Cách sử dụng từ ngữ mới của Đỗ Hoàng Diệu trong tập truyện ngắn “Bóng đè” - Bùi Thị Thanh Lương

Tài liệu Cách sử dụng từ ngữ mới của Đỗ Hoàng Diệu trong tập truyện ngắn “Bóng đè” - Bùi Thị Thanh Lương: 58 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC 1. MỞ ĐẦU Năm 2004-2005, trên văn đàn Việt Nam xuất hiện một cây bút nữ khá độc đáo. Đó là Đỗ Hoàng Diệu với tập truyện ngắn Bóng đè. Vừa xuất hiện, tập truyện đã gây xôn xao giới phê bình văn học. Nhận xét về tác phẩm này, có người thích, có người chê nhưng tất cả đều phải công nhận, đó là một hơi thở mới, một diện mạo mới. Những thông điệp về cuộc sống, về thân phận con người, về sự đổi mới được Đỗ Hoàng Diệu chuyển đến người đọc có phần quyết liệt nhưng bao dung, đầy tính nhân văn. Nghiên cứu tác phẩm, người đọc có những cảm xúc khác nhau, cùng với đó là những nỗi băn khoăn. Khi tiếp cận Bóng đè, chúng tôi không bàn nhiều tới những điểm được hoặc chưa được của tác phẩm mà khai thác tập truyện dưới cái nhìn của người nghiên cứu ngôn ngữ: Đó là sự sáng tạo của nhà văn trong việc sử dụng từ ngữ mới, từ đó bước đầu đưa ra những thông điệp cuộc sống mà tác phẩm mang lại. 2. NỘI DUNG 2.1. M...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách sử dụng từ ngữ mới của Đỗ Hoàng Diệu trong tập truyện ngắn “Bóng đè” - Bùi Thị Thanh Lương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC 1. MỞ ĐẦU Năm 2004-2005, trên văn đàn Việt Nam xuất hiện một cây bút nữ khá độc đáo. Đó là Đỗ Hoàng Diệu với tập truyện ngắn Bóng đè. Vừa xuất hiện, tập truyện đã gây xôn xao giới phê bình văn học. Nhận xét về tác phẩm này, có người thích, có người chê nhưng tất cả đều phải công nhận, đó là một hơi thở mới, một diện mạo mới. Những thông điệp về cuộc sống, về thân phận con người, về sự đổi mới được Đỗ Hoàng Diệu chuyển đến người đọc có phần quyết liệt nhưng bao dung, đầy tính nhân văn. Nghiên cứu tác phẩm, người đọc có những cảm xúc khác nhau, cùng với đó là những nỗi băn khoăn. Khi tiếp cận Bóng đè, chúng tôi không bàn nhiều tới những điểm được hoặc chưa được của tác phẩm mà khai thác tập truyện dưới cái nhìn của người nghiên cứu ngôn ngữ: Đó là sự sáng tạo của nhà văn trong việc sử dụng từ ngữ mới, từ đó bước đầu đưa ra những thông điệp cuộc sống mà tác phẩm mang lại. 2. NỘI DUNG 2.1. Một vài nét về khái niệm từ ngữ mới Trong xã hội, luôn có những sự vật, hiện tượng, sự kiện, khái niệm mới xuất hiện. Đồng thời lại có một số sự vật, hiện tượng, sự kiện, khái niệm dần mất đi hoặc ít được chú ý hơn. Những biến đổi này được phản ánh thường xuyên, liên tục vào vốn từ vựng của hệ thống ngôn ngữ. Bên cạnh những từ ngữ mới, nghĩa CÁCH SỬ DỤNG TỪ NGỮ MỚI CỦA ĐỖ HOÀNG DIỆU TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN “BÓNG ĐÈ” BÙI THỊ THANH LƯƠNG Học viện Khoa học Quân sự TÓM TẮT Từ vựng của một ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu sự phát triển của xã hội. Từ khi đất nước ta bước vào thời kì đổi mới, nhiều khái niệm, sự vật, hiện tượng, hoạt động, thuộc tính mới xuất hiện, kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt từ ngữ mới. Trong việc sáng tạo từ ngữ mới thì đội ngũ nhà văn đóng vai trò rất quan trọng. Đỗ Hoàng Diệu là một trong những nhà văn như vậy. Với tập truyện ngắn Bóng đè, Đỗ Hoàng Diệu đã gửi gắm vào đó những thông điệp về cuộc sống, sự ám ảnh về thân phận con người. Trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu tìm hiểu nội dung, giá trị của tác phẩm mà bước đầu khai thác tập truyện dưới cái nhìn của người nghiên cứu ngôn ngữ. Đó là sự sáng tạo của nhà văn trong việc sử dụng từ ngữ mới, từ đó đưa ra những thông điệp của cuộc sống mà tác phẩm mang lại. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của bài viết gồm 2 phần. Phần 1, quan điểm của người viết về khái niệm từ ngữ mới. Đây là cơ sở để tìm và phân tích từ ngữ mới trên dữ liệu của tập truyện Bóng đè. Phần 2, một số nhận xét có tính gợi mở về cách sử dụng từ ngữ mới của tác giả Đỗ Hoàng Diệu. Từ khóa: Bóng đè, Đỗ Hoàng Diệu, động từ, từ ghép, từ láy, từ ngữ mới, tính từ, thân phận 59KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v mới xuất hiện lại có những từ ngữ, những nét nghĩa bị thu hẹp dần phạm vi sử dụng hoặc biến mất. Đó chính là sự phát triển của từ vựng. Thế nào là từ ngữ mới, nghĩa mới? Khái niệm này có nhiều cách hiểu và những phạm vi sử dụng khác nhau bởi cảm quan có tính xã hội về từ ngữ mới của mỗi người không giống nhau. Bàn về từ ngữ mới, giới Việt ngữ học có hai quan niệm như sau: Quan niệm thứ nhất khẳng định, chỉ có những từ ngữ chưa từng xuất hiện, xét ở một thời điểm nào đó, mới được coi là từ ngữ mới. Đây là quan niệm cực đoan về khái niệm này. Quan niệm thứ hai mềm dẻo hơn cho rằng, từ ngữ mới được xác định trong một giai đoạn và một phạm vi tương đối nào đó, tức là có đề cập đến tính tương đối và tính lịch sử của khái niệm “mới”. Đồng tình với quan điểm này, chúng tôi cho rằng, những trường hợp sau đây được coi là từ ngữ mới: Các đơn vị hoàn toàn mới xuất hiện trong giai đoạn khảo sát. Ví dụ, nếu lấy mốc từ khi đất nước đổi mới (1986) đến nay, có thể coi bao tiêu, cơi nới, doanh nhân, đề đóm, kiểm ngư, nổi cộm, tiếp thị, tín chấp, quan ngại... là những từ ngữ mới. Các đơn vị đã từng có mặt trong vốn từ vựng tiếng Việt nhưng do ít dùng hoặc mang đặc trưng phương ngữ... nên chưa được đưa vào từ điển, ví dụ: ẩn ức, bạo liệt, cảm thức, cao thủ, chế tài, chỉnh trang, chối bỏ, chung cuộc, chung cư,... Trong nhóm các từ kiểu này có thể bao gồm: Những trường hợp do quan niệm của người làm từ điển nên chưa được thu thập vào từ điển hoặc bị bỏ sót, ví dụ: am tường, bẩn tưởi, biện giải, cao nhã, chính trường, hiệu ích, hoà đồng, hội sở, hướng thiện,... Các từ ngữ đã có mặt trong từ điển, nhưng đến nay có thêm nghĩa mới hoặc nghĩa đã có biến đổi, ví dụ: vương miện, lên ngôi, chuyển dịch, chuyển đổi... Các từ ngữ đã có trong vốn từ vựng, được thu thập vào từ điển, nhưng có những biến đổi về phong cách và phạm vi sử dụng như: bố cáo, du học, dung dị, đặc nhiệm, đương nhiệm, sung mãn,... Có thể nói, ngôn ngữ luôn luôn biến đổi và phát triển. Xã hội liên tục tạo ra những từ ngữ mới để phản ánh những sự vật, hiện tượng mới, những khái niệm, quan điểm mới. Đồng thời, người bản ngữ tiến hành đào thải những từ ngữ cũ, nghĩa cũ hay thay đổi nghĩa của từ về độ sâu, về phạm vi sử dụng, về sắc thái ý nghĩa, để hoạt động giao tiếp có thể diễn ra thuận lợi, để ngôn ngữ nói chung và từ vựng nói riêng hoàn thành chức năng của mình. Những quan điểm nêu trên về từ ngữ mới là cơ sở để chúng tôi tiến hành tìm, thu thập và khai thác từ ngữ mới trong các tác phẩm văn học trong đó có tập truyện “Bóng đè” của Đỗ Hoàng Diệu. 2.2. Bước đầu nhận xét về cách sử dụng từ ngữ mới của nhà văn Đỗ Hoàng Diệu trong tập truyện ngắn “Bóng đè” Với 8 truyện ngắn, dưới ngòi bút của nữ văn sỹ, kiểu loại nhân vật nữ tha thiết sống, đắm đuối yêu, mê mải, say sưa với những ham muốn tình dục lần lượt hiện lên trong sự chiêm nghiệm và tưởng tượng của người đọc. Đó là những người phụ nữ “Tất cả đều còn trẻ, khát khao sống, mãnh liệt sống, tràn đầy dục tính Nhân vật trung tâm trong phần lớn các truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu là những người phụ nữ phải gánh chịu cả một quá khứ phi phàm, bị đeo đuổi vì một thứ “tội tổ tông”, họ quá thông minh nhưng lại quá cả tin” (Dương Phương Vinh, 2007). Để góp phần khắc họa chân dung của các nhân vật trong tác phẩm, tác giả đã rất sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ, trong đó có từ ngữ mới. Qua khảo sát, dựa trên những tiêu chí nêu trên, chúng tôi đã thống kê được 207 đơn vị từ ngữ mới. Nội dung sau đây sẽ phân tích trên kho dữ liệu đó. 2.2.1. Tác giả triệt để khai thác giá trị biểu cảm, chi tiết hoá đối tượng phản ánh của từ thuần Việt Đọc văn của Đỗ Hoàng Diệu, người đọc cảm nhận dòng sông ngôn từ cuồn cuộn chảy. Trong dòng sông ấy, từ ngữ mới thuần Việt chiếm tỷ lệ áp đảo với 88,5%, một tỷ lệ được coi là cao nhất trong số các nhà văn đương đại mà chúng tôi thống kê được; từ ngữ mới có nguồn gốc Hán chiếm số lượng khiêm tốn 11,5%. Đọc truyện, chúng ta liên tục bắt gặp những từ ngữ mới có nguồn gốc Việt được tạo ra bởi những sự kết hợp bất thường giữa các tiếng vốn không thường xuyên sóng đôi cùng nhau trong kho từ vựng: vung vấp, láng nhẫy, oại oằn, quỳ mọp, đừng đững, roạc ngắn, oặn ẹo, rực rào, chớp chảo, hoang đàng, 60 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC “Mẹ chồng tôi loét quét đôi guốc vào buồng. Âm thanh roạc ngắn từng cơn” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). Loét quét là từ láy, thuần Việt mô phỏng âm thanh như tiếng guốc, dép đi lê trên nền cứng. Đây là biến thể âm thanh phần thanh điệu của loẹt quẹt, nhưng với từ này thì tiếng động phát ra dường như nhẹ hơn, như rón rén hơn. Âm thanh như có hồn, chứa đựng tâm trạng của người tạo ra nó. “Loang loáng bãi ngô thãng thột im lìm hứng gió sương” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). Trong câu trên, thãng thột diễn tả trạng thái buông thõng xuống và đu đưa một cách nhẹ nhàng, yếu ớt. Một cách diễn tả rất độc đáo. Bãi ngô bỗng như tỉnh giấc chất chứa cảm xúc như con người. Những trường hợp sau cũng tương tự như vậy. “Tôi thức dậy bởi giọng nói mỉa mai kéo dài đu đượi chua đôi môi hóng hớt” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). “Người Thụ thấm đẫm mồ hôi, giọng anh đừng đững” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). Độc giả có cảm giác tác giả “viết thảnh thơi như một người rong chơi” (Dương Phương Vinh, 2007), từ ngữ cứ tràn ra, bật ra tự nhiên như cuộc sống vốn vậy. Cơn mưa từ ngữ mới thuần Việt đã để lại những ấn tượng thật sự đặc biệt đối với người đọc. Đây là loại từ giàu giá trị biểu cảm, chi tiết hoá đối tượng phản ánh, gần gũi những hoạt động giao tiếp hàng ngày của người bản ngữ. Từ đó có thể thấy, sự khác biệt trong việc sử dụng từ ngữ mới của các nhà văn khác với các nhà báo. Nhà báo thường dùng các từ ngữ mang nguồn gốc Hán Việt. Các nhà văn nói chung và Đỗ Hoàng Diệu nói riêng có xu hướng sử dụng từ ngữ mới thuần Việt. 2.2.2. Từ láy và từ ghép thuộc từ loại động từ, tính từ được tác giả sử dụng với tần số cao Qua thống kê, chúng tôi nhận thấy, về mặt cấu tạo, từ ghép đẳng lập chiếm tỷ lệ cao nhất (41,6%), tiếp đó là từ ghép chính phụ (30,8%) và từ láy (24,2%). Một trong những sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ mới của Đỗ Hoàng Diệu thể hiện ở việc, chị đã tạo nên những từ ghép đẳng lập bằng việc ghép những động từ, tính từ vốn không thường xuyên đi với nhau để tạo nên những ấn tượng lạ: tràn + lướt = tràn lướt; quắn + đan = quắn đan; quệt + níu = quệt níu, vờn + rượt = vờn rượt; căng + rạn= căng rạn Có rất nhiều ví dụ tương tự mà người đọc có thể tìm thấy trong bất kì trang nào trong tác phẩm: đượm rát, đừng đững, bạo liệt, buốt nhức, buốt rát, cằn cộc, oằn oại, cong rợp, dại cuồng, dứt day, hao gầy, ù mề, ướt nhoẹt, láng mát, loá rực, lặng vắng, lặng xám, loạn cuồng, xoáy liệt, lãng nhoẹt, dậy nực, phỉnh gạt, tuôn túa Việc sử dụng phương thức chuyển nghĩa để tạo nên những từ ngữ chỉ màu sắc chứa đầy tâm trạng như màu đêm tối, màu trầm uất, màu thương nhớ, màu hoài niệm, màu hoang hoải cũng được tác giả thường xuyên sử dụng. “Chiếc áo cô đang mặc mang màu hoài niệm” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). Xét về mặt từ loại, tính từ là tiểu loại được nhà văn ưa dùng cụ thể, tính từ chiếm 60,3%, động từ chiếm 36,2%, từ loại danh từ chiếm tỷ lệ không đáng kể 2,7%. Trong tác phẩm văn chương, giọng điệu và cách sử dụng từ ngữ góp phần tạo nên phong cách nhà văn. Với lối viết khi táo tợn, khi khinh bạc, xót xa, Đỗ Hoàng Diệu đã lột tả tương đối thành công những giằng xé nội tâm của nhân vật. Ngòi bút của chị chú trọng đến những cảm giác, xúc cảm. Do vậy những tính từ, động từ chỉ hoạt động, trạng thái, cảm giác đớn đau, đắm say, hạnh phúc được tác giả sử dụng nhiều hơn cả. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều đoạn có cách hành văn như: “Những tiếng ho đứt rời, cằn cộc, tiếp tục cay thét, làm như mẹ chồng tôi muốn biểu lộ ganh ghét với chỗ tôi đang nằm. Hai bàn tay thả xuống mạnh bạo, riết róng, hơi thở dập dồn” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). “Dòng suy nghĩ miên man của tôi bị cắt đứt cùng với sự choàng ập của bóng tối. Thứ ánh sáng mờ mờ, nhờ nhợ đèn công viên lay lắt một hồi đã lụi. Trống rỗng tựa một nhánh khô mùa đông, tôi mệt mỏi buông bỏ thân mình xuống đệm” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). “Mồ hôi tướp ướt, rãi rề xuống mặt phản ẩm rít” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). “Một tiếng nhẹ như gió rít trơn lọn, hình như có cái gì đó láng nhẫy bay qua” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). Người đọc cảm nhận các chi tiết chồng chất, ngồn ngộn những trạng thái, hành động đan cài vào nhau khiến cho tốc độ câu chuyện được đẩy nhanh, rất tương thích với đời sống hiện đại. Sắc thái giọng kể trong Bóng đè 61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v khá đa dạng, ngôn từ có đoạn được trau chuốt công phu, có đoạn lại trễ nải như mệt mỏi, như phải gắng sức để viết. Nhiều từ ngữ mới được tạo ra giúp cho những áng văn giàu nhạc tính, chứa đựng cảm xúc mãnh liệt có phần bạo liệt. Từ láy liên tục được sử dụng. Tác giả ngẫu hứng tạo ra nhằm chuyển tải chân thực nhất cảm xúc cũng như cảm giác mạnh, cực mạnh của nhân vật. Đặc biệt, trong những đoạn tả cảnh bóng đè, tác giả đã làm được một việc ít nhà văn làm được. Đó là sự pha trộn nhuần nhuyễn giữa bạo lực và sex trong không gian đầy ma mị, liêu trai. Một loạt các tính từ, động từ được thể hiện dưới dạng láy đôi đã góp phần diễn tả sự chao đảo của cảm giác nhân vật, giữa thực và hư, giữa ảo rợn và nhục cảm, giữa đau đớn và khoái lạc: hanh háo, hứng háo, khắn khít, khét khô, rịn rạn, rượi rười, nhào nhõe, đúa đen, rà rẫm, xoa xuê, chờm hỡm, loen nhoen, lắng xắng, khập khọe, nghê ngáo Là một nhà văn, trong sáng tác của mình, luôn đề cao bản ngã, do vậy, phần lớn những gì tuôn chảy dưới ngòi bút của Đỗ Hoàng Diệu là những từ ngữ miêu tả cảm giác thiên về bản năng, một bản năng mãnh liệt của các nhân vật nữ. Họ là những người luôn bị ám ảnh bởi ba chiều thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Họ luôn bị giằng xé giữa những góc khuất, bản năng dục tính với những mối quan hệ hôn nhân, gia đình, xã hội phức tạp. Họ vừa muốn đè nén lại vừa muốn căng ra, vỡ ra để đón lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống: “Tôi khám phá ra những chiếc bóng trên tường không đơn thuần là những chiếc bóng. Chúng cũng sống động như thân thể tôi khát thèm vực thẳm. Chúng vờn rượt trên da thịt non tơ hứng háo của tôi” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). “Thức giấc, tôi thấy mình khát cháy cổ họng. Làn môi khét khô, căng rạn và mồ hôi lấm tấm trên trán, tôi nghĩ mình bị sốt. Người tôi ơn ớn. Mặt phản ẩm rít...”(Đỗ Hoàng Diệu, 2005). “Chỉ là linh hồn, một cuộc sống mới chỉ có linh hồn. Thể xác anh trả về cho vụng dại từ giọt máu thai nhi bên bức tường cao Tu viện dòng Mến Thánh giá, trả về cho những người con gái từng chia thịt sẻ da, môi mắt với anh.” “Đồng loã cùng cơ thể mát thơm, uốn dẻo và trái tim hỗn mang của tôi là mầu đêm tối. Tràn lướt trong mênh mông, tôi phiêu du thân thể, phiêu du đêm đặc, phiêu du tâm linh. Tôi thấy mình lặn lội vào rừng thẳm, nơi những cây trò cao vút phế hoang cổ tích, nơi dây đeo chằng chịt quắn đan. Tôi thấy mình bì bõm giữa đầm lầy, bùn sánh đặc quệt níu làn da hực hội cơn khát dưới bầu trời xám cứng như màu trầm uất” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). Xuất phát từ sự đồng cảm, xót thương cho thân phận người phụ nữ, các cây bút truyện ngắn nữ nói chung và Đỗ Hoàng Diệu nói riêng thường đề cập đến người phụ nữ với tiếng nói tâm hồn người trong cuộc. Những người phụ nữ trong tập truyện này đều rất trẻ, nữ tính với những nét đẹp rất riêng nhưng họ đều có một điểm chung, đó là sự cô đơn. Cô đơn ngay trong ngày ra đời, ngay trong ngôi nhà của mình. “Tôi được sinh ra ngay trên bậc thềm của một ngày tháng hai giá lạnh. Để rồi sau này, tôi làm mẹ đau đớn trong tim với nhiều cơn choáng ngất” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). “Bên ngoài, gió đã ngừng, tôi chẳng còn trông thấy vực thẳm mặt hồ sau cửa kính. Tất cả đã biến mất trong sự đe doạ của ánh sáng loá rực mà Công vừa khơi nhóm” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). Bên cạnh việc khắc họa thân phận người phụ nữ, màu sắc hiện thực của cuộc sống, thậm chí hiện thực đến trần trụi được thể hiện khá rõ trong các tác phẩm của ngòi bút sắc sảo này. Khi diễn tả sự đau đớn của người đàn ông bị bệnh hủi, người đọc cảm thấy nhà văn đã đau cái đau của nhân vật, đã cảm cái cảm của nhân vật. Từ ngữ mới có sức biểu cảm mạnh, xuất hiện với tần số rất cao: “Người đàn ông hiện ra rõ ràng hình dáng. Hai cườm tay lui khui, ngúc ngoắc bấu xé, vằng đập thân thể cường tráng nhưng tan hoang nhiều chỗ lở nham nhở. Một cườm tay hơ hoác, một cườm tay chỉ còn hai ngón tay đeo lúc loác đang quờ quạng cấu xé man dại. Cường độ tiếng hét lên cao mãi, tôi có cảm giác nó xuyên qua, vọng thấu cánh rừng nguyên sơ, về nơi đâu đó xa lắm. Về nơi tạo hoá, Thượng đế đã tạo ra con người và cũng nặn tặng con người nỗi khổ đau. Tiếng hét thấu đến tận cùng” (Đỗ Hoàng Diệu, 2005). Ở ngữ cảnh trên, bằng việc sử dụng hàng loạt từ láy mới: lui khui (là biến thể của lui cui: mải mê, cắm cúi vào việc đang làm không để ý đến xung quanh), lúc loác (đưa qua, đưa lại liên tiếp), hơ hoác và những từ láy đã có: rõ ràng, ngúc ngoắc, nham nhở, quờ quạng, 62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC những vết thương với sự trầy xướt, với sự quằn quại vì đau đớn hiện lên rõ nét trước sự đồng cảm của độc giả. Nhờ nó, người đọc còn thấu hiểu được sự sẻ chia, tình cảm nhân ái đầy nữ tính của cây bút trẻ. 3. KẾT LUẬN Tuy còn có những quan điểm trái chiều nhưng nhìn chung, tập truyện ngắn Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu là tập truyện hay, mang nhiều thông điệp văn hóa có ý nghĩa. Tác giả đã rất thành công trong việc sáng tạo và sử dụng từ ngữ mới, đó là: mảng từ thuần Việt được nhà văn triệt để khai thác, sử dụng; số lượng từ ghép chính phụ, từ ghép đẳng lập và từ láy được sử dụng tương đối đồng đều; tính từ là từ loại được sử dụng nhiều nhất, danh từ được sử dụng ít nhất. Chính cách sáng tạo và sử dụng từ ngữ mới của nhà văn đã góp phần tạo nên thành công của tập truyện, góp phần làm dày thêm vốn từ vựng của tiếng Việt hiện đại./. Tài liệu tham khảo: 1. Đỗ Hoàng Diệu (2005), Bóng đè, NXB Đà Nẵng. 2. Bùi Thị Thanh Lương (2006), Từ ngữ mới xuất hiện trong tiếng Việt giai đoạn từ 1986-2005, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội. 3. Dương Phương Vinh (2007), Đỗ Hoàng Diệu và “Bóng đè” trong ngày giông bão, NXB Hà Nội. THE USE OF NEW VOCABULARY BY DO HOANG DIEU IN HER SHORT STORY SERIES “INCUBUS” BUI THI THANH LUONG Abstract: The vocabulary of a language is a mirrow reflecting the development of the society. Since our country started to innovate, many concepts, things, phenomena, activities and attributes have appeared, resulting in the appearance of numerous new words and phares. In creating the new vocabulary, the writers play a very important role. Do Hoang Dieu is such an author. In her short story series “Incubus”, Do Hoang Dieu expressed the message of life and the obssession of human condition. In this article, we will not go into details about the content and value of the words but initally exploit it with the view of language researchers. That is the writer’s creativeness in using new vocabulary, and from which she showed the messages of life that the work brings about. Besides the introduction, the content of the work consists of 2 parts. The fisrt part expresses the author’s view of point about the term “new vocabulary”, which is the basis in order to find and analyse new words and phares used by Do Hoang Dieu. In the second part, thers are some suggestive remarks about Do Hoang Dieu’s use of new vocabulary. Keywords: Incubus, Do Hoang Dieu, verbs, compound words, repeated words, new vocabulary, adjectives, condition Ngày nhận: 15/9/2016 Ngày phản biện: 15/9/2016 Ngày duyệt đăng: 20/9/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf18_7326_2137203.pdf
Tài liệu liên quan