Báo cáo Tốt nghiệp Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC

Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC: Báo cáo tốt nghiệp “Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC” Mục lục Lời mở đầu…………………………………………………………………...1 Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị doanh nghiệp…………………………………………………………………............6 I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp ...................................................... 6 1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp 6 1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá.................................... 6 1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay ............... 8 1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp .... 8 1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá. ... 11 1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu khách quan khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. ...

pdf103 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1065 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp “Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC” Mục lục Lời mở đầu…………………………………………………………………...1 Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị doanh nghiệp…………………………………………………………………............6 I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp ...................................................... 6 1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp 6 1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá.................................... 6 1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay ............... 8 1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp .... 8 1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá. ... 11 1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu khách quan khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. ............................................................................................................... 12 1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta...................................................................... 14 II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp ................................................ 15 2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh ..................................................... 15 2.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát ............................................................. 15 2.1.2. Môi trường đặc thù ................................................................................... 18 2.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp ......................................................... 20 2.2.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp…………………………...20 2.2.2. Vị trí kinh doanh ...................................................................................... 21 2.2.3. Uy tín kinh doanh…………………………………………………...21 2.2.4. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động .................................... 22 2.2.5. Năng lực quản trị kinh doanh.................................................................... 23 III. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp ............................................. 24 3.1. Xác định giá trị doanh nghiệp là gì?................................................................. 24 3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp............................................... 24 3.2.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần .............................................................. 24 3.2.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính trong tương lai .................. 27 3.2.3. Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại) ........................... 28 3.2.4. Phương pháp định giá dựa vào PER (Price Earning Ratio) ....................... 29 IV. Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp trong công tác kiểm toán ................. 30 4.1. Vai trò của kiểm toán trong xác định giá trị doanh nghiệp ............................... 30 4.2. Các phương pháp kiểm toán được sử dụng trong xác định giá trị doanh nghiệp ............................................................................................................................... 31 4.2.1. Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ .................................................... 32 4.2.2. Phương pháp kiểm toán chứng từ ............................................................. 35 4.3. Hệ thống mục tiêu của kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và mục tiêu xác định giá trị doanh nghiệp ............................................................................................... 38 4.4. Lập kế hoạch tổng quát .................................................................................... 39 4.4.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán. ........................................................... 39 4.4.2. Thu thập thông tin cơ sở. .......................................................................... 40 4.4.3. Thu thập thông tin nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. ............................... 41 4.4.4. Thực hiện các thủ tục phân tích ................................................................ 42 4.4.5. Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát ......... 42 4.5. Thiết kế chương trình kiểm toán ...................................................................... 42 4.6. Thực hiện kiểm toán, xác định giá trị DN và báo cáo xác định giá trị DN. ...... 43 V. Tóm tắt quá trình phát triển của công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam ................................................................................................ 44 5.1.Từ năm 1992 đến năm 6/5/1996 ....................................................................... 44 5.2.Từ 7/5/1996 đến 28/06/1998 ............................................................................. 45 5.3.Từ 29/06/1998 đến 08/09/2002 ......................................................................... 48 5.4.Từ 09/09/2002 đến nay ..................................................................................... 49 5.4.1. Các căn cứ thực tế để xác định giá trị doanh nghiệp ................................. 49 5.4.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt nam ..................... 50 5.4.3. Thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp ................................................... 51 5.4.4. Các tài sản không nằm trong giá trị thực tế của doanh nghiệp ................... 51 5.4.5. Đối tượng áp dụng để xác định giá trị doanh nghiệp ................................. 51 5.4.6. Căn cứ xác định chất lượng tài sản ........................................................... 52 Chương II: Thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để Cổ phần hoá ở AASC………………………………...52 I. Đặc điểm của công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán với công tác xác định GTDN. ........................................................................................................ 52 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của AASC……………………………...52 1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty. ............................................................................. 55 1.3. Quy trình kiểm toán để xác định giá trị doanh nghiệp do AASC thực hiện. .... 58 II. Thực tế xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại AASC………………………………………………………...……..…………..60 2.1. Phương pháp định giá ...................................................................................... 61 2.1.1. Nguyên tắc định giá .................................................................................. 61 2.1.2. Phương pháp tính ..................................................................................... 61 2.2. Thực hiện kiểm toán xác định gía trị doanh nghiệp .......................................... 62 2.3. Báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp ............................................................. 81 Chương III: Phương hướng giải quyết và giải pháp hoàn thiện đổi mới công tác xác định giá trị DNNN để Cổ phần hoá tại AASC………………………………………………………………84 3.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở AASC .. 84 3.2. Định hướng hoàn thiện .................................................................................... 86 3.3. Thực trạng công tác xác định giá trị doanh nghiệp ........................................... 87 3.3.1. Đối với AASC .......................................................................................... 87 3.3.2. Đối với các chế độ hiện hành ................................................................... 90 3.4. Những kiến nghị để thực hiện .......................................................................... 92 Danh mục các tài liệu tham khảo………………………………96 Lời mở đầu ở nước ta, ngay từ những năm 1986, khi Nhà nước thực hiên chuyển cơ chế quản lý Nhà nước, nền kinh tế thị trường bắt đầu bung ra phát triển dần dần và mạnh mẽ. Là một trong các yếu tố quan trong của thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên mạnh mẽ. Lúc này, doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ rõ những điểm yếu của mình là bị động, không tự chủ về tài chính và hoạt động kinh doanh, hoạt động không hiệu quả do được Nhà nước tài trợ và được bù lỗ khi bị lỗ, bộ máy thì cồng kềnh trong khi việc làm không có… Nhận ra những điểm yếu trên và các ưu điểm khác, Nhà nước đã đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nứơc nhằm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, huy động vốn của toàn xã hội và phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động. Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp Hành TW Đảng khoá IX đã chỉ rõ: ‘…cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó cần sửa đổi phương pháp xác địnhgiá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị trường, nghiên cứu đưa ra giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp...”. Nhà nước ta đã không ngừng cải thiện, đổi mới công tác xác định GTDN. Điều đó đựơc thể hiện qua các văn bản Thông tư số 36/TC-CN, Quyết định 202/CT ngày 8/5/1992, Thông tư 50/TC/TCDN ngày 30/8/1996, Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996, Thông tư số 104/1998/TT-BTC ngày 29/6/1998, Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, Nghị định 64/2002/NĐ-CP, Thông tư số 76/2002/TT-BTC, 79/2002/TT-BTC về việc chuyển doanh nghiệp nhà nứơc thành công ty cổ phần. Và do đó, chừng nào còn doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá thì công tác xác định GTDN luôn là một vấn đề nóng hổi và quan trọng. Do đó, em quyết định chọn đề tài: “Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC”. Xác định GTDN là một vấn đề phức tạp từ khi Nhà nước ta thực hiện CFH đến nay. Từ lý luận đến thực tiễn là một vấn đề lớn. Các văn bản hướng dẫn của Nhà nước không lường hết được các vấn đề nảy sinh, dẫn đến GTDN được xác định có sự chênh lệch khá lớn giữa các phương pháp khác nhau và các tổ chức định giá khác nhau. ở đây, cũng như tên đề tài đã nêu, tác giả đề cập đến vấn đề xác định GTDN có liên quan đến công tác kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập. Như vậy, kiểm toán xác định GTDN nhà nước để cổ phần hoá bao gồm hai phần là: - Kiểm toán từng khoản mục trên BCTC. - Định giá tài sản. Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị Doanh nghiệp I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp 1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp 1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá Theo Các - Mác, hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng, giá trị được xác định ở mặt chất và mặt lượng: - Mặt chất của giá trị là hao phí lao động của con người - Mặt lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động. Khi trao đổi trên thị trường, lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá. Sự cạnh tranh trong nội bộ ngành hình thành nên giá trị thị trường, cạnh tranh giữa các ngành sẽ hình thành nên giá cả sản xuất. Khi tiền tệ ra đời thì giá trị của hàng hoá được phản ánh thông qua giá cả. Do sự tác động của cung cầu mà giá cả tách rời giá trị nhưng yếu tố quyết định giá cả vẫn là giá trị. - Giá trị sử dụng là khái niệm dùng để chỉ những công dụng, lợi ích mà hàng hoá có thể mang lại cho con người khi tiêu dùng nó. Mỗi loại hàng hoá đều có những công dụng riêng biệt, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào giá cả. Trên thực tế, do quy luật cung cầu của nền kinh tế thị trường, giá trị của hàng hoá được đánh giá không chỉ bằng các chi phí thời gian lao động xã hội cần thiết mà còn bởi giá trị sử dụng dưới quy luật cạnh tranh. Có các khái niệm giá trị hàng hoá sau: - Giá trị nhượng bán: là giá cả của hàng hoá được hình thành trong điều kiện bình thường chịu tác động của quy luật cung cầu. Nó tương ứng với khái niệm giá cả của Mác. Giá trị nhượng bán còn được gọi là giá thị trường. - Giá trị đổi mới: là khái niệm dùng để chỉ các khoản chi tiêu cần thiết để thay thế mới một tài sản. - Giá trị mua vào: giá ghi trên sổ kế toán, đây chính là giá gốc, thường không tính đến yếu tố thị trường làm thay đổi giá cả... - Giá trị thanh lý: là mức giá chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tài chính. Đây thường là hậu quả đối với các DN bắt buộc phải thanh lý. Tài sản của DN trong những trường hợp như vậy có nguy cơ bị bán phá giá, tức không theo giá thị trường. - Giá trị hoạt động: khi bán một DN đang hoạt động, mức giá thu được thường có mức chênh lệch so với giá trị thanh lý. Khoản chênh lệch giữa hai giá trị đó gọi là giá trị hoạt động, nó tượng trưng cho giá trị về mặt tổ chức. - Giá trị theo công dụng: là mức giá chỉ ra các khoản chi tiêu cần thiết để có được một tài sản tương đương tức có cùng chất lượng, quy cách. Tóm lại mặc dù có nhiều khái niệm giá trị được đưa ra, nhưng tiêu chuẩn để nhận biết giá trị hàng hoá trong hoạt động kinh doanh có thể được chia là ba loại: - Loại 1: Giá trị theo sổ kế toán còn gọi là giá lịch sử (historical cost) hay giá gốc - Loại 2: Giá trị ước tính theo giá hiện hành – giá thị trường - Loại 3: Giá trị ước tính theo công dụng của tài sản 1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay Trong nền kinh tế thị trường, luôn có sự biến động trong việc sản xuất hàng hoá, có khi tại thời điểm này, khi mà nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm xuống thì số lượng hàng hoá tiêu thụ sẽ bị giảm, các nhà sản xuất sẽ giảm quy mô sản xuất xuống, và ngược lại, khi nhu cầu tiêu dùng tăng thì các DN lại mở rộng quy mô sản xuất. Cùng với sự lớn lên của giá trị hàng hoá, nhà nước sẽ phải in thêm số lượng tiền để phù hợp với sức mua hàng hoá của người tiêu dùng. Do đó, luôn luôn có sự khác biệt về giá trị của đồng tiền giữa các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Nếu ta có một số lượng tiền trong tay, nếu ta dùng để đầu tư và giả sử không gặp rủi ro về đầu tư, trong tương lai ta sẽ thu được một khoản thu nhập từ số tiền đầu tư đó với lãi suất lớn hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ ở thời điểm hiện hành vì hoạt động đầu tư vào trái phiếu Chính phủ là hoạt động đầu tư ít rủi ro nhất. Nếu ta không dùng để đầu tư, thì sau đó, trong tay ta vẫn có từng ấy giá trị tiền. Như vậy, khoản chênh lệch giữa việc đầu tư và không đầu tư chứng tỏ tiền có khả năng sinh lời, và người ta gọi đó là giá trị thời gian của tiền. Cũng từ lý luận trên, nếu ta dùng số tiền đó cho đối tượng khác vay để hoạt động kinh doanh thì sau một khoảng thời gian ta sẽ thu được một số tiền lãi từ việc cho vay. Khoản tiền mà người đi vay phải trả cho người cho vay gọi là chi phí sử dụng vốn vay. Chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất trong các cơ hội có thể được lựa chọn đã bị bỏ qua. 1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp a) Doanh nghiệp DN là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá nhỏ. Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là DN nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó. Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Xét theo mục tiêu hoạt động, người ta có thể chia DN thành 2 loại: DN công ích và DN kinh doanh. - DN công ích: là DN được thành lập ra nhằm mục tiêu chính trị, xã hội. Lợi nhuận chỉ là mục tiêu thứ yếu, mục đích của nó là mục tiêu xã hội: không chỉ là đóng góp được bao nhiêu thuế cho nhà nước mà còn được thể hiện ở chỗ giải quyết được bao nhiêu công ăn việc làm, mang lại bao nhiêu thu nhập cho các nhà cấp vốn, tổng giá trị mà nó đóng góp vào GDP của nền kinh tế... - DN kinh doanh: là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận của DN kinh doanh là lợi ích mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. Lợi ích kinh doanh là ở các khoản thu nhập dưới hình thức như lợi nhuận sau thuế, lợi tức cổ phần... Theo quan điểm của Nhà nước Việt nam, công ty Cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp.Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý, có tên gọi, có con dấu riêng (theo Điều 1, luật Doanh nghiệp nhà nước, 20/04/1995). Như vậy, ngoài những đặc điểm chung của DN, DNNN còn có những đặc điểm sau: - DNNN là tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao - DNNN do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong DN là thuộc sở hữu của nhà nước, DN quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước. - DNNN có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật. - DNNN là DN chịu trách nhiệm hữu hạn Có 2 loại DNNN là DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. - DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. - DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng, theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh… Như vậy, DNNN là DN nắm giữ những ngành kinh tế chủ đạo có tác dụng điều hoà nền kinh tế quốc dân. b) Giá trị doanh nghiệp Trước khi xem xét GTDN, ta thấy cần làm rõ một số đặc điểm của doanh nghiệp như sau: - DN là một đơn vị, một tổ chức kinh tế hoạt động. Thông qua sự hoạt động mà người ta nhận ra DN. DN không phải là một tập hợp các loại tài sản. Khi mà nó chỉ đơn giản là một sự hỗn loạn các tài sản đơn lẻ, rời rạc mà người ta có thể thanh lý, phát mãi từng thứ riêng biệt như những hàng hoá thông thường thì nó không còn đầy đủ ý nghĩa của một DN. Và do vậy, khái niệm GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho những DN đang còn hoạt động và sẵn sàng hoạt động. - DN là một tổ chức vừa phi vật thể, vừa là vật thể. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, DN cũng được coi là một loại hàng hoá, nó là một loại hàng hoá đặc biệt. Nó có thể được đem rao bán trên thị trường và bị ảnh hưởng bởi quy luật giá trị và các quy luật khác trên thị trường. - DN là một tổ chức, một đơn vị, một hệ thống và đồng thời cũng là một phần tử trong hệ thống lớn – nền kinh tế. Do đó, sự tồn tại của DN ở mối quan hệ của nó với các phần tử khác của hệ thống tức mối quan hệ với các đơn vị, thể nhân và pháp nhân kinh tế khác. Sự tồn tại của DN không chỉ được quyết định bởi các yếu tố bên trong DN mà còn bởi các yếu tố bên ngoài như khách hàng, người cung cấp, người cho vay, các luật, chính sách... Doanh nghiệp có tồn tại được hay không là nhờ vào các mối quan hệ trên thị trường. Các mối quan hệ này mang tính quyết định đến sự phát triển, tồn tại và thành công của doanh nghiệp. Do đó, khi đánh giá về doanh nghiệp, người ta phải quan tâm đến cả các mối quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp trên thị trường. - Nếu nhìn nhận doanh nghiệp bằng con mắt của các nhà đầu tư thì việc mua sắm TSCĐ và lưu động không ngoài mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt động, lợi ích của DN đối với các nhà đầu tư là ở các khoản thu nhập từ hoạt động SXKD. Vì mục đích của các nhà đầu tư là liệu đặt vốn kinh doanh của mình và thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng vốn. Vì vậy, theo các nhà đầu tư thì giá trị của doanh nghiệp là giá trị của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đem lại cho nhà đầu tư từ các hoạt động kinh doanh của mình. Tóm lại, qua việc phân tích trên ta có thể thấy tồn tại hai cách tiếp cận trong việc xác định GTDN là: - Trực tiếp đánh giá giá trị của các tài sản trong DN - Đánh giá giá trị của các yếu tố, tổ chức hoặc bằng một kỹ thuật nào đó để lượng hoá các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. 1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá. Trong nền kinh tế thị trường, DN đựơc coi như một loại hàng hoá, chúng có thể được mua bán, trao đổi. Vì vậy, nhu cầu đánh giá hay xác định giá trị đối với loại tài sản này xuất hiện là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong việc điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng như trong hoạt động quản trị kinh doanh của các DN luôn cần thiết các thông tin về GTDN. Giá trị của DN là bao nhiêu, cao hay thấp luôn là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân kinh tế có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các DN. 1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu khách quan khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường thì xu hướng CPH một bộ phận các DNNN đã diễn ra như là một quy luật, điều này có thể được giải thích bởi 2 lý do là: 1) Các DN nhỏ nếu muốn tồn tại trên thị trường cạnh tranh gay gắt với các DN lớn thì phải góp vốn để tạo ra DN lớn có sức cạnh tranh lớn hơn. Vì ưu thế của DN lớn là có số lượng vốn lớn, quy mô sản xuất lớn, và có lợi thế trong việc nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, đổi mới quy trình công nghệ... để có sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành rẻ và có thể tiêu thụ tốt hơn sản phẩm cùng loại. 2) Cũng do sự cạnh tranh và rủi ro trong kinh doanh, các DN lớn tồn tại một khoản tiền vốn nhàn rỗi, không muốn gặp nhiều rủi ro nên phải phân tán số vốn của mình vào các DN khác bằng cách góp vốn mua cổ phần ở nhiều DN khác. Đây là xu hướng sát nhập các DN nhỏ thành DN lớn trên thế giới. Điều này có nghĩa là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các DN dẫn đến quy luật đào thải, các DN nhỏ sẽ bị chèn ép dẫn đến phá sản. Các DN nhỏ không muốn phá sản, thì phải thu hút vốn thêm nhằm mở rộng thị trường, phát triển sản xuất. Cũng do tính cạnh tranh khốc liệt của thị trường mà trong các DN lớn tồn tại một lượng vốn nhàn rỗi, để giảm rủi ro trong đầu tư, DN lớn này sẽ phân tán nguồn vốn đầu tư của mình. DNNN với sự quản lý kém, hoạt động thiếu hiệu quả cũng nằm trong xu thế khách quan đó. Thực tiễn nhiều thập kỷ qua cho thấy, kinh tế quốc dân kém hiệu quả hơn kinh tế tập thể và tư nhân. Các DNNN làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ. Nguyên nhân chính là do không thực sự có động lực để thúc đẩy làm ra nhiều lợi nhuận. Sự thua lỗ này lại được Nhà nước bao cấp, tài trợ nhằm đảm bảo cho DNNN hoạt động tốt theo chủ trương kế hoạch KTXH của Nhà nước. Điều này làm mất tính tự chủ của DN và tạo sự ỷ lại vào nguồn vốn Nhà nước. Từ các thực tế trên cho thấy, xu hướng thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xu hướng đa dạng hoá các loại hình sở hữu. “Sở hữu nhà nước không đồng nghĩa với hiệu quả và mục đích của sự phát triển mà chỉ là một công cụ quan trọng và hữu hiệu cùng với công cụ tài chính và tiền tệ để nhà nước thực hành việc điều tiết định hướng vào nền kinh tế, khu vực kinh tế nhà nước chỉ nên thu hẹp ở những lĩnh vực có vai trò quyết định đến sự phát triển và ổn định của nền kinh tế như giao thông vận tải, bưu điện,…”. Các DNNN ở Việt nam hoạt động kém hiệu quả. Nguyên nhân là do: - Hệ thống kế hoạch hoá và tài chính cồng kềnh và cứng nhắc vì được quản lý theo hệ thống hành chính từ trên xuống theo nhiều cấp trung gian. - Tính tự chủ trong quản lý và kinh doanh bị hạn chế vì nhiều quy chế liên quan đến quyền sở hữu của DN. - Sự độc quyền của các DNNN trên thị trường đựơc pháp luật Việt nam củng cố đã làm mất đi những động lực nâng cao hiệu qủa SXKD - Được tài trợ bởi nguồn ngân sách nhà nước, do đó không có động lực nâng cao hiệu quả kinh doanh để tồn tại trong cạnh tranh với các DN tư nhân vì không thể “bị chết”. - Hoạt động của DNNN là nhằm đảm bảo cho xí nghiệp có hoạt động dễ chịu và ổn định, tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên, do đó dẫn đến quan niêu, mua sắm thừa thiết bị, cơ chế phình to... - Do phải tài trợ cho các DNNN bị lỗ, nên nhà nước bị thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài nhiều. Vì vậy, nhà nước ta đã thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và đã thực hiện chủ trương CPH ngay sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Do đó, để cải thiện DNNN cho phù hợp với cơ chế thị trường, cần thiết phải cổ phần hoá. Tuy nhiên, CPH không phải là đơn giản, chúng ta phải giải quyết rất nhiều vấn đề phức tạp: - Xác định GTDN như thế nào là chính xác - Đất có tính vào GTDN không và tính như thế nào - Giải quyết vấn đề lao động như thế nào khi DNNN chuyển sang công ty cổ phần. Và một trong những vấn đề bức xúc nhất mà nước ta không ngừng nghiên cứu và hoàn thiện từ sau đổi mới đến nay là vấn đề xác định GTDN. Việc đưa ra các phương án, đề án thực hiện khác xa so với thực tế, GTDN qua kiểm kê cho thấy có nhiều chênh lệch và thường không chính xác. 1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. CPH là một trong nhiều cách để tư nhân hoá tài sản của DN. Tư nhân hoá là quá trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân. CPH có tác dụng: - Đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu. - Thương mại hoá mọi hoạt động của DN (chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính, cắt bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động DN). - Luật pháp hoá các tổ chức quản lý (theo luật Công ty và luật khác...). - Nâng cao hiệu quả SXKD của DN. Xét về mặt hình thức, CPH là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý, công nhân trong xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Xét về mặt thực chất, CPH là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu (Nhà nước) thành nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình DN phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện đại. II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp Như vậy, qua trên ta đã có cái nhìn tổng quan về doanh nghiệp thông qua các đặc điểm của nó. Tuy nhiên, để xác định được giá trị doanh nghiệp, người ta phải quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp. GTDN được đo lường bằng khoản thu nhập mà DN mang lại cho nhà đầu tư nhưng độ lớn của thu nhập đó là bao nhiêu thì nó lại phụ thuộc rất lớn vào sự tồn tại của doanh nghiệp với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đó là các yếu tố vốn liếng, tài sản, kỹ thuật, khả năng thích ứng của nó với môi trường bên ngoài, các quan hệ hợp tác và các yếu tố khách quan khác như các chính sách kinh tế, môi trường kinh doanh,... 2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh Trước hết phải khẳng định GTDN chỉ được đánh giá trong một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh được chia làm hai loại là môi trường kinh doanh tổng quát và môi trường đặc thù. 2.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát Môi trường kinh doanh tổng quát bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hoá - xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường kỹ thuật và môi trường dân số... - Môi trường kinh tế: Môi trường mà DN tồn tại là một môi trường kinh tế cụ thể. DN chịu ảnh hưởng của tốc độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định của nền kinh tế, tốc độ lạm phát, tỷ suất đầu tư, mức độ ổn định của đồng tiền, tỷ giá trên thị trường chứng khoán,… Các yếu tố trên đều là những yếu tố khách quan nhưng nó lại có tác động một cách không nhỏ đến sự hoạt động của DN. Một DN không thể hoạt động tốt trong một môi trường mà lạm phát cao, tỷ suất đầu tư cao,… Mỗi sự thay đổi nhỏ trong các yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về DN. Nền kinh tế với tốc độ phát triển cao chứng tỏ nhu cầu đầu tư tiêu dùng cao, ngược lại, nền kinh tế với mức lạm phát cao, chứng tỏ sự bất ổn định về tỷ giá đồng tiền là dấu hiệu chứng tỏ sự bất ổn về môi trường hoạt động của DN. Do đó, mọi sự đánh giá về DN, trong đó có GTDN sẽ bị đảo lộn hoàn toàn. - Môi trường chính trị: Hoạt động SXKD chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường có sự ổn định về chính trị ở một mức độ nhất định. Những bất ổn trong xã hội (tệ nạn xã hội, chiến tranh,…) là những yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động SXKD của DN. Các yếu tố của môi trường chính trị liên quan đến SXKD bao gồm +) Tính đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, đồng bộ của hệ thống luật pháp +) Quan điểm của nhà nước đối với SXKD thông qua các văn bản pháp quy như bảo vệ SXKD, bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng, đầu tư nước ngoài, quan điểm phân biệt đối xử thực hiện trong luật thuế, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ... +) Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của các công dân và các tổ chức sản xuất. Pháp luật đã được ban hành nhưng không trở thành hiện thực, tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng nhái... là biểu hiện của một môi trường chính trị gây bất lợi cho sản xuất. +) Xu hướng, quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của chính phủ với các quốc gia khác trong tiến trình toàn cầu hoá và quan điểm cá nhân của những người đứng đầu Chính phủ cũng tác động to lớn đến SXKD. Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Do đó, các chính sách kinh tế, các luật, các quan điểm kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến SXKD của DN. Môi trường kinh tế và môi trường chính trị đóng vai trò như những điều kiện thiết yếu để DN có thể hoạt động. Vì vậy, khi đánh giá DN bao giờ cũng phải xem xét các yếu tố này. - Môi trường Văn hoá - Xã hội Mỗi DN tồn tại trong một môi trường văn hoá nhất định. Môi trường văn hoá bao gồm những hệ tư tưởng của số đông cộng đồng về lối sống, đạo đức, tác phong, quan niệm về chân, thiện, mỹ, quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thực hiện trong tập quán sản xuất và tiêu dùng. Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt... Thói quen tiêu dùng, tâm lý tiêu dùng, cơ cấu dân cư, mật độ dân số, thu nhập bình quân đầu người,… ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và cách thức SXKD. SXKD chỉ có thể tồn tại khi mà nó đảm bảo các yêu cầu về Văn hoá - Xã hội như đảm bảo không bị ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt,… DN ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi DN hoạt động. Chính vì thế đánh giá về DN không thể bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường Văn hoá - Xã hội trong hiện mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng yếu tố này đến SXKD của DN trong tương lai. - Môi trường kỹ thuật, công nghệ Thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin. Một loạt những phát minh được ứng dụng trong thực tế gây ảnh hưởng trực tiếp, rõ rệt đến đời sống hàng ngày của con người như hàng loạt các phát minh mới về công nghệ sinh học: sinh sản vô tính, công nghệ máy tính,… Những phát minh này không chỉ ảnh hưởng đễn các phương thức sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nhu cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm trong DN. Các sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng và phong phú, chứa đựng một hàm lượng lớn tri thức. Đây là xu hướng tiến tới nền kinh tế tri thức trên toàn cầu. Trên bình diện xã hội, đó là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Song trên giác độ DN, trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của DN. Việc thiếu nhạy bén trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa DN đến chỗ phá sản. Chính vì thế, việc đánh giá DN phải xem xét chúng trong môi trường của kỹ thuật công nghệ. Việc đánh giá phải chỉ ra mức độ tác động của môi trường này đến SXKD và khả năng thích ứng của DN trước những bước phát triển mới của khoa học công nghệ. 2.1.2. Môi trường đặc thù Môi trường đặc thù là môi trường có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Các yếu tố thuộc môi trường này có thể kiểm soát được. Thuộc môi trường đặc thù có các yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, các hãng cạnh tranh và cơ quan Nhà nước.  Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh dẫn đễn nhu cầu đa dạng về các sản phẩm dịch vụ đầu vào. Do đó, mối quan hệ với khách hàng của DN cũng đa dạng. Yếu tố khách hàng là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN. Khách hàng của DN có thể là các cá nhân, các DN khác hoặc Nhà nước, họ có thể là khách hàng hiện tại nhưng cũng có thể là khách hàng tương lai. Để đánh giá về doanh nghiệp, người ta căn cứ vào mối quan hệ bền vững của DN với khách hàng hay mức độ uy tín thể hiện ở thời gian hợp tác với khách hàng, chất lượng khách hàng (thể hiện ở tiếng tăm của họ), số lượng của khách hàng và khả năng phát triển mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất vẫn là thị phần hiện tại của doanh nghiệp, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ phát triển của chỉ tiêu này qua các thời kỳ kinh doanh khác nhau của DN. DN thường phải trông đợi sự cung cấp từ bên ngoài các hàng hoá, NVL, các dịch vụ điện, nước, thông tin tư vấn... Tính ổn định của nguồn cung cấp đó có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu cầu mà DN đã định ra. Do tính khan hiếm của NVL nhiều khi DN cũng gặp phải những khó khăn nếu như không có sự cung cấp kịp thời và không có NVL thay thế. Vì vậy, để đánh giá sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của DN ta phải quan tâm đến khả năng đáp ứng nhu cầu của DN, mối quan hệ của DN với các nhà cung cấp.  Các hãng cạnh tranh. Cạnh tranh là hoạt động tranh đua nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và kinh doanh có lợi nhất giữa các DN cùng sản xuất và kinh doanh cùng loại mặt hàng hoặc những mặt hàng có thể thay thế được cho nhau. Cạnh tranh được thể hiện dưới ba hình thức: - Cạnh tranh về giá cả - Cạnh tranh về chất lượng - Cạnh tranh về dịch vụ bảo hành, sửa chữa (hậu thương mại) Được sự ủng hộ từ phía nhà nước, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh tranh giữa các DN trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Sự quyết liệt trong cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của DN. Do đó, đánh gía năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét trên 3 tiêu chuẩn trên còn phải xác định được số lượng DN tham gia cạnh tranh, năng lực thực sự và thế mạnh của họ là gì. Đồng thời phải chỉ ra được những yếu tố và mầm mống có thể làm xuất hiện các đối thủ mới. Có như thế mới kết luận được sự đúng đắn về vị thế và khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường.  Các cơ quan nhà nước Trong cơ chế thị trường, DN tuy được chủ động trong hoạt động SXKD, tuy nhiên nhưng sự hoạt động của DN luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan nhà nước như cơ quan thuế, thanh tra, các tổ chức công đoàn… Các tổ chức này có trách nhiệm kiểm tra giám sát đảm bảo cho hoạt động của DN không vượt ra khỏi những quy ước của xã hội bằng các luật thuế, môi trường, luật cạnh tranh, luật công đoàn,... DN có mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là DN thực hiện tốt nhiệm vụ đối với xã hội như nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động, quan tâm giải quyết vấn đề môi trường sinh thái... Đó cũng là biểu hiện của những DN có tiềm lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được không phải bằng cách buôn lậu, trốn thuế, làm hàng hoá giả... Vì vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù đến SXKD còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng của mối quan hệ giữa DN với các tổ chức đó trong những khoản thời gian xác định. 2.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp 2.2.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp Tài sản trong DN là toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình nằm trong danh mục bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá. Đây là một quan niệm cần thiết để phân biệt nó với lợi thế thương mại. Số lượng và cơ cấu các loại tài sản thường có sự khác nhau giữa các DN ngay cả khi chúng ở trong cùng ngành SXKD. Khi xác định GTDN, bao giờ người ta cũng quan tâm đến hiện trạng tài sản vì: - Tài sản DN là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình SXKD. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng, chất lượng sản phẩm của DN. Tức là, khả năng cạnh tranh của DN phụ thuộc trực tiếp vào yếu tố này. - Giá trị tài sản của DN được coi là một căn cứ và là một sự bảo đảm rõ ràng nhất về GTDN. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận được thu nhập từ tài sản đó. Do đó, trong thực tế, người ta thường vận dụng phương pháp có liên quan trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản của DN. 2.2.2. Vị trí kinh doanh Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh bao gồm các yếu tố như địa điểm, diện tích của DN và các chi nhánh của DN, yếu tố địa hình, thời tiết, môi trường sinh thái, an ninh khu vực, thu nhập dân cư trong vùng, tốc độ phát triển kinh tế và khả năng cung cấp các dịch vụ cho sản xuất của khu vực đó. DN hoạt động thương mại có vị trí thuận lợi là DN hoạt động ở khu vực đông dân cư, trung tâm buôn bán, các đầu mối giao thông quan trọng. Với vị trí thuận lợi, DN có thể giảm được chi phí vận chuyển, bảo quản, lưu kho, giao dịch… đồng thời DN có những thuận lợi lớn để tiếp cận với nhu cầu, thị hiếu của thị trường,… Bên cạnh đó, DN phải chịu những chi phí cao về thuê văn phòng, thuê lao động, và có thể phải di chuyển trụ sở đi nơi khác do sự quy hoạch của nhà nước. Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với SXKD là lý do chủ yếu giải thích sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu vực với nhau. Và vì thế, khi nói về yếu tố lợi thế thương mại, người ta thường trước hết đề cập đến yếu tố vị trí. Trong thực tế, do có sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về GTDN. Vì vậy, vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá GTDN. 2.2.3. Uy tín kinh doanh Uy tín kinh doanh của DN được thể hiện ở sự ổn định của khách hàng, ở sự gia tăng nhanh chóng thị phần và doanh số bán. Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của DN nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong DN như: do chất lượng sản phẩm cao, do trình độ và năng lực quản trị kinh doanh giỏi, do có nghệ thuật quảng cáo, do thái độ phục vụ tận tình của nhân viên... Trong thực tế, có những DN trong nước có thể sản xuất những mặt hàng có chất lượng không thua kém gì hàng nước ngoài nhưng không thể bán với giá cao vì chưa gây được uy tín với khách hàng. Như vậy, có thể thấy rằng, khi sản phẩm đã được đánh giá cao trong con mắt của khách hàng thì uy tín đã trở thành một tài sản thực sự, chúng có giá, và người ta gọi chúng là giá trị của nhãn mác hay thương hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán quyền dán nhãn mác các sản phẩm, quyền dán nhãn mác có khi được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín của DN được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng hình thành nên GTDN. 2.2.4. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh là chất lượng sản phẩm sản xuất ra phải được thị trường đánh giá cao. Chất lượng sản phẩm DN một mặt phụ thuộc vào trình độ của máy móc thiết bị, một mặt phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và tay nghề của nhân viên. Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi phí SXKD do việc sử dụng hợp lý NVL,... trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho DN. Để đánh giá về trình độ kỹ thuật tay nghề của người lao động ta không chỉ xem ở bằng cấp, bậc thợ, số lượng lao động đạt được các chuẩn mực đó mà quan trọng hơn, trong điều kiện hiện nay, còn phải xem xét hàm lượng tri thức có trong mỗi sản phẩm mà DN sản xuất. Khi đánh giá khả năng tồn tại và phát triển, khả năng sáng tạo ra lợi nhuận của DN, cần thiết phải xem xét đến trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động, coi chúng như một yếu tố nội tại quyết định đến GTDN. 2.2.5. Năng lực quản trị kinh doanh Một trong những yếu tố quyết định đến hoạt động SXKD, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh… là khả năng quản lý. Cách tổ chức tốt trong việc sử dụng các nguồn lực sản xuất, tận dụng, nắm bắt các cơ hội nảy sinh, ứng phó năng động với sự biến động của môi trường,… là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của DN trên thị trường. Do đó, năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố quan trọng đặc biệt trong GTDN. Năng lực quản trị kinh doanh của một DN cần được xem xét về khả năng hoạch định chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, khả năng quản trị nguồn nhân lực. Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là yếu tố định lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới sự tác động của môi trường. Ngoài ra, năng lực quản trị kinh doanh còn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính của DN. Do đó, thực hiện phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần đây với thời điểm đánh giá cũng có thể rút ra những kết luận quan trọng về năng lực quản trị và sự tác động của nó đến GTDN. Tóm lại, - GTDN bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài. - Các yếu tố đã phân tích trên có tác động lẫn nhau, chúng được xác định về mặt định tính nhiều hơn định lượng. Thực hiện sự đánh giá về chúng, người ta xây dựng các tiêu thức cơ bản rồi áp dụng phương pháp xếp hạng cho điểm. Tuy nhiên, phương pháp này mang nặng tính chủ quan của người đánh giá, do đó để hạn chế yếu điểm này, người ta đánh giá chúng bởi số đông, có thể là một hội đồng. Mặc dù vậy, quyết định xếp hạng không phải lúc nào cũng đúng. Quyết định khách quan cuối cùng là thị trường. - GTDN là khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư, người mua DN không phải là mua lấy những tài sản, uy tín kinh doanh và trình độ quản lý giỏi... mà là sự đánh đổi lấy các khoản thu nhập tiềm năng ở DN. Do đó, ta phải nghiên cứu chúng để phân biệt các yếu tố tác động tới cấu thành DN và làm cơ sở để xác định GTDN. III. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp 3.1. Xác định giá trị doanh nghiệp là gì? Ta có các nhận xét sau: - GTDN có thể khác xa so với giá bán DN trên thị trường. GTDN được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà DN có thể đem lại cho các nhà đầu tư. Giá mua bán của DN hình thành trên thị trường chịu ảnh hưởng bởi các quy luật trên thị trường như quy luật cung-cầu DN, cung-cầu về chứng khoán và tiền tệ... - Khi nào còn tồn tại DN với tư cách là một tổ chức pháp nhân thì còn tồn tại khái niệm GTDN ngay cả khi không còn tồn tại quan hệ mua bán DN. Do đó, GTDN cần bên thứ ba xác định để đảm bảo yếu tố trung thực khách quan trong việc xác định GTDN. - Xác định GTDN không đơn giản chỉ để mua bán, sát nhập, hợp nhất, chia nhỏ DN mà còn có tác dụng cổ phần hoá, xác định vị thế tín dụng, cung cấp cho hoạt động quản lý vĩ mô,... Như vậy, xác định GTDN hay còn gọi là định giá DN thực chất là việc lượng hoá các khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra trong quá trình SXKD làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường thuộc thị trường. 3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Cùng với sự đa dạng về cách nhìn nhận, đánh giá GTDN ở các góc độ khác nhau dẫn đến tồn tại nhiều phương pháp xác định GTDN. 3.2.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần a)Cơ sở lý luận Phương pháp này dựa trên quan điểm : “giá trị của một DN được tính bằng tổng giá thị trường của số tài sản mà DN hiện đang sử dụng vào SXKD”. DN có hoạt động được là nhờ vào số vốn và tài sản hiện có trong DN, trong quá trình hoạt động DN có thể phát triển số tài sản hoặc thâm hụt số tài sản của mình b) Phương pháp xác định Trong số tài sản của DN trên Bảng cân đối kế toán, có những tài sản thuộc sở hữu của DN nhưng có nhiều tài sản không thuộc quyền sở hữu của DN như các khoản phải trả (công nhân viên, người bán, nhà nước...). Do vậy, khi xác định GTDN ta phải loại bỏ các khoản này, có nghĩa là, ta phải xác định giá trị tài sản thuần. V0=Vt-Vn Vo: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu DN Vt: Tổng giá trị tài sản mà DN sử dụng vào SXKD Vn: Giá trị các khoản nợ Do đó, theo cách này, người ta có thể : 1) Xác định GTDN bằng cách dựa vào Bảng cân đối kế toán Giá trị doanh nghiệp thuần = Tổng tài sản – Tổng các khoản nợ Ngắn hạn và Dài hạn 2) Xác định giá trị tài sản theo giá thị trường Cách này có ưu điểm hơn vì: - Giá trị tài sản phản ánh trên sổ kế toán là giá gốc, có tính lịch sử nên có thể đã bị thay đổi tại thời điểm xác định GTDN - Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc DN đang sử dụng phương pháp khấu hao nào, thời điểm mà DN xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Vì vậy, giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định gía trị DN. - Đối với HTK (hàng hoá, vật tư, công cụ dụng cụ...) hoặc hàng đang dùng trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào phương pháp tính giá hàng tồn kho, phụ thuộc vào tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hoá dự trữ, mặt khác chất lượng HTK tại thời điểm xác định GTDN có thể bị thay đổi do HTK đã để lâu ngày kém, mất phẩm chất, không dùng được... Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ra những tài sản không cần dùng(nếu vẫn có giá trị vẫn không tính vào tài sản của DN CPH) và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của SXKD, sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng tài sản cụ thể: - Đối với TSCĐ và lưu động là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị trường có bán những tài sản như vậy. Nếu trên thị trường, không tồn tại loại TSCĐ đã cũ, đã qua sử dụng. Khi đó, người ta xác định giá trị tài sản dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một TSCĐ mới. - Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp dụng một hệ số quy đổi so với các TSCĐ khác loại có tính năng tương đương. - Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm đánh giá. Vàng, bạc, kim đá quý... cũng được xác định tương tự như vậy. - Các khoản phải thu: Do khả năng đòi nợ các khoản này ở nhiều mức độ khác nhau nên bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu nhằm loại ra những khoản mà DN không có khả năng đòi được hoặc khả năng đòi được là thấp. - Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài DN : Về mặt nguyên tắc phải thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với các DN hiện đang sử dụng khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ nhất - Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản : Tính theo chiết khấu dòng thu nhập tương lai. - Các tài sản vô hình theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến lợi thế thương mại của DN. Ta có công thức sau: Giá trị tài sản DN thuần = Giá trị của các tài sản đã được xác định - Các khoản nợ - Khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài sản được đánh giá tại thời điểm xác định GTDN Phương pháp này có đặc điểm là: - Không coi DN là một thực thể, bỏ qua các giá trị về lợi thế DN, đánh giá tài sản DN như một thực thể riêng rẽ, không có mối liên quan với nhau nên không phản ánh được tầm nhìn chiến lược của DN, triển vọng sinh lời của DN. - Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tài sản thuần trở nên phức tạp do một tập đoàn có nhiều chi nhánh lại có số lượng rất lớn các tài sản chi tiết. Do vậy, chi phí đánh giá tốn kém và không chính xác do phụ thuộc vào thông số kỹ thuật của tài sản mà các nhà kỹ thuật chuyên nghành đưa ra, vì vậy sai số đánh giá có thể rất cao. Tuy nhiên, phương pháp này lại phản ánh chính xác giá trị mà người chủ sở hữu có được trong DN dựa trên giá thị trường của các tài sản, nó làm giá cơ sở cho việc xác định giá bán DN. Phương pháp này rất phù hợp với những DN có quy mô nhỏ. 3.2.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính trong tương lai Phương pháp này nhìn nhận xác định GTDN dưới góc độ đánh giá độ lớn các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho các nhà đầu tư trong tương lai. Vo =     nt t ti Ft 1 )1( Vo: GTDN Ft: Thu nhập đem lại cho nhà đầu tư ở năm thứ t i: tỷ suất hiện tại hoá (tỷ suất chiết khấu) N: thời gian nhận được thu nhập (năm) Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai bao gồm: - Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận - Phương pháp định giá chiết khấu - Phương pháp hiện tại hoá các dòng thu nhập của DN trong tương lai 3.2.3. Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại) Phương pháp này xác định dựa trên giả định sau: Một DN A ứng ra một lượng vốn là 100, thu về khoản lợi nhuận là 10 ( 10% tỷ suất lợi nhuận trên vốn), DN B cũng ứng ra 100, thu về một khoản thu nhập là 15 ( 15% tỷ suất lợi nhuận trên vốn). Tại sao DN B cũng ứng ra một lượng vốn như vậy lại sinh ra một khoản lợi nhuận cao hơn A, chỉ có thể giải thích được rằng vì B có vị trí kinh doanh thuận lợi hơn, mạng lưới hàng hoá rộng hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, trình độ quản lý giỏi hơn,... Đó là những yếu tố vô hình, chúng hội tụ lại đã làm nên khoản lợi nhuận vượt trội (5 đơn vị tiền tệ) so với DN A. Nếu như 10% là tỷ suất lợi nhuận trung bình trên thị trường thì khoản lợi nhuận 5 (5=15-10) là siêu lợi nhuận. Như vậy, cơ sở xác định giá trị của tài sản vô hình là giá trị hiện tại của khoản thu nhập do tài sản vô hình tạo ra. Tức là bằng gía trị hiện tại của các khoản siêu lợi nhuận. Vo = ANC + GW Vo: GTDN ANC: giá trị tài sản thuần GW: giá trị tài sản vô hình (lợi thế thương mại) GW =    n t ti AtrBt 1 )1( * Bt: lợi nhuận năm t (t=1,n) At: giá trị tài sản đưa vào kinh doanh r: Tỉ suất lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh r*At: lợi nhuận bình thường của tài sản năm t Bt-r*At: siêu lợi nhuận ở năm t. 3.2.4. Phương pháp định giá dựa vào PER (Price Earning Ratio) PER được xác định dựa trên các nhận định cơ bản : - Giá cả chứng khoán phụ thuộc vào cung cầu chứng khoán, đầu cơ,... Do đó, giá cả chứng khoán thường không phản ánh đúng giá trị chứng khoán của DN đã phát hành. - Thị trường chứng khoán hoàn hảo. Khi đó: PER= P Vo = i 1 Vo: giá trị của DN P: lợi nhuận thuần hàng năm i: tỷ suất hiện tại hoá Giá trị của DN = Lợi nhuận dự kiến đạt được * PER quá khứ Trong đó, PER là thông tin của những công ty lớn được công bố thường xuyên trên thị trường và kể cả PER trung bình của các DN cùng một lĩnh vực kinh doanh có chứng khoán đựơc giao dịch tại thị trường này. Vì vậy, người ta phải sử dụng PER ở các kỳ trước. IV. Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp trong công tác kiểm toán 4.1. Vai trò của kiểm toán trong xác định giá trị doanh nghiệp Có thể nói, hoạt động kiểm tra kiểm soát luôn tồn tại song song với hoạt động quản lý. Hoạt động kiểm tra kế toán ra đời ngay từ khi xuất hiện hoạt động kế toán nguyên thuỷ như dấu hiệu trên các sợi dây, thân cây, lá cây,... Cùng với sự phát triển của quy luật ấy, kiểm tra nói chung cũng như kiểm tra kế toán nói riêng đã được quan tâm ngay từ thời kỳ bắt đầu xây dựng đất nước. Từ những năm 90, ở Việt nam, kiểm toán độc lập đã hình thành và kiểm toán nhà nước cũng được thành lập. Có nhiều quan niệm về kiểm toán, nhưng có thể nói một cách tổng quát: “Kiểm toán là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng một hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ, nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực” – Giáo trình Lý thuyết kiểm toán – Nguyễn Quang Quynh - ĐHKTQDHN. Như vậy, có thể nói, chức năng của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến. Chức năng xác minh của kiểm toán khẳng định tính trung thực của tài liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các nhiệm vụ hay việc lập các BCTC. Xác minh BCTC phải đảm bảo 2 mặt: - Tính trung thực của các con số - Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính Chức năng bày tỏ ý kiến có thể được hiểu với ý nghĩa kết luận về chất lượng thông tin và cả tính pháp lý. Đối tượng trực tiếp của kiểm toán là các BCTC của các tổ chức hay một thực thể kinh tế. Thông thường, các bản khai này được hiểu là các bảng tổng hợp kế toán (Bảng cân đối, bảng kết quả, bảng chu chuyển tiền tệ...) Khách thể kiểm toán là thực thể kinh tế hay một tổ chức. Thực thể hay tổ chức ở đây là một thực thể pháp lý (một công ty, một đơn vị của Chính phủ, một chủ sở hữu...) hoặc một bộ phận, thậm chí một cá nhân. Chủ thể thực hiện kiểm toán là những KTV độc lập, có nghiệp vụ (Tính độc lập của KTV được quy định ở chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 510). Quan niệm độc lập ở đây được hiểu là khi tham gia vào hoạt động kiểm toán có thái độ độc lập hay độc lập về nghiệp vụ. Còn trình độ nghiệp vụ là trình độ lựa chọn và tập hợp Báo cáo kiểm toán. Cơ sở thực hiện kiểm toán là những luật định, tiêu chuẩn hay chuẩn mực chung. Các luật định hoặc chuẩn mực này bao gồm cả lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Có thể nói, có rất nhiều đối tượng cần biết đến số liệu chính xác của GTDN CPH như các nhà đầu tư, nhà nước,... Vì vậy, đảm bảo tính chính xác, trung thực và khách quan thì đảm bảo phải có một tổ chức có tính độc lập và đủ quyền hạn, trách nhiệm pháp lý để đảm đương công việc xác định GTDN. Và như vậy, công ty kiểm toán độc lập thực hiện công việc này là hợp lý. Đây cũng là pháp luật quy định, vì theo nguyên tắc xác định giá trị DN năm 1998, “khi xác định giá trị thực tế của DN không nhất thiét phải thuê kiểm toán độc lập, những DN không thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về chế độ kế toán thống kê thì cơ quan quyết định giá trị DN xem xét thuê kiểm toán độc lập xác định”. Thực chất của kiểm toán xác định GTDN là hoạt động kiểm toán BCTC kết hợp với các đặc thù của xác định GTDN là: - Phân loại tài sản - Đánh giá chất lượng tài sản - Định giá tài sản dựa trên giá thị trường của tài sản đó hay giá tương đương của tài sản đó trên thị trường 4.2. Các phương pháp kiểm toán được sử dụng trong xác định giá trị doanh nghiệp Kiểm toán là một môn khoa học cho nên nó cũng có những phương pháp chung như những cơ sở lý luận và phương pháp luận để hình thành nên phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến của mình phù hợp với đối tượng kiểm toán. Hoạt động kiểm toán cũng có những phương pháp thực hiện riêng của mình là kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ. Thực chất của kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp mà tác giả đề cập ở đây là xác định dựa trên bảng cân đối tài sản của DN. Do đó, nó cũng sử dụng các phương pháp kiểm toán tài chính thông thường. 4.2.1. Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ Phương pháp này bao gồm: kiểm kê, điều tra và trắc nghiệm a) Kiểm kê Là quá trình kiểm tra tại chỗ những đối tượng có dạng vật chất cụ thể như hàng tồn kho, tài sản cố định, tiền mặt, giấy thanh toán có giá trị,… Ưu điểm của kiểm kê là mang lại bằng chứng có độ tin cậy cao vì tính khách quan của nó. Tuy nhiên, kiểm kê chỉ cho biết được sự hiện hữu của đối tượng mà không cho biết giá trị, quyền sở hữu của tài sản đó. Do đó, kỹ thuật kiểm kê được kết hợp với các kỹ thuật khác. Quy trình kiểm kê được thực hiện theo các bước sau: 1) Chuẩn bị kiểm kê: phải căn cứ vào mục tiêu, quy mô, thời hạn kiểm kê để bố trí lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lường phù hợp và chính xác. Đây là yếu tố quyết định chất lượng kiểm kê nói riêng và kiểm toán nói chung. 2) Thực hiện kiểm kê: phải theo đúng yêu cầu và ghi chép đầy đủ theo từng mã cân, lô hàng,… Phiếu, sổ mã cân trở thành chứng từ kiểm toán. 3) Kết thúc kiểm kê: cần có biên bản trong đó phải nêu rõ chênh lệch, các nguyên nhân và xử lý cụ thể. Biên bản cần được đính kèm phiếu kiểm kê (mã cân) và bảng kê chất lượng về kết quả kiểm kê. Sự khác biệt trong kiểm kê của kiểm toán BCTC ở doanh nghiệp thông thường và kiểm toán BCTC DNNN để CPH có sự khác biệt là: - Nếu kiểm toán BCTC hướng tới kiểm kê tất cả các tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thì kiểm toán BCTC DNNN để CPH chỉ tiến hành kiểm kê theo hướng phân loại tài sản đang dùng, không cần dùng, chưa dùng, chờ thanh lý và theo nguồn hình thành tài sản (từ quỹ khen thưởng, phúc lợi,…) - Phương pháp kiểm kê kết hợp với các phương pháp kiểm toán khác (đối chiếu tổng hợp, logic, kiểm tra chứng từ… ), nhằm bảo đảm các cơ sở dẫn liệu của kiểm toán. b) Điều tra Điều tra là phương pháp xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận kiểm toán. Điều tra được sử dụng rất rộng rãi trong kiểm toán. Chẳng hạn: - Tìm hiểu khách thể kiểm toán hay làm quen với khách hàng kiểm toán. Có thể tìm hiểu trực tiếp hoặc thông qua KTV tiền nhiệm hoặc gửi phiếu điều tra phỏng vấn... Đây là bước điều tra sơ bộ nhằm đưa ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kiểm toán. - Tiếp cận với các bên liên quan: dò hỏi, phỏng vấn, thu lượm, tích luỹ dữ liệu, loại dần và thu gọn đối tượng xác minh cho những vấn đề kiểm toán. - Xác minh bằng văn bản qua thư xác nhận của các bên liên quan: có hai loại thư xác nhận: +)Thư xác nhận khẳng định (posititive confirmation): đòi hỏi thông báo quả quyết của bên nợ trên mọi giấy yêu cầu xác nhận về khoản nợ hoặc tiền hàng của chủ nợ hoặc đúng, sai hoặc có phần lưu ý. Trong trường hợp này, mọi giấy yêu cầu đều được trả lời. +)Thư xác nhận phủ định (negative confirmation): chỉ đòi hỏi thông báo của bên nợ khi không đồng tình với số tiền ghi trên giấy yêu cầu xác nhận và găm trên báo cáo của người mua. Vì vậy, với xác nhận khẳng định, khi chưa nhận được trả lời, thường phải làm thêm những trình tự xác minh, do đó, xác nhận này là bằng chứng đáng tin cậy hơn xác nhận phủ định. Ngược lại với xác nhận phủ định, việc không trả lời cũng không coi là phủ định ngay cả khi người mua không biết có yêu cầu xác nhận. Cũng vì thế, chi phí cho xác nhận khẳng định lớn hơn chi phí cho xác nhận phủ định. Việc sử dụng loại bằng chứng nào là tuỳ thuộc vào kinh nghiệm và phán đoán của KTV. Trong kiểm toán BCTC để xác định GTDN, phương pháp này được sử dụng nhiều trong việc xác minh giá trị các khoản nợ vay, tiền gửi ngân hàng. Độ chính xác của các bằng chứng thu thập được từ phương pháp này là lớn do tính khách quan của nó (bằng chứng thu thập được từ bên thứ ba). - Chọn mẫu hoặc chọn điển hình các đối tượng kiểm toán, xác minh làm rõ các vấn đề kiểm toán. Để đảm bảo hiệu quả kiểm toán, điều tra cần đựơc kết hợp với hàng loạt kỹ thuật dự báo, dự đoán cụ thể như chi tiết, phân loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc chọn điển hình và cả những kinh nghiệm trong việc tiếp cận, tìm hiểu những đối tượng liên quan. Cũng như với cuộc kiểm toán thông thường khác, kiểm toán BCTC của DNNN để CPH, cũng chọn mẫu đối tượng kiểm toán khi số lượng các đối tượng chi tiết kiểm toán là quá lớn. Từ một đối tượng các mẫu nhỏ, đặc trưng, mang tính đại diện cao mà cụ thể là có giá trị lớn, KTV sẽ ước lượng, xác định giá trị đối với tổng thể. Nhưng đối với những tài sản chiếm phần lớn giá trị trong tổng tài sản của DN thì KTV sẽ thực hiện kiểm toán trên toàn bộ đối tượng tài sản. Đặc điểm khác biệt lớn nhất của kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp là báo cáo tài chính thực hiện kiểm toán dựa trên giá gốc, kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp chủ yếu dựa trên giá thị trường của tài sản đó. Do đó, KTV chỉ thực hiện xác minh lại giá trị đối với những tài sản cần thiết phải dùng đễn số liệu trên sổ sách như đối với những tài sản mới mua sắm, các khoản phải thu, phải trả, nợ vay, tiền gửi ngân hàng. c) Thực nghiệm Thực nghiệm là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cứu phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra cần xác minh lại. Do vậy, thực nghiệm còn được gọi là phương pháp “làm lại”. Chẳng hạn, để xem xét lại hao phí hoặc kết quả sản xuất có thể phải làm thử lại một mẻ hàng để khẳng định rõ những điểm nghi vấn. VD: mức hao phí vật liệu hoặc sản lượng hoặc lao động... tương ứng. Trong một số trường hợp, kiểm toán phải sử dụng nhiều cách thức trong hoá nghiệm, trong kỹ thuật hình sự,... để khẳng định một vụ việc trước khi đưa ra những kết luận kiểm toán. Trong kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp, KTV sử dụng phương pháp này để xác minh lại chất lượng hoạt động của tài sản cố định, qua đó đánh giá công suất, và xác định tỷ lệ còn lại. Ngoài ra, kỹ thuật này còn được sử dụng trong xác minh lại qui trình sản xuất, để đánh giá lại sản phẩm dở dang. 4.2.2. Phương pháp kiểm toán chứng từ Phương pháp kiểm toán chứng từ bao gồm: kiểm toán các cân đối kế toán, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic. a) Kiểm toán cân đối Phương pháp kiểm toán cân đối dựa trên mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập của một sự vật hiện tượng. Các quan hệ này được cụ thể hoá bằng các quan hệ khác nhau như cân đối giữa nguồn lực và kết quả, giữa số phát sinh Nợ và phát sinh Có, giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản đó. Trong kiểm toán, ta có phương trình cân đối tổng quát theo từng đối tượng. Ví dụ, với bảng cân đối tài sản: Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn Với bảng cân đối số phát sinh Tổng phát sinh Nợ của các Tài khoản = Tổng phát sinh có của các Tài khoản Trong kiểm toán cân đối phải dựa vào số ghi Nợ và số ghi Có và giữa số đầu kỳ và số tăng trong kỳ với số cuối kỳ và số giảm trong kỳ của kế toán kép. Kiểm toán báo cáo tài chính DNNN để CPH sử dụng kỹ thuật này để kiểm tra tính đúng đắn của số liệu được cộng dồn trên các sổ kế toán, qua đó, có hướng xác minh tiếp theo. b) Đối chiếu trực tiếp Đối chiếu trực tiếp là so sánh về mặt lượng trị số của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kiểm toán. Đối chiếu này thường có trong các trường hợp sau: 1) Đối chiếu giữa số đầu kỳ và số cuối kỳ năm và giữa các kỳ trên các Bảng cân đối tài sản để nghiên cứu động thái của các mặt hoạt động tương ứng với chỉ tiêu trên đó (đối chiếu ngang) hoặc giữa các bộ phận tổng thể để xem xét cơ cấu, phân bố từng quần thể (đối chiếu dọc). 2) Đối chiếu giữa số dự toán, định mức, kế hoạch với số thực tế để đánh giá mức độ phấn đấu, thực hiện các mục tiêu thể hiện trên các chỉ tiêu tương ứng. 3) Đối chiếu trị số của cùng một chỉ tiêu trong cùng một thời kỳ trên các chứng từ tổng hợp khác nhau. Chẳng hạn, chỉ tiêu lợi nhuận hay lợi nhuận còn lại trên các bảng cân đối. 4) Đối chiếu các con số của cùng một chứng từ được bảo quản lưu trữ ở các địa điểm khác nhau. Loại đối chiếu này được thực hiện phổ biến trong kiểm toán các khoản giao dịch với ngân hàng, các khoản thu về bán hàng và các khoản chi về mua hàng. 5) Đối chiếu trị số và các chỉ tiêu với các trị số cấu thành chỉ tiêu đó. Chẳng hạn, đối chiếu các yếu tố số lượng, đơn giá với số tiền trên các chứng từ gốc, đối chiếu các khoản mục cấu thành các loại tài sản hoặc nguồn vốn trong Bảng cân đối tài sản, đối chiếu các khoản thu chi với các loại hoạt động trong bảng chu chuyển tiền tệ hoặc bảng báo cáo kết quả kinh doanh. Tuy nhiên đối chiếu trực tiếp chỉ được sử dụng trong trường hợp các chỉ tiêu được hạch toán theo cùng một chuẩn mực, cùng nội dung, phương pháp, đơn vị tính toán và trong cùng một khoảng thời gian điều kiện tương tự nhau. Trong kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp, phương pháp này được sử dụng để tính toán, cộng dồn số liệu trên các chứng từ gốc, so sánh với sổ chi tiết, sổ cái để xác định giá trị hợp lý. c) Đối chiếu logic Đối chiếu logic là việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số và các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song có thể có mức biến động khác nhau và có thể theo hướng khác nhau. Ví dụ: - HTK giảm có thể dẫn đến tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và các khoản phải thu tăng. Xu hướng biến động giữa HTK và các khoản mục liên quan nói trên là ngược nhau và mức biến động cũng có thể không đồng nhất trên từng khoản mục. - TSCĐ tăng có thể dẫn đến tiền vay ngắn và dài hạn tăng hoặc chi phí xây dựng giảm. Trường hợp này, có thể mức biến động tương xứng và xu hướng biến động có thể cùng chiều (nếu vay nợ) hoặc ngược chiều (nếu kết chuyển chi phí xây lắp hoặc dùng tiền để mua). - Vốn bằng tiền giảm có thể dẫn tới hàng hoá vật tư tăng hoặc các khoản phải trả giảm. Phương pháp này được sử dụng rất sử dụng phổ biến trong việc xem xét các quan hệ kế toán tài chính của đối tượng kiểm toán. Từ đó định hướng cho việc kiểm toán các đối tượng cụ thể khi phát hiện mâu thuẫn và xua hướng biến động của các chỉ tiêu liên quan. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi hơn như những cách tư duy suy lý cho những mối liên hệ kể cả chưa được lượng hoá trong công tác kiểm toán. Theo đó, kiểm toán tài chính đã hình thành 3 loại trắc nghiệm: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp các số dư, và trắc nghiệm phân tích. Cũng như trong kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp sử dụng phương pháp này để đánh giá tính hợp lý của số liệu, tìm ra xu hướng hoặc tìm ra những khoản mục nghi vấn, định hướng cho việc xác minh. 4.3. Hệ thống mục tiêu của kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và mục tiêu xác định giá trị doanh nghiệp Nếu như kiểm toán báo cáo tài chính hướng tới tính hợp pháp, hợp lý và trung thực của số liệu trên báo cáo tài chính, và kết quả cuối cùng là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính đó thì kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp quan tâm đến số liệu kiểm kê thực tế qua đó định giá lại tài sản, phần liên quan đến báo cáo tài chính cũng được KTV đưa ra trong phần kiến nghị, nhận xét nhưng không phải chỉ nhận xét về báo cáo tài chính mà còn về cả các yếu tố bên trong và bên ngoài DN. ở đây, ta chỉ xem xét cuộc xác định GTDN đối với các DNNN không thực hiện đúng chế độ kế toán hiện hành. Khi đó, việc xác định giá trị DN phải đi cùng với kiểm toán các thông tin trên BCTC, phân loại tài sản và kết hợp với việc định giá lại tài sản, loại ra khỏi GTDN những tài sản không cần dùng. Như vậy, việc kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và để xác định GTDN cũng tương tự như kiểm toán BCTC nhưng có đặc điểm là phân loại tài sản và định giá lại tài sản. Do đó, ngoài các mục tiêu chung mà kiểm toán BCTC phải hướng, kiểm toán báo cáo tài chính để xác định giá trị doanh nghiệp còn phải hướng tới các mục tiêu đặc thù. Các mục tiêu chung của kiểm toán báo cáo tài chính là: - Tính có thực của thông tin: thông tin phản ánh tài sản hoặc vốn phải được đảm bảo bằng sự tồn tại của tài sản, vốn hoặc tính thực tế xảy ra của nghiệp vụ. - Tính trọn vẹn: thông tin không bị bỏ sót trong quá trình xử lý. - Tính đúng đắn của việc tính giá với ý nghĩa giá tài sản cũng như giá phí (giá thành) đều được tính theo phương pháp kế toán là giá thực tế đơn vị phải chi ra đê mua hoặc thực hiện các hoạt động. - Tính chính xác cơ học: các phép tính cộng dồn khi chuyển sổ, sang trang phải được tính đúng đắn. - Tính đúng đắn trong phân loại và trình bày: phân loại tài sản và nguồn vốn đúng, định khoản phù hợp với bảng tài khoản của đơn vị,… những trường hợp đặc biệt phải được phản ánh rõ ràng. - Tính đúng đắn trong việc phản ánh quyền và nghĩa vụ của đơn vị: tài sản phản ánh trên BCTC phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị, còn vốn và công nợ phản ánh đúng nghĩa vụ của dơn vị này. Như vậy, mục tiêu chung của kiểm toán BCTC cũng là mục tiêu của kiểm toán BCTC của DNNN để xác định giá trị DN để CPH. Ngoài những mục tiêu mà kiểm toán BCTC phải hướng tới, hệ thống mục tiêu kiểm toán BCTC để xác định giá trị DNNN để CPH còn phải hướng tới : - Tính phân loại hợp lý: các tài sản không cần dùng, chưa cần dùng, tài sản chờ thanh lý, tài sản kém, mất phẩm chất,… cần phải được phân loại đúng đắn - Tính hợp lý về mặt định giá: đảm bảo chính xác trong kiểm kê, đánh giá chất lượng tài sản, định giá phù hợp với thị trường. - Tính hợp lý về chất lượng tài sản: đối với những tài sản đã hỏng hoặc kém phẩm chất, cần có ý kiến của chuyên gia. 4.4. Lập kế hoạch tổng quát Trong một cuộc kiểm toán xác định GTDN, trình tự kiểm toán cũng thực hiện giống như một cuộc kiểm toán BCTC bình thường. Lập kế hoạch kiểm toán là một khâu quan trọng trong kiểm toán vì nó “…nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán, đảm bảo phát hiện những vấn đề tiềm ẩn và cuộc kiểm toán hoàn thành đúng hạn” (theo chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300). 4.4.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán. Vì ở đây ta xem xét xác định GTDN đối với những DN không thực hiện đúng chế độ kế toán, cho nên, việc định giá tài sản phải dựa trên số liệu kế toán đã được kiểm toán và việc định giá DN dựa trên BCTC. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, việc định giá đi song song. Do đó, để chuẩn bị cho kế hoạch xác định giá trị DN ta cần quan tâm đến các vấn đề sau: Sau khi nhận đựơc yêu cầu của khách hàng, KTV phải: a)Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán: KTV chỉ chấp nhận kiểm toán khi cuộc kiểm toán này không ảnh hưởng đến uy tín của KTV cũng như công ty kiểm toán. KTV xem xét về: 1) Hệ thống kiểm soát chất lượng: bao gồm tính độc lập của KTV, khả năng phục vụ tốt khách hàng của KTV và công ty kiểm toán và tính liêm chính của ban giám đốc công ty khách hàng. 2) Liên lạc với KTV tiền nhiệm: KTV thông qua KTV tiền nhiệm để tìm hiểu về khách hàng. KTV phải đựơc đảm bảo rằng hệ thống kế toán của khách hàng phải cung cấp đầy đủ bằng chứng chứng minh cho các nghiệp vụ đã phát sinh và phải đảm bảo rằng tất cả các nghiệp vụ cần được ghi chép thì thực tế cũng được ghi lại. b)Nhận diện lý do kiểm toán của khách hàng: KTV cần xác định người sử dụng GTDN, mục đích của việc xác định giá trj DN (để CPH hay để bán…), từ đó lựa chọn đội ngũ nhân viên thích hợp và các thủ tục kiểm toán, quy mô kiểm toán thích hợp để thực hiện cuộc kiểm toán. c)Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán: lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán phải đảm bảo có ít nhất một KTV hiểu biết về ngành nghề kinh doanh của khách hàng, số lượng nhân viên kiểm toán phụ thuộc vào quy mô, thời gian, chất lượng của cuộc kiểm toán. d)Hợp đồng kiểm toán: sau khi đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán đượcc của khách hàng, KTV sẽ thực hiện kí kết hợp đồng xác định GTDN và hẹn ngày thực hiện. 4.4.2. Thu thập thông tin cơ sở. KTV tìm hiểu sơ bộ về khách hàng, qua đó đánh giá mức trọng yếu và thực hiện các thủ tục phân tích để xác định thời gian cần thiết để thực hiện kiểm toán và việc mở rộng các thủ tục kiểm toán khác. -Tìm hiểu nghành nghề, hoạt động kinh doanh của khách hàng. Thông qua KTV tiền nhiệm và các tài liêu báo chí, KTV tìm hiểu chung về nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động của đơn vị, tổ chức và hoạt động của đơn vị được kiểm toán, cơ cấu tổ chức dây chuyền các dịch vụ sản xuất, cơ cấu vốn, chức năng của kiểm toán nội bộ… nhằm thiết kế các thủ tục kiểm toán phù hợp. - Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung: chứa đựng các thông tin về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức, sơ đồ tổ chức bộ máy, điều lệ của công ty, chính sách tài chính, kế toán… - Tham quan nhà xưởng: giúp KTV hiểu được tình hình bảo quản NVL của đơn vị, phát hiện những vấn đề như sản xuất trì trệ, sản phẩm ứ đọng, máy móc lạc hậu không phát huy hết công suất. Qua đây KTV có thể đưa ra nhận định ban đầu về phong cách quản lý của ban giám đốc, tính hệ thống trong việc tổ chức, sắp đặt công việc… -Nhận diện các bên hữu quan Các bên hữu quan là các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức của công ty khách hàng hay bất kỳ công ty, chi nhánh, một cá nhân hay tổ chức mà công ty khách hàng có quan hệ và các tổ chức, cá nhân này có ảnh hưởng đáng kể đến chính sách kinh doanh, quản trị của đơn vị. KTV nhận diện các bên hữu quan thông qua phỏng vấn ban giám đốc, qua đó dự đoán các vấn đề có thể phát sinh giữa các bên hữu quan và hoạch định kế hoạch kiểm toán phù hợp. -Dự kiến nhu cầu chuyên gia bên ngoài KTV cần hiểu về khả năng chuyên môn của nhân viên mình, qua đó sẽ quyết định thuê chuyên gia bên ngoài đối với các nghiệp vụ đặc biệt. 4.4.3. Thu thập thông tin nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. KTV cần thu thập: - Giấy phép thành lập và điều lệ của công ty. - Các BCTC, báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra quyết toán thuế của năm hiện hành hay trong vài năm trước. - Biên bản các cuộc họp Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. - Các hợp đồng cam kết quan trọng như hợp đồng mua, bán hàng,... 4.4.4. Thực hiện các thủ tục phân tích Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 520 “Thủ tục phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, tỷ suất quan trọng qua đó tìm ra xu hướng biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến”. Trong kiểm toán xác định GTDN, thủ tục này được dùng để phân tích tình hình kinh doanh của khách hàng khi KTV thực hiện tìm hiểu sơ bộ về khách hàng. 4.4.5. Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát Đây là một khâu quan trọng trong công tác kiểm toán vì nó giúp KTV “...lập kế hoạch kiểm toán và để xác định bản chất, thời gian và phạm vi của các cuộc kiểm soát thực hiện”, còn theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 400, đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, “KTV phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán và xây dựng cách tiếp cận kiểm toán có hiệu quả” 4.5. Thiết kế chương trình kiểm toán Quy trình thiết kế chương trình kiểm toán xác định GTDN cũng qua các bước sau: - Các thủ tục kiểm toán cần thực hiện để xác minh lại số liệu - Quy mô mẫu chọn: do đối tượng kiểm toán gồm nhiều loại nghiệp vụ khác nhau, khối lượng nghiệp vụ phát sinh lớn, do đó, KTV phải tiến hành xác định số lượng mẫu cần chọn để đảm bảo tính chính xác của công tác định giá tài sản và kiểm toán. - Khoản mục được chọn: KTV dựa vào kinh nghiệm và những hiểu biết về khách hàng mà quyết định lựa chọn khoản mục sao có tính đặc trưng nhất. - Thời gian thực hiện: xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc thực hiện 4.6. Thực hiện kiểm toán, xác định giá trị DN và báo cáo xác định giá trị DN. Quá trình thực hiện kiểm toán, xác định giá trị DN thực chất là quá trình kết hợp các phương pháp kiểm toán và định giá của chủ thể kiểm toán đối với các BCTC (Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) nhằm đạt được mục tiêu kiểm toán và xác định giá trị DN đã nêu trên. Báo cáo về xác định giá trị DN là văn bản đưa ra kết quả của cuộc kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp, được đưa ra khi cuộc kiểm toán đã hoàn thành. Nếu như báo cáo kiểm toán về BCTC là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về BCTC của một đơn vị (tổ chức, doanh nghiệp) đã được kiểm toán (Theo chuẩn mực kiểm toán (IPAC) của Liên đoàn Kế toán Quốc tế IFAC) thì báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp là báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên (hội đồng định giá) lập và công bố để đưa ra giá trị doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đưa ra ý kiến về giá trị doanh nghiệp đã xác định làm căn cứ, giá tham khảo cho việc xác định giá bán cổ phiếu. Nếu như báo cáo kiểm toán về BCTC được lập khi kết thúc cuộc kiểm toán báo cáo tài chính thì báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp được dùng khi kết thúc cuộc xác định giá trị doanh nghiệp. Quy trình kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp như sau: Sơ đồ 1: Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính để cổ phần hoá Cũng như báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, báo cáo về xác định giá trị doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào quyết định liệu có thể kiểm toán báo cáo tài chính của DN đó không. Ta có sự so sánh như sau: Báo cáo xác định giá trị DN bao gồm các yếu tố sau: - Tên, địa chỉ công ty kiểm toán Chuẩn bị kiểm toán và xác định GTDN Thực hiện cuộc kiểm toán & xác định GTDN Kết thúc kiểm toán & xác định GTDN Báo cáo xác định GTDN - Số hiệu báo cáo xác định giá trị DN - Các căn cứ xác định gía trị DN - Tiêu đề báo cáo - Người nhận báo cáo - Kết quả xác định giá trị DN - ý Kiến của kiểm toán viên - Các nguyên nhân tăng giảm - Nhận xét, kết luận, kiến nghị - Địa điểm và thời gian lập báo cáo - Chữ ký và đóng dấu của đơn vị Kiểm toán và đơn vị được xác định giá trị DN CPH. V. Tóm tắt quá trình phát triển của công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam 5.1.Từ năm 1992 đến năm 6/5/1996 Trong thời gian này, Hội Đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra chỉ thị 202/CT/HĐBT ngày 8/06/1992 và thông tư 36/TC-CN về việc cổ phần hoá một số DNNN. ở giai đoạn này, GTDN được coi là giá trị thực của doanh nghiệp mà các đơn vị, tổ chức độc lập xác định chỉ là tương đối. Giá trị thực tế sẽ dao động quanh giá này. GTDN được xác định căn cứ vào số liệu kiểm kê và các văn bản giao vốn, các yếu tố về đất đai, vị trí địa lý kinh tế của doanh nghiệp, khả năng sinh lợi trong những năm sắp tới, uy tín, hiệu quả kinh doanh,… Việc định giá doanh nghiệp phải do một hội đồng định gía xem xét và một hội đồng thẩm định có thẩm quyền thông qua. GTDN = Giá trị tài sản của DN (vốn cố định, đất + Các yếu tố tạo ra hiệu quả triển vọng về SXKD của DN (uy tín, đội ngũ kỹ sư, công nhân năng động, tay nghề cao, - Các khoản thuộc phạm vi thua lỗ, nợ nần, HTK kém phẩm đai) khả năng sinh lợi cao…) chất… Như vậy, giá trị của DN khi cổ phần hoá gồm 3 bộ phận: 1) Giá trị tài sản của DN 2) Giá đất đai đã sử dụng vào SXKD 3) Giá trị các yếu tố làm tăng hiệu quả của DN như uy tín, tiếng tăm, đội ngũ kỹ sư giỏi, công nhân lành nghề. Như vậy, vô tình, Nhà nước đã tách giá trị tài sản vô hình (uy tín,…) ra khỏi giá trị DN. Để xác định GTDN, cần phải phân loại tài sản: Tài sản không cần dùng, tài sản thanh lý, tài sản chờ thanh lý, tài sản thiếu hụt, mất mát,… Đối với công nợ, phân loại công nợ khó đòi, có thể đòi, không thể đòi,… Đối với vốn góp liên doanh, liên kết, thuê mướn: phải xác định được vốn nào đã thu hồi, trả lại Đối với số dư quỹ phát triển sản xuất, chương trình XDCBDD: phần không dùng trong tính GTDN thì chuyển trả lại cho DN. Các văn bản này đã dựa trên cơ sở lý luận hợp lý nhưng chưa đưa ra các hướng dẫn chi tiết cụ thể như phải xác định giá trị của uy tín kinh doanh như thế nào, xác định giá trị của các yếu tố tạo ra triển vọng DN như thế nào,… nên không hình dung hết được những phức tạp của sự việc, do đó, việc xác định GTDN còn gặp nhiều khó khăn, thời gian xác định giá trị DN từ 8 tháng đến 2 năm và GTDN phản ánh không sát với thực tế. 5.2.Từ 7/5/1996 đến 28/06/1998 Nhằm tiếp tục hoàn thiện công tác định giá DN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và Thông tư số 50/CP/TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ Tài Chính hướng dẫn những vấn đề tài chính trong việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Nguyên tắc để xác định GTDN là: 1) Số liệu trong sổ sách kế toán của DN tại thời điểm cổ phần hoá đã được cơ quan kiểm toán xác nhận 2) Hệ số lợi thế kinh doanh của DN về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng 3) Hiệu quả hoạt động kinh tế của DN thể hiện qua tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn kinh doanh bình quân trong 3 năm cuối của DN trước khi cổ phần hoá. 4) Giá trị quyền sử dụng đất tính theo quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn. Căn cứ để xác định GTDN là số liệu trên sổ sách kế toán, số liệu kiểm kê thực tế và hiện trạng, giá trị hiện hành của từng loại tài sản, vật tư, hàng hoá. a) Đối với tài sản cố định Giai đoạn này yêu cầu xác định rõ nguyên giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại, đồng thời phải phân loại tài sản đang dùng, không dùng, chưa dùng, cho thuê, chờ thanh lý nhưng chưa yêu cầu xác định nguồn vốn hình thành (quỹ phúc lợi…) do đó chưa loại trừ giá trị tài sản này ra khỏi GTDN. Giá trị TSCĐ bao gồm cả giá trị tài sản cố định vô hình như bằng phát minh sáng chế,… Căn cứ để xác định giá là: giá của lọai hàng tương tự hiện có trên thị trường hoặc theo giá trước đây nhân với chỉ số trượt giá hoặc được điều chỉnh tổng hợp theo doanh thu hoặc lợi nhuận Giai đoạn này không tính giá trị đất đai vào GTDN. b) Đối với tài sản lưu động TSLĐ thực tế = Vốn bằng tiền + Giá trị Vật tư hàng hoá sau đánh giá lại + Các khoản phải thu - Nợ khó đòi + Giá trị TSLĐ khác c) Giá trị XDCBDD Được định giá như TSCĐ. d) Vốn góp liên doanh liên kết Phải được xác định lại bằng giá trị thực tế có tại thời điểm cổ phần hoá. e) Xác định nguồn vốn hình thành - Đối với nguồn vốn chủ sở hữu, phân loại theo nguồn vốn sở hữu của Nhà nước (Ngân sách cấp, tự bổ sung,…), vốn nhận liên doanh và vốn khác. - Nợ phải trả: gồm nợ ngắn hạn, dài hạn, nợ khác. - Các khoản lỗ: gồm lỗ năm trước, công nợ không thu hồi được, những khoản thiệt hại còn lại sau khi được đền bù, tài sản vật tư mất mát, thiếu hụt, giảm giá. - Quỹ phúc lợi, khen thưởng: bao gồm nhiều tài sản được hình thành từ quỹ phúc lợi khen thưởng và quỹ phúc lợi khen thưởng bằng tiền chưa chi. GT DN sau kiểm kê đánh giá lại = Giá trị TS CĐ + Giá trị TS LĐ + Giá trị XD CB DD + Vốn góp liên doanh liên kết - Nợ phải trả + Nợ phải trả không có chủ trả - Các khoản lỗ - Quỹ khen thưởng phúc lợi - Vốn nhận liên doanh f) Xác định lợi thế DN Lợi thế DN = ( Tỷ suất lợi nhuận trên vốn bình quân 3 năm trước khi cổ phần hoá - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh của các DN cùng loại trong cùng ngành kinh tế, kỹ ) x GTDN sau kiểm kê thuật GTDN = GTDN sau kiểm kê + - Giá trị lợi thế kinh doanh + Chi phí cổ phần hoá Trong thời gian này, công tác xác định GTDN đã nhanh chóng hơn, thời gian thực hiện giảm xuống còn 3 tháng. 5.3.Từ 29/06/1998 đến 08/09/2002 Nhằm khắc phục những điểm còn hạn chế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP v/v chuyển DNNN thành công ty cổ phần và Thông tư 104/1998/TT- BTC hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Trong giai đoạn này, nguyên tắc xác định GTDN dựa trên giá trị thực tế của tài sản tại DN trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng, kỹ thuật, và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá. Đồng thời chỉ tính tối đa 30% giá trị lợi thế kinh doanh vào GTDN và chỉ thuê kiểm toán độc lập xác định GTDN đối với những DN không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê. Trong giai đoạn này đã loại trừ ra khỏi DN những tài sản mà DN không thể tiếp tục sử dụng, nợ phải thu khó đòi, chi phí XDCBDD của những công trình đã đình hoãn, các khoản đầu tư dài hạn vào DN nhưng không thực hiện cổ phần hoá, tài sản thuê tài chính, tài sản thuê ngoài, tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi, khen thưởng, tài sản chưa xác định được chủ sở hữu, khoản dự phòng giảm giá HTK, nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá, các khoản lãi chưa phân phối. Nếu tài sản không tồn tại trên thị trường thì lấy giá trên sổ kế toán hoặc đánh giá thiện trạng của tài sản. Giá trị thực tế = Số lượng thực tế của từng tài X Giá thị trường của tài sản tại thời điểm xác X Chất lượng còn lại của tài sản định GTDN sản (%) Trong đó, giá trị lợi thế kinh doanh đã có sự khác biệt trong công thức tính toán: Giá trị lợi thế kinh doanh = Vốn NN theo sổ kế toán bình quân của 3 X ( Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của - Tỷ suất lợi nhuận bình quân chung của DNNN ) X 30% Vốn NN = GTDN sau kiểm kê - Nợ phải trả - Các khoản nợ không trả được Sau 3 tháng, cơ quan định giá phải xem xét và điều chỉnh lại GTDN nếu số cổ phần thực bán chưa đạt tới 50%. 5.4.Từ 09/09/2002 đến nay 5.4.1. Các căn cứ thực tế để xác định giá trị doanh nghiệp - Số liệu có trong sổ sách kế toán của đơn vị tại thời điểm cổ phần hoá. - Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của DN tại thời điểm cổ phần hoá. - Tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá. - Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của DN về vị trí địa lý, uy tín của DN, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có). - Khả năng sinh lời của DN xác định trên tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DN. Qua đây, ta có thể thấy sự đặc biệt trong kiểm toán xác định GTDN như sau: - Căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp là số liệu có trong sổ sách của đơn vị tại thời điểm CPH. Điều này nghĩa là doanh nghiệp nếu xác định theo phương pháp giá trị tài sản thuần, số liệu lấy trên sổ phải được kiểm toán. - Đặc thù của xác định GTDN là: 1) Phải xác định được chất lượng tài sản, từ đó xác định hệ số quy đổi trên giá trị của tài sản tương đương trên thị trường. 2) Phải phân loại được tài sản: +) Tài sản không dùng, chưa cần dùng +) Nợ không đòi được, khó đòi,… +) Các khoản phải trả không trả được… 3) Phải xác định giá trị tương lai mà doanh nghiệp đưa lại cho nhà đầu tư dựa trên việc tính lại lợi thế doanh nghiệp. 5.4.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt nam Nhà nước ta nghiên cứu dựa trên 2 khía cạnh nhìn nhận DN là nhìn nhận từ phía các nhà đầu tư và nhìn nhận từ phía các nhà quản lý. Do đó, nước ta đã đưa ra 2 phương pháp xác định GTDN là: - Phương pháp 1: Xác định GTDN theo tài sản: là phương pháp xác định GTDN dựa trên cơ sở giá trị thực tế của toàn bộ tài sản hữu hình, vô hình của DN tại thời điểm định giá. - Phương pháp 2: Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF): là phương pháp xác định GTDN dựa trên khả năng sinh lời của DN trong tương lai, không phụ thuộc vào giá trị tài sản của DN. Phương pháp 1 được áp dụng đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực SXKD, phương pháp 2 được áp dụng đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ như thương mại, tư vấn, thiết kế… mà giá trị tài sản là hiện vật của DN không chiếm tỉ trọng lớn trong doanh thu. Như vậy, ở đây đã có sự hợp lý trong việc xác định GTDN căn cứ vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của từng DN. Việc xác định GTDN lần này đã đưa ra cụ thể 2 phương pháp chứ không phải là các lý thuyết chung chung như các văn bản trước. 5.4.3. Thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp - Đối với phương pháp 1, thời điểm xác định GTDN là thời điểm kết thúc quý trước ngày có quyết định CPHDN. - Đối với phương pháp 2, thời điểm xác định GTDN là thời điểm kết thúc năm tài chính trước ngày DN có quyết định CPH của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 5.4.4. Các tài sản không nằm trong giá trị thực tế của doanh nghiệp - Tài sản thuê mượn, nhận vốn góp liên doanh, liên kết và các tài sản khác không phải của DN. - Tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý chưa kịp xử lý đến thời điểm cổ phần hoá. - Các khoản nợ phải thu khó đòi - Chi phí xây dựng dở dang của những công trình đã bị đình hoãn trước thời điểm cổ phần hoá. - Các khoản đầu tư dài hạn vào DN khác được cơ quan có thẩm quyền quyết định cho đối tác khác. - Tài sản của công trình phúc lợi được đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng phúc lợi của DN và nhà ở của cán bộ, công nhân viên trong DN. 5.4.5. Đối tượng áp dụng để xác định giá trị doanh nghiệp - Tất cả các DNNN trừ những DNNN cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ - Việc quyết định đối tượng nào CPH do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH DN quyết định thành lập hội đồng xác định GTDN để CPH hoặc lựa chọn công ty Kiểm toán, tổ chức kinh tế có chức năng định giá để DN CPH ký hợp đồng xác định giá trị DN. - Theo điều 20. Chương II, 64/2002/NĐ-BTC, công ty Kiểm toán và tổ chức kinh tế thực hiện xác định GTDN phải đảm bảo các quy định hiện hành và hoàn thành đúng thời hạn theo hợp đồng đã ký, phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của kết quả định giá. - Kết quả xác định GTDN là cơ sở để bán cổ phần lần đầu, có thể sẽ phải định lại giá DN nếu gặp khó khăn trong bán cổ phần. 5.4.6. Căn cứ xác định chất lượng tài sản - Căn cứ vào khả năng đảm bảo an toàn trong vận hành và trong sử dụng tài sản. bảo đảm chất lượng sản phẩm và môi trường. - Giá trị quyền sử dụng đất: căn cứ vào quyết định giá tính đất của địa phương, tính lại giá thuê đất ở những vị trí thuận lợi. Đối với đơn vị sử dụng đất kinh doanh cho thuê nhà ở, và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào GTDN, giá trị này không nhỏ hơn chi phí đền bù, giải phóng, san lấp mặt bằng… - Giá trị lợi thế kinh doanh, được xác định dựa trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhập trên vốn Nhà nước tại DN bình quân 3 năm liền kề trước khi CPH so với lãi suất của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất với thời điểm định giá. - Các tài sản khác xác định dựa trên số liệu kiểm toán BCTC. Chương II Thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để Cổ phần hoá ở AASC I. Đặc điểm của công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán với công tác xác định GTDN. 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của AASC Vào đầu những năm đầu của thập kỷ 90, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường với việc bung ra nhiều thành phần kinh tế và có sự du nhập đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Để giúp các DN bảo vệ quyền lợi của mình và thực hiện các quy định của nhà nước, BTC đã quyết định thành lập công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán gọi tắt là AASC. AASC là một trong các tổ chức chuyên ngành đầu tiên và lớn nhất của Việt nam hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, kế toán và tư vấn tài chính, được thành lập theo giấy phép số 164/TC/QĐ-TCCB ngày 13/5/1991 của Bộ Tài Chính. Công ty được thành lập, hoạt động nhằm mục đích: kiểm tra, đưa ra ý kiến xác nhận tính khách quan, đúng đắn, trung thực và hợp lý của số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị được kiểm toán; tư vấn và hướng dẫn cho khách hàng thực hiện các quy định của nhà nước về tài chính, kế toán, thuế,… để giúp cho đơn vị được kiểm toán tư vấn và điều hành hoạt động SXKD có hiệu quả, đúng pháp luật và đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước, của các tổ chức, cá nhân có quan hệ và quan tâm đến hoạt động của đơn vị. Công ty có phạm vi hoạt động rộng khắp trên cả nước, có trụ sở chính tại số 1 - Lê Phụng Hiểu - Quận Hoàn Kiếm - Hà nội và các chi nhánh tại các tỉnh và thành phố trong cả nước. Ngày 1/4/1991, Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ ra thông báo số 957/TTg đồng ý cho BTC thành lập công ty dịch vụ kế toán. Trên cơ sở có sự đồng ý của BTC, ngày 13/5/1991 công ty dịch cụ Kế toán đựơc thành lập. Công ty được nhà nước cấp vốn ngân sách ban đầu là 200.000.000 đồng và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 14/9/1991 với tổng số nhân viên là 5 người. Ngày 14/9/1993, với việc nhận thức rõ sự cần thiết của kiểm toán độc lập tại Việt nam, Bộ trưởng BTC cho phép công ty Dịch vụ Kế toán bổ sung thêm chức năng kiểm toán và đổi tên thành công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán ban hành theo quyết định 639/TC-TCCB của Bộ Tài Chính. Để mở rộng thị trường, tháng 3/1992, công ty thành lập chi nhánh đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, tháng 4/1993, các chi nhánh Vũng Tàu và Đà Nẵng được thành lập. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng, tháng 3/1995, được phép của BTC, chi nhánh của công ty tại TP Hồ Chí Minh tách ra thành lập công ty Kiểm toán Sài Gòn (AFC). Đến tháng 4/1995, công ty chính thức nhận giấy phép và khai trương thành lập chi nhánh tại Thanh Hoá. Tháng 2/1996, công ty thành lập chi nhánh Quảng Ninh, và sau 2 năm văn phòng đại diện của công ty tại Hải Phòng được thành lập. Tháng 3/1997, theo nhu cầu hoạt động của công ty, công ty thành lập lại văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh và đến tháng 5/1998 văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh được nâng cấp thành chi nhánh. Sau hơn 10 năm hoạt động, đến nay, công ty có hơn 250 nhân viên với tổng số vốn đạt trên 10 tỷ đồng, tổng doanh thu đạt 19.2 tỷ đồng. Năm 2001, 75% hoạt động dịch vụ của công ty là dịch vụ kiểm toán BCTC (trong đó 35% là kiểm toán các DNNN, 25% là kiểm toán các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, 20% là kiểm toán các dự án XDCBDD, còn lại là các lĩnh vực khác), 15% là dịch vụ tư vấn, còn lại là các dịch vụ khác. Qua 10 năm hoạt động, công ty đã duy trì được trên 500 khách hàng thường xuyên, bao gồm các DNNN, các DN có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức trong nước và quốc tế hoạt động trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân như Ngân hàng, Bảo hiểm, Dầu khí, Năng lượng, Bưu chính Viễn thông, Công nghiệp, Xây dựng, Thủy lợi, Du lịch, Thương mại, Xi măng, Than, Thép…Đặc biệt công ty đã thực hiện kiểm toán cho nhiều công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, các dự án sử dụng vốn vay, vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu á, Quỹ tiền tệ quốc tế, Liên minh Châu Âu. Công ty đã và đang cung cấp cho khách hàng nhiều loại dịch vụ có chất lượng cao như dịch vụ kiểm toán, dịch vụ kế toán, dịch vụ tư vấn và dịch vụ đào tạo với phương châm dịch vụ là đảm bảo chất lượng dịch vụ của Công ty trong mọi lĩnh vực đó là độc lập, trung thực khách quan và bảo mật, tuân thủ các quy định của Nhà nước Việt nam cũng như các Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận chung. Bên cạnh đó, Công ty cũng luôn nhận thức đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu. Chính vì vậy, mục tiêu hoạt động của AASC cung cấp các dịch vụ chuyên ngành tốt nhất, cung cấp những thông tin với độ tin cậy cao cho công tác quản lý kinh tế tài chính và điều hành công việc SXKD của khách hàng mang lại hiệu quả cao nhất. Để hoạt động thành công và có hiệu quả, Công ty luôn coi trọng trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên. Hiện nay, công ty có một đội ngũ nhân viên trên 250 người làm việc tại trụ sở chính và các chi nhánh trong đó gần 50 KTV được cấp chứng chỉ KTV Nhà nước. Đội ngũ nhân viên của công ty được đào tạo có hệ thống đã tốt nghiệp đại học trong và ngoài nước, thường xuyên được trang bị và tiếp cận với những kỹ năng và kiến thức mới nhất qua các chương trình đào tạo và bồi dưỡng chuyên ngành trong nước và quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu, chất lượng cao nhất của khách hàng. Mục tiêu của công ty trong thời gian tới là chú trọng phát triển các dịch vụ truyền thống và phát triển một số dịch vụ mới như dịch vụ tư vấn, tin học. Đảm bảo kinh doanh có lãi từ 25- 30% doanh thu và mỗi năm tăng 10% doanh thu, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. 1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty. Bất kỳ một tổ chức DN nào muốn hoạt động và phát triển có hiệu quả đều phải có một máy quản lý thích hợp. Với đội ngũ nhân viên trên 250 người trong đó nhân viên nghiệp vụ chiếm hơn 90% được tổ chức như sau: Về cơ cấu tổ chức nhân sự, Công ty hoạt động dưới sự lãnh đạo thống nhất của Ban Giám Đốc. Ban Giám Đốc gồm có: 1 Giám đốc và 3 Phó giám đốc. Tại các chi nhánh có Ban giám đốc chi nhánh và văn phòng đại diện có Trưởng phòng đại diện, Ban Giám đốc và Trưởng phòng chịu trách nhiệm về hoạt động do mình phụ trách. Phòng hành chính tổng hợp có chức năng thực hiện các công tác phục vụ cho hoạt động kinh doanh của khách hàng và nghiên cứu phổ biến các văn bản chính sách có tính chất nghiệp vụ chuyên ngành, giải quyết các chế độ của cán bộ công nhân viên, trực tiếp và bảo vệ tài sản của Công ty. Phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ bổ sung sửa đổi quy chế tài chính hiện hành của công ty, cùng với các phòng nghiệp vụ đôn đốc khách hàng thanh toán và phối hợp với phòng Hành chính tổng hợp quyết toán quỹ lương của Công ty. Mỗi phòng nghiệp vụ đều có Trưởng phòng và phó phòng chịu trách nhiệm với Công ty về hoạt động của phòng. Các phòng nghiệp vụ có nhiệm vụ tăng cường tiếp thị, giữ vững khách hàng đã có, mở rộng thị trường, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng của các dịch vụ. Tham gia đấu thầu kiểm toán các dự án do các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế tài trợ. Sau đây là cơ cấu tổ chức của công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và kiểm toán. Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức của Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và kiểm toán 1.3. Quy trình kiểm toán để xác định giá trị doanh nghiệp do AASC thực hiện. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Bên cạnh các công ty kiểm toán trong nước như VACO, A&C, AISC, AFC…còn có 5 công ty kiểm toán hàng đầu thế giới như PWC, KPMG, Ernst & Young… các công ty này cũng đang ra sức mở rộng thị trường của mình. Chính vì vậy, AASC luôn phải tìm cách vừa duy trì mối quan hệ với khách hàng cũ, vừa tìm kiểm các khách hàng mới để mở rộng thị trường. Tuy nhiên trong một nghề có tính cạnh tranh cao như kiểm toán độc lập, một lĩnh vực đòi hỏi phải có tính thận trọng cao, trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp lớn do đó AASC cũng rất thận trọng khi quyết định khách hàng nào sẽ được chấp nhận. Đối với khách hàng dù cũ hay mới hàng năm Công ty đều có thư trào hàng tới khách hàng. Phòng hành chính tổng hợp của Công ty thường xuyên thu thập thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của các khách hàng tiềm năng và các văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh của khách hàng. Khách hàng sau khi xem xét nếu đồng ý mời AASC cung cấp các dịch vụ kiểm toán sẽ gửi thư hẹn kiểm toán sau khi đã ký nhận hoặc gửi fax hay điện thoại. Đại diện Ban Giám đốc sẽ gặp gỡ khách hàng, tiến hành khảo sát tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ để xác địnhquy mô phức t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBáo cáo tốt nghiệp- Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC.pdf
Tài liệu liên quan