuất khẩu thứ hai của Công ty chiếm tỷ trọng còn khá nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu: Năm 1999 đạt 496 nghìn USD (chiếm 21,8%), năm 2000 đạt 401 nghìn USD (chiếm 29,1%), năm 2001 đạt 414 nghìn USD (đạt 20,6%) và 2 tháng đầu năm 2002 đạt 63 nghìn USD (chiếm 20,3%). Từ năm 1997 Công ty bắt đầu tiến hành xuất khẩu trực tiếp nhưng kết quả còn chưa như mong muốn vì công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài và khai thác nguồn hàng trong nước còn nhiều bất cập. Mặt khác, khi tổ chức xuất khẩu trực tiếp Công ty phải có một lượng vốn tương đối lớn (chủ yếu là vốn lưu động). Chính vì vậy, trong những năm qua Công ty còn bị hạn chế nhiều trong hình thức xuất khẩu này. @ Các bước tiến hành xuất khẩu trực tiếp ở Công ty hiện nay: Xin giấy phép xuất khẩu. Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu. Thuê phương tiện vận tải. Làm thủ tục hải quan: Gồm các chứng từ sau: + Giấy xuất khẩu của Bộ chủ quản (2 bản). + Tờ khai hải quan (cùng số seri 3 bản). + Phiếu đóng gói (3 bản). + Bản copy hợp đồng ngoại có dấu của Công ty (1 bản). + L/C (1 bản). + Hợp đồng bảo hiểm (1 bản). + Hoá đơn thương mại (1 bản). Giao hàng với phương tiện vận tải. Mua bảo hiểm cho hàng hoá. Nhận tiền thanh toán. @ Ưu, nhược điểm của hình thức xuất khẩu này: - Ưu điểm: Với hình thức xuất khẩu này Công ty có thể sẽ thu được những khoản lợi nhuận lớn sau mỗi hợp đồng xuất khẩu và Công ty sẽ có nhiều kinh nghiệm để thực hiện những hợp đồng xuất khẩu lớn trên những thị trường lớn và hoàn toàn mới. Mặt khác, hình thức xuất khẩu là đòn bẩy quan trong cho sự phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Công ty. - Nhược điểm: Với hình thức xuất khẩu này Công ty phải tự tổ chức nguồn hàng, bảo quản, ký kết hợp đồng và xuất khẩu nên Công ty phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và nhiều rủi ro. Mặt khác, vì Công ty là doanh nghiệp thương mại nên dịch vụ trước, trong và sau khi xuất khẩu là rất quan trọng và phức tạp, do vậy Công ty đã phải cạnh tranh rất khó khăn với các doanh nghiệp lớn đi trước trong lĩnh vực này như Công ty Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ – Matexim. 5 - Các biện pháp Công ty áp dụng để thúc đẩy xuất khẩu: 5.1- Nghiên cứu thị trường: Đây là việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một công ty nào muốn tham gia kinh doanh xuất khẩu vào thị trường quốc tế. Đó là công tác không đơn giản chút nào mà ngược lại nó là cả một quá trình phức tạp và khó khăn. Để thúc đẩy xuất khẩu thì Công ty cũng đã tiến hành nghiên cứu thị trường bằng cách: Đầu tư thay thế, mua mới trang thiết bị xử lý và lưu trữ thông tin hiện đại (máy vi tính). Nó đã tạo điều kiện cho Công ty nắm bắt cơ hội kinh doanh một cách nhanh chóng. 5.2-Thực hiện hoạt động gia công chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm: Như ta đã biết, chất lượng sản phẩm là một yếu tố được khách hàng quan tâm, đặc biệt trong việc duy trì thị trường thí nó lại càng không thể thiếu. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này công ty đã tuyển một số cán bộ, công nhân kỹ thuật để kiểm tra và gia công hàng hoá trước khi xuất khẩu. Ngoài ra Công ty còn phối hợp với một số đơn vị để phục vụ cho công tác kiểm tra chất lượng hàng hoá. 5.3 - Tổ chức quảng cáo giới thiệu các mặt hàng mà công ty kinh doanh ra thị trường nước ngoài: Đây là một công việc cần được quan tâm bởi sẽ giúp cho khách hàng biết đựơc nguồn hàng, chất lượng hàng... qua đó sẽ tiến hành mua nếu cần thiết. Thời gian qua Công ty cũng đã tiến hành một số biện pháp quảng cáo sau: - Quảng cáo thông qua mạng internet. - Quảng cáo qua trung gian. 5.4 - Quan tâm đến công tác thu gom và tạo nguồn hàng: Hiệu quả của công tác thu gom và tạo nguồn hàng ảnh hưởng tực tiếp đến khả năng đáp ứng nhu cầu cuả khách hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá. ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp cũng như khả năng cạnh tranh, khả năng mở rộng thị trường của doang nghiệp. Trên thực tế công ty đã áp dụng một số cách sau: - Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động thu mua và tạo nguồn hàng. Đầu tư vào việc mua sắm phương tiện vận tải, các thiết bị xếp rỡ, hệ thống bến bãi nhà kho nhằm tạo sự cơ động linh hoạt trước những sự biến động của nguồn hàng, của thị trường. - Thiết lập hệ thống thu mua hàng hoá ở các tỉnh thành phố trong cả nước. - Liên kết với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong việc sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. 5.5 - Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả: Huy động vốn: + Công ty tiến hành khai thác các nguồn vốn sẵn có, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ngân hàng và nguồn vốn tín dụng từ khách hàng + Tìm kiếm và thu hút các đối tác đầu tư liên doanh liên kết kinh tế trong và ngoài nước. Sử dụng vốn: + Đầu tư vào việc kinh doanh một số mặt hàng có giá trị cao trên thị trường như: Máy công cụ, thiếc thỏi... + Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng, thực hiện tốt công tác thanh toán với người mua dựa trên nguyên tắc: thu đủ về giá trị, nhanh về thời gian để đảm bảo quá trình thu hồi vốn. 5.6 - Nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên: Bằng cách: tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên của công ty đi học tập và nghiên cứu ở các trường đại học có uy tín trong cả nước. Bồi dưỡng sâu về ngoại ngữ, vi tính cho cán bộ nhân viên. III. Đánh giá hoạt động xuất khẩu của Công ty những năm qua (1999-2001). Một số chỉ tiêu Công ty thường sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trực tiếp hiện nay là: Lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu (L): L = Doanh thu XK - Chi phí cho XK Theo phân tích của phòng kế toán Công ty thí L được xác định là: + L99 = 6.205.678.879- 6.184.765.741= 20.913.138 VND Năm 1999 lợi nhuận (sau thuế) thu được từ xuất khẩu hàng hoá (chỉ tính XK trực tiếp) là 30.779.708 VND. + L00 = 5.421.786.420- 5.410.129.579 = 11.656.841VND Năm 2000 lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu là 11.656.841 VND thấp hơn năm 1999 là 9.256.297 VND (giảm 44,3%), đó là biểu hiện không tốt hay xuất khẩu kém hiệu quả. + L01= 6.002.089.685- 5.981.986.027= 20.103.658 VND Năm 2001 lợi nhuận thu từ hoạt động xuất khẩu đã tăng trở lại đạt 20.103.658 VND tăng so với năm 2000 là 8.446.817 VND (tăng 72,5%). Đây là dấu hiệu khả quan cho hoạt động xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới. Chứng tỏ năm 2001 Công ty đã xuất khẩu hiệu quả hơn năm trước, tuy nhiên lợi nhuận đạt được còn quá nhỏ so với tổng lợi nhuận của Công ty năm 2001 (chỉ bằng 1,16%). Như vậy năm 2002 Công ty cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của mình để đáp ứng được yêu cầu của xu thế hội nhập và chiến lược xuất khẩu của Nhà nước. Do thực trạng kinh doanh xuất khẩu trực tiếp của Công ty còn kém hơn hình thức xuất khẩu khác của Công ty nên trong thời gian tới Công ty phải đẩy mạnh hơn nữa hình thức xuất khẩu này nói riêng và hoạt động xuất khẩu nói chung. Hiệu quả sử dụng chi phí xuất khẩu(K): phản ánh doanh thu đạt được khi bỏ ra một đồng chi phí. Công thức tính: K= Doanh thu từ xuất khẩu/ chi phí cho xuất khẩu + Hiệu quả sử dụng chi phí xuất khẩu năm 1999(K99): K99= 6.205.678.879 : 6.184.765.741= 1,003 Kết quả đó cho thấy Công ty bỏ ra 1đồng chi phí và chỉ thu được 1,003 đồng doanh thu. Đây là dấu hiệu của việc xuất khẩu hàng hoá chưa hiệu quả. Doanh thu thu được trên một đồng ch phí còn khá nhỏ nên Công ty phải có những biện pháp tình thế để khắc phục tình trạng này. + Hiệu quả sử dụng chi phí xuất khẩu năm 2000 (K00): K00= 5.421.786.420 : 5.410.129.579= 1,002 Kết quả là năm 2000 khi bỏ ra 1 đồng chi phí Công ty chỉ thu được 1,002 đồng doanh thu. Như vậy, hiệu quả sử dụng chi phí xuất khẩu của Công ty rất thấp thậm chí còn thấp hơn cả năm 2000. Tất nhiên, năm 2000 Công ty gặp phải không ít khó khăn nên việc tìm ra một giải pháp tốt cho thực trạng nàylà chưa thể. + Hiệu quả sử dụng chi phí xuất khẩu năm 2001(K01): K01= 6.002.089.685 : 5.981.986.027= 1,0033 Năm 2001 là năm mà Công ty hoạt động có hiệu quả nhất từ khi thành lập tới nay nhưng trong hoạt động xuất khẩu thì Công ty vẫn còn nhiều hạn chế trong việc zử dụng có hiệu quả chi phí bỏ ra để xuất khẩu các lô hàng. Tuy năm 2001 đã có dấu hiệu phục hồi nhưng mặt bằng kinh doanh chung thì hoạt động xuất khẩu của Công ty vẫn còn yếu cần đẩy mạnh hơn nưã trong thời gian tới. 1- Những ưu điểm: Trong ba năm qua, mặc dù phải trải qua bao khó khăn thử thách trước biến động của thị trường. Nhưng Công ty đã không ngừng phấn đấu và đã tạo cho mình những thuận lợi trong kinh doanh. Và nó đã trở thành mặt ưu của Công ty. - Về kim ngạch xuất khẩu: trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của công ty không ngừng được cải thiện. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu năm 2000 có chững lại so với năm 1999 và năm 2001. Cụ thể năm 1999, kim ngạch xuất khẩu của Công ty đạt 2.272 nghìn USD, năm 2000 đạt 1.379 nghìn USD. Và sang năm 2001 thì con số đó là 2.008 nghìn USD. Nếu xét trong giai đoạn khó khăn chung của nền kinh tế thì đây là một kết quả khá quan trọng, nó góp phần làm tăng tốc độ quay vòng vốn của Công ty. - Quy mô thị trường xuất khẩu của MECANIMEX ngày một mở rộng: Nếu như năm 1999 Công ty có quan hệ buôn bán với khoảng 10 quốc gia khác nhau và thu được giá trị kim ngạch xuất khẩu là 2.272 nghìn USD. Sang năm 2000 do những hậu quả của việc áp dụng luật thuế GTGT, của sự khan hiếm về vốn...đã làm giảm kim ngach xuất khẩu của Công ty xuống còn 1.379 nghìn USD. Năm 2001 là 2.008 nghìn USD. Nhưng số lượng thị trường lại không ngừng tăng lên. Mặt khác, nếu trước đây thị trường xuất khẩu của MECANIMEX tập trung chủ yếu ở khu vực Châu á thì giờ đây ngoài khu vực thị trường này, thị trường Anh, Nga dần trở thành bạn hàng quen thuộc của MECANIMEX, đóng góp đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Điều đó không chỉ thể hiện sự lớn mạnh về quy mô mà còn thể hiện sự chiếm lĩnh lòng tin của khách hàng trong quan hệ làm ăn buôn bán của Công ty. Có được lòng tin như vậy, thị trường rộng lớn như vậy sẽ là một cơ sở vững chắc tạo đà cho sự lớn mạnh của Công ty. Có được kết quả như vậy là do Công ty đã quan tâm đến công tác tìm kiếm nguồn hàng và thị trường và thực hiện nghiêm chỉnh mọi cam kết với khách hàng. - Về danh mục mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của Công ty: Đi liền với quy mô thị trường ngày càng mở rộng là sự gia tăng các mặt hàng xuất khẩu. Tính đến nay, trong danh mục mặt hàng kinh doanh của công ty đã có trên 5 chủng loại mặt hàng khác nhau: thiếc và các loại khoáng sản, các loại dụng cụ cầm tay, các loại máy công cụ , hàng kim khí, hàng nông sản . Đó là một thế mạnh dễ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Mặt khác công ty đã tạo cho mình những mặt hàng chủ lực có giá trị kim ngạch xuất khẩu tương đôí cao là: thiếc, dụng cụ đồ nhgề, kim khí. Đây là một ưu điểm của Công ty. 2 - Những hạn chế cần khắc phục: Qua phân tích thực tế hoạt động kinh doanh xuất khẩu của MECANIMEX bên cạnh những thành tựu nổi bật ở trên Công ty còn một số những tồn tại đó là: - Trước hết tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty còn thấp. Vì vậy xét trên phạm vi doanh nghiệp thì hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm qua đều có hiệu quả, nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội thì còn nhiều hạn chế. - Hạn chế trong chính sách sản phẩm, đó là chính sách sản phẩm chưa có sự nhanh nhạy về việc thay đổi sản phẩm mới cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Về công tác xúc tiến bán hàng còn yếu. Hoạt động quảng caó chưa được chú trọng. Mặt hàng kinh doanh của Công ty còn hạn hẹp, chủ yếu là các mặt hàng truyền thống nhưng chưa đảm bảo đều đặn và gia tăng qua các năm về số lượng và giá trị. - Mặc dù thị trường của Công ty không ngừng được mở rộng nhưng thị phần của Công ty trên thị trường còn rất nhỏ, kim ngạch xuất khẩu thu được từ các thị trường không cao, tăng trưởng chậm và luôn biến động tạo ra khó khăn lớn trong kinh doanh. Bên cạnh đó, số lượng hàng xuất khẩu của Công ty còn manh mún, nhỏ lẻ, chất lượng hàng chưa cao. - Về hình thức xuất khẩu: xuất khẩu gián tiếp là hình thức xuất khẩu chính của Công ty. Hình thức này đem lại hiệu quả không cao và không đảm bảo chủ động trong kinh doanh Trong những năm qua mặc dù Công ty đã có thêm một số thị trường mới nhưng khả năng để duy trì và phát triển còn hạn chế. Hiện tượng đó do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan nhưng điều chủ yếu là nó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. 3 - Nguyên nhân của những tồn tại: Có thể nói trong kinh doanh xuất nhập khẩu, việc tồn tại những ưu khuyết điểm là tất yếu. Điều quan trọng đối với các doanh nghiệp là phải phân tích nhìn nhận đúng những nguyên nhân gây ra đển có thể sửa chữa, nhằm phát huy những điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu của doanh nghiệp mình. 3.1 - Nguyên nhân khách quan: - Chính sách quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước không ổn định, thiếu nhất quán, nhiều chính sách còn mang tính chồng chéo thiếu thống nhất giữa các cấp quản lý (Trung ương - Địa phương, giữa Bộ thương mại và các Bộ, các cơ quan quản lý liên quan: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ công nghiệp, ngân hàng Nhà nước...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100278.doc